Số lần đọc/download: 3957 / 43
Cập nhật: 2015-11-05 09:29:45 +0700
Chương 2
C
ô thư ký nép mình cho người mới đến đi vào. Lịch sự đứng lên đón tiếp, không thấy bàn tay chìa ra, Hôme Clốp nhanh nhảu gật đầu thay cho lời chào. Ông chỉ vào một chiếc ghế bành da mà người kia ngồi mớm xuống rồi trở lại chiếc ghế của ông ở đằng sau cái bàn giấy sạch bong không vướng bận một đồ vật gì, kể cả hồ sơ lẫn bút chì, trừ tấm danh thiếp ghi tên và tư cách người khách viếng: “Anđrê Lơvanh, quản lý hội buôn”.
Lơvanh hắng giọng và khẽ mỉm cười. Đó là một người sáu chục tuổi, cực kỳ sang trọng, bộ mặt rám nắng được ốp bọc bằng mái tóc trắng dài với nhưng ánh biêng biếc khiến cho Clốp nghĩ rằng cái màu này là nhờ rất nhiều vào một nghệ sĩ làm đầu. Hôme lộ ra một vẻ kín đáo có thể được coi là một sự khích lệ. Vì Lơvanh vẫn chẳng nói chẳng rằng, Hôme bèn chắp hai bàn tay mũm mĩm lại, đặt chúng nằm thẳng lên mặt bàn rồi liếc nhanh vào đồng hồ.
- Tôi cảm ơn ông đã tiếp tôi, - Lơvanh nói. - Lẽ ra tôi phải xin hẹn nhưng bởi tôi đang ở trên đường qua đây và cái công việc dẫn tôi tới ông lại khá là tế nhị và quan trọng cho nên tôi mới cho phép mình quấy rầy ông. Ông kéo nếp quần, nắn nắn chiếc cà vạt đen giản dị và đưa tay lên vuốt bộ tóc đẹp trong một động tác vô tình.
- Thế này...- Sau một lúc ngập ngừng ông nói tiếp,- Tôi có một số tài sản mà có lẽ tôi muốn tin tưởng vào sự trông coi của ông...
Ông sờ một cách bản năng vào chiếc vali đen để dưới chân, lau vầng trán lấm tấm mồ hôi một cách kỳ lạ bằng chiếc mùi xoa lụa màu mận, chợt lúng túng bởi cái nhìn chằm chằm của Hôme Clốp, hai con mắt màu lơ cận thị không hề chớp, cảnh giác và trung lập, nấp phục sau chiếc kính dày cộp có gọng vàng nhỏ muốt.
Không biết nói gì nữa trước sự im lặng đó, Lơvanh đổi kiểu ngồi trên ghế, bắt chéo chân và đặt tay lên vali, bối rối bởi vẻ trang nghiêm của gian phòng. Điều ông tưởng tượng về thâm cung đất thánh, văn phòng giám đốc của một trong những ngân hàng kín đáo nhất, hùng mạnh nhất Duyrích không phải là như thế này. Tường căng thảm màu be, thảm sàn màu xám và qua cửa sổ, trên các mái nhà của phố Xtămphenbách, ông nhìn thấy những ngôi nhà của ga xe lửa ở bên kia một quảng trường được nước sông Limma vùi mình xuống dưới vòm lá công viên ôm bọc lấy. Ông hít vào một hơi dài.
- Đây là chuyện tám triệu frăng Pháp.
Clốp không động tĩnh. Lơvanh bèn vội vàng nói tiếp:
- Một triệu sáu trăm nghìn đôla.
Ông chủ ngân hàng thong thả gật.
- Kết quả lao động từ hai mươi lăm năm nay của tôi. Ông hiểu cho... nếu xảy ra cái gì đó với tôi... tôi không muốn chúng lại sẽ tan ra thành mây khói bởi khoản thuế di sản.
Clốp tán thành. Lơvanh có vẻ thoải mái ra.
- Tôi sẽ giai thích với ông...
Clốp khẽ gạt vội tay, đồng thời trên mặt ông gợn qua một chút phật lòng.
- Thưa ông Lơvanh, ông là quản lý hội buôn ạ...
- Vâng, nếu ông sẵn lòng cho phép tôi...
Ông lấy ra một chiếc ví bằng da cá sấu đen, hai bàn tay dài bồn chồn mở nó ra lấy tờ giấy căn cước và nói với giọng xin lỗi:
- Lẽ ra thì tôi phải mở đầu bằng cái việc này.
Clốp chăm chú.
- Thưa ông Lơvanh, tôi vinh hạnh được ông tới viếng. Tôi có thể biết được những nguyên nhân nào đã dẫn ông tới chọn ngân hàng tôi không ạ?
- Ngân hàng của ông?... - Lơvanh ấp úng, sửng sốt vì không hiểu sao một nhà tài chính lại có thể tiếp người mang theo tám triệu bạc với một sự nghi kỵ đến thế này được.
Một giờ trước đây, xuống sân bay, ông đã ngỡ mình là chủ thế giới rồi. Như đã hẹn, người mách bảo chờ ông trong một tiệm bar ở phố Vaxevéc. Trả giá cho những rủi ro gặp phải trong việc đưa chiếc vali quí báu đi - mà Lơvanh không biết đưa nó từ Liông đến Duyrích bằng đường nào lẫn cách vận chuyển nào - ông đã nộp cho anh ta hai phần trăm của khoản tiền chuyên chở, tức một trăm sáu mươi nghìn frăng. Và bây giờ, trong khi lẽ ra người ta phải đối xử với ông như một kẻ chiến thắng, chiều chuộng ông, rải thảm đỏ ra cho ông để vinh dự tiếp nhận tiền bạc của ông thì họ lại hỏi tại sao lại chọn Ngân hàng Thương nghiệp Duyrích Trong khoảnh khắc, ông toan lấy lại chức vali, cho cái gã bé nhỏ lạnh lùng này nghỉ. Dẫu sao, thành phố đầy rẫy ngân hàng và hàng trăm cơ sở tài chính đang sẵn sàng dang rộng cánh tay ra đón ông cơ mà. Nhưng ông không có một cử chỉ gì, và lễ độ nói:
- Ở Paris, các bạn tôi đã nói đến ông.
Clốp nhướn lông mày lên:
- Thưa ông Lovanh, họ ông là gì ạ?
- Lomba, Eđua Lomba.
- Tôi quả có biết ông Lomba. Vậy, thưa ông Lơvanh, ông dự định như thế nào về việc cho tư bản của ông hoạt động? Ông muốn lập cho ông một quỹ gửi, hay ngoại tệ hay đầu tư vào chứng khoán.
- Lúc này hãy khoan các cái đó đi. Tôi muốn thời gian đầu ông cho tôi gửi trong một kỳ hạn là ba tháng. Ông có thể cho tôi lãi suất bao nhiêu?
- Gửi ba tháng? - Clốp bấm một cái nút và nói. - Gáchaimơ, lãi suất cho đồng frăng Pháp gửi trong ba tháng? Vâng...cảm ơn... - rồi quay lại Lơvanh. - 9,25 phần trăm.
Lơvanh thất vọng bĩu môi.
- Ít quá. Tôi lại hy vọng là nhiều hơn thế kia.
- Ông có thích đổi tiền của ông sang một tiền khác không?
- Thí dụ?
- Đôla, mác, frăng Thụy Sĩ...
- Lãi suất có cao hơn không?
- Kém hơn, trừ đôla lúc này không chắc chắn lắm vì còn chờ công bố tình hình cân đối thương nghiệp.
- Với mác thì bao nhiêu?
- 4,5 phần trăm. Dĩ nhiên là phải kết hợp những bấp bênh của đồng frăng với các yếu tố khác. Thà lấy một số phần trăm như ở một ngoại tệ đang lên còn hơn cái lớn trội ở một đồng tiền đang xuống.
- Thưa ông Clốp, ở địa vị tôi, ông sẽ làm thế nào?
- Thưa ông Lơvanh, tôi không ở địa vị ông.
- Tôi muốn có một tài khoản mang số.
- Vâng, như ông muốn. Ngoài ông ra còn ai nữa biết con số đó.
Lơvanh có vẻ ngạc nhiên. Clốp nói tiếp:
- Tất cả chúng ta đều là những kẻ trần tục, thưa ông Lơvanh. Tôi sẽ phải đưa tiền của ông cho ai, trong trường hợp ông qua đời?
- Chính thế, về việc này, tôi muốn nói với ông đấy...Tôi đã có vợ...
Clốp lấy trong ngăn kéo ra một tờ giấy trắng và sửa soạn ghi.
- Tôi giả định là bà Lơvanh...
- Không! Không! - Lơvanh cắt lời. - Không phải bà ấy!
Mặt Hôme Clốp kín đáo khép lại.
- Vậy ai? - Ông hỏi.
- Con gái đỡ đầu của tôi.
- Tên gì?
- Lili! Tôi muốn nói là Elian... Elian Guốcnay.
- Vậy ông muốn lấy bà Guốcnay là người thừa kế?
- Cô Guốcnay. Vâng, thế đấy.
- Địa chỉ của cô ấy?
- 118 phố Grơnen, Paris.
- Quận?
- Sáu thì phải... tôi không chắc lắm.
- Nghề nghiệp?
- Thư ký.
- Sinh ngày?
