Bí mật của thiên tài là có được tinh thần của trẻ con khi mình đã lớn, có nghĩa là không bao giờ mất nhiệt huyết.

Aldous Huxley

 
 
 
 
 
Tác giả: Roberto Bolaño
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: By Night In Chile
Dịch giả: Bùi Trọng Nhự
Biên tập: Hoàng Anh
Upload bìa: Hoàng Anh
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 149 / 11
Cập nhật: 2020-04-04 20:29:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
hần Ba
Càng về sau càng chán, chán cả việc cầu kinh. thế là tôi viết bài phê bình. Tôi làm thơ. Tôi phát hiện các nhà thơ và ca ngợi họ. tôi cảnh tỉnh những tai họa sẽ đến. có thể ở nước ta tôi là thành viên tự do nhất của hội Opus Dei. lúc này đây, cái anh chàng già trước tuổi nấp ở một góc theo dõi hành vi của tôi và đang gào tên tôi. Tôi nghe thấy vài lời của hắn. hắn bảo tôi là người của Opus Dei. Tôi nói với hắn là chẳng bao giờ tôi giấu giếm điều đó. nhưng chắc chắn là hắn không chịu nghe tôi nói. Thấy thấy cả hai hàm và đôi môi của hắn đang cử động, tôi biết là hắn đang gào tên tôi nhưng tôi không nghe thấy tiếng hắn. hắn thấy tôi, miệng lẩm bẩm, người tì lên cùi chỏ trong khi cái giường của tôi chao đảo bơi theo cơn sốt lúc lên lúc giảm của tôi và hắn cũng không nghe thấy lời tôi nói. Tôi muốn bảo với hắn rằng cứ như thế chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu. Tôi muốn nói với hắn rằng ngay đến các nhà thơ Đảng Cộng sản Chile cũng chết vì họ đã viết đôi điều đáng yêu về thơ của họ. và tôi cũng viết đôi điều đáng yêu về thơ của họ. hãy hành xử cho văn minh đi, tôi thì thầm. nhưng hắn không nghe thấy tôi nói. Thỉnh thoảng đôi lời của hắn lọt vào tai tôi, rất rõ. Nhưng chỉ là những lời nguyền rủa. đồ đĩ đực, hắn nói thế a? quân Opus Dei, hắn nói thế a? đồ đĩ đực Opus Dei, hắn nói thế a? sau đó, chiếc giường tôi đang nằm tự xoay một vòng, rồi tôi không nghe thấy gì nữa. thật dễ chịu khi không phải nghe thấy gì nữa. thật dễ chịu khi không phải dùng cùi chỏ để đỡ bộ xương mệt mỏi tội nghiệp và duỗi chân duỗi tay nằm thẳng lưng trên giường mà nghỉ ngơi, ngắm bầu trời xám và để cho chiếc giường tự trôi nổi theo sự điều khiển của thần linh, rồi lim dim mắt, không nhớ gì nữa mà chỉ lắng nghe nhịp tuần hoàn của dòng máu chảy trong người. nhưng môi tôi lại động đậy, tôi tiếp tục nói. Ta không bao giờ che giấu việc ta xưng tội với Opus Dei, anh bạn ạ, tôi nói với thằng cha già trước tuổi, mặc dù tôi không nhìn thấy hắn, mặc dù tôi không biết hắn đang đứng sau lưng tôi hay đứng bên cạnh tôi hay hắn đã mất hút trong đám lau sậy của dòng sông. Tôi chẳng bao giờ che giấu điều đó. mọi người đều biết mà. Ở Chile này ai ai cũng biết. chỉ có mi, cái gã già trước tuổi kia, chỉ có mi mới không biết điều đó vì nhiều khi mi còn khờ hơn người ta tưởng. Yên lặng. thằng cha già trước tuổi không đáp lại. tôi nghe thấy từ xa đâu đó như tiếng kêu nháo nhác của bầy linh trưởng, mà chúng kêu lên cùng lúc, thật là kinh động, khi ấy tôi thò tay ra khỏi tấm chăn để sờ vào dòng sông và vất vả lắm tôi mới làm cho chiếc giọng quay sang hướng khác được, vì phải dùng bàn tay làm mái chèo, phải cử động bốn ngón tay giống như những nan quạt của dân Anh điêng, và khi chiếc giường xoay hướng thì cái duy nhất mà tôi nhìn thấy là cánh rừng rậm, con sông, các nhánh sông và bầu trời, bầu trời lúc này đã trong xanh cửa không còn xám như trước, và hai đám mây rất nhỏ rất nhẹ đang bay như những đứa trẻ bị gió cuốn. bầy khỉ thôi không nháo nhác nữa. thật là nhẹ nhõm! Thật tĩnh lặng! thật yên bình! Đúng là sự yên bình đủ để hồi tưởng lại những bầu trời xanh khác, những đám mây khác nhỏ hơn, nhẹ hơn, bồng bềnh theo gió từ tây sang đông, và trong lòng tôi lại nổi lên những cảm giác chán chường. những ocn đường vàng và những khoảng trời xanh. Càng vào trung tâm thành phố thì những con đường mất dần cái màu vàng chói chang để chuyển thành những con đường màu xám được sắp xếp một cách trật tự và có vỉa hè rộng, mặc dù tôi biết chỉ cần xới một lớp mỏng màu xám ấy lên thì bên dưới sẽ bày ra cái màu vàng kia thôi. Và điều đó gieo vào tâm trí tôi không chỉ sự nản lòng mà còn cả nỗi buồn chán, hay có lẽ sự nản lòng bắt đầu kéo theo nỗi buồn chán, ai cũng biết rõ ràng là có thời kỳ của những con đường màu vàng và bầu trời trong xanh, và thời kỳ buồn chán sâu sắc là thời kỳ kết thúc hoạt động với tư cách là nhà thơ của tôi, hay nói đúng hơn, hoạt động thơ ca của tôi là mục tiêu của một sự chuyển dịch nguy hiểm, vì rằng cái mà
người ta gọi là viết, thì tôi vẫn viết, nhưng thơ tôi đầy rẫy những lời lăng mạ, sỉ nhục và nhiều điều tồi tệ hơn nữa bv sự chuyển dịch đó mang ý thức phá phách ngay từ đầu, và tôi không cho ai xem thơ tôi làm, mặc dù khi ấy rất nhiều kẻ cảm thấy vinh hạnh khi được người ta trọng vọng. những vẫn thơ với ý tưởng rồ dại ấy hay là ý tưởng trong các vần thơ mà tôi cho là rồ dại đã đưa tôi vào trạng thái bối rối, xúc động cả ngày. Trạng thái bối rối, xúc động kèm theo trạng thái buồn chán và mệt mỏi. nỗi buồn chán và mệt mỏi thì lớn. sự bối rối và xúc động thì nhỏ nhưng chúng sống len lỏi trong ngóc ngách của trạng thái buồn chán và mệt mỏi nói chung, giống như vết thương này trong vết thương khác. Và thời ấy tôi bỏ việc dạy học. thôi không chủ trì các buổi thánh lễ. tôi bỏ thói quen đọc báo