Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:49:05 +0700
Chương II Suối Máu
B
ây giờ cuối mùa mưa. Vòm trời vẫn cao dù đã chạng vạng tối. Từng cơn gió thổi nhè nhẹ, mơn man. Cảnh vật xung quanh vẫn vậy. Những mầu sắc chìm dần vào vắng lặng. Tôi quay mặt nhìn về căn nhà, nơi đã sống hơn 5 tháng, đã chịu đựng bao nhiêu vui buồn trong suốt thời gian trú ngụ. Sự thực, trong đời, không bao giờ tôi có thể ước tính được, vùng đất đỏ này có một thời gian tôi phải góp mặt, dù cho sự góp mặt này không mấy thích thú. Tôi đã sống, đã ăn, đã ở, đã trằn trọc từng đêm, đã hối hả từng ngày trong kích thước hạn định, để trải dài quá khứ trên những mũi nhọn do kẻ thù giăng mắc! Những giọt nước mắt và những giọt máu tuy không nhìn thấy, tuy không thấm qua da thịt, nhưng đích thực nó âm ỉ, chảy len lén rỉ ngầm dưới mọi hình thức, có thể trong đêm khuya, có thể ở nơi nào không có bóng người, chỉ riêng mình với hổ thẹn!
Hàng chục ngàn con người hiện diện nơi đây, hàng chục ngàn trái tim và khối óc đã suy nghĩ gì, cảm nhận gì, trong suốt khoảng thời gian vừa qua, tuy không dài và bao quát, nhưng sao nó chứa chất muôn vạn ưu phiền? Con người, một khi mất đi chí hướng, không còn ham muốn, ganh đua, tức con người đã hoàn toàn thất bại! Cái vùng trời vinh quang nào đó, bây giờ trở thành một khối âm u, nhức nhối trong mỗi suy nghĩ về nó. Nhưng muốn phủ nhận nó, không phải chuyện đơn giản. Nó là chứng tích, là ung nhọt, nó quấn quít đeo đuổi, ám ảnh mình còn lâu, có lẽ, đến giây phút nào vắng mặt!
Căn nhà tôi ở, phía xa kia, mầu xám của mái tôn ẩn hiện lờ mờ. Nó bé bỏng, nhỏ nhoi, lạc lõng giữa khu vực rộng rinh đang chìm dần vào bóng tối. Những ngọn đèn đã bật sáng. Ánh lửa đỏ lòm thấp thoáng đó đây, sao giờ này nó trở thành buồn thảm? Vài bóng người qua lại, không làm cảnh vật thêm sinh động. Tôi nhìn xoáy vào nó, ghi lại lần cuối, hình ảnh đó để mong giữ lại trong tôi chút gì để nhớ, để quên! Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc sâu vào tâm cảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận! Cũng như mai đây, tôi sẽ phải quên đi từng nỗi nhục nhằn đã gánh chịu trong suốt hơn 100 ngày mưa nắng giữa vùng đất đỏ, rừng cao su vây lút bốn bề!...
Chúng tôi, những kẻ bại trận, lẽ dĩ nhiên phải hứng chịu hậu quả tất nhiên. Nhưng sức chịu đựng của con người có hạn, chắc gì tất cả mọi người có mặt nơi đây, hay ở một nơi nào khác, đều có thể kinh qua được mọi khó khăn, trở ngại mà kẻ thù đã cố tình buộc mỗi cá nhân phải cúi đầu chấp nhận, như đã chấp nhận tội lỗi quá khứ của mình!
Những chiếc Molotova, lát nữa sẽ đưa chúng tôi đến nơi nào chưa đoán biết. Có thể, căn cứ Sóng Thần, có thể địa điểm khac ngoài dự tưởng!
Hơn 100 ngày qua, chúng tôi đã ước đoán nhiều, nhưng tất cả đều sai! Chúng tôi quá ngây thơ trước một kẻ thù quá xảo quyệt. Chúng tôi như đàn cừu trước lũ sói. Họ muốn đưa chúng tôi đi ngả nào tùy họ, kể cả vấn đề sống, chết. Theo Thông Cáo, giấy trắng mực đen, một tháng học tập cải tạo, đã bị Cộng Sản bội tín. Cũng nhờ vào sự bộị tín đó, nên một số trong chúng tôi đã nhìn rõ thực tế. Sự tin tưởng vào đường lối, chính sách cũng bớt đi phần nào, nhưng không phải vì thế, tất cả đều suy nghĩ và hành động như nhau để tạo thành lực lượng, có sức mạnh đoàn kết đấu tranh với kẻ thù trong mọi trường hợp bất lợi cho tập thể!.
Trong thời gian tại ngũ, tôi có dịp đi công tác tại Phú Quốc! Những ngày sống ở đảo, tôi đã được nhìn, được nghe về mọi sinh hoạt của các tù binh Cộng Sản. Sĩ quan có khu riêng, Hạ sĩ quan và Binh sĩ có khu riêng, nhưng khu nào cũng có sập gỗ và chiếu, mền tử tế, nơi nằm rộng rãi, khoảng khoát chứ không như Cộng Sản nhốt chúng tôi, bắt nằm đất, không cho manh chiếu. Sự sinh hoạt của Cộng Sản trong trại giam, tương đối thoải mái. Ngoài giờ lao động bắt buộc, họ có thể làm mọi công việc riêng tư theo ý thích. Mỗi tối, họ lén lút sinh hoạt chính trị để xây dựng lẫn nhau. Những “phần tử trung kiên của Đảng” vận dụng mọi hình thức để tuyên truyền, lôi kéo phần tử nào xét thấy tinh thần đấu tranh đã chao đảo! Mọi hình thức nghiêm khắc được áp dụng triệt để, nhiều khi đến đổ máu! Tôi cũng biết, trong giai đoạn ấy, họ dám đấu tranh tích cực vì đang thời chiến, sau lưng họ còn có lực lượng vũ trang cũng như chính trị yểm trợ. Ngày nào đó, cuộc chiến chấm dứt, họ còn hy vọng quay về hàng ngũ qua hình thức trao đổi tù binh.
Còn chúng tôi hiện nay, phía trước cũng như phía sau trống trơn, không có, không còn gì cả. Chúng tôi, một lũ người mất đất đứng! Người nào cũng lo “thử” làm sao có thể tạo thành lực lượng đấu tranh hữu hiệu?
Bóng tối đã hoàn toàn xóa mờ cảnh vật. Vì sự chờ đợi quá lâu, mọi người đều phải ngồi trên túi hành trang của mình cho đỡ mỏi. Việt cộng luôn luôn dùng đêm tối để thi hành mọi thủ đoạn, từ chính trị đến quân sự. Ai nghĩ gì cứ nghĩ, riêng tôi, không bao giờ tin việc di chuyển này có lợi cho chúng tôi.
Mấy tên bộ đội vác súng đi kiểm tra từng chiếc xe. Cũng như lần đưa chúng tôi từ Don Bosco tới đây, đoàn xe che bạt kín mít. Trong bóng tối, không nhận rõ mặt nhau, nhưng tôi chắc mọi người đều cảm thấy lo âu hơn vui mừng, ngay cả những ai lạc quan nhất. Trong trường hợp, nếu họ định thả chúng tôi sau hơn 5 tháng laọ động, học tập, khai báo tại Long Giao, họ phải đối xử cách khác. Xe họ không cần che bạt, vấn đề áp tải đâu cần đến nhiều súng ống như vậy? Vẫn cái không khí ngột ngạt, tức thở. Vẫn những khuôn mặt lầm lì đầy bí mật. Tất cả như biểu lộ sự đe dọa và sẵn sàng dùng bạo lực nếu cần.
Mậu ghé tai tôi, nói nhỏ:
- Ông ơi, có chắc sẽ Sóng Thần không?
- Bố ai biết được. Tôi nghĩ, không dễ dàng đâu!
- Thế họ đưa tụi mình đi đâu?
- Ông hỏi thẳng họ, tôi biết gì!...
- Đù mẹ, chán ghê, chán ghê!
Thấy tôi và Mậu thì thầm, Lâm tưởng có tin gì quan trọng tiến đến:
- Có gì vui không?
- Còn lâu mới vui! - Tôi gằn tiếng.
- Ông là chúa bi quan! Học tập như vậy, quá đủ rồi, ông nghĩ coi, còn gì để học, để khai báo. Về lao động, tụi mình đã lao động, nào làm cỏ, nào chữa nhà, nào làm đường, chả nhẽ họ còn bắt đạp xích-lô nữa chắc?
Không muốn câu chuyện biến thành cuộc tranh luận tại nơi đây, sợ tụi bộ đội chú ý, tôi lảng qua chuyện khác.
- Nè, bạn Lâm, khi được tha về, ông còn mở phòng mạch nữa không?
- Ô, cái đó, tùy hoàn cảnh. Nhưng nghe nói, ngoài Bắc, mọi Bác sĩ đều phải làm việc cho nhà nước, không có quyền mở phòng mạch tư. Thôi đổi đời rồi, ai sao mình vậy!
- Ông lo gì, sau mấy chục năm làm ăn, vốn liếng cũng khá rồi, chẳng làm cũng sống, phải không ông?
Lâm không trả lời vào câu hỏi, lái câu chuyện sang ý khác.
- Làm với nhà nước, nghe nói, có cái lợi được ăn gạo hộ khẩu, thực phẩm được phân phối đồng đều, các nhu yêú phẩm cũng vậy. Như thế, đâu có cần lương nhiều.
Tự nhiên, Mậu nói đâm ngang:
- Cái cứt khô! chờ đấy mà phân phối đều. Khi mới giải phóng cái ông người Bắc ở sát nhà tôi, có tên cán bộ họ hàng vào công tác ghé thăm nói, lương thực và thực phẩm được phân phối theo từng cấp Đảng viên. Lớn hưởng nhiều, nhỏ hưởng ít, còn nhân dân thì ngáp dài! Chán ghê, chán ghê! Ông bác sĩ này ngây thơ bỏ mẹ!
Lâm không trả lời, lôi trong túi ra bao thuốc, mời hút. Ánh lửa loé lên một giây rồi tắt ngấm. Những làn khói toả ra, tan nhanh theo chiều gió.
Chúng tôi vừa rít mỗi người được vài hơi thuốc, bỗng hồi còi rúc từ xa vọng lại.
- Cho tất cả đồ “nên” xe, người “nên” sau. - Tên cán bộ quản giáo cho lệnh.
Những túi hành trang được quăng đại vào lòng xe, nhưng chẳng ai chịu lên, vì rút kinh nghiệm lần trước, càng vào sâu càng nghẹt thở.
- Anh này, chờ gì, chưa chịu “neo nên”? còn anh kia nữa, sao đứng ì ra vậy? mau “nên” xe chạy tới nơi rồi.
Tên quản giáo la hét lần cuối, trước khi trao quyền cho người khác.
Biết rằng, có chùng chình cũng vô ích, anh em bắt đầu leo lên. Tôi bị đẩy sát vào thành xe.
Một tiếng nói cất lên giữa bóng tối.
- Thưa cán bộ cho đi tiểu!
- Ngồi chán chê không đi, lúc xe gần chạy “nại nôi” thôi. “Neo nên!”
Tên quản giáo gắt. Một bóng người bíu vào thành xe leo vội vã.
Lòng xe chật cứng. Tên bộ đội vũ trang áp tải đeo A.K. trên vai, môi ngậm điếu thuốc phì phèo còn đứng dưới.
- Ê, mấy anh xích vào trong, “nấy” chỗ tôi ngồi.
Tấm sắt hậu được nâng lên, khóa chặt. Tên bộ đội cho tay lay lay, tiếng sắt chạm nhau ken két.
Mồm vẫn ngậm cứng mẩu thuốc, tên bộ đội bám vào tấm sắt hậu, đu người lên. Sau khi ngồi yên chỗ, hắn tháo dây súng từ vai xuống, kẹp chặt khẩu A.K. giữa hai bắp đùi. Tiếng máy xe bắt đầu nổ. Khi xe vừa lăn bánh, hắn cho tay kéo tấm bạt xuống. Cũng may, tấm bạt này bị rách một mảng khá lớn, nên dù bỏ xuống, chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy bên ngoài. Vài ánh đèn pin quét nhanh vào bóng tối. Tôi cố gắng thu nhỏ mình lại, nhưng vẫn chật, có phần chật hơn chuyến di chuyển trước. Không ai có thể nhúc nhích, dù xoay trở cho đỡ tức tay chân.
Chiếc xe giật mạnh, chồm tới phía trước. Bánh xe nghiến trên con lộ đá xào xạo. Chính con lộ này, các cải tạo viên đã đổ nhiều công sức lao động mới tạo thành. Con lộ, anh em ước mơ dành cho quan khách thăm viếng trước ngày lễ mãn khóa, giờ này thực tế đã chứng minh.
Đoàn xe lần lượt qua cổng. Một khối bụi đỏ khổng lồ bốc lên qua ánh đèn pha trông dễ sợ. Mọi người cho tay bịt miệng, nhưng cơn lốc bụi đỏ kéo dài làm khó thở. Tôi nhắm nghiền mắt. Con lộ quá xấu, chiếc xe nghiêng ngã, chồm lên, tụt xuống. Bị nhồi quá mạnh, gan ruột tôi cồn cào khó chịu. Nhưng khoảng mười phút sau, xe ra tới đường nhựa. Chiếc xe trôi êm với tốc độ trung bình. Tôi mở mắt nhìn. Từ phía sau, khối bụi đỏ kéo dài cả mấy cây số đang cuồn cuộn tung lên cao, đám bụi máu.
- Ai ngồi ngoài, nhìn xem xe chạy hướng nào. Quẹo trái hay phải?
- Quẹo trái đó ông.
- Nếu vậy, hướng Sàigòn rồi. Có thể đến căn cứ Sóng Thần đấy.
Tôi không nói gì, nhìn ánh đèn xe mờ mờ trải dài mút tầm mắt. Tên bộ đội vũ trang quay mặt ra phía ngoài tấm bạt, không để ý đến chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cũng chẳng nhận diện được hắn ra sao. Đoàn xe chạy miết, thỉnh thoảng lướt qua một dẫy phố buồn hiu dọc theo lộ chính, những ánh đèn mờ nhạt chiếu ra từ các quán hàng. Tôi nhìn, trong lòng thấy vướng mắc. Tuy không định rõ được địa điểm mình đã đi qua là đâu, vì đêm qua tối, xe lại chạy nhanh và khoảng rộng cần thiết cho tầm mắt không có, nhưng tôi cũng cảm thấy cảnh tượng đó như gần gũi với mình trong quá khứ.
Cách đây mấy tháng, tất cả những gì Việt cộng có trong tay hôm nay là của chúng tôi, của người dân Miền Nam, chỉ vì một tính toán sai lầm, làm mất tất cả!
Đoàn xe lăn đều bánh giữa đêm tối mù mịt. Bên ngoài tối om nên không phân định được, cây cối hay xóm làng?
Vì nhờ có miếng rách của chiếc bạt nên trong xe có nhiều không khí. Tôi thấy thèm thuốc quá. Giá lúc này có được thuốc lào để kéo, chắc khoái lặm. Tuy đã cố gắng chịu đựng cơn thèm, nhưng ý nghĩ về cái khoái cảm của khói thuốc làm tôi thấy khó chịu. Sau không dằn được, tôi hỏi:
- Ông Lâm ơi! còn thuốc cho xin một điếu. Thèm quá trời, không chịu nổi.
- Điếu của ông đâu?
- Điếu đã đổ hết nước từ chiều, cất kỹ rồi!
- Ráng chịu! Ngồi kẹt cứng sao lấy được?
Tôi cố nài nỉ:
- Ông ơi, thương nhau chút mà!
Một vài tiếng càu nhàu nổi lên, phản đối Lâm.
- Thuốc đây, vì ông, anh em la dữ quá!
Tôi cầm chặt điếu thuốc đã bẹp rúm, quăn queo trong tay, đưa lên môi. Ánh lửa bùng lên. Tôi rít một hơi dài, thật dài. Khói thuốc vô đầy lồng ngực. Vì không còn hoàn cảnh hút thuốc lào, nên phải hút đỡ thuốc lá, tuy nhiên, giữa lúc này bất cứ thứ khói nào đối với tôi cũng có giá trị. Tôi thầm cám ơn Lâm. Vừa kéo được vài hơi, có bàn tay đạp nhẹ vào vai:
- Cho xin một hơi, ông! Chán ghê, chán ghê!
Tôi đưa thuốc cho Mậu. Trong bóng tối, tôi nhìn đầu điếu thuốc đỏ liên tục. Khi Mậu đưa trả lại tôi, điếu thuốc chỉ còn mẩu cuối!
- Ông hút hết đi, trả lại làm gì? Vừa xin được điếu thuốc, mới kéo được một, hai hơi, ông đã làm hết. Như vậy chơi với ai?
Mậu cười khục khục:
- Tôi thèm, cũng như ông thèm. Khi nào xuống xe, tha hồ hút, tôi mời ông cả bao!
Không trả lời, tôi rít hơi thuốc cuối, rồi quăng nhanh ra ngoài vì hơi nóng đã bén vào ngón tay. Tôi ngậm chặt miệng không cho sợi khói nào thoát ra.
Có tiếng nói, cất lên:
- Gần tới Biên Hoà rồi đó, mấy ông!
- Sao biết?
- Quê tôi mà! Căn cứ Sóng Thần là cái chắc!
Không ai nói thêm câu nào. Mọi người hình như đang sống với suy nghĩ của riêng mình. Có thể, trong số anh em có mặt giữa lòng xe chật chội này, nhiều người vẫn hy vọng dù cho hy vọng chen lẫn lo âu! Vì không ước đoán được dự tính của Cộng Sản, nên luôn luôn chúng tôi sống trong trạng thái chập chờn, không dám khẳng định gì, trước khi sự thực đã phơi bày trước mắt. Chúng tôi đã sống như vậy hơn 5 tháng trời, nên nếu có ai nêu lên những hình ảnh dù lạc quan, dù bi quan, thái độ của hầu hết vẫn là chờ xem! Nếu quả thực, đoàn xe đi về căn cứ Sóng Thần, đó là điều may mắn. Tôi không hoàn toàn phủ nhận niềm tin đó, nhưng sao trong lòng vẫn dâng lên nỗi hoài nghi, giống như cây nến nhỏ đặt trước cơn bão!
Đoàn xe đang chạy ngon trớn, bỗng đổi tốc độ, chạy chậm lại, quẹo vô con lộ đất, tương đối hẹp.
- Chết cha rồi! - Một tiếng kêu nhỏ thốt lên.
Tôi choài người, thò hẳn đầu ra ngoài, qua khoảng bạt rách. Đoàn xe dừng lại. Tên bộ đội áp tải lao mình khỏi lòng xe. Tôi nhìn thấy những mái tôn thấp thoáng sau dẫy đèn đục ngầu hiu hắt. Từng chiếc một, từ từ lăn bánh qua chiếc cổng sắt mở rộng. Những khẩu A.K. cầm ngang ở tư thế tác chiến. Ngay đầu cổng, một bên có vọng gác, một bên đặt ổ đại liên, chĩa nòng về phía đoàn xe.
- Ông nào quê Biên Hòa đâu? Đây là nơi nào?
Không có tiếng trả lời. Trong lòng xe như chứa toàn xác chết! Mậu cũng nhoài người, vén cao chiếc bạt, đưa mắt nhìn quanh quất.
- Chết cha rồi, mấy ông ơi! Nhiều kẽm gai lắm!
Tôi bám chặt vào thành xe, ngoái đầu ngó về phía trước. Chiếc xe trên, đang bò từ từ vô cổng. Trước mắt tôi, một khoảng trống khá rộng. Quá nhiều kẽm gai thực. Từng lớp, từng lớp, trải dài dầy đặc. Vùng ánh sáng mờ nhạt phía sau cổng, cho tôi nhìn thấy đám người tay ôm đồ vội vã nhảy xuống. Có người không hiểu sao, từ trên ngã chúi, chiếc ba lô to kềnh đè lên người, khiến anh không dậy được. Một người bạn cúi xuống, nâng lên. Mấy tên lính Việt Cộng đứng gần đấy cười nham nhở. Qua cảnh tượng đó, tôi đoán biết, những gì đang chờ đón chúng tôi phía sau chiếc cổng kia. Chiếc xe chở chúng tôi rồ máy, lăn bánh. Tên bộ đội áp tải lúp xúp chạy theo sau.
Sau khi qua cổng, chiếc xe ngừng lại, không tắt máy. Tiếng kéo chốt nghe kèn kẹt, tấm sát chắn hậu được hạ xuống. Tên bộ đội áp tải cho lệnh: Xuống! Chúng tôi lần lượt nhảy ra khỏi lòng xe. Một người chuyển đồ từ trên cho người đứng dưới đó. Vài gói đồ được quăng đại trên nền đất, khi chưa ai nhận. Một tên Việt Cộng đeo súng ngắn đứng giữa sân ra lệnh:
- Các anh tập họp hàng hai!
Chúng tôi lếch thếch ôm đồ trong tay, vì quá vội chưa kịp đeo lên vai. Chiếc xe chạy vòng phía trước mặt, biến nhanh vào bóng tối nơi cuối sân.
Sau khi điểm số xong, tên Việt Cộng, nhìn vào miếng giấy do tên vũ trang áp tải trao, hắn gục gặc đầu, quay người ngoắc tên đứng phía sau:
- Đồng chí đưa toán này vào khu 4.
Tên bộ đội nghe lệnh, tiến đến bên chúng tôi, cầm khẩu A.K. bằng một tay, sợi dây súng xả xuống gần chấm đất.
- Đi thẳng phía trước!
Chúng tôi bước đi, tên Việt Cộng chờ mọi người qua hết, mới theo sau. Từng bước nặng nề, chúng tôi lết theo hàng rào kẽm gai tiến tới chiếc cổng gỗ. Tên bộ đội gác cổng sửng mắt nhìn, như nhìn lũ quái vật. Sự thực, lúc này tôi cũng không có thì giờ để quan sát kỹ cảnh vật xung quanh. Túi hành trang nặng chĩu trong tay, tôi phải nghiêng người để giữ thăng bằng mỗi bước chân.
Đêm đã quá khuya, nhìn đồng hồ tay, gần 1 giờ sáng.
Tôi thấm mệt, mọi người chắc cũng vậy, nên bước chân người nào cũng lảo đảo. Từ cổng đi vào nơi ở mới cũng khá xa. Chỗ tối, chỗ sáng, đôi khi phải nhảy qua những rảnh nước, nên càng mất sức.
Chiêc cổng thứ ba còn đóng. Nơi đây, không có người gác. Tên áp tải tiến lên ẩy mạnh.
- Đi vào! - Tiếng ra lệnh khô khan.
Lần lượt, mọi người qua cổng, rồi men theo con đường nhỏ, dọc bên hông dẫy nhà sâu hun hút. Trong những căn đầu, đã có người ở. Tôi liếc nhìn, dưới làn ánh sáng đục ngầu, những thân người cởi trần, mặc quần xà-lỏn, kẻ nằm, người ngồi ngổn ngang trên nền đất. Một vài chiếc đầu bù xù ngó ra vì tò mò.
- Nhanh “nên”!
Tên áp tải giục. Chúng tôi rảo bước. Bỗng có vật gì gieo mạnh phía sau. Tôi quay lại: Huy hụt cẳng, té xuống đường mương. Tôi cúi xuống kéo Huy. Hai ống quần Huy lấm be bét toàn bùn!
Chúng tôi đi qua chừng mười mấy căn nhà đầy người. Căn nào, có người mới đến còn lộn xộn, đồ đạc để ngổn ngang. Tiếng nói chuyện ồn ào như vỡ chợ.
Tên bộ đội cho lệnh dừng lại nơi căn nhà trống. Chúng tôi bước vô. Nó nhíu mày nhìn chúng tôi quăng vật dụng lung tung xuống nền đất.
- Ê, kể từ giờ phút này, các anh ‘nà” tù! Các anh phải tuyệt đối phục tùng “nệnh” của chúng tôi, nếu không sẽ bắn bỏ!
Ngón tay nó để vào cò súng, như có ý bắn thật, nếu có ai phản đối câu nói đó.
Chúng tôi, ai nấy sững người, khi nghe tiếng “tù”!
Đây, lần thứ nhất, người đại diện cho Cách Mạng gọi chúng tôi băng danh từ “tù”. Tên Đại Tá Bình, khi thuyết giảng đã khẳng định: các anh, những cải tạo viên, chứ không phải tù. Nếu là tù, các anh phải được đưa ra Tòa Án xét xử! Đảng và nhà nước khoan hồng, muốn cải tạo các anh từ xấu trở nên tốt, để mai sau thành những người “lương thiện”, có ích cho gia đình, xã hội!
Chúng tôi ngó nhau với ánh măt buồn rầu! Từ một góc nhà, tiếng Mậu rên khe khẽ: chán ghê, chán ghê! Tên bộ đội đi đi, lại lại giữa căn nhà, liếc nhìn sang hai bên soi mói. Đôi mắt hắn, toát ra thù hận. Có lẽ gia đình hoặc bà con nó đã bị chết về B.52 hay các loại phi cơ “cánh cụp, cánh xòe” những năm trước!
- Mấy anh nằm xích lại, còn để chỗ cho toán khác. Căn nhà này không phải dành riêng cho các anh!
Chúng tôi vội vã thu dọn, gom vào một góc. Căn nhà khá rộng, nó thuộc loại nhà gỗ, vách và mái lợp tôn. Dưới cái nóng buổi trưa miền Nam, phải sống trong kích thước này, làm sao chịu nổi?
Một toán khác bước vô. Cửa hẹp, người nào cũng muốn vô trước để chọn chỗ tốt, nên dòng người ứ đọng. Họ đang tranh nhau vô tù mà không biết.
- Ê, các anh kia, “nàm” gì, xô nhau như đi ăn cướp vậy? Từng người một, đi vào!
Tên bộ đội, hai tay nắm chặt khẩu A.K., chiếc lưỡi lê sáng chói, chĩa thẳng ra phía cửa. Lạ thay, dòng người đang chen lấn như vậy, vì câu nói đó bỗng ngưng hẳn. Từng người lần lượt đi vô dưới cái nhìn khinh mạn của tên bộ đội. Tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn!
Những người mới đến cùng cấp bậc với chúng tôi. Anh em nào quen biết từ trước, khe khẽ chào hỏi, sắp xếp chỗ ngủ gần nhau. Dưới làn ánh sáng quá yếu, tôi không nhận diện rõ ai với ai. Vài người thấy tôi, đưa tay chào, tôi đáp lại nhưng không nhớ tên.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, căn nhà đã chật cứng người. Những tấm nylon đủ màu, đủ kích thước trải kín khuôn đất. Trên 100 con người chen chúc trong một chu vi đáng lẽ chỉ chứa được chừng 80 người là tối đa. Đã trên 2 giờ sáng, chỗ ngủ vẫn chưa thu xếp xong. Có tiếng cãi cọ về chỗ rộng, hẹp. Mệt quá, tôi gieo người xuống tâm nylon cũ, do một người bạn cho, trước khi rời Long Giao.
