Good friends, good books and a sleepy conscience: this is the ideal life.

Mark Twain

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Upload bìa: Vũ Hải
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5076 / 146
Cập nhật: 2015-03-02 12:49:08 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
Ở tù ra, Minh không cề Hải Ninh. Anh nán lại Hà Nội, chọn con đường đấu tranh mới là báo chí. Anh viết những bài bình luận chính trị, đã kích chế độ thực dân và đòi cải cách xã hội. Cái hăng say nóng nảy của tuổi trẻ trào ra trên những bản thảo cực kỳ gay gắt, thường bị chủ bút cắt xén và sửa đổi rất nhiều để tờ báo có thể sống còn dưới những cặp mắt cú vọ của Sở Liêm Phóng. Đôi khi anh phải viết bằng tiếng Pháp, ký đại một cái tên Tây nào đó rồi gởi cho những tờ báo có thiện cảm với ngừơi bị trị như L`Argus Indochinois ở thành phố Hàm Long Hà Nội. Ông chủ báo Amedée Clémenti, có vợ Việt Nam, thường hăng hái cổ võ cho nền độc lập An Nam, nhưng bản thân ông lại vướng phải cái thú thuốc phiện quá nặng, làm mất đi khá nhiều cảm tình của người hâm mộ.
Chậm chững vào làng cầm bút, thấy những đàn anh đồng nghiệp có tên tủi như Nguyễn Trọng Thuật, Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Công Hoan, Nghiêm Toản, Trúc Khê, Trần Huy Liệu v.v... đều đã gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, Minh thấy lòng mình cũng nao nao thôi thúc vì tự cho rằng mình không thể đứng bên lề khi chung quanh có cả một hệ thống thanh niên trí thức đang dấn thân vào cuộc chiến đấu dành độc lập cho xứ sở. Huống chi bản thân Minh từ khi mới lớn, vốn vạch ra con đường để theo đuổi là chống những hủ tục làm chậm tiến Việt Nam, đồng thời chống những đè nén của giặc ngoại xâm thông đồng với quan quyền phong kiến. Thì đây, Việt Nam Quốc Dân Đảng chính là đoàn thể đáp ứng đúng hai khác vọng ấy của Minh.
Tuy nhiên cái ấn tượng mạnh nhất thúc đẩy Minh gia nhập Quốc Dân Đảng đã đến với anh trong một buổi hợp bí mật ở Thành Bộ Hà Nội, nơi đó anh có dịp gặp một đồng chí lớn hơn anh gần mười tuổi, tên là Lê Hữu Cảnh. Cảnh sinh năm 1895 tại Hà Đông, trong một gia đình công giáo rất sùng đạo. Gia đình Cảnh kinh doanh ngành đồ gốm ở Hà Nội, cho cảnh theo học trường dòng tức là trung tiểu học Colège Puginier nằm trên phố Carreau trong khu nhà chung thuộc giáo hội Thiên Chúa Giáo. Puginier là tên một linh mục người Pháp có công xây nhà thờ lớn Hà Nội, tức thánh đường Saint Joseph khánh thành dịp lễ Noel năm 1887, tức là trước Vương Cung Thánh Dường Sài Gòn một năm.
Thời Pháp thuộc, người công giáo vẫn bị coi là thành phần hưởng lợi của Pháp, cho nên hoặc đứng vào hàng ngũ thân Tây, hoặc dửng dưng đứng giữa, không tích cực chống Pháp. Điều này cũng dễ hiểu, một phần người Pháp muốn lợi dụng Công giáo, lại thêm phong trào Văn Thân kỳ thị đẩy khối dân Thiên Chúa giáo xa dần cộng đồng dân tộc. Thêm vào đó, từ khoảng 1920, dưới thời đức giáo hoàng PIO XI, chủ trương của giáo hội là công khai tuyên chiến với chủ nghĩa vô thần sua khi Lenin lập được chế độ Cộng Sản tại Nga năm 1917.Từ ngày ấy, người Công giáo mặc nhiên coi kẻ thù chính cần đối phó là Cộng Sản theo lời dạy của giáo hội. Tất cả những thế lực khác trở thành thứ yếu. Thậm chí có người sẵn sàng hợp tác với Pháp để chống cộng. Lê Hữu Cảnh là một trường hợp giáo dân khác thường.
Lê Hữu Cảnh sau khi học trường dòng Puginier đã được tuyển vào lính Pháp. Thời ấy quân dân Việt Nam đi lính cho Tây, dù có khả năng đến đâu thì chỉ có được ở hàng hạ sĩ quan mà thôi. Cho nên những cấp bật mà người Việt nghe quen tay là Cai (hạ sĩ), Đội (trung sĩ) vaQuản (thượng sĩ). Cai và Đội được gọi bằng thầy. Tới chức Đản thì được gọi là quan. Thầy cai, thâỳ đội, quan quản. Lê Hữu Cảnh đi lính Pháp lên tới chức Quản, tức là quyền hành bổng lộc cũng thuộc vao hàng khá. Nhưng ông xin giải ngũ trở về và chuyển sang làm việc trong xưởng Hỏa Xa Hà Nội. Như thế, nói chung Lê Hữu Cảnh là thành phần được Pháp đào tạo, nâng đỡ, cho công ăn việc làm để từ đó có cuộc sống tương đối đầy đủ nhất là Cảnh đi theo đạo Thiên Chúa, một tôn giáo được xem như đồng minh của Pháp. Vậy mà Cảnh từ khước hết, mãnh liệt lao vào công cuộc chống Pháp bằng hành động rất can đảm với trí óc thông minh và từng trải của mình. Thái độ ấy làm Minh vô cùng cảm động. Nhìn bao nhiêu công chức đang lĩnh lương của Pháp, bao nhiêu con cái trong những gia đình quan quyền, từ thông ông phán cho đến án sát, tuần vũ, dám từ bỏ cuộc đời an nhàn để kéo nhau vào Quốc Dân Đảng. Minh không thể làm ngơ đứng ngoài, Minh đã từng nể phục những người như Phó Đức Chính, tốt nghiệp cao đẳng công chánh, như Nguyễn Ngọc Sơn vừa du học bên Pháp về, tương lai hứa hẹn cuộc sống thịnh vượng, thế mà họ vẫn tham gia sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ buổi đầu. Nay gặp Lê Hữu Cảnh, Minh còn nể hơn, bởi trước đó Minh có thành kiến là người Công Giáo không chống Pháp.
Giữa lúc lòng đang hăng say, Minh gặp Nguyễn Vă Viên, một đảng viên gắng bó với Quốc Dân Đảng từ khi Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng còn có cái danh xưng sơ khởi là Chi Bộ Nam Đồng Thi Xã. Nguyễn Văn Viên và Nhượng Tống Hòan Phạm Trân đọc bài viết của Minh trên báo, biết anh là người cùng chí hướng, liền ngỏ lời rủ anh gia nhập. Minh không lưỡng lự. Anh hăm hở tuyên thệ ngay và được Nguyễn Văn Viên giao cho công tác tuyên truyền trong tổ đảng thuộc Thành Bộ Hà Nội. Anh cũng giã từ người bà con, dọn ra riêng thuê căn gác trọ ở xóm bình dân, vì cần làm việc kín đáo, thức khuya viết bài, cần liên lạc với đoàn thề và nhất là tránh liên lụy cho gia đình người thân nếu chẳn may hành tung anh bị mật thám phát hiện.
Lùi trở lại ngày 25 tháng 12 năm 1927, chi bộ Nam Đồng Thư Xã quyết định tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc để chính thức khai sinh Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đại hội sở dĩ chọn ngày lễ Chúa Giáng Sinh là để dễ đi lại trà trộn vào đám đông vì đồng bào Công Giáo khắp nơi đều lũ lượt kéo đến các nhà thờ. Hơn thế nữa, đối với người Pháp, Noel là lễ lớn nhất trong cả năm, dù sao thì chúng cũng vui chơi tiệc tùng, lơ là việc tuần tra. Nhờ vậy, đại hội khai mạc lúc 8 giờ tối, đã diễn ra tốt đẹp như đồng Lê Thành Vỵ, nằm trong làng Thể Giao, đất cũ thuộc Huyện Thọ Xương, thành phố Hà Nội.
Kể từ đó, sức phát triển Đảng bung ra quá nhanh và quá rộng. Đảng đưa ra chương trình hoạt động gồm ba giai đoạn: Bí mật, bán công khai và tổng khởi nghĩa. Quan trọng nhất vẫn là giai đoạn một, tức là thời kỳ bí mật kết nạp Đảng viên và phát triển Đảng. Nhưng biến triển của tình thế diễn ra quá nhanh, Đảng viên quá hăng say và phần lớn chỉ có nhiệt tình yêu nước mà chưa có kinh nghiệm đấu tranh, nên chỉ được một năm 1928 là tương đối an bình. Năm sau, bão tố ùa đến thật nhanh, đưa Việt Nam Quốc Dân Đảng vào một viễn ảnh cực kỳ bi thảm. Âu cũng là định mệnh của lịch sử!
Lúc bấy giờ phong trào mộ phu đang lên rất cao ở toàn miền Bắc, người cứ đi mà chẳng thấy về. Là nhà báo, Minh âm thầm lao vào những cuộc điều tra bằng những thăm dò và phỏng vấn rộng rãi hầu viết những phóng sự nhằm phơi bày những đau khổ tận cùng của những kẻ lầm lỡ ghi danh làm mộ phu, hoặc bị đưa vô Nam Kỳ hoặc đi những phương trời thuộc địa xa xăm của Pháp. Báo không dám đăng, anh cùng các đồng chí thảo truyền đơn bí mật rải khắp nơi, gay gắt chống việc mộ phu và can ngăn đồng bào đừng nhẹ dạbị dụ dỗ nghe lời tha phương cầu thực. Chẳng riêng gì Việt Nam Quốc Dân Đảng, phía Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội cũng tung ra hàng loạt truyền đơn có nội dung tương tự, nhất trí lên án việc mộ phu.
Lúc này Đảng Tân Việt kể như đã giải thể. Đảng này khởi đầu có tên là Phục Việt do nhóm thanh niên trí thức tân học thành lập, như Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Xuân Chữ, Mai Lâm, Đặng Thái Mai, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai v.v... Về sau, nhóm Tân Việt sát nhập vào Đông Dương Cộng Sản Đảng. Những đảng viên có lập trường chính trị như bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đắc Lộc, đành bỏ đảng, không hoạt động nữa. Từ đấy, lực lượng chống Pháp chỉ còn lại hai đoàn thể đáng kể, hoạt động song hành là Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vì cùng một mục tiêu tối hậu, cùng chia sẽ những hoạn nạn và cì cả hai đều quá bận với những chuyện của nội bộ, nên những hiềm khích chưa xảy ra cụ thể giữa đôi bên, nhất là khi lãnh đạo chủ chốt ở bên kia là Nguyễn Ái Quốc vẫn còn lẫn khuất ở nước ngoài. Suốt tháng 4 năm 1928, đại diện hai đảng đã gặp nhau liên tục để bàn việc kết hợp, nhưng không có kết quả. Quốc Dân Đảng trủ chương Tổng Bo lãnh đạo cuộc cách mạng phải đặt ở quốc nội để cùng nằm gai nếm mật, cùng chiến đấu với đồng chí và đồng bào. Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thì cho rằng Tổng Bộ nên đặt ở nước ngoài, chẳng hạn bên Trung Hoa, để tránh bị địch bắt, bởi nếu Tổng Bộ bị bắt thí như rắn bị mất đầu, đoàn viên sẽ hoan mang và tan rẽ dễ dàng. Quốc Dân Đảng thì không đồng ý vì cho rằng như thế là hèn nhát, là ném đá giấu tay. Tranh luận mãi chả đi đến đâu. Vì khát vọng đoàn kết, tháng 5 năm 1928, Tổng Bộ Quốc Dân Đảng cử người qua tận Thái Lan để gặp lãnh tụ cao cấp hơn của Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội. Phái đoàn Hồ Văn Mịch gặp Hoàng Ngọc Ẩn, tức Hoàng Văn Hoan, ở Udon, một tỉnh nhỏ phía Bắc Thái. Chuyện cũng không thành vì Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thiếu thiện chí. Bề ngoài, họ tiếp đãi Việt Nam Quốc Dân Đảng rất niềm nở, nhưng bên trong họ không thật lòng muốn thống nhất. Đây chẳng phải là lần đầu. Trước đó, hồi tháng 5 năm 1927, khi quốc dân đảng chưa chính thức ra đời, còn hoạt động kín đáo trong khuôn khổ nhím Nam Đồng Thư Xã, Nguyễn Thái Học cũng đã từng cử đại diện là Nguyễn Đức Cảnh sang tận Quảng Châu gặp Nguyễn Ái Quốc để bàn chuyện kết hợp. Nhưng Cảnh không thuyết phục nổi Nguyễn Ái Quốc, trái lại ông bị Nguyễn Ái Quốc dụ dỗ, từ bỏ Quốc Dân Đảng gia nhập Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, trở thành một đảng viên Cộng Sản tiên khởi tại Bắc Kỳ sau này. Trường hợp hợp của Cảnh cũng tương tự như của Trần Phú, con quan tri huyện Đức Phổ, lúc đầu theo Đảng Phục Việt. Đảng cử Phú sang Quảng Châu gặp Nguyễn Ái Quốc để tính chuyện hợp tác chống Pháp. Phú bị Nguyễn Ái Quốc thuyết phục, ở lại luôn rồi kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc gởi Phú đi học lớp chính trị bên Mạc Tư Khoa, rồi trở về làm Tổng Bí Thư đầu tiên của Đông Dương Cộng Sản Đảng, lúc Phú 26 tuổi.
Sau những nổ lực liên kết không thành ấy, Nguyễn Thái Học vẫn chủ trương giữ giao hảo thuận hòa với mọi đoàn thể cách mạng khác, bởi trong cách nghĩ ngay tình của ông, bức cứ ai cùng chung ký tưởng đánh đổ thực dân Pháp, thì đều được coi là đồng chí cả!
Một hôm bà Truyền từ Hải Ninh tất tả chạy xuống Hà Nội thăm con. Vì Minh chưa báo tin về làng, nên bà Truyền vẫn tưởng Minh còn ở nhà trọ của người bà con mình. Đó là người em cùng cha khác mẹ, lấy chồng làm thợ kim hoàn ở ngay phố Hàng Bạc và bà gởi Minh trọ hcọ ở đấy. Bà khệ nệ xách mấy cái giỏ cối đựng mấy món quà nhà quê, suất hành từ lúc gà mới gáy sáng, đến nhà người em thì trời đã quá trưa. Người em đi vắng. Cái Nhi, con gái thứ ba, nhìn bà Truyền tội nghiệp, ân cần bảo:
- Khổ thân bà quá! Lặn lội từ dưới ấy lên đây! Mẹ cháu lại vừa đi vắng. Bà ngồi chơi tạm để cháu dọn cơm mời bà xơi, đợi mẹ cháu về!
Thông thường ở miền Bắc, hai chị em gái thì người ta gọi là "con dì, con dà", nghĩa là cái Nhi phải kêu bà Truyền là "dà" mới đúng. Nhưng dân trong làng có thói quen là hễ anh hay chị của bố, thì gọi là "bác", mà anh hay chị của mẹ thì kêu bằng "bá".
Bà Truyền vừa cầm nón quạt mồ hôi vừa đáp:
- Đừng cháu! Cháu đừng bày vẽ cơm nứơc cho mất thì giờ! Bá ăn trước khi đi bụng vẫn còn lưng lửng! Với lại, bá vội lắm. Có việc phải gặp thằng Minh một tí rồi lại về ngay!
Nhi tròn mắt nhìn bà:
- Anh Minh có còn ở đây nữa đâu! Dọn đi cả mấy tháng rồi bá ạ! Mẹ cháu với cả nhà cháu giữ mãi mà anh ấy chả chịu ở lại!
Bà Truyền suýt đánh rơi cái quạt. Bà lo âu hỏi:
- Thế cháu có biết bây giờ nó ở đâu không?
Thấy bà quá lo lắng, Nhi vội cười trấn an:
- Có chứ bá! Cháu biết!...Thôi thế này bá ạ. Nhẽ ra cháu phải dọn cơm mời bá xơi đã. Nhưng bá bảo là bá vội, thì cháu đưa bá lại nhà anh Minh cho đỡ sốt ruột!
Bà Truyền thở phào nhẹ nhõm. Bà gượng cười bảo cháu:
- Mày nhớn quá rồi! Giá gặp ngoài đường, không khéo bá chẳng nhận ra! Năm nay bao nhiêu rồi hả con?
Nhi bẽn lẽn đáp:
- Cháu 17 rồi bá ạ!
- Thế đã có đám nào chưa?
Nhi xấu hổ cúi mặt không đáp. Cô đội nón lên và nói lảng:
- Thôi đi, bá! Vừa đi vừa nói chuyện!
Bà Truyền lấy lại một ít quà để lại cho chị em Nhi, rồi xách giỏ theo cô cháu ra đường.
- Đến khu Khâm Thiên thì may quá Minh mới ở tòa báo về. Đứng trong khung cửa sổ trên gác trọ nhìn xuống, Minh giật mình nhận ra mẹ mình đang cùng cô em họ chuẩn bị băng ngang đường. Vừa cởi áo ngòai xong, Minh lại vội vàng mặc lại rồi lao xuống cầu thang vừa cài nút. Anh đứng chờ sẵng bên này đường,mẹ vừa sang tới tươi cười hỏ:
- Mẹ lên bao giờ đấy?
Rồi Minh đở cái giỏ cói cho mẹ, Nhi bỏ nón khẻ cúi đầu:
- Em chào anh a! Ít lâu nay chả thấy anh lại chơi. Mẹ em cứ nhắc mãi!
- Đúng ra thì cả nhà bà dì, chỉ có Nhi là mong Minh ở lại nhất. Nhi có cái giằng co khổ sở là cô muốn theo tân thời, thay đổi chút ít về trang phục bên ngòai.Nhưng cha mẹ cô quá bảo thủ, lúc nào cũng bắt mặc quần áo màu đậm, hoặc đen hay nâu. Hà Thành đang chuyển mình trong giới phụ nữ, lẻ tẻ đã bắt đầu có những cô bạo dan để răng trắng & mặc quần áo màu sáng, bỏ khăn bịt đầu và đánh phấn Côty. Nhi muốn bắt trước, nhưng cả nhà phản đối chỉ mình Minh công khai ủng hộ. Đôi khi Minh thấy Nhi ngồi lặng lẽ soi gương và u sầu buồn cho sự kiềm chế mà cô phải chịu đựng.
Minh chưa kịp đáp thì bà Truyền, gỡ nón cầm tay, vừa thở vừa mắng:
- Con dọn nhà sao không cho mẹ biết? Mà tưởng dọn đi đâu, háo ra là đến cái xóm cô đầu này! Chỗ này bao nhiêu người tan nát cửa nhà rồi đấy! Con liệu mà giữ gìn! Bố mà biết con ở đây thì thế nào cũng mắng ầm lên!
Minh cười chống chế:
- Được cái thuê nhà rả mẹ ạ! Con chưa báo tin về vì đắng nào mẹ lên đây, thì mẹ cũng phải ghé thăm dì Thu, chứ chả lẽ chỉ gặp con rồi về!
Nhi chen vào:
- Thì em cũng bảo thế! Em mời bá ở lại xơi cơm, nhưng bá cứ nhất định đòi gặp anh ngay! Chắc là bá biểu anh về cưới vợ!
Minh cảm động nhìn Nhi gật đầu:
- Cám ơn Nhi! Lâu quá không thấy cô lại chơi!
Họ hàng ở Hà Nội chả có ai, nên Minh rất bó với gia đình bà dì, nhất là anh đã từng ở trọ mấy năm, ăn ngủ, giỡn đùa với mấy em. Chính vì vậy từ khi Minh dọn đến căn gác mới này, một đôi lần Nhi và mấy đứa em nhỏ có kéo lại chơi, nhân tiện dọn dẹp nhà cửa cho Minh. Cũng có hôm Nhi bất ngờ mang thức ăn đến cho Minh. Niêu cá kho, hoặc món dừa khô kho thịt. Những thứ mà Minh rất thích lúc còn ở trọ nhà Nhi.
Hôm nay Nhi cũng muốn nán lại, nhưng biết bà Truyền kín đáo muốn nói chuyện với Minh, nên cô vội vã cáo từ:
- Cháu về trước bá nhé! Chốc nữa mời bác với anh Minh lại nhà cháu xơi cơm! Giờ này chắc mẹ cháu về rồi đấy!
Bà Truyền lắc đầu:
- Để khi khác cháu ạ! Cháu về nói với mẹ cháu là bá vội lắm. Nói chuyện với anh Minh một tí rồi bác lại về ngay! Bá gởi lời tăhm mẹ cháu và cả nhà!
Nhi đi rồi bà Truyền theo con trai len gác. Bà lay hết quà trên giỏ ra đặt trên bàn cho con. Quà nhà quê thì cũng chỉ có vài quả ổi, quả bưởi chín cây cùng chục bánh rợm, bột gạo nếp nhân đường, bà đặt người ta gói tối hôm qua.
Minh khép cửa, cài then rồi quay lại, lo lắng hỏi ngay:
- Mẹ lên đột ngột thế này chắc nhà có chuyện gì, phải không mẹ?
Minh sợ bố mình lâm bệnh bất ngờ. Nhưng bà Truyền ngồi xuống giường, phe phẩy nón lá và lắc đầu. Minh vội vàng cầm tờ báo quạt cho mẹ. Bà Truyền mặt u sầu nói:
- Có việc gì đâu! Cả nhà vẫn khỏe mạnh cả! Mẹ lên là vì cậu Tân, con bác Lương, mới mất. Chôn ba hôm rồi!
Minh ngắt lời:
- Việc này thì con biết!
Bà Truyền xua tay:
- Cậu ấy đang đi học, bỏ ngang đi đâu biệt tích. Nửa năm sau mò về, người xanh như tàu lá chuối. Chết vì sốt rét ngã nước!
Minh lại gật đầu lặp lại:
- Vâng. Con biết!