và bình luận tin tức với các em tôi vào buổi sáng. Những bài giới thiệu văn học do tôi viết không còn sáng sủa nữa (dù vậy tôi vẫn tiếp tục viết). một số nhà thơ đến hỏi tôi điều gì làm cho tâm trí tôi bị xáo trộn. tôi xưng tội và cầu nguyện. nhưng gương mặt mất ngủ của tôi phản thùng tôi. Đúng là những ngày ấy tôi ngủ rất ít, đôi khi chỉ ba tiếng, có khi chỉ hai tiếng mỗi ngày. Buổi sáng, tôi hay đi bộ từ Hiệu bộ Đại học Thiên chúa giáo đến các cánh đồng cỏ bỏ hoang, rồi từ các cánh đồng cỏ bỏ hoang đến các làng, rồi từ các làng vào trung tâm thành phố Santiago. Một buổi chiều nọ, cóh ai kẻ xấu chặn tôi lại để trấn lột. tôi nói với chúng: các con ơi, ta không có tiền đâu. Có chắc chắn là lão linh mục thọt phải có tiền, hai kẻ du đãng đáp lại. giao ví cho chúng xong, tôi liền đọc kinh cầu nguyện cho chúng nhưng ít thôi. Tôi thấy chán kinh khủng. buồn chán nhưng không thấy mệt mỏi. từ bữa ấy trở đi tôi thay đổi tuyến đường đi dạo. tôi chọn các khu phố ít nguy hiểm hơn, tôi chọn những khu phố từ đó có thể chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của dãy núi Andes, thì thời ấy mùa nào người ta cũng có thể nhìn thấy dãy núi chứ không bị bàn tay ô nhiễm che lấp như ngày nay. Và thế làttôi dạo hết chỗ này đến chỗ khác, đôi khi tôi còn trèo lên mini-bus đầu dán vào kính cửa sổ để nhìn, có lúc tôi gọi taxi tiếp tục dạo chơi giữa khoảng màu vàng và màu xanh sáng đáng ghét của sự chán chường, tôi đi từ trung tâm thành phố đến trường đại học, rồi từ trường đại học đến khu Las Condes, từ khu Las Condes đến Quảng trường Italia và vườn Bách thảo rồi sau đó vòng về trung tâm rồi vòng về trường, áo thầy tu của tôi bị gió hất bay phần phật, chiếc áo ấy là cái bóng của tôi, là lá cờ đen của tôi, là khúc nhạc của tôi được hồ một lớp bột mỏng, nó là cái áo sạch sẽ, sẫm màu, là cái giếng sâu chôn vùi mọi tội lỗi của Chile để rồi chúng không thoát ra được nữa. nhưng những cuộc dạo chơi vòng vèo như thế cũng vô ích. Sự buồn chá kkhông vơi đi mà ngược lại, vẫn còn đôi điều u uất không thể xoa dịu được làm đầu óc tôi cứ ong ong những ý nghĩ phi lý. Có lần thấy rét run cầm cập, tôi vào hàng giải khát gọi một chai nước ngọt. tôi ngồi trên một chiếc ghế cao và giương cặp mắt trên cái đầu như đã bị chặt lìa khỏi cổ nhìn những giọt nước lăn trong thành chai từ miệng xuống đáy trong khi có tiếng nói rờn rợn đâu đó từ trong nội tâm bảo tôi chuẩn bị để xem giọt nước trèo từ dưới đáy lên miệng chai, bất chấp quy luật tự nhiên. Khi đó tôi nhắm mắt, đọc kinh hay cố đọc kinh trong khi toàn thân tôi rung lên vì những cơn nóng lạnh, phía bên kia đường, trên quảng trường chính, bọn trẻ chạy nhảy dưới trời nắng, và tiếng cười nhẹ nhàng từ mọi phía vọng đến biến thành lời bàn tán nhằm vào thất bại của tôi. Tôi tợp mấy ngụm nước có ga mát lạnh rồi tiếp tục đi. Chính trong những ngày đi lang thang như vậy tôi quen với ngài Odeim và sau đó là với ngài Oido. Cả hai quản lý một doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo hợp đồng thuê của một người ngoại quốc mà tôi chẳng bao giờ biết tên. Tôi nghĩ là họ đóng hộp trai biển để gởi sang Pháp và Đức. tôi gặp ngài Odeim (hay ngài Odeim gặp tôi) trên một con đường màu vàng. Một hôm khi tôi đang đi trên đường, bị tê cóng vì rét, chợt nghe thấy tiếng ai đó gọi. ngoái cổ lại, tôi thấy một người đàn ông trung niên, không cao không thấp, không gầy không béo, khuôn mặt cũng bình thường với đôi nét Anh điêng nổi trội hơn nét mặt người Âu, mặt quần áo sáng màu, đầu đội chiếc mũ vào loại đẹp nhất, đứng cạnh một chiếc xe
đỗ giữa đường màu vàng cách chỗ tôi không xa lắm, ra hiệu gọi tôi. Tôi chưa từng gặp vị này bao giờ, nhưng hình như người này lại biết rõ mọi chi tiết về đời tôi. Ngài Odeim bảo rằng các cha cố mà tôi rất kính trọng và hàm ơn là cha Garcia Errazuriz và cha Murioz Laguia đã từng nói nhiều về tôi, rằng các cha thật lòng khuyên tôi nên công cán châu Âu một chuyến, nghĩ kỹ thì quả thật chuyến đi dài ngày ở lục địa già sẽ trả lại cho tôi một phần niềm vui và sinh lực mà tôi đang đánh mất và đang bị mất trước mắt mọi người giống như vết thương không bao giờ kín miệng và về lâu dài sẽ gây ra cái chết chí ít thì cũng là cái chết về mặt tinh thần đối với người bị thương. lúcđầu, tôi tỏ ra bối rối và do dự nhưng nghĩ rằng mong muốn của ngài Odeim không khác mong muốn của tôi là mấy nên tôi đồng ý lên xe và để ông ta đưa tôi đến một tiệm ăn gần đó có tên là Mi Oficina trên đường Banderas. Từ lúc ngồi trên xe cũng như khi đã vào quán, Odeim không dứt câu chuyện về cái điều đã thực sự thúc giục ngài tìm đến tôi, ngài nhắc tên những người mà tôi quen biết và ngài thường hay lui tới, trong đó có Farewell và các tác gia của dòng thơ trữ tình mới ở Chile, có lẽ ngài cố ý để tôi biết rằng ngài luôn luôn theo sát từng ngôi sao chiếu mệnh trong thế giới của tôi, không chỉ các hoạt động trong giáo hội mà cả những mối quan hệ thân thiết của tôi, kể cả công việc tôi đang làm vì ngài cũng nhắc đến tên vị tổng biên tập tờ nhật báo thường đăng các bài phóng sự của tôi. Nhưng rõ ràng là ngài chỉ biết một cách hời hợt. sau đó, ngài Odeim trao đổi vài lời với ông chủ của Mi Oficina và mấy phút sau chúng tôi vội vã ra ngoài, tôi chẳng hiểu lý do vì sao, hai chúng tôi khoác tay nhau đi dọc mấy phố gần đấy đến