- 27 tháng Chạp.
- Năm?
Lơvanh có vẻ như định nhảy tòm xuống nước trầm mình.
- 1953.
Clốp liếc nhanh một cái với vẻ không lấy gì làm thích thú.
- Tên của công ty cô ấy làm việc?
- Cô Guốcnay là thư ký riêng của tôi.
- A!... Vậy thì tôi sẽ yêu cầu ông, thưa ông Lơvanh, mở ngay một tài khoản chung với cô con gái đỡ đầu của ông.
- Chung?
- Cô Guốcnay sẽ lấy được tài khoản của ông... - Clốp nhẫn nại giải thích.
- Nhưng nếu…nếu…- Lơvanh lắp bắp.
- Nếu sao, thưa ông?
- Nếu chẳng hạn như cô ấy và tôi, hai người giận nhau...
- Làm thế nào trách được cô ấy...? Tóm lại, ông hiểu rằnh đàn bà là như thế nào rồi.
- Tôi cần phải hiểu rằng cô Guốnay không được ông hoàn toàn tin cậy phải không ạ?
- Không tới mức để cho cô ấy được tự do với tám triệu frăng! Lơvanh nổi đoá.
Hôme Clốp thình lình đứng phắt dậy:
- Trong hoàn cảnh ấy, tôi không thấy tại sao bản thân tôi và các người hợp tác với tôi lại cùng có thể tin cậy cô ấy được.
- Nhưng thưa ông... - Lơvanh bàng hoàng nói.
- Tôi cảm ơn ông đã nghĩ tới ngân hàng chúng tôi. Tôi rất tiếc, thưa ông.
- Dẫu sao ông cũng sẽ không từ chối một triệu sáu trăm nghìn đôla gửi vào chứ ạ!
- Chào tạm biệt, thưa ông. Chắc chắn ông sẽ tìm ra nhiều ngân hàng khác trong thành phố lý này được vinh dự đón tiếp ông.
Để tỏ rõ cuộc gặp chấm dứt, Hôme xé tờ giấy ông vừa ghi chép. Lơvanh đứng lên, nắm lấy quai vali, nhìn ông chủ ngân hàng lần cuối cùng, những điều ông đọc được ở trong mắt Hôme Clốp là không xui ông cố nối lại cuộc đối thoại. Ông phui phủi một cách đáng thương những hạt bụi tưởng tượng trên ve áo rồi đi ra cửa.
Hôme chờ cho Lơvanh ra hắn mới đến đứng trước cửa sổ. Ông dành ngày tháng của đời ông vào việc tống khứ những người thuộc loại này. Tình yêu ghen tuông của những ông già điển mã đối với các thư ký của họ là một nguồn những phiền toái vô tận cho mọi nhà tài chính xứng đáng mang cái tên gọi đó. Giống như phần lớn các đồng sự Thụy Sĩ, Hôme Clốp coi nghiệp vụ của mình - mà ông có một ý niệm tốt đẹp nhất - chẳng phải một nghề, cũng chẳng phải một thiên chức, mà là một giáo quyền thật sự, một tôn giáo trong đó chính bản thân và các đồng sự của ông là những thầy tu nghiêm túc. Tiền đáng được trọng vọng nhất, người ta nói đến tiền chỉ với những từ ngữ cung kính, lầm rầm xuýt xoa tựa như nói tới thượng đế ở trong thánh cung vậy. Xử dụng nó, quản lý nó, nhân nó, đầu tư nó, đếm nó, đếm lại nó: đều là những công việc thiêng liêng mà chỉ những tôi tớ tài cao đức trọng mời đảm đương nổi. Thâm cung không mở ra cho đám hãnh tiến mờ ám của sự giàu sang bao giờ, bất chấp các điều ngu xuẩn từ thập phương tha về Thụy Sĩ, nơi các đấng tông đồ có đầu óc chính trị mạnh mẽ đã muốn làm cho trở thành cái két bạc của vũ trụ, người oa trữ cho những loại cú vọ về khoa đảo chính, thiên đường thuế khoá cho những ông già đã một chân bước vào trong mộ. Trong cái số lượng bao la những vụ việc được xử lý, chắc chắn khó mà tránh khỏi những vết tì ố. Đều kỳ, người ta đem ra bàn bạc lại lai lịch những tài sản Do Thái mà chủ nhân đã phải gian truân vô cùng mới thu hồi lại được, khi các cuộc chiến tranh đã kết thúc. Những tài sản đó được đầu tư thành những tài khoản mang số (bắt đầu từ lúc những lời đe doạ của Hít le đã thúc giục cộng đồng Do Thái phải giữ được chúng an toàn), đã trở thành đối tượng của những vụ tranh chấp mà đến nay một số vẫn còn kéo dài với vài ba mống sống sót ở các trại tập trung về, hay những kẻ thừa kế của những người mất tích. Vụ Truhigiô, cả cái vụ này nữa, đã gây ra một tai tiếng phản quảng cáo khá rầy rà. Năm trăm triệu đôla bằng vàng và ngoại tệ lũ con của tên độc tài chuyển tới Giơne, mà chính phủ nước Xanh Đôminhguê vẫn đang cố thu hồi kia đã chạy đi đâu mất rồi? Và ngân quỹ chiến tranh của F. N.L.([7]) - năm mươi triệu frăng Thụy Sĩ mà từ 1962 đã lãi mẹ đẻ lãi con đến bao nhiêu - cái ngân quỹ ấy, từ khi Môhamét Khitđê chết đi, chẳng ai tìm được tung tích nữa. Nghịch lý thay, nhưng điều bậy bạ làm hoen ố Thụy Sĩ, sự im lặng, cái được xây cất lên ngang tầm một thiết kế trong mọi giao dịch tài chính như đã được ghi ra trong điều 47 “Luật Liên bang các ngân hàng có quĩ tiết kiệm”, tín điều được các ông chủ ngân hàng, Hôme Clốp đứng đầu trong đó, đọc thuộc làu làu.
“Người nào, với tư cách thành viên một cơ quan, nhân viên được ủy nhiệm, người thanh toán hay ủy viên hội đồng ngân hàng, người quan sát của Hội đồng các ngân hàng, hay thành viên một cơ quan, hay nhân viên một thiết kế xét duyệt được trao quyền, để lộ ra một bí mật được giao phó cho y, hay y biết do trách nhiệm hay công vụ của y, người nào xúi giục người khác vi phạm bí mật nghiệp vụ, sẽ bị phạt tù ít nhất là sáu tháng hay phạt vi cảnh tới mức 50. 000 phrăng. Việc vi phạm bí mật vẫn bị trừng trị ngay cả khi trách nhiệm hay công vụ đã chấm dứt, hoặc người nắm giữ bí mật không còn hành nghề của mình nữa”.
Khốn thay, nếu như đã có một luân lý về pháp luật thì về tiền bạc lại không thể có được một luân lý cho nó.
Ai có thể khoe khoang biết rõ đồng tiền hắn đút túi và đồng tiền hắn cai quản là từ đâu đến? Trước những trái gió trở trời của lịch sử, trước những cơn sài giật chính trị - về bản chất là phù du và biến hoá giống như thói đa đoan của con người - đồng tiền vốn dĩ vĩnh cửu vậy thì cái nguồn gốc bí mật của nó sẽ phải được giao nộp cho ai đây chứ nhỉ? Trái lại, chính sự bí mật đã gây ra biết bao lời đồn đại, người ta sẽ chẳng bao giờ nói tới những chính phủ đó đã bị đồng tiền bôi bẩn về ý thức nghĩa vụ, tính nghiêm túc luân lý, lòng trung thực. Hôme Clốp ngấm ngầm đau khổ về việc những động cơ của các đồng sự đã không được thông cảm một cách đúng đắn hơn, nhưng tính kín đáo ở ông lại ngăn cấm không phát biểu ý kiến về điều đó giống như phần lớn đồng nghiệp, là người theo đạo Tin Lành tử tế, ông đã tài trợ ngang nhau cho năm giáo phái tu hội, giáo phái Mêtôđich, giáo phái Cải lương, giáo phái Báptít, giáo phái Luthơ, tuy rằng bản thân ông thuộc về nhánh của Unrich Đơvinhi, một trong những nhánh không khoan nhượng nhất của giáo phái Canvanh. Khi công việc tốt đẹp - mà ngày một tốt đẹp lên thật - ông nuôi dưỡng niềm vui thênh thang của tâm hồn bằng cách rót những phần trăm hậu hĩ vào các tu viện (ông có chân trong một hội đoàn cựu học sinh), vào các phái đoàn dự các đại hội giáo hội và chẳng bao giờ keo kiệt thì giờ đi rao giảng hay luận bình trong đạo hữu nghe các chú giải về “Thiết chế đạo Giatô” của Jăng Canvanh, về Kinh Phúc âm, về mười điều răn dạy về “Tuyên cáo giản lược”, những bản văn thiêng liêng nhưng quen thuộc mà từ đó ông rút lấy những bài học cho đời sống tinh thần của mình.
