Books serve to show a man that those original thoughts of his aren't very new after all.

Abraham Lincoln

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige
Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 43
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 174 / 13
Cập nhật: 2020-07-08 19:35:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 - Được Đi Với Ngỗng Trong Cái Trại
hứ năm, 24 tháng ba
Đúng trong những ngày ấy, ở tỉnh Skåne xảy ra một việc được bàn tán nhiều, cả báo chí cũng nói tới, mà nhiều người cho là chuyện huyễn hoặc, vì không thể giải thích được.
Câu chuyện như thế này, người ta bắt được một con sóc cái trong khu rừng trăn[8] thưa trên bờ hồ Vomb, mang về một cái trại gần đó. Từ già đến trẻ, mọi người trong trại đều thích thú ngắm con vật bé nhỏ, xinh quá với cái đuôi đẹp, đôi mắt tò mò và thông minh, những cái chân xinh xắn. Người ta tính sẽ được giải trí suốt mùa hè với những động tác nhanh nhẹn, cách cắn vỏ hạt dẻ mau lẹ và những trò chơi vui vẻ của nó. Người ta cho nó vào một cái lồng sóc cũ, gồm một chiếc nhà nhỏ sơn màu lá cây và một chiếc bánh xe bằng dây thép. Chiếc nhà nhỏ có cửa lớn và cửa sổ, làm phòng ăn và phòng ngủ; trong đó người ta xếp lá thành một chiếc giường nhỏ, để một bát sữa và một nắm hạt dẻ. Chiếc bánh xe phải là cái phòng chơi, nơi con vật bé nhỏ có thể chạy nhảy và leo trèo.
Những người trong trại thấy là đã thu xếp cho con sóc tất cả mọi thứ rất chu đáo, và lấy làm lạ rằng chỗ ở của nó dường như chưa làm con sóc hài lòng. Nó cứ buồn bã và khó tính, trong một góc của chiếc nhà nhỏ, thỉnh thoảng lại thốt ra một tiếng kêu đau khổ nhức nhối. Nó không đụng đến thức ăn. Người ta bảo: “Nó còn sợ, mai kia quen chỗ ở rồi nó sẽ ăn và chơi”.
Cũng vào độ ấy, các bà nội trợ bận rộn sửa soạn một bữa tiệc, và cái hôm bắt được sóc, người ta đang nướng bánh mì. Hoặc do một sự không may nào đó làm cho bột không nở, khiến công việc chậm lại, hoặc vì người ta uể oải nên phải ở lại coi bánh rất khuya.
Trong bếp, công việc tíu tít và tất nhiên người ta không có thì giờ nhớ đến con sóc. Nhưng trong nhà có một bà cụ già, vì tuổi cao quá không giúp việc nướng bánh được. Bà cụ già hiểu rõ như thế lắm, nhưng bà cụ không thể chấp nhận được ý nghĩ là mình bị gạt ra ngoài công việc. Buồn quá, không thể đi ngủ được, bà cụ già ngồi bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Vì trời nóng, cửa nhà bếp để ngỏ, ánh sáng từ cửa ấy chiếu ra sáng cả sân. Cái sân bốn mặt đều có nhà bao quanh, cái nhà trước mặt được chiếu sáng đến nỗi bà cụ già có thể phân biệt rõ các lỗ hổng và kẽ nứt trên mặt tường đất.
Bà cụ cũng trông thấy cái chuồng sóc treo đúng chỗ sáng nhất.
Bà cụ chú ý thấy con sóc chạy suốt đêm, không lúc nào nghỉ, từ cái nhà nhỏ đến chiếc bánh xe, rồi từ cái bánh xe về cái nhà nhỏ. Bà cụ nghĩ rằng con vật không ngủ được vì đang bị một nỗi lo ngại lạ thường dày vò, nhưng rồi bà lại cho là vì cái ánh sáng quá chói chang. Giữa chuồng bò và tàu ngựa có một lối đi rộng lợp mái, ăn thông ra cổng cho xe ngựa ra vào. Cái lối đi ấy nằm theo hướng được chiếu sáng. Đêm cũng khá khuya, bà cụ già chợt thấy một con người bé tí, không cao hơn một gang tay, từ dưới mái vòm đi ra từng bước thận trọng. Người ấy đi giày gỗ, mặc quần chẽn bằng da như một người thợ. Bà cụ già biết ngay rằng đó là gia thần và bà không sợ. Bà vẫn nghe nói là gia thần thường ở những chỗ như thế, và biết rằng thần đến đâu là mang lại hạnh phúc đến đó.