Hơi đất mát lạnh làm tôi thấy dễ chịu. Chắc mọi người đều nghĩ đã gần sáng nên chẳng ai buông mùng. Vài người dễ ngủ đã thở đều, có cả tiếng ngáy. Tôi cũng nhắm mắt, nhưng không tài nào ngủ được. Đàn muỗi bay vo ve bên tai như sáo thổi. Tôi quạt luôn tay bằng tấm bià. Mậu và Phát không còn nằm kế bên, vì chỗ tôi nằm sát cửa ra vào để thoáng hơi. Người nằm cạnh tôi là Liêm, (Phi Đoàn Trưởng, Phi Đoàn Trực Thăng), cùng B nhưng khác Tổ. Liêm hãy còn trẻ đã mang cấp Trung Tá, vì nhu cầu quân sự. Quân chủng Không Quân, mỗi ngày mỗi bành trưóng, lớn mạnh theo đòi hỏi chiến trường. Trong thời gian chinh chiến, đã bao lần tôi dõi mắt lên vòm trời, nhìn những cánh chim thép bay lưọn chập chùng giữa không gian bát ngát. Nhờ có Không Quân, các chiến sĩ Bộ Binh yên lòng chiến đấu. Đã nhiều lần, những cánh chim thép đã cứu nguy trên chiến trường, đổi bại thành thắng. Các chiến sĩ phi công đều trẻ. Họ sống phóng túng, vì mỗi chuyến bay, mỗi chuyến có ước hẹn với Tử thần! Một viên đạn phòng không, một trái hoả tiễn SA7, hay một bất ngờ nào đó, có thể biến thành chuyến bay vĩnh biệt! Trong đầu tôi, hình ảnh chiếc L119, bốc cháy giữa lưng chừng trời, trưa ngày 30-4-75, chợt sống động. Chiếc máy bay như ngọn đuốc khổng lồ, cháy rừng rực trên cao, từ miệt Phú Lâm lao thẳng về hướng Sàigòn, hạ dần cao độ nghiêng cánh chúi mũi xuống, xuống mãi!... Một tiếng nổ chát chúa vọng đến tai tôi. Thế là hết! Chiếc phi cơ và phi hành đoàn đã tan vào tro bụi!... Nó như điềm báo trước của một thảm họa vô cùng to lớn. Xế trưa ngày 30-4, bộ binh Việt Cộng đã tràn ngập Sàigòn. Các đơn vị Quân Lực Cộng Hòa, có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô hoàn toàn tan rã. Các chiến sĩ Dù đã cởi bỏ những bộ đồ hoa oai hùng để trở thành người dân bình thường, đi chân đất. Súng ống, quần áo trận, bốt-đờ-sô vứt từng đống trên các ngả đường. Những sợi dây chiến thắng được lũ trẻ con buộc ngang bụng giả làm dây lưng. Những chiếc xanh-tuya-rông, quăng bừa bãi còn ghim đầy lựu đạn tấn công. Những tên Cộng Sản nằm vùng thứ thiệt cũng như giả, tay mang brassard đỏ, cây súng M16, ngồi trên xe jeep có cắm cờ Giải Phóng đi tuần hành trên các ngã phố. Mặt mũi đứa nào cũng vênh váo, đáng ghét! Những tràng đạn liên thanh được bắn lên trời như để chào mừng chiến thắng. Đoàn T54 chạy ầm ầm giữa đường phố Sàigòn. Vài chiếc xe đạp buộc lủng lẳng bên pháo tháp. Mấy tên Việt Cộng giơ cao khẩu A.K. reo hò điên loạn.
Tất cả, sao đêm nay bỗng sống lại trong tôi, giữa lúc Liêm đã ngủ vùi, tấm mền che kín anh, như chiếc poncho bọc thấy chiến sĩ! Tên bộ đội đã rời căn nhà từ lâu. Nhưng bên ngoài, các tên khác vẫn qua lại rầm rập. Bước chân người đi không ngớt cho tới gần sáng mới êm. Tôi thiếp đi một lúc, khi tỉnh giác, trời hãy còn mờ mờ.
Tôi rít một hơi thuốc, nhưng không dám kéo mạnh sợ tiếng động làm phiền giấc ngủ của anh em. Tuy vậy, khói thuốc ngấm, làm choáng váng. Cố giữ cơn say trong tư thế ngồi, tôi cảm thấy ngây ngất hơn.
Trời sáng dần. Xung quanh vắng lặng. Tôi nhẹ nhàng đứng lên, ra ngoài, không một bóng người. Trước mắt tôi từng từng, lớp lớp kẽm gai. Lớp cao, lớp thấp, những vòng concertina nối nhau thành một vòng xoắn bất tận. Tôi nhìn qua từng lớp kẽm gai, từng dẫy nhà lợp tôn đứng ngang dọc. Vài bóng người qua lại, trông lạc loài buồn bã! Một hồi kẻng vang lên dồn dập. Sau tiếng kẻng, tôi nghe phía trong nhà, đã có tiếng rít thuốc lào cùng tiếng ho sặc sụa. Tôi quay vô. Liêm còn ngủ, cũng như nhiều anh em khác. Những khuôn măt mệt mỏi, bơ phờ, ngáp thật dài vì giấc ngủ chưa đẫy. Tôi cố tìm trên những nét mặt hiện diện sự tinh anh khi trước, nhưng không thấy. Không hiểu sao, mới có vài tháng chịu đựng chưa mấy gian khổ, trước sự đối xử chưa có gì quá đáng của Việt Cộng, sao tinh thần anh em đã quá sa sút? Những chiếc Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao đồng, sao bạc được trao tặng trong thời chiến, đâu phải những miếng vải màu vô giá trị? Đã đành, tổ chức Quân Đội Cộng Hoà có nhiều sơ hở do cảm tình chi phối, nên vấn đề trao tặng loại huy chương cao quý đó, có bị lợi dụng để tranh thăng cấp hàng năm, nhưng không phải tất cả. Có nhiều chiến sĩ rất can đảm, anh dũng, xứng đáng được trao tặng những chiếc huy chương cao qúy đó. Vậy tại sao buổi sáng nay, tôi không nhìn thấy một nét kiêu hùng nào trên những vóc dáng đã từng làm mưa gió trên chiến trường Đồng Xoài, Bình Giả, Plei-me, Quảng Trị, Kontum, An Lộc v.v... Các Công Trường và Sư Đoàn Cộng Sản lẩn lút ở Miền Nam khi trước, đã bị các lực lượng ta giáng cho những đòn chí tử chạy trối chết. Có lẽ, vì mặc cảm thua trận, thất thế, nên tinh thần dễ sa sút! Mỗi ngày mòn mỏi một chút, lâu dần trở thành một khối ù lì... Thật đau đớn cho những ai còn có chút “máu nóng” trong người, còn biết thế nào là uất hận, nhục nhã!
Tên bộ đội đứng ngoài cửa hỏi vọng vào:
- Anh nào “nà” K.Trưởng?
- Dạ, chưa có ai. Anh em mới tới đêm qua, chưa kịp bầu.
- Thế ai “nà” B.Trưởng cũ?
- Thưa, tôi! - Một người đứng lên.
- Tạm thời, tôi chỉ định anh “nàm” K. Trưởng K15. Anh tên gì?
- Dạ, tên Lương!
Tên bộ đội ghi vào cuốn vở.
- Anh “Nương” sáng nay, K anh phụ trách việc nấu cơm cho 5 K khác ăn. 6 K nấu chung một bếp. Cứ “nuân” phiên, mỗi ngày một K. 6 K gồm có: 15, 14, 13, 12, 11 và 10. “Nát” nữa, anh gặp tôi để nhận “nệnh”.
Anh Lương (Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh ở miền Cao Nguyên) người to lớn dềnh dàng. Tôi có biết anh trong chuyến công tác những năm trước.
Mọi người lục tục ngồi dậy. Có nhiều người tôi chưa quen biết tuy cùng cấp. Đó đây tiếng điếu cày rít rèn rẹc. Hầu như tất cả, lúc này đều biết hút thuốc lào. Thuốc lá đắt và cũng bắt đầu hiếm thấy những gói Bastos Luxe và Capstan. Những tên bộ đội từ miền Bắc vô, gọi bao thuốc Bastos Luxe là “Bát-tô luy-xe”, cũng như gọi bao gạo Mỹ là gạo “Ri-xe” vì không đọc được chữ “Rice”! Anh em vì chế nhạo, nên quen miệng cũng gọi thuốc luy-xe và gạo Ri-xe!
Những khớp xương kêu lục cục vì cái vặn mình.
- Đù mẹ, mệt quá ta! Mỗi lần di chuyển, lại một đêm mất ngủ. Cái quân Việt Cộng này sống như ma, chỉ hoạt động ban đêm. Lúc trước, đánh du kích ban đêm, công đồn đả viện cũng ban đêm, hội hè, sinh hoạt, liên hoan cũng ban đêm, cái đéo gì cũng ban đêm, bây giờ chiến thắng rồi, cũng vẫn ban đêm, đếch hiểu nó là cái giống gì?
Tiếng nói lè nhè kéo dài như chế riễu. Tôi nhìn xem ai? Một thân hình mảnh mai, mặc bộ bà ba nâu, gương mặt khắc khổ, bộ râu mép dầy đen nhánh, trông có vẻ đã lăn lộn nhiều với cuộc đời!
Nhiều tiếng cười cất lên.
- Thôi,cha nội, tuy từng lúc nói nhé!
- Sợ cái đéo gì. Trận XX tại vùng 3, tăng của nó tiến đến cửa hầm, tớ còn chả sợ nữa là! còn một viên M72 cuối cùng, cũng thẩy luôn, ai ngờ nó kềnh!
- Xưa khác, nay khác!
Giữa lúc ấy, Mậu sà đến cầm điếu, nhồi thuốc, bật lửa ngữa mặt rít sòng sọc. Vừa buông điếu xuống, Mậu nằm quay lơ ngay giữa lối đi, thở hồng hộc. Nhìn thấy cảnh tượng đó, cả buồng cười hô hố. Mấy phút sau, Mậu hả cơn say, lồm cồm ngồi dậy:
- Say quá! Sao thuốc của ông sáng nay say dữ vậy? chán ghê, chán ghê!
- Ai bảo nuốt khói? Nghèo mà ham, còn kêu ca nổi gì?
Chờ Mậu tỉnh hẳn, tôi đưa tay chỉ nguời mặc bộ bà ba nâu hỏi xem ai?
- Cái ông nội đó hả? Tiểu Đoàn Trưởng đó! Tiểu Đoàn của hắn được thẩy vào XX trước nhất. Lúc ra khỏi mặt trận, quân số chỉ còn 1/3. Hắn bị thương nát người vẫn không chịu rời bỏ chiến trường. Một cây gan lì. Anh Dũng Bội Tinh xếp đầy một rổ!.
- Tên gì?
- H. râu! Ngang tàng đếch chịu được!
Tôi nhìn đăm đăm về phía H., trong lòng thầm cảm phục. Nhưng chỉ một thời gian sau, thực tế đã mặc khải cho tôi những gì. Chỉ có sự đụng chạm với quyền lợi mới biết được chân giá trị! Con người khi có quyền lực trong tay, khác xa với con người bị tước đoạt hết, kể cả nhân phẩm trước miếng cơm, khoanh cá! Hoàn cảnh đã tạo cho con người trở thành anh hùng, nhưng hoàn cảnh cũng dìm con người xuống đáy sâu ô nhục tùy theo ý chí của mỗi cá nhân cứng hay mềm!
Lương đi họp từ lúc nào đã về. Anh phổ biến các tin tức mới. Lương ăn nói không lưu loát lắm. Anh nguyên gốc người Nùng thuộc miền Đồng Mỏ - Lạng Sơn. Theo anh em nói lại, anh đi từ Binh nhì lên cấp Trung Tá qua khóa sĩ quan đặc biệt. Anh nói chậm rãi, như cố tìm chữ:
- Theo lệnh của cán bộ, Buồng ta có 4 B: B20, B30, B40 và B50. Các B. Trưởng cũ, nay là Tổ Trưởng. Riêng B20, tôi vừa làm K. Trưởng, kiêm Tổ Trưởng, còn các B khác cứ y lệnh. Nay B20 là Tổ 1, B30 là Tổ 2, B40 là Tổ 3, B50 là Tổ 4. Hôm nay, Tổ 1 phụ trách nấu cơm cho 6 K ăn, Tổ 2 phụ trách lấy củi, kéo nước. Hai Tổ kia lần tới phụ trách. Nhân tiện đây, tôi cũng xin đề nghị, anh Tổ Trưởng Tổ 4, kiêm K. Phó Hậu cần. Anh em ai có ý kiến gì không?
Một phút yên lặng trôi qua, bỗng phía sau có tiếng nói:
- Xin có ý kiến!
Tôi quay nhìn, hóa ra là Định.
- Mời!
- Theo anh K. Trưởng vừa cho biết, Tổ 1 phụ trách nấu cơm, có nghĩa là lo cả vấn đề lấy gạo, làm rau v.v... Bữa đó có món gì phải làm hết, đúng không ạ?
- Đúng!
- Còn Tổ 2 chỉ lo lấy củi, kéo nước, nhưng còn vấn đề chẻ củi ai lo?
- Lẽ dĩ nhiên, Tổ 2.
Có tiếng xì xầm quanh quất đâu đây:
- Ấm ớ bỏ cha. Dẹp! Mất thì giờ!
Buổi hội thứ nhất tan trong một không khí tẻ nhạt. Tiếng điếu cày lại rít ròn rã. Nhiều người túa ra ngoài. Vài người cẩn thận loay hoay tổ chức lại chỗ ngủ, nơi máng đồ sao cho gọn gàng, dễ coi!
Tôi cũng ra ngoài. Ở đây, mỗi gian nhà cách nhau khoảng 8 thước. Không có đường sá gì hết. Chỉ có hai lối đi hẹp ở hai bên nách nhà, chỗ rộng chỗ hẹp, rất khó khăn khi cần phải chuyển vận đồ vật nào cồng kềnh. Đến bên lối đi hẹp, tôi vô cùng ngạc nhiên, không hiểu sao, đêm qua mình có thể đi môt cách an toàn qua bao nhiêu chỗ lồi lõm khúc khuỷu? Nếu Huy có té mương, cũng không có gì lạ! Chiếc mương đầy bùn đen, đặc sệt trông dễ sợ! Tôi cũng chẳng hiểu, đêm qua Huy có ngủ được với đôi chân hôi mùi bùn? Tôi tìm chỗ lấy nước rửa mặt, đánh răng, nhưng xung quanh chỉ toàn kẽm gai. Câu nói của tên Việt Cộng đeo quân hàm Thượng Sĩ chiều qua hoàn toàn láo khoét. Ở đây không có chút tiện nghi nào hết, ngay cả cái coóng đựng nước! Xã Hội Cộng Sản, một xã hội chuyên nói dối, chuyên đánh lừa, càng lừa được nhiều càng tốt, ngay cả chuyện Miền Nam thua trận, cũng một phần do sự đánh lừa xảo quyệt mà thành! Tay cầm khăn mặt, tay cầm bàn chải, tôi cứ đi ngược lên, men theo vách nhà, bỗng nhìn thấy Cung, từ ngoài đi vô, mặt mày sáng sủa.
- Ê, cậu. Rửa mặt chỗ nào?
- Ông đi thẳng hết dẫy nhà, quẹo trái có giếng nước, tha hồ rửa!
Tôi hấp tấp đi theo hướng chỉ. Qua hết dẫy nhà, đến chiếc sân nhỏ. Tôi thấy dòng người đang như kiểu trẻ con chơi rồng rắn, trước một cánh cổng chưa mở. Tôi nhớ, hồi đêm tôi đã vào bằng chiếc cổng này. Tôi chẳng hiểu họ chờ đợi gì, đông dữvậy. Từ trên vọng gác cao, tên cảnh vệ ôm súng A.K. gườm gườm nhìn xuống. Vì cần rửa mặt, đánh răng, tôi đi vội ra phía giếng. Hàng trăm con người đang bu tròn chen lấn, tiếng sắt chạm nhau cùng tiếng cãi lộn, chửi thề văng tục tùm lum. Vài người đang súc miệng đánh răng bằng chiếc bình nhựa 2 lít, đựng nước mắm. Người nào cũng cởi trần trùng trục. Mỗi phút số người đến giếng mỗi đông. Tay người nào cũng cầm bình nước mắm và sợi dây dài. Tôi thầm phục, họ đã nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh và có dự phòng bất trắc. Tôi không có vật gì trong tay nên đành đứng ngó. Giữa lúc ấy, bỗng thấy Huy từ trong đám đông lách ra, tay xách bình nước. Tôi chạy lại:
- Ông ơi, cho xin chút nước đánh răng, rửa mặt. Cái thằng bộ đội già hồi hôm nó bắt tụi mình để lại các thùng đạn vì chỗ sắp đến có đầy đủ tiện nghi. Tiên sư cha nó, lại nói dối!...
Huy cười khục khục:
- Nghe Cộng Sản có mà bỏ mẹ. Tôi thủ bình nước cho chắc ăn. Nếu dư vứt đi, khi cần, có ngay.
- Tối qua, sao ông ngủ được với đôi chân bê bết bùn?
- Quá mệt, lăn kềnh ra, ngủ ngay. Sáng nay mới rửa được đấy. Chen vô lấy được thùng nước, cả một kỳ công. Giếng bé bằng lỗ mũi, cả trăm người bu vô. Ai cũng thả gầu xuống. Lúc kéo lên vướng dây, gỡ ra, cũng mất cả mươi phút. Vất vả lắm ông ơi! Gần 2,000 con người chỉ có chiếc giếng nhỏ này. Còn chiếc nữa, ở phía sau, chỉ dùng cho việc nấu cơm! Giếng này tuy nhỏ, nhưng cũng khá sâu đó ông!
Vì lòng tốt, Huy để tôi xử dụng bình nước. Chiếc khăn mặt ướt sũng đưa lên. Hơi nước mát lạnh làm tôi thấy khoan khoái. Tôi cứ muốn áp nó luôn trên mặt, nếu bình nước này thuộc về riêng tôi. Nhưng Huy đứng chờ đó, tôi phải làm vội vàng và không dám xử dụng hết chỗ nươc. Có lẽ, thấu rõ tâm trạng tôi, Huy nói:
- Ông cứ dùng hết nước đi, tôi lấy bình khác!
Tôi ngỏ lời cảm ơn Huy, rồi cho tay vén quần, cầm bình nước xối từ đùi xuống. Đôi chân đầy bụi đất được rửa sạch, sự sung sướng tăng lên. A, thế ra ở đời, nhiều khi một bình nước cũng làm nên hạnh phúc! Tôi đưa tay chỏ ra phía cổng, hỏi Huy:
- Họ đứng chờ gì, đông thế ông?
- Chờ đi ỉa. Từ 5 giờ sáng đã có người chờ rồi! Sáng nay, tôi mót gần chết, cố nhịn vì thấy dòng người đông quá, chả biết đến bao giờ tới lượt mình?
- Thế nhỡ chột bụng, Tào Tháo đuổi thì sao?
- Ai biết, mình sẽ tìm hiểu sau. Bây giờ hãy biết đến đó thôi!.
Tôi quay về lối cũ. Dòng người chờ lúc nãy đã ngắn bớt. Dưới ánh nắng gay gắt của buổi sáng, mặt mũi người nào cũng nhăn nhó như khỉ ăn ớt. Trước khi trở về, tôi ném cái nhìn trải rộng qua những lớp kẽm gai. Phía xa kia, ruộng đồng bát ngát. Mấy con bò màu vàng ung dung gặm cỏ. Sắc lông của chúng trở nên rực rỡ dưới ánh mặt trời. Tự nhiên tôi muốn được chạy nhảy trên cánh đồng phía trước, tôi muốn được nhìn ngắm tất cả những gì mình ưa thích, nhưng chiếc tháp canh cao ngất và những vòng kẽm gai đã bắt tôi phải chấp nhận thực tế, tức là tôi đang bị giam cầm! Tôi cúi mặt đi từng bước hờ hững.
Về đến nơi ở, Liêm đã dậy. Hai mắt hắn sưng húp vì ngủ nhiều. Lúc này đã gần 9 giờ sáng, những bao gạo “Ri-xe” được vác lên vai chạy ào ào xuống nhà bếp. Những gánh củi cao su mới bổ, màu vàng tươi, được khiêng bằng chiếc đòn to, tới tấp đi ngang qua trước mặt tôi. Những bước chân dồn dập như không bao giờ ngưng làm không khí nơi đây sinh động chứ không trầm trầm như ở Long Giao.
- Đánh răng, rửa mặt ở đâu ông? - Liêm hỏi.
- Xa lắm, tận ngoài giếng, nhưng ông có gầu không?
- Không!
- Vậy ông cứ nằm ngủ đi!
Nghe tôi nói vậy, Liêm nhổm dậy, tay cầm khăn đi ra cửa. Từ lúc nào, Mậu đã đứng bên tôi, mặt mày tươi tắn, đầu tóc chải tử tế. Tôi hỏi Mậu, lấy đâu ra nước?
- Có khó gì, tôi xuống giếng sau, kéo hộ nhà bếp mấy thùng, xong mình có quyền xin một thùng riêng. Hồi nãy, tìm khôngg ra ông, nên đi một mình, chán ghê, chán ghê!
- Ông đi thăm Trại cho biết sự tình chưa?
- Tôi định rủ ông cùng đi cho vui đây. Kéo một “bi”‘ rồi đi!
Mậu nhồi thuốc vào điếu, mồi lửa, kéo một hơi dài. Làn khói đùng đục tỏa mùi ngát đậm. Trả điếu vào chỗ cũ, Mậu đứng lên. Chúng tôi cùng đi ra.
- Đù mẹ, nhiều kẽm gai quá ta! Chỗ này, ông biết trước kia là Trại gì không? - Mậu hỏi.
- Không.
- Chỗ này, lúc trước, mình giam tụi nó, nay nó giam lại!
Tôi cãi:
- Ai bảo ông vậy? Mình giam tụi nó ở đảo Phú Quốc cơ mà. Tôi đã đi công tác cả tháng ở đấy!
- Ông không biết, đừng có làm tàng. Sớm nay ở giếng, tôi gặp tên Chung, Trung Tá Công Binh. Hắn nói, chính đơn vị của hắn xây cất Trại này để tạm giam tù binh Cộng Sản trước khi trao đổi theo Hiệp Định Paris! Hắn, cho biết, khi xây cất, tất cả mọi nhà đều có sập gỗ để nằm, nay tụi Cộng Sản đã gỡ hết, bắt mình nằm đất có đau không? Đây là Suối Máu, thuộc Tân Hiệp, Biên Hòa.
- Sao nhiều kẽm gai vậy?
- Mình lúc trước, thiếu chó gì kẽm gai. Đối với tụi Cộng Sản, quây kỹ chừng nào tốt chừng nấy. Nếu sơ suất, nó đào hầm trốn thoát, mình tù thay nó. Bên ngoài còn chôn mìn đó ông!
- Cộng Sản đểu ghê! Nó trả thù kiểu này đau hơn đánh. Thế là hết mơ ước Sóng Thần và lễ mãn khóa. Những đứa ngây thơ không biết giờ này đã mở mắt ra chưa?
- Ông thông cảm, lúc khổ và thất vọng quá, ông cũng cho phép anh em có chút hy vọng chứ? Nếu không thế, làm sao sống? Có phải ai cũng có can đảm tự tử đâu. Tôi phục mấy ông Tướng đã dám bắn Colt vào đầu để khỏi bị ô nhục như Tướng Hai, Tướng Hưng, Tướng Vỹ Sư Đoàn 5, Tướng Nam, Tướng Phú dù ông Tướng này quả thực bất tài!...
Chúng tôi tới khu nhà bếp. Mọi người làm việc nhộn nhịp. Các miệng lò đều đỏ rực! Người phụ trách nấu cơm đang đứng dạng chân trên mặt bếp, dùng chiếc xẻng to đảo cơm. Mùi cơm thơm phức tỏa ra làm tôi thấy đói. Xung quanh giếng nước cũng bu đầy nguồi. Chiếc guồng quay liên tục. Nước quay lên được đổ vào những chiếc chảo to, dùng cho việc nấu nướng.
- Cho xin một thùng anh!
- Đi chỗ khác chơi. Cơm nước nấu chưa xong, trễ cha nó giờ rồi!
Người xin bẽn lẻn lảng xa, tay cầm chiếc xô sét rỉ, trong đựng mấy chiếc áo quần.
Chúng tôi đi vòng qua giếng, xuống mấy căn nhà phía cuối.
- Ông ơi, vô chơi!
Tôi nhìn về phía tiếng gọi. A, Hưng, người bạn cùng ngành. Trong thời gian trước đây, vì hăng say trong công tác, Hưng bị anh em cùng ngành ngộ nhận, xuyên tạc: Tên Cộng Sản Nằm Vùng! Ông Tướng, Tổng Cục Trưởng, tuy quý mến khả năng và đạo đức của Hưng, nhưng vì dè dặt, không dám trao cho những chức vụ xứng đáng. Có một thời gian, tôi làm việc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Hưng. Trong những ngày đầu, tôi cũng rất khó chịu về lề lối làm việc hùng hục và sự kiểm soát quá nghiêm khắc, nhưng lâu dần, thông cảm nhau qua công việc, tôi và Hưng trở nên đôi bạn chí thiết. Hưng thường quan niệm: muốn chiến thắng Cộng Sản phải làm việc bằng 2 Cộng Sản, mà sĩ quan chúng ta lại lè phè quá! Cấp dưới họ có làm việc hay không do cấp trên. Nghệ thuật chỉ huy đã thay đổi, thay vì: En avant, nay là Suivez - moi! Tất cả ngộ nhận, nay đã được chứng minh, Hưng cũng đi tù như mọi người, trong khi đang bị bệnh phổi nặng.
Tôi nói:
- Hồi ở Long Giao, nghe tin ông ở Khu B, không có dịp qua thăm nhau được!
Hưng cười, nụ cười buồn nở trên khuôn mặt gầy guộc!
- Mình còn gặp nhau phút này, quý rồi! Sao, gia đình bình an không?
Chúng tôi nói chuyện chưa đâu vào đâu, Mậu đã kéo đi:
- Lẹ lên ông, trưa đến nơi rồi.
Tôi nắm chặt tay Hưng, hẹn sẽ lại thăm sau. Ở đây, ngày rộng tháng dài mà!
Cuộc đi vòng quanh Trại, chúng tôi gặp rất nhiều bạn, mỗi người chào hỏi một câu, cũng mất khá nhiều thời giờ. Tuy cùng sống trong một chu vi hạn hẹp, nhưng thực tế, do sự phân phối bất ngờ, nên khó chiều theo ý muốn. Không ai có quyền lựa chọn cả tốt lẫn xấu. Tất cả đều buông trôi theo định mệnh.