Những đức hạnh như vậy rõ ràng cần đến một số đền bù về phương diện cá nhân mà các thiết chế, gia đình, luân lý và hoạt động nghề nghiệp chớ bao giờ nên làm cho hao thiệt đi. Khi một người đàn ông đã đến tuổi thành thục, cân bằng, bảo đảm có được niềm tin vững vàng rằng bản thân không bao giờ trở thành đồ chơi của những thói đam mê thì con người ấy có thể tự cho phép mình có được một số chỉnh lý đối với đạo đức cá nhân mà chẳng nguy hại gì hết. Y như mấy năm trước, một trong những đồng nghiệp lẫy lừng của ông, tiến sĩ Raihác, chủ tịch Ban Tổng giám đốc tín dụng Thụy Sĩ đã nói rất chí lý rằng: “Chẳng phần tử nào tự thân nó là độc hại cả. Chính liều lượng làm nên thuốc độc”.
Hôme đâu có phải chờ người ta nhắc đến câu ngạn ngữ của Paraxen mới biết dùng mà không lạm, thôi ăn trước khi no, hút mỗi ngày một điếu xì gà, điếu duy nhất - loại Pănsơ Cơlơbratx mua ở nhà hàng Đavidốp ([8]), ban cho thân xác những thoả mãn định kỳ mà thân xác bà vợ ông, Simen Clốp, không còn cấp phát được cho ông nữa.
Ở mọi mặt, ông đều biết dừng lại kịp thời, yên ổn với lương tâm, tự an ủi về một nỗi mình thiếu hấp dẫn, thân hình múp míp, hói đầu, hai cẳng quá ngắn bằng cái ý nghĩ theo năm tháng đã trở thành lòng tin rằng đồng tiền là một đền bù tuyệt vời cho những khiếm quyết tầm thường kể trên, là một chế phẩm của duyên dáng, trí tuệ, tư thế thoải mái và vẻ dung dị, những thứ Chúa đã không rủ lòng thương ban tặng cho ông. Ngược lại, Người đã phú cho ông một bộ răng quá ư hoàn hảo đến nỗi một vài người cộng tác, chứng nhân của một vài nụ cười hiếm hoi của ông nhân dịp ông công bố một kết quả đặc biệt đáng hài lòng, đã ngỡ chúng là của rởm. Hôme Clốp trút vào cho chúng những sự săn sóc chi li và say đắm, không ngần ngại một tuần hai lần tới nhà bác sĩ vòm miệng lẫy lừng nhất - và đắt nhất Duyrích, - giáo sư danh tiếng Xtrôn.
Để tránh nguy cơ bị nhiễm bẩn do lần đánh răng trước, Hôme không dùng một chiếc bàn chải hai lần bao giờ. Ông có hàng gói bàn chải đánh răng dự trữ, với đủ mọi hình dáng mà chỗ chênh nhau trong cách sử dụng quá là tinh tế để cho kẻ phàm tục hiểu nổi, tám góc, gọt cạnh thành bút sơn, bẹt, nhọn hoắt với mười sợi lông chuyên dùng cho các khe lợi, bằng gương, bằng lông thú, chưa kể tới cái máy phun tia có sức mạnh điều chỉnh được, thuốc phòng chống sâu răng, những kẻ thù của cao răng. Nhưng há miệng ra để làm gì, và há ra cho ai chứ nhỉ? Tập séc, địa vị, tính liêm khiết của ông đột nhập các cánh cửa, các két sắt và các cặp đùi còn nhanh nhẹn hơn cả kẻ đáng sợ nhất trong đám lường gạt, đứa dối trá nhất trong bọn Đôn Gioan. Chi tiền thì đơn giản hơn khom lưng lấy lòng nhiều. Hôme đã ở cái tuổi - năm mươi hai -người thành đạt không đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời nữa mà chỉ cứ việc đơn giản hưởng thụ cuộc đời thôi. Và thời gian, cái thời gian từ nay được đếm ngược chiều với ông, hơn bao giờ hết, đã hoá ra tiền bạc. Tối hôm kia, ông đã phải cầu viện tới toàn bộ sự lì lợm của ông để không run lên bần bật trước khoản tiền đồ sộ của một trong những khách hàng giao phó cho ông, một người Mỹ gốc Ý có tên Giencô Vônpôn mà các thông tin viên New York của ngân hàng Thương nghiệp Duyrích, sau một cuộc điều tra lâu dài và kín đáo, đã phát hiện với Hôme rằng người đó “được xem là” một trong những trùm sò bí mật của Công đoàn, tuy bề ngoài công việc ông ta không có gì chê trách được. Clốp đã vùi sâu tin này vào trong trí nhớ và ngỡ quên đi rồi. Nhưng tám năm sau, tức là hai ngày trước đây, nó đùng đùng trở lại, mạnh như một quả đấm. Ông sống lại mồn một cái khung cảnh mới cách đây có vài giờ.
- Tôi có thể làm gì cho ông, thưa ông Vônpôn?
- Mở cho tôi một tài khoản mang số.
- Ông không muốn dùng lại cái ông đã có ở nhà chúng tôi sao?
- Vâng.
- Tốt lắm.
- Chưa đầy hai giờ nữa, ông sẽ nhận được giấy báo chuyển ngân của chi nhánh ông tại Naxau, nó mới nhận tiền sáng nay đấy.
- Bao nhiêu?
- Hai tỷ đôla.
Để giữ được một bộ mặt bình thản trước thông báo về con số cuồng ngông này, Hôme đã phải tháo kính ra vờ lau. Nghề nghiệp của ông đã cho ông quen thuộc với sự vô hạn độ của các số lượng, nhưng là ở cấp độ một lục địa, của những công việc tập thể, rải rác trong một thời gian nào đó. Đằng này là cả một khối nguyên vẹn, một lèo, do một người nắm giữ! Giọng bình tĩnh, Vônpôn nói thêm:
- Tôi muốn khoản tiền có hoạt động trong kỳ hạn gửi.
- Vâng, chắc chắn rồi.
- Ông cho tôi lãi suất bao nhiêu?
- Nó thay đổi tuỳ theo kỳ hạn gửi.
- Làm cho tôi lãi suất từng ngày một. Ông sẽ có trong tay khoản tiền đó trong vòng sớm nhất là hai mươi tư giờ nữa, muộn nhất là bốn mươi tám giờ.
- Sáu phần trăm!
- Bẩy!
- Lãi suất từng ngày một là sáu!
- Ông muốn gì tôi nào? Tôi muốn nó là bẩy!
- Đồng ý. Chỉ dẫn tiếp theo của ông thế nào?
- Chuyển khoản tới Panama, Liên Công ty hoá chất. Cả hai chúng tôi đều có quyền.
Lúc đó, Hôme mới nhìn sang con người khoảng năm chục tuổi, còm nhom đứng bên Giencô Vônpôn. Vônpôn đã giới thiệu người đó là Moóctimơ Ô Broi, cố vấn tài chính và đại diện của người liên doanh với mình. Dĩ nhiên Clốp không hỏi một câu nào về “người liên doanh” kia của Giencô Vônpôn. Đổi lại, ông biết tên tuổi, văn phòng nghiên cứu luật của Ô Broi, rất sáng giá trong các giới kinh doanh quốc tế. Ông ngạc nhiên trước vẻ tức cười của ông ta.
- Thưa ông Vônpôn, ông sẽ chuyển lệnh của ông cho tôi bằng bí danh nào?
- Mama.
- Tôi xin ghi lại. Thưa hai ông, hai ông có thể cho tôi một mẫu chữ ký của hai ông, tôi muốn nói là chữ ký của... Mama được không?
- Để làm gì nhỉ? - Vônpôn nói. - Chúng tôi sẽ báo cho ông bằng dây nói mà.
- Chỉ là thủ tục hành chính nội bộ thôi ạ... Clốp vừa nói vừa chìa cho họ một bút máy và một tờ giấy trắng tinh.
- Ô Broi và Vônpôn cùng ký vào đó chữ Mama.
Clốp cầm lấy tờ giấy.
-Ai trong hai ông sẽ cho tôi lệnh chuyển ngân, ông Vônpôn hay ông Ô Broi.
Ông Vônpôn cho phép mình mỉm nụ cười đầu tiên.
- Sẽ là tôi. Nhưng chẳng quan trọng gì cả vì từ nay ông chỉ còn biết có Mama mà thôi.
- Ông nói đúng hoàn toàn. Tôi chỉ còn có việc cho ông một con số...
- Không cần. Tôi đã chọn nó ở Naxau rồi.
- Tôi có thể ghi lại được không?
- 828384.
- Tốt lắm.
- Dĩ nhiên ông sẽ chuyển chỗ lãi của tiền gửi sang một tài khoản riêng chứ nhỉ?
- Dĩ nhiên.
- Ông sẽ hiểu, đấy là nghiệp vụ phí của chúng tôi.
- Nghiệp vụ phí của ông là bao nhiêu trong dịch vụ?
- 0,125 phần trăm của số tiền giao dịch.
- Không xoàng... Lẽ ra tôi nên làm chủ ngân hàng!
- Nghề này cũng có nhiều cái gò bó, thưa ông Vônpôn.
- Tôi chắc sẽ gọi dây nói cho ông ngày mai.
- Sẵn sàng phục vụ ông.
Khi hai người đứng lên, Hôme nói thêm:
- Tôi chúc hai ông những ngày ở Thụy Sĩ tốt lành.
- Cảm ơn cho phần tôi. Tôi còn ở đây bốn mươi tám giờ nữa. Còn ông Ô Broi thì đi ngay tới Hoa Kỳ.