Vừa vào đến sân, gia thần liền chạy ngay đến chiếc lồng sóc. Không với tới lồng được, thần đi kiếm một cái sào đem dựa vào lồng, rồi leo theo sào mà lên như một người thủy thủ leo sợi dây thừng vậy. Thần lắc cánh cửa cái nhà nhỏ màu lá cây, nhưng bà cụ già rất yên tâm, bà biết rằng bọn trẻ con đã khóa cửa lại vì sợ trẻ hàng xóm đến lấy trộm con sóc của chúng.
Gia thần không mở được cửa, bà cụ già thấy con sóc đi ra chỗ chiếc bánh xe. Ở đó hai bên thì thầm với nhau một hồi lâu, rồi thần theo cây sào tụt xuống đất và ra cửa biến mất.
Bà cụ già nghĩ là chẳng còn thấy lại thần trong đêm hôm nay nữa, tuy vậy bà vẫn ngồi bên cửa sổ. Một lát sau, bà thấy thần trở lại. Thần vội đến mức chân đi như không chạm đất. Thần chạy đến bên chiếc lồng. Với đôi mắt viễn thị, bà cụ trông thấy thần rất rõ. Bà thấy cả thần cầm vật gì trong tay, nhưng không thể nhận ra là cái gì. Thần đặt vật cầm trong tay trái xuống sàn và mang vật cầm trong tay phải lên tận chiếc lồng. Thần lấy chiếc giày gỗ đá vào cánh cửa sổ nhỏ, phá vỡ ra và đưa vật đang cầm cho con sóc. Rồi thần tụt xuống cầm lấy vật đã để dưới đất và lại trèo lên lồng đưa cho sóc. Tức khắc sau đó thần chạy trốn, nhanh đến nỗi bà cụ nhìn theo không kịp.
Thế là bà cụ già không thể ngồi yên trong nhà được nữa; bà rón rén đi ra cửa và nấp vào bóng tối của cái bơm nước để rình gia thần. Một vật khác cũng đã trông thấy thần và nổi tính tò mò. Đó là con mèo. Nó lướt nhẹ đến tận bức tường và dừng lại ở gần chỗ có ánh sáng một chút. Bà cụ và con mèo đợi một lúc lâu trong đêm tháng ba giá lạnh. Bà đang định trở vào thì nghe có tiếng động trên sàn, và thấy gia thần lon ton trở lại. Cũng như lần trước, hai tay thần đều mang vật gì và vật thần mang kêu rối rít và vùng vẫy. Bà cụ hiểu ra là thần đã đi kiếm những đứa con của con sóc ở trong rừng trăn và mang đến cho nó, để chúng khỏi phải chết đói.
Bà cụ già đứng yên không động đậy, để gia thần khỏi sợ, và hình như thần không trông thấy bà. Thần định đặt một con sóc con xuống đất để mang nhanh con kia lên lồng thì thấy lóe lên ngay cạnh mình đôi mắt xanh của con mèo. Thần đứng không nhúc nhích, bối rối, mỗi tay cầm một con sóc con. Rồi thần quay lại nhìn khắp chung quanh và trông thấy bà cụ già. Thần chẳng do dự, chạy lại chỗ bà và chìa một con sóc con, đưa cho bà.
Bà cụ già không muốn tỏ ra không xứng đáng với lòng tin cậy ấy. Bà cúi xuống, đỡ lấy con sóc con, và giữ nó cho đến lúc gia thần đã mang được con sóc kia lên lồng và trở lại lấy con sóc đã gửi cho bà.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong trại tụ tập lại ăn sáng, thì bà cụ không thể giấu mà không kể lại những việc bà đã trông thấy đêm qua. Tất nhiên là mọi người đều chê bà cụ già, và cho là bà cụ đã nằm mê. Vào độ này trong năm, làm gì mà có sóc con.
Nhưng bà cụ tin chắc ở lời mình nói, và bà mời mọi người đến lồng sóc mà xem. Họ làm theo lời bà. Ở đấy, trên một lớp lá trải làm giường, có bốn con sóc con, mình nửa trần trụi và mắt chưa mở hết, ra đời ít nhất cũng hai ba ngày rồi.