Khu chúng tôi đang ở là khu 4. Toàn Trại có nhiều khu, để giam giữ theo từng cấp. Mỗi khu cách biệt nhau ít nhất 6 lớp kẽm gai. Sự liên hệ giữa khu này, khu khác bị tuyệt đối ngăn cấm. Nơi đây, đúng trại tù, không thể nói khác. Toàn Trại rất ít cây, nếu có, chỉ loại cây thấp vì là vùng đất cát.
Chúng tôi đi loanh quanh đã đến giờ lãnh cơm. Cũng như ở Long Giao, Tổ cắt người trực cơm luân phiên. Cơm nước đại khái cũng như vậy, nhưng ngoài cơm, canh bí đỏ nấu muối, cứ 4 người được chia 1 hộp thịt băm Trung Quốc.
Buổi trưa, nằm trong nhà, nóng không chịu nổi. Nhiều người tìm bóng rợp do dẫy nhà tạo nên, để tránh nắng. Tay người nào cũng cầm chiếc quạt hoặc miếng bìa cứng. Không một ngọn gió thổi qua. Tôi liếc nhìn những khuôn mặt và thân hình ngồi xếp hàng dưới bóng mát. Trên mỗi sắc diện đều lộ vẻ lo âu, mệt mỏi! Thân hình đen đúa do nắng gió tạo nên. Nhiều thân xác mang những vết sẹo nhăn nhúm, có cái sâu hoắm nhăn nheo! Chiến tranh đã để lại những dấu tích trên da thịt và đeo đuổi tới lúc lià đời.
Đôi nạng gỗ lướt qua chỗ tôi ngồi. Tôi nhìn chằm chặp vào người chống nạng. Anh gầy dộc hẳn, nếu không vì đôi nạng, khó nhận ra. Bộ râu mép đè nặng trên cặp môi mỏng, bám chặt như không muốn hé ra. Tôi chắc anh đã hối hận nhiều, vì đã cố tình xin đi cải tạo, trong khi có cơ hội vượt thoát! Một bài học quá đắt giá. Khi tất cả các con cá đã vào lưới, ai có thì giờ lựa chọn từng con xấu tốt, hơn nữa, Bản Tự Khai đã biến thành bản án, không cách nào hủy bỏ. Nhưng tôi tin, trong thâm tâm anh vẫn ước mơ, Cách Mạng sẽ cứu xét về trường hợp đặc biệt này, sớm cho về! Nhưng anh có biết đâu, con đường cải tạo là con đường không có trạm dừng chân, cũng như không có ga xép! Vì thế, anh vẫn phải lê đôi nạng với chiếc chân què đi qua nhiều Trại Tập Trung từ Nam ra Bắc.
Những tên bộ đội vũ trang vác A.K. đi tuần, dù ban ngày, có lẽ đây là ngày đầu, họ sợ chúng tôi có phản ứng. Ngay sát khu, bên ngoài 3 lớp kẽm gai, có con lộ đất. Con lộ này chạy vòng quanh trại, khá lớn, đủ chỗ cho 2 xe tránh nhau. Phía bên kia, rừng kẽm gai. Nếu trong chúng tôi, có ai đủ can đảm và mưu trí trốn trại, vượt qua được 3 lóp kẽm gai này, rồi bằng cách nào có thể băng qua được rừng kẽm gai kia với bãi mìn chống cá nhân ghim đầy mặt đất? Ngay góc lộ, có vọng gác cao, Cách 500 thước, lại vọng gác, cứ như vậy chạy dài suốt con lộ, khó thoát khỏi tầm quan sát của những tên cảnh vệ gác thường trực suốt ngày đêm.
Trong những ngày đầu, chúng tôi chưa phải làm gì, chỉ ăn và nằm nếu không muốn đi rong. Ánh nắng chiều dịu dần. Tôi nhìn qua rào kẽm gai, mặt trời đã khuất sau đám mây dầy, những tia sáng còn tỏa ra, tạo nên một vùng trời rực rỡ. Cảnh vật im lìm như bức tranh tĩnh vật. Sau khi ăn cơm chiều xong, tôi đứng nhìn hoàng hôn chết dần sau rặng cây phía xa. Có bàn tay đặt nhẹ lên vai, tôi ngoảnh nhìn:
- A, người Hà Thượng, ông ở K mấy?
- K21. Sao, có mạnh không?
- Cũng vậy thôi!
Tôi nhìn Hà Thưọng Nhân, anh vẫn vậy, không thay đổi bao nhiêu, sau những tháng đầu gian khổ. Thấy tôi mặc chiếc áo rách, anh hỏi:
- Không còn áo sao?
- Làm gì còn, mình đâu có chuẩn bị đi tù dài hạn!
- Mai, tôi biếu ông chiếc áo 4 túi, kiểu phóng viên, chịu không?
- Chịu quá! A, khi ở Long Giao, tôi nghe nói, ông có bài “Mưa Long Giao“, anh em thích lắm. Đọc cho nghe đi!
Nhân nhìn tôi cười, nụ cuời nhếch môi quen thuộc.
- Bài này, Vũ Đức Nghiêm đã phổ nhạc. Để tôi bảo Nghiêm hát cho ông nghe thử.
- Tìm Nghiêm bây giờ được không?
- Có gì khó đâu.
Nói xong, Nhân kéo tôi đến tìm Nghiêm. Trước đây, Nghiêm cũng đã sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không mấy nổi tiếng. Người ta biết anh nhiều, qua việc giảng dạy sinh ngữ tại Hội Việt Mỹ. Chúng tôi đến, Nghiêm vừa rửa xong chén, muỗng.
Nhân hỏi Nghiêm:
- Rảnh chưa?
- Dạ, rảnh.
- Ông cho ông này nghe bài Mưa Long Giao!
Nghiêm cười, nụ cười rất hồn nhiên.
- Nếu các ông anh muốn.
Nghiêm vào nhà cầm đàn. Chúng tôi kéo nhau tìm một chỗ tương đối vắng người, ngồi xuống.
Tiếng đàn dạo, âm thanh réo rắt làm ấm buổi chiều trong trại tù. Giọng hát nương theo tiếng đàn cất lên:
Trời có điều chi buồn
Mà trời mưa mãi thế
Cây cỏ có chi buồn
Mà cỏ cây đẫm lệ
Mà cỏ cây lệ tuôn!...
Anh nhớ em từng phút
Anh thương con từng giây
Chim nào không có cánh
Cánh nào không thèm bay
Người nào không có lòng
Lòng nào không ngất ngây?...
Gửi làm sao nỗi nhớ
Trao làm sao niềm thương
Nhớ thương như trời đất
Trời đất cũng vô thường
Xưa cánh chim hồng hộc
Vượt chín tầng mây cao
Xưa đi khắp năm châu
Bước chân coi nhỏ hẹp
Bây giờ giữa Long Giao
Ngồi nghe mưa sùi sụt!...
Cuộc đời như chiêm bao
Có hay không nẻo cụt?
Anh châm điếu thuốc lào
Mình say, mình say sao?
Tiếng hát của Nghiêm quấn vào cung bậc nấc nở, nghẹn ngào. Bài thơ đã hay, nhạc của Nghiêm cũng không kém phần súc tích. Sau này, Nghiêm có phổ thêm mấy bài thơ nữa của Hà Thượng Nhân và vài bạn khác. Mỗi bài, được Nghiêm dùng âm thanh đưa vào không khí uất nghẹn, giận hờn, tha thiết tùy theo nội dung mỗi bài thơ. Nhưng nói chung, bài nào cũng hay, âm điệu không giống một ca khúc nào lúc trước, chỉ ở môi trường này, mới có Vũ Đức Nghiêm và những ca khúc bên trong vòng đai kẽm gai tù ngục!
Xung quanh, đã đầy cứng người yêu ca nhạc từ lúc nào. Chúng tôi đứng lên, chia tay ai về nhà nấy.
Ánh sáng đỏ lòm từ ngọn đèn tỏa xuống làm nóng thêm. Liêm, đang ngồi đánh cờ với người bạn. Tôi cầm điếu, kéo một hơi. Khói thuốc làm toàn thân tôi đê mê. Cả đêm qua mất ngủ, tôi thấy muốn nằm. Ngả lưng trên tấm nylon, hơi đất thấm lên lành lạnh. Ở Long Giao, chúng tôi còn có thể tìm được vài mảnh ván để lót lưng, chứ ở đây, chịu chết, không sao kiếm được, dù một mảnh.
Tôi vơ vẩn nghĩ đến ngày mai, một ngày mai mù mịt. Chúng tôi đang di hành trong một đường hầm sâu hoắm, không ánh sáng. Nếu cuộc sống này kéo dài, mỗi đêm hơi đất hút mất nhiều ca-lo, ăn uống thiếu dinh dưỡng, vệ sinh không có, làm sao kéo dài hơi thở? Đã đành, thể lực mỗi con người, cũng như sức chịu đựng có khác nhau, nhưng không phải vô biên! Nằm nghĩ miên man, tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Tiếng kẻng báo thức gõ dồn dập, nghe chát chúạ hơn tiếng kẻng Long Giao. Tôi nhổm dậy chưa kịp rửa mặt, đánh răng, chạy nhanh ra ngoài cổng, xếp hàng đi cầu. Khi tới nơi, đoàn người đã dài lắm, nhưng chiếc cổng chưa mở. Tên cảnh vệ từ vọng gác trên cao, quay mặt nhìn chỗ khác, hình như không để ý đến lũ người đang chờ phía dưới, bụng dạ bồn chồn, mặt mày nhăn nhó!
Những con én chao qua, chao lại như những mũi tên trong không gian vắng lặng. Mặt trời chưa lên. Cảnh vật chìm đắm dưới lớp sương mù. Một tiếng nói cất lên.
- Cán bộ, cho đi cầu!
Tên bộ đội nhòm xuống, gật đầu. Người đứng trước đẩy cánh cổng. Khoảng 20 người đi nhanh ra, băng qua con lộ sang phía bên kia, được quây kỹ bằng những tấm tôn cũ, sét rỉ, nhăn nhúm. Những người còn lại đứng chờ, khi nào có người về, mới qua được.
Chờ độ nửa tiếng, đến lượt, tôi băng nhanh qua lộ. Những con chim én bay lượn tới tấp, đôi lúc tưởng như đụng vào mình, nhưng không, với tốc độ lao nhanh như vậy, chúng tránh né rất tài tình, chẳng những tránh người, chúng còn phải tránh nhiều tấm tôn, ngăn cách các hố cầu nữa. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hàng triệu con ruồi nhặng bay loạn xa. Tiếng vỗ cánh vo vo. Những con én lao xuống để bắt, nhưng không xuể vì nhặng quá nhiều! Tôi bước vô chiếc nhà cầu phía trong. Một bãi phân to ở ngay lối đi. Tôi chửi lầu bầu trong miệng, tên khốn kiếp nào đó sợ bẩn không dám vô trong, đã đi bậy bên ngoài! Tụt quần ngồi nhanh xuống, nhưng chẳng may, vì ăn uống thất thường mấy bữa trước nên bị bón. Tay bịt mũi, tay đuổi nhặng tôi mong chóng thoát. Những con dòi bò lổn nhổn trên miệng hố. Quá khiếp đảm, tôi không dám ngồi lâu hơn nữa, xốc quần đi nhanh vô. Đàn nhặng bay rào rào. Những con én lượn không biết mỏi, sà xuống, vút lên làm tôi hoa mắt.
Nhìn thấy có người vô, một anh chắc chờ lâu, mừng quá, tay ôm quần chạy nhanh ra. Từ trên cao tiếng hét vọng xuống:
- Anh kia, đi vào!
Vừa chạy tới giữa lộ, anh ngẩng mặt nhìn lên:
- Dạ, thưa cán bộ, tôi đi cầu!
- Ai cho ra, khi anh kia chưa qua cổng?
- Dạ xin lỗi, tôi... mót quá!
- Đi vào! - Tiếng lên đạn lách cách.
Anh bẽn lẻn, cùng tôi đi vào với nét mặt thê thảm. Khi vừa đến cổng, anh toan quay lại, nhưng tên cảnh vệ phạt, không cho đi. Nó cho người kế tiếp ra trước. Anh lại ôm quần chờ, mắt nhìn xuống đất.
Về tới nhà, tôi mang chuyện nói với Mậu, Huy và Lâm. Mậu cười khùng khục.
- Đù mẹ, bữa qua tôi cũng bị y như vậy. Gần chết. Chán ghê, chán ghê!
- Đêm trước, chột bụng quá, tôi lấy chiếc que đào lỗ, làm bậy một bãi ngay sát rào kẽm gai, thế mà êm.
Lâm nói chậm rãi:
- Các ông “đi bậy” chỉ khổ anh em. Bình thường không sao, nhưng khi có mầm bệnh, chết đấy các ông ạ.
- Mấy ông “tu bíp” [Bác sĩ]nguyên tắc lắm. Đời tù còn sợ chó gì, ngay cái chết. - Tôi nói dằn giọng.
Tiếng K. Trưởng cất lên ở đầu nhà:
- Thưa các anh em, hôm nay chúng ta học Nội Quy. Yêu cầu anh em lấy giấy bút ghi theo lời tôi đọc.
Mọi người cắm cúi chép, chừng 30 phút thì xong. Bản Nội Quy gồm 10 điều, toàn những điều bó buộc, bắt các người tù phải cúi đầu chấp nhận. K. Trưởng còn cho biết theo lệnh, mọi người phải học thuộc lòng, mỗi khi cán bộ hỏi, trả lời ngay, nếu không thuộc sẽ bị nghiêm phạt. Vừa ghi xong Nội Quy, anh em lại phải khai báo lý lịch. Sống trong Trại Cải Tạo hay nhà tù Cộng Sản nào cũng vậy, vấn đề khai báo là chuyện thường. Nhưng xin đừng ai coi nhẹ vấn đề này, vì chỉ một sơ xuất nhỏ, trước sau không như một, sẽ bị Cộng Sản truy ngay để từ đó phanh ra nhưng sơ hở khác, nếu có.
Bữa cơm trưa, vẫn như hôm qua, ngoài cơm canh, 4 người lại chia nhau 1 hộp thịt. Nhưng chỉ 1 tuần sau, 8 nguời một hộp, tuần sau nữa 12 người 1 hộp, cho đến cuối tháng, hết thịt, chỉ còn cơm và canh bí, canh su su, đu đủ xanh nấu muối trường kỳ. Mỗi lần nhìn thấy muốn ói!
Thời gian trôi qua thật buồn nản, nặng nề. Ở đây không phải lao động. Ăn rồi nằm, chán nản lại đi vòng vòng quanh Trại. Những ngày sống ở Long Giao tuy vậy còn vui, có phong cảnh để nhìn ngắm, có nhiều nơi khoảng khoát để rong chơi. Cuộc sống nơi này khô khan quá, chen chúc, bực bội. Trước mắt chỉ có tôn và kẽm gai. Tên Trung uý Hải, phụ trách Trại, mặt mũi cau có, lầm lũi luôn luôn rình rập, đe dọa, làm không khí càng nặng nề.
Sáng nay, Tổ tôi phụ trách vác củi từ cổng ngoài vô Trại. Những khúc củi cao su đuợc đổ từng đống cao, mọi người chia nhau vác dần về. Trước khi đi qua chiếc cổng, ngăn cách giữa khu tôi và toàn Trại, mọi người phải ngả nón, chờ trưởng Toán báo cáo số người và lý do đi ra ngoài cho tên cảnh vệ. Khi nào nó cho phép, mới được qua. Nón cầm tay, kiếng cận, kiếng mát đều phải bỏ ra, khi nào người cuối cùng qua khỏi vọng gác mới được đội nón, mang kiếng. Không hiểu sao tụi Cộng Sản rất ghét đeo kiếng, bất cứ loại kiếng nào. Tôi nghe nói, hôm trước, có một anh mang kiếng cận, khi qua vọng gác ỷ y không bỏ ra, tên gác bắt cả đoàn đứng lại, cho lệnh anh mang kiếng lại gần, đột nhiên nó cho tay giật mạnh, quăng xuống đất, rồi sừng sộ dọa nạt. Anh mất kiếng đứng ngay đơ như khúc cây. Cũng may, lúc ấy có tên chỉ huy đi ngang qua, hỏi chuyện gì? Sau khi biết nguyên do, tên chỉ huy cho phép nhặt cặp kiếng lên, nhưng hởi ôi, một bên mắt đã bể nát!
Tôi vác hai khúc củi cao su lên vai. Sự thực, không nặng bao nhiêu nhưng nó ngoằn ngoèo khó mang. Chúng tôi làm việc độ hai tiếng là xong. Công việc chẻ củi, thuộc toán khác. Có lẽ, vì thấy tù nhàn quá, ăn tốn cơm gạo, chả lao động sản xuất gì, nên tụi Cộng Sản bắt mọi người mỗi sáng phải tập hát những bài ca Cách Mạng. Mỗi K đề cử người biết qua về nhạc lý và có giọng, đến học tại K1, do Vũ Đức Nghiêm và vài bạn nữa dạy. Những bản hát do Cộng Sản cung cấp. Sau khi học xong bài nào về dạy lại anh em bài đó. Mọi người chỉ chép lời, còn hát ra sao, do quản ca huấn luyện. Tên Việt Cộng phụ trách vấn đề này, một y tá, mang quân hàm Trung Sĩ, thế mà có ông “Tu-bíp” cứ một mực tâng bốc: Bác sĩ!
Trong giờ tập hát, Mậu hay ngồi cạnh tôi để đấu láo. Cũng như tôi, Mậu không có giọng, nên hát lạc “tông” hoài. Mậu luôn miệng kêu: Chán ghê, chán ghê! mỗi lần gặp chuyện gì không ưng ý! Liêm, tuy nằm kế bên nhưng ít nói chuyện. Tuy nhiên, chẳng vì thế, mà không hiểu nhau. Chúng tôi đã sống chung B tại Long Giao tới hôm nay. Liêm vốn kín đáo, không hay đùa nghịch đúng với lứa tuổi, chỉ thích đánh cờ. Liêm ấp ủ trong lòng niềm ân hận sâu xa, chẳng biết đến bao giờ mới giải tỏa được? Trong những lúc buồn phiền, Liêm thường than thở: Là Phi Đoàn Trưởng, có tàu trong tay, giờ này bị tù, có ức không? Nghĩ ít đau ít, nghĩ nhiều đau nhiều, càng nghĩ càng đau! Chỉ tại mình ghét Mỹ quá, không, muốn nhìn thấy mặt chúng nữa, nên mới quyết định ở lại, mặc dù vợ con đã khóc lóc, năn nỉ khuyên đi! Đù mẹ, lúc ấy mình tưởng là anh hùng, tự ái dân tộc cao, bây giờ biết hố, đã muộn! Liêm thường tự trách như vậy.
Sau nay tôi được biết, trường hợp Liêm, không phải trường hợp duy nhất, còn nhiều phi công ở cùng cảnh ngộ.
Mỗi buổi sáng tới giờ tập hát, anh em chùng chình như không muốn bắt đầu. Còn gì đau khổ hơn, cứ phải dài cổ ra hát những lời ca nó chửi cha mình! Mỗi lần cất giọng, mỗi lần thấy xấu hổ. Tụi Cộng Sản hát thì không sao vì của nó, còn mình kẻ thua trận, hát lên chỉ chuốc lấy nỗi nhục! Tụi Cộng Sản thâm độc ở chỗ đó. Kẻ thua trận hát những bài ca thắng trận làm sao chịu nổi? Nhất là lời ca lại phách lối, đao to búa lớn, chỉ dùng để lừa bịp những người thiếu suy nghĩ. Nào “người người đứng lên phá tan xiềng xích, tiến vào Sàigòn đập tan Mỹ Ngụy, nhân dân đang đói khổ lầm than, bị o ép, kìm kẹp v.v... “ Bố ai chịu nổi? Còn bản nhạc “theo lời bác dặn” của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát: “dù phải 20 năm hay 30 năm bước trên tuyến lửa... ớ! ta tiến lên! ta tiến lên...” nghe nó chói tai quá. Từ bản Thằng Bờm đến bản này, quả thực Nguyễn Xuân Khoát đã lột xác 100%.
Tôi và Mậu mồm cứ há ra như hát, nhưng kỳ thực đang nói chuyện đâu đâu, vì cả trăm con người cùng hát nên một, hai người không hát cùng chả sao. Trong số anh em, tôi nhận thấy cũng có nhiều người nhiệt tình lắm, họ hát trong giờ tập và cả ngoài giờ tập!...
Lúc này cuối mùa mưa, thỉnh thoảng mới có một cơn. Mỗi lần mưa, chỉ nhấp nháy là dứt. Nắng suốt ngày. Trời cao xanh thẳm, những phiến mây trắng trôi phiêu phiêu từ phương này qua phương khác. Tôi nhìn, trong lòng nổi lên sự thèm muốn, ao ước, tự hỏi tại sao lại phải mang kiếp người nặng nhọc này, trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ?
Tôi đang ngồi suy nghĩ vơ vẩn, Phúc đến. Người ta thường biết anh qua những bài Tạp Ghi. Phúc hỏi:
- Ông đang mơ mộng gì đó?
- Hai thứ tóc rồi, còn mơ mộng gì ông? Tôi đang suy nghĩ về thân phận con người thua trận! ·
- A, thua trận! chắc ông đã xem phim “Trên cầu Sông Kwai” rồi, và các cuốn khác, diễn tả cái cảnh tượng thê thảm của Paris dưới gót giày quân Đức, rồi đến lượt quân Đức buông súng trước quân đội Đồng Minh, quân Nhật đầu hàng quân Mỹ, qua Thế Chiến II! Kẻ chiến thắng hôm qua, trở thành kẻ chiến bại hôm nay, nó cũng thê thảm như vậy thôi. Chỉ có khác, ở Thế Giới Tự Do, có nền văn minh cao, họ chỉ trừng trị những tội phạm chiến tranh. Còn các cấp thừa hành được trả về đời sống bình thường. Như Đức Quốc Xã sau khi thua trận, vùng nào do Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng, dân chúng Đức tương đối được hưởng đôi chút quyền làm người, dù người thua trận! Còn vùng nào do Nga Sô chiếm đóng, vùng đó coi như Địa Ngục. Quân Nga hảm hiếp, cướp bóc, giết người! Cái cảnh trả thù man rợ đuọc diễn tiến ngoài ánh sáng cũng như trong bóng tối ở vùng Đông Bá Linh, còn ác liệt hơn thời Trung Cổ. Không ai chối cãi, trong khi chiến tranh đang tiếp diễn, mọi thủ đoạn dù độc ác đến đâu cũng có thể được xử dụng để chiến thắng quân thù, “tous les moyens sont bons” [Tất cả mọi phương tiện đều tốt]mà! Nhưng sau khi thắng bại rõ ràng, người thắng cũng cần có chút tinh thần “mã thuợng” chứ? Nhưng với Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt Nam thì không. Họ quy trách nhiệm đồng đều cho các cấp sĩ quan dù văn phòng hay tác chiến!.
- Ông ơi! nói chuyện đó mãi chán chết. Rít một “bi” cho quên đời đi ông. - Tôi đưa điếu cho Phúc.
- Tôi đâu có hút thuốc lào.
- Ờ nhỉ!
- Ông còn nhiều thuốc không?
- Sắp hết rồi, không có tiền mua. Đã viết thư về nhà, chưa nhận được hồi âm!
Phúc móc túi, đưa tôi 2 đồng, tiền Giải Phóng.
- Ông cầm tạm, đăng ký mua thuốc hút.
Tôi cám ơn Phúc. Cầm 2 đồng trong tay, suy nghĩ hoài về giá trị của nó bằng 1.000 đồng tiền Miền Nam khi trước. Tụi Cộng Sản chơi ức kẻ thua trận!
Tôi tiễn Phúc một quảng, xong vòng trở lại, đi mượn gầu ra giếng tắm. Khi tới chiếc sân nhỏ phía trước Trại, lúc này không còn đông người “làm đuôi” chờ đi cầu nữa. Tôi thấy nhữg thân hình cởi trần, bận xà-lỏn, đứng phơi nắng, hai tay đung đưa như hai chiếc quả lắc đồng hồ. Có những thân hình đầy lông lá, nham nhở. Có những thân hình ngực nở bụng thon, chứng tỏ trước đây cũng có tập tành. Có thân hình khô đét, khẳng khiu. Có cái đầy sẹo, nhăn nhúm. Có cái ghẻ lở trông gớm ghiếc! Từ trên chòi gác, tên cảnh vệ nhìn xuống, chẳng biết nó nghĩ gì về một lũ nửa người, nửa ngợm, giết không được, tha cũng chẳng xong!
Tôi đi thẳng ra giếng. Chiếc giếng lúc nào cũng đông nghẹt. Đường kính miệng giếng khoảng l m, cả mấy chục chiếc gầu đủ loại, cùng buông xuống. Vì đã sống quen, tôi cũng len vô, chờ chiếc gầu nào vừa kéo qua miệng giếng, tôi thả ngay gầu xuống. Lắc qua, lắc lại một hồi, gầu mình cũng đầy nước, khi nghe nặng tay kéo lên. Có chiếc gầu, kéo lên gần tới miệng, bỗng đứt dây, rơi tòm xuống, chủ nhân chỉ có nước cầm sợi dây lùi ra, chờ mượn gầu người khác.
Vì việc lấy nước quá vất vả, tôi phải dùng chiếc lon nhỏ múc từng lon nước tưới lên người. Dù sao, nước cũng làm cho thân xác mát mẻ dưới cái nắng chói chang từ trên cao tỏa xuống. Mỗi ngày qua đi ở Suối Máu thật nặng nề, buồn bã. Vì Trại giam quá chật hẹp, lại đông người, nên lúc nào cũng huyên náo, ít khi tìm được giây phút yên tịnh. Trên 1,500 khuôn mặt, ngày nào cũng nhìn và nhận ra nhau làm nhàm chán. Câu chuyện gì nói mãi cũng thành nhạt nhẻo, những tin tức đều “lạc quan tếu”. Ở trong hoàn cảnh thực tế này, nhiều người vẫn chưa nhận thức được sự thực, còn mơ mộng hão huyền, hy vọng viễn vông! Thật tội nghiệp!
Khi tôi vừa bước chân vô nhà, tiếng K.Trưởng nói:
- Các anh em, ai muốn đăng ký mua thuốc lào, đường thẻ, bột Bích Chi, đậu phọng v.v... xin ghi tên, đóng tiền cho Tổ Trưởng.
Tụ nhiên, tiếng ồn ào nổi lên:
-Tôi đăng ký 1đ thuốc lào!
- Nè, ghi đi, tôi 1đ thuốc rê!
- 1 gói Bích Chi đây!
- 2đ đường thẻ này!
Tổ Trưởng lui cui ghi vào tờ giấy đã được chia thành nhiều cột.
- Bao giờ có hàng, K.Trưởng?