Lúc đó xảy ra một điều rất mau lẹ và cực kỳ lạ lùng.
Đã đội mũ lên đầu, Giencô Vônpôn lại chạm trán Hôme Clốp. Cả hai đều bước sang ngang để tránh, nhưng tình cờ xui khiến lại đều né sang cùng một bên. Lúng túng, ông chủ ngân hàng thấy người Mỹ mỉm với mình một nụ cười xin lỗi mà ông xác nhận bằng cách thân thiện vỗ vỗ vào vai ông ta. Thế là thình lình Clốp cảm thấy bị ôm chầm lấy trong một cái hôn, “abbraccio” ([9]) kiểu Xi xin. Vônpôn lần lượt đặt má mình vào hai má Hôme. Không biết làm gì với hai bàn tay mình, bất giác Hôme cũng đặt chúng lên vai người khách kỳ dị. Họ buông nhau ra cùng một lúc và ông chủ ngân hàng ra đóng cửa, ngượng nghịu như một người thuộc giáo phái Canvanh có thể ngượng nghịu thế nào khi đứng trước một sự bày tỏ quá nồng nàn về tình bạn kiểu La tinh. Bình tĩnh lại, ông gọi ngay lập tức Ogien Sơmeblinh, một trong những lực lượng giấu mặt có hiệu lực nhất của giới tài chính thế giới.
Ở Saen, không xa Vanđu tại Litxtextai bao lăm, có một toà nhà hoàn toàn vô danh và buồn tẻ, không mang đến cả một tấm biển cỏn con nào trên cổng chính của nó nữa. Không có cái gì đặc biệt làm cho bốn tầng gác của nó khác với các ngôi nhà chung quanh. Hằng ngày, vào năm giờ chiều, nhân viên rời toà nhà ra về, tựa hồ vừa làm xong một công việc văn thư nào đó. Trong thực tế, chỗ khác nhau duy nhất giữa họ với các viên chức là ở sự khổng lồ của những món tư bản họ thao túng.
“Ngân hàng của các chủ ngân hàng”, đúng là nằm tại Saen này. Do hàng triệu con người thu góp lại, tiền đã được giao nộp hàng ngày tới hàng nghìn ngân hàng và lập tức các ngân hàng này đem đầu tư chúng vào các công ty mà họ có cổ phần; các công ty này lại cho nó quá cảnh, một cách hợp pháp nhất thế giới, vào các chi nhánh của mình đặt tại những nước mà ở đó, những lợi thế về mọi mặt, trước hết về thuế má, cho phép chúng tiếp tục cuộc bành trướng mà không bị bóp nghẹt quá đáng. Đến lượt mình, các cổ phần của những Bahama, Thụy Sĩ, Naxau, Lixtenxtai, Panama, Lúcxămbua hay của một trong hằng hà sa số những hòn đảo miền nhiệt đới đã được cải biến thành thiên đường tài chính độc lập kia - với sự ưu đãi bí mật, các cường quốc kinh tế hoàn toàn được lợi dụng trong việc họ tồn tại, dù chỉ là để tự do tiến hành kín đáo sự làm ăn riêng của họ tại đó - đến lượt nó, các cổ phần này khép kín chu trình lại bằng việc giao tài sản của mình cho các nhà ngân hàng khác - đôi khi lại chính là nơi mà chúng đã khởi hành, mở màn cuộc hành trình dài dằng dặc của chúng - thành một điệu luân vũ chóng mày chóng mặt, trong đó chỉ bằng quán tính của riêng sự vận động của nó thôi, đồng tiền đã lớn lên, nhân bội, phồng nở, con quái vật trừu tượng mà chẳng có cái gì làm cho nó hiện hình ra cả, trừ những lệnh mua hay bán ở đầu cùng của dây chuyền, dẫn tới kết cục là sự chết chóc dữ dằn, sự hưởng thụ, sự hoang phế, chế độ nô lệ hay tự do... Trong thời gian đó, tựa như hụt hơi đuối sức, nó dừng lại đôi lúc ở Saen, rồi từ đó lại hăm hở hơn nữa lên đường vì cái chu trình bất tận của các cuộc tái đầu tư, sau khi gốc gác của nó đã được quên vùi và tung tích của nó được “rửa sạch”. Chỉ có các chủ ngân hàng và các chính phủ biết đến thôi, cơ quan này không làm việc vặt.
Những nước lớn nhất thế giới đã phải nhờ đến dịch vụ của nó để vay, để cho vay hay để giấu giếm những khối lượng tiền bạc không thể ngờ tới trong những kỳ hạn khác nhau từ hai mươi bốn giờ - thời hạn một ngân sách quốc gia, đến nhiều năm - kinh phí của một cuộc nội chiến dai dằng, một cuộc cách mạng, một cuộc cải cách kinh tế quốc dân.
Sớm muộn, các món tư bản đang lồng chạy sẽ không tránh khỏi đến trú ngụ lâu hay chóng tại Sean để rồi lại được thổi tung đi - sau khi đã được gột bỏ các nhơ bẩn của chuyến ngao du - bỏ cơ quan tài chính này, cái cơ quan cũng chẳng hề bao giờ nhìn thấv màu sắc của chúng cả. Vậy là Hôme Clốp đã đem món tiền mặt Giencô Vônpôn vừa trao cho, tuyên bố với Sơmenblinh, một trong những người phụ trách, rằng Ngân hàng Thương nghiệp Duyrích có trong tay một món tư bản hai tỷ đôla, và việc đầu tư này ngay lập tức được cụ thể hoá ra bằng một cuộc trao đổi thư tín “qua lời hứa danh dự”...Đến lượt mình, Sơmenblinh lại sẽ cho món tiền “hoạt động” với một lãi suất cao hơn lãi suất ông trả cho Hôme Clốp. Tuỳ, hắn được tự do cơ mà, Clốp nghĩ...
Ông tính nhẩm lại các con toán. Ông đã cho Giencô Vônpôn bảy phần trăm - không, Mama, ông sửa lại trong một lúc phởn trí. Hai tỷ đôla đầu tư ở mức phần trăm một năm là một lợi tức thực thu 383.561,643 đôla một ngày, cho là 383.562 đôla. Cùng món đó lại cho đầu tư ở mức chín phần trăm một năm sẽ đem lại cho ông một thu nhập hằng ngày là 493.150 đôla cùng các bụi bậm. Thực lãi cho ông 109.588 đôla, điều không thể coi thường, ngay đối với tiền tiêu vặt của một nhà tài chính lớn. Cộng vào đó còn có thêm khoản 0,125 phần trăm của dịch vụ đối với cái tổng số tiền cầm cho quá cảnh, đã mang lại rất chính xác hai triệu rưỡi đôla. “Có những ngày người ta cảm thấy mình là đứa con cưng chiều cao Chúa”. Nhưng lẽ ra Vônpôn hay người đại diện của ông ta đã phải gọi từ tối hôm qua mà sao vẫn chưa thấy tăm hơi gì cả. Ngày hợp thức sắp hết, như vậy là phải nhân đôi 109.588 đôla tiền lợi tức của ngày hôm trước lên nữa đấy. “Họ hãy gửi ở chỗ chúng ta một tháng nữa đi”. Hôme cầu nguyện, hướng vào một ông thánh mơ hồ. Ông không dám gọi thẳng tên Chúa ra khi là chuyện đôla.
Cánh cửa đóng sầm ở sau lưng ông.
- Con đánh cuộc là bố đang nghĩ đến một người đàn bà!
Hôme giật nẩy người như bị bắt quả tang.
- Con nên gõ cửa trước khi vào.
- Cái ấy sẽ nên nhắc lại với mẹ.
Người con gái ôm lấy bố và đưa ông quay một bước valse.
- Con vừa bày ra một trò chơi ngộ lắm.
- Kể xem nào... - ông nghi ngại nói.
Tính ngông cuồng của con gái làm ông thầm vui thích, tuy đôi khi nó rất nguy hiểm. Ông chỉ có thể ghi nhận một cách chua chát rằng Rênata có toàn quyền đối với ông, rằng ông cho qua mọi sự rồ dại của cô.
Có thể vì cô là phản đề sống động của bà mẹ, có thể vì thác tóc mềm mại màu hạt dẻ ngả biếc, thân hình thanh mảnh - tại sao cô lại có được cái chân dài đến thế với một người bố như ông nhỉ? Cặp mắt màu tím của cô, đôi mắt làm cho đàn ông bối rối khi vẻ mặt cô thình lình trở nên nghiêm trang và cô nhìn xoáy vào mắt họ thay vì một câu hỏi câm nín, không bao giờ bộc lộ. Tại sao giữa tất cả những người tán tỉnh cô, cô lại đã chọn con người duy nhất không thuộc tầng lớp mình?
Bố của Cuốc Hanh, chồng chưa cưới của Rênata, từng là thủ quỹ của ngân hàng. Con người không thể chê vào đâu được, đúng thế, nhưng dẫu sao cũng chỉ là thủ quỹ ngân hàng và đã làm việc đó suốt những ba chục năm.