Khi trông thấy lũ sóc, người chủ trại nói: “Dù sao đi nữa, có điều chắc chắn là chúng ta phải lấy làm xấu hổ”. Rồi ông ta mở lồng lấy con sóc cùng lũ con nó ra, đặt vào tạp dề của bà cụ già và nói: “Mang chúng vào rừng trăn, trả lại tự do cho chúng”.
Đó là sự kiện mà người ta nói đến nhiều, cả trên các tờ báo, mà nhiều người không chịu tin vì họ không thể giải thích nổi.
Trong khu vườn cây[9]
Suốt cả ngày, trong lúc đàn ngỗng trêu cợt con cáo thì Nils ngủ trong một tổ sóc bỏ không. Đến tối khi thức giấc, chú rất lo. “Mình sắp bị đuổi về nhà, và không thể tránh mặt bố và mẹ được”, chú nghĩ thế. Nhưng khi chú đến tìm đàn ngỗng trời đang tắm trong hồ Vomb thì không một con nào nói với chú về việc phải trở về cả. Chú nghĩ bụng: “Có lẽ chúng nó nghĩ rằng ngỗng trắng mệt quá, không đưa mình về tối nay được”.
Sáng hôm sau, đàn ngỗng đã thức giấc lúc mới tảng sáng, trước khi mặt trời mọc khá lâu.
Nils tin chắc rằng thế nào chúng cũng đuổi chú đi, nhưng lạ thay, cả chú lẫn ngỗng đực trắng đều được theo đàn ngỗng trời dạo chơi buổi sáng.
Chú không hiểu nguyên nhân của sự trùng trình này, chú tự nhủ rằng đàn ngỗng trời không muốn đuổi chú đi trước khi chú được ăn thật no. Dù sao chú cũng cứ hưởng lấy mỗi phút giây người ta cho chú, trước lúc quay về gặp bố mẹ.
Đàn ngỗng trời bay trên ấp Ưvid Cloister, có vườn cây đẹp tuyệt nằm ở mạn đông hồ. Đây là một trang ấp đẹp, có tòa lâu đài lớn, một sân danh dự rộng lát đá. Bao quanh có thành lũy và đình tạ, một khu vườn cổ trồng những cây cắt xén, uốn lại thành vòm, những lối đi có lợp mái, những bể nước, những vòi phun, những cây đại thụ, những bãi trồng cỏ ngay thẳng; bên rìa điểm các loài hoa mùa xuân.
Khi đàn ngỗng bay trên trang ấp vào lúc rất sớm thì chưa một ai dậy. Biết chắc như vậy, đàn ngỗng sà xuống một cái cũi chó, và kêu: “Cái lều con này tên là gì? Cái lều con này tên là gì?”
Con chó giữ nhà lao ngay ra khỏi cũi, giận dữ, sủa inh lên trời: “Chúng mày bảo đây là cái lều à, những quân lang thang khốn khổ kia? Chúng mày không thấy đây là một tòa lâu đài bằng đá cao lớn à? Chúng mày không thấy những bức thành đẹp kia à, tất cả những cửa sổ, cửa lớn và cái sân thượng tráng lệ kia à? Gâu, gâu, gâu, gâu. Chúng mày bảo đây là cái lều à? Chúng mày không thấy khu vườn, các nhà ươm trồng cây, những tượng cẩm thạch à? Chúng mày bảo đây là cái lều à? Từ bao giờ mà các cái lều lại có vườn cây với những khu rừng trồng dẻ gai, những rừng trồng cây trăn, những chòm cây sồi, những bãi cỏ xanh, và những trảng trồng đầy thông, nhung nhúc những con hoẵng. Gâu, gâu, gâu! Chúng mày bảo đây là cái lều à? Có ai thấy những cái lều mà lại có bao nhiêu là tòa ngang, dãy dọc, có thể nói như là một cái làng thế không? Chúng mày đã thấy cái lều nào mà có nhà thờ riêng, và nhà mục sư riêng, ngự trị trên những gia trạch, những trang trại, và những ấp phát cảnh, những nhà ở cho người làm công như thế à? Gâu, gâu, gâu! Chúng mày bảo đây là cái lều à? Cái lều ấy có những vùng đất rộng nhất cả tỉnh Skåne đấy. Đồ ăn mày khốn nạn! Chúng mày có ở đâu nữa chúng mày cũng không thể trông thấy một vạt đất nào mà không thuộc quyền cái lều này! Gâu, gâu, gâu!” Con chó sủa lên một tràng như vậy, không ngừng, cũng không nghỉ lấy hơi; còn những con ngỗng thì cứ lượn trên cái sân, đợi lúc mà nó buộc phải ngừng lời. Bấy giờ chúng mới kêu lên: “Vì sao mà cậu giận? Chúng mình có nói tòa lâu đài đâu, chúng mình nói cái cũi của cậu cơ mà”.