- Sau khi thu tiền và nhu cầu, K.Phó sẽ đem nộp cho cán bộ hậu cần. Khi có hàng, K.Phó sẽ lãnh về, trao lại cho anh em.
Vấn đề mua bán này sở dĩ có, do yêu cầu của tù, nhưng đích thực, đó là trách nhiệm của nhà nước Cộng Sản, không áp dụng đúng chính sách nuôi tù đã quy định theo Công Ước Quốc Tế về nhu cầu tối thiểu cho đời sống mọi người tù chính trị, nên mới có tình trạng này. Các K.Trưởng, K.Phó, một số lợi dụng sự mua bán, ăn bớt của anh em. Ví dụ: có 10 người mua đậu phọng, mỗi phần 2đ, cộng chung: 20 đ, nhưng K.Phó ghi: 12 người. Khi mua về, lẽ dĩ nhiên, theo giấy tờ phải chia làm 12 phần. 2 phần dư thuộc về K.Trưởng và K.Phó. Tên cán bộ hậu cần, không ai được gặp bao giờ để có thể hỏi, chỉ có K.Trưởng và K.Phó tiếp xúc với hắn tại Ban Chỉ Huy thôi. Việc ăn chặn, sở dĩ anh em biết, do sự tố cáo lẫn nhau vì chia chác không đều giữa họ.
- Đù mẹ, vào tù còn tham nhũng, thua là đúng! chán ghê, chán ghê!
Mậu nói oang oang giữa nhà. Tôi đang nằm, nhắm mắt lại vì không muốn nhìn thấy sự bỉ ổi diễn ra giữa anh em cùng cảnh ngộ, bỗng nhổm dậy vì có lệnh điểm số bất ngờ. Thường ra, việc điểm số được thi hành mỗi chiều vào lúc 6 giờ trước khi đóng cửa Trại, không một ai được ra khỏi cổng, dù đi cầu. Công việc điểm số, do hai tên bộ đội thực hiện. Tất cả, ai đứng vào chỗ ngủ người ấy, trên vách có ghi tên cùng số thứ tự. Tên chỉ huy đi trước, tên cảnh vệ đi sau, đôi khi tên này đứng ngoài cửa. Mọi người phải hô to số thứ tự của mình, do đó, nếu thiếu biết ngay.
Việc điểm số bất ngờ chiều nay do tên Trung úy Hải, đích thân làm. Với nét mặt hầm hầm, hắn đi vô. Mọi người đã nghiêm chỉnh đứng vào chỗ.
Một, hai, ba... từng con số hô to giữa căn buồng. Một anh có lẽ, đang suy nghĩ chuyện gì đó, nên hô nhầm!
-“Nàm nại” từ đầu! - Tên Hải gắt gỏng.
Con số lại được đếm từ 1. Trong khi đó tên Hải đi chầm chậm, nhìn chằm chặp vào mặt từng người như dò xét, soi bói. Con số cuối cùng được hô lên với tiếng: Đủ!
Trước khi ra khỏi, tên Hải còn ném cái nhìn hằn học về phía chúng tôi.
Bên ngoài, trời mưa tự bao giờ. Cơn mưa không to, những hạt mưa nhỏ nhưng đều đan mau ngoài ô cửa. Tiếng giọt gianh nhỏ tí tách. Tôi đoán đây chỉ là cơn mưa bóng mây, không lâu. Tiếng điểm số từ các nhà phía bên vọng đến nghe rất rõ. Toàn Trại điểm số. Anh em ngơ ngác hỏi nhau, không hiểu có chuyện gì?.
Tôi ghé mắt nhòm ra ngoài lối đi. Những tên cảnh vệ cầm A.K. đi lại lăng xăng, không thấy bóng anh em nào, không khí có vẻ căng thẳng. Tôi đoán có chuyện gì gay cấn lắm. Anh em lại có dip bàn tán, thì thầm. Tiếng điếu cày rít đó đây. Những bụm khói bay tản mác, tan nhanh theo hơi gió.
Chừng một tiếng đồng hồ sau, có lệnh giải tỏa. Mọi người túa ra. Mậu đi một lúc, về cho biết:
- Có người trốn Trại, bị bắt lại rồi.
- Ai đó?
- Tuệ, trước ở An Ninh Quân Đội đó!
Tôi có biết Tuệ, hắn rất nhanh nhẹn, tháo vát. Không hiểu sao lúc này, hắn mê Tử Vi, suốt ngày học đoán các vì sao. Một buổi Tuệ nói với tôi:
- Ông ạ, Tử Vi là một khoa học, nó tinh vi và đúng ghê lắm, nếu nhớ rõ ngày, tháng, năm, giờ sinh. Tôi xem số cho mình, trúng phong phóc đó ông. Nếu ông muốn, tôi lấy cho ông một lá và đoán thử, xem có đúng không?
Tôi cảm ơn Tuệ và nói, chẳng tin bao nhiêu!
Lúc này, Tuệ đang bị nhốt ở chiếc Connex gần vọng gác ngoài cổng, không biết trong lá số Tử Vi của hắn có ghi cái hạn này không?
Chuyện Tuệ trốn Trại lan truyền nhanh như cơn gió. Đi đâu, đến đâu, cũng nói chuyện đó. Người bàn ra, kẻ tán vào, thêm thắt cho xôm tụ. Buổi chiều, tôi đứng ngay đầu lối đi, ngó ra chiếc Connex có Tuệ ngồi trong.
Ánh nắng chiều rọi chếch làm màu sơn ánh lên, chói sáng một cách dễ sợ. Chiếc Connex đóng kín. Tên cảnh vệ ngồi trong vọng gác, nói chuyện với tên đứng ngoài, thỉnh thoảng chỉ tay về phía đó.
Những cánh én vẫn chao qua, chao lại để bắt nhặng. Nó là cứu tinh của tù. Nếu không có chúng, làm sao chúng tôi có thể làm công việc vệ sinh với đám nhặng sinh sôi nẩy nở rất nhanh chóng như vậy? Trước khi chúng tôi đến, nơi này đã giam giữ các sĩ quan cấp nhỏ, nên các hố phân mới tràn đầy như vậy.
Buổi sáng nay, tôi đi cầu trễ hơn mọi bữa để tránh sự đợi chờ. Đi trễ cũng có cái bất tiện, phải nhìn thấy tất cả sự dơ dáy phơi bày dưới ánh sáng mặt trời. Dù muốn dù không, mỗi ngày, tôi vẫn phải làm cho xong cái công việc “đóng thuế”! Vừa đứng lên, toan quay vào bỗng có một toán người nai nịt gọn ghẽ đi vô hố phân. Có người mặt che kín, chỉ để hở hai con mắt, tay đeo găng. Có người cởi trần, mặc mỗi chiếc quần xà-lỏn. Có người bện quần lên tới háng, miệng đeo miếng vải giống như miếng vải có tẩm thuốc sát trùng của mấy ông “Tu-bíp”. Người cầm cuốc, kẻ vác xẻng, đứng lố nhố trên miệng hố phân. Người nọ đùn người kia, không ai chịu xuống trước:
- Ông xuống đi!
- Thì cậu xuống trước đi, trưởng Toán mà!
- Trưởng Toán để chỉ huy chứ không phải để làm!
- Ai bảo cậu vậy? Ở đây thằng nào cũng tù như nhau, đéo ai hơn ai!
Tự nhiên, cả toán người nhốn nháo. Một anh, có lẽ trông thấy hố phân với đám dòi bọ nhung nhúc, khiếp quá nên ngất xỉu, ngã lăn trên miệng hố. Hai người trong toán, cúi xuống nâng anh ta lên, dìu vào. Tôi nhìn, một khuôn mặt vàng khè, hai mắt nhắm chặt, chân tay xuội lơ, cơ hồ không còn chút thể lực nào trong thân xác.
Rốt cuộc, hố phân cũng được hốt đi. Ở đây, mỗi tuần đều có toán hốt phân luân phiên làm việc. Đi tù Việt Cộng phải không sợ phân. Ở ngoài Bắc đã có “Anh Hùng Hót Phân”, giá trị ngang với anh hùng ngoài mặt trận. Tôi nghe nói, anh sợ phân bỏ cơm cả tuần! Chả biết thời gian sau này, sự gian khổ mỗi ngày mỗi tăng cường độ, không biết anh có chịu đựng nổi, hay đã vĩnh viễn chia tay với cuộc sống, ở nơi nào đó giữa núi rừng miền Bắc?
Bữa sau, Tuệ được thả về chiếc đầu trọc lóc. Tôi hỏi Tuệ vì sao? Tuệ cho biết, hôm đó đi cầu, không vào kip lúc điểm số. Khi các tên cảnh vệ đi tìm, thấy Tuệ ở ngoài hố cầu lúc trời đang mưa, tưởng có ý đồ trốn Trại, nên họ bắt giam. Sau khi lấy cung, xét thấy ngay tình, nên tha, cảnh cáo bằng hình phạt cạo đầu.
- Thế sao Tử Vi không nói cho ông cái hạn này để tránh?
- Có chứ, nhưng đã gọi là số, tránh cũng chẳng được!
- Ngồi Connex có dễ chịu không?
- Ôi cha, con chắc bố không chịu nổi một dêm, đã tịch rồi! Ngày nóng như thiêu. Sắt bị hơ nóng giãn ra, kêu lốp bốp, lắc cắc suốt ngày. Đến đêm, trời lạnh, co vào lại lách cách, lắc cắc từ tối đến sáng, không tài nào ngủ được. Khát nước như điên, gào khan cả tiếng, nó không cho miếng nước. Gặp phiên thằng cảnh vệ nào có chút lương tâm còn khá, gặp thằng nào có họ hàng bị chết vì B52, đừng hòng.
Mới bị giam có 24 giờ, Tuệ gầy hẳn đi. Nét mặt lơ láo như còn sợ sệt cái hình phạt kinh khủng đó.
Nhằm mục đích tuyên truyền, Trại có đặt máy Tivi, mở mỗi tối, nơi căn nhà hội. Anh em tù, chả biết làm gì hơn, đi xem Tivi trước giờ ngủ. Có một tối, chúng tôi được xem nhà nhạc học Trần văn Khê nói về âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Vẫn bài ông Khê đã nói ở Trường Quốc Gia Âm Nhạc khi trước, trong chuyến ông về thăm quê nhà. Chúng tôi thầm phục tài hoạt động chính trị của ông Khê nhiều hơn về nhạc học. Ông đi hàng hai, chả mất lòng bên nào.
Chúng tôi còn được nghe nhà luật học Trần Thúc Linh ca tụng đạo luật bầu cử của Cộng Sản là Dân Chủ, Tự Do, còn luật bầu cử của miền Nam lúc trước là lừa bịp, độc tài! Cái lưỡi Esope ghê gớm thật! Nhưng rồi, sau mấy năm sống chung với Cộng Sản, ông Linh đã nhìn rõ bản chất của Cộng Sản, nên vội tìm cách chuồn đi ngoại quốc dưới lý do chữa bệnh! Chẳng biết, có lúc nào, ông tự vấn lương tâm về những gì ông đã nói trên màn ảnh nhỏ, ca tụng chế độ Cộng Sản là siêu việt, đầy sáng tạo, là trái tim của loài người tiến bộ, để được Cộng Sản cấp cho một ngôi nhà lớn với những tiện nghi do “đế qưốc” để lại! Trong mấy chục năm, ông sống nhờ cơm gạo Quốc Gia, nắm những địa vị cao trong chế độ, đến phút Quốc Gia lâm nguy, ông lại phản bội! “Trí thức không bằng cục phân” - Hồ chí Minh đã nói rất đúng về các trường hợp kể trên.
Cả Trại nhốn nháo về bệnh kiết ly. Hầu như không K nào thoát! Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy! Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại! Có tiếng chửi bới vì mới tìm thấy những bãi phân đi lúc ban đêm:
- Đù mẹ, nó không ỉa ở K nó, qua K khác ỉa bậy! Ông tóm được, nhừ đòn!
“Tu-bíp” Cường, một Bác sĩ Quân Y, thưộc quân chủng Không Quân, người mập lùn, không được anh em ưa, vì thái độ nịnh bợ tên Y tá Việt Cộng quá đáng. Hắn được Việt Cộng chỉ định phụ trách vấn đề Y tế trong Trại. Bệnh kiết lỵ mỗi ngày một lan rộng. Các loại thuốc trị bệnh kiết lỵ khan hiếm, phải gửi tiền nhờ tên Y tá Việt Cộng mua tại Biên Hòa hoặc Sàigòn. Chẳng biết “Tu-bíp” Cường có được tên Y tá chia cho chút tiền nào không, nhưng anh bị mang tiếng rất nhiều về vấn đề này. Trong Trại cũng có nhiều Bác sĩ đi tù, nhưng vì không ưa Cường, nên chẳng ai chịu hợp tác. Nhưng do áp lực của tên Y tá Việt Cộng, một Ban Vệ sinh được thành lập do Cường làm trưởng Ban, các “Tu-bíp” khác làm ”vệ sinh viên” để lo phòng bệnh và chữa bệnh cho anh em. Tôi cũng bị bệnh. Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu, són ra một chút, phân ít, mủ máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa, để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi, sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy, mà hàng chục người, tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát.
Bệnh của tôi kéo dài cả tuần, sau khi đã uống hết cả lọ Tetracyclin do Lan cho. Lan, người bạn mới quen trong tù, nhưng có tấm lòng đôn hậu. Khi trước anh đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng về quân sự cũng như hành chánh, nên quen nhiều, biết rộng. Trong một buổi chiều, anh đã tâm sự với tôi, anh và gia đình anh đã chờ trực thăng đón đi từ sáng ngày 30-4, chờ đến trưa, khi quân Cộng Sản đã vô Sàigòn, mà không xong. Theo ước hẹn của một nhân viên Toà Đại Sứ Mỹ, trực thăng sẽ đáp xuống sân thượng của căn nhà số Z, đường Gia Long, khoảng 9 giờ sáng.
Nhưng cả mấy chục người ngong ngóng từ sớm, đợi hoài đến trưa phá cửa, xông lên sân thượng. Nhà chẳng còn ai, ngoại trừ đồ đạc và giấy tờ quăng bừa bải, chứng tỏ có sự gì vội vàng, gấp rút. Lên tới sân thượng, nhìn khắp bốn phương trời, không thấy bóng chiếc phi cơ nào. Thất vọng, Lan cùng gia đình quay về. Nhà cửa đã bị phá tan hoang, bao nhiêu đồ quý giá không còn nữa.
- Ông ạ, ở đời có số cả. Số mình đi tù, có tránh cũng không thoát. Nhưng tôi nói thật với ông điều này, nếu tụi nó đối xử vừa phải, thì thôi, còn quá quắt, tôi sẽ tự xử!
- A, ông tự xử bằng cách nào?
- Thiếu gì cách!
- Tôi hỏi thật, ông có thuốc gì, Cyanure, Chloroquine, Optalidon, Valium?
- Trừ Cyanure, thứ gì cũng có!
- Ghê quá hé!
- Chịu mãi đâu được! Nếu cuộc sống nhục nhã cứ kéo dài, năm này qua năm khác, làm sao chịu nổi, chết sướng hơn!
- Thế vợ con, ông để lại cho ai?
- Trước khi đi tù, tôi đã dặn lại vợ con tất cả những gì cần thiết và cho bả biết, sẽ tự hủy nếu bị kẻ thù hạ nhục!
- Chị nói sao?
Tôi nhìn chằm chặp vào mắt Lan. Đôi mắt một mí, hơi nhỏ so với khuôn mặt chữ điền phốp pháp, cố mở to để chứng minh sự quyết tâm của mình.
- Còn nói gì nữa! Bả chỉ biết khóc dài. Tôi đã nói nhiều lần, lấy chồng nhà binh, phải chịu cảnh góa bụa bất cứ lúc nào. Tới hôm nay, tôi chưa chết, may quá trời rồi, còn ước mong gì nữa?
- Này ông, tôi nói thật với ông điều này, mong ông hiểu. Kỳ bệnh vừa qua, tôi khỏi được, nhờ ông cho thuốc!
Tưởng tôi cảm ơn, Lan gạt đi:
- Ồ, anh em cùng cảnh ngộ, có thể giúp được nhau gì, cứ giúp. Rồi đây, hoàn cảnh đẩy đưa, mỗi người một ngả, có muốn giúp cũng không được. Thôi, quên đi!
- Đó, chính là vấn đề tôi muốn nói hôm nay, mong ông thông cảm. Nếu có thể được, ông chia với tôi phân nửa số độc dược hiện có, để khi cần, tôi cũng phải quyết định như ông. Sợ mai đây, mỗi đứa mỗi ngả, muốn chia cũng không được!
Lan không nói gì, cúi mắt nhìn nền đất xám ngoét, tay cầm cục sỏi nhỏ vẽ lăng nhăng, như đang suy nghĩ lung lắm về lời yêu cầu của tôi
- Thôi ông ạ! Hoàn cảnh tôi khác. Ông còn phải sống, cố gắng sống, ghi lại bằng bút mực những gì đã xảy ra từ sau ngày 30-4-75 tới hôm nay và ngày mai nữa, để nói lên sự thực, một sự thực ghê tởm, chẳng riêng gì ở phía Cộng Sản, còn ở phía chúng ta nữa!
- Xin cảm ơn ông, đã quá mến tôi nên nghĩ vậy. Tôi tự xét, không đủ can đảm và kiên nhẫn để chờ đợi đâu. Ông đừng sợ trách nhiệm lương tâm về vấn đề ông đưa độc dược cho tôi. Chúng ta đâu còn trẻ để có những hành động xốc nổi, nhưng chúng ta cũng chưa quá già để trở thành ù lì, nhu nhược. Ông cứ thỏa mãn lời yêu cầu của tôi đi.
Trước sự nài nỉ khẩn thiết đó, Lan không nở từ chối quyết liệt. Sợ tôi buồn, anh hứa sẽ chia độc dược với tôi, trước khi rời Trại, nếu không cùng di chuyển với nhau một lượt. Thấy không nên ép Lan quá, nhất là mình, kẻ ăn xin, nên tôi đành ưng thuận.
Buổi chiều nay, tôi đang đứng nhìn những đám mây bị gió xé nát, vung vãi trên nền trời như những mảnh vụn, phản chiếu ánh mặt trời đỏ rực trông vui mắt, bỗng Cung đến bên:
- Ông gặp Văn Quang chưa?
- Gặp rồi, hắn ở chung với Thông, Biệt kích Dù mà!
- Còn Thế Hoài và Thục Vũ?
- A, Thế Hoài có đọc cho nghe mấy bài thơ và Thục Vũ có hát ca khúc mới sáng tác, mở đầu bằng câu: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây. Áo rách ôm thân gầy!...”
- Sao, ông có ý kiến gì không?
- Ở trong hoàn cảnh này, anh em còn sáng tác được, dù vui hay buồn, đều đáng hoan nghênh rồi.
- Nhưng tôi thấy nó thê thiết quá, không có hướng đi lên.
Tôi ngó Cung như đoán hỏi. Cung nói tiếp:
- Dù ở hoàn cảnh nào, những người làm Văn Hoc Nghệ Thuật trong Quân Đội cũ, cũng không nên yếm thế, tự tạo cho mình nỗi thất vọng, trong khi chúng ta cần phải hòa đồng vào cuộc sống mới, nếu không nó nghiền nát!
- Hòa đồng bằng cách nào? Ai chấp nhận mình? Nếu hôm nay chúng ta có làm những câu thơ, hay lời ca buồn bã cũng do hoàn cảnh đẩy tới. Nỗi bi phẫn chứa chấp trong lòng mỗi con người làm văn nghệ cần được giải tỏa, cần phải nói ra, viết ra, miễn nó phản ảnh đúng tâm tư của mỗi con người suy nghĩ về nó.
Sự thực, từ Long Giao qua Suối Máu, chiều hướng suy tư của Cung về ”Cách Mạng” tôi nhận thấy, đã phần nào thay đổi. Có lẽ, thực tế đã mặc khải cho anh thấy cái ý đồ phi nhân của Cộng Sản sau gần 200 ngày gánh chịu. Hình ảnh “Cách Mạng” xuyên qua Thanh Nghị, chắc không còn được tôn vinh như những ngày đầu “Giải Phóng”! Nhưng tôi tin, phải thời gian nữa, Cung mới hoàn toàn rủ bỏ được những gì anh đã trót khoác vào tâm hồn vì vội vã, bồng bột.
Chúng tôi cứ đi vòng vòng quanh chiếc sân nhỏ, vừa đi vừa nói chuyện, đến khi mặt trời chìm sau rặng cây phía xa. Cảnh vật trở thành mầu xám rồi khỏa lấp vào bóng tối. Từ trên vọng gác cao, tên cảnh vệ nhìn xuống. Một tên khác tiến đến trèo lên thang. Khẩu A.K. đeo trên vai, sà xuống lủng lẳng. Tôi biết từ phút này, tụi nó gác kép, cho tới sáng. Ngoài ra, còn tụi đi tuần vòng theo con lộ, cũng như bên trong Trại. Chúng dòm vào từng buồng, chiếu đèn pin rọi tận mặt, làm mất ngủ. Chúng đi dép “râu” nên rất êm, không ai biết chúng có mặt lúc nào.
Tôi và Cung chia tay ai về nhà nấy, trong khi anh em đã tụ tập đầy căn nhà có đặt máy ti-vi. Tối nay trời quá nóng, tuy trong nhà chẳng còn lại bao nhiêu người. Tôi cởi áo, cầm quạt phẩy mạnh để xua đuổi cơn nóng nực. Lúc này còn sóm, chưa ngủ được. Tôi nằm dài duỗi thẳng tay chân cho đỡ mỏi. Phiá bên kia, mấy người đang coi bói bài Tây. Những quân bài sặc sỡ, không thích hợp với toàn thể không khí nơi đây.
- Ông sắp có tin vui vào ngày thứ Năm. Có người đàn bà đang chờ ông. Cẩn thận tránh khẩu thiệt!
- Ông đoán xem, bao giờ ra khỏi đây?
- Việc nay, bố tôi cũng không đoán được!
- Thế thì coi làm chó gì? Mất thì giờ! Dẹp!
Tiếng cười vang lên. Anh em sống trong tù, cũng cố tạo cho mình những phút vui dù ngắn ngủi. Qua cơn cười, mọi người lại chìm lắng vào sự suy tư riêng biệt!...
Chiều nay, trong khi tôi đang ngồi xem Liêm đánh cờ, bỗng Huy gọi:
- Ông ơi, ông có quà đó! Anh em đi khiêng về nói vậy. Tên ông khó nhầm lắm!
Tôi cảm ơn Huy và thầm mừng trong lòng. Sống trong hoàn cảnh giam cầm này, nhận được quà của gia đình là niềm an ủi. Từ phút ấy, trong lòng tôi xốn xang, bồn chồn mong ngóng đến giờ được gọi tên đi lĩnh quà. Việc gì đến sẽ đến, lúc gần tối, tôi được gọi tên cùng nhiều anh em khác lên Ban Chỉ Huy Trại để lãnh quà.
Chúng tôi tập họp, xếp hàng hai, đi ra cổng. Sau khi báo cáo số người với tên lính gác, chúng tôi đi thẳng đến chiếc sân lớn, nơi đó, các gói quà được quăng bừa bải trên mặt đất. K.Phó hậu cần, đang lom khom kiểm lại số qua theo bản danh sách cầm trong tay.
Tên Việt Cộng mang quân hàm Thiếu úy, có bí danh Tư, trông bề ngoài khá cao ráo, đứng trên chiếc ghế cao, nói lớn:
- Tôi gọi đến tên anh nào, anh ấy “nên” nhận gói quà của mình và mở ra để điểm nghiệm trước khi mang về. Các anh nghe rõ cả chứ?
- Nghe rõ!
Từng người tiến lên sau mỗi tiếng gọi, ôm chặt gói quà của mình trong tay như không muốn rời. Tên Tư cho lệnh mở tung gói ra để khám xem có thư từ, tiền bạc gì không? Sau khi khám xong, vì không có thì giờ sắp xếp lại, người nào người nấy, ấn đại vô tờ giấy gói, lếch thếch ôm về. Vì quá đông, tôi phải chờ đến tối mịt mới lãnh được.
Dưới ánh đèn đỏ ngầu, căn nhà vui hẳn lên vì nhiều tiếng nói cười. Những người có quà vui đã đành, những người chưa có, cũng vui lây vì anh em mời kẹo bánh và thuốc lào ngon. Tôi ngồi gói lại từng thứ, xong treo lên cao, đề phòng chuột, vì chuột ở đây nhiều hơn tù. Đã gần nửa năm nay, tôi mới lại được nhìn thấy và được ăn vài món quen thuộc do chính tay vợ con thực hiện.
Bên ngoài gió thổi. Tôi nghĩ có cơn mưa, thò đầu nhìn ra ngoài, nhưng không, bầu trời vẫn cao, màu mây xam xám đóng cứng như một tấm thép vĩ đại. Không một ngôi sao nào xuất hiện. Gió thổi luồn qua mái tôn rít lên như tiếng sáo. Có lẽ, gần cuối năm, thời tiết thay đổi, nhưng cái lạnh miền Nam không có gì đáng sợ. Đêm đêm, lúc gần sáng tôi vẫn đắp tấm vải mỏng, vừa đủ ấm. Căn buồng không có cửa, nên gió lùa thoải mái. Sao tối nay cơn gió lại mang hơi lạnh về quá sớm? Mới hơn 9 giờ, người nào cũng nằm quấn tròn trong tấm mền dù dầy, dù mỏng!
- Tối nay chắc ngủ ngon ông nhỉ? - Liêm nói.
- Đời sống trong tù, ngủ được là một hạnh phúc, chứ đêm đêm thao thức, suy nghĩ vẩn vơ là mệt trí, chẳng ích lợi gì, còn hại cho sức khỏe. Về vật chất, chúng ta đã chịu thiếu thốn, hàng ngày chỉ có cơm và canh su su nấu muối, lấy đâu chất bổ dưỡng cho cơ thể? Đêm lại nằm đất, mai đây, lúc về già, có đau lưng, nhức cốt cũng do khoảng thời gian này đó, ông ơi!
Liêm gục gặc đầu ra chiều đồng ý. Tuy chưa nhận được quà, nhưng anh không buồn vì anh đã nói với tôi nhiều lần, nhà nghèo, vợ dại con thơ. Đời phi công, nay sống, mai chết, nên có bao nhiêu, tiêu bấy nhiêu, không cần biết tương lai là gì? Liêm nhìn bóng tối, chửi bâng quơ.
- Đù mẹ, đi được, đâu đến nỗi nào!
Chửi xong, nằm vật xuống giường, nhắm mắt lại.
Tôi cũng thiu thiu đi vào giấc ngủ vì trời mát.