Bà Truyền thở dài nhìn con nặng trĩu ưu tư:
- Từ ngày con bị bắt, lão lý Bân được chỉ thị của Huyện là phải để mắt theo dõi vì sợ con theo hội kín đấy. May mà có chú Phúc làm phó lý, che chở cho con, nên làng xã người ta mới để yên cho con tới giờ. Cậu Tân nhà bác Lương thì ai cũng quả quyết là chốn theo hội kín chống Tây, sang Tàu hoạt động rồi bị ngã nước rồi mới trở về. Tối hôm qua, chú Phúc sang chơi, ngồi nói chuyện với bố mẹ gần đến nửa đêm rồi mới về. Chứ cứ nhắc đi nhắc lại mãi là con phải cẩn thận. Chớ có nhẹ dạ nghe theo lời bạn bè rủ rê. Chú Phúc bảo, công văn trên Huyện, trên tỉnh gởi xuống hàng loạt, báo động là hiện giờ đang có hai hội kín đang tuyên truyền mạnh là Cộng Sản và Quốc Dân Đảng. Cả hai đều nguy hiểm như nhau. Chú Phúc bảo mẹ là bên làng Cốc, mật thám mới ập vào bắt nguyên một đám thanh niên giữa tiệc đám hỏi. Nghe bảo là Quốc Dân Đảng giả vờ làm đám hỏi để hợp hành, che mắt mật thám, nhưng có đứa bên trong tố giác. Chú Phúc giục mẹ lên nói với con, bảo con bớt giao du với người lạ. Viết báo thì pahỉ đắn đo, đừng có dính dáng gì đến chuyện thời cuộc. Bút sa gà chết, lúc nào cũng pahỉ cẩn thận từng li từng tí. Nếu tìm được việc gì káhc thì bỏ hặn, đừng viết báo nữa thì càng tốt!
Nói xong những điều mà bà Truyền đã nhẵm suốt quãng đường, bà Truyền kết luận:
- Bố mẹ nhịn ăn nhịn tiêu cho con đi học, mong con thành tài để đỡ đần bố mẹ lúc tuổi già. Nhưng con trót dạy làm càng để cho người ta đuổi, khiến việc học bị dở dang. Bây giờ làm lại cũng chưa muộn. Thời buổi nhiễu nhương, yên phận thủ thường sống cho qua ngày, đừng để bố mẹ nhìn con bị bắt một lần nữa. Mà lần này thì chắc chắn không ai van xin cho con được nữa đâu!
Minh cảm động vì sự lo toan của mẹ mình, lội bộ từ sáng lên đây chỉ để dặn dò đôi lời. Mà bà nói đúng: Ông ký giả Pháp ngày ấy vào tù lãnh Minh ra, bây giờ đã trở lại lèm vệic luôn tại Paris, viết cho tờ Action Francaise. Ông vẫn theo quan điểm cấp tiến, nhưng xa xôi vạn dặm, có chuyện gì liên quan đến Minh, ông không thể can thiệp được nữa!
Minh cười trấn an mẹ:
- Xin mẹ cứ yên lòng. Con lớn rồi. Con biết giữ thân! Nhờ mẹ thưa lại với bố với chú Phúc là lúc nào con cũng cẫn thận!
Rồi anh đổi ngay đề tài, hỏi mẹ:
- Tối nay mẹ ngủ lại đây với con, sáng mai hẵn về?
Bà Truyền cầm nón đứng dậy:
- Không! Mẹ về ngay bây giờ. Ở nhà trăm công ngàn việc...
Rồi bà nghiêm trang nhắc lại những lời dặn dò một lần nữa trước khi bước xuống thang gác, đi bộ ra ngoại ô. Bà dự trù về đến Hải Ninh thì trời cũng vừa tối.
Bà Truyền về rồi, đêm ấy Minh trăn trở không ngủ được vì giằng co phấn đấu. Thương cha mẹ nặng trĩu trong lòng, nhưng không thể vì tình riêng mà bỏ dở con đường riêng đang theo đuổi. Anh nhớ lời đảng trửơng Nguyễn Thái Học đã nói:
- Nếu ai cũng nặng tình riêng, không dám xã thân vì đại nghĩa, thì giặc Pháp muôn đời vẫn cai trị nước ta!
Một ngày cuối năm 1928, ủy viên Thành Bộ Hà Nội Nguyễn Văn Viên, đến gác trọ của Minh ở Khâm Thiên để nhờ anh khảo tờ truyền đơn kể tội thực dân nhân ngày kỷ niệm một năm Quốc Dân Đảng ra đời. Trong cuộc sống hàng ngày thì Viên là nhân viên bán hàng cho một hãng buôn lớn của Pháp. Về sinh hoạt đoàn thể thì Viên phụ trách các chi đoàn công nhân Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp hoặc công ty của Pháp Minh cũng là một Ủy viên Thành bộ, nhưng không giữ chức bởi anh cần chồ đứng độc lập đề dễ hoạt động trong giới báo chí.
Hôm ấy, đến nhà Minh thấy xấp bản thảo viết dở đặt trên bàn,Viên tò mò mở ra xem rồi máu nóng cứ bừng bừng bốc lên.Một phần vì uất hận,một phần vì muốn gây tiếng vang cho Đảng,Viên nghiến răng bảo Minh.
- Phải giết thằng René Bazin! Giết nó thì mới trừ được mối họa cho đồng bào và cũng để cảnh cáo những tên mộ phu khác!
Minh đang ngồi xổm trên sàn nhà pha trà mời khách. Bản chất Minh là một thanh niên khí phách, ngang tàng, nhưng khi gia nhập Quốc Dân Đảng, anh tự khép mình vào kỷ luật đoàn thể, nên anh ngước lên bảo:
- Muốn làm gì thì cũng phải hợp Thành Bộ để thống nhất ý kiến, rồi xin lệnh Tổng Bộ!
Viên đáp:
- Đã đành là thế. Nhưng giết thằng Bazin thì ai chả đồng ý!
Rồi Viên quăng xấp giấy trên mặt bàn, hăm hở xuống thang gác, không kịp uống nước trà. Minh ngạc nhiên nói với theo:
- Ô hay! Đi đâu mà cuống lên thế! Ngồi chưa nóng đít đã chạy là thế nào? Việc gì thì cũng phải cân nhắc, đừng có hấp tấp!
Minh chưa dứt câu, Viên đã ra tới lề đường.
Về Thành Bộ, Viên tiến hành hội ý ngay. Đa số các đồng chí đều tán thành cả. Đặc biệt là các chi đoàn công nhân thì ai cũng hối thúc Viên phải thanh toán Bazin. Viên hăm hở chạy lại Khách Sạn Việt Nam, cơ sở kinh tài công khai của Đảng ở phố Hàng Bông mới khai trương hôm 30 tháng 9. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và một số ủy viên trung ương đang có mặt tại đây. Viên xin gặp và tha thiết đề nghị trừng trị Bazin. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học vốn có giao tình khá thân với Nguyễn Văn Viên vì trước khi Việt Nam Quốc Dân Đảng chính thức thành hình, thì nhóm thanh niên yêu nước chung quanh Nguyễn Thái Học đã cùng nhau bí mật cho ra đời một tổ chức bí mật chống Pháp lấy tên là: " Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã " hồi cuối tháng 10 năm 1927. Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã chính là tiền Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau này. Nguyễn Văn Viên cũng có mặt trong Chi Bộ đó. Hai tháng sau, khi Chi Bộ Nam Đồng biến thành Tổng Bộ Quốc Dân Đảng thì Nguyễn Văn Viên mới nhận nhiệm vụ mới thuộc Thành Bộ Hà Nội, phụ trách vận động các tầng lớp công nhân.
Nghe Viên trình bày ý nguyện của mình và của đông đảo công nhân trong các nhà máy đòi trừng trị Bazin, đảng trưởng Nguyễn Thái Học và các ủy viên Tổng Bộ dứt khoác gạt đi ngay. Giết Bazin này sẽ có Bazin khác. Huống chi Việt Nam Quốc Dân Đảng đang trong thời kỳ hoạt động bí mật, không nên vọng động, gây sự chú ý cho mật thám Pháp. Nguyễn Thái Học nhắc lại bài học Nguyễn Khắc Cần của Việt Nam Quang Phục Hội 15 năm về trước mà các đồng chí dưới Thành Bộ như Viên có thể không còn nhớ. Đó là ngày 26 tháng 4 năm 1913, ở khu phố Tràng Tiền xa hoa vốn chỉ để cho Tây Đầm cư ngụ, thực khách đông đảo da số là lính Pháp, đang ăn uống trong nhà hàng thuộc khách sạn Con Gà Vàng (Coq d`Or), thì Nguyễn Khắc Cần, một đảng viên Việt Nam Phục Hội, quăng một trái tạc đạn vào đám lính viễn chinh ấy. Quả đạn chỉ giết được hai tên Pháp và một người Việt, nhưng mật thám Pháp bắt nhốt 254 người bị tình nghi, trong đó có Nguyễn Khắc Cần và sáu người nữa bị xử tử hình, kéo theo hàng loạt án tù giam và biệt xứ khác.
Nhắc lại kinh nghiệm cũ Nguyễn Thái Học bảo Viên:
- Mỗi năm, thực dân Pháp khai thác cao su ở nước ta, thu lợi cho chúng gần 310 triệu Phật lăng, mà tiền lương chúng trả cho công nhân chưa đầy 40 triệu! Tội bóc lột không chối cãi vào đâu được! Giết Bazin là đúng! Tuy nhiên, hiện nay đa số các đồng chí trong các cấp lãnh đạo của Đảng, đều nằm trong sổ bìa đen của mật thám Pháp. Chúng chỉ chờ cơ hội là ra tay bắt. Nay nếu ta vội giết Bazin thì sẽ tạo cớ cho thực dân Pháp khủng bố toàn diện. Vậy khuyên các đồng chí bình tâm để ra sức lo việc lớn. Bazin chẳng qua chỉ là một cành cây. Hễ cây đổ thì cành sẽ đổ theo!
Viên thất vọng chẳng biết nói sao, đứng sớ rớ một chút rồi chào từ giã. Đứng bên đảng trưởng Nguyễn Thái Học là ủy viên Hoàng Văn Đào, trước đây phụ trách vận động ở Thanh Hóa, mới được mời về tăng cường cấp trung ương. Anh nghiêm nghị nhắc Viên:
- Đó là lệnh Tổng Bộ. Đồng chí cần chấp hành!
Viên vâng dạ rồi lầm lũi trở về. Lệnh của đảng trưởng rõ ràng như thế, nhưng Viên lại tự vạch cho mình một hướng đi khác, nhất là xung quanh anh có khá đông đồng chí giục anh ra tay. Anh phải giết Bazin để đồgn bào và đồng chí tin tưởng vào sức mạnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Anh tự trấn an mình rằng anh hành động là vì Đảng chứ không phải vì cá nhân anh. Trong tâhm sâu, Viên cũng có chút "cạnh tranh" với Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội lúc này cũng tung cán bộ đi khắp nơi để vận động quần chúng. Cũng giống như quan điểm của Tổng Bộ, Viên không thù ghét Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội. Nhưng Viên thấy cần phải làm một cái gì nổi đình nổi đám để nâng cao uy tín của Quốc Dân Đảng. Ám sát toàn quyền Pie`rre Pasquier hoặc tổng giám đốc Nha Liêm Phóng Đông Dương Louis Martin thì vừa khó vừa phải chờ thời gian thuận tiện. Năm 1924, Phạm Hồng Thái đã từng quyết tâm giết toàn quyền Matial Henry Merlin tại Quảng Châu mà việc không thành, phải trầm mình tự tử. Suy đi nghĩ lại thì Viên chỉ thấy tên mộ phu Rene' Bazin là dễ trừng trị hơn cả! Giết hắn, sức mạnh của Quốc Dân Đảng sẽ tăng gấp bội!
Vì tin chắc như thế, cho nên dù đảng Nguyễn Thái Học không tán thành, Nguyễn Văn Viên vẫn cứ nhất định lặng lẽ tiến hành.
Từ hôm ấy, Minh không gặp lại Viên. Dòng đời lặng lẽ trôi, Minh cắm đầu viết lách trên căn gác nhỏ, dùng bút mực để phcụ vụ lý tưởng theo hướng đi của Đảng đã vạch ra, đồng thời cũng đễ có chút tiền độ nhật.
Một chiều tối cuối năm âm lịch Mậu Thìn, nhưng đã sang đầu tháng 2 dương lịch 1929, chỉ còn chưa đến mười ngày nữa là Tết, Minh ở tòa báo về, tạt vào quán nhỏ bên kia đường mua một gói thuốc Bastos vì anh vừa lãnh được món tiền nhuận bút mà chủ báo thiếu anh từ giữa năm. Nợ nần gì thì năm hết Tết đến người ta cũng cố thanh toán để khỏi mang theo cái xui sang năm mới. Minh kẹp tờ báo vào nách, bóc gói thuốc, vỗ ra một điếu gắn lên môi. Bên cạnh anh,xát góc cây bàng, có quầy nhỏ của ông thợ sửa mũ mà Minh quen biết đã nữa năm nay. Minh quay lại, khom người mời ông điếu thuốc, đồng thời tặng ông tờ báo cuối năm. Ông đưa cả hai tay đỡ lấy và nói theo thói quen:
- Thầy cho tôi xin! Mời thầy ngồi choi, uống cốc nước chè!
Minh gật đầu đáp:
- Vâng. Tôi lên buồng một tí rồi xuống ngay!
Minh băng qua đường, đẩy cành cửa nhỏ, lên gác, cất bớt tiền dưới đáy gương. Căn gác đìu hiu quạnh quẽ, quanh năm không dọn dẹp, lúc nào cũng ngổn ngang sách báo, từ mặt bàn, từ trên giường đến sàn gỗ ẩm. Minh đứng nhìn quanh một chút, tự hẹn sẽ dành một buổi quét dọn trước khi Tết đến. Rồi anh trở xuống, qua ngồi nói chuyện với ông thợ sửa mũ dưới gốc cây có tàn lá thấp bốn mùa che nắng.
Còn nhớ dạo mới dọn về khu phố này, ngày ngày từ trên gác trọ xách cặp ra cửa, Minh vẫn thấy ông thợ sửa mũ gật đầu chào anh bằng một cân thân tình:
- Thầy đi làm ạ!
Lúc đầu Minh không để ý chỉ xãgiao chào lại. Người có chữ nghĩa, làm việc văn phòng như Minh thời ấy rất hiếm, nên được xã hội trọng vọng gọi bằng "thầy", như "thầy thông", "thầy ký" v.v... Ngày ngày đứng trong cửa sổ căn gác ngó xuống đường, dù muốn dù không, Minh cũng phải nhìn ông ta ngồi trên chiếc ghế gỗ bên cạnh cái mũ len, nỉ, những chiếc nón cói màu trắng hoặc bọc vải kaki vàng nhạt khách đem tới sửa. Tuổi khoảng 40, mặt mũi khắc khổ, nước da xạm đen. Dáng người gầy gò và lưng hơi khòm có lẽ lao động vất vả từ nhỏ. Toàn thân ông chỉ được vầng trán khá cao và ánh mắt toát ra vẻ thông minh, tư lự. Bạn hàng xung quanh gọi ông là ông Sửu. Trẻ con thì kêu thẳng ông là Sửu què.
Nghề sửa mũ của ông Sửu chắc không khá, bởi khách hàng vào ra thưa thớt. Huống chi ông bị tật ở một chân, bước đi khập khiễng khó khăn. Một người tầm thường như thế đáng lý ra thì chỉ là một bóng mờ như bao người khác giữa phố phường, chẳng bao giờ được Minh chú ý. Nét đáng yêu duy nhất Minh thấy ở ông chỉ vì một lý do đơn giản là ông nói năn lễ phép. khác hẳn những người lao động chân tay mà Minh thường hay tiếp xúc, lúc nào cũng lạnh nhạt với Minh.
Một hôm Minh ghé quầy thuốc lá ngay bên cạnh quầy mũ của ông Sửu. Minh giật mình kinh ngạc thấy ông chăm chú đọc cuốn sách viết về tư tưởng Mạc Hữu Vy và Lương Khải Siêu do Nam Đồng Thư Xã ấn hành. Thời bấy giờ, người biết chữ còn rất hiếm, nhất là trong giới thợ thuyền. Huống chi loại sách này khô khan khó nuốt, khó nuốt, không phải để giải trí. Minh tiến lại gần và ngỏ lời làm quen:
- Ông đọc sách gì đấy? Xem xong cho tôi mựơn xem được không?
Ông Sửu vội buông cuốn sách, đứng dậy, niềm nở gật đầu chào Minh:
- Chào thầy, quyển này thì thầy còn lạ gì nữa mà phải mượn!...Thèm đọc báo mà chả có tiền mua, thành ra hễ khi nào vắng khách, tôi lại lôi quyển này ra xem! Mấy chục bện rồi đấy. Nhưng càng đọc càng thấy hay, thầy ạ!
Minh thân tình ngồi xuống chiếc ghế đẩu xát gốc cây, mời ông điếu thuốc và bảo:
- Ông thích đọc báo thì thỉnh thoảng tôi biếu ông một tờ.
Ông Sửu xuýt xoa đáp:
- Thầy có lòng như thế thì thật là quý hóa quá! Tôi nghe đồn thầy viết cả báo tiếng Tây!
Minh hân hoan đáp:
- Vâng, Nhưng thỉnh thoảng thôi! Ông có thích xem thì tôi biếu ông luôn!
- Thầy cho thứ nào, tôi cũng quý cả!
Thế là từ hôm ấy, Minh hay ra ngồi đàm đạo với ông Sửu. Sống thui thủi một mình, có thêm người bạn để hàn huyên cũng tốt. Hai người ngồi hút thuốc Bastos, uống trà mạn sen, nói đủ thứ chuyện nắng mưa, nhưng đôi bên cùng né tránh những đề tài quốc cấm bởi chưa ai tin ai cho tới hôm nay, sau nửa năm dè dặt, hai người đã khá thân nhau. Minh từ căn gác nhỏ chạy xuống, băng qua đường. Ông Sửu vội kéo ghế mời Minh ngồi rồi chuẩn bị gót trà trong bình htủy ra hai cái cốc như thường lệ. Nhưng Minh ngăn lại và vui vẻ bảo:
- Không! Hôm nay phải uống rượu ông Sửu ạ! Chè thì ngày nào chả uống! Tòa báo vừa cho lĩnh lương cuối năm!Mình tống rượu nghinh tân một hồi cho thỏa thích. Ông muốn nhắm rượu với thứ gì thì cứ tùy thích! Tôi đãi!
Ông Sửu từ tốn đáp:
- Thầy cho uống rượu thì tôi dạy gì từ chối. Nhất là năm hết Tết đến, uống để quên hết những vất vả trong năm qua! Nhưng hôm nay thầy cho tôi khất. Tại tôi có câu chuyện muốn thưa với thầy!
Nghe giọng nói nghiêm trang của ông Sửu, Minh tắt nụ cười, chớp mắt nhìn ông chờ. Anh lấy gói thuốc, chìa ra mời ông Sửu. Ông Sửu đưa hai tay kính cẩn đỡ lấy theo thối quen, gắn một điếu lên môi. Rồi ông trao Minh cái nón mũ nỉ cũ, bảo anh cầm lấy như một khách hàng đến thuê ông khâu nón. Ông hỏi bâng quơ:
- Năm nay thầy có định về quê ăn Tết không?
Minh lắc đầu:
- Công việc nhiều quá. Thư thư, ra Giêng này rộng tháng dài tôi mời về!
Để thiên hạ khỏi chú ý, ông Sửu lấy kim chỉ ra, vá một cái mũ nỉ đã bạc thếch. Ông vừa làm vừa nhỏ nhẹ kể:
- Đọc bài của thầy năm nay, biết thầy là người có chí hướng, tôi mới dám thố lộ tận tâm can...
Rồi ông cho Minh biết, trước đây ông từng tích cực hoạt động chống Pháp trong tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội. Ông bị Pháp bắt và tra tấn đến mấy năm, ra tù thì bị bại hẳn mtộ chân. Ông vỗ nhẹ bàn tay lên đầu gối mình rồi thở dài bảo:
- Dạo này đi lại cũng đã khá lắm. Chứ lúc mới ở tù ra, lê không nổi thầy ạ! Tôi cứ tưởng suốt đời phải ngồi một chỗ!
Minh tròn mắt nhìn ông cảm phục. Anh biết rõ: Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu thành lập ở Trung Hoa theo đường hướng cách mạng dân quốc của Tôn Dật Tiên, nhằm mục đích lật đổ thực dân Pháp. Nhưng Quang Phục Hội chưa làm được gì đáng kể thì đã bị Long Tế Quang ở Quảng Đông trở mặt đàn áp để làm vui lòng Pháp. Giờ đây, nhiều đoàn viên Quang Phục Hội đang lưu vong bên Tàu, nghe tin Quốc Dân Đảng thành hình, đã kéo nhau về gia nhập, đồng thời huấn luyện cho đội quân cảm tử tiên khởi cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chính vò thế, trong tim ông Sửu cũng như đa số đảng viên Quang Phục Hội, thì Quốc Dân Đảng là đoàn thể anh em, nhất là cụ Phan Bội Châu đã được Tổng Bộ Quốc Dân Đảng mời làm chủ tịch danh dự.
Minh ngồi thẳng lên, nhìn ông Sửu bằng cặp mắt đổi khác, vừa gần gũi vừa nể trọng. Minh cũng đã từng vào tù, nhưng tù học sinh vì tội rải truyền đơn ngày lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, mặt thám Pháp biết Minh không nằm trong tổ chức nào nên chỉ tát cho mấy cái rồi đem nhốt. Minh lại may mắn được lãnh ra sớm, kinh nghiệm chẳng có bao nhiêu để tự hào.
Ông Sửu mở nắp bình thủy, rót trà ra hai cốc tủy tinh cáu ghét, vàng như bôi nghệ. Ông trao cho Minh một cốc rồi nói:
- Mời thầy! Hôm nay, tôi pah loại trà đặc biệt. Thầy uống thử đi, chắc chắn sẽ thấy khác mọi khi!
Minh uống một hớp nhỏ, nhưng chẳng còn bụng dạ nào để quan tâm đến hương vị của tách trà. Anh đưa mắt nhìn quanh rồi hạ giọng hỏi ông Sửu một câu quan trọng:
- Từ ngày ấy tới giờ ông có còn...
Ông Sửu lắc đầu ngắt lời:
- Không thầy ạ. Tôi thành người tàn phế rồi, đâu có còn nhanh nhẹn như trước nữa! Què chân đã đành, mà ngực cứ như có người đè, nhất là những hôm trời trở rét!
Minh bùi ngùi nhìn ông tội nghiệp. Hai người cùng im lặng một chút. Rồi bỗng ông ngẩn đầu lên nhìn Minh, đột ngột hỏi nhỏ:
Còn thầy thấy thế nào? Thầy theo Thanh Niên Cách Mệnh hay Quốc Dân Đảng?
Minh giật mình trố mắt nhìn ông, rồi ngó quanh dù biết chẳng có ai rình rập, trừ lũ trẻ con đánh đáo bên cạnh luôn mồm la hét inh ỏi, Minh lắc đầu nói nhỏ:
- Tôi chỉ viết báo thôi chứ đâu có theo tổ chức nào đâu?
Ông Sửu nghiêm mặt trách:
- Vậy là thầy vẫn giấu tôi! Thầy giấu tôi tức là thầy chưa tin tôi, dù tôi đã kể cho thầy nghe những năm hoạt động của tôi trước đây!