một quán khác nhỏ hơn nhưng sáng sủa hơn, ở đây ngài Odeim được đón tiếp như người ta đón ông chủ và chúng tôi ăn no bụng mặc cho trời nóng và bất kể các loại thịt không có lợi cho tiêu hóa chút nào. Ăn xong, Odeim cố nài nỉ tôi thưởng thức cà phê ở tiệm cà phê Haiti, là nơi hội tụ tất cả những kẻ đểu cáng làm việc trong trung tâm thành phố Santiago, chúng là những thứ trưởng, là những phó giám đốc sở, những phó chủ tịch hội đồng quản trị, những phó giám đốc doanh nghiệp và một chi tiết nữa là ở đây bọn họ có cái thú uống đứng, tựa người vào quầy hay đứng vào bất cứ chỗ trống nào trong gian phòng rất rộng, tôi nhớ là thông ra ngoài có hai tấm cửa to bằng kính chạy suốt từ trần cho đến nền nhà khiến cho những người đứng bên trong, một tay bưng tách cà phê, tay kia thì xách chiếc cặp số hay chiếc vali con đã sờn nước mạ, tạo thành một hoạt cảnh cho khán giả là những người đi đường, dù muốn hay không khi đi ngang qua nhà hàng cà phê nọ cũng phải ngoái đầu hay đảo mắt nhìn đám người khổ sở chen chúc nhau ở bên trong. Và tuy là kẻ ít nhiều cũng códanh tiếng, mà thực tế tôi đã có hai cái tên và có danh tiếng, với đôi ba người kình địch nhưng lại rất nhiều bạn bè, tôi cũng bị lôi kéo đến cái động tối đó, mặc dù tôi phản đối, từ chối, nhưng ngài Odeim là người rất biết cách thuyết phục. trong khi chờ ông bạn tôi từ quầy bán hàng trở về với hai tách cà phê còn bốc hơi, loại cà phê ngon nhất ở Santiago như đám sành sỏi cà phê quảng cáo, tôi đứng thu lu ở một góc nhà, mắt không rời cửa kính ra vào, bắt đầu suy nghĩ về chuyến công du mà ngài Odeim vừa mới chào mời. một lúc sau ngài Odeim quay lại, chúng tôi cùng uống cà phê, và đứng để uống. tôi nhớ là ngài Odeim có nói gì đó. ngài nói nói cười cười, nhưng tôi không nghe được gì cả vì giọng nói ầm ào như sấm động của các vị thứ trưởng choán cả không gian tiệm cà phê Haiti không nhường chỗ cho giọng nói nào khác. Đáng lẽ phải nghiêng đầu, ghé sát tai vào miệng người đối thoại giống như các cha xứ khác hay làm nhưng tôi không thích kiểu đó. tôi làm ra vẻ có nghe và hiểu, nhưng hai mắt không ngừng quan sát gian phòng rộng không ghế ngồi. không ít người nhìn lại tôi. Tôi nhận thấy trên gương mặt một số người toát lên sự chịu đựng khôn cùng. Bọn lợn cũng phải chịu đựng, tôi nhủ thầm trong bụng, nhưng ngay sau đó tôi lại thấy hối hận với suy nghĩ ấy. đúng là bọn lợn cũng phải chịu đựng nhưng sự chịu đựng ấy làm cho chúng cao thượng và trong sạch. Trong đầu tôi hay có lẽ trong lòng thương cảm của tôi lóe lên một ánh
đèn: những con lợn cũng là một bà ithánh ca tán dương ánh hào quang của Chúa và nếu không phải là bài thánh ca, vì nói như vậy cũng hơi quá đáng, thì cũng là một khúc hát, một điệp khúc hay một đoạn thơ được phổ nhạc để chào mừng chúng sinh. Tôi cố lắng nghe để dò đúng mạch câu chuyện nhưng không thể được. tôi chỉ nghe được những từ rời rạc, đúng giọng Chile, những từ không có ý nghĩa gì nhưng lại chứa đựng sự bất mãn và thất vọng vô cùng của đồng bào tôi. Sau đó, ngài Odeim kéo tay tôi và không hiểu bằng cách nào tôi lại ra được ngoài đường và đi bên cạnh ngài. Odeim ghé tai tôi bảo con sẽ giới thiệu cha với người bạn tri âm của con là ngài Oido. Tôi thấy tai bị ù và có cảm tưởng là lần đầu tiên thính giác của tôi hoạt động. chúng tôi đi trên một đường phố màu vàng. Đường phố khá vắng, mặc dù vậy sau các cánh đồng thỉnh thoảng cũng có vài người đàn ông mang kính đen và vài người đàn bà mang khăn trùm đầu. văn phòng xuất nhập khẩu ở tầng tư. Cầu thang máy bị hỏng. thể dục một tí cũng không tồi, nó sẽ làm tiêu cơm, Odeim nêu ý kiến. tôi theo sau. Trong phòng lễ tân không có ai. Ngài Odeim bảo là cô thư ký đi ăn trưa. Tôi đứng im, thở dốc, trong khi đó vị đại gia của tôi gập ngón tay giữa gõ nhè nhẹ vào cửa ra vào văn phòng ông bạn thân. Một giọng the thé cất lên từ bên trong, vào đi. Chúng ta vào đi, ngài Odeim bảo tôi. Ngài Oido ngồi sau chiếc bàn kim loại và khi nghe tên tôi ngài đứng dậy đi vòng qua bàn đến chào tôi một cách nồng nhiệt. đó làtmột người đàn ông gầy, tóc nâu, da tái, gò má sần đỏ hình như thường xuyên được xát nước xà phòng giặt tuy không bốc mùi xà phòng giặt. ngài mời chúng tôi ngồi và sau khi nhìn tôi từ đầu đến chân ngài trở về vị trí của mình đàng sau bàn. Sau đó, ngài tự giới thiệu, con là Oido. Oido chứ không phải Oido (lỗ tai). Rõ rồi, tôi nói. Ngài là cha Urrutia Lacroix. Chinh ta, tôi trả lời. ngồi bên cạnh tôi ngài Odeim mỉm cười và lặng lẽ tán đồng. Urrutia là một dòng họ có nguồn gốc từ xứ Vasco, phải không ạ? Chính xác là như vậy, tôi nói. Còn Lacroix là một từ tiếng Pháp thì rõ rồi. cả ngài Odeim và tôi đều gật đầu. đố cha biết cái tên Oido xuất xứ từ đâu? Ta không hề nghĩ ra, tôi trả lời. cha hãy đoán thử nh nào đi, ngài Oido nói. Albania à? Lạnh lắm, lạnh lắm. ta không nghĩ ra, tôi lại nói. Xuất xứ của nó là Phần Lan, Oido nói. Tên con một nửa là Phần lan, một nửa là Lettoni. Đúng thế, ngài Odeim lên tiếng. từ xa xa dân Lettoni và dân Phần Lan đã qua lại buôn bán với nhau khá nhiều, đối với họ biển Ban Tích là một cái cầu, một con sông, một con suối, một con suối có vô số cầu màu đen, cha hãy cố hình dung một tí. Thì ta đang hình dung đấy thôi, tôi nói. Ngài Oido mỉm cười. cha hình dung ra chưa? Đã, ta hình dung ra rồi. vâng, là