Phía đất bên kia, Phát, từ ngày đến đây, không biết học ở đâu môn ngồi Thiền. Tối nào cũng xếp chân vắt lên đùi, ngồi thẳng như khúc gỗ, hai tay đặt trên đầu gối, mắt nhắm để mơ về cõi xa xôi nào đó. Tối nay Phát cũng ngủ khò chẳng buông mùng, chẳng Thiền!
Tôi tỉnh giấc vào khoảng 4 giờ sáng, vì quá lạnh, tấm vải đắp không đủ ấm. Tôi đứng lên tháo chiếc túi vải treo trên vách, tìm thêm áo mặc. Gió thổi tuy không mạnh như hồi tối, nhưng không khí như có ướp nước đá. Tay chân lạnh ngắt. Nằm co quắp trong tấm vải, tôi xoay qua trở lại, nhưng không tài nào nối lại giấc ngủ. Tôi vùng dậy, kéo hơi thuốc lào cho ấm. Cũng như mọi buổi sáng, điếu thuốc đầu tiên làm tôi ngây ngất. Cơn say thật đậm đà vì có gió lạnh. Do tiếng điếu rít, trong buồng có người thức giấc. Vài tiếng nói thì thầm đây đó.
Tôi ra ngoài đi tiểu. Đêm còn tối lắm. Những ánh đèn xa xa chạy vòng theo rào kẽm gai trông buồn hiu hắt. Tiếng chó tru đêm từ xa vọng lại não nề. Tôi quay mặt về hướng Sàigòn, nhưng mắt bị dẫy nhà ngăn lại. Chẳng biết có bao nhiêu thay đổi đã xẩy ra trong thời gian tôi vắng mặt! Trong lòng như có sự gì phân vân, cồn cào nửa đau đớn, nửa ê chề! Dòng nước tức tưởi tuôn ồ ồ xuống đường mương. Lạnh quá, chịu không nổi, tôi quay vào.
Đã sống ở miền Nam trên 20 năm, chưa một lần, tôi thấy cái lạnh như đêm nay. Không khí giá buốt, khó chịu như mùa Đông miền Bắc.
- Lạnh quá hé?
- Ừa, có lẽ cái lạnh theo tụi nó vô đây, chứ miền Nam có bao giờ lạnh như thế này đâu? Chán ghê, chán ghê!
Mậu đã thức vì lạnh, chứ không phải thích dậy sớm! Mọi người đều tỉnh trước tiếng kẻng báo thức. Những tấm mền trùm kín người, ngồi xung quanh ngọn nến hút thuốc lào vặt chờ sáng.
Tiếng kẻng khua vang, âm vọng kéo dài thê thiết giữa một buổi sáng rét buốt. Những chiếc mền tung ra khỏi người. Vài người ngại lạnh, ngồi nán lại, chưa muốn ra ngoài tập thể dục theo nội quy của Trại tù. Chúng tôi khoa tay, múa chân vài cái lấy lệ, hô vài câu rồi tan hàng. Tất cả ồ vào nhà. Những chiếc mền lại trùm lên người như những ụ đất, trong khi đó tiếng hò: một, hai, ba,... bốn, của những tên bộ đội, vọng đến nghe nhức nhối
Tôi xách gầu ra giếng. Vì trời lạnh, sáng nay giếng vắng hoe, nhưng dòng người đi cầu mỗi sáng vẫn dài ngoằng. Tuy kẻng đánh từ lâu, mà tên cảnh vệ trên vọng gác chưa cho lệnh mở cổng. Vấn đề mở sớm hay muộn, tùy theo ý muốn mỗi tên cảnh vệ. Bỗng, từ giữa hàng tách ra một người, vừa đi vừa ôm quần, mặt mày nhăn nhó có vẻ đau khổ. Sau mới hay, vì chờ lâu qua, chịu không nổi, anh đã bĩnh ra be bét!...
Cái lạnh kéo dài cả tuần chưa dứt, mỗi ngày hình như mỗi lạnh hơn. Ai mang theo áo len còn đỡ, người nào không có, đành đắp lên người bất cứ thứ gì che gió được.
Một buổi tối cuối tuần, tôi đang ngồi nói chuyện với Vũ Đức Nghiêm về ý định của anh muốn phổ nhạc một bài thơ của tôi làm trong tù, thì Chung (Trung Tá Công Binh) đến tìm.
- Ông ơi, đây dịp may, Ban Chỉ Huy Trại muốn thực hiện bức chân dung “Bác”, tôi giới thiệu ông đó!
Tôi sửng mắt ngó Chung:
- Ơ, ai khiến ông giới thiệu? Tôi bỏ vẽ lâu rồi, vẽ chân dung truyền thần đâu phải nghề của tôi?
Trong bóng tối, tuy không nhìn rõ sắc diện của Chung lúc ấy, nhưng tôi chắc hắn ngạc nhiên lắm. Giá ở cương vị tôi, hắn đã vồ ngay lấy cơ hội may mắn này. Tôi biết Chung, vì ngày trước có gặp nhau trong các dịp Đại lễ của Quân Đội. Đơn vị của hắn, chuyên môn làm cổng chào và khán đài. Chung có vẻ bối rối:
- Nhưng tôi đã trót giới thiệu rồi, sao bây giờ?
- Kệ ông chứ, tôi đâu biết!
Nói xong, tôi kéo Nghiêm đi chỗ khác nói chuyện.
Cũng tưởng như vậy là xong, tôi quên ngay chuyện đó. Đâu ngờ, tối hôm sau, Chung lại đến tìm, nói có cán bộ Ba muốn gặp, đang chờ ngoài cổng. Tôi bắt buộc phải đi theo Chung ra trước Trại. Tới chiếc sân nhỏ, dưới ánh đen chiếu chếch từ mé lộ, một tên bộ đội nhỏ thó, nhưng nét mặt già dặn, đang đứng đó. Chung tiến nhanh, đến gần:
- Thưa cán bộ, đây, người tôi đã giới thiệu, để thực hiện chân dung “Bác”!
Chung nói ngon lành, coi như tôi đã nhận lời. Tên cán bộ nhìn tôi, cười cười, tỏ cảm tình:
- A, chào anh. Nhân Tết sắp đến, Ban Chỉ Huy Trại, muốn thực hiện bức hoành phi có hình Bác, trưng bầy trên bàn thờ Tổ Quốc, anh Chung giới thiệu, anh có khả năng....
Chưa để tên cán bộ nói hết câu, tôi vội trả lời.
- Thưa cán bộ, tôi đâu có khả năng vẽ truyền thần. Hơn nữa, tôi bỏ nghề lâu rồi tay chân lúc này bị bệnh thấp khớp, các đầu xương sưng lên, nhất là xương ngón tay, nên không thể cầm bút được, xin cán bộ tìm người khác.
Tôi quay sang Chung:
- Anh Chung, tối qua, tôi đã nói với anh về vấn đề này. Sao anh không trình cán bộ tìm người khác? Tôi không có khả năng!
Thấy thái độ tôi như vậy, Chung bẽn lẻn nhưng vẫn cố tình lấy lòng tên cán bộ, hắn nói:
- Chẳng mấy khi Cách Mạng nhờ tới bọn mình, tôi không có tài, nếu có, tôi xin làm ngay!
Hắn vừa nói vừa liếc nhìn tên cán bộ với cặp mắt sợ sệt. Quá giận, không dằn được, tôi nói:
- Tôi cũng bất tài như anh vậy.Nếu có khả năng tôi không để anh nói nhiều.
Qua lời đối thoại của chúng tôi, tên cán bộ nghe rõ hết, nhưng hắn không có ý kiến gì. Tôi chào, quay nhanh người đi sâu vào ngõ. Giữa đường, tôi gặp Hưng và anh em khác, hỏi có chuyện gì? Tôi nói đầu đuôi. Anh em khuyên, mình đang ở thế kẹt, không nên cứng rắn quá, thiệt thân. Nếu họ năn nỉ nữa, nên làm. Ăn thua gì chuyện đó, về chân dung Già Hồ cũng coi như công tác vác củi, nấu cơm, dọn hố cầu có gì quan trọng đâu? Tôi biết anh em thương, nói để yên lòng. Đêm đó, tôi mất ngủ không phải vì lạnh.
Tối hôm sau, tên cán bộ Ba, một mình đến tìm tôi. Hắn năn nỉ và coi như công tác khẩn cấp này không thể thiếu trong dịp Tết, mong tôi cố giúp.
- Tôi đã nói với cán bộ hồi hôm, tôi bỏ vẽ lâu rồi. Vẽ chân dung “Bác”, đâu phải chuyện đùa, tôi không dám nhận. Nếu vẽ phong cảnh hay thứ gì khác còn có thể gạch bậy bạ được, chứ chân dung, khó lắm, đòi hỏi kỹ thuật cao, nên tôi không dám nhận.
- Anh cứ nhận dùm đi, bôi ra cũng được, miễn có. Anh cần gì, chúng tôi mua đủ. Tôi đã qua các khu khác tìm người, ai cũng nói đến anh, vậy anh cố giúp chúng tôi, có mẫu mà, anh chỉ vẽ lại chứ đâu phải nghĩ ngợi gì?
Trước tình thế này, tôi nhớ lại lời khuyên của anh em, đành nhận, với câu nói dè chừng, không bảo đảm về nghệ thuật. Tên cán bộ Ba mừng quá, cười toe toét, hẹn mai sẽ vào gặp tôi để tìm hiểu nhu cầu.
Sáng sớm hôm sau, tên cán bộ Ba vô. Tôi đưa bản kê khai số lưọng vật dụng cần thiết để tôi bắt đầu công việc. Nhân tiện, tôi xin thêm một người có khả năng giúp tôi, sơn phết những chỗ không cần thiết.
Đúng 3 ngày sau, tên cán bộ Ba mang vật dụng vô. Hắn nói, những thứ tôi kê khai đều khó mua, vì các cửa tiệm đều giấu hết, phải mua với giá thương lượng, tức giá chợ đen. Chiếc khung căng vải bố, được làm bằng những nan giường tháo ra, tấm bố là tấm vải đắp. Đó, Việt Cộng thực hiện một công trình nghệ thuật bằng các phương tiện đơn giản như vậy, cũng như khi chiến tranh đang tiếp diễn, họ phóng hoả tiễn vào thành phố để sát hại dân lành bằng dàn phóng bằng tre!
Công việc tiến hành chừng một tuần lễ, bỗng có lệnh “biên chế”, tức thay đổi chỗ nằm toàn Trại. Cái lối này Cộng Sản dùng để tránh sự cấu kết đưa đến việc gây xáo trộn, hoặc tổ chức trốn Trại. Tôi được đưa đến K1, do Cúc (cựu Tiểu Đoàn trưởng Pháo Binh) làm K.Truởng. Tên Thiếu úy Tư cho lệnh ngăn một căn, bằng tấm liếp cho cách biệt. Trong căn nay chứa 5 kẻ:
- Cúc, K.Truởng,
- Bác sĩ Cường, Phụ Trách Y Tế,
- Khanh (Trung Tá Truyền Tin) làm “mõ”, khi có lệnh gì do Ban Chỉ Huy Trại đưa ra, Khanh phải đi khắp các K để báo tin và phụ trách việc mở, tắt tivi,
- Trung Tá Sử (trước ở Tổng Cục Quân Huấn) có khả năng kẽ chữ
- và tôi, người đang thực hiện tấm hoành phi có chân dung “Già Hồ”
Ngày lại ngày, qua đi một cách nhục nhằn, tẻ nhạt. Quanh quẩn đã gần đến lễ Giáng Sinh. Ai có đạo đã bắt đầu bàn tán về vấn đề tổ chức, phân công. Những chiếc đèn ngôi sao được thực hiện bằng giấy lấy từ quyển vở học trò. Chiếc hang đá nhỏ, cũng làm bằng tấm bìa bôi nhọ nồi giả mầu đá. Cây thông được cắt bằng giấy xanh, tuy không đẹp, nhưng cũng có hình thức để trưng bầy cho đêm Giáng Sinh tăng phần trọng thể!
Sự thực tất cả những thứ đó không đáng gì, nó là trò con nít nếu so sánh với các hình thức tổ chức ở ngoài đời. Nhưng trong hoàn cảnh này, tìm và nghĩ ra cách làm những thứ đó, quả một vấn đề. Toán cảnh vệ có nhiệm vụ kiểm soát thường xuyên tuy có nhìn thấy, nhưng không nói gì, do đó, anh em tin có thể tổ chức đêm Giáng Sinh một cách tốt đẹp. Người góp bột, kẻ góp đường làm bánh, nấu chè để ăn đêm Thánh Lễ. Chỗ nào, nơi nào có vài người châu đầu vào nhau thì thầm, y như rằng, họ nói về đêm Giáng Sinh. Có người nhắc đến những mùa Giáng Sinh trước với các tiện nghi tối đa. Những cành thông được mang từ đồi núi Đà-Lạt về. Những dây ngân nhũ, dây đèn tắt mở, toàn đồ ngoại quốc, kể cả tượng các vị Thánh, chúa Hài Đồng, máng cỏ v.v.... Người ta chuẩn bị đêm Giáng Sinh từ đầu tháng 12, khi những thiếp chúc mừng mùa Giáng-Sinh và Năm Mới bắt đầu bầy bán tại các tiệm sách và trên vỉa hè Đại lộ Lê Lợi. Cái không khí sinh động đó chẳng thuộc riêng các khu vực Nhà Thờ hoặc trong lòng các con chiên mộ đạo, nó còn tỏa rộng trong ý nghĩ mọi người, bất luận có đạo hay không.
Trời vẫn lạnh, đây, một mùa lạnh hiếm có tại miền Nam nước Việt. Cảnh vật khô cong dưới ánh nắng hanh hanh làm da mặt cũng như tay chân se lại. Các vị Linh Mục Tuyên Úy, tuy không mặc áo chùng đen, nhưng nhìn qua phong cách và lối xưng hô, mọi người đều dễ nhận.
Vào buổi chiều ngày 23-12, trong cuộc hội thường lệ giữa tên Trung uý Hải và các K.Trưởng để phổ biến công tác ngày mai, tại căn nhà nhỏ chỉ có mái không có tường, vách gì hết. Giữa chiếc bàn nhỏ, xung quanh là những chiếc ghế dài làm bằng ván đóng liền vào cột, không xê dịch được. Căn nhà đó, nằm gần căn buồng tôi ở. Tiếng tên Hải nói gắt gỏng:
- Chúng tôi biết, các anh đang chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Với tư cách người quản “ný” các anh ở đây, chúng tôi tuyệt đối cấm không ai được tổ chức lễ Giáng Sinh tại Trại. Theo Hiến Pháp, mọi người đều được tự do tín ngưỡng, Đảng và Nhà Nước không ngăn cấm. Nhưng trong thời gian cải tạo các anh đã mất quyền công dân, nên phải tuyệt đối phục tùng “nệnh” của chúng tôi, nếu các anh không muốn có những sự phiền phúc xẩy đến. Muốn cầu nguyện, người nào cầu riêng cho người ấy thôi, không được rủ rê người khác cùng cầu! Tôi cho “nệnh” các K.Trưởng tối nay về sinh hoạt, bắt tất cả những ai đã “nàm” đèn, hang đá phải hủy ngay. Nếu chúng tôi còn nhìn hoặc tìm thấy ở đâu, các K.Trưởng phải chịu trách nhiệm trước Ban Chỉ Huy. Các anh nghe rõ chưa?
Mọi người đồng thanh nói: Nghe rõ!
Ghé mắt nhìn qua kẽ hở, tôi thấy mặt tên Hải đỏ ké, cặp mắt nó quắc lên, chứa chấp hận thù:
- Chúa, Chúa là cái gì? Chúa có cho các anh cơm ăn, áo mặc không, nếu các anh không “nao” động? Chúa có cho các anh súng đạn để chiến thắng quân thù không? Nếu không có giai cấp công nhân làm việc ngày đêm trong các cơ xưởng, sản xuất ra các phương tiện để phục vụ đời sống, nếu không có các nông dân làm ra thóc gạo, hoa mầu, các anh lấy gì mà sống? Vậy Chúa là gì, nếu không phải là người thường như mọi người, được bọn phong kiến và các tay sai đế quốc tâng bốc, vẽ vời, tô điểm, để mê hoặc lòng người, để dễ bề cai trị và nô lệ hóa con người qua hình tượng cũ rích từ gần 2000 năm qua!
Nói xong, tên Hải nhìn các K.Trưởng để dò xét phản ứng. Bàn tay nó để vào bao súng bên hông như thách thức. Một người đứng lên, Phú - K.Trưởng K 6.
- Thưa cán bộ, lịnh của cán bộ ban ra, anh em chúng tôi xin thi hành triệt để. Chúng tôi học tập cải tạo, nhằm hối cải những tội lỗi quá khứ của mình, chứ đâu phải để tạo ra những lỗi lầm khác, xin cán bộ yên tâm.
- Này anh Phú, tôi không cần yên tâm, nếu ai không thi hành “nệnh” của tôi, “nà” bắn bỏ! Các anh nghe rõ chứ?
- Dạ, rõ!
Cuộc họp buổi chiều tan trong một không khí như vậy. Buổi sinh hoạt tối được mở đầu bằng sự thuật lại những lời của tên Trung uý Hải. Cúc, K. Trưỏng phổ biến xong, cẩn thận nhắc lại.
- Thưa anh em, lệnh cán bộ đã quyết định như vậy, tôi mong anh em ở K ta, có ai đã làm đèn hoặc hang đá nên tự giác hủy đi để tránh hậu quả chung. Tôi, cũng là con chiên của Chúa, nhưng Chúa đâu có buộc chúng ta phải làm những công việc quá khả năng của mình? Thánh Mathieu có nói....
Cúc vừa định trích dẫn câu nói của Thánh Mathieu, bỗng ngoài cửa có tiếng động. Mọi người nhìn ra. Tên Hải đã đứng đó từ bao giờ.
- Anh Cúc, nói gì vậy. Nội quy đã nghiêm cấm các anh không được dùng tiếng nước ngoài, sao vừa rồi, tôi nghe thấy Ma-tơ, ma tiếc, ‘”nà” nghĩa “nàm” sao?
Cúc đứng lên, hơi luống cuống:
- Dạ, đó là tên người, chứ tôi đâu có nói tiếng nước ngoài!
Sắc mặt tên Hải lầm lầm, nhìn khắp lượt, rồi bỏ đi.
Cuộc sinh hoạt lại tiếp tục. Những ai không có đạo, nét mặt bình thường, ai có, trông thật buồn bã!
Nhưng dù lệnh cấm nghiêm ngặt như vậy, anh em vẫn cố tìm mọi cách tổ chức đêm Giáng Sinh bằng mọi cách. Những chiếc đèn được giấu đi thay vì phá hủy.
Từ sớm ngày 24, có nhiều tên cảnh vệ vác súng đi tuần. Chúng xông vào từng nhà dòm ngó, để tìm hiểu xem lệnh của chúng có được tù tôn trọng? Một không khí nặng nề bao phủ toàn Trại, tuy sinh hoạt bề ngoài có vẻ bình thường.
Vị Linh Mục chủ lễ, vẫn bình tĩnh ngồi trước thềm nhà dõi mắt nhìn theo đàn én. Bên cạnh đó, mấy người đang bàn tán, tôi nhìn thấy Tuệ. Lát sau, gặp lại, tôi hỏi tối nay sao?
- Vẫn làm lễ như đã hoạch định.
Tuệ trả lời vội vã xong đi xuôi về hướng nhà bếp.
Cơm chiều xong, mọi người nhởn nhơ đi rong chơi trong các lối hẹp. Tôi bước vòng vòng quanh chiếc sân nhỏ, chợt nghĩ đến Sàigòn, giờ này những năm Giáng Sinh trước. Cả thành phố như điên loạn trong nỗi vui mừng đêm Chúa ra đời. Những bài Thánh ca âm vang dưới mái giáo đường. Các hình thức nghi lễ được chuẩn bị tối đa. Đường phố Sàigòn như dấy lên nhịp sống mới. Có cái gì vừa vui tươi vừa thiêng liêng tràn ngập trong lòng mọi người, dù có đạo hay không.
Buổi chiều nay, trong kích thước nhỏ hẹp, khốn khổ này, tôi và cuộc đời bị ngăn cách bởi 12 lớp kẽm gai với những trái mìn!... Đêm xuống dần, bóng tối xóa nhòa cảnh vật. Trước mắt tôi, không còn hình thể nào rõ rệt, ngoại trừ vọng gác. Hai tên cảnh vệ, dựa lưng vào vách gỗ, đang nói chuyện gì đó. Thỉnh thoảng chúng lại cười sằng sặc.
Chẳng hiểu sao từ chiều, không có tên cảnh vệ nào đi tuần trong Trại. Có lẽ, chúng tin, sau những lời dọa nạt, sau sự tuần phòng liện tục suốt mấy ngày nay, chắc tù không dám tổ chức lễ Giáng Sinh. Tuy tình hình êm như vậy, nhưng những người có trách nhiệm tổ chức Thánh Lễ đêm nay, vẫn đề cao cảnh giác. Họ chia nhau canh gác và có hệ thông “báo động sống”, nếu tụi cảnh vệ ruồng xét bất tử. Theo dự định, buổi lễ sẽ được tổ chức sớm tại khu nhà bếp. Đúng 22 giờ, những người có đạo đã tụ họp đông đủ. Vị linh mục chủ lễ, tuy ăn mặc thường, nhung nét mặt trang nghiêm, đôi kính trắng gọng vàng lấp lánh qua ánh nến, do Tuệ cầm soi cao trước mặt. Tiếng cầu kinh lầm rầm, thoạt đầu nhỏ sau to dần. Xung quanh tối om trừ nơi vị Linh Mục đứng, làm không khí vừa tôn nghiêm vừa quái dị. Đây, đêm Giáng Sinh thứ nhất trong Trại tù Cộng Sản. Tuy không có đạo, trong lòng tôi cũng dâng lên sự tôn kính và thầm cảm phục ý chí của các anh em mộ đạo. Cuộc lễ khai diễn chừng 15 phút, bỗng nhốn nháo, ai nấy bỏ chạy toán loạn. Tuệ chúm môi thổi tắt ngọn nến. Toàn thể khu vực tối om. Những vệt đèn pin quét lia lịa cùng tiếng quát tháo của các tên cảnh vệ mặc thường phục trà trộn vào. Nhưng chúng chẳng bắt được ai. Tất cả, như chiếc tổ chim bị phá, các cánh chim đã bay cao và xa!
Quá tức giận vì không thành công trong việc tóm bắt được một người nào, trong số tham dự cuộc lễ, nên hôm sau, tên Hải cho gọi tất cả Linh Mục Tuyên Úy lên thẩm vấn. Tôi không được biết công việc thẩm vấn diễn tiến ra sao, nhưng chỉ biết, nó kéo dài từ ngày này qua ngày khác, cả ngày lẫn đêm. Chắc các vị Linh Mục cũng mệt lắm, nhưng đã là con của Chúa, tất nhiên phải gánh chịu vinh quang và nhục nhằn, như cách đây gần 2000 năm, Chúa đã chịu đóng đinh trên cây Thập Tự Giá.
Đã hơn 6 tháng, chúng tôi sống một cuộc sống mất tự do với quá nhiều nhục nhằn. Thật buồn nản và thất vọng bao nhiêu khi đoán biết ngày mai chẳng có gì khích lệ. Vấn đề dinh dưỡng mỗi ngày mỗi tồi tệ. Cơm tương đối không thiếu, nhưng người ta không thể chỉ ăn cơm với canh đu đủ xanh nấu muối trường kỳ. Gói quà 3k cũng chẳng kéo dài được bao lâu. Dần dà, mọi người cảm thấy mất sức vì thiếu chất protein. Trong lúc nhàn du, tôi đem sự thắc măc đó nói với Tư, người bạn cùng đơn vị, nhưng hiện ở khác K. Khi nghe tôi nói xong, Tư cười hềnh hệch:
- Các ông cứ lo nghĩ vẩn vơ, không chịu nhìn thực tế. Mình có sẵn chất prô-tê-in lại chẳng chịu xử dụng!
- Đâu?
- Chuột đó! Thiếu gì. Ông cứ làm lông sạch, mổ bụng moi hết ruột gan, chặt đầu vứt đi, đem thui vàng tẩm mắm muối hành tỏi, chờ ngấm, cho chút dầu chiên lên, ô là la... vừa nói đã muốn chảy nước miếng đó, ông ơi!
- Tởm bỏ cha! người ta ăn chuột đồng, chứ bố ai dám ăn chuột cống, nhất là chuột trong Trại tù, chuyên ăn phân.
- Ông tưởng chỉ có chuột ăn phân thôi à? Con chó không ăn sao? Vì đâu nhiều người mê ăn thịt chó? Con lợn, con gà, không ăn sao? nhưng tạo hóa sinh ra chúng, thực phẩm nào ăn được, tiêu hóa được, chúng mới ăn và mọi thứ đều biến chất qua hệ thống tiêu hóa để trở thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể. Còn chuyện sợ hay không, tùy theo cảm nghỉ của mỗi người.
- Ông nói gì cứ nói, tôi đếch ăn thịt chuột.
- Ăn hay không, cái đó tùy, nhưng tôi cần phải nói cho ông biết, chuột ở Suối Máu có giá lắm đấy nhé! Lúc đầu, anh em mời nhau ăn cho vui. Sau thấy ngon, ăn vào khoẻ người, nên ai cũng ham. Có người làm bẫy 6 ngăn, đêm nào cũng bẫy được 3,4 trự. Một đồng một trự đó. Đôi 1úc chuột khan, 1đ50 đó. Ông đã nghe nói chuột 7 món chưa?
- Chưa! Nếu biết, ông kể cho nghe đi!
Tư lấy nét mặt nghiêm trang, như sắp sửa nói câu chuyện gì quan trọng. Sau tiếng đằng hắng, anh nói:
- Chuột luộc nè, chuột nướng chả nè, chuột nấu sả nè, chuột ram nè, chuột cà-ri nè, chuột quay nè và sau cùng chuột nấu cháo, món này mát và bổ!
- Ôi chao, nghe đã buồn mửa!
- Ông khó tính bỏ cha. Chiều nay, tôi mời ông ăn bữa chuột ram. Nếu không nói, đố biết đó là thịt chuột. Tôi sợ ông ăn một lần, rồi mê luôn.
- Dạ, cảm ơn, cảm ơn! không dám!
Tư đứng dậy kéo tôi đi đến bên rào kẽm gai, đưa tay gỡ chiếc bẫy chuột xuống. Một con chuột cống to bằng bắp tay chạy lồng lộn như muốn tìm cách thoát ra. Mầu lông nó không đen mà nhuôm nhuôm, một đôi chỗ mất lông, lòi mầu da trắng nhợt.
- Trông có mê không? béo lắm đó ông. Dưới lớp da là lớp mỡ, khi ram khỏi cần cho thêm dầu.