Im lặng một chút, Minh đành thú nhận:
- Vâng. Thú thật với ông: Tôi theo Quốc Dân Đảng! Nhưng sao ông biết mà hỏi? Ông tài thật!
Ông Sửu đăm chiêu nói:
- Tôi nghe bảo cánh trí thức trẻ nhất, nhất là giới nhà báo, đều đứng vào Qucố Dân Đảng cả, phải không thầy?
Minh gật đầu đồng ý. Ông Sửu kể ra danh tánh một số thanh niên tân học trong giới cầm bút cũng như giới nhà giáo rồi hỏi Minh:
- Họ cũng theo Quốc Dân Đảng cả phải không thầy?
Minh gật đầu:
- Vâng! Các anh ấy được kết nạp trước tôi!
Ông Sửu lại hỏi:
- Họ có biết thầy theo Quốc Dân Đảng khôgn?
Minh nhấn mạnh:
- Có chứ! Chúng tôi vẫn liên lạc với nhau mà
Nói dứt câu ấy, Minh cảm thấy bắt đầu bựt bội vì dường như ông Sửu đang cật vấn mình. Ông là cái gì mà ông có quyền hỏi ông những câu tỉ mỉ như thế? Ông chỉ là một kẻ cùng đinh ngồi khâu mũ bên đường, được Minh hạ cố làm quen là quý lắm rồi, sao lại dám đi quá sâu vào chuyện hoạt động của Minh! Người ta nói không sai: Rõ ràng là được đằng chân lên đằng đầu! Thân nhau quá rồi đâm ra lờn mặt!
Mà chẳng phải Minh chỉ bực bội với ông Sửu, anh bực luôn với chính anh bởi vì trong một lúc cạn nghĩ mà anh đã trả lời những câu hỏi mà đáng lẽ anh không được nói ra dù với một người chí thân. Huống chi ông Sửu chỉ là một người mới quen trên đường phố, đã biết tông tích nhà cửa của nó đâu mà kể lễ chuyện hoạt động của mình! Minh đã bất cẩn quy phạm nguyên tắc của Đảng. Anh toan lên tiếng thì ông Sửu thở dài bảo:
- Tôi nói cái này không phải thầy bỏ qua cho tôi! Thầy là người học rộng hiểu nhiều, đáng lẽ ra tôi chẳng dám đánh trống qua cửa nhà sấm. Nhưng vì quý thầy, tôi mới dám mạo muội thưa thật với thầy một điều...
Minh xua tay ngắt lời:
- Không dám! Không dám! Xin ông cứ nói!
Ông Sửu buông kim chỉ, bưng cốc nước trong tay, nhưng không đưa lên miệng. Ông xoay xoay cai cốc rồi tha thiết bảo:
Tôi chỉ là đứa khâu mũ ở lề đường mà tôi còn biết thầy theo hội kín, thì huống chi là mật thám Pháp! Nói dại, giả sử tôi là tay sai của mật thám Pháp thì thầy làm thế nào mà thoát được? Thầy chưa vào tù, thầy chưa biết cái tàn ác của tụi nó như thế nào!
Minh giật thót người vì những lời trách cứ của ông Sửu. Phản ứng tự nhiên khiến anh hoảng hốt nhìn quanh tứ phía. Giờ này, nghe ông Sửu nói, anh mới chợt nhận ra mình quá sơ hở, coi chuyện quốc sự như một trò đùa với tử thần. Ông Sửu lại tiếp:
- Tay hại nhất là thầy biết quá nhiều! Thầy biết rõ những ai theo Quốc Dân Đảng. Như thế thì nguy hiểm quá! Vì chỉ cần một người bị bắt, Tây nó đánh đập, thì sẽ khia ra hết! Tôi đã đi tù, tôi biết! không phải ai cũng chịu nổi những tra tấn cực hình của thực dân Pháp!
Ngưng một chút để suy nghĩ, ông Sửu lại nói thêm:
- Đúng ra một đảng viên thì chỉ được quyền biết vài người sinh hoạt cùng tổ đảng với mình mà thôi, chứ không được biết những người ngoài tổ đảng của mình. Càng biết nhiều thì càng làm hại cho tổ chức!
Minh choáng váng ngồi im, tay run run đưa điếu thuốc lên môi. Sự phát triển ồ ạt của Đảng trong năm qua, quả thật không tránh khỏi được khuyết điểm. Xưa nay chưa hề có một Đảng cách mạng nào còn trong vòng bí mật mà có sức thu hút quần chúng mãnh liệt như Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ trong vòng một năm, khắp cả miền Bắc, hầu như tỉnh nào cũng có hình dáng của Đảng, mạnh nhất là cùng châu thổ sông Hồng, sông Mã. Người ta chỉ nghe mơ hồ chủ nghĩa Tam Dân, noi theo bước chân của những nhà cách mạng Trung Hoa, dù chưa hiểu rõ Tam Dân là cái gì mà đủ mọi tầng lớp vẫn nức lòng gia nhập, bất chấp mọi nguy hiểm. Thế mới biết cái nhu cầu đuổi ngoại xâm đã đến lúc chín mùi, cái lòng yêu nước từ lâu vẫn cháy âm ỉ, chỉ chờ cơ hội để mọi người cùng bày tỏ. Trong lịch sử, có lẽ chưa có tổ chức cách mạng nào dáy lên được phong trào ái quốc nòng cháy và mau chóng như Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ có điều, sự bồng bột của tuổi trẻ làm cho những người như Minh không nghĩ xa, cho đến nay nghe ông Sửu phân tích, anh mới giật mình tự kiểm! Cái ngang tàn thì Minh có thừa, bởi tự một mình chống lại tất cả các hương chức trong làng Hải Ninh để bênh vực người đàn bà cô thế. Nhưng cái ngang tàn ấy, khi Minh chưa đứng vào tổ chức nào, thì dù có gây tác hại, cũng chỉ một mình Minh chịu thiệt thòi. Còn giờ đây khi Minh đã là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì phải gạt bỏ cái anh chủ trương anh hùng cá nhân để khép mình vào kỷ luật.Bởi đúng như ông Sửu nói, một đảng viên bị bắt, có thể làm vỡ cả một mạng lưới của Đảng!
Minh hoang mang nhìn mông lung ra đường, nghe rõ tim mình đập thình thịch vì sợ hãi. Ông Sửu lại nói:
- Thầy tưởng mật thám Pháp không biết Khách Sạn Việt Nam chổ vãng lai của Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng hay sao? Người của chúng nó cài đầy ở đấy, chỉ rình cơ hội để giăng một mẻ lưới bắt trọn ổ. Thầy nên cẩn thận! Chỉ một sơ hở là đại sự có thể hỏng hết!
Minh buông cái mũ đứng dậy, thất thiểu băng ngang qua đường, quên cả chào từ giã. Anh thơ thẩn leo lên gác, khép cửa gài then trong, rồi ngồi phịch xuống giường. Trời đã nhá nhem tối, Minh thọc tay vào túi tìm hợp diêm thắp đèn. Bỗng có tiếng bước chân leo lên thang gác. Minh hồi hợp đứng bật dậy chờ đợi. Giờ này anh mới biết sợ. Cứ như lời ông Sửu vừa cảnh giác, thì mật thám Pháp có thể ập lên bắt anh bất cứ lúc nào vì chắc chắn chúng biết anh có chân trong hội kín. Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Minh thở phào nhẹ nhõm vì biết là người quen. Nếu là mật thám, chúng đã đạp cửa xông vào chứ không gõ nhẹ như vậy. Minh tiến lại, lên tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Bên ngoài có tiếng đáp:
- Mở cửa Minh ơi! Tôi đây! Viên đây!
Minh tháo then ngang, đẩy rộng cánh cửa gỗ.Người đồng chí ở Thành Bộ tiến vào, dẫn theo một thanh niên mặt bộ đồ kaki cũ mà Minh chưa gặp bao giờ. Bị ám ảnh bởi lời nhắc nhở của ông Sửu, kể từ lúc này, Minh gặp bất cứ người lạ nào cũng phải dè dặt vì sợ là tay sai của mật thám gài bẫy. Biết ý Minh, Viên vội giới thiệu với Minh:
- Đây là anh Lân, phụ trách chi đoàn công nhân của Thành Bộ cùng với tôi.
Hai người bắt tay nhai. Minh chỉ cái giường nhỏ của mình và bảo:
- Mời hai anh ngồi tạm để tôi pha nước!
Viên gạt đi:
Nước nôi gì! Tôi vội lắm. Tờ truyền đơn hôm nọ tôi nhờ cậu thảo, đã xong chưa? Xong thì tôi phải cho in ngay mới kịp!
Minh đáp:
Xong lâu rồi. Tôi cố ý chờ mà chờ mãi mà chẳng thấy anh đến lấy!
- Vừa nói, Minh vừa cúi xuống gầm giường, kéo cái gương gỗ ra, lục sâu dưới đáy, mang ra trang giấy viết tay đưa cho Viên. Viên gấp nhỏ, gấp vào túi quần rồi bắt tay từ giã, kéo Lân xuống thang gác.
Minh khép cửa rồi châm đèn. Ngẫm nghĩ một lúc, Minh lại nhớ tới lời ông Sửu và tự dưng lo sợ vẩn vơ. Nói dại! Ngộ nhỡ Viên bị bắt, mật thám moi được tờ truyền đơn trong túi và biết tác giả là Minh...Anh không dám nghĩ thêm. Ông Sửu nói đúng, chỉ cần một sơ hở thôi, Đảng có thể đối diện với nguy cơ bị tan rã. Minh tiến lại nhìn qua cửa sổ ngó xuống đường. Gió cuối năm se lạnh. Từng đám lá khô xào xạc lăn trên mặt đường. Dưới ánh đèn mờ, anh thấy ông Sửu đã bắt đầu thu dọn quầy hàng, chuẩn bị ra về. Anh đứng một lúc rồi quay vào, mệt mỏi buông mình xuống giường vàa nhắm mắt lại.
Sáng hôm sau, Minh dậy sớm, đôn đáo chạy đi tìm Viên. Suốt đêm qua, Minh không ngủ được vì nhớ tới âm mưu của Viên nhất định đòi thanh toán Bazin. Anh phải ngăn cản trước khi quá muộn. Việc giết Bazin chắc sẽ là ngòi nổ để thực dân tấn công Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Lùng khắp nơi không gặp Viên, bất đắc dĩ Minh phải đến khách sạn Việt Nam ở phố Hàng Bông Đệm để báo cáo lên Tổng Bộ toan tính quan trọng của Viên. Bước vào hotel, Minh thấy Doãn, người thư ký trẻ đứng sau quầy tiếp khách, chúi đầu trước cuốn sổ bìa cứng. Doãn là bí danh của Đặng Trần Nghiệp mà các đồng chí thường gọi là Ký Con. Từ khi vào Quốc Dân Đảng, Doãn đổi họ Đặng thành họ Đoàn để tránh liên lụy cho gia đình.
Minh tiến vào chào Doãn, ngõ ý xin gặp lãnh đạo Tổng Bộ. Lúc ấy không có Nguyễn Thái Học ở đó. Một ủy viên trung ương ra tiếp Minh, dẫn anh đi dọc theo Ngõ Tạm Thương bên hông khách sạn. Minh đi thẳng vào vấn đề, khai rõ ý định giết Rene' Bazin của Viên. Nhưng Viên chưa nói hết câu đồng chí lãnh đạo đã quay sang trấn an:
- Tổng Bộ biết chuyện ấy. Đồng chí Viên có xin lệnh Tổng Bộ. Nhưng chính đảng trưởng không cho phép. Nói chung, cả Tổng Bộ đều không tán thành! Bứt dây động rừng! Giết Bazin không có lợi gì cả!
Minh thở phào nhẹ nhõm, an lòng trở về nhà. Nhìn ông Sửu ngồi khâu mũ bên kia đường, anh thầm cảm ơn lời nhắc nhở của ông và hơn lúc nào hết, anh thấy mình còn quá non dại. Khắp nơi trên đất nước, biết bao nhiêu người đã hy sinh thân minh vì lý tưởng độc lập. Bao nhiêu người bị tra tấn dã man như ông Sửu. Bao nhiêu người đã âm thầm ngã xuống mà chẳng ai biết đến! Họ là hàng trăm, hàng ngàn viên gạch lót đường cho cuộc cách mạng giành độc lập cho đất nước sau này.
Thời ấy, bất cứ ai dấn thân vào đường tranh đấu đều biết đến sự hung tàn của những tên thực dân khác máu như Louis Marty, giám đốc Surete' Ge'ne'rale ( tổng cục an ninh) mà người Việt thường gọi là Sở Liêm Phóng hay Sở Mật Thám Đông Dương. Louis Marty là tay thực dân dày dạn kinh nghiệm về truy lùng và tra tấn, từng phục vụ qua mấy đời toàn quyền, từ Albert Sarraut cho đến Pie`rre Pasquier. Dưới trướng Marty là những tên sắt máu vô luân mà dân Bắc Kỳ nghe tới tên là khiếp vía, chắng hạn như Tổng Giám Đốc Công An Bắc KỳArnuox Patrick, Chánh Thanh Tra chính trị Jules Brides, hợp cùng Eckert và Delamare, được dân gian xếp thành bộ "tứ ác" đối với tội phạm chính trị Miền Bắc thời ấy. Cộng thêm với nỗi ghê rợn của cai tù Hỏa Lò Hà Nội, bút mựt không đủ sức mô tả nỗi.
Biết thế, nhưng lòng yêu nước thúc đẩy, hàng hàng lớp lớp thanh niên thiếu nữ vẫn lao vào lớp sóng đấu tranh, bất chấp mọi thử thách.
Những ngày cuối năm qua đi không biến động. Không khí đón xuân vẫn tràn ngập khắp thủ đô với bánh mứt, hoa đào và pháo đỏ như thường lệ. Riêng khu Khâm Thiên nơi Minh trú ngụ thì càng cận Tết thì càng hiện rõ nét đìu hiu. Khâm Thiên vốn là vùng đất mới, nhà cửa còn thưa thớt, đèn điện chưa bắt tới, sinh hoạt nổi bật nhất vẫn là những nhà hát cô đầu. Tử ngày Minh về đây, lâu lâu vẫn chứng kiến những cảnh ghen tuông, vợ ở dưới quê lên chửi rủa nhà chứa rồi xong vào lôi chồng về, nhất là về để đón Tết! Năm 1927, nhà hát Vĩnh Lạc khai trương, mái tranh vách lá, ghế ngồi là những ống tre kết vào nhau. Sơ sài thế nhưng cũng tạo được niềm vui buổi tối cho người bình dân.
Nhờ khung cảnh nghèo nàn, đại đa số là dân cư ngụ, Khâm Thiên được coi là địa thế thuận lợi nhất cho các đoàn thể chính trị bí mật vì giá thuê nhà rẻ, lại ít mật thám để ý. Trong ba năm từ 1927 đến 1930, cả ba nhóm cách mạng Tân Việt, Cộng Sản cũng như Quốc Dân Đảng, đều có những điểm hẹn thường xuyên tại vùng đất này.
Ngày tiễn ông Táo về trời, Minh ra chợ Đông Xuân nhìn người qua lại tấp nập, nhân tiện sắm ít thực dụng cho ba ngày Tết bởi anh biết căn gác trọ đơn giản của anh thể nào cũng có người đến thăm trong buổi đầu năm. Anh mua thêm cặp bánh chưng và gói mứt sen tặng ông Sửu rồi hai người ngồi uống trà cho tới khi phố lên đèn. Ông Sửu bảo:
- Tôi sống một mình, thành ra Tết nhất cũng giống như ngày thường! Chứ như người ta, hôm nay là phải dọn cỗ cúng ông Táo, đưa ông Táo lên trời để bẩm báo với Ngọc Hoàng!
Minh gật đầu:
- Vâng! Mẹ tôi thì cứ hai ba tháng chạp là phải mua con cá chép sống, thả xuống ao!
Ông Sửu gật đầu:
- Thì đúng rồi! Đưa ông Táo thì phải đưa bằng cá chép sống. Vì tục truyền rằng, tất cả các loài tôm cá khi vượt vũ môn thì chỉ có cá chép mới vượt được để biến thành rồng, gọi là cá hóa long!
Ngừng một chút, ông tiếp:
- Sắp sang năm con rắn, đi vào tam hợp Tỵ, Dậu, Sửu, may ra thì tôi khá hơn! Hình như có điềm báo trước thầy ạ. Là vì sáng hôm qua, tôi vừa mới chui ra thì thấy ngay một con rắn to bò ngàng trước cửa! Thầy có nghe các cụ thường bảo: " Khi đi gặp rắn thì may. Khi về gặp rắn thì hay bị đòn!"
Hia người cô đơn tiếp tục nói đủ thứ chuyện, nhưng đều tránh nhắc đến nỗi lo sợ mật thám để đỡ bận tâm khi năm cùng tháng tận. Một gã đội xếp lững thững đi trên lề đường phía bên kai, vô tình đưa mắt nhìn sang quầy của ông Sửu làm ông vội lấy cái mũ cũ trao cho Minh. Chờ gã đi xa, ông mới hạ giọng nói nhỏ:
- Hôm nọ, tôi có lạm bàn với thầy về Việt Nam Quốc Dân Đảng và nhắc thầy phải cẩn thận, chắc hẳn thầy còn nhớ. Thú thật với thầy, đối với tôi, sự ra đời của Quốc Dân Đảng thật sự là quan trọng trong giai đoạn này. Là vì mới đây tôi được biết, Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội đã đi theo hẵn con đường của Liên Bang Xô Viết, tức là họ chủ trương cách mạng quốc tế. Đất nước ta cần phải có một chỗ đứng cho những người làm cách mạng quốc gai. Quốc Dân Đảng chính là đoàn thể ấy. Chẳng hạn mộ số đồng chí cũ của tôi trước đây theo Quang Phục Hội, bây giờ đang hoạt động cho Quốc Dân Đảng. Bởi dậy, nếu chẳng may Quốc Dân Đảng bị Pháp tiêu diệt thì những người muốn làm cách mạng quốc gia sẽ không còn đất dụng võ nữa! Chừng ấy, hoặc là họ sẽ hợp tác với Pháp, hoặc nếu căm thù Pháp quá, thì họ sẽ đứng về phía những người vô sản, bởi không còn đoàn thể nào khác!... Thầy là người đọc rộng biết nhiều, tôi nói thế chắc thầy hiểu!
Minh gật đầu:
- Tôi biết!
Tuy miệng nói thế, thật ra trong lòng Minh rất kinh ngạc về tầm nhìn xa của ông Sửu. Ông nói rất đúng: Hiện nay chỉ còn hai tổ chức chống Pháp mà rõ ràng Quốc Dân Đảng đang được quần chúng náo nức gia nhập. Duy có điều là Minh khong hề mang ác cảm đối với Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, bởi chưa thấy các đồng chí lãnh đạo Quốc Dân Đảng tỏ thái độ bất hòa đó bao giờ. Chẳng những thế, đảng trưởng Nguyễn Thái Học còn luôn luôn muốn kết hợp để cùng đấu tranh lật đổ bạo quyền Pháp. Có lẽ ông Sửu vì mang nặng mối thù từ Quảng Châu khi cụ Phan Bội Châu bị Nguyễn Ái Quốc bán đứng cho Pháp, nên ông cũng muốn tuyên truyền để Minh cùng ghét Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội như ông! Với ông lúc này thì làm sao duy trì được Đảng để chờ ngày tổng khởi nghĩa, đó mới là vấn đề! Minh ngẫm nghĩ rồi đổi đề tài bảo:
- Tết, ông có buồn thì lại chơi với tôi!
Ông Sửu lắc đầu cười:
- Thầy đi với tôi thì hay hơn! Đi đánh tam cúc với tôi. Lại nhà cô em tôi. Ông bà cụ tôi quy tiên cả, tôi chỉ còn mình nó! Chồng nó quý tôi lắm. Được thầy hạ cố đến chơi, vợ chồng nó mừng phải biết! Đến đấy ba ngày Tết, chỉ ăn cỗ, uống rượu rồi đánh tam cúc. Đánh bất cũng thú lắm! Đánh còm thôi, vui chơi ba ngày xuân! Chứ thầy cứ nằm mãi trên gác làm gì cho nó mụ người ra!
Minh vui vẻ gật đầu:
- Vâng! Ông có lòng như thế thì quý quá! Vậy mình hẹn nhau chiều mùng hai Tết ông nhé! Tôi sẽ lại tìm ông!
Ông Sửu ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại mùng hai! Mùng một thầy bận ư?
Minh lắc đầu cười:
- Tôi một thân một mình, có phải đi mừng tuổi ai đâu mà bận! Nhưng tôi sợ ông bận ấy chứ! Thế nào ông chả phải đi chúc tết chỗ này chỗ kia. Ông thu xếp hết vào ngày mùng một đi. Rồi mùng hai, mùng ba, tôi đến chơi với ông.
Ông Sửu nhấn mạnh:
- Các cụ bảo: Mùng một ăn tết ở nhà. Mùng hai nhà vợ, mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy, cho nên tôi chả phải mừng tuổi ai cả! Sáng mùng một, thầy cứ lại thẳng đằng tôi. Nhớ sáng mùng một thầy nhé. Tôi chờ!
Minh khẽ gật đầu. Câu ca dao ông Sửu vừa đọc làm Minh bỗng tha thiết nhớ đến những cái Tết ở Hải Ninh trước đây. Hai ngày đầu đi mừng tuổi họ hàng thân thích, rồi mùng ba thể nào cũng qua nhà thầy Lương, kình cẩn chúc tuổi thầy để được ngồi lại ăn bánh mứt và ra sân chơi với chị em Duyên. Thời gian trôi nhanh, Duyên cứ mỗi năm một lớn và càng lớn thì càng e thẹn, khác hẳn những ngày Minh còn ngồi học chữ Nho tại nhà Duyên, thoải mái xưng hô "mày, tao" khi rủ Duyên đi bắt cá cuống ở bờ ao. Minh nhớ những hôm nghĩ học, Minh hay cùng Tân và hai cô em gái, hồn nhiên đi trên khắp các nẻo đường làng. Mỗi khi Tân nóng nảy Mắng các em thì Minh lại lăn vào bênh vực!
Giờ này thì cái dĩ vãng tuổi thơ ấy đã đi quá nhanh. Tân đã nằm xuống và dĩ nhiên Minh biết Tân hoạt động cho Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội của Nguyễn Ái Quốc. Minh chỉ không ngờ hai cô gái hiền lành và nhút nhát như chị em Hậu, cũng có cái hùng khí của tuổi trẻ nhiệt huyết, sẵn sàng thoát ly khỏi gia đình vì lý tưởng độc lập!