Nghe câu đùa này, lúc đầu chú bé cười thỏa thích, rồi một ý nghĩ chiếm lấy tâm hồn chú, khiến chú trở nên nghiêm trang. “Hãy nghĩ xem, nếu người ta để cho mày đến tận Lapland thì mày còn được nghe bao nhiêu chuyện vui đùa như thế nữa. Trong hoàn cảnh của mày hiện tại, một chuyến đi như thế sẽ là cái hạnh phúc nhất có thể đến với mày đấy”.
Đàn ngỗng trời bay tiếp, rồi hạ xuống một trong những cánh đồng rộng ở phía đông tòa lâu đài để ăn rễ cỏ, như thế mất mấy tiếng đồng hồ. Trong thời gian ấy, chú bé đi sâu vào khu vườn rộng bên cạnh, tìm đến một khoảnh trồng cây trăn, rồi bắt đầu đi kiếm những hạt dẻ còn sót lại. Nhưng ý nghĩ về chuyến du hành vẫn trở lại trong óc chú mãi. Chú hình dung ra tất cả những niềm thích thú sẽ được, nếu chú đi theo đàn ngỗng. Có thể là đôi lúc phải chịu đói chịu rét, nhưng bù lại chú sẽ không phải làm lụng, mà cũng không phải học hành gì.
Trong khi chú lang thang trong khu vườn cây, con ngỗng đầu đàn già đến hỏi chú đã kiếm được cái gì ăn chưa. Không, chú chẳng kiếm được gì cả. Nó bèn giúp chú. Chính nó cũng không tìm thấy hạt dẻ, nhưng có trông thấy những quả dã tường vi dại. Chú bé ăn ngon lành, vừa ăn vừa nghĩ mẹ chú sẽ bảo sao nếu biết chú ăn những cá sống và quả cây đã cứng vì băng.
Khi đã ăn no rồi, đàn ngỗng lại đến gần hồ và vui chơi đến tận giữa trưa. Những con ngỗng trời mời ngỗng đực thi với chúng: thi bay, thi bơi, và thi chạy. Ngỗng đực có cố hết sức cũng vô ích, những con ngỗng trời lanh lẹn vẫn thắng luôn luôn. Chú bé suốt buổi ngồi trên lưng ngỗng đực và động viên nó, vui chơi không kém gì những ngỗng khác. Tiếng reo, tiếng cười, tiếng cà kíu ầm ĩ, cũng lạ là những người ở trong lâu đài không nghe thấy gì cả.
Chơi đùa đã chán, đàn ngỗng mới bay qua mặt hồ và đậu lên tảng băng để nghỉ trong hai tiếng đồng hồ. Buổi chiều cũng qua đi như buổi sáng. Trước tiên chúng ăn cỏ hai hay ba tiếng, rồi tắm và chơi đùa trong hồ, bên cạnh tảng băng cho đến khi mặt trời lặn; sau cùng thì chúng đi ngủ.
“Đúng là cuộc đời thích hợp với mình, Nils nghĩ bụng lúc trườn vào dưới cánh ngỗng đực. Nhưng ngày mai họ sẽ đuổi mình”.
Trước khi đi ngủ, chú còn kiểm lại tất cả những cái lợi sẽ được nếu chú đi theo đàn ngỗng. Chú sẽ không bị mắng vì lười biếng nữa, sẽ có thể suốt ngày đi dông dài chẳng phải làm gì hết. Chỉ có mối lo duy nhất là tìm lấy cái ăn. Nhưng mà bây giờ chú chỉ còn lo đến thế này, thì việc ấy cũng chẳng khó gì lắm.