Tôi không muốn nghe, cũng chẳng muốn nhìn con chuột, vội tìm cách rút lui. Tôi không ngờ, trước đây, với cương vị của Tư, mỗi tuần anh đều có thể ăn nhà hàng, tiệm nào tùy ý. Nay mới già nửa năm sống mất tự do, bị thiếu thốn chút ít về vật chất mà miếng ăn đã làm thay đổi hẳn tính nết. Chẳng cứ gì Tư, nhiều người như vậy. Khắp Trại tù, chỗ nào cũng ngửi thấy mùi chuột thui khét lẹt.
Vì đời sống trong tù quá rảnh rổi, người ta tìm mọi cách để tiêu hủy thời gian. Có người đánh bài, có người đánh cờ, có người tập thể dục, có người chơi nhạc, có người tìm cách biến chế món ăn thức uống sao cho thay đổi, đỡ chán miệng. Cũng là cơm, không có mỡ để chiên, người ta nhồi chặt vào chiếc lon guigoz, cho lên lửa nướng. Nếu nướng khéo, xung quanh lon cơm sẽ có một lớp cháy vàng, ăn rất thơm. Còn cách nữa, nắm cơm rồi xắt ra từng miếng vuông vừa một miếng, đặt lên chiếc vỉ sắt, nướng như nướng bánh. Khi nào miếng cơm vàng óng cả 2 mặt, bỏ ra ăn liền, dòn và thơm. Ăn kiểu này không cần thức ăn, chỉ vài hạt muối là đủ. Vì không lao động và cũng do nhu cầu, nhiều người tháo kẽm gai để làm bẫy chuột hoặc gò tôn làm gầu múc nước, làm đồ đựng cơm canh rất khéo. Tôi không ngờ có nhiều vị Trung Tá khéo tay đến như vậy. Chỉ một thời gian ngắn, những người tù lại tự tạo cho mình những tiện nghi tối thiểu để phục vụ đời sống.
Còn độ mười ngày nữa, đến Tết. Bức hoành phi do tôi thực hiện cũng gần hoàn tất. Đối với nghệ thuật, nó là tấm truyền thần hạng bét theo mẫu, không có chút sáng tạo nào. Tên cán bộ Ba ngày nào cũng đến, có ý thúc dục tôi làm cho chóng xong. Sự thực, nếu là công việc hợp với ý thích, khoảng thời gian thực hiện chỉ ngắn bằng một nửa. Nhưng đây là công tác “cỏ vê”, chả có gì hứng thú nên kéo dài, mệt mỏi. Cuối cùng, tấm hoành phi cũng được đem đi, treo giữa nhà của Ban Chỉ Huy, ngay trên bàn thờ Tổ Quốc, ở giữa có chiếc lư hương bằng đồng, một bên lá cờ búa liềm, một bên lá cờ đỏ sao vàng. Phiá sau chiếc lư hương là tấm bản đồ Việt Nam cắt bằng gỗ sơn đỏ, có gắn bóng điện nhỏ ở 3 địa điểm: Hànội, Huế, Sàigòn..
Sau khi tấm hoành phi được mang đi, trong tôi như cất được gánh nặng.
Những ngày áp Tết chúng tôi càng nhớ nhà. Nét mặt người nào cũng đăm chiêu, ủ dột như có sự tình khó nói. Những gói quà 3 kí được gửi đến cho con, cho chồng, cho cha ăn Tết càng làm cho mọi người tăng thêm phần tủi hận. Hầu hết mọi người đều nhận được quà trong dịp cuối năm. Đặc biệt gói nào cũng có mứt cùng kẹo bánh.
Tôi đến tìm Mậu. Vừa đến nơi, thấy Mậu đang túi bụi gói gói, xếp xếp từng thứ la liệt.
- Ối cha, ông nhận mấy gói mà nhiều thế!
- 3 gói ông ơi! Đâu tôi có bảo gửi nhiều thế này. Đứa con gái bé nhất của tôi lại gửi 5d mừng tuổi Bố. Đây ông xem thư nó viết.
Mậu đưa cho tôi miếng giấy nhỏ, có mấy dòng nguệch ngoạc:
Bố,
Con nhịn quà sáng, gửi 5đ mừng tuổi bố. Mong bố về với chúng con. Nhớ Bố quá.
Con gái Bố, Thúy.
Tôi đưa trả Mậu tờ giấy, nhìn sang bên cạnh. Một anh đang ngồi gục đầu trước gói quà mở tung. Tôi nhìn Mậu ngầm hỏi. Mậu nói nhỏ:
- Trúc đó! Hắn vừa nhận được gói quà và thư vợ. Trong thư vợ hắn cho biết, gói quà này được thực hiện bằng nước mắt, sau bao nhiêu ngày tằn tiện. Nhà nghèo lại đông con, nên hắn buồn. Tội nghiệp!
Bỗng Trúc ngước mắt nhìn tôi. Cặp mắt đỏ hoe như còn vướng ngấn lệ. Để tránh xúc động, tôi quay mặt đi chỗ khác. Giữa lúc ấy, có tiếng gọi lãnh cơm, tôi đứng dậy đi về.
Buổi sinh hoạt tối, K.Trưởng cho biết, cán bộ hậu cần sẵn lòng giúp, nếu anh nào muốn “đăng ký” mua bánh chưng ăn Tết. Có nhiều người góp tiền, chắc họ nghị, nếu thiếu chiếc bánh chưng, không ra Tết chăng?
Sau đó, đến chương trình tổ chức Tết gồm có thi đánh cờ Tướng, và mỗi K phụ trách một tổ Bích Báo mừng Xuân. Ban Chỉ Huy sẽ có giải thưởng cho mỗi môn. Vì “danh dự” của K mình, mong anh em cố gắng đóng góp bài vở cho tờ Bích Báo xuân và ai có tài đánh cờ xin ghi tên.
Cuộc sinh hoạt mỗi tối trở nên quen thuộc. Mọi vấn đề đều công khai thảo luận, nhưng cũng có người quá dè dặt, chỉ ghi nhận ở trong lòng những điều ưng cũng như không, chẳng bao giờ nói, hoặc có ý kiến như Khắc. Anh có vẻ nhẫn nhục, chịu đựng. Nét mặt lúc nào cũng lầm lì, khó hiểu. Hình như Khắc không có ai là bạn thân. Đôi khi, tôi và Khắc cũng nói chuyện, nhưng chỉ là chuyện tầm phào, xã giao. Không hiểu sao, sau buổi sinh hoạt tối nay, Khắc lại rủ tôi đi vòng quanh chiếc sân nhỏ. Anh mang theo gói kẹo và bao thuốc. Chúng tôi vừa ngậm kẹo vừa hút thuốc, nói chuyện về những mùa Xuân trước, dưới mái gia đình hay trong đơn vị. Những bước chân đi đều, bỗng Khắc dừng lại, nắm tay tôi:
- Này ông, tôi nhớ vợ con quá, chịu không nổi!
- Nhớ, ai không nhớ? Nhưng ở hoàn cảnh này, nhớ cũng vô ích!
- Tôi nghĩ kỹ lắm rồi ông ạ! - Khắc nhìn đăm đăm vào mặt tôi.
- Ông nghĩ gì?
- Phải trốn Trại! Tôi tin ông lắm, mới dám nói điều đó, ông giữ kín cho.
- Ông khỏi lo, nhưng ông trốn bằng cách nào, qua 12 lớp kẽm gai, bãi mìn và những vọng gác?
- Tôi đã để ý, một nơi có thể vượt qua được. Chiếc hố xí sát hàng rào, nơi đó có một lỗ hổng do chó chui. Mùa này, buổi sáng mù sưong, tôi sẽ đi cầu thật sớm, chờ sẵn ở cổng. Khi nào nó cho ra, tôi sẽ đi thẳng tới đó, quan sát lúc nào tên gác không để ý, sẽ chui qua lỗ hổng đó, rồi tìm cách thoát ra ngoài.
- Ông Khắc ơi, ông nhớ cho, từ trên cao nhìn xuống, rõ lắm. Hơn nữa, chỗ đó, tôi cũng biết, nó trống trải, cây cối không có. Ông nên nghĩ kỹ đi, kẻo hối hận!
Trong bóng tối, tôi cố mở to mắt tìm phản ứng trên nét mặt Khắc, nhưng chỉ thấy hai đốm sáng long lanh.
- Phải liều chứ? Nếu không, sao thoát khỏi chốn này?
- Ai cũng muốn thoát chẳng riêng ông. Tôi cũng muốn trốn Trại lắm, nhưng phải trốn cách nào cho an toàn, nếu bị bắt lại, đời tàn. Nó nhốt Connex, chỉ một tuần, đủ tiêu!
- Nghĩ kỹ như ông, sao dám làm, đã quyết phải liều!
Tiếng nói của Khắc rắn đanh, chứng tỏ hắn đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Nhưng qua câu chuyện, tôi nhận thấy, Khắc chỉ vì nhớ vợ con nên có ý định trốn Trại. Rất có thể, trong một lúc nào suy tính lại, cũng vì vợ con, hắn bỏ ý định đó.
Tiếng kẻng báo giờ ngủ đã khua vang. Tôi và Khắc ai về chỗ nấy. Trước khi chia tay, Khăc cẩn thận ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Ông giữ kín cho, lộ chết đấy!
Tôi gật đầu. Trong giấc ngủ đêm ấy, hình ảnh Khắc và chiếc hố xí lẩn quẩn hoài trong tâm trí.
Cái Tết thứ nhất trong tù, gây rất nhiều tác động tâm lý. Cho đến hôm nay không mấy ai còn tin ngày được tha sẽ tớí. Tôi nhớ lại lời nói của Minh, một sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
- Ít nhất, tụi mình phải bóc xong một cuốn lịch, còn thêm nữa,chưa biết! Tôi không dám nói với nhiều người, sợ anh em chửi!
Càng suy nghĩ, càng thấy đúng. Chúng tôi không thể về trước một cuốn lịch và vấn đề về sớm hay muộn cũng sẽ không đồng đều cho tất cả, vì mỗi cá nhân, phải gánh chịu những hậu quả khác nhau do “quá trình tội lỗi gây ra.”
Chiều nay 30 Tết, tôi đi một vòng quanh Trại. Không khí tuy vẫn cùng nhịp độ với những hôm trước, nhưng trên nét mặt mỗi người hình như vướng vất nỗi ưu phiền.
Trời tắt nắng sớm. Những giờ phút cuối của một năm sắp qua nó day dứt, nặng nề. Đàn chim soải cánh phía xa, thẳng tắp như một dòng kẻ. Hồi còi rúc vang theo hướng gió đưa lại. Tôi đứng nhìn qua rào kẽm gai. Tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt rầm rập. Đoàn tầu từ Sàigòn đi về hướng Long Khánh, chở đầy hàng hóa và hành khách. Vì là chuyến tàu chót của một năm sắp tàn nên tầu chật ních người. Hành khách bám đầy nơi bậc lên xuống, cả trên nóc toa. Sự thực mỗi ngày, tôi đều có nghe và thấy những chuyến tầu xuôi ngược, nhưng chuyến tầu cuối năm, không hiểu sao làm tôi xúc động! Tất cả đều trở về sum họp dưới mái gia đình trong dịp Tết, chỉ riêng chúng tôi, những người đang bị Tập Trung Cải Tạo, trong nhiều Trại giam khắp miền Nam, phải gánh chịu một cái Tết khắc khoải, chứa chấp nhiều phiền muộn! Tôi biết, mùa xuân đang đi từng bước nhẹ nhàng, êm ấm, vui tươi trong lòng những ai có đời sống không liên lụy với Cộng Sản. Tôi nghĩ đến vợ con, chắc giờ này đang ngồi khóc trước bàn thờ tổ tiên. Các nghi thức trong dịp Tết, chắc không thiếu, nhưng thiếu tôi là thiếu tất cả! Câu thơ của Lamartine, tôi đã đọc qua mấy chục năm trước, lúc này nghĩ lại mới thấy thấm thía: Un seul être vous manque, tout est dépeuplé!
Chiều xuống rất mau. Bóng tối ùa lấp tất cả. Trên vọng gác cao, tên cảnh vệ không nhìn vào trai theo đúng nhiệm vụ. Nó quay mặt ra phía ngoài, khẩu A.K. đặt chéo trên thành vọng gác. Gió thổi mạnh làm chiếc áo nó mặc phồng lên như cánh buồm no gió. Không hiểu sao, đến giờ này mà tên cảnh vệ thứ hai chưa có mặt.
Tôi đi từng bước rất chậm, mắt ngước nhìn trời. Không ánh sao, vùng trời như tấm phông tím ngắt phẳng lì. Tôi nhìn về hướng Sàigòn. Một dãi ánh sáng chạy mờ tỏ trước mặt.
Sự thua trận như giấc mơ kinh hoàng. Nhiều lúc nghĩ quẩn, tôi tưởng nó là giấc mơ thực. Nhưng chỉ loáng sau, khi mắt nhìn thấy những rào kẽm gai, những chiếc mái tôn, tôi sực tỉnh, như kẻ mộng du quên hết những gì mình làm vừa qua, lại hành động và suy nghĩ như người bình thường.
Bữa cơm chiều 30 Tết, có thịt heo và canh. Tuy bữa ăn thịnh soạn hơn ngày thường, nhưng tôi ăn không thấy ngon vì lòng không vui. Sau khi rửa chén đũa, tôi tìm chỗ khuất, ngồi suy nghĩ. Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là hết năm. Những giờ phút thiêng liêng của sự giao thoa giữa Đất Trời và những huyền bí từ vạn cổ chưa ai giải đoán nổi, giữa kiếp người hữu hạn và cái cõi xa xăm vô giới hạn, sau khi ta vắng mặt, sẽ ra sao?
Tôi đang ngồi đây, tức là tôi hiện hữu, hay cái tôi không thể định hình, vì mỗi tích tắc đi qua, một phần trong tôi đã hao hụt, đã thuộc về quá khứ! Sự suy nghĩ nhiều khi đưa con người đi xa thực tế, chối bỏ hiện tại, chỉ nhằm vào dự tưởng, mà dự tưởng thường thường đưa con người đến thất vọng!
Tiếng kẻng đổi gác lôi tôi ra khỏi dòng mộng. Những tiếng nói cười, tiếng chân đi vọng đến tai rất rõ. Trời đất tối như mực. Tôi nghĩ đến Khắc và ước mơ của hắn. Giá lúc này tụi Cộng Sản mở cổng cho phép đi cầu, thì Khắc có cơ may trốn thoát, nếu không vướng mìn. Nhưng chiếc cổng đã được đóng chặt, hai tên cảnh vệ từ trên cao nhìn bao quát, chẳng ai dám đứng gần, chứ đứng nói mở. Chợt nghe tiếng gọi tên, tôi quay về hướng đó. A “tu-bíp” Cường.
- Có chuyện gì vậy ông?
- Tôi mới xin được mấy nén nhang, chờ Giao Thừa, đốt lên, cúng vái trời đất và tổ tiên, ông chịu không?
- Chịu quá đi chứ! Ông xin ở đâu, hay vậy?
- Mới đi khám bệnh cho một anh, bỗng nhìn thấy bó nhang để đầu giường, tôi xin mấy nén.
Cường vốn không được lòng anh em, nhưng ở gần mới biết, hắn không có ác ý với ai, còn câu chuyện hắn bợ đỡ tên y tá và buôn bán thuốc tây, chẳng qua vì quyền lợi!
Tôi ngồi hút thuốc lào vặt chờ Giao Thừa. Thời khắc lúc này hình như trôi rất chậm. Căn buồng tôi ở, nhìn thẳng ra vọng gác. Do đó, nhất cử nhất động của chúng tôi ở phía dưới, mấy tên gác trông rõ mồn một. Tôi đứng dậy, múc chén nước, bầy kẹo bánh vào chiếc dĩa, đặt trên mặt ghế ngay trước cửa nhà để lễ Giao Thừa. Cường đi đi, lại lại tỏ vẻ nóng ruột. Thân hình hắn lùn mập nên dáng điệu có vẻ chậm chạp. Bỗng hắn dừng lại, nói với tôi:
- Này ông, còn 2 phút nữa thôi, liệu thắp nhang thì vừa.
Tôi cầm mấy nén nhang, bật lửa. Làn khói thơm ngát tỏa ra. Tự nhiên, lòng tôi thấy vơi nhẹ, lâng lâng như trút hết mọi ưu phiền. Cưộc sống hiện hữu hay cõi chết vô thường cũng như nhau. Nó là sự giao thoa mầu nhiệm giữa cái có, cái không, cái còn, cái mất!
Tôi cắm nhang vào chiếc lon đựng đầy cát. Cường và tôi cùng chắp tay, cúi đầu, lâm râm khấn vái. Gió thổi từng cơn lành lạnh. Dòng khói quá mong manh vừa tỏa ra đã bị gió làm tan nhanh, không để lại chút gì. Đầu ngọn nhang cháy đỏ rực trông thật đẹp, như những cánh hoa lửa giữa đêm khuya. Một tràng pháo nổ vang từ xa vọng lại. Tiếng pháo nổ không làm tôi vui, vì nó thuộc về phía kẻ chiến thắng.
Chúng tôi vừa lễ xong, bỗng từ ngoài kẽm gai có tiếng nói vọng vào:
- Mấy anh kia, “nàm” gì đấy?
Chúng tôi giật mình khi thấy chiếc nón cối và khẩu A.K. đang đứng nhìn chằm chằm.
- Dạ, chúng tôi lễ Giao Thừa!
- Chắc các anh nhớ nhà “nắm” hả?
- Dạ, nhớ!
- Tôi cũng vậy, đi bộ đội đã trên 6 năm nay, chưa một “nần” được về thăm nhà. 6 cái Tết rồi! Tôi còn mẹ già và hai em: 1 trai, 1 gái!
- Tại sao cán bộ không xin phép về thăm, bây giờ hòa bình rồi!
- Có xin đấy, nhưng Trên chưa cho. Các anh tưởng tôi sướng lắm đấy ư? Các anh bị quây 12 lần kẽm gai, tôi cũng 9 vòng, kém gì?
Quả không ngờ, tên cảnh vệ lại nói với chúng tôi những lời như vậy, nhưng vì dè dặt, chả ai dám nói thêm điều gì. Nó lừng lững bỏ đi. Chúng tôi quay vào nhà, ngồi suy luận về thái độ của tên cảnh vệ.
Trời bên ngoài tối đen, không tiếng động nào vọng đến. Những giây phút tinh khôi của một năm mới bắt đầu. Mọi người chúng tôi thêm lên một tuổi. Chẳng biết trong năm mới này, những chuyện gì sẽ xảy đến? Có tiếng gọi từ ngoài rào:
- Có anh nào trong nhà không?
Tôi chạy ra. Tên cảnh vệ đưa qua rào kẽm gai một gói giấy và một chai la-ve:
- Các anh cầm “nấy” mà dùng. Nhanh “nên”, kẻo có người trông thấy.
Sau khi đưa xong, hắn đeo súng trên vai đi xuôi theo con lộ. Chỉ một thoáng, vóc dáng hắn đã chìm khuất vào màn đêm âm u. Tôi quay vào lẹ như cơn gió. Cường tưởng có chuyện gì, mở to mắt nhìn tôi.
- Có chuyện gì thế?
Tôi không trả lời, đưa cho Cường gói giấy và chai la-ve. Cường mở gói ra xem, thấy có một gói cơm sấy ngào đường, loại đồ ăn khô của Trung Cộng, còn chai la-ve bốc mùi rượu đế. Chúng tôi vô cùng ngac nhiên vì không ngờ tên cảnh vệ lại cho những thứ đó, nhất là rưọu. Nội quy Trại triệt để cấm uống rượu. Nếu có tiền, mua gì cũng có thể được, trừ rượu! Đêm nay Giao Thừa, tên lính Việt Cộng cho rượu uống, chẳng biết là điềm hên hay xui? Nhưng dù thế nào, có rượu hãy uống đã. Cường đi tìm Cúc, Sử và Khanh về cùng ăn, uống cho vui. La-ve pha đế và đường ngon quá, Khanh cứ uống tì tì hết chén này đến chén khác. Sau khi chai la-ve cạn, Khanh đi ra ngoài. Anh em chờ lâu không thấy vào, bảo Sử đi tìm. Lát sau, Sử dìu Khanh lảo đảo bước vô, người rũ xuống như chiếc dái khoai.
- Nếu tôi không ra, chẳng biết ông ấy nằm ngoài sân đến bao giờ? Chắc đã lâu không uống rượu, nay uống la-ve pha đế, đường, nên dễ say!
Chúng tôi ngồi ăn cơm sấy, nói chuyện đến 3giờ sáng. Quá mệt, tôi lăn ra ngủ, không buông mùng, quấn tròn thân mình vào tấm vải đắp, như con sâu nằm trong tổ!
Khi mở mắt, ánh nắng đã chói chang. Căn buồng vắng vẻ, mọi người đã đi đâu hết. Hôm nay, mùng một Tết. Tôi cố hồi tưởng đến ngày mùng một Tết nào đó của tuổi thơ, dậy thật sớm, mặc quần áo đẹp chờ tiền mừng tuổi. Ôi, ngày đó xa rồi, xa quá rồi! Những hình ảnh đẹp ấy, nay thuộc về thế hệ các con tôi, với tôi, nó chỉ còn là bổn phận và trách nhiệm!
- Ngủ gì dữ vậy ông? Hồi sáng đến chúc thọ, ông chưa dậy. Chán ghê, chán ghê!
Tôi lè nhè trả lời:
- Hãy còn sớm mà!
- Còn sớm à?Người ta chúc nhau ầm ầm, vui như Tết, còn ông cứ nằm ì ra như con heo.
Tôi cười, xin lỗi Mậu, đi ra ngoài rửa mặt, đánh răng. Mặt trời lên đã quá cao, những tia nắng như bốc lửa trên mặt cát. Hôm nay mùng một Tết, thời tiết cũng chẳng có gì đổi thay. Mặt trời vẫn thiêu đốt, cảnh vật im lìm, chìm đắm dưới sức nóng hừng hực. Tôi quay vào:
- Nào, bây giờ ông muốn chúc gì, tôi sẵn sàng nghe.
Mậu nhìn tôi với cái nhìn nửa thương mến, nửa trách móc:
- Chúc ông năm nay sớm được về đoàn tụ với gia đình. Dồi dào sức khoẻ bằng năm bằng mười năm ngoái.
- Không còn câu nào hay hơn nữa sao? - Tôi hỏi Mậu với ý diễu cợt.
- Thế ông không muốn được tha à?
- Ai không muốn được tha, nhưng con đường cải tạo còn gian nan lắm! Không phải tôi nói gở đâu, nhưng thực tế đã mặc khải cho tôi thấy nhiều khó khăn hơn dự tưởng.
- Thế ông không chúc gì tôi à? - Mậu mở to mắt nhìn tôi.
- Ông muốn chúc gì? Để tiện việc, tôi cũng chúc ông xêm xêm như ông đã chúc tôi! chịu chưa?
- Giản dị quá nhỉ? Ông là chúa ấm ớ! Mùng một Tết gặp ông, chán ghê, chán ghê! Thôi, tôi với ông đến thăm Lâm và Huy cùng các bạn thuộc B cũ đi.
Rít xong hơi thuốc lào, toàn thân tôi ngây ngất, lâng lâng. Chờ tôi hả cơn say, Mậu kéo tay lôi đi chúc Tết.
Hôm nay, mọi người hình như trẻ, đẹp ra. Trên nét mặt người nào cũng hồng hào như vừa uống xong ly rượu. Đi một quảng, tôi gặp Thượng Tọa Thích Thanh Long (Cựu Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo). Vừa thấy tôi, Thượng Tọa đã chắp tay đưa lên ngực:
- A Di Đà Phật. Năm mới, chúc ông ước gì được nấy!
Tôi cúi đầu, cũng chắp tay đưa lên ngực.
- Bạch Thượng Tọa, tôi kính chúc Thượng Tọa, trong năm mới được dồi dào sức khỏe để phụng sự Phật pháp.
- Cảm ơn, cảm ơn nhiều!
Thượng Tọa Thanh Long lại đưa tay lên ngực, cúi đầu chào tôi, trước khi quẹo ngả khác. Trong Trại Suối Máu có hai vị Thượng Tọa. Riêng tôi, rất kính phục Thượng Tọa Thích Thanh Long vì tư cách và đạo đức, xứng đáng vị lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo. Thượng Tọa vẫn ăn chay, niệm Phật. Không ai thấy Thượng Tọa có hành động hoặc lời nói nào làm mất uy tín của người tu hành, dù trong Trại tù có rất nhiều hoàn cảnh tạo nên sự chao đảo. Còn vị kia đã ngả mặn, sống như người tù thường, ngoài chiếc đầu không tóc!
Lối đi hẹp nhiều lúc ứ nghẹn vì dòng người quá đông. Tiếng chúc tụng nhau qua lại, nghe mãi hóa nhàm. Câu được dùng nhiều nhất: Chúc bạn sớm được về đoàn tụ với gia đình! Còn các câu khác, loáng thoáng thôi. Những sáo ngữ thường chúc tụng ở ngoài đời trước kia như: thăng quan tiến chưc, nhất bản vạn lợi, đầu năm con trai, cuối năm con gái, v.v.., nếu có được dùng, chỉ nhằm diễu cợt.
Tôi gặp lại anh em trong B cũ hồi ở Long Giao, thật vui. Lời chúc, ít thôi, nhưng ăn kẹo bánh nhiều. Ai cũng thủ sẵn gói kẹo bánh trong túi, gặp ai thân rút ra mời. Sau một hồi trò truyện, nhắc nhở dăm ba kỷ niệm, tôi cáo lỗi để có thì giờ đi thăm những bạn khác.
Tôi đến thăm Nhân, Phúc và Hùng. Chúng tôi gặp nhau cũng bình thường như mọi ngày. Đời sống trong tù, lâu dần làm tâm hồn con người trở thành chai đá.
Phúc giết thì giờ bằng mạt chược. Cổ bài mạt chược do anh em làm lấy bằng gỗ, cũng vẽ và tô mầu khá đẹp. Cái thú phong luu từ ngoài đời được thực hiện ngay trong nhà tù Cộng Sản. Tụi quản lý Trại giam, chắc chưa bao giờ được biết cái trò cờ bạc này, nên chúng không ngăn cấm, miễn đừng đặt tiền. Ngoài mạt chược, có người chơi xì-phé, được thua cả trăm tiền mới. Để khỏi bị bắt, họ chơi bằng tiền bìa, 1 loại “jeton”, giá trị tùy theo hình thể và mầu sắc.
Đi một hồi, vừa mỏi chân vừa mỏi mồm, tôi quay về buồng nằm nghỉ, chờ cơm. Bữa cơm trưa ngày mồng 1 Tết, cũng khá đầy đủ, có thịt, canh. Đây, bữa ăn ngon cuối cùng để kết thúc ngày Tết, tuy Tết mới xuất hiện có trên 10 tiếng đồng hồ. Từ chiều, đời sống của tù lại kéo dài những ngày buồn nản. Tôi chưa gặp Khắc, nếu gặp, tôi sẽ chúc hắn sớm thực hiện được ý muốn.