Nghĩ miên man về quẹ nhà trong đêm cuối năm, Minh bất chợt mỉm cười vì nhớ đến Lụa, người đàn bà trẻ lỡ làng mà Minh từng đứng ra chống đỡ giùm ở sân đình. Đến giớ này, mỗi lần nghĩ lại, Minh vẫn ngầm hãnh diện về việc làm ấy vì anh biết dân làng vẫn dành cho anh sự cảm phục hiếm thấy bởi anh dám đơn thân độc mã phá vỡ bức tường hủ tục từ ngàn đời. Duy có điều cũng từ dạo ấy, mỗi lần về làng, Minh cứ phải tránh né Lụa vì Lụa hay tìm gặp, biếu xén quà cáp để tạ ơn. Lụa vẫn còn xinh xắn lắm, mà dường như ăn nên làm ra. hoặc có người bí mật chu cấp, nên áo quần bỗng tơm tất hơn nhiều. Căn nhà nhỏ mái tranh đất xiêu vẹo của Lụa cũng mới được lợp lại, càng gây thắc mắc hơn cho dân làng hiếu kỳ. Bà Truyền luôn miệng nhắc nhở Minh:
- Này! Mẹ bảo thật! Chớ có dạy mà léng phéng với con gáy ấy! Con là người có ăn học. Còn nó, chẳng qua cũng chỉ là thứ mèo mả gà đồng, ai tấp vào cũng được! Đừng có để mang tiếng, con nhé!
Mỗi lần nghe mẹ cảnh cáo, Minh chỉ cười bởi mẹ anh đang dặn những điều thừa thãi. Chính bản thân Minh cũng phải giữ gìn cho bản thân để tránh mọi sự ngờ vực của thiên hạ vốn lắm điều. Anh mà yếu lòng dan díu với Lụa thì việc anh bênh vực Lụa ở sân đình có còn ý nghĩa gì nữa đâu!
Riêng ông phó lý Phúc, chú của Minh, tuổi mới ngoài 40, hễ gặp Minh thì lôi ra ngay một góc vắng, tò mò hỏi có một câu:
- Thế cháu có biết đứa nào nó ngủ với cái Lụa không?
Nhìn nét mặt đau khổ của ông chú, Minh toan phì cười, nhưng anh cố nhịn. Dù sao thì ông đã là cái dù che chở cho anh trong cuộc đấu khẩu ở sân đình. Minh lắc đầu:
- Thư a chú, không!
Ông chú nhìn thằng cháu ngạc nhiên:
- Cái Lụa nó không cho cháu biết hay sao?
- Thưa, cô ấy chả nói, mà cháu cũng chả hỏi!
Ông chú gắt nhẹ:
- Sao không hỏi nó?
- Hỏi làm gì hả chú?
Ông chú bứt rứt khó chịu, nhăn mặt đáp:
Ơ hay! Hỏi làm gì à! Phải hỏi cho biết chứ lị! Để thế thì người này cứ nghi ngờ người kia, lôi thôi lắm!
Ông Phúc nói đúng. Đứa con của Lụa là một nghi vấn lớn trong làng Hải Ninh. Mỗi lần Lụa bế nó đi ngoài đường, người ta cứ đăm đăm nhìn mặt nó xem nó giống ai! Rồi đoán già đoán non, gán cho ông này ông nọ, lắm khi cãi nhau vì ngờ vực! Ông Phúc tha thiết dặn Minh:
- Bận sau, hễ găp cái Lụa, cháu nhớ hỏi xem bố đứa bé là ai? Cháu hỏi thì thế nào cái Lụa nó cũng nói vì nó nể mặt cháu!
Minh cười xòa:
- Vâng, cháu hỏi thì thế nào chị ấy cũng nói thật. Nhưng cháu chắc chả hỏi đâu!...
Ngừng một chút, Minh nghiêm trang tiếp:
- Duy có điều cháu thấy là, hình như đứa bé ấy có nét hao hao giống chú!
Ông Phúc mắng:
Cái mồm mày! Chỉ ăn nói lăng nhăng! Tao mà thèm cái thứ ấy hay sao!
Năm nay không về được, ngồi trên hè phố nhìn người qua lại đón Xuân, Minh thấy nao nao những kỷ niệm quê nhà, những bóng dáng thân yêu, mới đây thôi mà tưởng chừng như đã lâu lắm! Anh định sáng mùng 1 Tết sẽ đến nhà bà dì ở phố Hàng Bạc cho phải phép.
Rồi sau đó, dành hết những ngày xuân còn lại cui chơi với ông Sửu.
Minh uống cạn tách trà rồi đứng dậy chào ông Sửu, băng qua đường, leo lên gác căn trọ, Minh lại trở về ngay với nỗi cô đơn. Anh thấy đêm nay quạnh hiu lạ thường, làm anh ra riết nhớ đến cái Tết ở quê nhà. Giờ này, gia đình Minh ở Hải Ninh chắc hẳn đang quây quần nấu bánh chưng và ông bà Truyền tránh sao khỏi rơi lệ khi cả nhà cùng nhắc đến Minh. Minh thở dài cởi áo quăng lên mặt bàn, cái bàn gỗ mộc quanh năm chất đầy các loại báo: La Jeune Indocine của Vũ Đình Ly, La Tutte của Tạ Thu Thâu, La Tribune Indochinoise của Bùi Quang Chiêu, Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng v.v... Minh ra sau múc thau nước rửa mặt rồi quay vào, lên giường, buông mùng nằm. Khá lâu không được ngủ, anh lại ngồi lên, bước xuống, đốt thuốc lá và đứng trong cửa sổ trông ra. Con đường khuya thưa thớt người qua lại. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy một gã đội xếp đạp xe thong thả đi tuần đêm dưới ánh đèn mờ nhạt trong hơi sương.
Buổi trưa hôm 26 Tết, Minh đang ngồi chơi với ông Sửu, nghe ông say sưa bàn về cái thú rút bất và đánh tam cúc ngày đầu năm thì có khách tìm đến. Thoáng thấy có người quen đứng lớ ngớ trước cửa, Minh vội cáo lỗi và chạy qua đường đón khách. Minh mời khách lên gác. Nhưng khách không lên mà rủ Minh đi tìm một nơi khác. Đó là ông Vương Luân, một nhà báo đàn anh xuất thân từ Nam Phong tạp chí mà giới viết lách thường gọi đùa là " Khâm Thiên công tử". Vương Luân có cái tên ấy là vì ông quá mê cái thú cô đầu, bao nhiêu tiến kiếm được đều đổ vào gần hết cho các nhà hát. Với Minh, ông là một người ơn, vì ông từng chỉ dạy cho Minh rất nhiều điều trong nghề cầm bút, nên Ming thường bắt chước truyện Tàu, kêu ông bằng " tiên sinh " để tỏ ý trọng vọng. Nói đúng ra thì ông hơn Minh đến gần 10 tuổi, xưng hô như thế cũng là đúng mức, Minh hỏi:
- Tiên sinh định đưa đệ đi đâu hôm nay?
Vương Luân cười thoải mái:
- Cứ đi! Cuối năm phải giải sầu để quên hết chyện năm cũ!
Minh cười hỏi lại:
- Giải sầu thì chỉ có uống rượu thôi! Dục phá thành sầu duy hưu tửu? Phải không tiên sinh?
Vương Luân thọc tay vào túi áo, lôi ra bao thuốc. Ông thích mặc Âu phục nhưng hình như chỉ có một bộ, vì lần nào gặp ông, Minh cũng thấy cái áo sơ mi trắng đục và cái quần tây vàng đã bạc phếch hai đầu gối. Ông chìa bao thuốc Cho Minh rồi bảo:
- Cậu biết tôi có biệt danh là Khâm Thiên công tử! Như thế thì cái thú của tôi đâu phải là uống rượu!
Minh đốt thuốc rồi gật đầu đáp:
- Đệ nói đùa tiên sinh đó thôi! Chứ ai chả biết tiên sinh chỉ mê thú ả đào. Đệ vẫn nghe tiên sinh ngâm thơ Tú Xương. Nghe mãi rồi đệ cũng thuộc:
Nhân sinh quý thích chí
Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu
Khi vui chơi năm ba ả ngồi hầu
Chén rượu cúc đánh chầu đôi ba tiếng!
Vương Luân hếch mặt ra về hãnh diện về cái sở thích tao nhã của mình rồi lắc đầu trách Minh:
- Cậu không thích ả đầu thì thuê nhà ở xóm Khâm Thiên này làm gì?
Minh cãi:
- Tại tiên sinh ở xa, tiên sinh mới thích. Chứ giá như tiên sinh dọn về khu này ở với đệ, suốt ngày phải nom thấy các cô đào hát đi gánh nước, hoặc lắm khi nghe các cô đánh xé nhau, thì biết đâu tiên sinh lại chán ngay!
Vương Luân cười xòa rồi lên tiếng giục:
- Hẵng cứ biết thế! Năm cùng tháng tận, đi nghe hát một chầu đã!
Hai người thả bộ leo lề phố. Bên kia đường, ông Sửu nhìn sang theo dõi và an lòng vì ông cũng biết Vương Luân là người vô hại. Vô hại bởi Vương Luân tuy là đệ tử của Phạm Quỳnh, nhưng hoàn toàn hững hờ vế chính trị, không theo Tây mà cũng chẳng thù Tây. Hễ có tiền thì chỉ nghĩ đến khu Khâm Thiên mà thôi.
Hôm nay ở tòa báo về, Vương Luân muốn ghé thăm cô đào My õđể cùng cô tống cựu nghinh tân giã từ năm cũ, tạm quên bà vợ quê mùa và bốn đứa con nhỏ đang ngóng cổ chờ ông mang một món tiền nhuận bút ít ỏi về sắm Tết. Ông tạt vào rủ Minh, bởi nhà hát chỉ cách gác trọ của Minh chỉ có mấy chục thước. Điểm đáng quý ở ông mà bạn bè mà ai cũng thấy, là tiền bạc ông rất dè xẻng với vợ con, nhưng lại rất rộng rãi với người ngoài, nhất là phụ nữ!
Cái thú ả đào thì Minh không say mê lắm, mặc dù anh vẫn thường nghe các đàn anh ca ngợi, trong đó có cả Nhượng Tống màMinh rất nể về văn tài. Không mê, nhưng Vương Luân đã hạ cố mà rủ thì Minh không bao giờ dám từ khước!
Nhà hát cuối năm đang ế khách nên hai người được đón tiếp rất nồng nhiệt, nhất là Khâm Thiên công tử chi tiền rất hào phóng. Trong khi chờ thầy đàn đến, chủ nhà mang bánh mứt và chai rượu ra mời khách rồi trao cho cái trống chầu cho Vương Luân. Lần đầu tiên Minh chú ý đến cô đào Mỹ, ngôi sao nổi bật ở đây mà nhà báo đàn anh đang cực kỳ say đắm. Đào Mỹ tuổi đôi mươi, nhan sắc đang đương độ sung mãn, kề cận bên cạnh Khâm Thiên công tử, nói cười vừa phải để làm duyên, tay bưng nước rót hết mực lễ độ làm ông nhà báo chứa chan xúc cảm. Cũng như bao nhiêu khách vãng lai, ông đến đây vì thèm câu thơ giọng hát, thèm ánh mắt đưa tình, bàn tay vuốt ve âu yếm, giúp ông quên cuộc đời thực tế với gánh nặng của một gia đình đông con. Giá không có đôi tay tần tảo của bà vợ nhà quê thì đàn con bốn đứa cảu ông đã bị gậy đi ăn xin từ lâu rồi, bởi lương nhà báo chẳng có bao nhiêu mà rất hiếm khi ông ôm về cho vợ. Ấy vậy mà lắm khi ông đã từng lãng mạng nghĩ đến chuyện xoay xở tiền để chuộc cô đào Mỹ về làm vợ lẽ. Ông nhà báo đa cảm, mà chị em đào hát thì mỗi người một cảnh ngộ éo le, ai cũng cho biết là bất đắc dĩ lắm mới chọn nghề này, do định mệnh ác nghiệt đưa đẩy. Nghe chuyện đào Mỹ bị ông bố toa rập với dì ghẻ hành hạ trăm phần cơ cực, phải bỏ nhà lao vào đây làm nghề đào hát, Vương Luân rơi nước mắt vỗ về, rồi hứa hẹn sẽ kiếm tiền chuộc cô về, thuê nhà cho ở riêng! Hứa vậy thôi chứ đó là chuyện đội đá vá trời, ốc còn không tha nổi mình ốc, ông xoay đâu ra tiền mà đòi vung tay nghĩa hiệp, cứu người lầm than!
Minh liếc nhìn ông ngồi bên đào Mỹ, nét rạng rỡ hiện rõ trong ánh mắt. Ông cầm chầu. Tiếng trống " chát, tom " ròn tan, được gia chủ và các cô đào xúm lại khen là vừa hào hao vừa lẳng lơ! Đào Mỹ cầm phách, tức là gỗ lim hình chữ nhật đã lên nước bóng loáng với hai thanh tre nhỏ gõ nhịp. Đàn đáy dạo vài cung đưa đẩy rồi đào Mỹ cất giọng:
" Hồng Hồng, Tuyết Tuyết.
Mới ngày nào chỉ biết cái chi chi..."
Chầu ả đào nào cũng phải bắt đầu bằng bài này bởi nó làm rung động lòng người, gợi niềm luyến tiếc dĩ vãng, nhớ nhung tháng ngày đã qua đi. Cô nào hát bài này cũng hay, bởi nó giải bài tâm sự sâu lắng trong lòng, thương thân phận mình. Tuổi xuân đi qua quá nhanh, nhan sắc mỗi năm một phai tàn! Người mê thú ả đào ai cũng thầm nhận đây là bài hát điển hình, xứng đáng dùng để tế tổ nghiệp.
Minh ngồi nhâm nhi cốc rượu, có hai cô đào trẻ đưa mãi khai bánh mứt trước, ân cần mời mọc. Họ thuộc loại " đào rượu ", nghĩa là không biết hát, vào đây chỉ để mời rượu quan viên mà kiếm tiền độ nhật. Không khí này Minh chưa thấy hấp dẫn lắm, nhưng hôm nay anh vui lây cái vui của người đàn anh trong ngày cuối năm, nên cũng gật gù ra chiều thưởng thức câu ca tiếng trống một cách rất tận tình.
Khoảng nữa tiếng sau, đào Mỹ ngừng hát. Căn phòng lặng thinh một chút rồi đào Mỹ chuyển sang giọng ngâm:
Lũ chúng em chờ chàng qua mấy kiếp
Tình giang hồ tha thiết mãi còn đây...
Tất cả những cô đào chung quanh đều đồng thanh ngâm theo câu thơ quen thuộc ấy để báo trước phút chia tay như thông lệ. Giọng ngâm đuổi theo nhau, nghe não nề ray rứt. Vương Luân buông dùi buông trống, moi tiền đặt vào quả và đậy nắp lại. Vốn liếng có bao nhiêu trong túi, ông dốc ra gần hết, chấp nhận năm nay ăn cái tết đạm bạc với vợ con. Không phải ông chỉ tặng riêng cho đào Mỹ, mà tất cả chị em, ai ai đều có phần.
Minh cũng toan moi ra ít tiền, nhưng Khâm Thiên công tử khua tay cản lại vì ông đảm nhận hết mọi chi phí hôm nay. Ông bịn rịn đứng dậy cùng Minh bước ra. Khác với thông lệ, hôm nay Vương Luân không ở lại, vui thú gối chăn với người ông thương. Dân trong nghề gọi là đi hát một " chầu chay "! Đào Mỹ sửa lại khăn áo, níu cánh tay đưa ông ra tận cửa, hết lời cảm ơn và hẹn ngày tái ngộ. Vương Luân vừa đội nón lên và toan bước đi thì chủ nhà chạy ra, xoa tay tha thiết nói:
- Ngại quá mà vạn bất dĩ phải nhờ quan anh giúp cho một việc...
Minh đã ra đến hè, lại thụt lùi vào tuốt bên trong vì thấy khách bộ hành qua lại khá đông. Đối diện bên kia đường, sát cạnh một hiệu ăn mới mở là tiệm thuốc của một ông lang chuêyn chữa bệnh hoa liễu, phục vụ chị em trong xóm cũng như khách làng chơi gặp vận xui. Con đường Khâm Thiên này chỉ mới hình thành từ thế chiến thứ nhất, được mang cái tên đẹp vì ở đầu phía Đông trước đây có Tòa Khâm Thiên Giám chuyên nghiên cứu thiên văn, thời tiết, do vua Lý Thái Tổ đặt ra từ thế kỷ 11. Nhưng sinh hoạt thực tế của Khâm Thiên đã làm cho cái tên Khâm Thiên đồng nghĩa với khu vực ăn chơi trác táng. Mà tiếng đồn ấy quả không sai. Con phố Khâm Thiên chỉ dài hơn một cây số mà mọc lên nhan nhản những nhà hát. Điều đáng nói là có những nhà hát không có đào hát, nói đúng hơn đào thì nhiều mà không ai biết hát. Các cô gái nghèo ấy chỉ tụ hợp ở đây để kiếm sống bằng nghề giải khuây cho khách mà thôi. Thảng hoặc cũng có những vị khách sành điệu thật sự muốn nghe hát thì chủ nhà sẽ phải chạy qua nhà khác mượn một cô đào hát giỏi về biểu diễn!
Từ sinh hoạt mờ ám trong những nhà hát ả đào, đã làm nảy sinh những nghề nghiệp phụ thuộc khác, dần dà có mặt trên phố Khâm Thiên. Chẳng hạn những phòng chữa bệnh hoa liễu không giấy phép, những gian buồng ngủ cho thuê vội vã, những động thuốc phiện cho khách đi mây về gió, những ông bà thầy bói chuyên giải đoán tương lai cho những cô đầu ế ẩm muốn tìm một cuộc đời mới, và sau cùng là những tay anh chị đảm nhận công tác bảo vệ nhà hát, tháng tháng bắt các cô đóng hụi chết mới cho các cô hành nghề.
Tuy thế, Khâm Thiên cũng được một lợi thế là thu hút khá đông giới văn nghệ sĩ, những nhà văn, nhà báo giầu tưởng tượng, như Vương Luân, dễ rung động với cảnh ngộ của người hồng nhan đa truân. Và vì vậy, hai chữ Khâm Thiên dần dần trở nên quen thuộc trong các tác phẩm văn học thời tiền chiến.
Vương Luân hỏi chủ nhà:
- Việc gì thế? Hễ làm được thì tôi làm ngay!
Người đàn bà tuổi gần bốn mươi, từng một thời nức tiếng nhan sắc, bây giờ mở nhà hát đi độ nhật mà cái nét mặn màvẫn phảng phất. Chị chớp mắt mấy cái rồi hỏi:
- Dạo này quan anh có hay gặp ông ký Đăng không, thưa quan anh?
Nghe nhắc đến tên người bạn thân của mình, Vương Luân hơi lúng túng, ông đáp:
- Lâu lắm tôi cũng chả gặp! Thế dạo này ông ký không ghé đây sao?
Chủ nhà thở dài va đáp:
- Vâng! Đi đâu mất biệt hơn nữa năm nay. Vì thế em mới phải phiền đến quan anh, vì biết quan anh là chỗ tri kỷ với ông ký. Năm ngoái, ông ký đến đây chơi với quan anh một bận dạo đầu năm, chắc quan anh còn nhớ? Sau ấy, ông ký đến đây một mình hai lần nữa. Rồi làtrốn biệt, chả thấy tăm hơi gì nữa!
Ông Luân gật gù thông cảm. Thông lệ ở nhà hát là khách đến phải nộp tiền trước rồi đào mới hát. Giá cả thì mỗi nhà hát mỗi khác. Chỉ có những khách quen mới không bị áp dụng những thủ tục này, nghĩa là hát xong mới moi tiền ra trả. Nhiều ông lợi dụng chỗ quen biết để thiếu nợ rồi có khi trốn đi luôn vì trả nợ không nổi. Nhưng đó là nói chuyện người khác chứ trường hợp ông ký thì chắc không phải như vậy, bởi Vương Luân biết bạn ông không nghèo đến nỗi phải bỏ trốn. Bạn ông vắng mặt vì một lý do khác mà ông không thể nói ra. Ông hỏi dò xét:
Thế ông ký có hẹn hò gì với chị không?
Người đàn bà cười buồn đáp:
- Quan anh hiểu lầm chúng em rồi! Có hứa hẹn gì đâu! Hay nói đúng ra là có gì đâu mà hứa hẹn! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, ông ký nợ nhà hát chúng em hai chầu, hơn nữa năm nay không giả, cũng chẳng có nhời nào với chúng em! Cái Tuyết nó ngóng mỏi cổ từng ngày mà ông ký chả đến. Ông ấy còn nợ nó nhiều lắm, mà bố mẹ nó thì đang cần tiền chạy thuốc...
Chủ nhà ngưng lại một chút nhìn ông Vương Luân và Minh dò phản ứng. Vương Luân buột miệng nói:
- Thế mà tôi cứ tưởng... Hóa ra ông ấy thiếu nợ!
Chủ nhà tiếp:
- Vâng! Năm hết tết đến, em mới đánh bạo nhờ quan anh, hễ có dịp gặp ông ký thì nhắc hộ chúng em một tiếng!
Vương Luân thở dài một tiếng chia xẻ:
- Được! Hễ gặp, tôi sẽ nói hộ!
Rồi ông kéo Ming bước đi. Chủ nhà còn bước theo níu kéo thêm:
- Trăm sự nhờ quan anh giúp cho. Chúng em chả dám quên ơn!
Hai người đi bộ dọc theo lề đường. Ngang qua một cửa hàng đông khách, Minh né hẳn xuống lòng đường vì thấy cha ông mù đang kéo nhị hát xẩm, giọng ca rất ai oán. Hai bố con nhà này cừ quanh quẩn làm ăn ở khúc đường này từ ngày Minh dọn đến, và Minh đã bố thí cho họ cũng khá nhiều lần vì tội nghiệp đứa con mới mấy tuổi. Bây giờ Minh đã bớt đi nhiều xúc động vì thiên hạ bảo cho anh biết, đứa trẻ không phải là con ông, mà chỉ là sự kết hợp thương mại mà thôi.
Đi thêm một quãng đường, Vương Luân hỏi Minh:
- Cậu biết ông ký Đăng không?
- Thưa biết. Đệ có gặp một lần ở nhà ông phán Quát! Thế mà tôi quên đấy.
Rồi Vương Luân hạ giọng nói nhỏ hơn:
- Đang việc ở tòa Bố, Đăng bỏ đi biệt tích. Lúc đầu, người ta bảo tôi là Đăng vào Sài Gòn lặp nghiệp vì có ông chủ mở hiệu ăn trong ấy phát tài lắm. Tôi tưởng như thế. Mãi về sau mới biết Đăng theo hội kín. Nghe nói bây giờ đang ở Hồng Kông...