Một tuần nữa, tính từ hôm nay, Hôme sẽ phải mời Utô Hanh, người vợ ít trang điểm của Giôxép Hanh, khiêu vũ. Và lễ cưới của con gái - ông đã muốn nó rực rỡ xứng với những bức tranh Gôganh và Phragôna của ông - sẽ bị vấy bẩn bởi sự có mặt xoàng xĩnh và vụng về của bố mẹ cậu con rể. Chưa nói tới những thể thức kinh người của buổi lễ do Rêtana định ra và không chịu nới lỏng, những điều người ta sẽ còn nhắc tới hàng thế kỷ nữa nếu như cái Liên bang Thụy Sĩ này đến năm 2277 vẫn cứ còn tồn tại. Cả ở chuyện này, Clốp cũng lùi bước...
- Đó là một trò chơi hư đốn và tuyệt vời! Nó tên là Hồng ân bay.
Một nếp nhăn hằn sâu giữa hai lông mày ông chủ ngân hàng. ông nhắc lại như máy:
- Hồng ân bay?...
- Đó là bởi vì Cuốc và cái lý thuyết rởm của anh ấy cho rằng tiền tự thân nó là xấu, là gây thối nát và mọi cái…
- Bố không hiểu...
- Anh chồng tương lai của con cũng chẳng hiểu nốt! Con bèn lấy máy bay của bố bay lên trên Chiavêna vào giữa lúc lễ hội nông nghiệp và con đã ném bom xuống đám ngu ngơ bằng toàn giấy bạc. Bố có lẽ nên xem cuộc nhào vô đó!
Trước vẻ bi đát của ông bố, nàng bật cười:
- Đừng làm ra vẻ đi! Cần cho Cuốc quen với sự giàu có chứ bố! Nếu không vui đùa chút xíu thì tiền để làm gì?
*
Piêtrô Biatxca chỉ có một ân hận trong đời: bố ông chết trước khi chứng kiến chiến thắng của ông. Chính nhờ ông già Giuxép mà Piêtrô đã thành công, nhờ những lời khuyên bảo của ông già, nhờ sự hùng hục của ông già bỏ ra để cưỡng bức đứa con trai độc nhất phải nghiên cứu đường nét của một chiếc giày như người ta xem xét chi ly đường nét của một người đàn bà yêu dấu vậy.
- Mày sẽ thấy, - một hôm ông già nói với con trai,- tất cả những gì hôm nay khiến mày đau khổ, rồi sẽ làm nên hạnh phúc của mày. - Ông già đúng đấy. Bốn mươi tám tuổi, Piêtrô đã giàu, điều không phải xoàng khi người ta từng bị đói suốt cả thời thơ ấu. Nhưng còn hơn thế nữa, ông lại còn nổi tiếng, được trọng vọng và có quyền chỉ bán những tác phẩm nghệ thuật của mình cho những người ông xét thấy xứng đáng được là khách hàng của ông mà thôi. Khách mời của những buổi biểu diễn đầu tiên, những tiệc rượu, những buổi khai mạc triển lãm, ông đã trở thành một trong nhưng bộ mặt quen thuộc của New York hoa lệ. Các ngôi sao màn bạc gọi ông bằng Piêtrô, các nhà tài chính thân mật vỗ vai ông và không hiếm chuyện một nữ diễn viên sân khấu hạng nhất muốn giành lấy đặc ân của ông đã lại cho ông đặc ân của mình. Bí quyết thành công của ông được xây dựng trên hai yêu tố. Cái thứ nhất: duy trì truyền thống nghề thủ công trong khi chỉ những con quái vật công nghiệp mới duy nhất có thể sống sót nổi. Cái thứ hai mà ông còn tự hào hơn, dựa trên một ý kiến thiên tài: đem lại cho bàn chân cái sự cao quý như cho bàn tay. Vì trong các xưởng của Biatxca, người ta không chế tạo giày, người ta đắm đuối vạc vào những tấm da mỏng mịn nhất, đắt tiền nhất, “những chiếc găng cho bàn chân”, theo lối diễn tả đã đảm bảo được cho ông sự lừng lẫy tiếng tăm. Theo tháng năm, Biatxca đã hoàn thiện được phương pháp của mình, những mầy mò ban đầu đã nhường chỗ cho một trình độ làm chủ tay nghề hoàn hảo và cửa hiệu của ông ở Đại lộ Sáu đã trở thành một thứ câu lạc bộ tư nhân trong đó không một thành viên nào lại nghĩ tới việc thảo luận những cái giá lè lưỡi ra, vả chăng Piêtrô cũng có nói tới chúng bao giờ đâu! Khi một khách hàng rụt rè hỏi ông hoá đơn, ông tìm cách sao cho khỏi phải nói đến cái chữ tiền, quá lắm thì nó được gợi ý ra bằng một uyển ngữ thích hợp. Một nụ cười trắng loá làm bừng sáng lên khuôn mặt sẫm màu của ông, lúc đó Biatxca bèn nói ông sẽ nghĩ tới chuyện đó “ngay khi ông có chút ít thì giờ”. Đôi khi ông đẩy cái đỏng đảnh tới chỗ để phải giục giã nhiều phen ông mới hạ cố nói rõ số tiền của tấm séc ra cho.
Lạ lùng thay, việc không bao giờ đòi tiền lại làm cho ông được trả công sòng phẳng. Trừ một lần, một diễn viên điện ảnh nổi tiếng mà ông được biết là đã uống thuốc ngủ tự sát, điều Piêtrô phán xét là chướng - bố ông vẫn dạy rằng không ai được tự ý chết trước khi trả xong hết nợ nần.
Sự thất vọng của Biatxca chỉ lâu có ba tháng: sự kế thừa được giải quyết, ông đã được hưởng hai bức tranh Rơnoa ([10])- hoàn toàn thứ xịn, - hiện treo ở trên tường buồng khách thử giày của ông, bên trên cái quầy rượu, tại đó có một chuyên viên chịu trách nhiệm việc giải khát và nuôi ăn - kể cả trứng cavia - của ông. Đúng là giá giày của ông xê xích giữa năm trăm và một nghìn đôla hoặc hơn nữa, tùy theo cái đầu ngông nghênh của khách hàng, như một số đã đòi khoá giày là bằng vàng thật, mười tám kara. No mứa, uống nốc thoải mái những lời khen tụng, chất lèn quá tải những tình bạn nồng cháy, Piêtrô lại chủ tâm đóng vai con người khiêm nhường, món xa xỉ phẩm tột độ, nài nỉ để được gọi là người thợ giày. “Tôi là người thợ giày duy nhất của nước Mỹ có những bức tranh của Rơnoa”, ông thích nhắc đi nhắc lại câu ấy.
Ông đi vào trong gian xưởng, một chú thợ học nghề ngồi ở đó. Một chàng người Ý trẻ tuổi tóc quăn đang tập lấy cỡ chân của một anh bạn. Biatxca đi đến ngây ngất như mọi lần bởi cái mùi da phảng phất - mùi thơm kín đáo của bên trong một chiếc xe Rônx ngự trị trong gian phòng, nơi đang lúi húi bận rộn khoảng một chục con người.
Giọng nghiêm trang, ông phán:
- Chớ quên rằng đường nét chẳng là cái gì hết! Cái quan trọng là hình khối. Luôn luôn tưởng tượng bàn chân ở trong cái hình khối của nó. Mày tưởng Miken Lăng ([11])làm khác chắc?
Ông tiếp tục đi, ngắm ở trên những ngăn giá chạy dọc tường những chiếc phom giày hoàn hảo mà khách hàng sau hai lần mua mở đầu mới được quyền có chỗ ở đấy.
Ông quay lại cậu học nghề:
- Này, những cái chân kia tao trông còn quen thuộc hơn cả mặt mũi của chủ chúng cơ. Ngay cả bịt mắt lại, chỉ sờ vuốt thôi, tao cũng biết chúng thuộc về ai!
Cậu học nghề mỉm cười. Một cô tóc vàng đẫy đà, mặc váy may lấy, thò đầu vào qua khe cửa.
- Xinho Biatxca... (Trong giờ làm việc, Piêtrô yêu cầu nhân viên cho ông xin chữ xinho [12] ).
Ông hất hàm.
- Có hai người hỏi ông. - Cô ta nói thêm.
Piêtrô sang bên cửa hàng. Thoạt nhìn ông biết ngay là cớm, mặc dù một con người trong đó có vẻ khá chững chạc. “Bây giờ cớm cũng phải qua đại học Havớt”. Ông nghĩ thầm với một thoáng chua chát.
- Thưa các ông?
- Thưa ông Biatxca, - người chững chạc cầm cái gói trong tay nói, - tôi có thể hỏi ông một câu không ạ?
- Nếu tôi có thể giúp được ông, - Piêtrô đáp, trong khi người thanh tra cảnh sát thứ hai kín đáo chìa cho ông xem tấm thẻ.
- Liệu ông có thể nhận diện được khách hàng của ông qua giày của người ấy không ạ?
- Nếu giầy ở chỗ tôi làm ra…dĩ nhiên.
- Giầy ở chỗ ông làm ra đây Người cánh sát tháo chiếc khăn bọc chiếc giầy.
Biatxca cũng chẳng phải cầm lên.
- Của người bạn tôi, - ông nhấn đến chữ bạn, - Giencô Vônpôn.
Như một luồng điện chạy qua, hai người cảnh sát nhìn vội nhau. Mắt ngỡ ngàng. Người đó đầu tiên nuốt nước bọt.
- Ông Biatxca, ông nói tên gì đấy?