Nhưng một ngày qua rất nhanh. Buổi tối, không khí ngày Tết hình như đã tàn phai. Anh em túm năm, tụm ba ngồi nói chuyện tầm phào, ăn mứt kẹo, uống nước. Dưới ánh đèn mờ ảo, những nét mặt lại đăm chiêu, phiền não! Buồn quá, chả biết làm gì, tôi lại đi dạo quanh chiếc sân nhỏ như mọi tối trước giờ ngủ. Bỗng tôi nghe từ ngoài rào kẽm gai, có tiếng suỵt chó. Một con chó màu vàng từ đâu chạy băng qua mặt. Tôi đứng lại, ngó theo. Nó chạy sục sạo phóng nhanh qua sân, rồi quay trở lại, chui qua rào kẽm gai. Con chó sủa mấy tiếng ngắn. Tôi nhìn ra, một tên cảnh vệ đi dạo trên mặt lộ, đầu trần, khẩu A.K. lủng lẳng trên yai, con chó quanh quẩn dưới chân. Tên cảnh vệ cúi xuống, nhặt cục gach ném xa, con chó chồm lên phóng theo. Chỉ một thoáng, nó đã ngậm cục gach trong mồm, đuôi ve vẩy tiến về phía chủ. Tên cảnh vệ khom người lấy cục gạch trong mồm chó, rồi cho tay xoa đầu chó, như khen thưởng. Nó tiến sát rào kẽm gai:
- Sao, anh ăn Tết có vui không?
Tôi nghe đúng tiếng tên cảnh vệ đã cho chúng tôi cơm sấy và rượu đêm qua:
- Dạ, cũng vui! Tết bên ngoài, chắc vui lắm!
- Vừa phải thôi. Chỉ đốt pháo “nà” nhiều. Tiền đâu, họ mua pháo nhiều thế? Tôi gác tới nay, từ 9 đến 11 giờ, có thư, đưa tôi gửi về nhà cho. Đêm, gác 2 người, khi nào thấy mình tôi, hãy đưa!
- Vâng, khi nào cần, chúng tôi sẽ nhờ cán bộ giúp!
Tên cảnh vệ, không nói gì, đi về phía cái thang, leo lên từng bậc. Con chó đứng dưới, ghếch cổ lên nhìn, sủa vài tiếng rồi biến vào bóng tối. Từ trên vọng gác, một tên khác chăm chú nhìn xuống.
Tôi mang chuyện đó nói với Cường, Khanh và Sử trong lúc Cúc không có mặt. Mọi người đều có ý kiến, nên dè dặt, sợ bị phản phé. Riêng tôi, vì có nhiều việc cần nói với gia đình, nên viết sẵn một lá thư, kèm theo một đồng tiền tem, buộc vô cục gạch nhỏ, chuẩn bị quăng ra ngoài khi có cơ hội. Nhưng phải chờ đến hai, ba hôm sau, khi tên cảnh vệ lên phiên gác ban ngày mới thực hiện được. Đây, lần thứ nhất, tôi được nhìn thấy anh ta tận mặt. Da mặt đen đúa, tay chân thô kệch, giọng nói quê mùa, nhưng quả thật có tấm lòng tốt. Sau này, anh ta đã giúp chúng tôi rất nhiều trong vấn đề thư từ liên lạc giữa chúng tôi và gia đình. Chúng tôi, không biết tên, nên gọi anh là “ân nhân”. Thư từ trong Trại, gửi đi rất hạn chế, mỗi tháng một lần, lại bị kiểm duyệt, nên có những vấn đề cần nói, không dám viết ra, nhờ vào cơ hội này, chúng tôi viết thoải mái. Nhưng anh ta cũng đề cao cảnh giác, luôn luôn nhắc nhở:
- Trước khi ném thư, phải nhìn lên vọng gác, khi nào thấy tôi gật đầu làm hiệu hãy ném. Ban đêm, gác kép, nếu nghe tiếng suỵt chó hãy ra bờ rào kẽm gai. Chớ bao giờ ném thư hoặc đứng sát rào khi chưa có ám hiệu. Chẳng may, tên Hải bắt được, nguy cho mấy anh, còn tôi không cần, bất quá chỉ bị “điều” đi nơi khác thôi, nhớ nhá!
Những ngày Tết trong tù tàn theo cuộc vui đánh cờ tướng và những tờ Bích Báo lòe loẹt treo đầy vách nơi căn nhà đặt máy tivi. Nhiều tờ đã rách tả tơi vì gió. Sự thực cũng rất ít người coi vì nội dung toàn bợ tụi Cộng Sản một cách hời hợt giả dối, cho xong chuyện. Cộng Sản chắc cũng biết, nên chẳng đứa nào ngó tới. Chúng có trao một số kẹo bánh và thuốc lá để làm giải thưởng cho người thắng cờ và tờ Bích Báo nào được chấm là khá nhất, do tù tự quyết định với nhau.
Sau Tết, miền Nam nắng gắt. Suối Máu vùng đất cát nên càng nóng. Ai cũng tìm cách làm sao có chiếc mũ đội. Do đó, trên 1,500 người có mặt, có trên 1,500 kiểu mũ. Không ai có thể tưởng tượng được một rừng mũ đủ hình, đủ kiểu, đủ màu đi lượn lờ mỗi sáng, mỗi trưa, mỗi chiều trong vòng đai Suối Máu. Đây, cũng một hiện tượng lạ với óc sáng tạo phong phú của mỗi người tù.
Giếng nước, mỗi ngày mỗi cạn, gầu thả đã đụng đáy. Trời nóng, ai cũng cần nước. Vì vậy, nên sự chen lấn, giành giật không tránh khỏi. Nhiều vụ cãi lộn, chửi thề đáng lẽ không nên có giữa các người đồng cấp và cũng là chiến hữu từ mấy chục năm, nhưng con người vì tranh sống, nên đôi lúc nóng nảy quên cả tình nghĩa, làm kẻ thù đánh giá chung tập thể rất thấp. H.râu người đã sống những giờ phút vô cùng oai hùng giữa mặt trận XX, người đã coi thường cái chết, đã hạ chiếc T54 bằng trái M72 cuối cùng, Anh Dũng Bội Tinh xếp đầy một rổ... bữa nọ chỉ vì vài con cá nhỏ, chia chác không đều, đã gây lộn suýt thành ẩu đả! Con người càng bị đè nén, phản ứng càng mạnh. Những câu chửi rủa tục tằn sở dĩ có cũng do sự bực bội mà ra. Người ta không dễ tha thứ cho nhau khi cảm thấy không còn ai tốt với mình.
Có lẽ Việt Cộng nghĩ, không nên để tù rổi rãi quá có thể xẩy ra những hậu quả không tốt cho chúng, nên phát động công tác trồng sắn.
Mỗi ngày có vài K đi lao động ở ngoài Trại. Đi ra ngoài, tuy nắng nôi thật đấy nhưng vui vì gặp dân chúng và được hưởng đôi chút tự do! Không hiểu sao, chỉ mấy hôm sau, đã thấy các bà chờ ở hai lề đường, tay cắp, nách mang đồ tiếp tế. Bà nào may gặp chồng, con, quăng được ít đồ, nói vài ba câu, mặc kệ tụi cảnh vệ xua đuổi. Nếu không gặp, mang về, mai lên tiếp. Có nhiều bà, chờ cả tuần không gặp chồng, vì ông không đi lao động do đau ốm hoặc đến phiên nấu cơm, vác củi hay làm công tác khác.
Buổi sáng nay, không khí toàn Trại có vẻ gì khang khác ngày thường. Không K nào đi lao động. Các K. Trưởng đều ăn mặc gọn gàng tề chỉnh. Anh em thắc mắc không hiểu có chuyện gì xẩy ra. Tôi hỏi Cúc:
- Có việc gì đó ông?
- Ai biết! Sáng sớm, tên “tà -loọc” Trung, xuống cho lệnh các K.Trưởng phải ăn mặc tề chỉnh để dự lễ. Chỉ biết có thế. ·
- Tên Trung đi phép về, khi nào vậy?
- Không biết! Sáng nay hắn xuống mới hay.
- Tôi nghe nói, hôm nọ hắn lấy cớ đi phép về Băc, bắt mỗi K góp cho hắn một khoản tiền dùng làm lộ phí, được cả mấy trăm! Nhưng hắn đâu có về Bắc, mà ra Biên Hòa chơi bời em út! Hết tiền quay về Trại!
- Thôi đi ông, đến tai nó phiền lắm! Nó là con chó săn đó. Nó ghét ai, người đó khó sống lắm! Không biết lúc nào nó đưa vào chơi Connex!
Tôi nhìn thấy tên Trung từ ngoài đi vào. Các K.Trưởng tự xếp hàng, theo tên Trung đi ra cổng.
Anh em đều ngạc nhiên khi nhìn thấy từ trên vọng gác hai tên cảnh vệ nhìn chăm chăm về phía Trại giam. Khẩu trung liên chĩa thẳng xuống sân Trại như sẵn sàng nhả đạn.Trên con lộ, mấy tên khác vác A.K. đi tuần, nòng súng cũng chĩa vào Trại. Như vậy Cộng Sản đã tăng cường an ninh, chắc có chuyện gì quan trọng.
Tiếng thử loa: một, hai, ba, bốn từ xa vọng lại. Anh em người nào cũng lắng tai. Nhìn thấy Khắc, tôi vẫy hắn đến gần, nói nhỏ:
- Nè ông, sao chưa thực hiện ý định?
Khắc nhìn tôi với cái nhìn buồn bã.
- Chưa có cơ hội! Tuy vậy, cũng khó lắm! Cứ giả thử tôi qua lọt 9 lớp kẽm gai và bãi mìn mà không chết, nhưng làm sao có thể băng qua được khoảng trống mông mênh dài cả dăm bẩy cây số? Chờ đến đêm chăng? Cũng không được, vì đêm nào tôi cũng nghe tiếng suỵt chó. Khó quá, khó quá, nhưng chưa tuyệt vọng!...
Giữa lúc ấy, tiếng loa từ xa vọng đến. Anh em nào có mặt nghe được những lời trong loa đều tái mặt.
...Bản Cáo Trạng của tên Nguyễn văn B cấp bậc Đại Úy sinh ngày... tại... có vợ, 2 con, được đào tạo tại Trường Võ Bị Đà Lạt khóa... năm..., đã phục vụ trong Ngụy Quân với các chức vụ sau đây:
. Cấp bậc Thiếu úy, giữ chức vụ Trung Đội Trưởng.
. Cấp bậc Trung uý, giữ chức vụ Trưởng Ban An Ninh chi khu.
. Cấp bậc Đại Úy, giữ chức vụ Chi Khu Trưởng.
Bị bắt ngày 24-6-75. Can tội: phản Cách Mạng, có nhiều nợ máu với nhân dân, được Đảng và nhà nước khoan hồng cho đi học tập cải tạo, lại tìm cách trốn Trại, không chịu học tập.
Nay:
. Chiếu đạo luật số... về tổ chúc các Trại Tập Trung Cải Tạo,
. chiếu đề nghị của Ban Chỉ Huy Liên Trại Cải Tạo thuộc quân khu 7,
. chiếu đề nghị của Ủy Ban Cách Mạng tỉnh Đồng Nai ngày... tháng... năm,
. chiếu Án lệnh của Toà Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai ngày... tháng... năm,
nay tuyên án tử hình tên Nguyễn văn B...
Tiếng vỗ tay rào rào. Sau đợt vỗ tay, lời hỏi cuối cùng:
- Can phạm có điều gì cần nói?
Một giọng rắn rỏi:
- Tôi không có gì để nói!
Tiếng loa im bặt. Anh em có mặt, ngơ ngác ngó nhau. Khắc, mặt tái mét, hai mắt đỏ ngầu như mới khóc. Đôi môi hắn run run như cố chặn cơn xúc động!
Một loạt súng ròn tan từ xa vọng lại! Trời đang nắng chói chang, tự nhiên sầm xuống. Lớp lớp mây đen che kín một vùng rộng lớn. Gió thổi xô từng cụm mây đang cuồn cuộn như sắp nổi cơn giông lớn. Cảnh vật bị chìm ngập trong mầu xám nặng chĩu hơi nước. Phía xa, những tầu dừa ngã nghiêng, vật vã. Tôi ngước mắt nhìn lên vọng gác. Một tên cảnh vệ vẫn chĩa khẩu trung liên về phía chúng tôi, còn tên kia đứng tựa lưng vào thành gỗ hai tay khoanh trước ngực.
Cơn mưa rào bất chợt bủa xuống. Dòng nước đổ như thác làm cảnh vật mờ dần, hư ảo trong cơn mưa. Tôi vô nhà ngồi nhìn ra ngoài. Từng hạt mưa to đều đều trải trước tầm mắt. Chỉ chừng 10 phút, cơn mưa tạnh đột ngột. Mặt trời lại chói chang phả ánh nắng xuống gay gắt. Những bãi cỏ hình như xanh hơn, con lộ đỏ tươi như mầu máu nằm phơi mình dưới sức nóng hừng hực. Tôi úp mặt vào tay. Trong đầu hiện lên hình ảnh pháp trường: một chiếc cọc, một tội nhân bị bịt mắt, trói ghì vô cọc, một tiếng hô, hai tiếng hô, ba tiếng hô, một loạt súng cùng nổ. Xong, một kiếp người!....
Bản án được đọc, trích đúng Bản Tự Khai. Anh em tuy không nói ra, nhưng chắc không ai tránh khỏi niềm lo âu, thắc mắc khi hồi tưởng những gì mình đã viết trong Bản Tự Khai tại Long Giao! Mỗi người, tự kết tội, nhận mình phạm nhiều lỗi lầm, có nhiều nợ máu với nhân dân, dù văn phòng hay tác chiến! Cộng Sản lý luận: nếu không có Bộ Tham Mưu với các Phòng Sở chuyên môn yểm trợ cho mặt trận, làm sao người límh có thể chiến đấu được? Ai lo “điều” quân, ai lo “hậu cần”, ai lo “hợp đồng tác chiến”? Vì quan niệm như vậy, nên mọi người đều có tội ngang nhau. Văn phòng nhiều khi còn nặng tội hơn như ngành Chiến Tranh Tâm Lý và “tình báo Xê-i-a!”
Tôi nhìn thấy từ xa, các K.Trưởng xếp hàng hai đi vào cổng. Nét mặt người nào cũng đăm chiêu, hình như nỗi lo sợ chưa tan hết. Cơm đã lãnh chưa ai muốn ăn. Những lon cơm để tơ hơ đó đây, ruồi bu đầy như rắc đổ đen. Chờ cho các K.Trưởng đi khuất sau vách nhà, tránh sự dòm ngó của hai tên cảnh vệ trên vọng gác, với họng súng đen ngòm, anh em mới bu đông, hỏi han tiú tít.
- Sao, ghê không? Ông có được nhìn lúc họ bắn anh em mình không? Còn hay hết?
Những câu hỏi dồn dập làm Cúc không biết đâu trả lời!
- Từ từ chứ mấy cha nội! Họ cốt cho mình chứng kiến để dằn mặt mà! Ai có ý định trốn Trại coi đó làm gương! Chiều nay, còn trự nữa!
Cúc vừa nói vừa cởi nút áo, phanh ngực cho mát.
- Ghê quá, nhưng phải nhận, anh B can đảm lắm. Anh không chịu bịt mắt khi bị dẫn ra pháp trường. Trước phút hành quyết, anh còn hô “Việt Nam Cộng Hoà muôn năm! Đả đảo Cộng Sản!”
Buổi trưa hôm ấy, không ai ngủ được. Chỗ nào cũng bàn tán về cuộc xử bắn sáng nay và ước đoán về cuộc hành quyết buổi chiều. Tôi không thấy Khắc suốt từ lúc hắn rời tôi khi sáng, nhưng tôi chắc sự việc vừa diễn tiến sáng nay, còn tiếp tục đến chiều, chắc làm tâm hồn hắn giao động dữ lắm! Khắc vốn ít nói, không ai đoán được hắn nghĩ gì, nhưng sau mấy lần tiếp xúc trực tiếp, tôi biết, trong thâm tâm hắn đã phần nào nao núng và ý nghĩ trốn Trại chắc cũng tàn dần như chiếc đèn lụi bấc!
Vào khoảng 2 giờ chiều tiếng kẻng vừa đổ, các K.Trưởng lại tập họp hàng hai đi ra cổng. Anh em hồi hộp đợi chờ. Tiếng thử loa lại vang vang: một, hai, ba, bốn!... Khẩu trung liên vẫn chĩa mũi xuống Trại, chiếc ổ đạn tròn xoe to bằng chiếc đĩa, nằm im trên nắp cơ bẩm. Chỉ một cái nhấn tay, hàng trăm viên vút ra, lao tới mục tiêu trong nháy mắt. Chúng tôi là quân nhân, sự đụng chạm với súng ống coi chuyện thưòng, cũng như vấn đề chết, sống ở mặt trận cũng coi nhẹ. Nói vậy, không có nghĩa, mọi chiến sĩ đều can đảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng và ao ước được cái chết “poncho” bọc thây nơi trận địa, nhưng một khi, tâm lý con người đã vượt quá mức sợ hãi không có và không còn cách nào khác, phải đối diện trực tiếp với tử thần, thì mọi người đều để trở thành anh hùng. Lúc ấy, máu chảy không tạo nên sợ hãi, trái lại, nó tác động mạnh vào cân não, do phản ứng tự nhiên, nên tìm mọi cách, dù tàn bạo, để làm cho kẻ thù đổ máu chứ không phải mình và đồng đội!
Nhưng sao hôm nay, khi nghe tiếng súng, khi nhìn khẩu trung liên lại thấy sợ? Mình hèn chăng? Mình sợ chết chăng? Tại sao mình không dám trốn Trại, chui qua lỗ chó, chui ở hố phân như Khắc có ý định? Nếu bị bắt, bị đem ra xử bắn, viên đạn ô nhục nào đó xuyên qua thân xác tôi, làm những giọt máu quý báu của đời mình thoát ra, chảy tràn trề khắp thân xác rồi chìm vào quên lãng!... như thế còn hơn cứ tiếp tục một đời sống mỏi mòn trong tù ngục!...
Tôi đang suy nghĩ, một tiếng hô lớn từ xa theo loa vọng lại. Cuộc xử án buổi chiều bắt đầu. Vẫn những lời nói ban sáng, sắc gọn, khô khan và quyết liệt:
...Tên Trần Mạnh C... cấp bậc Trung uý sinh ngày... tại... có vợ, 3 con.
Được đào tạo tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa..., năm.... Đã phục vụ trong Ngụy Quân với chức vụ sau đây!....
Tiếng nói trong loa theo gió vọng đến nghe rất rõ. Người bị hành quyết can tội trốn Trại, có nhiều nợ máu với nhân dân, là Tình Báo Xê-I-A của Mỹ Ngụy. Bị bắt ngày 24-6-75 v.v... Nay tuyên án tử hình... Tiếng vỗ tay lại rào rào.
- Can phạm có điều gì cần nói?
- Không!
Trời xế chiều, càng nắng gắt. Tôi nhìn lên, mầu trời xanh ngắt, không làn mây nào vương vất đó đây như thường có mỗi chiều tại miền Nam nước Việt. Trong đợt gió hiu hiu thổi nhè nhẹ, không xua đuổi được cái nóng hầm hập từ mái tôn dội xuống!
Loạt đạn nổ vang. Tôi biết một kiếp người vừa bước vào cõi hư vô! Lạ thay, từ đâu đó, tôi nghe thấy tiếng rít như có cơn lốc lớn thổi luồn trong hang đá rộng. Tôi ra hẳn bên ngoài ngó nhìn. Mặt trời vẫn chiếu từng dòng nắng rực rỡ xuống cảnh vật. Hàng cây cuối chân trời lắc mạnh như đang chịu một sức đẩy nhanh khủng khiếp. Chỉ loáng sau, cơn gió đã thổi tới với tốc độ kinh hồn. Cát bụi bay mù mịt. Tôi phải nhắm mắt để tránh bụi cát. Gió thổi làm những mái tôn rung rộn ràng. Chưa bao giờ tôi thấy một cơn gió mạnh như vậy, giữa trời nắng chang chang. Cơn gió thổi như muốn cuốn theo tất cả những gì có thể cuốn được. Cát bụi phủ mù mịt trong vòng 15 phút, tự nhiên, gió lặng. Cảnh vật lại im lìm như không hề có chuyện gì xẩy ra! Hiện tượng này làm mọi người suy nghĩ. Buổi sáng trời đang nắng bỗng đổ cơn mua rào, sau tiếng súng. Buổi chiều trời nổi gió tự nhiên, cũng sau tiếng súng giết người. Có lẽ, do sự huyền bí nào đó, cảm ứng từ cõi xa xăm không ai đoán biết, nên mới có sự tình như vậy! Hai chiến sĩ bất khuất đã chống lại chế độ bạo tàn phi nhân của Cộng Sản trong Trại tù, bằng cách trốn Trại, đi tìm tự do và có thể đi tìm môi trường để chiến đấu chống lại kẻ thù vì họ còn trẻ, nhưng chí chưa thành, thân đã bại, nên đất trời cùng nhỏ lệ và uất giận, tạo nên mưa, gió?
Suốt ngày hôm đó cho tới giờ ngủ, tôi chưa tìm thấy ai nở nụ cười, chỉ có tiếng bàn tán thì thầm và những cái nhìn ủ dột.
Dòng người đi cầu mỗi sáng vẫn đông nghẹt. Khẩu trung liên không còn thấy trên vọng gác nữa mà sáng nay nó trở lại trạng thái bình thường. Chiếc cổng chưa mở. Tên cảnh vệ từ trên vọng gác thản nhiên nhìn dòng người đang bấn loạn ruột gan. Khẩu A.K. chĩa mũi thẳng hướng về phía dưới.
- Cán bộ, cho đi cầu!
Không có tiếng trả lời.
Anh em đứng chờ. 15 phút sau, lại có tiếng xin, nhưng tên bộ đội, mặt vẫn lạnh lùng không hé môi cũng chẳng gật đầu. Anh em lại chờ. Bỗng từ trên cao vọng xuống.
- Cho đi!
Một số người ào ra. Mặt trời đã lên cao, những tia nắng dọi xuyên ngang tầm mắt. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe anh em bàn tán.
- Uổng quá, một người đã ra tới đường rồi, nhưng chưa kịp chạy đến nơi hẹn, có chiếc Honda nổ máy chờ, đã bị phát giác! Còn một người đang kẹt trong rào kẽm gai!
- Họ được chôn ở đâu?
- Đù mẹ, chôn đâu nữa. Chôn vào 2 chiếc huyệt, tụi K7 của mình đào chiều hôm trước, gần lề đường đi Biên Hòa, đối diện với “Nghĩa Trang Liệt Sĩ” của chúng nó. Tụi K9 phụ trách khiêng đi. Không hiểu sao hai chiếc hòm nặng quá, tám người khiêng ì ạch. Anh em khấn: “Hai anh sống khôn, thác thiêng, cùng chung lý tưởng khi trước, nay hai anh thác đi, anh em thương tiếc, mang hai anh đến nơi ở cuối cùng. Xin thương nhau, cho nhẹ đi, để anh em khiêng đỡ khổ!” Lạ thay, sau lời khấn đó, hai chiếc hòm nhẹ tênh!
- Có mộ bia gì không?
- Có hai khúc củi!...
Tiếng nói chuyện ngưng lại vì kẻ ra người vào liên tục. Dòng người ngắn dần, ngắn dần!...
Đời sống trong tù cứ kéo dài một nhịp chán nản, nếu thỉnh thoảng không có những bất ngờ xảy ra.
Mỗi chiều sau khi ăn cơm xong, anh em thường đi đến cuối Trại nơi đó có chiếc sân xi-măng nhỏ, xa vọng gác, có thể liên hệ với Trại bên, tương đối dễ dàng. Nhưng sự liên hệ càng vô cùng nguy hiểm nếu sơ ý để tụi cảnh vệ bắt được, nó sẽ nghiêm trị vì vi phạm nội quy. Tuần trước, không hiểu vì lý do nào, tụi Cộng Sản điều động một số anh em qua Trại khác. Tuy gần nhà mà xa ngõ. Hai Trại chỉ cách nhau 3 lớp kẽm gai, kẻ đứng bên nầy, người đứng bên kia nói chuyện dễ dàng. Nhưng muốn đi từ Trại này qua Trại kia phải di chuyển theo con lộ đất đỏ chạy vòng theo rào kẽm gai dài khoảng trên 1 cây số. Tôi đã chứng kiến cảnh chuyển Trại đó vào một buổi chiều gần tắt nắng. Những người tù trông lôi thôi lếch thếch, dìu dắt nhau lê từng bước chân nặng nề, trên con lộ đỏ sẫm ánh chiều. Nào túi đeo lưng, nào ca cóong, nồi niêu, nào đồ ăn, thức uống, mỗi thứ một chút. Trông họ như một lũ quái vật, người chăng ra người, ma chẳng ra ma! Mấy tên cảnh vệ cầm A.K. áp tải, miệng luôn luôn hét: Đi mau “nên”! Nhưng vì mang vác quá nặng, mỗi bước chân như cắm chặt xuống mặt lộ, muốn rút lên cũng khó, do đó, sự di chuyển mỗi lúc mỗi chậm thêm.
Người biết gánh còn đỡ, nếu không, chỉ lết ì ạch.
Sau nghĩ lại, tôi thấy cuộc di chuyển này tuy ngắn, nhưng nếu ai chú ý, có thể rút kinh nghiệm cho những lần chuyển Trại mai sau, dài gấp 5, 7 lần trên những con đường đồi núi vô cùng gian khổ, sẽ đỡ được phần nào cực nhọc.
Sau đó ít lâu, tụi Cộng Sản “điều” về một số tù cấp Đại Úy và Thiếu Tá để bổ sung.
Tên Trung, một hung thần chuyên phục kích bắt liên hệ. Anh em biết rõ, nên luôn luôn cảnh giác. Nhưng ngặt nổi, Trại có nhiều lối đi, lại đông người, nếu tên Trung mặc quân phục còn dễ nhận, nếu mặc thường phục rất khó nhận ra. Khi biết, làm ám hiệu cũng không kịp, nó đã ở ngay sau lưng.
Buổi chiều nay, tên Trung bắt được hai người đang liên hệ với Trại bên, có anh em mới chuyển qua.
Bính (Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh) và Hưng (Sĩ Quan Tiếp Vận). Tên Trung chĩa khẩu súng lục vào Bính vì anh này cao lón, vạm vỡ, còn Hưng người nhỏ thó. Bính, khá bảnh trai, nói tiếng Anh rất thạo, có giọng hát hay, tuy chưa bao giờ là ca sĩ.
- Đi! tên Trung ra lệnh. Bính và Hưng bước đi giữa những cặp mắt thương xót của anh em! Khi tên Trung vừa đi khuất, những tiếng chửi rủa bắt đầu.