Minh buột miệng vhen vào:
- Ở Hồng Kông thì chắc là Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội?
Vương Luân gật đầu:
- Tôi cũng chả rõ! Nhưng thời buổi này, phi Thanh Niên Cách Mệnh thì là Quốc Dân Đảng! Hội kín bây giờ chỉ có hai nhóm ấy là đáng kể!
Minh không muốn góp ý kiến vì muốn giấu hoạt động bí mật của mình. Anh biết rõ Vương Luân là người ít bận tâm đến thời cuộc, mặc dù ông là nhà báo, giao du rộng, kiến thức nhiều. Ngẫm nghĩ một chút, Minh hỏi thêm:
- Nhưng sao tiên sinh biết làông Đăng theo hội kín? Biết đâu ông ấy vào Sài Gòn lập nghiệp thật?
Vươgn Luân đáp ngay:
- Tại vì mật thám lôi vợ con ông ấy lên thẩm vấn mãi! Cả mấy người bạn thân cũng bị hạch sách suốt mấy tháng giời! Phán Quán cũng bị hỏi. May mà chúng nó không ngó đến tôi!
Rồi Vưong Luân phân trần giùm bạn:
- Đăng không phải là người tệ. Chắc là đi bất ngờ nên mới thiếu tiền nhà hát! Thư thả rồi tôi sẽ trả giúp món nợ ấy!
Cả hai củng im lặng. Rồi Vương Luân nhận xét bằng giọng ngậm ngùi:
- Đang sống một cách an lành, ăn chơi cũng thuộc loại có tiếng, thế mà bỏ hết, băng rừng vượt suối để đi tìm cách mạng! Hay thật!
Sau câu khen ngợi kín đáo ấy, hai người im lặng đi bên nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Ngang qua rạp hát Vĩnh Lạc mới khai trương cách đây gần hai năm, Vương Luân tự dưng phát biểu một câu mà Minh thấy rõ là ông muốn giải tỏa mặc cảm trong lòng. Ông bảo:
- Muốn chống Tây, chả nhất thiết là cứ phải chui vào hội kín bỏ nhà lên rừng hoạt động. Mỗi người một cương vị, một hoàn cảnh. Viết báo thư như anh em mình cũng là một cách mà có khi còn hữu hiệu hơn là cầm súng bắn một thằng Tây! Cậu nghĩ có phải không?
Minh đáp cho qua chuyện:
- Vâng! Thì mỗi người một hoàn cảnh!
Về gần tới nhà Minh thì có chiếc xe kéo dừng lại mời. Vương Luân bắt tay Minh từ giã, nói vài lời chúc Tết rồi leo lên xe. Minh đứng nhìn theo một chút rồi thả bộ về. Từ xa, Minh giật mình nhìn thấy cái Nhi con bà dì, đang đứng chờ anh trước cửa. Anh bước nhanh lại. Cái Nhi lao tới và nói:
- Anh đi đâu, để em chờ mãi? May cho anh đấy! Anh mà về chậm một chút là em bỏ về rồi!
Dứt lời, Nhi cúi xuống nhắc cái giỏ mây chất đầy quà bánh trong đó. Minh sửng sốt kêu lên:
- Ôi chao! Sao mà cho anh nhiều thế này! Anh chả dám nhận hết đâu! Cô đem về bớt đi, nói là anh có lời cảm ơn dì và cả nhà!
Vốn tính hồn nhiên, Nhi cười và bảo:
- Mở cửa lên gác đi đã. Rồi em nói chuyện!
Minh đẩy cái cửa gỗ và đỡ cái giỏ cho Nhi. Lên lầu, cô lấy quà ra bày hết lên trên mặt bàn. Hai cái bánh chưng vuông, hộp mứt ngũ vị, một cân giò gói lá chuối, một lò chè bọc trong giấy kín đỏ và một chai rượu mùi. Quà Tết này thì hậu hĩ quá đối với một thanh niên độc thân quanh năm đạm bạc. Minh nhắc lại một lần nữa:
- Sao mà năm nay dì cho anh nhiều quá vậy? Mình anh ăn bao giờ cho hết! Đem về bớt đi. Anh chỉ xin dì cái bánh chưng thôi!
Nhi ngồi xuống mép giường, cầm tờ báo phe phẩy quạt mồ hôi. Quãng đường khá xa, cái giỏ nẵng trĩu làm ướt đẫm cả lưng áo. Cô nói:
- Mẹ em chỉ cho anh cái bánh chưng ngọt thôi! Bánh chưng nhà gói lấy, những thứ khác là của người ta biếu cho anh, không phải của mẹ em!
Minh tròn mắt ngạc nhiên:
- Người ta là ai? Sao lại cho anh nhiều quà thế này?
Nhi buông tờ báo, chậm rãi nói:
- Năm ngoái năm kia, em cứ nghe mẹ kể mãi về cái việc anh đứng ra bên vực chị Lụa ở Hải Ninh để làng khỏi bắt vạ chị ấy tội chữa hoang! Em đâm ra tò mò muốn gặp chị ấy mà chả cách nào gặp được. Bỗng dưng trưa nay chị ấy đến nhà em, đem quà Tết đến biếu anh!...
Minh sửng sốt ngắt lời:
- Thật không? Cô nói thật đấy chứ? Chị Lụa dưới Hải Ninh lên tìm anh?
Nhi gật đầu nhấn mạnh:
- Không thật thì giả ư? Em có biết chị ấy là ai đâu! Mẹ em biết, chứ em có mấy khi về làng mà biết!... Chị ấy đi với chồng, lên tìm anh. Em bảo anh không còn ở nhà em nữa...
Minh lại sửng sốt ngắt lời:
- Đi cới chồng? Chị ấy có chồng rồi ư? Lấy ai thế?
Nhi nói cho hết cái ý của mình:
- Em định đưa anh chị ấy lại đây gặp anh, nhưng chị ấy ngại. Chị ấy gởi quà lại nhà em rồi về Hải Ninh ngay! Chị ấy dặn đi dặn lại em là nhờ em gởi nhời cảm ơn anh!
Minh lặng thinh ngồi xuống ghế, nhớ lại cả một hoạt cảnh kỷ niệm hơn hai năm trước. Chờ Nhi nói xong, Minh nhắc lại:
- Có chồng rồi à? Lạ nhỉ! Hay anh chồng ấy chính là bố đứa bé?
- Vâng! Chứ còn ai nữa! Anh ấy xem ra cũng hiền lành, nhắc mãi là nhờ em gởi nhời cảm ơn anh! Hai người ngồi nói chuyện với mẹ em lâu lắm!
Minh mơ màng nhắc lại:
- Thế thì mừng cho chị ấy! Cô có biết chồng chị ấy là ai không? Người Hải Ninh hay người ở đâu?
- Chứ còn người ở đâu nữa? Nghe mẹ em bảo là con giai ông chánh tổng Hải Ninh mà lại!
Minh ồ lên một tiếng rồi nói:
- Thì ra là con trai cụ chánh tổng! Dạo ấy sao không xong ra nhận quách cho xong? Bây giờ mới nhận!
Minh bỏ dở câu nói, nhớ lại cái hôm chức sách Hải Ninh ngồi xử Lụa ngoài đình, cụ chánh đã lớn tiếng quát nạt Lụa chữa hoang. Không ngờ chính con trai cụ là thủ phạm! Cũng may nhờ có Minh phá đám, Lụa không phải khai tên người đã ngủ với Lụa.
Chứ giá hôm ấy Lụa tiết lộ ngay ở sân đình thì cụ chánh chỉ có nước độn thổ! Bất giác Minh mỉm cười và nói vu vơ:
- Như thế cũng hay! Hóa ra ngày ấy Minh không phải cứu chị Lụa mà là cứu con trai cụ chánh! Hay là cụ chánh ngày ấy đã biết rồi mà còn giả vờ xử án Lụa?
Nhi chen vào:
- Như thế thì chắc quà này là của ông chánh gởi biếu anh chứ chả phải của chị Lụa!... Mẹ em bảo là hai người lấy nhau, ông chánh không bằng lòng, nhưng họ cứ lấy. Ông chánh nổi giận đuổi con giai đi! Thành thử bây giờ anh chị ấy đem nhau sang làng bên ở!
Minh ngẫm nghĩ rồi đưa ra nhận xét:
- Có thể cụ chánh vì xấu hổ với xóm làng nên mới phải đuổi con. Nhưng cụ giàu lắm, thể nào chả chu cấp cho con. Không có vốn thì lấy gì đi nơi khác lập nghiệp!
- Nhi ngẩng lên hỏi:
- Anh chắc biết con giai cụ chánh chứ?
- Biết! Anh Phú chứ ai! Hơn anh độ hai tuổi. Anh ấy thì hiền lành thật, khác hẳn tính bố... Nghĩ cũng thương cụ chánh, sáu người con chỉ có mỗi anh Phú là con giai. Bao nhiêu hy vọng đặt vào đấy! Không ngờ lại phải lòng chị Lụa đã có chồng có con rồi!
- Nhưng chị ấy còn đẹp lắm. Em mới gặp lần đầu mà em đã giật mình. Hai con mà như thế thì hiếm lắm! Mẹ em bảo là chắc dạo này có của, nên ngày càng đẹp ra! Đã chắc gì cưới người còn con gái mà được như vậy! Em thấy anh chị ấy có vẻ hạnh phúc lắm!
Minh nhấn mạnh:
- Cô biết tính anh mà! Anh luôn luôn chống lại mọi thủ tục khắc khe của các cụ, trai tơ không được lấy gái góa! Thích ai thì cứ lấy, tại sao lại cấm con trai không được lập gia đình với người đã có một đời chồng?
Bàn xong câu chuyện hấp dẫn, Nhi nhìn ra cửa sổ rồi đứng dậy từ giã:
- Em phải về đây! Bao nhiêu việc ở nhà! Tết, anh nhớ lại nhà em chơi ở luôn ba ngày Tết cho vui! ở đây một mình buồn chết!
Minh đưa Nhi xuống thang gác và bảo:
- Anh gởi lời cảm ơn dì. Tết thể nào anh cũng lại mừng tuổi cả nàh!
Nhi đi rồi, Minh chạy sang bên kia đường, ngồi nói chuyện với lão Sửu. Anh định bụng Tết năm nay, đến nhà vui xuân với ông Sửu, anh sẽ đem theo tất cả món quà mà Lụa vừa tặng cho anh.
Tối ba mươi Tết, Minh đang sửa soạn bàn thờ để cúng giao thừa thì nghe có tiếng chân người bước nhanh lên gác. Cái cầu thang gỗ ọp ẹp lâu ngày, nên dù bước đi có rón rén đến đâu, cũng không tránh được tiếng động. Tay đang bưng đĩa mứt ngũ vị, Minh đặt vội xuống bàn và đứng im chờ đợi. Anh cố đoán xem ai đến thăm anh vào lúc năm cùng tháng tận này. Dù sao đây cũng là một niềm vui trong lúc cô quạnh. Minh đợi không lâu vì chỉ trong chớp mắt đã nghe tiếng gõ cửa. Minh an tâm vì biết chắc không phải mật thám. Theo kinh nghiệm ngừơi đi trước kể lại cho anh thì trước nhất, mật thám bắt người thường không đi một mình, mà luôn kéo theo cả bọn đến vây từ tứ phía. Thứ hia, bước chân mật thám cũng không bao giờ nhẹ nhàng, rón rén, và không gõ cửa từ tốn. Chúng chỉ đập cửa một tiếng rồi đạp tung cánh cửa xông vào. Sau cùng, mật thám thường ra tay bắt người vào lúc nữa đêm về sáng khi nạn nhân đang say sưa ngủ, chứ ít khi đến bắt khi ngoài đường còn nhiều người qua lại.
Vừa tháo then cửa, Minh cừa cẩn thận hỏi:
- Ai đấy?
Bên ngoài đáp nhỏ:
- Mở cửa Minh ơi! Tôi đây!
Nghe giọng nói quen quen, Minh hé cánh cửa và giật mình nhận ra Viên. Minh vẫn biết Viên là người hoạt động hết sức tích cực ở Thành Bộ, nhưng anh không ngờ ngay cả đêm 30 Tết, khi mọi người đang chuẩn bị cùng gia đình đón giao thừa thì Viên vẫn còn lặn lội đi làm công tác cách mạng quên cả tháng ngày. Ý nghĩ ấy làm Minh hết sức cảm phục. Anh nhìn Viên, nói như reo:
- Trời ơi Viên! Mời anh vào! Có việc gì mà anh tìm tôi vào giờ này?
Viên dáo dác nhìn xuống cầu thang như sợ có kẻ đang theo dõi. Rồi anh lách nhanh vô và ấp úng nói:
- Có việc gì đâu! Lại thăm cậu thôi!
Viên tự động ngồi xuống mép giường. Dưới ánh đèn mờ, Minh nhận ra ngay những nét lo âu trong đôi mắt Viên, trên khuôn mặt nhợt nhạt và dường như toàn thân anh đang rung lên vì xúc động. Phải chăng Viên vừa bị mật thám Pháp rượt bắt và anh đã thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc? Minh tự hỏi rồi khép cửa, cài then và kéo ghế ngồi đối diện Viên. Vừa ngồi xuống, Minh lại đứng lên ngay để rót nước mời khách. Anh có bộ tách cũ chỉ còn ba chiếc và cái ấm ủ đã rách lòi cả bông ra ngoài. Anh bưng cóc nước trao cho Viên, từ tốn nói:
- Anh uống tạm! nước chè pha từ sáng, chắc đã nguội hết rồi!
Viên run run đỡ ly nước, đưa lên miệng uống cạn một hơi. Viên nhìn Minh ái ngại. Ngay từ lúc Viên bước vào, Minh đã cảm thấy có chuyện gì bất thường, bởi tuy cùng hoạt động trong Thành Bộ, nhưng giao tình giữa Minh và Viên không gắn bó lắm, vì Minh làm công tác độc lập. Viên lại rất bận với chi đoàn công nhân, nếu không vì lý do đặc biệt nào đó thúc đẩy thì Viên không đến tìm Minh trong đêm 30. Minh dè dặt hỏi:
- Anh đến tìm tôi, chắc có việc gì? Xin anh cứ cho biết!
Viên khẽ gật đầu rồi đưa mắt nhìn quanh nhà dù đã biết Minh sống chỉ có một mình. Minh mở to mắt hồi hợp nhìn Viên. Viên chìa cái ly không ra trước mắt Minh và nói nhỏ:
- Cậu cho tôi xin cốc nước! Tôi khát quá!
Uống cạn tách thứ nước thứ hai, Viên mới nhập đề:
- Cậu cho tôi ở tạm đây đêm nay, được không?
Minh gật đầu:
- Được chứ anh! Anh ở đến bao giờ chả được! Nhưng có việc gì thế? Anh làm tôi lo quá!
Im lặng một chút, Viên mới đáp lời:
- Tôi giết thằng Bazin rồi! Vừa mới giết xong!
Minh há hốc mồm, trợn mắt nhìn Viên, khá lâu mới nhắc lại:
- Anh bảo sao? Anh vừa giết thằng Bazin? Thằng mộ phu René Bazin?
Viên ngước nhìn Minh, khẽ gật đầu. Trong lòng Viên đang tràn ngập những cảm giác phức tạp vàa hỗn độn. Một mặt, anh hãnh diện đã trừng trị được một tên thực dân quái ác. Nhưng mặt khác, anh lại sợ vì biết đâu nay mai mật thám sẽ tìm ra anh!
Minh lặng người một lúc rồi mới rót cho Viên cốc nước nữa. Anh kéo ghế lại sát trước mặt Viên và chớp mắt nói:
- Tôi nghe bảo, anh có xin lệnh Tổng Bộ, nhưng Tổng Bộ không cho phép!
Viên ngượng ngùng đáp:
- Đúng là anh Học không cho phép. Nhưng giữa lúc Thanh Niên Đồng Chí Hội đang ráo riết vận động lấy tình cảm quần chúng, nếu Quốc Dân Đảng chúng ta không làm một cái gì để đáp lại lòng mong mỏi của đồng bào thì chúng ta sẽ mất lợi khí tuyên truyền. Đồng bào đang căm thù thằng René Bazin. Các đồng chí đại diện cho chi đoàn công nhân đều thúc giục tôi thanh toán nó. Tôi làm việ này hoàn toàn là vì đảng!
Minh cãi:
- Anh làm vì đảng, nhưng đảng không cho phép, sao anh vẫn làm! Anh là ủy viên Thành Bộ mà anh cãi lời đảng trưởng, anh cãi lời Tổng Bộ. Nhỡ mai kia anh nhân danh Thành Bộ, ban bố ra mệnh lệnh, có đồng chí nào cãi lệnh anh lúc ấy anh xử trí như thế nào?
Viên không biết trả lời ra sao, đành cúi đầu ngồi yên. Anh nhớ lại lúc được kết nạp, anh đã long trọng tuyên đọc lời thề gồm bốn điều: " Tuyệt đối trung thành với Đảng. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh Đảng. Tuyệt đối giữ bí mật của Đảng. Tuyệt đối hy sinh cho công việc của Đảng. Nếu trái lời thề, tôi xin chịu tội tử hình"! Anh đã vi phạm điều thứ hai, bất tuân mệnh lệnh của đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Tổng Bộ!
Minh đứng dậy, tiến lại cửa sổ trong xuống con đường vắng khách bộ hành qua lại. Những chiếc xe kéo thưa thớt chạy vội vã trong đêm trừ tịch. Lác đác từ xa, đã nghe thấy tiếng pháo nổ lẻ tẻ như muốn tóng khứ thật nhanh năm con Rồng đầy sóng gió để đón chào Xuân Kỷ Tỵ với hy vọng sẽ an bình hơn.
Minh đứng suy nghĩ một lúc, rồi quay lại ngồi xuống chỗ cũ. Bằng tình đồng chí, Minh đổi giọng hiền hòa hơn:
- Anh Viên ạ! Đằng nào chuyện cũng xảy ra rồi. Thôi thì cứ tạm gác lại, tạm quên đi, xem như việc của năm cũ, không bận lòng nữa. Anh ở đây đón Tết với tôi. Tôi chỉ có một mình, chẳng ai chú ý tới. Anh ở đây là tiện hơn cả! Từ từ rồi nghe ngóng thế nào!
Viên thở phào ngẩng đầu lên nhìn Minh thầm ngỏ ý cảm ơn. Minh hỏi:
- Anh ăn gì chưa? Có đói không? Gác hết mọi chuyện, anh với tôi đón giao thừa! Cỗ nhà nghèo! Có cái gì! Mình ăn cái nấy!
Vừa nói Minh vừa lấy bánh chưng và chai rượu mùi bày ra bàn. Viên cũng đứng dậy, cố nở nụ cười để vui với bạn trong giờ phút tống cụ nghinh tân, mặc dầu trong đầu anh vẫn còn đang hết sức hoang mang. Minh rót rượu ra hai cái cốc, rủ Viên nâng ly, cùng uống cạn. Chất men thấm nhanh, mấy phút sau, cả hia đều thấy lâng lâng một cảm giác dễ chịu. Với óc tò mò cố hữu của một nhà báo, Minh đột ngột quay lại đề tài cũ, hỏi Viên:
- Đầu đuôi như thế nào, anh kể cho tôi nghe đi!
Viên buông đũa, đốt điếu thuốc rồi chậm rãi nói:
- Tôi kể cho cậu nghe vì cậu vừa là đồng chí, vừa nhà báo. Mai kia nếu tôi có mệnh hệ nào thì...
Minh ngắt lời:
- Anh chỉ nói dại!
Viên gật đầu nhấn mạnh:
- Tôi nói thật đó!... Nếu chẳng may tôi bị bắt, bị địch thủ tiêu hoặc phải hy sinh tính mạng cho Đảng thì cậu phải ghi lại những điều tôi kể với cậu hôm nay, để người sau biết được tường tận!... Cậu còn nhớ hôm nọ tôi có dẫn một đồng chí đến đây, giới thiệu với cậu...
Minh ngắt lời:
- Anh Lân phải không? Tôi nhớ mà!
Viên gật đầu. Anh dụi điếu thuốc cháy dở vào tàn thuốc, rồi ngẩng lên kể.
... Chiều nay, 30 Tết, Ủy Viên Thành Bộ Hà Nội Nguyễn Văn Viên, hẹn hai đồng chí Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung đến chợ Hôm, tức ngã 3 phố Huế và phố Hàm Long, nằm trong khu vực phía Đông Nam Hà Nội, Nguyễn Đức Lung còn có cái tên gọi thân mật là Ký Cao, để phân biệt với Ký Con, tức Đặng Trần Nghiệp cùng làm việc ở Khách Sạn Việt Nam. Đặng Trần Nghiệp người nhỏ bé, dáng thư sinh trắng trẻo, con ông thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc Hà Nội. Năm 28 tuổi nghiệp vào bán hàng cho hiệu Gô-Đa. Hai năm sau, 1928, gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, làm thư ký tại Khách Sạn Việt Nam. Vì dáng dấp nhỏ bé và ít tuổi nêm các đồng chí gọi là Ký Con. Sau này, Khách Sạn Việt Nam bị giải tán, Ký Con phụ trách ban ám sát của Đảng, chuyên trừng trị những kẻ phản bội Đảng theo Pháp. Mật thám Pháp treo giải thưởng 5000 đồng cho ai bắt được Ký Con. Thời ấy một đám nhà quê chỉ tốn khoảng 15 đồng! Người Việt trung lưu mỗi năm có lợi tức khoảng 168 đồng. Như thế đủ biết vai trò của Ký Con quan trọng đến mức nào dưới mắt mật thám Pháp. Trở lại buổi hẹn quan trọng tại phố Huế chiều 30 Tết giữa ba đồng chí Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, và Nguyễn Đức Lung Ký Cao. Phố Huế vốn trước đây là con đường thiên lý để lính chạy trạm, đưa tin tức và lệnh lạc từ triều đình Huế ra Thăng Long và ngược lại. Còn chợ Hôm có nghĩa là chợ chiều, chuyên bán những thứ mà buổi sáng ế ẩm còn đọng lại. Chợ họp trên khúc đường quanh co, ban đầu chủ yếu là các bạn hàng từ thôn quê mang gà vịt bán cho các trại lính hoặc bỏ mối cho các chợ lẻ để phân phác khắp nơi trong nội thành. Vì vậy khúc đường ấy còn có tên gọi là Dốc Hàng Gà Chợ Hôm. Về sau chợ họp suốt cả ngày, trở nên khu thị tứ sầm uất, nhưng người ta vẫn giữ cái tên khởi đầu là Chợ Hôm bởi mọi người đã quá quen với cái tên đó.