- Vônpôn! Giencô Vônpôn! - Piêtrô nhắc lại với vẻ kẻ cả, biết rất rõ rằng giữa những tên thảm hại này, và ông, cái tên thần kỳ kia vừa mới đào ra một vực thẳm.
- Ông Biatxca, ông chắc chắn như thế?
- Tôi làm giày cho ông bạn Vônpôn của tôi từ gần mười năm nay. - Biatxca lên nước. - Những chiếc giày này vừa mới giao cho ông ấy chưa quá ba tháng. Tôi thậm chí có thể nói với các ông... - Mặt ông lộ ra vẻ kinh hãi của người thực hành bị đối chất về bí mật nhà nghề.
- Ông Biatxca, thế này...
- Tôi đã lấy bằng sáng chế của thủ pháp cho phép khách hàng của tôi có những cái gót cao chín phân mà nom bên ngoài thì chỉ là bốn. Với lại, nếu các ông muốn xem chân của ông ấy...
- Chân ông ấy?
- Cái phom chân ông ấy. Tôi có trong xưởng phom của hai nghìn sáu trăm cái chân, một nghìn ba chân trái, một nghìn ba chân phải.
- Không có ai cụt một chân à? Người thấp hơn không kìm được đã tung ra một câu tưng tửng.
Bạn anh ta cắt lời:
- Ông tin chắc tuyệt đối?
- Sai thì chặt đầu tôi! Nhưng tại sao...
- Chúng tôi cảm ơn ông, ông Biatxca. Một giờ nữa chúng tôi sẽ quay lại. Họ ra đi với cái gói của họ. Biatxca thấy họ xô nhau để vượt nhanh qua ngưỡng cửa. Cái đó nghĩa là thế nào nhỉ? Làm sao giày của Giencô Vônpôn quyền thế lại rơi vào tay cảnh sát cơ chứ?
Chợt run lên, ông đi vội đến buồng làm việc, mở toang cửa, đóng nó đánh sầm lại, rồi lao đến máy điện thoại.
*
Khi kim giây đồng hồ nhảy lên con số 7, Hôme Clốp ấn ngón tay trỏ vào một công tắc điện tử vùi sâu trong túi áo. Cánh cửa nhân viên ra vào tự mở ra. Chính qua đó mà sáng sáng, vào lúc tám giờ rưỡi đúng, các nhân viên của Ngân hàng Thương nghiệp Duyrích đi vào làm việc. Trong trí nhớ người Thụy Sĩ, chưa một ngân hàng nào trong Liên bang từng bị cướp. Vậy bọn trộm cướp đi đâu? Chúng ẩn náu vào đâu được cơ chứ, khi mà toàn bộ dân chúng sẵn sàng cộng tác ngay tức thì với cảnh sát? Và giả dụ chúng nó phá được cái két bạc thì chúng làm thế nào mà ra khỏi nước này? Thực tế là không thể được. Việc không có các tiền lệ cũng không ngăn các cơ sở tài chính canh giữ bí mật,vàng bạc, tiền tài của mình bằng những thủ pháp kỹ thuật bất khả xâm phạm. Ở Béc, ở Giơne, ở Lôdan, ở Phribua, ở Duyrích, các công ty chuyên ngành bảo vệ ngân hàng hái ra của. Các sáng chế tân kỳ nhất về bảo mật trong các phòng thí nghiệm đã được các chuyên viên chứng minh và kiến nghị đều kỳ.
Chỉ cần chúng hơi hoàn thiện hơn hệ thống hiện dùng là người ta đã lập tức thay thế ngay, dù cho tốn kém thế nào.
Khi tấm cửa bọc sắt chấm dứt vòng quay im lặng của nó, Inetx đã cố ý dừng lại một thoáng nhanh trên bậu cửa, đơn giản để ông chủ ngân hàng ghi nhận ngay nhãn tiền vẻ cao quý của thân hình ả được tôn thêm lên bằng một áo măng tô lông điêu thử đen, loà xoà quét mặt đất, mở ra ở đôi bốt da thú. Loá mắt bởi vầng mặt trời đen này, Hôme Clốp ngẩng đấu lên, níu lấy cái nhìn lạnh lùng của Inetx rồi nép mình để ả đi vào. Ông đẩy cánh cửa lại rồi bấm công tắc cho chẹn kín tức thì mọi ngả ra. Đoạn, bước chân con cón và tự trọng, ông đi theo ả suốt hành lang, con rùa cơ khí hoá bám gót con hươu uyển chuyển có những sải chân dài dài. Ông không hiểu ông nên ngắm cái gì nhiều hơn, cái eo thon nhỏ một cách kỳ diệu, dáng đầu hay cái cổ đài, vượt thoát ra khỏi hai vai như một cành hoa kia?
Đi hết hai hành lang nữa, họ vẫn không nói một lời.
Khi đến gian phòng các quầy trả và nhận tiền, trống rỗng một cách lạ lùng ở bên trong ngôi đền bị các kẻ thờ phụng bỏ cho hoang vắng kia, ông mới làm một động tác dò hỏi.
Ả nháy mắt, tỏ ý tán thành. Họ lại tiếp tục đi, im lặng, xuống một cầu thang dẫn tới tầng ngầm. Đi sau Inetx, Clốp đã chật vật nén kìm ý muốn sờ vào ả. Nếu to gan, có lẽ ông đã bảo ả vén hai vạt áo lông cùng váy lên để xem ả ngoáy mông trước mặt ông, cùng hai cái đùi để trần của ả. Nhưng có những điều mà chính đồng tiền cùng không cho phép nói ra, không phải vì chúng khó quan niệm hơn các điều khác, mà chính là vì nếu để lộ cái dục vọng thúc đẩy chúng, gọi dục vọng đó lên, thì cái người đã lột trần chúng ra đó sẽ bị chúng làm cho vô phương tự vệ. Họ đến trước cánh cửa cuối cùng. Hôme rất vất vả che bàn tay bị giật bắn lên vì run rẩy, khẽ vỗ vỗ vào công tắc điện tử để tạo ra ở đó một từ có năm chữ cái mà sự lắp ghép vào nhau của chúng sẽ cho phép cái trò kết hợp mã số mở toang cửa vào phòng các két bảo hiểm, mọi hệ thông báo động tạm thời ngắt điện.
Họ đã ở trong phòng bảo mật, một gian hình chữ nhật dài hai mươi mét, rộng tám mét, ở đây những khách hàng muốn biệt lập với sự đời đã đến trầm ngâm suy tưởng.
Trần, sàn, tường đều bằng thép khối có khả năng chịu được một vụ nổ nguyên tử..Mùi nước hoa của Inetx như xâm chiếm toàn bộ, một cái gì nồng ấm và sống động ở trên cái khí lạnh chết người của kim loại.
- Làm giường cho tôi! - Ả ra lệnh.
Hôme Clốp lấy ở trong túi ra hai chiếc chìa khoá, ngoáy chọc vào ổ khoá một cái két mang số 829, két riêng của ông. Im lìm như một pho tượng, Inetx xem ông làm, cao kỳ, uy nghi, ngấm ngầm thú vị bởi nỗi xúc động ả đã gây ra ở ông, cái cuối cùng rồi cùng đã lan sang cả ả: với một người đàn bà, chẳng thứ gì kích thích hơn được chính cái khả năng kích thích đó, bất kể người đàn ông trong cuộc với mình nom sẽ ra sao.
- Đôla! - ông chủ ngân hàng lắp bắp.
- Đôla, Mác, Frăng Thụy Sĩ và vài nén vàng! - Ả gay gắt đáp, giọng sai bảo.
- Em có muốn cởi măng tô ra không?
- Lúc muốn hãy hay.
Hôme quay lưng lại ả, lùa tay vào trong két, lôi ra từng vốc đầy những tập giấy bạc. Ông vứt chúng xuống đất. Inetx lấy mũi giày khe khẽ đạp lên đó.
- Nữa!
Ông lóng ngóng lấy ra nhiều nén vàng, một nén trượt rơi khỏi tay, ông liền lập tức xin lỗi bằng một giọng phạm tội. Ả chỉ nhún vai, vẫn chằm chằm nhìn ông như con thằn lằn nhìn con muỗi vậy. Một nửa mét khối bạc giấy đã la liệt trên mặt đất. Hôme quỳ xuống cởi các tập bạc.
Như lơ đãng, Inetx lấy đầu ngón chân gẩy hất chúng ra thành một đống mà Hôme rải tãi lại cho nó lờ mờ mang hình một tấm đệm nằm. Khi thảm tiền cao tới hai mươi phân, Inetx bèn duỗi chân ra và Hôme đang quỳ liền nằm ềnh xuống. Ả hạ cố mỉm cười một nụ cười:
- Nó có mùi gì không?
- Cô có thể cùng ngửi với tôi, - ông ấp úng.
- Chưa. Cởi quần áo ra!
- Ngay à?
Ả đi ra xa vài bước.
- Coi này, ta cho đằng ấy xem cái này nhé...
Ả nằm ngửa ra, tốc cao váy, giơ chân lên thành hình chữ V, những cái chân dài vô cùng vô tận, hoàn hảo đến vô cùng vô tận, một phần của chúng được bọc trong đôi bốt. Xúc động, cổ họng khô khốc. Clốp thốt ra một tiếng khàn khàn:
- Inetx!
Ả nhắc lại, lần này cục cằn:
- Cởi quần áo!