- Đù mẹ! cái thằng khốn nạn, khi xin tiền sao tử tế thế, nay lại trở mặt bắt anh em?
- Cộng Sản vậy mà!
Những tiếng chửi vọng, tuy không can đảm chút nào, nhưng cũng nguôi ngoai được bực tức. Tôi nghĩ đến Tuệ với 24 giờ sống trong Connex lại lo sợ cho Bính và Hưng. Tối nay làm sao họ ngủ với tiếng động lách cách liên tục do sự co giãn của sắt dưới áp suất nhiệt độ! Sống trong tù, mỗi đêm mất ngủ là một thảm họa. Những suy nghĩ vẩn vơ làm suy nhược cơ thể. Tôi chắc đêm nay họ sẽ thức suốt sáng. Họ sẽ nói chuyện cho quên đêm dài tủi hận. Chăn chiếu không có, họ sẽ ôm nhau để truyền hơi ấm, còn hơn trường hợp của Tuệ, chỉ có một mình đương đầu với mọi bất ngờ!
Sự liên hệ mỗi chiều, tuy vậy vẫn tiếp diễn như thường, coi như không có chuyện gì xảy ra. Tên Trung có lẽ tin rằng sau khi tóm được hai tên liên hệ nhốt trong Connex, ít còn ai dám vi phạm, nên hắn ít lục lạo! Anh em cũng cảnh giác, có chuyện gì quan trọng muốn hỏi đều viết vô giấy, bọc viên sỏi nhỏ quăng sang. Nhưng không phải chỉ một bên bắt liên hệ. Phía bên kia, tụi Cộng Sản cũng bắt liên hệ, nhưng khó hơn, vì căn buồng tù ở, gần sát bờ rào kẽm gai, nên từ trong buồng, họ có thể ném bất cứ vật gì sang bên này. Bên kia, nếu tụi cán bộ hậu cần không cho đăng ký mua thuốc lào, đường, đậu phộng v.v... họ nhờ bên này mua dùm. Khi nào có, sẽ gói vào bao nylon thẩy sang gọn gàng. Bên này cần gì, nếu bên kia có, cũng làm như vậy. Như thế, đời sống của anh em cũng được điều hòa cân bằng dù ở Trại này hay Trại kế bên.
Bính và Hưng được tha, sau 48 tiếng bị nhốt.
Ngay buổi tối hôm đó, Bính đến, tôi nhìn Bính gầy hẳn đi, đôi mắt trũng sâu, bộ râu quai nón mọc lởm chởm sau hai ngày đêm thức liên tục.
- Sao cậu, vất vả lắm không?
- Quá vất vả! Tuệ đã nói với anh rồi về 24 giờ trong Connex. Nay tụi tôi phải chịu đụng gấp đôi số thời gian đó, lẽ dĩ nhiên, sự gian khổ sẽ tăng gấp ba, gấp bốn vì mỗi giờ phút kéo dài, sức chịu đựng sẽ giảm thiểu rất nhiều. Anh nhìn coi, mới có 48 tiếng, thân xác tôi đã như thế này, nếu lâu hơn nữa, chắc thê thảm!
- Tụi nó có cho các cậu ăn uống gì không?
- Cơm, anh em mang ra, nước thiếu. Ban ngày nằm trong Connex nóng quá, mồ hôi ra nhiều, càng uống càng khát, bao nhiêu cũng không đủ! Thỉnh thoảng tên gác mở cửa dòm vô, xem nhỡ có ai chết bất tử. Cứ 2 giờ nó thay phiên gác. Thằng nào tử tế thấy mình kêu la quá, nó mở khóa, hé cửa cho gió lùa vô mát một chút. Có thằng khốn nạn, kêu la mấy nó cũng mặc kệ, cứ đóng chặt. Buổi sáng, sau một đêm bị giam, chúng tôi buồn quá, hát cho vui, cho quên thời gian, tuy biết hát như vậy tốn sức và càng khát nước. Bỗng có tiếng mở khoá. Trong này chúng tôi mừng thầm, nghĩ có lẽ tên gác nào thấy mình hát hay nên mở cửa nghe cho rõ! Cánh cửa được kéo mạnh. Tên Trung uý Hải đứng lù lù, mặt hầm hầm quát:
- Ai cho chúng mày hát?
- Dạ, chúng tôi hát bài Cách Mạng!
- Cách Mạng không cần đến chúng mày hát. Ra đây!
Hưng ra trước, đang định đứng thẳng người chờ lịnh, một trái đấm lao thẳng vào mặt, Hưng té xuống.
- Còn thằng kia nữa, ra!
Tôi lừ lừ bước ra, ở trong tư thế ăn đòn. Vừa đặt chân xuống đất, tôi lảo đảo vì một cú đá vô bụng. Tuy không té vì có sức, nhưng bụng đau dội!
- Tao cấm chúng mày hát, nghe chưa? Nhốt “nà” nhốt, “nà” thi hành kỹ “nuật” nhà nước, chứ không phải “nà” cho tụi mày giỡn chơi, nghe không? Đi vào!
Tôi chui vô, hai tay ôm bụng. Hưng một bên má đỏ au, lảo đảo vô sau. Tiếng cánh cửa đóng sầm theo tiếng khóa. Chúng tôi ngồi dựa lưng vào thành Connex, phía bên không có ánh mặt trời. Hưng cứ cho tay xoa má hoài. Tôi vặn người qua lại, cho gân bụng co giãn đỡ đau. Tự nhiên, chúng tôi ôm chặy lấy nhau, và cùng nguyện quyết trả thù này, ngày nào có hoàn cảnh.
Đến chiều lại có tiếng mở khóa. Tên Hải đứng trước cửa:
- Đi ra!
Nghe câu đó, tôi có ý mừng tưởng được tha, nên nhanh nhẹn bước ra, Hưng đi sau vì sợ ăn đòn nữa. Chúng tôi vừa ra khỏi lòng Connex, tên Hải cho tay ấn cánh cửa Connex lại. Tôi nhìn thấy tay trái nó cầm sợi dây thừng dài. Tên Hải bảo tụi tôi quay mặt, quặt tay về phía sau. Chúng tôi làm theo. Nó trói lại, buộc dằng với nhau, rồi cho lệnh đi về phía trước. Tên cảnh vệ đứng gần đấy, lăm lăm cái cây A.K. như sẵn sàng yểm trợ cho tên Hải, trong trường hợp chúng tôi có phản ứng. Chúng tôi đi theo con lộ dài khoảng 100 thước đến Ban Chỉ Huy. Tên Trung đứng đó. Hải cho lệnh tên Trung mở dây trói. Hắn bước lên bậc thềm đi vào nhà, khoát tay cho lệnh tụi tôi vô theo, rồi chỉ hai chiếc ghế đẩu, bảo ngồi. Hắn rút khẩu súng lục đặt trên mặt bàn, Vì lịch sự, tôi nói:
- Cảm ơn cán bộ!
Tên Hải tự nhiên phẫn nộ, thét lớn:
- Ai cho mày cảm ơn. Tao không cần cảm ơn, biết không? Tao giải tụi mày “nên” đây để “nấy” cung vì sao tụi mày “niên” hệ, “niên” hệ với đứa nào, vì chuyện gì, chúng mày hãy khai thực thà, tao xét tha cho, nghe không?
Tôi và Hưng ngẩn người, sững sờ, không hiểu vì lý do gì mà tên Hải lại giận dữ như vậy? Nhưng chúng tôi cứ ngồi im, không có phản ứng nào, sợ nó đập đủ. Tên Hải nhìn chăm chăm vào tôi, có lẽ vì tôi có vóc dáng dềnh dàng.
- Sao, “niên” hệ với đứa nào bên khu 5, về chuyện gì? Âm mưu trốn Trại hả?
- Dạ, chúng tôi đâu có liên hệ với ai bên khu 5. Sau bữa cơm, tôi và anh bạn đây ra sân hóng gió, không hiểu tại sao lại bị cán bộ Trung bắt giữ!
- Chối hả?
Nói xong, tên Hải đưa tay sờ vào khẩu súng, rồi cầm lấy, đút vào bao ở ngang hông.
- Thưa cán bộ, tôi chỉ nói sự thực!
Tên Hải lại dọa nạt, hò hét. Thấy khai thác tôi không được nó quay sang Hưng, nhưng Hưng cũng chối dài! Sau thấy không thể làm gì hơn, nó gọi tên Trung, bảo nhốt hai tên ngoan cố này vô Connex.Chúng tôi yên trí lần này nó nhốt lâu, ai ngờ, chiều hôm sau nó tha.
- Mừng hai cậu nhé! Âu đó cũng là cái xui của hai cậu qua loa rồi cũng xong! Lần sau có liên hệ nên cẩn thận.
Bính rít hơi thuốc lào xong đứng dậy. Tôi tiễn Bính một quảng, lúc quay về gặp Lâm mời uống cà-phê. Khi tôi đến đã có Huy và Mậu ngồi sẵn. Chiếc bàn là một thân cây to chờ bửa làm củi, còn ghế là những thân cây nhỏ hơn, bày ngay bên hông lối đi. Tối tối anh em thường ngồi chơi uống nước trà hay cà-phê nói chuyện trước khi ngủ. Nhưng trước khi ngồi vào chỗ, phải dặn nhau trước, nếu tên Hải đi tuần có hỏi, nói chuyện gì, mọi người đều phải nói cùng một ý, ví dụ nói chuyện về gia đình, về thời tiết v v... Tối hôm trước, tên Hải bắt một bàn 3 người, dẫn mỗi người ra một góc, hỏi nói chuyện gì? May quá, 3 người cùng trả lời tương tự nhau, nếu không, nó làm khó, hỏi lên hỏi xuống mất công lắm!
Lúc trước, thời phong lưu, nào phin, nào “tuyớc”, nay trong tù, uống café bí tất với đường thẻ cũng vẫn thấy ngon!
Huy hỏi:
- Sao, Bính nói chuyện gì không?
- Dĩ nhiên có!
- Nghe hình như bị trói và bị đánh nữa phải không?
- Đúng, chúng đánh chưa đau bằng nó chửi và xưng mày, tao.
- Đồ vô học, mất dạy! Xưa kia tụi nó không đáng đánh giày cho tụi mình, lúc nay nó có quyền hành và sỉ nhục tụi mình thả ga!
- Biết thế này quyết đánh đến viên đạn cuối cùng. Đéo hàng! chán ghê, chán ghê!
- Câu này, ông Mậu đã nói nhiều lần rồi đấy nhé. Từ nay về sau xin ông thôi, cho anh em nhờ.
Lâm nói xong cười khục khục.
Câu chuyện cứ loanh quanh về cách đối xử của Cộng Sản với anh em, về chính sách của Đảng và nhà nước cứ lập lờ khi thế này, khi thế khác. Họ vừa phổ biến chính sách 3 năm, làm anh em nhiều người thất vọng! Câu dự đoán của mình là 1 năm, nay đã tăng lên gấp 3, chẳng biết sau 3 năm còn tăng lên mấy lần 3 nữa?
Tôi đứng dậy về, khi nghe tiếng kẻng gõ báo giờ ngủ.
Buổi sáng nay, không khi toàn Trại tự nhiên căng thẳng. Những khẩu A.K. tràn ngập các lối đi.
Tiếng còi thổi ren réc, mật hiệu của tụi cán bộ gọi nhau. Tên Thiếu úy Tư và tên Trung uý Hải đeo K54, đội cối, chứ không để đầu trần như mọi khi. Anh em ai nấy đều hồi hộp.
Tên Tư cho lệnh:
- Tất cả ra khỏi nhà! Không ai được mang theo gì.
Mọi người túa ra, nhà nào ngồi theo nhà đó.
Sau khi anh em đã an vị, tên Tư nói:
- Hôm nay, theo “nệnh” trên, chúng tôi điểm nghiệm tư trang và chỗ ở. Các anh đã học tập nội quy, đã biết rõ những gì Trại cho phép, những gì Trại không cho. Nay chúng tôi điểm nghiệm, xem các anh có nghiêm chỉnh chấp hành “nệnh” không? Trong thời gian điểm nghiệm, tuyệt đối cấm mọi người bỏ hàng, hoăc đổi chỗ. Nếu cần, phải xin phép cán bộ cảnh vệ. Được phép, mới thi hành. Các anh nghe rõ chứ?
- Nghe rõ! Hơn trăm cái miệng đều há ra, tạo nên âm thanh rộn ràng, nhung nghe kỹ, nó vẫn có một chút gì sợ sệt xen lẫn trong đó!
Tên Thiếu úy Tư bảo K.Trưởng đi theo hắn cùng với hai tên cảnh vệ! K.Trưởng, đại diện anh em chứng kiến cuộc khám xét.
Trời bên ngoài nắng. Anh em tuy người nào cũng có mũ, nhưng ngồi một chỗ dưới ánh mặt trời hừng hực, từ giờ này qua giờ khác, sao chịu nổi? Nhiều người gục đầu xuống gối ngủ. Tiếng điếu cầy rít liên tục, người nọ chuyền tay người kia cũng không làm thời gian chờ đợi ngắn lại. Có anh bị ghẻ đầy người, ngồi bóc từng chiếc vẫy, hoặc gãi liên hồi. Da anh sùi lên như da cóc! Ngồi ở ngoài, tuy không nhìn thấy gì, nhưng những tiếng động và lời nói từ trong vọng ra, khiến ai nấy nhột nhạt.
- Cái này của anh nào? À dao, à kéo! Thu! Còn cái này “nà” cái gì? Ai nằm chỗ này?
Cứ thế, những câu hỏi và trả lời vang lên, từ sáng tới trưa, cuộc điểm nghiệm mới chấm dứt. Cơm canh đến giờ phát không ai lãnh, lúc lãnh, nhìn phần canh, hàng chục con ruồi chết đuối trong đó! Anh em ồ vào buồng thu dọn vật dụng của mình. Quần áo bị quăng bừa bải, thư từ tung toé! Người làm nhanh nhất cũng mất nửa tiếng!
Buổi chiều, có phiên gác của “ân nhân”. Khi nhìn thấy tôi từ vọng gác, anh đi xuống. Tôi có ý đứng nấp vào bên vách để tránh sự dòm ngó. Từ ngoài bờ rào, anh cho biết, buổi sáng nay, anh cũng bị xét. May quá, thư từ của chúng tôi gửi, anh đã bỏ vào thùng thư tối qua. Vì nhu cầu, tôi nhờ anh mua hộ mấy thứ cần thiết như thuốc lào, đuờng thẻ. Tôi vừa quăng tờ giấy 10đ ra ngoài rào, từ trong buồng Cường bước ra. Cuờng thì thầm nhờ anh liên lạc với gia đình để lấy đồ tiếp tế. Tôi chẳng hiểu sao anh chưa nhặt tờ giấy 10đ lên. Câu chuyện giữa anh và Cường đang trao đổi, bỗng anh nghiêm mặt, nói to:
- Bệnh của tôi, như vậy có sao không? Anh bảo tôi mua thuốc gì?
Tôi vô cùng ngạc nhiên, chắc Cường cũng vậy. Nhưng chưa kip hiểu vì sao, thì từ sau có tiếng hỏi:
- Các anh “nàm” gì đấy?
Tôi và Cường đều quay lại. Tên Hải sắc mặt lạnh như tiền, mắt quắc nhìn Cường.
- Tôi hỏi, các anh đang nói chuyện gì?
Trong khi Cuờng trả lời tên Hải, “ân nhân” đã xuôi theo con lộ như đi tuần thường lệ. Tôi choáng người khi nhìn thấy tờ 10đ vẫn nằm chình ình sát khóm cỏ, dưới vòng kẽm gai. Tên Hải đi men theo bờ rao quan sát, nhưng chẳng hiểu sao, nó không thấy tờ 10d... Nó quay lại, truy Cường nữa. Còn tôi nó không hỏi gì tới, có lẽ, nó nhìn thấy Cường đang nói chuyện. Buổi tối, nó lại gọi Cường để thẩm vấn dưới mái nhà nhỏ vẫn dùng làm nơi họp K.Trưởng mỗi chiều. Sau gần tiếng đồng hồ, Cường trở vô, mặt mũi phờ phạc, có vẻ lo, nhưng không chịu nói tên Hải đã hỏi những gì? Vì chuyện đó xảy ra, mấy hôm sau chúng tôi không ai dám bén mảng tới gần rào kẽm gai.
Một đêm, đã khuya đang nằm ngủ, tôi nghe có tiếng gạch chọi vô vách tôn. Tôi nhổm dậy, giả vờ đi tiểu, nhìn ra ngoài rào, trông thấy “ân nhân”. Tôi ngạc nhiên, tại sao không có con chó. Thường thường lúc trước, mỗi lần cần thông tin, anh suỵt chó, sao đêm nay thiếu nó? Tôi cẩn thận đi sâu vào lối ngõ cho khuất, rồi luồn qua chiếc ngách nhỏ, ra phía hàng rào! Khi thấy tôi, anh tiến đến, nói nhỏ:
- Con chó vừa chết chiều nay vì trúng mìn trong khi nó sục sạo bắt chuột dưới 9 lớp kẽm gai! Từ nay đêm nào nghe có tiếng chọi gạch, các anh muốn gửi gì cứ đến chỗ này.
Nói xong anh đi ngay, tôi cũng quay vào.
Tôi nằm, không sao ngủ được. Tôi nghĩ đến Khắc và lỗ chó chui nơi hố phân. Nếu Khắc liều trốn Trại, biết đâu, Khắc lại không chịu chung số phận với con chó khôn ngoan kia?
Thấm thoát, chúng tôi đã sống trong Trại Tập Trung Cải Tạo gần một năm rồi. Biết bao nhiêu chuyện vui buồn, bao nhiêu nỗi nhục nhằn, chúng tôi đã gánh chịu. Có nhiều lúc, tưởng sức người khó kéo dài. Từ Long Giao qua Suối Máu, chúng tôi đã kinh qua nhiều khó khăn về tinh thần cũng như vật chất. Quả thực, trong cuộc sống, chưa bao giờ tôi có thể nghĩ đời mình phải trải qua một giai đoạn khắc nghiệt như thế này. Nhiều lúc nản quá, tôi bỏ mặc cho định mệnh muốn dẫn dắt tới đâu cũng được. Nếu ngày nào, không còn súc để mang nổi cuộc sống khốn nạn này, có gục xuống, tôi cũng chẳng còn gì hối tiếc, chỉ mang theo về cõi chết niềm tủi nhục ngàn kiếp không phai. Nó sẽ theo linh hồn tôi bay lang thang trong cõi vô cùng chờ phút nào đó tan loảng vào Hư Không Vĩnh Cửu.
Vào buổi chiều đầu tháng 6-1976, có lệnh ăn cơm sớm. Từ mấy bữa nay, anh em đã nghe tin đồn sắp chuyển Trại nhưng không biết bao giờ? Có lẽ chiều nay chăng? Nhưng chuyển đến Trại nào, về Sóng Thần hay Trường Thủ Đức? cả hai nơi đó đều có thể dùng để tập trung số lượng người đông đảo nơi đây. Hơn nữa, ai chuyển trước, ai sau, vì không cách gì chúng tôi có thể chuyển cùng một lượt, vì quá trình tội lỗi khác nhau.
Tất cả mọi câu hỏi đều đặt ra. Mỗi người, cố tìm câu giải đáp. Nhưng bàn luận, luôn luôn là một nhu cầu, không thể thiếu được trong đời sống tù nhân. Cái gì cũng bàn, cũng tranh luận tuy chả đem lại kết quả nào! Trong khi hăng say bảo thủ ý kiến, mỗi người cố dẫn chứng bằng tin nọ, tin kia, nào tin nhà, tin người thân quen lớn với tụi Cộng Sản, có người còn quả quyết, tên Hải đã nói thế này, thế khác, có lợi cho vấn đề chuyển Trại.
Vào khoảng 4 giờ chiều, tên Hải và Tư cùng một số cảnh vệ vác A.K. vào Trại. Tôi vô tình đứng cạnh tên Tư, thấy tên này cầm trong tay bản danh sách đánh máy có ghi dấu bằng bút xanh, đỏ. Theo lệnh, tất cả đều phải có mặt ở chỗ ngủ của mình như lúc điểm số buổi chiều. Khi mọi người đã ở vị trí, tên Tư bước vô nói:
- Các anh nghe đây, tôi gọi tên anh nào, anh ấy nói “có mặt”, rồi đứng riêng ra. Bây giờ, các anh đứng cả về phía cuối nhà.
Mọi người làm theo. Việc gọi tên bắt đầu. Non nửa số anh em có tên, tiến lên đứng ngay giữa nhà.
- Những anh vừa được gọi, ngay lúc này, thu xếp tư trang rồi tập họp tại sân nhà bếp chờ “nệnh”. Nghe rõ chua?
- Rõ!
Những người ra đi vội vàng thu xếp.
Ai không có tên, giúp anh em thu dọn, xếp mùng mền chén đũa, ca cóong v.v... Một không khí trầm trầm bao phủ khắp nơi. Tôi tìm Lan, thấy đang sắp xếp vội vàng, tôi biết ngay, anh có tên trong danh sách chuyển Trại. Vừa thấy, Lan cười:
- Chắc ông đến đòi nợ?
Không dám cười theo, vì tôi không thể vui được trong hoàn cảnh này. Biết ý, Lan lục trong túi đồ, lôi ra dúi vào tay tôi một gói nhỏ. Tôi cầm chặt trong tay, nói vài câu cảm ơn, xong chạy nhanh đi thăm Phúc, Hùng, Nhân và vài bạn khác xem sao? Số đông bạn bè của tôi đều di chuyển lần này. Tôi chúc mọi người mấy câu, xong phải về ngay vì có lệnh phong tỏa khu vục tập họp, không ai được qua lại. Các tên cảnh vệ làm nút chặn ngang lối đi xuống sân nhà bếp. Về đến nhà, tôi cất gói thuốc Lan cho, rồi nằm xuống suy nghĩ về thân phận mình ngày mai sẽ ra sao? Để tránh ám ảnh, tôi vùng dậy tìm cách men dần đến nơi tập họp.
Mặt trời đã xuống hết. Buổi chiều miền Nam đẹp nhất những giờ phút này. Từng cơn gió thổi nhè nhẹ như mơn trớn, vỗ về. Ánh sáng vẫn soi tỏ mọi vật. Tôi lách mình qua lối đi hẹp tiến gần đến căn nhà sát sân bếp.
- Ê, anh kia đi đâu? - Tên cảnh vệ cầm A.K., quay mũi súng!
- Dạ, tôi về nhà.
Vừa nói, tôi vừa chỏ tay vào căn nhà. Thấy nó không nói gì, tôi lướt nhanh vô, căn nhà còn khá đông người. Ngay cửa trông ra sân bếp, có tên cảnh vệ đứng gác, nên không ai dám nhìn thẳng. Tôi thoáng thấy anh em đang mở đồ để tên Hải và tên Tư khám. Cuộc khám xét chắc mất nhiều thời giờ. Các vật dụng như ca, cóong được ném ra ngoài cả đống. Tiếng kẽm chạm nhau kêu loảng xoảng. Trời đã nhá nhem tranh tối tranh sáng, tôi không nhìn thấy Hùng, thấy Lan và các bạn thân của mình đâu, tất cả trở thành một khối đen đông đặc dính cứng vào màn đêm từ từ buông xuống.
Tôi tìm cách trở về. Ánh đèn đã thắp sáng, trải dài từng khoảng trong lối đi hẹp.
Đoàn xe vận tải, phủ bạt kín mít, ầm ầm chạy theo con lộ lướt ngang Trại. Bụi cát bay mù! Tôi biết, đoàn xe này, lát nữa sẽ cho bạn bè tôi đi về phương nào chẳng biết?
Bên ngoài, trời tối như mực. Những người chuyển Trại tiến dần ra phía sân trước, theo từng đội. Mỗi người đeo trên lưng chiếc ba-lô to kềnh, tay còn xách thêm vai thứ. Có người gánh trông khá gọn gàng. Từ xa, tiếng động cơ nổ ầm ầm. Những ánh đèn pha chiếu sáng. Một chiếc lao đến, đứng ngay nơi cổng Trại. Tiếng thắng xe ken két. Bụi tung mù. Một đội đi ra theo sự hướng dẫn của tên cảnh vệ áp tải. Cảnh cũ tái diễn. Đồ đạc quăng lên trước, người lên sau. Tôi cố mở to mắt tìm Hùng, Lan, Nhân và Phúc ở đội nào nhưng trời tối và quá đông nên đành chịu thua. Tôi tiễn các bạn tôi bằng nỗi nhớ âm thầm nhưng sâu xa vì biết, mai đây sẽ gặp lại nhau trong Trại tù nào đó, dù xa hay gần!
Lần lượt từng đội lên xe, chiếc sân vắng dần rồi trống trải! Tôi đếm hơn 20 chiếc xe chở khoảng 600 anh em tôi trong đợt đầu, không biết tốt hay xấu? Chờ chiếc xe chót ra khỏi Trại, tôi mới quay vô, lấy chiếc gói nhỏ Lan đưa tôi hồi chiều ra xem. Dưới ánh đèn mờ nhạt, tôi đếm được 18 viên Chloroquine, 10 viên Nivaquine. Tôi nghĩ, những viên thuốc này, cộng với 20 viên Valium có sẵn, sẽ đưa tôi ra khỏi cuộc sống khốn khổ này bất cứ lúc nào tôi muốn.
“Tu-bíp” Cường từ phía bên kia nhìn thấy.
- A, ai cho ông nhiều thuốc vậy?
- Anh em cho trước khi đi, để nhỡ đau ốm dùng!
- Ông có biết không, chỉ 5 viên Chloroquine đó của Quân đội Mỹ, đủ hạ con heo 100 kí. Ông có mấy chục viên, hạ voi cũng được!
Tôi cười bải lải để đánh lừa sự nhận biết của Cường.
- Bác sĩ các ông, cái đếch gì cũng coi là nguy hiểm. Tôi hỏi ông, nếu mai mốt mình bị đưa đến nơi nước độc, tìm đâu ra Chloroquine để mua? Kinh nghiệm dịch kiết ly vừa qua đó!Ông quên sao?
Cường không nói gì, nằm yên, mắt nhắm lại. Buổi tối nay không mở Tivi, nên phía trước Trại vắng người. Hơn nữa, tâm lý anh em đang bị giao động nên cũng ít ai đi lại như mọi tối.
Không ngủ được dù kẻng đã gõ! Từ trong bóng tối nhìn ra ngoài, tôi thấy ngọn đèn đỏ quạch chiếu một khoảng ánh sáng mờ nhạt trên mặt con lộ buồn hiu. Trên vọng gác, một tên cảnh vệ, đứng ngó xuống Trại, còn tên kia đang ôm súng ngồi duỗi chân thẳng, ngữa cổ đưa bi-đông nước lên uống, xong đổ ra tay vã vào mặt, có lẽ, để đánh tan cơn buồn ngủ!...