Đi dọc Phố Huế, cả ba người tới trước căn nhà số 110, gần ngã ba con đường nhỏ tên là Maribel, đứng lảng vãng xa nhìn vào đó. Đó là căn nhà của Germanei Carcelle, cô gái Pháp lai Việt xin đẹp, nhân tình của gã thực dân mộ phu René Bazin mà Viên đã theo dõi cả tháng nay. Germaine là nhân viên bán hàng hiệu Gô-Đa, một cửa hàng nổi tiếng thuộc công ty Lucia chuyên bán các tạp phẩm nhập cảng từ bên mẫu quốc. Gô-Đa nằm trên phố Tràng Tiền mà người dân Việt quen gọi là phố Tây bởi phố ấy hầu như chỉ dành riêng cho Pháp với những sinh hoạt tài chánh quan trọng, tượng trưng cho sự phồn thịnh của thực dân. Những ngân hàng, những khách sạn, những tiệm ăn, những rạp hát, những công ty nhập cảng ô-tô và xe đạp, những cửa hàng bách hóa sang trọng, đều nằm tại đây để phục vụ nhu cầu kiều dân Pháp. Cũng chính tại phố Tràng Tiền này, căn nhà số 3 mang tên Poinsard et Veyret, chuyên nhập cảng kim khí, máy móc, là nơi Nguyễn Văn Viên đứng bán hàng từ mấy năm nay. Từ chỗ Viên làm, đi bộ thêm vài chục căn nữa trên phố Tràng Tiền, đến căn nhàsố 58 là tư thất của tên mộ phu René Bazin mà tối nay Viên dự trù sẽ thanh toán. Để khời sự kế hoạch này, Viên tính toán rất chu đáo. Anh được biết trong kho hàng củaPoinsard et Veyret có cất giấu một số vũ khí và anh quyết định lấy cắp một khẩu súng lục với mấy viên đạn, giao cho Lân tập bắn để dùng cho buổi hẹn hôm nay. Viên biết rõ nhà Bazin. Nhưng phố Tràng Tiền là nơi đô hội, Pháp kiều quá đông mà cảnh sát sắc phục cũng như mật thám lúc nào cũng đi tới đi lui, không thể ra tay được. Rất may là cứ mỗi buổi chiều, sau khi hết giờ làm việc, Bazin thường xuống phố Chợ Hôm thăm người tình, có khi ở lại ăn cơm tối, khuya mới mới về. Biết rõ đường đi nước bước như thế, chiều nay Viên hẹn hai đồng chí đến chờ từ lúc nhá nhem tối.
- Chiều 30, bạn hàng vắng dần. Hầu như ai cũng vội vã trở về chuẩn bị đón giao thừa. Đối diện căn nhà của Germaine phía bên kia đường, sát ngã ba phố harmand, có cái miễu nhỏ nắm dưới gốc cây già, chiều nay khói hương nghi ngút bốc lên. Quanh năm ở đó có những ông bà thầy bói ngồi trên chõng đoán số cho khách hiếu kỳ cầu vận may. Năm cùng tháng tận, một số bạn hàng còn nán lại, gieo quẻ cuối cùng trong năm Thìn để hy vọng một tương lai tốt đep hơn sang năm Tỵ.
Cây si già cằn cõi âm u, ngôi miếu nhỏ khói hương trầm mặc, khách đứng ngồi rãi rác xem bói, vài gánh hàng rong bày biện trước miếu, tất cả góp chung lại thành một cảnh sinh hoạt khá nhộn nhịp, rất thuận tiện cho ba đồng chí Lân, Lung, và Viên đứng trà trộn để nhìn sang nhà của nhân tình Bazin. Ngay từ lúc mới tới, Viên đã nhận ra chiếc xe ô-tô màu xanh đậm của Bazin đậu phía bên kia đường, từ trong nhà cô Germaine có thể trong thẳng ra mồn một. Gã tài xế đứng thơ thẩn trên lề,, cạnh đầu xe, phì phèo hút thuốc. Nhìn nét mặt điềm tĩnh đến lạnh lùng của Lân, Viên ghé dặn dò Lân mấy câu rồi thả bộ sang căn phố bên cạnh miễu. Đó là tiệm thuốc lào khá lớn. Anh toan bước vào, nhưng thấy trong hiệu không có ai, anh lại đi thẳng, đưa mắt lơ đãng nhìn hai bên đường, cố trấn áp nỗi xúc động trong lòng. Lâu lâu, anh liếc nhìn Lân và Lung đứng bên cạnh miễu, khẽ gật đầu mỉm cười ra vẻ bình thản để hai đồng chí yên tâm.
Trời tối dần, người cũng thưa dần. Thời gian dường như trôi qua quá chậm. Khoảng 8 giờ, Viên trở lại sau miễu bên cạnh hai đồng chí, sốt ruột vì Bazin vẫn chưa ra. Nguyễn Văn Lung rút trong túi áo ra, cái phong thư có đóng dấu hãng tàu Bạch Thái Bưởi, cầm sẵn trên tay.
Phong bì ấy chỉ đựng có một trang giấy viết mấy hàng kết án Bazin, nhưng dùng giấy tờ của công ty Bạch Thái Bưởi để Bazin chú ý vì họ Bạch lúc ấy là một nhà doanh nghiệp lừng lẫy mà cả Pháp lẫn Việt đều nghe danh.danh. Bạch Thái Bưởi nguyên là họ Đỗ, con nhà nghò ở Hà Đông, làm nghề bán hàng rong nuôi mẹ. Nhờ được một người nhà giàu họ Bạch nhận làm con nuôi và cho đổi họ, lớn lên Bạch Thái Bưởi làm thư ký cho hãng buôn Pháp, gây dựng vốn liếng rồi lao vào khai thác hầm mỏ và tàu thủy, trở thành nhà thưong mại tài tình bậc nhất của người Việt vào đầu thế kỷ.
Ba người đang thì thầm nói chuyện thì bên kia đường, Bazin từ trong nhà nhân tình bước ra, đội chiếc mũ đen lên đầu, tiến lại xe. Gã tài xế vội vàng quăng điếu thuốc, chạy lại mở cửa sau. Cô Germaine thì đứng thập thò trong khung cửa, đưa tay vẫy Bazin. Lập tức Viên vỗ nhẹ vào lưng Nguyễn Đức Lung.
Lung chạy lao qua đường. Trước khi chui vào xe, Bazin còn quay lại chào người yêu. Lung đến trước mặt, trao chiếc phong bì và nói bằng tiếng Pháp:
- Thưa ông! Có người gửi cho ông bức thư này!
Bazin ngơ ngác đỡ lấy, bốc ngay ra xem. Bên này đường, Viên lại vỗ vai Nguyễn Văn Lân, lập tức Lân chạy vụt qua, tay phải thò vào ngực, cầm sẳn khẩu súng. Viên cũng chạy theo sang để hỗ trợ tinh thần và để phòng có gì trục trặc. Vừa lúc ấy, chủ tiệm thuốc lào kế nhà Germaine đem bánh pháo khá dài ra trước sân châm đốt. Lát đát xa xa cũng bắt đầu vang vọng tiếng pháo đêm trừ tịch. Trời mờ tối, Bazin còn đang trố mắt đọc lá thư thì Lân đã đến trước mặt rút súng bắn thẳng vào mặt Bazin. Gã té quị xuống, Lân bắn bồi thêm hai phát nữa rồi mới bỏ đi. Phố xá ít ai nghe được tiếng súng vì pháo vẫn nổ ran. Chỉ có cô nhân tình kêu rú lên và bỏ chạy vào nhà, khép chặc cửa lại. Gã tài xế thì mặt tái mét, không biết phản ứng thế nào, đành luống cuống mở cửa xe chui vào ngồi chết cứng trước vô-lăng.
Thi hành xong nhiệm vụ, cả ba chạy thụt vào con đường nhỏ hai bên còn là bãi đất trống tăm tối với ao hồ chằng chịt. Con đường nhỏ ấy Pháp đặt tên là Harmand, tên của một vị bác sĩ Pháp từng đại diện Pháp ký hòa ước với triều đình Huế năm 1873. Ba đồng chí chia tay nhau ở khúc đường này, mỗi người đi một hướng khác nhau. Riêng Nguyễn văn Viên thì chạy lại Thôn Giáo Phường, tới nhà một đồng chí ở Phố Goussard, tức Chợ Đuổi, thay bộ quần áo khác, để đề phòng có người đã nhận diện được Viên lúc thi hành bản án. Bộ quần áo ấy,Viên được đồng chí Lê Thành Vỵ gói lại và quăng xuống hồ. Sau khi thông báo cho Lê Thành Vỵ biết đầu đuôi câu chuyện, Viên bỏ đi ngay vì Vỵ là một nhân vật nổi tiếng của Quốc Dân Đảng, có mặt bên Nguyễn Thái Học từ ngày thành lập Nam Đồng Thư Xã. Tư gia của Lê Thành Vỵ từng dùng làm hội trường khai sinh Việt Nam Quốc Dân Đảng đêm lễ Noel năm 1927. Lê Thành Vỵ cũng là người góp phần mượn vốn để khai thác khách sạn Việt Nam, đồng thời chính anh cũng đứng tên xin giấy phép cho thuê phòng trọ và bán rượu khai vị tại khách sạn. Nói chung Lê Thành Vỵ là một nhân vật nổi tiếng, giữ thế công khai và hợp pháp để làm việc cho đảng, bởi thế Viên thấy mình không thể nán lại, có thể gây nguy hiểm cho cả hai người. Minh sống một mình trong xóm Khâm Thiên, ít ai chú ý. Với mật thám Pháp, Minh là một bóng mờ chưa bị theo dõi. Pháp chỉ biết Minh là một nhà báo đấu tranh cho độc lập, nhưng có thể chưa biết Minh là đảng viên Quốc Dân Đảng, tạm thời đến đó là an toàn hơn cả!
Viên kể xong câu chuyện, cúi đầu nhìn xuống sàn nhà ra vẻ trầm tư. Minh cũng yên lặng ngẫm nghĩ, mắt nheo lại vì khói thuốc.
Minh gắp thêm bánh chưng vào bát cho Viên rồi hỏi:
- Anh bảo là sau khi giết chết Bazin, anh tạt vào gặp anh Trác, rồi qua cả nhà anh Vỵ. Như thế có nghĩa là các anh ấy đều biết trước kế hoạch giết Bazin của anh?
Viên gật đầu nhấn mạnh:
- Biết chứ!
- Và họ tán thành kế hoạch ấy?
- Tất nhiên rồi!
- Thế anh có nói cho họ biết là anh xin lệnh Tổng Bộ mà Tổng Bộ phản đối không?
Viên cúi đầu ngẫm nghĩ một chút rồi trả lời bằng giọng ngậm ngùi:
- Thấy anh em hăng hái quá, tôi không muốn làm họ thất vọng, nên tôi giấu họ. Tôi nghĩ bụng: Thôi thì mình cứ làm, rồi tôi sẽ lên gặp anh Học và nhận lỗi với tổng bộ!
Minh yên lặng nhìn Viên. Trong khoảnh khắc, lòng anh chỉ còn lại sự cảm phục mà quên hết những ý tưởng trách cứ với người đồng chí đã quá nhiệt tình với đất nước và vì danh dự của đảng. Minh ân cần bảo Viên:
- Thôi, anh cứ ở lại đây với tôi, nghe ngóng tình hình rồi mai tính sau!
Viên cảm động gật đầu. Tuy vậy, sáng hôm sau, mùng một tết Kỷ Tỵ, Minh choàng dậy thì thấy Viên đứng ở cửa số ngó ra đường, khói thuốc bay tỏa mịt mù. Minh vừa bước xuống giường thì Viên quay lại bắt tay, nói vài lời chúc xuân rồi từ giã. Bước ra thanh gát, Viên nghiêm nghị dặn:
- Những gì tôi kể với cậu tối hôm qua, xin cậu để bụng!
Minh gật đầu nhấn mạnh:
- Anh chả phải dặn! … Nhưng bây giờ anh định đi đâu?
Viên cười buồn:
- Chính tôi cũng chưa biết sẽ đi đâu. Nhưng cứ đi đã!
Minh đứng nhìn theo Viên lầm lũi bước xuống từng bậc cầu thang cho đến khi anh ta ra khuất hẳn ngoài lề đường, Minh mới thở dài quay vào. Nghĩ đến ông Sửu, Minh phân vân chẳng biết có nên theo ông về nhà ăn Tết hay không? Giữa tình hình nghiêm trọng này, đầu óc nữa đâu mà vui chơi! Biết trước nằm nhà cũng không yên, Minh rửa mặt qua loa rồi vội vã thay quần áo chạy đi tìm vài đồng chí trong tổ đảng để dò la tin tức về cái chết của Bazin.
Ba ngày Tết trôi đi với bao nhiêu hồi hộp trong lòng Minh. Anh không gặp lại Viên, cũng không hề cho ai biết là Viên đã đến căn gát của anh sau khi giết Bazin. Mùng bốn Tết Kỷ Tỵ tức ngày 13 tháng 2 năm 1929, báo chí Hà Nội mới loan tin René Bazin bị ám sát. Dù chưa biết nguyên do gì gã bị thanh toán và cá nhân nào, tồ chức nào thanh toán gã, Pháp kiều Hà Thành cùng hết sức hoang mang và kinh sợ. Mật thám Pháp lập tức tung nhân viên đi điều tra khắp nơi để thu thập tin tức và ngày mùng 8 Tết, mới 5 giờ sáng, chúng càn quét đợt đầu tiên, bắt được một số ủy viên trung ương của Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Rất may là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu được báo động kịp thời, trốn thoát cửa sau. Khách sạn Việt Nam bị chính quyền thực dân đóng cửa từ đó.
Chỉ một thời gian ngắn sau, số đảng viên Quốc Dân Đảng bị bắt lên đến 227 người, trong đó hầu hết những nhân vật quang trọng lãnh đạo tổng bộ, thành bộ và các tỉnh bộ đều sa lưới, trong đó có cả Lê Thành Vỵ và Nguyễn Thái Trác.
Tin dữ đưa đến dồn dập, Minh thấp thỏm lo âu như ngồi trên đống lửa. Chỉ còn một chút an ủi là đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu chưa bị bắt. Nghe đồn cả hai đả bỏ Hà Nội sang Bắc Ninh. Ông Sửu ưu tư bảo Minh:
- Thầy đừng lai vãng đến bất cứ nhà ai quen trong lúc này. Tôi độ chừng nhà nào cũng có mật thám theo dõi, thầy đến là chúng nó vồ ngay. Ngày ngày thầy chỉ nên đến tòa báo làm việc rồi về thẳng nhà. Cẩn thận hơn thì thầy tìm cách đi xa, cho qua cái cơn sóng gió này. Cả tháng nay mà chúng nó chưa thăm hỏi đến thầy thì chắc là tên thầy không có trong sổ đen của mật thám!
Minh gật đầu cám ơn. Anh nhớ lại những lời ông Sửu dặn trước đây và càng thấy những điều tiên đoán của ông thật là chính xác.
Mười mấy năm trước, Nguyễn Khắc Cần của Quang Phục Hội giết được hai tên lính Pháp thì Pháp bắt nhốt và tra tấn dã man 254 người. Bây giờ, Nguyễn Văn Viên giết được một thằng Tây mộ phu, Pháp bắt 227 người gồm toàn yếu nhân, làm lung lay tận gốc ngôi nhà Việt Nam Quốc Dân Đảng đang trên đà xây dựng nền móng tốt đẹp! Phải chứng kiến những phương thức tra tấn cực kỳ dã man của mật thám Pháp, thì mới thấy được chỉ cần một bất cẩn nhỏ của đảng viên, cũng đủ gây sức tác hại khôn lường cho tổ chức! Bà Andrée Viollis, nữ ký giả Pháp, đi cùng phái đoàn bộ thuộc địa sang nước ta thời ấy đã uất hận ghi lại trong cuốn “Indochinois S.O.S” một vài cảnh tra tấn các nhà ái quốc Việt Nam mà bà đã được nhìn tận mắt. Chẳng hạn như treo ngược người và đổ xà-bông vào mũi, rạch nhiều vết dao ở lòng bàn chân rồi nhét giẻ hoặc bông gòn vào và tẩm xăng đốt, hoặc lấy kềm kẹp hai bên má cho con mắt bật ra ngoài. Nữ tù nhân bị chúng lột quần áo, bắt nằm ngữa trên sàn rồi một thằng tây vạm vỡ cưỡi xe đạp cán ngang lên bụng hàng chục lần! Chính vì vậy, người ta cho rằng năm 1929 là thời kỳ mà thực dân Pháp để lộ bộ mặt tàn ác nhất trong suốt gần 100 năm cai trị. Ngoài miệng, Pháp giương cao khẩu hiệu khai hóa văn minh cho dân Việt, nhưng kỳ thực chúng áp dụng những thủ đoạn man rợ còn hơn cả thời quân chủ của nước ta.
Sau cái chết của Bazin, màng lưới khung bố và truy lùng của mật thám Pháp giang ra rộng lớn và tinh vi quá, các nhân vật chủ chốt của Quốc Dân Đảng cứ lần lượt sa bẫy. Một số cơ quan bí mật của đảng cùng hàng loạt chi bộ địa phương bị phá vỡ.
Hung tin đưa đến liên tục, cứ hết người này đến người kia bị bắt, làm Minh hoang mang trăn trở, đi ra đi vào, nhớn nhác nhìn quanh mà không biết phải làm gì. Ngày ngày, anh vẫn đến tòa báo, giả vờ cặm cụi làm việc, ít nói chuyện với ai về thời cuộc. Nhưng đêm đêm trên căn gát đìu hiu, Minh thao thức lăn qua lăn lại, không tài nào ngủ được. Mà hễ cố thiếp đi một chút thì lại giật mình choàng dậy như lạc vào cơn ác mộng. Lo lắng quá đôi khi nghĩ quẩn, Minh đâm ra oán trách các đồng chí nông nổi giết chết Bazin làm liên lụy đến biết bao nhiêu người.
Mấy đồng chí cùng tổ đảng với Minh ở thành bộ, hình như cũng đã sa lưới hoặc bỏ trốn khỏi Hà Nội, vì Minh chẳng gặp được ai từ hôm mùng 4 Tết. Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Đức Lung, Nguyễn Văn Lân, tất cả đều không còn làm ở sở cũ. Thậm chí tại hiệu ăn bình dân mà một số các đồng chí thường ăn cơm tháng để có dịp gặp nhau. Minh ghé qua hai hôm liền, đều chẳng thấy ai nữa!Tổng bộ ngày trước nằm ngay tại khách sạn Việt Nam ở phố Hàng Bông Đệm, khi cần kíp, Minh có thể đến đó liên lạc để xin chỉ thị, giờ này mật thám giăng đầy trong ngoài, đảng viên không ai dám lai vãng đến gần. Các nhà văn, nhà báo đàn anh như Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khuê, Ngô Thúc Định, đều đã vào nằm trong Hỏa lò. Nhiều người, tên tuổi rất quen, Minh từng có dịp tiếp xúc về nghề nghiệp, nhưng mãi cho đến khi họ bị bắt, Minh mới biết họ cùng là đảng viên Quốc Dân đảng.
Không biết tính sao, Minh chỉ tìm đến tâm sự với ông Sửu. Mấy ngày tết vui chơi ở nhà em gái ông, làm tình thân giữa ông và Minh càng gắn bó hơn. Nhưng ngày vui qua mau, từ đầu năm đến giờ mỗi lần gặp nhau là mỗi lần chia sẻ những lo âu dày đặc, mặc dù ông Sửu không phải là người của đảng.
Một buổi sáng cuối tháng 4, Minh từ căn gát xuống, cầm tờ báo chạy sang uống trà với ông Sửu. Hôm qua ở tòa soạn, anh lại được tin một cơ quan của Quốc Dân Đảng ở phố Hàng Bạc bị mật thám xông vào bắt đi ba đồng chí. Bản tin làm Minh cả đêm không ngủ được. Anh tự hỏi chẳng biết bao giờ tới phiên mình? Ông Sửu đang ăn dở gói xôi lạc, nghe Minh kể, rưng rưng như sắp khóc, ngậm ngùi bảo Minh:
- Tình hình bi đát lắm thầy ạ! Thầy không nói tôi cũng biết. Việt Nam Quốc Dân Đảng đến vỡ mất thôi! Bị bắt nhiều quá! Bao nhiêu nhân tài vào tù hết …
Ngừng một chốc, ông tiếp:
- Không khép thầy phải liệu thu xếp mà đi xa một chuyến. Đi đâu cũng được! Về quê chẳng hạn, tránh cái khí thế của mật thám lúc này đang nhắm vào các cơ quan đầu não của Quốc Dân Đảng tại Hà Nội!
Minh đăm chiêu nói:
- Tự dưng bỏ đi, sợ chúng còn nghi thêm!
Ông Sửu nhìn đôi mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ của Minh, tội nghiệp nói:
- Sao thầy không xin tòa báo cái giấy giới thiệu đi công tác. Chẳng hạn như xin xuống Hải Phòng viết reportage về phu khân vác ở bến tàu. Hoặc sang Hưng Yên viết ký sự về lũ lụt. Bên ấy mới vỡ đê năm ngoái … Ấy là tôi đề nghị thế thôi! Tùy thầy!
Minh giật mình nhìn ông Sửu ngầm bày tỏ lòng biết ơn về sáng kiến của ông. Anh thở phào, vui mừng đáp:
- Vâng! Chắc là tôi phải nghe lời ông! Đúng đấy! Nên lánh mặt một thời gian chờ tình hình lắng dịu lại!
Nói rồi, Minh vội vàng chào ông Sửu, đứng dậy, quay lên gát trọ. Anh phải viết cho xong tập bản thảo để mang lại tòa báo rồi mới xin giấy giới thiệu đi công tác. Có lẽ anh sẽ đi Hưng Yên, nhân tiện về thăm nhà một đôi ngày.
Mấy hôm sau, Minh ghé thăm bà dì theo thông lệ cứ hai tháng một lần, ăn bữa cơm gia đình và thăm hỏi chuyện xóm làng dưới Hải Ninh. Nhưng mới từ Khâm Thiên rẽ sang Rue Soeur Antoine tức phố Hàng Bột thì tình cờ Minh thấy một người đàn ông mặc âu phục, đầu đội nón bọc vải kaki, đáp xa từ con hẽm nhỏ quẹo ra. Nhìn kỷ thì hóa ra Lê Hữu Cảnh, một đồng chí lớn tuổi mà Minh hết sức nể phục. Minh không biết Cảnh giữ chức vụ gì trong đảng, nhưng lần nào gặp Cảnh, Minh cũng thấy ông đi bên cạnh vài đồng chí ở tổng bộ. Giờ đây, giữa lúc đang hoang mang và cô đơn, bất chợt gặp được Cảnh, Minh mừng quá nhớn nhác nhìn quanh rồi chạy theo gọi:
- Anh Cảnh, anh Cảnh ơi!