Hôme ngồi lên đống giấy bạc bắt đầu cởi quần. Ông luôn luôn mặc com lê màu xám chì, thắt cà vạt và đi giầy đen, tất đen, sơ mi trắng. Cái ngông duy nhất về áo quần của ông là ở chỗ chọn lựa cái thứ ông luôn luôn giấu vợ, những người thân và những người cộng tác của mình: những chiếc quần đùi màu đỏ rực, có chấm trắng, tuy kiểu cách từ eo xuống đến đầu gối thì vẫn là cổ điển.
- Bỏ quần đùi! - Inetx ra lệnh.
Ông thình lình hiểu ra ý nghĩa của cái cảnh tượng mang dạng thức nghi lễ này: Chúa đã được hình dung bằng tiền, còn hành động của ông thì tượng trưng cho lòng báng bổ Chúa. Từ khi ông gặp Inetx - quỷ dữ hiện thân! - cái nghi lễ tính dục này cứ luôn tái diễn. Ông đã thật thà, ngờ đâu ả dựng nên cảnh này - thì chẳng phải là ả ban lệnh cho ông trước đó hay sao? Nhưng lúc này, nằm trên tấm đệm bằng tiền trong gian phòng bảo mật của chính ngân hàng mình, dưới mắt con mọi huyền thoại đang dạng cẳng chổng ngược lên trời, trong chớp nhoáng lúc này, thất kinh lên vì tính chất kỳ dị của cảnh tượng và cố tìm lấy cho nó một ý nghĩa, ông nhận thấy té ra chính bản thân ông mới là kẻ khêu gợi nên và sinh thành ra nó.
- Thằng nhỏ con da trắng, chớ cục cựa! - Inetx ra lệnh.
Đến lượt ông khẽ dạng đùi ra. Ả bò đến chân ông, môi đẩu, hai cánh tay vục vào những tờ giấy bạc, một số đã vờn vuốt nhè nhẹ lên má ả.
*
Gian sảnh khách sạn nom giống quảng trường một cái làng trong ngày chợ phiên. Các bà to béo mặc áo tắm bécmuyda màu tím, những đoạn tĩnh mạch viêm tắc lồ lộ phơi bày ra, hô hố cười, đứng tựa vào quầy rượu nhấm nháp các cốc vại bia hay nốc thẳng một hơi như đàn ông vậy. Những chiếc Tisớt ([13]) của các ông chồng họ thì in những cây dừa màu sắc loè loẹt, nếu không phải là hình La Giôcông mà nụ cười bị nhoè nhoẹt đi trong lúc in đã biến thành một cái nhăn nhở. Moóctimơ Ô Broi, mồ hôi ướt đẫm cố lách một lối đi trong đám đông hò hét và nhàn hạ. Ông phải hét lên để cho một trong những người gác nghe thấy:
- Tôi là Ouyn Keli, buồng 879.
Ông chưa kịp nói hơn, người kia đã nhẩy bổ đến quầy của mình rồi quay lại chỗ ông, một tờ giấy ở trong tay.
- Chìa khoá của ông không ở trên bảng, thưa ông Keli. Bà Keli ở trên đó rồi. Ông có một lá thư.
Moóctimơ đút nó vào túi, không đọc. Tim đập rộn, mắt rình mò, ông đi đến một chiếc thang máy. Khi từ trong thang máy ra hành lang tầng tám, ông đi vài bước và bất chợt quay lại, thấy chỉ có mình ông. Lúc đó, ông mới giở tờ giấy nhầu nát ông đã không ngừng sờ mó ở trong túi, nhìn vội vào đó. Nó được gửi tới “Ouyn Keli, khách sạn Echxenxiơ, Naxau, Bahama”. Con dấu mang tên một sở bưu điện ở Luân Đôn. Bức thư ngắn ngủi: “Xin gọi lại Giuđích!” Một cái thờ dài nhẹ người, một cái nhăn mặt. Ông nhắm một cây gạt tàn có chân ở góc hành lang, châm lửa bức thư, ném vào đó, chờ nó cháy hết rồi lấy đầu ngón tay nghiền nát tro ra. Ông đưa ống tay áo lên quệt lau ngang mặt. Đoạn đặt chiếc cặp xuống, thắt lại cà vạt ở dưới cổ chiếc sơ mi ướt sũng rồi đi về phòng 879, nơi Dada đang chờ ông. Ngay như nếu ông có một chút xíu do dự thì ông cũng không thể nào lùi lại được nữa rồi. Bức thư đã chặt đứt cây cầu cuối cùng nối ông với quãng đời đã qua của ông. Nó có nghĩa là một cái chết của đấng nam nhi được lựa chọn, cái chết của bản thân ông, hoặc một tài sản lớn kinh người, tuỳ theo ông có được may mắn hay không. Từ nay trở đi, tất cả là vấn đề xếp đặt bố trí từng giây phút. Không thể gọi từ buồng ông được ông quyết định gọi dây nói từ sân bay, ngay trước khi cất cánh. Tính đến sự chênh múi giờ thì lúc ấy sẽ là bốn giờ chiều ở Duyrích. Đến trước buồng 879, ông gõ nhẹ vào cửa, thầm cầu mong là Dada đã sửa soạn xong và đã chờ sẵn ông với hành lý trong tay.
*
Italô Bé Vônpôn hất tay xua người con gái trần truồng đang sát xà phòng lên lưng hắn ở dưới vòi hoa sen. Hắn lau tay vào chiếc áo choàng tắm, nhẹ nhàng cầm lấy điếu xì gà Havan còn bên thành bồn tắm, rít một hơi và ngạc nhiên gắt vào trong ống nói.
- Nhắc lại!
Ở đầu đằng kia là Angiêla, người vợ trẻ hắn phải để lại ở New York. Hắn yêu nàng điên rồ, ghen chết đi được. Khi buộc phải xa nàng trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, hắn gọi nàng liền liền, chẳng để nói cái gì hết, chỉ cốt nghe tiếng nàng cho thích mà thôi. Trước khi gặp Angiêla, “đàn bà” không hề tồn tại với Italô. Tất nhiên là hắn đã có sống chung với bầy đàn những con vật hai loại khác nhau của những tạo vật không có dương vật - người mẹ và con đĩ. Người mẹ, nhân vật huyền thoại, thiêng liêng, có mọi đức tính, lần lượt hết an ủi lại khuyên bảo, bao che, đối tượng của lòng kính trọng sâu xa nhất ở những tên cướp gốc gác La tinh. Bà mẹ kết tinh ở mình cái mà mỗi đứa trong đám chúng còn giữ được về tuổi thơ, tình yêu và lòng trìu mến. Ngoài người mẹ ra - những người vợ được thụ chức vinh thăng ngay khi sinh hạ đứa con đầu lòng lại đến lượt trở thành người mẹ - là những con đĩ, tức là tất cả những người đàn bà khác, được sử dụng khác nhau để thoả mãn cái năng lượng sinh lý đầy ứ, bị kiểm kê như những con số khi họ có được tiền bằng cách bán trôn, bị hắt hủi như những con vật đáng chán khi họ toan kiếm cho mình một đôi hồi khoái lạc. Và Bé Vônpôn đã gặp Angiêla. Người đàn bà... Tại cái nơi duy nhất hắn không bao giờ đặt chân tới, một thư viện. Công bằng ra, phải nói rằng hắn vào đó không hề ngẫu nhiên một chút nào. Không phải để mượn một quyển sách, mà để làm mất hướng hai tên khốn nạn bám sát hắn ở Luân Đôn, phía Chenxi. Hi vọng đánh lạc hướng được hai đứa rồi, hắn đứng ở sau cánh cổng chính, tim đập thình thịch, tay nắm chặt vũ khí trong túi quần.
- Tôi có thể giúp được gì cho ông không?
Tuy tiếng nói nghe dịu dàng và trang trọng, hắn vẫn giật thót. Ngay ở giây phút quay lại, hắn biết sẽ là nàng.
Đất có thể sụp, người ta có thể bắn một phát vào hắn, xử tù chung thân hắn, hành hạ hắn tại chỗ, không cái gì có thể làm lung lay niềm tin thình lình ở hắn rằng nàng sinh ra là vì hắn, rằng hắn đến với cõi đời này là vì nàng, rằng không ai có thể ngăn cách được họ ra cả, không bao giờ. Trong cái nhìn dài lâu họ trao nhau trước khi Angiêla cúi đầu xuống, tất cả đã được nói ra mà chẳng phải thốt nên lời. Quá nhiều linh cảm để không thể không thấy giây phút này là hiếm có và quyết định, nàng đã hỏi với cái vẻ ngượng ngập làm cho Italô xúc động:
- Anh tìm loại sách gì?
Miệng hỏi, đầu nàng nghĩ rằng mình chưa hề gặp người đàn ông nào thuộc loại này bao giờ. Rất lực sĩ, sang, một thứ dáng vẻ man rợ thay thế cho cái đẹp ở anh ta, nó toát ra ở người anh ta như một mùi thơm. Với một nụ cười để lộ ra hai hàm răng trắng bóng, hắn trả lời:
- Có cuốn sách nào bảo tôi cách gỡ bỏ được hai thằng mặt mẹt không?
- Đây là một thư viện triết.
- Vậy có một cái cửa nào dẫn ra lối sau không?