Hôm sau, thứ tư, chú vẫn luôn luôn chờ bị đuổi, nhưng ngày hôm ấy nữa, đàn ngỗng vẫn chẳng nói gì hết. Lại một ngày trôi qua như hôm trước; cuộc đời hoang dã mỗi lúc một làm cho chú thêm thích. Chú thấy hình như cả khu rừng lớn Ưvid Cloister là của riêng mình chú. Chú chẳng còn chút ý muốn nào trở về cái nhà nhỏ hẹp với những mảnh đồng bé tí của quê hương nữa.
Chú bắt đầu hi vọng đàn ngỗng sẽ giữ chú lại với chúng. Nhưng hôm thứ năm chú lại mất hi vọng.
Ngày hôm ấy, bắt đầu cũng như mọi ngày, đàn ngỗng ăn cỏ trong những cánh đồng rộng, và chú bé thám sát khu rừng kiếm thức ăn. Được một lúc, Akka đến hỏi xem chú đã tìm được gì ăn chưa, và khi biết chú chưa tìm được chút gì, liền đưa cho chú một thân cây thìa là còn cả hạt. Khi chú bé ăn xong, Akka bảo rằng chú đã chạy chơi trong rừng quá táo bạo. Chú có biết là chú có bao nhiêu kẻ thù, khi mà chú bé nhỏ thế không? Không biết, phải không? Và Akka liền kể ra cho chú nghe.
Đi chơi trong rừng, trước hết phải đề phòng con cáo và con cầy lông hoe. Trên bờ nước thì phải nhớ đến những con rái cá. Đứng trên những bức tường đá thì không nên quên con cầy mình dài thường chui qua bất kì lỗ thủng nào; và muốn nằm trên một đống cỏ thì xin phải xem kĩ có con rắn độc nào ngủ mùa đông ở đó không đã. Bước chân ra những cánh đồng quang đãng là phải dò xem bọn chim cắt và chim điểu, những đại bàng và chim ưng bơi lội trong không trung. Ở trong những khu rừng trăn, có thể bị con cắt trống bắt cóc; ác là và quạ thì đâu cũng có, tốt nhất là đừng tin gì ở bọn chúng cả; đêm tối thì phải giỏng tai lên cố đoán xem ở đâu có những con cú mèo to và những con vọ bay nhẹ đến nỗi ở ngay bên cạnh chúng cũng chẳng nghe thấy gì.
Nghe nói đến bao nhiêu giống vật muốn sát hại mình, Nils thấy như là không sao thoát nổi được chúng. Không phải ý nghĩ phải chết làm cho chú sợ lắm đâu, mà ý nghĩ bị ăn thịt. Vì vậy chú hỏi Akka là phải làm gì để tự vệ. Akka khuyên chú nên ăn ở tử tế với những con vật nhỏ trong rừng ngoài nội, với tộc đoàn các con sóc và tộc đoàn các con thỏ rừng, với những giống chim tước và những chim sẻ núi, những chú chim gõ kiến, và những chim sơn ca. Nếu chú thành bạn của chúng thì chúng sẽ có thể báo cho chú biết trước những mối nguy hiểm, giúp chú những nơi ẩn náu và nếu cần thì liên minh lại để bảo vệ chú nữa.
Nhưng chiều hôm đó, khi muốn rút lợi ích từ lời khuyên của Akka, chú ngỏ lời với Sirle, con sóc, xin nó che chở cho mình, thì con này từ chối không chịu giúp. Nó nói: “Đừng có bao giờ chờ đợi gì ở tôi, cũng như ở những con vật nhỏ khác. Tưởng tôi không biết cậu là Nils chăn ngỗng ấy à? Năm ngoái cậu đã phá các tổ én, cậu đập nát trứng chim sẻ đá, cậu bắt những quạ con ra khỏi tổ và ném xuống ao, cậu đánh bẫy những chim sáo, và bắt những con sóc nhốt vào lồng. Hãy tự giúp lấy mình đi. Chúng tôi mà không hợp nhau lại để đánh cậu, đuổi cậu ra khỏi đây, và bắt cậu phải quay về gia đình, thì cậu cũng đã phải lấy làm hài lòng lắm rồi”.