Cảnh thòng một chân xúông đất, kéo lê bàn chân trên mặt đường vì xe không có thắng. Anh tắp vào lề ở một khoảng đất trống rồi ngoái cổ nhìn lại người vừa gọi mình và gật đầu. Hai bên đường, nhà cửa còn rất thưa thớt. Thỉnh thoảng mới có chiếc xe kéo chạy qua. Cảnh đạp rướn lên mấy thước, dừng lại dưới một tàn cây rồi đứng chờ Minh. Minh chạy tới, nở nụ cười chào Cảnh một lần nữa:
- Anh Cảnh, em Minh đây. Còn nhớ em không?
Minh hỏi vậy thôi chớ dĩ nhiên Minh biết Cảnh không thể quên mình được bởi đã gặp nhau nhiều lần và có đêm Minh đã ngồi đến gần sáng để nghe Cảnh kể những mẫu chuyện cười ra nước mắt hồi Cảnh còn đi lính cho Tây. Hơn thế nữa, hồi chưa giết Bazin, có một bận Cảnh cùng đi với Viên đến căn gát trọ của Minh, ngồi bàn khá lâu về nội dung một tờ truyền đơn mà Viên nhờ Minh thảo. Cái hình ảnh mà Minh nhớ nhất ở Cảnh là lúc nào trong túi cũng có cỗ tràng hạt và đêm dù có thức khuya đến đâu thì trước khi đi ngủ Cảnh cũng ngồi đọc kinh một lúc. Nói chung, trong số các đàn anh ở tổng bộ thì Cảnh là người mà Minh lúc nào cũng ngưỡng phục.
Cảnh cầm nón quạt mồ hôi vànở nụ cười hỏi:
- Cậu đi đâu lang thang ra đây? Vẫn ở Khâm Thiên đấy chứ?
Vừa nói, Cảnh vừa leo xuống dựng xe đạp ghếch vào gốc cây. Thoáng trong chốc lát, Minh nhận ngay ra nét lo âu nặng trĩu trên khuôn mặt Cảnh khiến Minh tắt hẳn nụ cười vì biết Cảnh cũng đang mang cùng một tâm trạng như mình. Minh dè dặt nói:
- Vâng. Em vẫn ở đấy! Em cứ tưởng anh không còn ở Hà Nội nữa! Gặp anh, em mừng quá!
Cảnh nhìn quanh hai bên đường. Thấy không có một bóng người nào qua lại, Cảnh mới kéo tay Minh vòng ra sau bụi cây, ở đó có một mô đất bằng phẳng, phủ lớp cỏ cháy vàng khô. Anh ngồi xuống và tiếp tục cầm cái mũ quạt mồ hôi. Minh cũng ngồi ngay bên cạnh và nhập đề:
- Hơn hai tháng nay, em không ăn ngủ được …
Cảnh buồn rầu ngắt lời:
- Vụ ám sát thằng Bazin chớ gì! Tôi nghe bảo mấy đồng chí dưới thành bộ tự ý giết nó, không xin lệnh tổng bộ, làm vạ lây cho cả đoàn thể. Mật thám Pháp nhân vụ này, lấy cớ để tiêu diệt mình! … Nhưng thôi, việc lỡ rồi! Trách các đồng chí ấy cũng chẳng ích gì! Có điều, tình hình lúc này căng lắm! Tổng bộ phải di chuyển liên miên, nhất là anh Học và anh Nhu, không dám ở yên một chỗ!
Minh hồi hộp gật đầu:
- Em cũng đoán thế! Anh chưa bị bắt là may đấy! Em tưởng anh không còn ở Hà Nội! Hôm nọ em định lại công xưởng hỏa xa tìm anh, nhưng lại đã bị lộ tông tích, chúng nó cài người mai phục … Hôm nay anh không đi làm ư?
Cảnh ngắt lời:
- Tôi mới ở trên Bắc Ninh về, liên lạc với một số đồng chí còn ở nội thành. Nói đúng ra, những người làm việc cho nhà nước bảo hộ như tôi, anh Phó Đức Chính và cánh nhà giáo, thì dù sao mật thám cũng ít để ý hơn. Vì vậy, anh Học mới bảo tôi về đưa tin cho các đồng chí ở Hà Nội biết … Còn cậu thì sao?
Minh ưu tư đáp:
- Chính em cũng đang định hỏi anh. Em có nên nán lại Hà Nội không? Bị bắt nhiều quá em cũng đăm lo. Chả biết ngày nào tới phiên mình!
Cảnh nhíu mày hỏi lại:
- Sao nghe bảo cậu được ông nhà báo nào người Pháp đỡ đầu, nhận làm con nuôi kia mà! Như thế thì chắc cũng chả đến nỗi nào!
Minh chớp mắt đáp:
- Vâng! Quả có thế! Nhưng ông ấy về Paris rồi! Vả lại, dù ông ấy còn ở đây thì cũng chả dám đứng ra bảo lãnh em khi biết em tham gia Quốc Dân Đảng! Ông ấy tuy là nhà báo tiến bộ thật. Nhưng quyền lợi của nước người ta bao giờ chả ưu tiên!
Im lặng một chút, Cảnh hỏi:
- Thế cậu có thường xuyên liên lạc với tổ đảng của cậu không?
Minh gật đầu nhấn mạnh:
- Có chứ anh! Nhưng chả gặp ai cả! Từ hôm sau tết đến bây giờ, mỗi người trốn một nơi. Dạo trước thì cứ mỗi tuần gặp nhau một lần, chưa kể thỉnh thoảng anh Viên vẫn ghé em giao công tác. Hai tháng nay thì không thấy tăm hơi gì nữa!
Cảnh im lặng thở dài. Ngẫm nghĩ một lúc, Cảnh đề nghị:
- Cậu muốn theo tôi sang Bắc Ninh không? Bên ấy cơ sở của mình đông lắm. Đông mà an toàn vì được quần chúng hết lòng che chở. Nếu cậu thấy ở lại Hà Nội căng thẳng quá thì cậu đi với tôi một chuyến cho khuây khỏa!
Minh mừng rỡ đáp:
- Anh cho em theo thì em đi ngay! Bao giờ đi hở anh?
Cảnh đứng dậy đáp:
- Ngày kia! Hôm nay với ngày mai tôi phải giải quyết một số công việc. Hẹn cậu ngày kia!
Rồi Cảnh cho Minh điểm hẹn, giờ giấc và dặn Minh:
- Đi tay không, đừng mang gì cả! Càng nhẹ nhàng càng tốt! Ngộ nhỡ có phải …
Minh gật đầu nhấn mạnh:
- Vâng! Em hiểu ý anh! … Thôi cứ thế anh nhé! Ngày kia em gặp anh!
Cảnh đặt hai bàn tay lên vai Minh, bấu mạnh, rồi từ sau bụi cây, anh tiến ra, dáo dát nhìn tứ phía trước khi leo lên xe đạp, rướn người lao đi.
Đúng ra thì Cảnh không có quyền rủ Minh cùng đi công tác với Cảnh, bởi Minh không phải người của tổng bộ. Nhưng mấy tháng nay các đồng chí trung ương ủy viên bị bắt quá nhiều Cảnh nghĩ đến việc phải bổ xung nhân sự, cho nên ông dự trù sẽ giới thiệu Minh với Nguyễn Thái Học, mặc dù Minh cũng đã từng gặp Nguyễn Thái Học vài lần. Từ sau đại hội tháng 4 ở Lạc Đạo, bộ tham mưu bên cạnh Nguyễn Thái Học hầu như lúc nào cũng có Sư Trạch, Nguyễn Thị Giang, Phó Đức Chính, Ký con Đặng Trần Nghiệp và Lê Hửu Cảnh. Năm nay Lê Hửu Cảnh đã 34 tuổi, nghĩa là lớn nhất trong nhóm, lại từng trãi, có thời sống bên Tây, cho nên được coi là quân sư thân cận của đảng trưởng. Thậm chí hôm từ Phú Thọ về, đi ngang đền Hùng, Cảnh từng bàn với Phó Đức Chính và Ký Con, yêu cầu đảng bộ đứng ra làm lễ kết hôn cho Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, vì Học đã ly hôn với người vợ thời thơ ấu do cha mẹ sắp đặt là Nguyễn Thị Cửu tại quê nhà. Với vị thế đắc lực của mình, Cảnh tin rằng Nguyễn Thái Học sẽ chấp thuận yêu cầu của Cảnh, cất nhắc Minh lên làm việc cho tổng bộ và các đảng viên gốc nhà văn nhà báo có tên tuổi đều bị bắt hết.
Hai hôm sau, đúng hẹn, Minh gặp Cảnh ở nhà ga. Đó là lần đầu tiên Minh đến địa giới tỉnh Bắc Ninh, nơi xuất thân nhiều nhà cánh mang đương thời. Chính ở tỉnh này, giữa năm 1927 khi Việt Nam Quốc Dân Đảng chưa hình thành, đã có nhóm cách mạng của Quản Nhạc định khởi nghĩa đánh úp đồn binh Pháp với sự hậu thuẩn của nhóm Nam Đồng Thư Xã tại Hà Nội. Cũng chính tại tỉnh này, Nguyễn Thế Nghiệp đã đem nhóm của ông sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và ông trở thành phó chủ tịch đảng trong đại hội đầu tiên vào lễ Noel năm 1927. Bắc Ninh cũng là quê của Phó Đức Chính, một nhân vật kiệt xuất, đang làm cán sự công chánh bên Lào, tìm về tham gia sáng lập Quốc Dân Đảng. Có thể nói, Bắc Ninh là một trong những cái nôi nuôi dưỡng và cung cấp nhân lực cho Quốc Dân đảng ngay từ phút phôi thai.
Minh theo Cảnh vào làng Đức Hiệp, thuộc phủ Thuận Thành. Băng qua những cánh đồng bát ngát trên con đường đất dẫn vào cổng làng, Minh thấy từng tóan thanh niên ngồi rải rác hút thuốc lào, đưa mắt đăm chiêu nhìn Minh và Cảnh. Từ cái quán lá dưới gốc đa, có ba người đàn ông ngồi uống nước chè, đi sâu hơn vào hẳn trong làng, Minh lại gặp từng nhóm thanh niên, mỗi tốp hai ba người, có cả trẻ con, đứng lố nhố như chờ đợi một cái gì. Minh lo lắng níu cánh tay Cảnh dò hỏi, nhưng Cảnh chỉ gật đầu rảo bước. Minh thấy mặt Cảnh rất nghiêm nhưng không tỏ vẻ gì sợ hãi. Khi đến một căn nhà nằm khuất sau rặng tre già, lại thấy vài người ngồi câu cá ở bờ ao, ngước lên nhìn Cảnh và Minh, làm Minh càng hồi hộp và lo sợ.
Mãi đến khi vào hẳn trong nhà, Minh mới biết tổng bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng đang chuẩn bị cuộc họp bất thường, và những chàng thanh niên Minh thấy đứng ngồi rải rác từ cổng làng, chính là những cảm tình viên lo việc canh gát cho hội nghị để kịp thời thông báo nếu có dấu hiệu khả nghi bị mật thám theo dõi. Vùng này nằm trong tầm ảnh hưởng sâu rộng của Quốc Dân Đảng, ngay cả những ông tổng, ông lý đang tại chức cũng ngấm ngầm ủng hộ những người yêu nước.
Được tham gia đại hội của tổng bộ, gặp gỡ những yếu nhân của trung ương, Minh cảm động lắm. Đại biểu các nơi lục tục kéo về, có những khuôn mặt rắn rỏi, đen xạm, rõ ràng là hình ảnh của nông dân. Có những khuôn mặt thư sinh trắng trẻo của người quanh năm làm việc trong văn phòng. Người mặc âu phục, kẻ vận quốc phục. Người thì gồng gánh giả dạng đi buôn. Kẻ thì cấp cặp, xách tráp như đi xem bói tay hay hốt thuốc Bắc. Họ cải trang, đóng kịch, dùng đủ mọi sáng kiến để tránh sự theo dõi của mật thám đang múôn diệt trừ tận gốc rễ của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Người đến mỗi lúc một đông, gặp nhau mừng mừng tủi tủi, chia sẻ những gian nan cũng như những thành tích, thăm hỏi xem coi ai còn, ai bị bắt. Trên cái divan và hai cái giường tre trãi chiếu hoa kê ở gian giữa, từng nhóm ngồi xếp bằng quanh khay trà và cái điếu bát, khói thuốc bốc lên liên tục. Ở hai gian bên cạnh và dưới mái hiên sau nhà, quang cảnh cũng ồn ào đầm ấm tương tự như thế. Họ biết hôm nay họ về đây để cùng trang trọng viết một trang sử mới cho đất nước.
Hai đồng chí phụ trách an ninh mời từng nhóm đại biểu ra sạn, chỉ cho họ những lối thoát bí mật từ trong nhà, chui qua rặng tre trồng làm hàng rào cuối vườn, lách theo những ngỏ ngách để dẫn ra cánh đồng làng trong trường hợp bị chính quyền bố ráp. Ban tổ chức đại hội tổ chức cẩn mật như thế để các đại biểu an lòng ngồi họp, chứ thật ra thì cũng không cần lắm, bởi chức việc làng này đều là cảm tình viên của đảng.
Minh hồi hộp và sung sướng lắm. Sau khi theo Cảnh lại chào Nguyễn Thái Học và các đồng chí lãnh đạo của tổng bộ. Minh lần lượt bắt tay từng đại biểu và tự giới thiệu mình. Anh biết Cảnh cố ý cất nhắc anh lên để phụ trách soạn thảo các văn kiện của tổng bộ, thay thế các đồng chí nhà văn, nhà báo đã bị bắt. Đều này làm Minh rất cảm động. Quanh anh, những khuôn mặt hoàn toàn xa lạ, bên cạnh những tên tuổi mà Minh từng được nghe nhắc đến nhưng chưa có cơ hội diện kiến trực tiếp bao giờ.
Minh không phải là đại biểu của thành bộ Hà Nội, nhưng do vận động của Lê Hửu Cảnh, tổng bộ chấp thuận cho Minh được ngồi làm thư ký, ghi biên bản cho hội nghị. Hôm ấy là giữa tháng 5 năm 1929, Nguyễn Thái Học đưa ra đề nghị táo bạo là thành lập Tổng Bộ Chiến Tranh, quyết định lãnh đạo quần chúng tổng khởi nghĩa. Ông nói thẳng đây là một chủ trương bất đắc dĩ vì phải đốt giai đoạn, trái lại với chương trình đã dự trù buổi ban đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng không làm được, bởi đảng viên bị bắt quá nhiều mà lưới mật thám càng ngày càng giăng rộng. Ngồi chờ bị bắt rồi chết gục trong tù thì chẳng thà đánh một trận lớn, dẫu có thua cũng thỏa chí!
Đảng trưởng chưa dứt câu, phòng họp đã nhao nhao bàn tán, người này nhìn người kia bằng ánh mắt ngạc nhiên. Có người buột miệng nói:
- Tổng khởi nghĩa bây giờ là giắt nhau vào chỗ chết! Chưa thể được!
Nguyễn Thái Học giải thích:
- Chúng ta tổng khởi nghĩa trong lúc này thì phần thắng không nắm chắc trong tay! Nhưng chúng ta hy sinh ngã xuống để khơi dậy lòng ái quốc và làm những viên gạch lót đường cho những đoàn thể sau này sẽ nối tiếp chúng ta mà đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập cho xứ sở!
Nguyễn Thái Học ngừng nói, phòng họp lập tức lại vang lên tiếng xầm xì. Người tán đồng cũng đông mà người phản đối cũng nhiều. Đứng đầu phe bất đồng ý kiến với Nguyễn Thái Học là Lê Hửu Cảnh, Cảnh vốn là người thẳng thắn, có ý nghĩ sâu sắc và không ngại mích lòng khi cần phát biểu. Lúc còn đi lính cho Tây, anh đã nhiều lần mạnh dạn phản đối cách cư xử của sĩ quan Pháp đối với An Nam. Bây giờ nghe Nguyễn Thái Học công bố quyết định tổng khởi nghĩa, Cảnh liền đứng dậy nói:
- Từ sau Tết đến giờ, mới có 3 tháng, chúng ta bị mất quá nhiều đồng chí lỗi lạc, đa số là cấp lãnh đạo trung ủy. Các anh Nhựơng Tống, Hồ Văn Mịch, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Thành Vỵ, Nguyễn Thái Trác, đều đã bị bắt cả. Còn biết bao nhiêu đồng chí tài đức khác mà tôi không muốn kể ra đây. Tổng cộng trên dưới 200 đồng chí đang chịu cực hình tra tấn ngày đêm. Nhân sự của Tổng Bộ quyết định tổng khởi nghĩa, tôi thấy việc ấy quá liều lĩnh vì chúng ta chưa chuẩn bị. Nếu chúng ta thất bại-mà cứ sự thường là thất bại-thì thực dân nhân dịp này quét sạch Quốc Dân Đảng! Mười năm, hai mươi năm nữa, Đảng của chúng ta cũng sẽ không gây dựng lại được như hôm nay! Tôi xin Tổng Bộ và các đồng chí đại biểu xét lại!
- Lê Hữu Cảnh dứt lời thì một số đồng chí khác nhụ Nguyễn Tiến Lữ, Nghuyễn Xuân Huạn, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Đều nối tiếp ý của Cảnh, bác bỏ chủ trương tổng khởi nghĩa trong lúc này. Lê Hữu Cảnh lại tiếp:
- Để bảo toàn lực lượng cua Đảng và nhất là sự duy trì sự hiện diện lâu dài của Đảng, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo Tổng Bộ, nhất là anh Học và anh Như, nên ra nước ngoài ngay, đặt Tổng Bộ ben kia biên giới. Chúng ta đang có lợi thế là chính phủ Dân Quốc cầm quyền bên Trung Hoa. Tổng Bộ đặt cơ quan chỉ huy ở bên ấy, sẽ được chính phủ Tưởng Giới Thạch hỗ trợ, trong nước dù có xảy ra chuyện gì dd nữa, thì thực dân Pháp không làm gì được Tổng Bộ đặt trong nước, nói dại, nếu chẳng may Tỗng Bộ bị vỡ, anh Học, anh Nhu bị bắt, thì đảng viên như rắn bị mất đầu, Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ không còn nữa. Các đồng chí của chúng ta đang ở trong tù sẽ tan rã tinh thần vì không còn điểm tựa để trong mong ngày chiến thắng. Xin Tổng Bộ xét lại!
Phòng hợp yen lặng ngẫm nghĩ những điều Cảnh vừa nêu ra. Nguyễn Thái Học nhìn khắp lượt cử tọa rồi nói:
- Tổng Bộ không đi đâu cả! Anh Nhu và tôi không đi đâu cả! Chúng ta làm cách mạng, phải đồng lao cộng khổ với đồng chí, phải nằm gai nếm mật với đồng bào, không phải đứng từ nước ngoài mà chỉ tay 5 ngón, mà ném đá giấu tay! Chúng ta có vì Tổ Quốc mà ngả xuống để người sau tiến lên thì cái chết ấy cũng là cái chết xứng đáng, không có gì phải bận lòng!
Cuối phòng có tiếng nói lớn cất lên:
- Người xưa tối kỵ chưa xuất quân mà đã nói điều chẳng lành! Đảng trưởng sao lại cứ nói gở như thế! Ta thất bại thế nào được!
Trên bàn chủ tọa, ngoài Nguyễn Thái Học, có Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính và Sư Trạch, một đảng viên mới vốn là võ sư, lo việc bảo vệ các yếu nhân của Đảng. Ngoài ra còn có cô Giang ngồi ở bàn thư ký bên cạnh Minh. Ký Con Đặng Trần Nghiệp thì đứng ở cuối phòng.
- Đúng như thế! Tại sao anh Cảnh lại cứ bi quan cho rằng mình sẽ bị thất bại! Ta hiện có đến cả nghìn chi bộ khắp nơi. Chưa kể có cả một khối quốc dân đồng bào ủng hộ, thất bại thế nào được!
Xứ Nhu dứt lời, một số đại biểu nhao naho cất tiếng ủng hộ làm Cảnh đâm ra lúng túng. Vốn nặng lòng quý mến Xứ Nhu, Lê Hữu Cảnh phân trần:
- Thưa các đồng chí đại biểu. Tôi không bi quan. Tôi hoàn toàn tin vào chính sách của chúng ta. Nhưng thời cơ chưa đến. Vâng. Đúng là chúng ta có đến hơn 1000 chi bộ, nhưng vũ khí thô sơ, lại khó liên lạc với nhau. Trong khi địch có đến 3 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn lính khố đỏ, lại thêm pháo binh và tàu bay. Rồi còn lực lượng đội xếp và đội thám. Tôi vì tiền đồ của Đảng mà phát biểu, chứ thật lòng không muốn đi ngược lại ý kiến của Đảng trưởng!
Nguyễn Xuân Huân ngồi bên cạnh Cảnh xen vào:
- Chúng ta làm cách mạng để đánh Tây, như thế thì sớm muộn gì cũng phải đánh! Có điều đánh lúc này thì chưa phải lúc!
Phòng họp im lặng trong khoảnh khắc. Rồi Nguyễn Thái Học đề nghị hội nghị lấy biểu quyết bằng cách giơ tay. Nhóm Lê Hửu Cảnh tán thành lề lối sinh hoạt dân chủ của đảng trưởng, nhưng không đồng ý cách bỏ phiếu bằng tay, bởi nhiều người sẽ vì nể nang mà miễn cưỡng giơ tay, trái với ý nghĩ đích thực trong lòng mình. Tuy vậy, Cảnh không dám lên tiếng phản đối bởi thấy khí thế của hội nghị đang nghiêng hẳn về phía Nguyễn Thái Học.
Kết quả biểu quyết là phe chủ chiến thắng thế. Điều này cũng dễ hiểu, bởi phần đông những đảng viên chủ trương cách mạng hòa bình đều đã đi tù. Hội nghị liền soạn thảo kế hoạch tổng khởi nghĩa để bắt tay vào việc chuẩn bị. Công tác khẩn cấp của giai đoạn này là thiết lập các xưởng chế tạo bom càng nhiều càng tốt, song song với công tác binh vận, tuyên truyền lôi kéo quân nhân người Việt tại các đồng lính Pháp quay về với đất nước, bắn lại quân thù. Sư Trạch đề nghị giao nhiệm vụ này cho cánh phụ nữ đảm trách. Ý kiến được Nguyễn Thái Học tán đồng.