Nàng đã đưa hắn ra đó. Lúc từ biệt, hắn cầm tay nàng.
- Cám ơn.
Và nàng chưa kịp rút tay về, hắn nói thêm:
- Nếu tối nay cô tự do, cô có muốn chúng ta đi ăn với nhau không? Tôi sẽ giải thích với cô.
Có những thời điểm không diễn lại bao giờ. Phải biết nói ngay tức khắc là có hay không?
- Dạ, - nàng đã thầm thì.
- Tôi sẽ đón cô ở đây lúc tám giờ. Ôkê?
Năm mươi tám ngày sau, Italô Vônpôn cưới nàng ở New York, bứt vợ ra khỏi bản luận án tiến sĩ triết học Anh. Nàng đã để bao nhiêu thời giờ giải thích cho chồng hiểu sự học hành của nàng là gì mà sáu tháng sau ngày cưới, nàng vẫn chưa hiểu nghề thật của chồng là thế nào cả. Với mọi câu hỏi của vợ, hắn chỉ đưa ra một bộ mặt hề.
- Công việc gia đình ấy mà. Anh giúp ông anh Giencô. Sửa chữa lặt vặt... bán rau, bán hoa quả...
Nhưng tiền nong của họ tiêu hàng đống cũng như toà nhà sang trọng họ sống ở Đại lộ Công Viên đã làm nàng nghĩ vẩn vơ...
- Angiêla, cara mia ([14]). Em nhắc lại đi... - Hắn nói.
Nhưng đường dây giữa Naxau và Mỹ nghe rất rõ. Khi chắc là vợ đã hiểu ra ý mình, hắn cười rống lên, cái bụng toàn bắp thịt của hắn rung nẩy, ngón trỏ bất giác mân mê cái sẹo cũ, kỷ niệm một viên đạn lạc ở Portô Ricô đã khoét thành một cái rốn thứ hai bên sườn phải.
Nhưng Angiêla vẫn quay trở lại vấn đề, giọng gấp và lo lắng.
- Anh cần phải nghe em, Italô? Họ bảo em là nghiêm trọng và cấp bách.
- Không, em thấy anh rồi mà lại. Anh gọi lại bọn cảnh sát nhé?
Thấy cái ý kỳ cục, hắn bật cười phá lên.
- Thế họ có bảo em tại sao anh lại phải gọi họ không?
- Không! Họ chẳng muốn nói gì hơn với em cả, anh cần tiếp xúc ngay với đồn cánh sát Đại lộ Sáu...
Italô phì cười: hắn, Bé Vônpôn mà lại đi liên hệ với lũ nông dân mặc đồng phục à!
- Em có bảo họ là anh ở đâu không?
- Không, không Em bảo em không biết gì hết.
- Nghe này, em yêu, anh đang tắm dưới vòi hoa sen...Anh đang cười vỡ...
Cô gái bị xua đi khẽ hé cửa ra và vừa cười chẳng úp mở vừa lấy hai lòng bàn tay nâng vú lên. Italô ra hiệu bảo đi ra chờ hắn ở chỗ khác. Ở đâu hắn đến, người của hắn cũng đều chuẩn bị cho hắn một uỷ ban đón tiếp cung cấp một cách khá chắc nịch những mông và vú. Hắn chỉ việc vục tay vào cả đống mà vầy vọc cho tới khi nào hắn ngủ thiếp đi. Đùa cợt, tay chân của hắn và hắn đã đặt tên cho bọn gái điếm là “Thuốc ngủ”. Italô có một sinh lực dồi dào đến độ chỉ riêng về mặt vệ sinh thuần tuý, hắn cũng đã phải cần đến thuốc ngủ. Dĩ nhiên, hắn không bao giờ coi cái việc chung chạ vài ba giờ với bọn gái ấy là một sự lừa dối Angiêla.
- Angiêla, em yên tâm, anh phải thay quần áo... anh có một cuộc họp công chuyện...
Không suy nghĩ, bằng đầu ngón tay cái, hắn cho bàn cò quay tí hon chạy, lăng hòn bi ra và thầm đặt cuộc vào con số chín.
- Italô, em van anh? Anh cần phải gọi họ! Em đã thấy họ, họ có vẻ nghiêm túc đấy!
- Em đã gặp họ? - Vônpôn thắt họng lại.
- Họ đến nhà…Có sao với anh không?
- Và em đã cho họ vào? Vào nhà anh?
- Cưng, anh muốn em làm như thế nào lúc đó?
Viên bi, sau một lúc ngập ngừng, đã quyết định lấy số ba mươi mốt, nơi nó dừng lại im lìm.
- Cứt! Hắn nói cho mình chứ không phải cho vợ - Được, anh sẽ liên hệ với họ. Anh sẽ gọi lại cho em...
Hắn đặt mạnh máy nói. Chà người, khoác áo choàng tắm, hút một hơi xì gà, nốc một ngụm uýtxki Xcốtlen, hắn nhấc máy và quay số tám gọi tổng đài.
- Đây, 1003 đây. Cho tôi New York! Tôi muốn đồn cảnh sát Đại lộ Sáu...
Hắn đi vào trong buồng. Nằm úp sấp trên giường, cô điếm làm ra vẻ hờn dỗi khi thấy hắn đến. Hắn lơ đãng phát một cái vào mông ả và ngay lúc đó, thú vị thấy bàn tay mình để những vết đỏ hằn trên da thịt.
- Anh làm em đau. - Cô điểm trách.
- Tên em là gì?
- Anh ác lắm. Em sẽ không bảo anh.
- Anh cần biết làm cái quái gì, - hắn dửng dưng nói, rót cho mình một cốc uýtxki nữa. - Thôi, con ranh, nào! Làm cho tao đi!
Ả nằm ngửa lên.
- Thế nếu anh làm trước cho em thì sao nào?
Chuông reo. Ả cầm cốc rượu ở tay hắn và đưa lên miệng.
- Đồn cảnh sát Đại lộ Sáu... Tại sao các ông lại đòi tôi biết cơ chứ? Các ông bảo vợ tôi là liên hệ lại... - Hắn hơi cứng người. - Italô Vônpôn... Vâng... Đồng ý...!
Hắn cầm lấy tay cô gái điếm, khép các ngón tay ả vào cái của mình. Rồi nắm gáy ả, ấn đầu ả xuống bụng mình.
- Vâng... Vônpôn... Thế nào? Tại sao?...
Thình lình mặt hắn nhăn lại, các cơ bắp người hắn căng lên -Ông nói gì vậy? - Hắn ấp úng.
Hắn nghe nửa phút nữa và môi hắn chợt trở thành một đường thẳng, trắng nhợt, dữ dằn. Thấy giọng hắn khác, cô gái ngẩng đầu lên nhìn hắn. Hắn co chân đạp ả ra.
- Cút! - Hắn rít lên, không nhìn ả, bàn tay che ống nói lại.
Ả muốn chơi nước trên với hắn.
- Anh không có quyền nói với em cái giọng đó!
Hắn tát man rợ. Kinh hoàng, ả nhìn hắn bằng hai con mắt màu xám đầy sợ hãi và nước mắt. Italô lấy một xấp đôla ở trong ngăn kéo bàn ngủ ra vứt vào mặt ả.
- Xéo! Mày được hai mươi đấy?
Ả cúi xuống để nhặt tiền và trong chớp nhoáng, trước cảnh tượng ả bày ra cho hắn thấy trong tư thế đó, hắn đã tiếc là không dùng ả. Hắn nói:
- Tôi đáp chuyến máy bay đầu tiên! - Rồi dập máy xuống. Đoạn nói với cô gái. - Tôi có việc trong buồng tắm. Đừng có ở lại đây nữa khi tôi trở ra.
Ngay khi hắn biến, ả vội đếm các tờ bạc, xoa xoa má rồi cười một mình. Với cái giá này, ả sẵn sàng để cho hành hạ nhiều nữa. Ba phút sau, ả đã đi.
Italô gọi đám vệ sĩ, nói rõ một đứa phải chờ hắn trong chiếc xe đậu ở bên dưới khách sạn, trong khi đứa kia thì đặt vé cho chuyến máy bay sớm nhất đi New York.
Sau đó hắn gọi dây nói cho người luật sư, kể cho biết hắn sắp sửa đến đồn cảnh sát Đại lộ Sáu, nơi đích thân ông luật sư sẽ phải chờ hắn ở đó. Cuối cùng, hắn lệnh cho thư ký moi ra ngay lập tức Moóctimơ Ô Broi và dẫn lão tới sân bay. Tuy đứng trên đỉnh chóp bu, toàn năng và bất khả xâm phạm, Bé vẫn giữ những phản xạ của tên kẻ cướp tập tọng vào nghề. Hắn mua bằng vàng các viên chức cao cấp của cảnh sát nhưng trông thấy một cảnh sát giao thông, hắn lại ớn cả người, tựa như hắn vẫn mười bốn tuổi bọ vậy. Bồn chồn, hắn dứt dứt một sợi dây giày và rùng mình nghĩ đến chiếc giày của Giencô mà đám cớm chết dịch kia khẳng định với hắn rằng đã tìm được, không cho biết ở đâu và như thế nào hết. Mà anh hắn thì có thể làm bất cứ cái gì, trừ có chuyện đánh mất giày hoặc bán đi từng chiếc một!