Đó là một trong những câu trả lời mà trước kia, hồi còn là Nils, tay chăn ngỗng, chú không thể nào bỏ qua mà không trừng trị được. Nhưng bây giờ thì chú rất sợ những con ngỗng trời biết rằng chú đã độc ác như thế nào. Vì sợ bị đuổi, chú chẳng dám giở một trò chơi khăm nhỏ nào ra từ khi ở cùng đàn ngỗng. Thật ra thì chú không có khả năng làm việc ác, vì bé nhỏ như thế, nhưng nếu muốn thì cũng có thể đập vỡ mấy quả trứng chim. Không, chú ngoan lắm, không nhổ đến cả một cái lông ở cánh các con ngỗng, không một lần nào trả lời một câu vô lễ, và mỗi buổi sáng chào Akka, chú đều bỏ mũ ra.
Suốt ngày thứ năm, chú nghĩ xem có thể làm gì để những con ngỗng quyết định đưa chú đi theo đến Lapland. Buổi tối, được biết vợ của Sirle bị bắt, và mấy đứa con của nó sắp chết đói, chú quyết giúp gia đình này. Chúng ta đã kể là chú thành công như thế nào rồi. Ngày thứ sáu, bước vào vườn cây, chú nghe tiếng những con chim mai hoa hót khắp nơi trong các bụi mâm xôi, và thuật lại chuyện vợ Sirle đã bị những kẻ tàn ác bắt đi như thế nào, và Nils, chú chăn ngỗng, đã liều mình vào giữa loài người để mang những con sóc con đến cho nó như thế nào.
Bầy chim mai hoa hót: “Giờ đây trong vườn cây Ưvid Cloister, ai được chúc mừng, hậu đãi bằng chú bé Tí Hon, kẻ mà tất cả đều ghê sợ lúc còn là Nils, tay chăn ngỗng? Sirle, con sóc, sẽ cho Tí Hon hạt dẻ; các chú thỏ rừng dễ thương sẽ chơi với chú, các con hoẵng sẽ cõng chú trên lưng và đưa chú chạy trốn khi Smirre, con cáo, đến gần; các chim sơn tước sẽ báo cho chú biết lúc chim ưng đến, giống chim tước và các chim sơn ca sẽ hót lời ca tụng chú”.
Chú bé tin chắc rằng Akka và những con ngỗng trời khác đều nghe thấy tiếng chim mai hoa. Nhưng cả ngày thứ sáu trôi qua mà đàn ngỗng chẳng nói gì với chú về chuyện giữ chú lại với chúng cả.
Đến tận thứ bảy, đàn ngỗng có thể ăn cỏ trong những cánh đồng chung quanh Ưvid Cloister mà không bị Smirre, con cáo, quấy nhiễu gì. Nhưng sáng thứ bảy, khi chúng kéo nhau ra đồng, thì con cáo đã rình sẵn, và rượt chúng từ đồng này sang đồng khác, không cho chúng có thì giờ ăn nữa. Khi hiểu ra rằng cáo sẽ không để cho chúng yên, Akka liền tức khắc quyết định cùng cả đàn bay lên và dẫn đàn bay xa nhiều dặm, qua vùng truông hoang Pherx, và những ngọn đồi thưa cỏ trên cao nguyên Linderưds. Đàn ngỗng chỉ dừng lại ở vùng lân cận Vittskưvle gần biển Baltic thôi.
Lại đến chúa nhật. Cả một tuần lễ trôi qua tự lúc Nils bị biến thành gia thần, và chú vẫn cứ bé nhỏ như vậy. Vả lại, chú chẳng có vẻ gì lo lắng về việc đó cả. Buổi chiều chú ngồi trên cành cây liễu lớn um tùm bên bờ nước, thổi ống sậy chơi. Khắp chung quanh chú, đến đậu những chim sơn tước, mai hoa, sẻ đa. Bụi liễu chịu được bao nhiêu, chúng đến đậu bấy nhiêu, và đàn chim hót những điệu mà chú cố thổi theo. Nhưng mà chú không giỏi trong nghệ thuật này lắm. Chú thổi sai đến nỗi lông trên mình tất cả những thầy giáo nhỏ bé của chú đều dựng đứng cả lên, và chúng kêu lên, và đập cánh thất vọng. Chú bé vui thích vì nhiệt tình của chúng, đến nỗi để rơi cả ống sậy.
Rồi chú thổi lại, cũng vẫn tồi như trước. Tất cả những con chim nhỏ đều than phiền: “Hôm nay cậu thổi tồi hơn bao giờ hết, Tí Hon ạ. Cậu không thổi đúng âm thanh trong trẻo của tôi. Đầu óc cậu để cả đâu thế, Tí Hon?”