Ngồi ở bàn thư ký, Minh nhìn Cảnh bằng ánh mắt hết sức ái ngại. Những đều Cảnh nêu ra, Minh thấy hoàn toàn hợp lý. Nhưng quyết định của đảng trưởng và biểu quyết của đa số đại biểu cũng không phải là không hửu lý bởi hoàn cảnh bắt buộc đảng phải hành động. Từ lâu, Minh đã biết trong nội bộ các đồng chí lãnh đạo vẫn có những bất đồng quang điểm về đường lối. Với Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, Quốc Dân Đảng lập ra để hành động, để dùng bạo lực lật đổ chính quyền Pháp, không cần phải vẽ vời những chủ thuyết xa xôi. Nhưng với một số các đồng chí khác, đặc biệt là những người xuất thân từ nhà báo, nhà văn và nhà giáo, thì lại có chủ trương đường dài. Làm cách mạng bằng nhiều phương thức, chẳng hạn như giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng, chờ thời cơ thuận tiện mới nhất loạt tổng nổi dậy. Khuynh hướng này là những người như Nguyễn Thế Nghiệp, Nhượng Tống và nhiều đồng chí kiên nhẫn khác. Ngay từ đại hội lần thứ hai để bầu ban lãnh đạo nhiệm kỳ mới, tổ chức ngày 1 tháng 7 năm 1928, Nguyễn Thế Nghiệp và Nhượng Tống đã không chụu tham dự vì thấy phe “diều hâu” đông đảo quá! Giờ này thì cả hai ông đều bị bắt, không còn tiếng nói tại hội nghị.
Buổi họp bế mạc, các đại biểu phân tán ngay theo nhiều hướng khác nhau ra khỏi làng. Cũng có người ở lại Đức Hiệp, nhưng được bố trí sang những hộ cơ sở khác, tránh tập trung một chỗ.
Nhóm Lê Hữu Cảnh từ đó có cái tên là “nhóm trung lập” hoặc “phe cải tổ”, bị nhiều đồng chí tỏ thái độ e dè, xa cách, làm Cảnh rất buồn.
Khi mọi người lần lượt rút lui hết thì trong nhà chỉ còn Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc
Nhu và Phó Đức Chính. Cảnh cũng nấn ná ở lại. Để tránh ngộ nhận, nhân một lúc vắng vẻ, Cảnh gặp riêng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, khẳng khái nói:
- Hai anh hiểu cho, tôi tuy có ý kiến bất đồng, nhưng hội nghị đã biểu quyết và thông qua kế hoạch tổng khởi nghĩa thì tôi sẳn sàng chấp hành. Tổng bộ cứ giao nhiệm vụ, tôi cam kết sẽ hoàn thành!
Xứ Nhu gật đầu trấn an Cảnh:
- Tôi hiểu! Đồng chí phát biểu như thế là rất dân chủ!
Nguyễn Thái Học tiếp lời:
- Đồng chí cứ về Hà Nội, nay mai sẽ có lệnh cụ thể!
Cảnh chưa kịp nói gì thêm thì Nguyễn Thái Học lại bảo:
- Nhưng ngủ lại đây một tối cho khỏe đã, rồi mai hẵng lên đường!
Nguyễn Khắc Nhu hiểu ý, thân mật vỗ vai Cảnh và thêm:
- Tôi cũng cần bàn với ông vài việc vì dù sao ông cũng có thời đi lính cho Tây, biết nhiều về quân sự.
Xứ Nhu biết trong lòng Nguyễn Thái Học đã chớm nghi ngờ Cảnh. Chính vì nghi ngờ, đảng trưởng mới giữ chân Cảnh lại, bởi các yếu nhân của đảng đều đang tập trung tại căn nhà này. Nếu để Cảnh ra đi, rủi ro Cảnh phản bội, thì tổng bộ sẽ lọt hết vào tay địch. Chim đậu cành mềm, từ đầu năm đến giờ, trong nội bộ Quốc Dân Đảng đã có đến mấy kẻ làm nội tuyến, phá tan bao nhiêu cơ quan của đảng. Cho nên bây giờ Nguyễn Thái Học bắt đầu tỏ thái độ dè dặt, ngay cả với Cảnh. Ông sợ rằng Lê Hửu Cảnh vì bất mãn với quyết định tổng khởi nghĩa của tổng bộ, có thể sinh ra mất lập trường, rồi đứng về phía giặc. Cảnh không biết ý định của đảng trưởng, nên hết sức cảm động vì được cả Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu níu lại bàn chuyện.
Xứ Nhu lôi Cảnh ra sau nhà, ngồi uống trà dưới mái hiên trông ra mảnh vườn trồng đầy đậu đũa. Dù sao đi nữa, Xứ Nhu cũng là người từng trải, không muốn đẩy Cảnh ra khỏi đoàn thể khi chưa nắm chắc được bằng chứng vững chắc là Cảnh muốn bỏ đảng. Làm như thế, vừa mất đi một nhân tài, vừa có thể dồn Cảnh vào chân tường để trở thành kẻ bội phản. Huống chi ông biết Cảnh vì đảng mà hiến kế, cho nên ông cần xoa dịu Cảnh trong lúc này. Ông nhập đề thẳng, giao cho Cảnh phụ trách việc chế tạo chất nổ, các loại bom đơn giản để dùng trong ngày khởi nghĩa. Cảnh khẳng khái nhận lời ngay, Cảnh bảo:
- Anh cứ tin ở em! Lời thề tuyệt đối trung thành với đảng, em không bao giờ quên!
Khi chỉ có hai người với nhau, Cảnh luôn luôn gọi Xứ Nhu là anh và xưng em vì chẳng những Cảnh thua Xứ Nhu đến 13 tuổi, mà hơn thế nữa, Cảnh biết rất rõ quá trình hoạt động thật sôi nổi của Xứ Nhu ngay từ thuở thiếu thời.
Nguyễn Khắc Nhu sinh năm 1882 tại làng Song Khê, gần thị xã Bắc Giang. Thân phụ ông là một nhà nho lận đận khoa cửa nhưng truyền được cho Nhu cái tính hiếu học ngay từ thuở nhỏ, quyết nuôi chí thành đạt để mang niềm vui lại cho hai đấng sinh thành. Không may, khi Nhu 12 tuổi thì mồ côi cha, phải lao vào cuộc đời, trở thành rường cột kinh tế cho gia đình. Công việc đầu tiên của Nhu là xin chăn trâu cho cụ Tú Bảng trong làng để vừa có gạo mang về, vừa được cụ Tú cho ngồi học chung với các con của cụ vào buổi tối. Cuộc sống tuy vất vả, nhưng Nhu rất hài lòng vì được tiếp tục việc học. Tiếc rằng chẳng được bao lâu thì cụ Tú được người ta mời ra tỉnh làm gia sư, cậu bé Nhu đành ở lại và đi bắt cua dọc theo các bờ ao, ven ruộng trong làng. Từ đấy, bút nghiên phải tạm gác lại.
Một hôm, Nhu đi xa, ra bắt cua mãi trên thị xã, bên bờ sông lớn. Nhìn thấy thiên hạ lên xuống chiếc tàu thủy đang thả neo đón khách tại bến sông. Nhu tò mò leo lên, ngơ ngác đi lang thang trên tàu. Tàu chạy lúc nào không hay. Nhu hoảng hốt quá, không biết làm sao để quay về nhà với mẹ. May có người thợ phụ việc trên tàu, thấy Nhu đứng mếu máo, mới tiến lại hỏi thăm. Nhu kể hết sự tình. Ông thợ động lòng thương hại, lại vì chưa có con trai, nên ông ngỏ ý sẳn sàng nhận Nhu làm con nuôi. Ông đưa Nhu về nhà mình ở Phả Lại, cho học chữ Hán tiếp tục, lại thêm cả tiếng Tây và chữ Quốc Ngữ. Hai năm sau ông mới báo tin cho mẹ Nhu ở làng Song Khê để bà biết là Nhu hiện đang ở với ông. Bà mẹ mừng quá liên cử người đến cảm ơn và xin cho Nhu quay về làng.
Đoàn tụ là một niềm vui lớn, nhưng từ đấy bút nghiên lại phải tạm hoãn vì không có tiền và không có thầy. Ngày ngày đi làm vớ vẩn, Nhu vẫn nôn nóng ôm giấc mơ có ngày được đi học trở lại.
Một dịp may mắn, có người mách bảo cho Nhu biết vị sư trụ trì ở chùa làng có thời từng lều chõng đi thi. Nhu liền đến gặp, ngỏ ý xin vào làm việc lặt vặt cho chùa để hy vọng được sư ông cho thọ giáo. Nhà sư thấy Nhu có chí, bèn thu nhận làm môn đệ. Ít lâu sau, nhà sư lại gửi Nhu sang chùa làng Lạc Giản, cách Song Khê khoảng 5 cây số, để Nhu học thêm vì nhà sư bên chùa ấy có trình độ cao hơn. Nhờ vậy, chỉ hơn một năm sau, Nhu đã thi đỗ khóa sinh.
Để Nhu có điều kiện tịến xa, một lần nữa nhà sư lại gửi Nhu sang tận làng Nội Duệ, ở đó có ngôi trường của cụ cử Đường nằm bên cạnh chùa Lim. Cụ cử Đường là một nhà nho yêu nước, lại có tính quảng giao, tìm người đồng chí hướng để kết bạn. Chính những tháng ngày ngồi tại ngôi trường này, Nhu đã được trang bị tinh thần ái quốc, mở ra một khúc rẽ mới cho cuộc đời mình. Năm 1903, Nhu 21 tuổi, cụ Phan Bội Châu trên đường bôn ba kiếm tìm đồng chí đánh Pháp, đã ghé thăm cụ cử Đường, thầy học của Nhu. Cụ Phan ngỏ ý tìm một người khả tín, thông thạo đường đi nước bước để đưa cụ đi gặp nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám. Cụ cử Đường liền giao trọng trách này cho Nguyễn Khắc Nhu. Thế là thầy trò lên đường, trèo đèo vượt suối đến đồn Phồn Xương, nơi nghĩa quân Đề Thám đang đóng trại. Bài học đầu tịên cũng là bài học mạnh mẽ nhất mà Nhu đã học được của Cụ Phan Bội Châu là chỉ con đường vũ trang mới đánh đuổi được thực dân. Nhu nhớ mãi lời dạy ấy như một tia sáng chiếu soi sáng hành trình ái quốc của Nhu sau này. Đánh giặc Pháp, phải dùng bạo lực!
Đưa cụ Phan đi rồi, Nhu quay về chuẩn bị kỳ thi hương. Nhưng theo thông lệ của nhà Nguyễn, để giới hạn bớt số sĩ tử, bất cứ ai trước khi lều chõng đi thi hương, đều phải trãi qua một kỳ sát hạch phúc khảo tại địa phương, tổ chức theo từng xứ. Ngày ấy, miền Bắc chia ra làm bốn xứ: Bắc, Nam, Đông, Đoài, mỗi xứ gồm vài tỉnh. Chẳng hạn như khi nói xứ Nam, người ta hiểu ngay là gồm Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình. Khi nói đến xứ Đoài, người ta hiểu ngay là Sơn Tây, Vĩnh Phúc Yên và mấy tỉnh lân cận. Nguyễn Khắc Nhu dự thi sát hạch toàn xứ và đỗ thủ khoa. Từ đó, Nhu mới có cái tên là ông Đầu Xứ, hoặc gọi tắt là Xứ Nhu. Đỗ đầu xứ như ông, chưa phải là một văn bằng chính thức của triều đình để ra làm quan, nhưng nó cho thấy trình độ học vấn của ông không thua gì bậc cử nhân của triều Nguyễn. Chỉ tiếc rằng, giống như thân phụ, ông mang kiếp lận đận khoa cử. Bản thân Nguyễn Khắc Nhu đi thi hương hai lần đều không đậu, làm nhiều sĩ tử đồng khóa hết sức ngạc nhiên.
Trở về làng, tạm gát lại chuyện đèn sách, ông cầm đầu một toán thanh niên 17 người sang Quảng Châu tìm cụ Phan Bội Châu để tham gia phong trào Đông Du. Nhưng qua đến nơi thì cụ Phan đã lưu lạc xứ khác, không sao tìm gặp được. Phái đoàn nấn ná ở lại Quảng Châu chờ tin, bị nhà cầm quyền Trung Quốc bắt nhốt một thời gian. May nhờ Xứ Nhu có chữ nghĩa nên mới được nể nang và thả cho về. Từ ấy, Nguyễn Khắc Nhu làm nghề dạy học tại làng Thịnh Liệt, cách ga kép khoảng 5 cây số. Lòng yêu nước của ông đã để lộ ra một cách khá rõ rệt qua những vần thơ ông sáng tác cũng như những bài giảng cho học trò và thậm chí qua những câu đối ông víết trên tường lớp học. Ông cũng là người đi tiên phong hô hào dân làng cải thiện đời sống vệ sinh, đào giếng lấy nước uống, chống mê tín dị đoan, bỏ thuốc phiện và cờ bạc. Xứ Nhu làm thơ, viết báo, lấy tên làng Song Khê làm bút hiệu. Nhớ lời cụ Phan Bội Châu đã dạy, Xứ Nhu cho mở trường đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí để chuẩn bị lớp người tương lai cho đất nước Từ hình thức cách mạng gián tiếp ấy, Xứ Nhu chuyển hướng sang hình thức tích cực hơn. Cùng các đồng chí trong nhóm Đông Du ngày trước, thành lập tổ chức lấy tên là “Việt Nam Dân Quốc”, chủ trương võ trang chống Pháp. Tổ chức của ông nhanh chóng thu hút đông đảo đồng bào địa phương, kể cả phụ nữ, chẳng hạn như ba chị em cô Bắc, cô Giang, cô Tình ở phủ Lạng Thương. Việt Nam Quốc Dân cấp tốc chuẩn bị ngày khởi nghĩa, nhắm vào các đồn binh Pháp ở Đáp Cầu, Bắc Ninh, Phả Lại. Trong khi chờ đợi, họ mở những cuộc tập kích lẻ tẻ vào các đồn binh Pháp, gây được nhiều tiếng vang trong dân chúng. Những vụ binh biến nho nhỏ ấy, đều được nhóm Nam Đồng Thư ở Hà Nội ngấm ngầm ủng hộ. Nguyễn Khắc Nhu rắp tâm làm lớn một vố trong toàn vùng Nhưng kế hoạch chưa thực hiện được thì khôngmay bị lộ, vì xưởng chế tạo vũ khí thình lình phát nổ, khiến Pháp ra tay khủng bố. Nhờ tổ chức chặc chẽ, kín đáo, mỗi cơ quan, mỗi cá nhân đều hoạt động biệt lập nhau, nên dù bị địch truy lùng gắt gao, lực lượng Việt Nam Quốc Dân không bị sứt mẻ bao nhiêu. Nhờ vậy, khi nhóm Nam Đồng Thư Xã biến thành Việt Nam Quốc Dân Đảng thì Nguyễn Khắc Nhu đem toàn bộ nhân sự của đảng mình sát nhập vào với Nguyễn Thái Học. Năm ấy, Nguyễn Khắc Nhu đã 45, hơn Nguyễn Thái Học gần 20 tuổi.
Vì tuổi đời khá cao, lại thêm kinh nghiệm hoat động lâu năm và trình độ học vấn uyên bác, Nguyễn Khắc Nhu được các đồng chí hết sức nể trọng, thường giao cho những trong trách lớn nhất của đảng, chẳng hạn như hai lần được bầu làm chủ tịch đảng.
Sự tham gia của Nguyễn Khắc Nhu cùng tổ chức của ông, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ít nhất là ở 3 lãnh vực: Thuở đầu khi kết nạp đảng viên, Quốc Dân Đảng đã bỏ quên vai trò phụ nữ. Nhờ Nguyễn Khắc Nhu, những người như cô Giang, cô Bắc mới được đảng trọng dụng. Thứ hai, thuở đầu khi kết nạp đảng viên, Quốc Dân Đảng chỉ chú trọng đến tầng lớp trí thức thành phố. Nhờ Nguyễn Khắc Nhu, khuynh hướng chủ chiến của Nguyễn Thái Học mới được ủng hộ mạnh mẽ và chiếm đa số trong hội nghị, điển hình là quyết định tổng khởi nghĩa vừa thắng thế trong phiên họp lịch sử hôm nay, tại làng Đức Hiệp giữa thánh 5 năm 1929.
Dù hội nghị đã quyết định tổng khởi nghĩa, Lê Hửu Cảnh vẫn cố bám lấy ý kiến của mình. Ngồi riêng với Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, Cảnh tha thiết nhắc lại:
- Anh Học, tôi xin anh! Anh nên ra nước ngoài. Sang Tàu hoặc Xiêm. Đối với đồng bào cũng như đồng chí, vai trò của anh rất quan trọng. Lãnh tụ là điểm tựa của đòan thể Đảng không có tôi, không có các đồng chí khác cũng chả sao. Nhưng không có anh thì không được! Cụ Phan Bôi Châu bị bắt, Việt Nam Quang Phục Hội kể như tan rã ngay! Nói dại, anh mà bị bắt, Quốc Dân Đảng chắc chắn sẽ xuống dốc! Anh nên nghe lời tôi!
Nể Cảnh là người thân cận chia ngọt sẻ bùi trong mấy tháng qua, Nguyễn Thái Học không nở lớn tiếng, nhưng trong thâm sâu ông rất bực vì những phát biểu của Cảnh tại hội nghị đã làm lung lạc một số đồng chí! Bao nhiêu thiện cảm của ông dành cho Cảnh từ trước đến nay, bổng giảm hẳn đi và thay thế vào đó là sự ngờ vực lập trường của Cảnh.
Tối hôm ấy, Cảnh ngồi đọc kinh rất lâu. Sáng hôm sau, mặt trời chưa lên, Cảnh đã cùng Minh lên đường trở về Hà Nội.
Suốt quãng đường Cảnh trầm ngâm không nói. Minh nhìn Cảnh dò xét:
- Ý kiến của anh, nhiều đại biểu ngấm ngầm tán thành, nhưng họ ngại, không dám nói ra!
Cảnh gật đầu đáp nhỏ:
- Những người có công lớn với đảng như Nhượng Tống, Nguyễn Thế Nghiệp, Hồ Văn Mịch, đều bị bắt cả rồi. Thành ra, tiếng nói của tôi trở nên thiểu số tại hội nghị, không lay chuyển được anh Học, anh Nhu!
Rồi hai người lại ngồi yên cho tới lúc chia tay ở sân ga. Giờ này, Cảnh vẫn là nhân viên trong xưởng hỏa xa, cho nên anh phải trở lại sở làm ngay, vì lâu quá sợ người ta nghi. Minh thì quay về căn gác trọ, tiếp tục sống những ngày nơm nớp lo âu vì chiến dịch càn quét của mật thám Pháp vẫn đang tiếp diễn một cách tàn bạo, không phải chỉ nhắm riêng Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà muốn tận diệt tất cả mọi đòan thể chống đối, trong đó có Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội cũng là một mục tiêu chính yếu.
Những ngày kế tiếp, Minh nghĩ nhiều đến Lê Hửu Cảnh và cảm thấy tội nghiệp cho một người cách mạng yêu nước như Cảnh mà giờ đây lâm vào tình trạng cô đơn và bị các đồng chí ngờ vực, xa lánh. Trong cái nhìn của Minh thì Lê Hửu Cảnh là một nhân vật kiệt xuất của đảng, làm việc gì cũng tính toán cẩn trọng. Minh bứt rứt đi tìm Cảnh và gặp anh hai lần ở chỗ Cảnh làm. Lần nào, Cảnh cũng rũ Minh đi ra quán cóc ăn trưa và bàn chuyện thời sự. Ánh mắt của Cảnh không giấu nổi nỗi ưu tư, khiến Minh lắm lúc cũng phải mủi lòng!
Quả thật, Minh đóan đúng, Cảnh đang chịu những ngày dằn dặt nhất bởi tổng bộ không giao công tác gì cho Cảnh từ sau hội nghị Đức Hiệp. Đồng chí cũng ít ai muốn đến để gặp Cảnh vì sợ tổng bộ cho là kéo bè kết đảng trong lúc tình hình khẩn trương, chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Chẳng những thế, Cảnh còn biết Nguyễn Thái Học đã chỉ thị cho Ký Con Đặng Trần Nghiệp phải theo dõi hành vi của Cảnh trong lúc này, để nếu cần thì ra tay trừng trị. Cảnh buồn lắm. Đích thân đi tìm Ký Con ở Hà Nội và vài lần như thế, Ký Con mới hiểu bụng dạ của Cảnh. Nhưng dĩ nhiên Ký Con giấu kín, không tiết lộ cho Nguyễn Thái Học biết. Cảnh bảo Ký Con:
-Anh học quyết định tổng khởi nghĩa lúc này thì quả là vội vả thật! Người ta phê bình anh ấy theo chủ nghĩa “anh hùng cá nhân”! Nhưng đa số các đại biểu đã đồng ý thì tôi cũng phải tuân theo mệnh lệnh đảng chứ đi ngược lại làm sao được!
Cũng may cho Cảnh là từ lâu Ký Con vốn nể Cảnh là người từng trải và gan dạ, nên giờ này dù tổng bộ cho nghi ngờ, Cảnh vẫn dễ dàng tạo lại niềm tin trong lòng Ký Con, lúc ấy mới 21 tuổi.
Từ đó, Cảnh lặng lẽ giúp Ký Con chế bom để dùng trong ngay tại thủ đô Hà Nội trong đêm tổng khởi nghĩa, hầu đánh lạc hướng sự chú ý của chính quyền Pháp khi nghĩa quân tấn công ở các tỉnh.
Những ngày nặng nề kế tiếp nhau trôi qua rất chậm, Minh trở lại Hà Nội đếm thời gian trôi trong nỗi thấp thỏm lo âu. Cũng giống như Cảnh, Minh nôn nóng chờ lệnh của tổng bộ, nhưng chờ mõi mòn mà chả thấy ai liên lạc từ sau khi chia tay các đồng chí lãnh đạo tại hội nghị Đức Hiệp. Lúc đầu, anh chỉ nghĩ rằng tổng bộ không còn ở Hà Nội nữa, các đồng chí lãnh đạo phải cải trang bôn ba nay đây mai đó, nên chưa có dịp giao công tác cho Minh. Tuy nhiên, dần dần anh hiểu ra rằng, Nguyễn Thái Học không dùng anh bởi anh là đàn em của Lê Hửu Cảnh, người đang bị tổng bộ nghi ngờ vì những phát biểu ngược chiều tại hội nghị. Để tránh bớt căng thẳng, Minh ghé thăm bà dì, nhờ cô em họ xuống Hải Ninh thăm dò tình hình trước, rồi anh xách va-li về thăm nhà một thời gian cho khuây khỏa. Thời gian này, cũng chính là lúc mà Hậu được lệnh thóat ly, giã từ Hải Ninh, lên đường theo tiếng gọi của Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
Dòng Mực Cũ Dòng Mực Cũ - Nguyễn Ngọc Ngạn Dòng Mực Cũ