những chiếc cầu màu đen, ngài Odeim thì thầm bên cạnh tôi. Và những người Phần Lan, những người Lettoni bé nhỏ đi qua đi lại những chiếc cầu ấy liên tục, ngài Oido nói, ngày cũng như đêm, dưới ánh trăng hay dưới ánh đèn lờ mờ, họ đi theo trí nhớ, không cần nhìn, không cảm nhận cái rét thấu xương, không cảm nhận bất cứ điều gì, chỉ đơn giản là họ còn sống và di chuyển, thậm chí họ không cảm nhận mình còn sống hay không, nhưng vẫn di chuyển, di chuyển với thói quen thường ngày là đi trên biển Ban tích, từ bên này sang bên kia và ngược lại, như một lẽ thường tình.tôi nói thêm, như một lẽ thường tình. Ngài Odeim mở bao thuốc lá. Ngài Oido giải thích là cách đó mười năm ngài đã vĩnh viễn bỏ thuốc lá. Tôi từ chối không cầm điếu thuốc mà ngài Odeim chìa ra mời. tôi hỏi công việc mà họ định xếp cho tôi là gì. Nói là công việc cũng được nhưng thực ra là một khoản trợ cấp, ngài Oido đáp lời tôi. Chúng con chuyên về kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng cũng làm một số việc khác, ngài Odeim lên tiếng. cụ thể là hiện nay chúng con đang làm cho Viện nghiên cứu của Tòa tổng giám mục. họ đang gặp chuyện khó và chúng con tìm người thích hợp để giải quyết khó khăn đó, ngài Oido nói. Họ cần ai đó thực hiện một đề tài nghiên cứu và chúng con nhận tìm người đúng yêu cầu. chúng con thỏa mãn yêu cầu tìm người và theo dõi việc thực hiện các giải pháp. Thế ta lànngười thích hợp à, tôi hỏi. xin thưa, không ai hội tụ đầy đủ các tiêu chuẩn như cha, ngài Oido trả lời. ta muốn nghe các vị nói rõ việc này là thế nào,
tôi bảo họ. ngài Odeim nhìn tôi một cách lạ lẫm. trước khi trả lời tôi bảo họ là ta muốn được nghe chính ngài Oido nói lại công việc là như thế nào và yêu cầu ta làm gì. Ngài Oido giảng giải rằng Viện Nghiên cứu của Tòa tổng giám mục muốn tìm ai đó viết một báo cáo có tính chất nghiên cứu về việc bảo quản nhà thờ. Ở Chile hầu như không có ai nắm được vấn đề này. Ngược lại ở Âu châu việc nghiên cứu đã tiến rất xa và một số trường hợp người ta đã bàn đến các giải pháp lâu dài kìm hãm sự hư hại các ngôi nhà của Chúa. Công việc của tôi là đi thăm những nhà thờ đã đi đầu trong việc thực hiện giải pháp chống hư hỏng, đối chiếu cách làm khác nhau rồi soạn một bản báo cáo và trở về. trong bao lâu? Có thể đến một năm, tôi phải tham quan ở nhiều nước Châu Âu, nếu sau một năm chưa xong công việc có thể kéo dài một năm rưỡi. hàng tháng họ sẽ trả đúng bậc lương của tôi cộng thêm phần phụ trội phù hợp với giá cả cao ở châu Âu mà tôi phải chi phí. Tôi có thể nghỉ ở khách sạn hay nhà khách của các xứ đạo rải khắp lãnh thổ lục địa già. Thấy rằng công việc không vượt quá tầm khả năng, tôi nhận lời. trong những ngày sau đó, tôi thường gặp ngài Oido và ngài Odeim, cả hai người đều xúm vào lo chạy các giấy tờ cần thiết cho thời gian tôi dừng chân ở châu Âu. Tuy vậy, tôi không thể nói là tôi thắ tchặt mối quan hệ với hai vị này. Tôi nhận thấy ngay là họ làm việc rất hữu hiệu nhưng họ thiếu sự tế nhị. Họ cũng chứ biết gì về văn học trừ hai bài thơ đầu tay của Neruda mà họ có thể và thường đọc thuộc lòng. Nhưng họ biết cách giải quyết những vấn đề hành chính mà đối với tôi hầu như không thể giải quyết được và đã hoàn thành việc dọn sạch con đường cho tôi đến điểm dừng mới. càng gần đến ngày lên đường tôi càng thấy hồi hộp. tôi dành thời gian để chia tay bạn bè, có người không tin là tôi sẽ gặp nhiều may mắn. tôi thỏa thuận với báo chí là từ châu Âu tôi vẫn tiếp tục gửi các bài bình luận và tường thuật văn học về.
Vào một buổi sáng, tôi từ giã mẹ già rồi đáp xe lửa đi Valparaiso, rồi lên chiếc tàu hành khách Donizetti mang quốc hiệu Italia chạy theo tuyến đường biển Génova-Valparaiso - Génova. Tàu chạy chậm và ghé nhiều nơi, vì thế tôi được dịp có thêm những người bạn mới mà mãi cho đến ngày nay vẫn còn giữ quan hệ, ít ra thì hàng năm chúng tôi vẫn gửi cho nhau thiệp chúc mừng năm mới rất đúng kỳ. tàu ghé vào cảng Arica, tôi tranh thủ lên boong chụp mấy kiểu ảnh ghi lại di tích pháo đài bảo vệ bờ biển rất anhdung~ của chúng ta trong quá khứ, sau đó tàu còn dừng lại ở các cảng El Callao, Guayaquil (khi tàu ngang qua đường xích đạo tôi chủ trì một thánh lễ cho tất cả hành khách trên tàu), rồi Buenaventura, ở đây ban đêm tàu neo đậu xa cầu cảng, giữa trời đầy sao, tôi tranh thủ đọc quyển sách nhỏ tỏ lòng ngưỡng mộ nền văn học Colombia được nhiều người hoan nghênh kể cả trong văn đàn Italia mặc dù họ không hiểu nhiều khi đọc tiếng Tây Ban Nha nhưng họ đánh giá cao tính âm nhạc trong cách sử dụng động từ của tác giả. Tiếp đó tàu qua kênh đào Panama, khúc eo của châu Mỹ, ghé vào cảng Cristobal, rồi cảng Colon, ở cái cảng của thành phốchia hai này có mấy tay khuân vác trên bến định móc túi tôi nhưng không thành, rồi tàu dừng ở Maracaibo lam lũ nồng nặc mùi dầu lửa, sau đó chúng tôi vượt Đại Tây Dương. Theo yêu cầu của hành khách, tôi chủ trì buổi hành lễ thứ hai trên tàu. Chúng tôi gặp cơn bão kéo dào ba ngày trên biển, nhiều người xin được xưng tội. sau đó, tàu cập cảng Lisboa. Tôi xuốngtàu, đến nhà thờ gần cảng để cầu nguyện. rồi tàu tiếp tục chạy về Málaga và Barcelona\. Cuối cùng, tà uDonizetti về đến Génova vào một buổi sáng mùa đông. Tôi chia tay những người bạnó mới và chủ trì cuộc hành lễ cho một số người ngay trong phòng đọc của tàu. Nơi đó là một khoang rộng sàn lát gỗ lim, tường ốp gỗ tếch, trần treo đèn chùm thủy tinh và được bài trí những chiếc ghế tựa rất mềm mại. tại phòng đọc này, tôi được trải qua những giờ phút hạnh phúc, tôi mê mải đọc các tác giả cổ điên tiếng Hy Lạp và tiếng Latin cũng như các tác giả Chile đương thời, tôi đã lấy lại được niềm vui sướng của một độc giả, lấy lại được bản lĩnh
của tôi, chữa lành mọi vết thương. Trong khi con tàu rẽ sóng trùng khơi, dưới ánh nắng chiều tà của biển cả, giữa đêm tối mênh mông của Đại Tây Dương, trong gian phòng được ốp tường lát sàn với loại gỗ hảo hạng ấy tôi ngồi một mình thoải mái đọc sách, hít thở mùi mặn của biển, mùi rượu mạnh và mùi của sách. Những ngay hạnh phúc ấy của tôi kéo dài đến tận đêm khuya, đến lúc không còn bóng ma nào dám mò lên boong tàu Donizetti trừ những bóng đêm canh giữ để tôi không bị quấy rầy và để việc đọcsách của tôi không bị gián đoạn. niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc, niềm vui được hồi phục, ý nghĩa chân thực của việc cầu kinh, những lời nguyện ấy của tôi bay lên đến tận cao xanh, nơi ấy chỉ có lời ca tiếng hát mà chúng ta gọi là dàn hợp xướng của các thiên thần, là nơi không phải dành cho con người nhưng rõ ràng đó là nơi duy nhất mà chúng ta có thể ở được, thậm chí là nơi con người không thể ở nhưng lại là nơi duy nhất mà chúng ta có thể là chúng ta một cách đích thực. sau đó, tôi xuống tàu lên đất Italia, chào từ biệt tàu Donizetti, và đi vào các nẻo đường châu Âu, quyết tâm tiến hành một công việc nghiêm túc với tinh thần nhẹ nhõm, lòng tràn đầy niềm tin. Nhà thờ đầu tiên mà tôi đến thăm là Nhà thờ Đức bà Maria Khổ hạnh Bất diệt. đinh ninh sẽ gặp một vị cha xứ già nhưng người tiếp tôi lại là cha Pietro, một linh mục chưa đầy ba mươi tuổi. cha Pietro tự giới thiệu và giải thích tôi hay là ngài Odeim đã gửi thư thông báo về sự có mặt của tôi, rằng ở Pistoia sự ô nhiễm môi trường không phải là tác nhân phá hoại chủ yếu đối với các công trình kiến trúc La Mã hay Gothic mà chinh là sự nhiễm động vật, nói cụ thể hơn là nhiễm phân chim bồ câu, vì giống chim này sinh sôi nảy nở theo cấp số nhân ở Pistoia cũng như rất nhiều thành phố và làng mạc khác ở châu Âu, và hứa là hôm sau sẽ giới thiệu với tôi một giải pháp hay một vũ khí đang trong giai đoạn thử nghiệm nhưng rất công hiệu để đối phó với tình trạng này. Tôi nhớ là tối hôm đó mình ngủ trong một căn phòng liền với điện thờ cô nhiều lần bất chợt tỉnh giấc tôi tự hỏi không biết mình đang ngủ trên tàu thủy hay trên đất Chile, và khi nghĩ mình đang trên đất Chile tôi cũng không biết mình đang ngủ ở nhà hay ở ký túc xá chủng viện hay ở nhà một người bạn nào đó, tôi cũng không rõ căn phòng mình đang ngủ thuộc về nước nào của châu Âu và mình đang làm gì ở đó. sáng hôm sau, chị làm công trong nhà thờ tên là Antonia đánh thức tôi dậy và bảo, thưa cha, ngài Pietro đang chờ cha đó, cha ra ngay hay để ngài ấy nổi giận. nghe vậy tôi bật dậy, rửa ráy rồi khoác áo thầy tu chạy ra sân nhà thờ xứ, vị cha cố trẻ trung Pietro đã ở đó, tay trái đeo găng tay da dày có dát kim loại, và trên trời, trên khoảng không giữa các bức tường thành màu vàng tôi nhận ra bóng một con chim, khi thấy tôi cha Pietro bảo tôi cùng leo lên tháp chuông, không nói không rằng tôi theo bước chân của cha và chúng tôi trèo lên tận đỉnh tháp chuông, cả hai đều lặng lẽ làm hết cái việc khó nhọc đó, khi chúng tôi đến đỉnh tháp chuông thì cha Pietro huýt sáo rồi vẫy tay, và cái bóng đen kia từ trên trời sà xuống tháp chuông, đậu trên chiếc găng tay mà vị cha cố người Italia đeo ở tay trái, lúc ấy chẳng cần ai giải thích tôi cũng biết là con chim bay lượn bên trên Nhà thờ Đức Bà Maria Khổ Hạnh Bất diệt là một con chim ưng mà cha Pietro đã biến thành kẻ tàn sát thiện nghệ và chính nó là phương cách được dùng để trừ khử đám chim bồ câu trong khu vực nhà thờ, rồi sau đó cũng đứng từ trên chỗ cao ấy tôi nhìn khắp lượt ra phía trước, từ ngoài qua các hàng bậc thang vào đến hàng cột ở cổng rồi vào trong quảng trường rộng màu xanh rêu trước nhà thờ, nhìn qua nhìn lại tôi chẳng thấy bóng dáng một con bồ câu nào cả. buổi chiều, nhà nuôi luyện chim ưng để săn chim, cha Pietro, đưa tôi đến một khu vực khác của Pistoia, ở đó không có các công trình xứ đạo cũng như công trình dân dụng cần phải bảo vệ tránh sự hủy hoại của thời gian. Chúng tôi đi trên chiếc xe tải thùng của nhà thờ xứ. con chim ưng được đem theo trong một cái lồng vuông. Đến nơi đã định, cha Pietro đưa con chim ưng ra khỏi lồng và ném nó lên trời. tôi nhìn con chim bay lên r lao vào một con chim câu, thấy rõ con chim câu quằn quại ngay trên không. Cửa sổ tòa nhà Hội bảo vệ môi trường mở toang, một bà
già thò đầu ra ngoài hét to điều gì đó và giơ nắm đấm dọa chúng tôi. Cha Pietro nhếch mép cười. tà áo thầy tu của hai chúng tôi bay phơi phới trước gió. Trên đường về, cha Pietro cho tôi biết tên con chim ưng là Turco. Sau đó tôi đáp tàu lửa đi Turin để gặp cha Angelo quản lý nhà thờ Thánh Pablo Cứu thế, cũng là người nổi tiếng trong nghề nuôi luyện và sử dụng chim ưng để săn chim. Con chim ưng của cha Angelo được đặt tên là Otelo và là nỗi khiếp sợ của đàn chim câu ở Turin. Nhưng theo lời tâm sự của cha thì nó không phải là con chim ưng săn mồi duy nhất ở Turin, cha có cơ sở vững chắc để tin rằng cũng có một con chim ưng khác ở một khu phố nào đó phía nam Turin và trong những chuyến bay của mình, đã đôi lần con Otelo chạm trán với con chim ưng ấy. cả hai con đều săn chim câu, về lý mà nói thì hai con chim ưng ấy không có cớ gì để sợ nhau, nhưng cha Angelo nghĩ rằng chẳng bao lâu hai con sẽ đụng độ nhau. Tôi dừng chân ở Turin lâu hơn ở Pistoia. Sau đó tôi mua vé đi chuyến tàu đêm đến Estrasburgo. Con chim ưng của cha Joseph ở xứ đạo này tên là Jenofonte. Bộ lông của chú chim ăn thịt này màu đen xanh, rất đậm và mượt, nhiều khi chú đậu trên ống đồng mạ vàng của chiếc đàn organ trong nhà thờ trong khi cha Joseph chủ trì thánh lễ, và nhiều khi đang quỳ để lắng nghe lời Thiên Chúa tôi cảm thấy bị đôi mắt con Jenofonte nhìn xoáy vào gáy khiến tôi bị phân tâm, và tôi nghĩ đến Bernanos, đến Mauriac là những nhà văn mà cha Joseph rất ưa thích, tôi cũng nghĩ về Graham Greene, một tác giả mà chỉ mình tôi đọc chứ cha Joseph thì không vì người Pháp chỉ đọc các nhà văn Pháp mặc dù đôi lần chúng tôi đàm luận đến tận khuya về Greene mà không tìm được điểm chung. Chúng tôi cũng trao đổi với nhau về Burson, vị linh mục liệt sĩ ở Magreb mà cha Joseph đã cho tôi mượn một quyển sách về thân thế và sự nghiệp tu hành của ông ta do Vuillamin viết, chúng tôi cũng nói chuyện về L'Abbe Pierre, một vị cha cố ăn xin Chủ nhật nào cũng đến chỗ cha Joseph rồi thứ Hai lại đi. Sau đóttôi rời Estrasburgo đi Avignon. Nhà thờ mà tôi đến là Nhà thờ Đức Mẹ Ban Trưa và giám quản ở đây là cha Fabrice. Cha Fabrice có con chim ưng tên là Ta Gueule nổi tiếng khắp vùng vì sự phàm ăn và tính hung dữ của nó. Khi cha Joseph ngồi với khách thì con Ta Gueule bay lượn và đánh tan các đàn chim không những chỉ là chim câu mà cả chim sẻ đá là loài chim từng trú ngụ rất đông đúc trong những ngày hạnh phúc xa xưa ấy ở miền Nam nước Pháp, vùng đất mà Sordel, Sordello, đã từng đi qua, lại Sordello nào? Có những buổi chiều khó quên, trong khi cha Fabrice cùng tôi chuyện trò thì con Ta Gueule cất cánh rồi bay mất hút trong những đám mây thấp, những đám hơi nước vẩn màu đen đen từ vùng đồi núi hoang sơ của xứ Avignon kéo đến, bất thình lình nó lại xuất hiện như một tia chớp hay như tia chớp lóe lên trong trí tưởng tượng và lao vào những bầy chim sẻ đá bay lượn rần rật ở đàng tây như những đàn ruồi phủ kín cả bầu trời, chỉ sau vài phút bầy sẻ đá bị tách ra làm nhiều mảng và rồi máu rơi, máu rơi thẫm đỏ trời chiều ngoại vi Avignon giống như màu đỏ lúc hoàng hôn mà ta nhìn thấy từ trong cửa sổ máy bay hay màu đỏ lúc trời hừng sáng khi ta bừng tỉnh vì tiếng rít của động cơ hay tiếng kéo rèm cửa sổ máy bay và nhìn ra nơi chân trời ta thấy một vệt đỏ chạy dài như đường tĩnh mạch, như tĩnh mạch đùi của hành tinh, như động mạch chủ của hành tinh dần dần phình to, và tôi nhìn thấy đường bay đẫm máu của bầy chim sẻ đá và nhìn thấy những vòng lượn như tấm bảng nhào bột màu của nhà họa sĩ trường phái ấn tượng siêu thực Ta Gueule, Trời ơi, sự an bình, sự hài hòa của thiên nhiên được phô bày rõ ràng không đâu bằng ở Avignon, sau đó cha Fabrice lại huýt sáo và chúng tôi chờ trong giây khắc chỉ cần đo bằng nhịp tim, chú chim ưng đáng sợ của chúng ta lại quay về sà xuống đậu trên cánh tay của cha. Sau đót,tôi đáp tàu lửa buồn bã rời Avignon đến đất Tây Ban Nha, và đương nhiên nơi đầu tiên tôi có mặt phải là Pamplona, ở đây nhà thờ được bảo quản bằng những phương thức khác mà tôi không quan tâm lắm hay nói đúng hơn là không hề được bảo quản nhưng tôi phải đến để chào những người anh em ở Hội Từ thiện La Obra vì họ đã giới thiệu tôi với Nhà xuất bản la Obra, với
giám đốc các trường của la Obra và với ông hiệu trưởng trường đại học trực thuộc la Obra, những người anh em ấy đều rất quan tâm đến công việc phê bình văn học của tôi, đến việc làm thơ, đến việc dạy học của tôi và họ nhận in cho tôi một quyển sách, họ tỏ ra hào hiệp đúng như phong cách của người Tây Ban Nha nhưng cũng rất quy cách, vì ngay sáng ngày hôm sau tôi phải ký hợp đồng, sau đó người ta chuyển cho tôi một phong thư do ngài Odeim gửi, trong thư ngài Odeim hỏi tôi châu Âu thế nào, khí hậu, các món ăn và di tích lịch sử ra sao, thật là một lá thư dớ dẩn nhưng hình như nó che giấu một lá thư khác, một lá thư không đọc được nhưng nghiêm túc hơn làm tôi thấy lo lắng mặc dù tôi không biết lá thư ẩn bên trong bức thư dớ dẩn kia nói gì và thực ra có lá thư ấy hay không. Khi tôi rời Pamplonaa mọi người ôm hôn, dặn dò, đưa tiễn quyến luyến như giữa những người thân, tôi đến Burgos, người tiếp tôi là cha Antonio, vị linh mục già yếu có con chim ưng tên là Rodrigo, không săn bồ câu phần vì cha Antonio đã quá già yếu không thể đi cùng con Rodrigo trong các cuộc săn bắt và thứ nữa là ngay từ lúc đầu cha đã đắn đo nên chăng dùng phương thức quá chóng vánh như vậy để hủy diệt những con chim cũng đều là sản vật của Thiên Chúa dù chúng có thải nhiều phân. thế là khi tôi đến Burgos, con Rodrigo chỉ ăn thịt băm hoặc thịt xay và tạng phủ mà cha Antonio hay bà giúp việc mua ngoài chợ như tim gan phèo ruột và sự ăn không ngồi rồi đã làm nó trở nên thảm hại giống như cái vẻ tiều tụy của cha Antonio, má hóp nhăn nheo vì cái điều còn tệ hại hơn việc sám hối, đó là sự đắn đo, hối hận không đúng thời. khi tôi đến Burgos thì cha Antonio đã nằm liệt trên chiếc giường ọp ẹp của một cố đạo nghèo đặt giữa gian phòng rộng bằng đá, mình đắp chiếc chăn sợi, còn con Rodrigo thì run lập cập trong một góc phòng, đầu đội chiếc mũ trùm, không còn tí lịch lãm nào như tôi đã thấy ở những con chim ưng trên đất Italia và đất Pháp, cả hai, một con chim ưng tội nghiệp và một ông cha cố đáng thương, đang lụi tàn. Nhìn thấytôi, cha Antonio gắng gượng chống cùi chỏ để ngồi dậy, giống như bản thân tôi sẽ phải gắng gượng nhiều năm về sau, hàng triệu năm về sau, nhưng cũng có thể chỉ năm ba phút về sau trước khi cái anh chàng già trước tuổi bất thần xuất hiện, tôi thấy khuỷu và cẳng tay cha Antonio gầy khẳng khiu như cái cẳng gà, cha Antonio bảo rằng cha đã nghĩ, cha nói, tôi đã nghĩ là ý tưởng sử dụng chi m ưng là không hay lắm vì rằng tuy chúng giữ cho các ngôi nhà của Chúa tránh được sự tác động bào mòn và về lâu dài tránh được tác động phá hoại của phân chim bồ câu nhưng không được quên rằng những con chim bồ câu cũng giống như biểu tượng trần gian của Chúa thánh thần, đúng không nào? Và Giáo hội Thiên Chúa có thể không có Chúa con, có thể không có Chúa Cha nhưng không thể không có Chúa Thánh thần, nó quan trọng hơn cái mà toàn xứ đạo nghi hoặc, quan trọng hơn việc Chúa Con chết trên cây thánh giá và hơn cả việc Chúa cha sáng tạo ra các vì sao, Trái Đất và cõi hoàn vũ, lúc đó tôi sờ trán và thái dương của vị cha xứ đạo Burgos và tôi nhận ra ngay là ông ta sốt đến bốn mươi độ, tôi gọi bà giúp việc sai bà ta đi tìm thầy thuốc, trong khi chờ thầy thuốc đến tôi lơ đãng nhìn con chim ưng đội mũ trùm, hình như sắp chết rét trong lồng, tôi thấy để nó như vậy thì không ổn chút nào, nên sau khi đắp thêm cho cha Antonio một tấm chăn chiên mà tôi tìm thấy ở sau điện thờ, tôi tìm chiếc găng tay sắt rồi tóm con chim ưng đi ra sân, nhìn bầu trời trong veo và lạnh buốt, tôi bỏ chiếc mũ trùm cho con chim ưng và bảo nó: bay đi, bay đi Rodrigo, đến lần thứ ba thì con Rodrigo vỗ cánh bay, càng lên cao nó càng bay khỏe, đôi cánh nó quạt gió như cánh quạt rất to bằng kim loia.i và lúc đó có một luồng gió thổi như cơn bão, con chim ưng nghiêng cánh bổ nhào, tà áo thầy tu của tôi tung lên như lá cờ đầy giận dữ, tôi nhớ là lúc ấy tôi lại hét lên, bay đi, Rodrigo, và sau đó tôi nghe tiếng vỗ cánh một cách điên loạn, tà áo thầy tung tung lên che kín hai mắt tôi trong khi làn gió quét sạch sân nhà thờ và khu vực chung quanh, khi gỡ được tà áo phủ mặt thì tôi nhìn thấy những đống vụn, những xác chim bồ câu bé nhỏ đẫm máu mà con Rodrigo thả cạnh chân tôi và chung quanh tôi trong vòng bán
kính không đầy mười mét trước khi biến mất và đúng là tối hôm ấy con Rodrigo bay biến vào vùng trời Burgos, mà theo như người ta nói, ở đó cũng có những con chim ưng ăn thịt chim, phải chăng tôi đã có lỗi vì đáng lý tôi phải đứng trong sân nhà thờ gọi con Rodrigo thì có lẽ con chim ăn thịt đó đã quay lại, nhưng có tiếng chuông nhỏ lắc liên hồi từ phía sau nhà thờ, tôi biết là ông thầy thuốc và bà giúp việc gọi tôi, khi tôi quay lại sân nhà thờ thì con chim ưng không còn ở đó. đêm hôm đó, cha Antonio viên tịch, tôi cầu phúc cho cha và lo các bước hành lễ cho đến khi cha xứ mới đến thay. Cha cốmmới không cảm thấy sự thiếu vắng của con Rodrigo. Nhưng có lẽ bà giúp việc thì có, bà nhìn tôi như muốn bảo tôi là việc đó không hề gì. Có lẽ bà nghĩ rằng tôi thả con chim ưng sau khi cha Antonio qua đời hay có lẽ bà nghĩ rằng tôi đã giết con chim ưng theo chỉ thị của cha Antonio. Nhưng bà ta không nói gì về cả hai trường hợp. sáng ngày hô msau, tôi rời Burgos rồi có mặt ở Madrid. Ở thành phố này, người ta không lo cho sự hư hại của nhà thờ nhưng tôi có những việc khác cần giải quyết. sau đó, tôi lên tàu lửa đến tận Namur, Bélgica, nơi có Nhà thờ Đức Bà Đại Ngàn và cha xứ Charles mà tôi tạo được mối quan hệ thân thiết. con chim ưng của cha Charles tên là Ronnie. Tôi thường cưỡi xe đạp cùng dạo chơi với cha Charles trong các cánh rừng vây quanh thành phố, trên mỗi xe chúng tôi có một chiếc giỏ đựng thịt ướp lạnh và lúc nào cũng kèm theo một chai rượu vang, có hôm tôi xưng tội với cha Charles ngay giữa bãi cỏ có nhiều hoa dại và cây tùng bên bờ con sông nhánh của một dòng sông lớn nhưng tôi không nhắc gì đến cha Antonio cũng như con Rodrigo đã ra đi không phương cứu chữa trong một đêm sáng trời ở xứ Burgos. Sau đó, tôi từ giã cha Charles tuyệt vời và đáp tàu lửa về hướng San Quintin, nước Pháp. Người đón tiếp tôi là cha Paul ở Nhà thờ Thánh Pedro và Thánh Pablo, một công trình kiến trúc Gothic quý giá. Về cha Paul và con chim ưng Fiebre của cha, có một chuyện xảy ra vừa buồn cười vừa gây tò mò. Số là vào một buổi sáng nọ, chúng tôi cùng đi diệt chim câu cho quang bầu trời, nhưng không thấy bóng con chim câu nào cả, cha Paul cảm thấy không vui vì cha còn trẻ và rất tự hào về con vật của mình từng nổi danh là con chim săn hay nhất vùng. Khi ấy có tiếng ồn ào ở quảng trường Tòa thị chính nằm sát ngay sân nhà thờ Thánh Pedro và thánh Pablo càng làm cha Paul cảm thấy khó chịu. trong lúc cha pau, tôi và con Fiebre đang chờ thì bất chợt chúng tôi thấy một con chim bồ câu từ phía sau mái ngói đỏ baoquanh nhà thờ bay vút lên, cha Paul thả con chim ưng và chỉ trong khoảnh khắc cuối cùng dứt tiếng gà gáy con chim ưng đã thanh toán ngay con chim câu từ quảng trường Tòa thị chính bay lên hình như theo hướng Nhà thờ thánh Pedro và Thánh Pablo, và con chim câu bị con chim ưng mổ chết rơi ngay tại chỗ, có tiếng ồn rộ lên ở quảng trường Tòa thị chính San Quintin, thay vì chạy trốn, cha Paul và tôi rời sân nhà thờ đi về phía quảng trường Tòa thị chính, xác con chim câu màu trắng nằm ngay trên quảng trường, máu chảy thẫm đỏ mấy viên đá lát, nhiều người vây quanh xác con chim nhỏ, trong đó có cả ngài Thị trưởng và một đoàn vận động viên thê/ thao, và lúc đó chúng tôi chợt hiểu rằng con chim câu trắng bị con Fiebre tiêu diệt là biểu tượng của cuộc trình diễn điền kinh, các vận động viên tỏ ra tức giận và bức xúc cũng như các quý bà trong Hội thượng lưu San Quintin đỡ đầu cho cuộc việt dã và là những người đã đưa ra ý tưởng khởi đầu cuộc trình diễn bằng con chim bồ câu trắng bay, cả những người cộng sản San Quintin cũng tức giận vì họ đã ủng hộ ý tưởng của các đệ nhất phu nhân thành phố bởi đối với họ con bồ câu chết kia và ngay trước đó nó còn sống hay đang bay không chỉ là con bồ câu biểu tượng cho sự hòa hợp hay hòa bình trong lĩnh vực thể thao mà còn là con bồ câu trắng của Picasso, một con chim nhằm hai mục đích, nói tóm lại là mọi lực lượng có mặt hôm đó đều nổi giận trừ bọn trẻ nhỏ, chúng thán phục tìm bóng con Fiebre trên trời và kéo đến hỏi cha Paul chi tiết có tính kỹ thuật hay tính khoa học về con chim ưng dũng mãnh của cha, còn cha Paul với nụ cười trên môi, xin lỗi tất cả những người có mặt, cha giơ tay ra hiệu xin lỗi vì một sai sót mà người nào
cũng có thể mắc phải và sau đó chaquaysang làm vui lòng bọn trẻ với những câu trả lời có lúc hơi phóng đại nhưng đều mang tinh thần Cơ đốc. rồi sau đóttôi đi Paris, và ở lại đó gần một tháng để làm thơ, tham quan bảo tang, đến thư viện, thăm nhà thờ, có những nhà thờ quá lộng lẫy làm tôi ứa nước mắt, tôi cũng dành nhiều thời gian cho việc phác thảo báo cáo về cách bảo quản các công trình kiến trúc mà cả nước quan tâm, đặc biệt nhấn mạnh việc sử dụng chim ưng, gửi các bài bình luận văn học hay bài tường thuật về Chile, đọc các quyển sách từ Santiago gửi sang, ăn nghỉ và dạo chơi. Thỉnh thoảng, ngài Odeim gửi tôi một bức thư ngắn không đâu vào đâu. Hàng tuần, tôi đến Đại sứ quán Chile một lần để đọc báo trong nước và chuyện trò với viên Tùy viên văn hóa, một mẫu người rất dễ gần, rất Chile, rất sùng đạo nhưng học thức không cao lắm, anh ta học tiếng Pháp qua việc giải trò chơi ô chữ trên báo Le Figaro. Sau đó, tôi sang Đức, tham quan Baviera, sang Áo, sang Thụy Sĩ. Rồi tôi quay về Tây Ban Nha, tham quan Andalucia, tôi không thích xứ này lắm, tôi lại có mặt ở Navarra, đó là một xứ sở tuyệt vời, ghé thăm xứGalicia, Asturias và Vanscongadas. Sau đóttôi đi tàu lửa về Italia. Đến thành Roma tôi quỳ trước Đức Thánh Cha. Tôi khóc. Tôi gặp những giấc mơ khắc khoải. tôi mơ thấy những mụ đàn bà lắm mồm lắm mép. Tôi mơ thấy cha Antonio, cha xứ đạo Burgos, trước khi tắt thở cha còn mở một mắt nói với tôi: điều này xấu lắm anh bạn trẻ ạ. Tôi mơ thấy một bầ ychim ưng, có đến hàng nghìn con, đang bay trên cao không của Đại Tây Dương, hướng về châu Mỹ. đôi lần mặt trời bị thâm đen trong giấc mơ của tôi. Lần khác thì một vị cha cố phì nộn người Đức xuất hiện và kể tôi nghe một câu chuyện phiếm. ông ta bảo này cha Lacroix, tôi sẽ kể cho cha nghe một câu chuyện hài.đức Thánh Cha ngồi ở một trong những căn phòng của Vatican yên tĩnh chuyện trò với một nhà nghiên cứu thần học người Đức. đột nhiên có hai nhà khảo cổ người Pháp xuất hiện, rgt xúc động và lo lắng, họ bảo với Giáo Hoàng là họ mới từ Israel về và có hai thông tin, một tin rất hay và tin kia hơi khó nghe. Giáo hoàng khẩn khoản yêu cầu họ kể ngay đừng để Người sốt ruột. hai người Pháp tranh nhau kể, tin hay là họ đã tìm thấy Thánh Mộ. thánh Mộ Đức Kito à? Đức Giáo hoàng hỏi. vâng, chắc là như vậy. đức Giáo hoàng bật khóc vì xúc động. thế còn tin xấu là gì? Đức Giáo hoàng vừa lau nước mắt vừa hỏi. dạ thưa, chúng con thấy trong Thánh mộ có thi hài của Đức Kito. Giáo hoàng ngất xỉu. hai giáo sư khảo cổ người Pháp vội vàng quạt cho Giáo hoàng. Vị giáo sư thần học người Đức, cho đến lúc này là người duy nhất còn bình tĩnh, liền hỏi, a, hóa ra Đức Kito có thật sao? Amen. Mấy ngày sau tôi quyết định trở về Chile. Tôi về bằng máy bay. Tình hình đất nước dạo đó không được tốt. không nên mơ màng, nên nhất quán với mình, tôi tự nhủ. Không nên tự đánh mất mình trước những điều hão huyền mà phải có lòng ái quốc, tôi nhủ trong lòng. Mọi việc diễn ra ở Chile không hay lắm. đối với tôi mọi cái đều tốt nhưng đối với Tổ quốc thì không hay chút nào. Tôi không phải là người sùng ái chủ nghĩa dân tộc nhưng tôi chân thành yêu đất nước tôi. Chile, ôi, Chile, sao Người đổi thay nhiều như vậy, đôi lần tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ảo ảnh của Santiago phản chiếu ở xa xa mà tự vấn. họ đã làm gì đối với Người? dân Chile hóa điên cả rồi sao? Ai là kẻ có lỗi? Lần khác, trong khi đi trong hành lang nhà trường hay hành lang của tòa báo, tôi lại hỏi, ôi Chile, Người định tiếp tục cho đến bao giờ? Phải chăng Người sẽ biến thành cái gì khác? Người sẽ biến thành con quái thú để chẳng ai nhận ra Người?
Đêm Chi Lê Đêm Chi Lê - Roberto Bolaño Đêm Chi Lê