- Để ở chỗ khác, chú bé trả lời; mà đúng thế thật. Chú vẫn luôn luôn tự hỏi, là đàn ngỗng còn giữ chú lại với họ được bao lâu nữa.
Bỗng chú bé quẳng ống sậy đi và nhảy xuống đất. Chú vừa thấy Akka và những con ngỗng trong đàn xếp một hàng dài, đi về phía chú. Chúng đi thong thả và trịnh trọng. Chú hiểu ngay là cuối cùng chúng cũng phải nói cho chú biết điều mà chúng đã quyết định về chú.
Khi đàn ngỗng dừng bước, Akka nói: “Cậu có quyền ngạc nhiên về cách xử sự của ta, Tí Hon ạ. Ta đã không cảm ơn cậu cứu ta thoát khỏi Smirre, con cáo. Nhưng ta thuộc cái hạng thích cảm ơn bằng việc làm, chứ không phải bằng lời nói. Và đây, Tí Hon ạ, ta tưởng đây là lúc đến lượt ta giúp lại cậu một việc. Ta đã cử tín sứ đến vị gia thần đã chài cậu. Thoạt đầu thần không muốn nghe nói đến việc trả lại cho cậu hình dáng ban đầu của cậu; nhưng ta đã gửi đến thần hết tin này đến tin khác, để nói cho thần biết là, sống với chúng ta, cậu đã xử sự tốt như thế nào. Cuối cùng, thần tin cho cậu biết là sẽ để cậu trở lại làm người, ngay khi cậu trở lại nhà”.
Khi ngỗng trời bắt đầu nói, chú bé vui mừng bao nhiêu thì nghe xong chú càng phiền muộn bấy nhiêu. Chú không nói một lời, ngoảnh mặt đi và bắt đầu khóc. “Thế là nghĩa thế nào? Akka nói. Có thể nói là cậu còn chờ đợi ở ta nhiều hơn những gì ta đã hiến cho cậu ư?” Nils đang nghĩ đến những ngày sống vô tư và những trò đùa vui vẻ, những cuộc mạo hiểm và cảnh tự do, và những chuyến lữ hành trên đất nước, mà nay phải bỏ đi, chú buồn quá, kêu rống lên: “Tôi không muốn trở lại làm người. Tôi muốn đi Lapland với đàn”.
- Nghe kĩ đây, Akka nói. Ta sắp nói với cậu một điều. Gia thần dễ tức giận lắm, ta lo đấy, cậu mà không nhận lời ngay bây giờ, thì lần khác khó mà lay chuyển được lòng thần.
Lạ thay, suốt đời chú bé ấy chưa bao giờ thương yêu ai cả. Chú chưa bao giờ yêu bố chú, cả mẹ chú, cả thầy giáo, cả các bạn học; cả những đứa bé trong các trại lân cận. Tất cả những gì người ta muốn bảo chú làm, dù là trò chơi hay là công việc, đối với chú đều đáng chán. Bởi vậy chú chẳng thấy thiếu thốn ai cả, và chú chẳng nhớ tiếc ai cả.
Chỉ có vài kẻ ít ỏi hợp với chú một chút, đó là Åsa, và chú bé Mats, hai đứa cùng chăn ngỗng ngoài đồng như chú. Nhưng chú có thực sự yêu thương gì chúng đâu, còn lâu.
“Tôi không muốn trở lại làm người,” chú bé gào lên, “tôi muốn theo đàn đến Lapland. Vì thế mà tôi đã ngoan ngoãn suốt một tuần.”
- Ta không muốn từ chối không cho cậu theo chúng ta đi xa đến đâu mà cậu muốn. Akka nói, nhưng trước hết, hãy nghĩ kĩ lại xem, có phải cậu không muốn về nhà không. Có thể một ngày kia cậu sẽ hối hận về quyết định ấy.
- Không, tôi sẽ không hối hận gì hết, chú bé đáp. Tôi chưa bao giờ thấy sung sướng như ở đây với đàn.
- Vậy thì như ý cậu muốn thôi.
- Cám ơn, Nils đáp. Chú sung sướng quá đến nỗi òa lên khóc vì vui mừng, cũng như trước đây chú đã khóc vì buồn bực.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils - Selma Lagerlöf Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils