A home without books is a body without soul.

Marcus Tullius Cicero

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cuckoo's Calling
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: new wind
Upload bìa: new wind
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3213 / 102
Cập nhật: 2015-11-04 19:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Phần Một
am in omni adversitate fortunae infelicissimum est genus infortunii, fuise felicem.
Ngồi xem con tạo xoay vần
Buồn thay cho kẻ có lần được vui.
- Boethius, De Consolatione Philosophiae
1
Trong hai mươi lăm năm cuộc đời mình, Robin Ellacott đã từng gặp đủ chuyện ly kỳ và bất ngờ, nhưng chưa có hôm nào như hôm đó, cô thức dậy và tự dưng cảm thấy chắc chắn rằng hôm nay sẽ là một ngày không thể quên.
Đêm hôm trước, bạn trai lâu năm của cô là Matthew đã ngỏ lời cầu hôn ngay dưới tượng thần Tình yêu ở vòng xoay Piccadilly Circus. Robin đồng ý rồi anh chàng mới thở phào nhẹ nhõm và thú thật rằng đáng ra anh định ngỏ lời trong nhà hàng Thái, nơi hai người vừa ăn tối kia, nhưng lại không liệu trước được là có một cặp ngồi đằng sau hai người cứ im ỉm nghe trộm họ nói chuyện từ đầu đến cuối rất khó chịu. Vậy nên Matthew đành rủ Robin đi dạo một vòng trên những con đường đã tối đen, mặc cho cô phản đối vì ngày mai cả hai đều phải dậy sớm. Và cuối cùng, cảm hứng trào dâng, Matthew dắt tay cô nàng khi đó vẫn đang sửng sốt về phía bức tượng. Ở đó, giữa những cơn gió lạnh lẽo (rất là không giống phong cách Matthew) chàng đã quỳ xuống, ngỏ lời cầu hôn trước mặt đám khán giả là ba kẻ vô gia cư đang ngồi trên bậc thang, uống chung một chai có vẻ chứa rượu cồn.
Với Robin, đó là lời cầu hôn hoàn hảo nhất trong lịch sử cưới xin xưa nay. Matthew còn mang cả nhẫn trong túi, chiếc nhẫn giờ đây Robin đang đeo: một viên sapphire, hai viên kim cương, vừa khít tay cô. Trên đường vào thành phố cô không thể rời mắt khỏi bàn tay mình đang để trên đùi. Matthew và cô giờ đây cũng đã có một “sự tích” vui vui để sau này kể cho con cái, trong câu chuyện đó kế hoạch của Matthew (cô vẫn còn choáng váng vì Matthew có lên kế hoạch hẳn hoi) không thành như hóa ra lại hay. Cô thấy yêu quá cả ba tên lang thang, mặt trăng, và Matthew run rẩy quỳ gối. Cô yêu luôn tượng thần Tình Yêu, vòng xoay Piccally dơ bẩn cũ kỹ và chiếc xe taxi đen sau đó đã đưa họ về Clapham. Cứ như thể cô yêu cả London vậy, mặc dù vẫn chưa quen lắm thành phố này sau một tháng dọn đến. Ngay đến đám khách đi tàu điện xanh xao và cáu kỉnh hàng ngày cũng không làm cô bận lòng. Cô bước ra khỏi tàu, trong một sáng tháng Ba lạnh lẽo ở ga Tottemham Court Road. Robin đưa ngón cái vuốt ve mặt dưới chiếc nhẫn bạch kim, và thấy sướng run cả người khi nghĩ đến việc giờ nghỉ trưa sẽ đi mua vài cuốn tạp chí chuyên đề đám cưới.
Cánh đàn ông liên tục liếc Robin khi cô chen chúc qua công trình xây dựng ngay đầu phố Oxford, vừa đi vừa nhìn vào mẩu giấy trong tay phải. Xét theo tiêu chuẩn nào thì Robin cũng rất xinh; cao lớn và đầy đặn, tóc vàng gợn sóng theo mỗi bước đi, hơi gió lạnh làm gò má cô ửng hồng. Hôm nay là ngày đầu tiên cô đi làm thư ký thời vụ, hợp đồng chỉ trong một tuần. Từ khi dọn đến London sống với Matthew, Robin nhận toàn những việc tạm thời, nhưng hi vọng chuyện này sẽ không lâu nữa. Sắp tới cô sẽ có một cuộc “phỏng vấn công việc đàng hoàng”, cô hay nói thế.
Phần khó nhất trong những công việc kiểu này thường là làm sao tìm ra văn phòng làm việc. So với thị trấn nhỏ ở Yorkshire nơi Robin ở trước đó, London thực quá rộng lớn, rối rắm và khó hiểu. Matthew đã dặn dò cô đừng có vừa đi vừa đọc sách hướng dẫn chỉ đường “London: A tới Z”, vì như thế trông cô không khác gì khách du lịch, rất nguy hiểm; vậy nên Robin thường chỉ trông vào những bản đồ vẽ tay ngoằn ngoèo mà chỗ môi giới việc làm đưa. Cô không tin như vậy thì có vẻ giống người London hơn.
Những thanh chắn kim loại và mấy bức tường nhựa xanh bao quanh công trình xây dựng che hết cả nửa số điểm mốc định hướng trên bản đồ, làm Robin càng khó tìm đường hơn. Robin băng qua con đường đang bị đào xới, đến trước một toà nhà văn phòng, ứng với địa điểm “Centre Point” trên bản đồ. Tòa nhà trông như một miếng bánh waffle khổng lồ bằng bê-tông, dày đặc những ô cửa sổ vuông vức. Robin đi tiếp về phía phố Denmark.
Cô tìm ra văn phòng gần như là tình cờ khi men theo một lối đi hẹp có tên là Ngõ Denmark, đổ ra một con đường ngắn với những cửa hàng nhiều màu sắc trưng bày đàn guitar, keyboard, và đủ loại nhạc cụ linh tinh. Lại đến hàng rào sơn đỏ và trắng rào quanh một cái hố giữa đường, mấy người công nhân làm đường mặc quần áo phản quang bắt đầu huýt gió chọc ghẹo Robin, cô lơ hết.
Robin nhìn xuống đồng hồ. Đã trừ trước thời gian nhỡ bị lạc nên cô đến nơi sớm trước cả 15 phút. Cánh cửa đen không có gì đặc biệt mà cô đang tìm nằm ngay bên trái quán Bar Café số 12. Trên cánh cửa có một mẩu giấy nhỏ ghi tên chủ nhân văn phòng dán bằng băng dính ngay cạnh chuông cửa tầng hai. Nếu hôm đó cũng như những ngày khác, nếu trên tay cô không có chiếc nhẫn mới lấp lánh, Robin hẳn đã thấy hơi nản chí. Tuy nhiên lúc đó ngay cả miếng giấy xộc xệch và vết sơn tróc trên cánh cửa, cũng như những người vô gia cư đêm qua, đều trở thành phông nền cho câu chuyện lãng mạn của Robin. Cô lại xem đồng hồ (viên sapphire ánh lên, khiến tim cô loạn một nhịp; và sau này trong cả cuộc đời còn lại Robin không bao giờ chán ngắm ánh lấp lánh ấy cả). Trong tâm trạng hân hoan, cô quyết định đi vào sớm để người ta thấy cô nhiệt tình ra sao với một công việc tầm thường.
Robin vừa với tay định bấm chuông thì cánh cửa đen mở bật ra từ bên trong, một người phụ nữ bước ra. Một giây sững lặng, hai người nhìn thẳng vào mắt nhau, căng người chuẩn bị cho cú đụng chạm sắp xảy ra. Hôm đó mọi giác quan của Robin sắc bén lạ thường; họ kịp thời né nhau suýt soát. Người phụ nữ tóc đen nhanh chóng đi xuống đường, rẽ ngoặt ở góc phố rồi khuất dạng, nhưng trong giây lát, gương mặt trắng muốt ấy đã kịp gây ấn tượng sâu sắc với Robin đến nỗi cô nghĩ mình có thể vẽ lại nó chính xác từ trí nhớ. Một gương mặt tuyệt đẹp bừng bừng vẻ điên giận lẫn hả hê.
Robin kịp bắt lấy cánh cửa trước khi nó đóng lại, đằng sau cánh cửa là một lối cầu thang tối tăm. Cầu thang sắt kiểu cũ uốn lượn quanh một cái thang máy kiểu lồng chim cũng cũ kỹ không kém. Robin tập trung, cố không để gót giày vướng vào bậc thang, cô đi lên tầng một, ngang qua cánh cửa có gắn một tấm poster lồng khung, ghi chữ Crowdy Graphics, rồi tiếp tục đi lên. Chỉ tới khi cánh cửa gương trên tầng tiếp theo hiện ra Robin mới biết cô sắp làm việc gì. Trung tâm môi giới không hề nói gì trước với Robin cả.
Trên cánh cửa gương có khắc cùng tên người với mảnh giấy dán bên chuông cửa ở tầng dưới: C.B Strike và dưới đó là dòng chữ Thám tử tư.
Robin đứng im, miệng há ra. Cảm giác kinh ngạc này chỉ mình cô mới hiểu. Cô chưa bao giờ thổ lộ với ai (kể cả Matthew) về ước mơ bí mật có phần trẻ con của mình. Vậy mà hôm nay nó đã ở ngay trước mắt cô, ngay hôm nay chứ không phải ngày nào khác! Cứ như Chúa đang nháy mắt đùa với cô vậy (sự việc vừa xảy ra càng làm cô tin chắc hôm nay là một ngày đặc biệt; chắc hẳn có liên quan với cả Matthew và chiếc nhẫn, mặc dù xét cho cùng những chuyện đó chẳng dính dáng gì tới nhau).
Vẫn cực kỳ hân hoan, cô bước chầm chậm tới cánh cửa. Robin đưa tay trái ra (viên sapphire sẫm lại dưới ánh sáng mờ) với lấy nắm đấm cửa; nhưng ngay trước khi Robin chạm vào thì cánh cửa gương bỗng mở tung.
Lần này thì không suýt soát gì cả. Một người đàn ông khoảng độ một trăm ki lô đâm sầm vào người Robin; cô ngã ngửa ra sau, túi xách bắn lên không trung, hai cánh tay huơ loạn ở khoảng không ngay trên dãy cầu thang lắt léo.
2
Trong tiếng hét thất thanh của Robin, Strike hứng trọn cú va đập và phản ứng theo bản năng: giơ tay về phía trước túm bừa một nắm cả người lẫn áo. Bị đau bất ngờ, Robin hét thêm một tiếng nữa, vang vọng khắp những bức tường đá. Giằng co một hồi, Strike cuối cùng cũng giữ được Robin không bị ngã xuống cầu thang. Nhưng tiếng hét của cô vẫn vang khắp toà nhà, lúc đó Strike nhận ra mình cũng đang rống lên, “Chết mẹ!”
Robin gập người đau đớn dựa vào cánh cửa văn phòng, vẫn còn rên rỉ. Nhìn cái dáng khom lệch qua một bên của Robin, một tay luồn dưới cổ áo khoác ép chặt, Strike luận ra chắc hắn đã cứu cô bằng cách chộp lấy… bên ngực trái của cô. Mái tóc vàng óng, dày gợn sóng che bớt khuôn mặt đang đỏ vì ngượng của Robin, nhưng Strike vẫn thấy được mấy giọt nước mắt chảy ra.
“Khốn thật… xin lỗi cô!” Giọng của Strike dội quanh cầu thang. “Tôi không thấy cô đứng đó… cứ nghĩ là không có ai hết…”
Từ tầng dưới, tay họa sĩ thiết kế lập dị ở một mình la lên “Chuyện gì trên đó vậy?” Đúng một giây sau lại có tiếng càm ràm nghèn nghẹt từ bên trên cho thấy ông chủ quán bar dưới nhà, hiện đang ngủ trong căn hộ áp mái ngay trên văn phòng của Strike cũng vừa bị quấy rầy, có lẽ là bị đánh thức sau tiếng động.
“Mời cô…”
Strike dùng ngón tay đẩy cửa để tránh đụng chạm thêm vào người cô gái đang dựa vào đó, mời cô vào trong.
“Mọi thứ ổn cả chứ?” Gã họa sĩ gọi lên lần nữa.
Strike đóng sầm cửa lại.
“Tôi không sao cả.” Robin nói dối, giọng run rẩy, người vẫn co rúm lại và tay còn đặt trên ngực, quay lưng về phía Strike. Một lát sau cô đứng thẳng, quay người lại, gương mặt vẫn đỏ bừng và mắt vẫn ướt.
Kẻ vừa bất ngờ xông vào cô trông thật to lớn, râu tóc xồm xoàm, cộng thêm một cái bụng hơi phệ ra, rất giống con gấu xù xì. Một bên mắt của Strike sưng lên, bầm tím, chỗ da dưới lông mày bị trầy. Bên má trái vẫn còn dấu ngón tay ửng đỏ rơm rớm máu, cả một bên cổ dưới cổ áo nhắn nhúm cũng vậy.
“Anh là Strike hả?”
“Ừ.”
“Tôi… tôi là nhân viên tạm thời.”
“Là gì kia?”
“Nhân viên tạm thời. Từ trung tâm giới thiệu việc làm Giải pháp Tạm thời, anh biết mà.”
Tên của trung tâm vẫn không thể xóa hết sự ngờ vực trên gương mặt méo mó của Strike. Hai người nhìn nhau, vừa dè dặt vừa đối địch.
Cũng như Robin, Cormoran Strike cũng vừa trải qua mười hai tiếng đồng hồ mà hắn sẽ nhớ mãi, thực sự đánh dấu một trang mới trong cuộc đời. Giờ đây, có vẻ như Định Mệnh lại gởi đến một phái viên áo khoác thắt eo màu be, chỉ để nhắc Strike rằng đời hắn toàn gặp tai họa. Hắn không định có thêm nhân viên tạm thời nào nữa. Strike muốn dẹp luôn hợp đồng với trung tâm sau khi đuổi việc người tiền nhiệm của Robin.
“Họ bảo cô làm bao lâu?”
“Trước mắt là một tuần.” Robin trả lời, thật chưa từng gặp ai kém nhiệt tình hơn gã này.
Strike tính nhẩm trong đầu. Một tuần theo đơn giá của bên trung tâm việc làm sẽ đẩy khoản thâm hụt trong tài khoản của Strike phình to đến mức không sao cứu vãn được, biết đâu sẽ là giọt nước cuối cùng tràn ly như bên ngân hàng vẫn hay bóng gió.
“Cô chờ tôi chút.”
Strike bỏ ra khỏi văn phòng, rẽ phải đi vào một cái toilet nhỏ xíu ẩm ướt. Hắn chốt cửa lại rồi nhìn vào tấm gương nứt lốm đốm trên bồn rửa mặt.
Khuôn mặt trong gương chẳng có gì đẹp đẽ. Trán cao, dồ ra, mũi to bành và chân mày rậm, hơi giống như Beethoven thời trẻ - già hoặc Beethoven có mê thêm món đấm bốc, lại thêm một bên mắt bầm tím sưng vù. Mái tóc xoăn dày, nhún nhẩy như lò xo từng khiến Strike được đặt cho nhiều biệt danh lúc còn trẻ, trong đó có “Tổ chim”. Trông hắn già hơn cái tuổi ba mươi lăm.
Strike chèn nút đậy vào lỗ thoát, mở nước đầy bồn rửa mặt nứt nẻ cũ kỹ, hít lấy một hơi thật sâu rồi nhúng đầu vào. Nước bắn ra khắp giày, nhưng hắn không thèm để ý, tập trung tận hưởng mười giây bình yên trong nước lạnh như băng.
Những hình ảnh lộn xộn của tối qua hiện về trong tâm trí hắn: đổ bừa đồ đạc trong ba ngăn kéo vào cái túi thể thao trong tiếng la hét của Charlotte; gạt tàn thuốc bay ngay vào chân mày khi hắn ra đến cửa và quay lại nhìn cô nàng lần cuối; đi bộ xuyên qua thành phố trong đêm đến văn phòng rồi ngồi luôn trên ghế ngủ được một hai tiếng gì đó. Sau đó là hồi kết kinh hoàng khi Charlotte tìm ra hắn lúc tờ mờ sáng, để bồi thêm mấy nhát mà cô nàng chưa kịp làm trước khi hắn bỏ đi. Hắn đã quyết không níu kéo gì nữa sau khi Charlotte trổ vuốt vào mặt hắn và chạy ra phía cửa, nhưng rồi không hiểu điên khùng thế nào hắn lại chạy theo. Cuộc rượt đuổi nhanh chóng kết thúc với sự can thiệp vô tình của nhân vật phụ vừa xuất hiện, khiến hắn phải ra tay đỡ lấy rồi rối rít an ủi.
Hắn nhấc đầu ra khỏi nước lạnh, thở hắt ra và rên hừ một tiếng. Gương mặt và cả đầu hắn lạnh tê dễ chịu. Hắn với tay lấy cái khăn cứng queo như bìa các tông treo đằng sau cửa lau cho khô rồi lại nhìn vào bộ mặt khốn khổ hiện ra trong gương. Mấy vết trầy trên mặt sau khi đã được rửa sạch vết máu khiến mặt hắn trông giống như một cái gối nhăn nhúm. Giờ này chắc Charlotte đã ra đến ga tàu điện. Lúc nãy hắn vùng chạy theo một phần vì lo sợ cô nàng lao mình xuống đường tàu. Hồi xưa, khi hai người mới chừng hai mấy tuổi, có lần sau một trận cãi vã dữ dội, cô nàng leo lên nóc nhà, say xỉn lạng quạng, thề thốt sẽ nhảy xuống. Có lẽ Strike nên biết ơn Giải pháp Tạm thời đã khiến hắn phải dừng cuộc đuổi bắt. Biết đâu nếu đuổi theo hắn sẽ hối không kịp, nhất là mới sáng tờ mờ thế này. Lần này phải cắt đứt thật sự.
Hắn sửa lại cổ áo, kéo chốt mở cửa, đi ra khỏi toilet và vào lại văn phòng.
Bên kia đường đám công nhân vừa bật máy khoan. Robin đứng trước bàn làm việc, quay lưng về phía cửa. Cô rút vội tay khỏi áo khoác khi hắn bước vào, hắn đoán chắc là cô lại vừa xoa ngực.
“Ừm,… cô không sao chứ?” Strike hỏi, cố ý không nhìn vào chỗ bị thương.
“Tôi không sao. Nếu anh không cần, tôi sẽ đi ngay.” Robin nói đầy tự trọng.
“Không, không có chuyện đó” Strike mở miệng ngay, hắn thấy tới giọng nói mình cũng gớm ghiếc. “Một tuần thì ổn thôi. À, đây là thư từ hôm nay…” Hắn nhặt đám thư dưới thảm chùi chân rồi rải ra trên bàn trống trước mặt cô, như một cử chỉ làm hòa. “Ừm, phiền cô mở thư, nghe điện thoại, dọn dẹp chung quanh… mật khẩu máy tính là Hatherill23, để tôi viết ra…” Rồi hắn viết ra trong khi Robin nhìn hắn, vẫn chưa hết lo lắng và ngờ vực. “Đây… Tôi sẽ ở trong kia.”
Hắn bước vào văn phòng phía trong, đóng cửa cẩn thận rồi đứng yên lẳng lặng, mắt dán chặt vào cái túi thể thao đặt dưới bàn làm việc trống trơn. Trong đó là toàn bộ gia tài của hắn hiện giờ, hắn biết chắc không kiểu gì lấy lại được chín phần mười số đồ đạc vẫn còn để lại nhà Charlotte. Tới trưa này chắc chúng cũng sẽ biến mất; bị đốt, bị vứt ra đường, bị băm vằm và nhúng thuốc tẩy. Bên kia đường, tiếng máy khoan vẫn ầm ĩ.
Rồi hắn nghĩ tới khoản nợ khổng lồ, không cách gì trả được, hậu quả thê thảm đi sau công việc cũng sắp sửa thất bại của hắn. Hàng loạt xui rủi kéo đến, cứ như đã được định sẵn sau khi hắn chia tay Charlotte. Trong sự mệt mỏi rã rời, Strike thấy tất cả hiện ra trước mắt hắn như một ống kính vạn hoa toàn những hình ảnh kinh dị.
Hắn đi quanh như người mất hồn, rồi ngồi xuống ngay chiếc ghế hắn vừa ngồi ngủ tối qua. Bên kia vách ngăn có tiếng lạo xạo. Giải pháp Tạm thời chắc hẳn đang khởi động máy tính, và sẽ sớm nhận ra rằng trong ba tuần rồi chẳng có cái email nào dính đến công việc cả. Và rồi, đúng như hắn yêu cầu, cô ta sẽ mở hết đám thư đòi nợ. Rã rời, đau đớn và đói bụng, Strike gục mặt xuống bàn, vùi tai ụp mắt xuống cánh tay để khỏi nghe thấy gì cả. Trong khi đó, ở phía bên kia vách, sự nghiệp ê chề của hắn đang được phơi ra trước mắt một người xa lạ.
3
Năm phút sau có tiếng gõ cửa, Strike vừa suýt ngủ gục liền bật dậy ngồi thẳng trên ghế.
“Gì đó cô?”
Hắn vẫn còn mơ màng nghĩ tới Charlotte; nên thấy ngạc nhiên khi một cô gái khác bước vào phòng. Cô đã cởi áo khoác ngoài ra, để lộ một chiếc áo len màu kem ôm dáng vừa vặn, hơi bị gợi cảm. Strike vuốt tóc.
“Ừm?”
“Có thân chủ đang đợi anh. Tôi mời ông ta vào được không?”
“Có cái gì kia?”
“Thân chủ, anh Strike.”
Strike nhìn cô trong vài giây, vẫn chưa xử lý kịp thông tin vừa rồi.
“Ừ, OK… à mà không, phiền cô cho tôi hai phút rồi hẵng gọi ông ấy vào nhé Sandra.”
Cô gái bỏ ra không nói thêm tiếng nào.
Strike thoáng tự hỏi sao mình lại gọi cô ta là Sandra rồi đứng bật dậy sửa soạn, cố sao để trông không giống với một gã đã mặc nguyên đồ đi làm mà ngủ tối qua. Hắn lục trong túi thể thao, chộp lấy một ống kem đánh răng và vặn thẳng vào miệng; rồi hắn nhận ra cà vạt vẫn còn ướt nhẹp và áo sơ mi vẫn còn dính mấy vệt máu li ti, vậy là hắn cởi phăng hết, nút bắn cả lên tường và tủ đựng hồ sơ. Hắn lôi từ trong túi ra một cái áo sơ mi sạch nhưng nhăn nhúm rồi mặc vào, mấy ngón tay thô ráp liên tục loay hoay.
Sau khi nhét cái túi ra phía sau tủ đựng hồ sơ, hắn nhanh chóng ngồi thẳng thớm lại và lia mắt quanh phòng xem còn rác rưởi gì không, mặc dù vẫn chưa tin được vị thân chủ mới tới này có thật không, và liệu khi xong việc, ông ta có chịu trả tiền công điều tra không. Sau mười tám tháng đau đầu vì tiền, Strike nhận ra rằng cả hai điều nói trên đều không hề đơn giản.
Cho tới giờ hắn vẫn còn phải chạy theo đòi nốt thù lao từ hai thân chủ trước đó; người thứ ba thì từ chối không trả một xu vì không vừa lòng với kết quả điều tra. Strike không thể nào nghĩ tới chuyện thuê luật sư đòi nợ, nhất là khi khoản nợ riêng của hắn vẫn đang phình ra còn giá thuê văn phòng thì lại đang ngấp nghé tăng, đe dọa cái cơ ngơi khiêm tốn ở ngay trung tâm London mà may mắn lắm hắn mới tìm được. Dạo này, hắn bắt đầu tưởng tượng tới những phương pháp đòi nợ dữ dằn và thô sơ hơn: chẳng hạn hắn khoái giáng một cây gậy bóng chày vào mấy kẻ quỵt nợ cho hết vênh váo.
Cánh cửa mở ra; Strike nhanh chóng rút ngón tay ra khỏi mũi và ngồi thẳng dậy, cố tỏ ra tỉnh táo lanh lợi.
“Ông Strike, đây là ông Bristow.”
Thân chủ tiềm năng theo Robin bước vào văn phòng. Ấn tượng đầu tiên khá dễ chịu. Người lạ mặt trông đặc biệt giống con thỏ: môi trên ngắn để lộ ra những mấy răng cửa lớn; nước da vàng vọt và đôi mắt cận nặng đeo kính dày cộp. Bù lại ông ta mặc một bộ complet màu xám đậm được cắt may rất khéo và thắt cà vạt màu xanh dương bóng bẩy. Cả đồng hồ đeo tay và đôi giày dưới chân ông ta đều trông rất xa xỉ.
Áo sơ mi trắng tinh thẳng thớm của người lạ mặt càng nhắc Strike nhớ đến hàng ngàn vết nhăn trên áo quần hắn đang mặc. Hắn đứng dậy, khoe hết chiều cao một mét chín và chìa bàn tay rậm lông về phía thân chủ mới, cố đáp lại sự lịch lãm của ông ta bằng cách tỏ ra ta đây bận rộn không có thời giờ ủi đồ.
“Cormoran Strike, rất hân hạnh tiếp ông!”
“John Bristow,” Người khách đáp lời, hai người bắt tay. Giọng ông ta dễ chịu, kiểu cách và hơi run. Ông ta nhìn hơi lâu vào bên mắt sưng của Strike.
“Mời hai ông dùng chút cà phê hay trà nhé?” Robin hỏi.
Bristow gọi một cà phê đen nhỏ, Strike không trả lời, hắn vừa thoáng thấy một người phụ nữ có chân mày rậm, mặc một bộ complet bằng vải dạ ngồi ngay trên chiếc ghế sofa cũ kỹ ngay cạnh cửa phòng ngoài. Thật khó tin là hai khách hàng mới cùng đến một lúc. Hay không lẽ lại có thêm một nhân viên tạm thời nữa?
“Còn ông Strike ạ?” Robin hỏi Strike.
“Gì kia? À, cà phê đen, hai viên đường, phiền cô, Sandra,” hắn buột miệng. Hắn thấy cô ta mím môi lại khi đóng cửa đi ra. Lúc đó hắn mới nhớ ra là hắn không có cà phê, đường hay tách chén gì cả.
Bristow ngồi xuống, nhìn quanh văn phòng tơi tả, Strike e là ông ta đang thất vọng. Vị thân chủ mới này có vẻ lo lắng mờ ám sao đó, đúng kiểu mấy ông chồng hay ngờ vực mà Strike từng biết, nhưng trông vẫn ít nhiều có thể, có lẽ nhờ bộ đồ đắt tiền. Strike không biết Bristow làm sao mò ra được cái văn phòng này. Không thể do bà khách duy nhất hiện giờ giới thiệu được vì bà ta (theo như nhiều lần bà khóc lóc trên điện thoại) không có bạn bè gì.
“Tôi có thể giúp gì được cho ông?” Strike hỏi, ngồi xuống ghế.
“Thực ra là… à, tôi muốn hỏi cái này… Tôi nghĩ chúng ta có gặp nhau rồi.”
“Thật vậy sao?”
“Chắc anh không nhớ tôi, bao năm rồi… nhưng tôi nghĩ anh là bạn của Charlie em trai tôi. Charlie Bristow? Nó mất trong vụ tai nạn lúc mới chín tuổi.”
“Trời đất,” Strike thốt lên. “Charlie,… vâng, tôi còn nhớ.”
Strike nhớ rất rõ là đằng khác. Charlie Bristow là một trong rất nhiều bạn bè mà Strike kết giao trong thời thơ ấu lăn lóc nay đây mai đó. Một cậu bé táo bạo, nghịch ngợm đầy sức lôi cuốn, thủ lĩnh băng siêu quậy ở ngôi trường mới của Strike ở London. Ngay lần gặp đầu tiên, Charlie đã quyết định kết nạp cậu học trò mới bự con, nói đặc sệt giọng Cornwall làm bạn thân nhất kiêm trợ thủ đắc lực. Sau đó là hai tháng cặp kè và đủ trò nghịch ngợm. Vốn luôn tò mò về cuộc sống gia đình êm ả của những trẻ khác, với ông bố bà mẹ tỉnh táo, gọn gàng và căn phòng riêng không thay đổi năm này qua năm khác, Strike vẫn còn nhớ như in căn nhà to lớn và sang trọng của Charlie. Ở đó có một bãi cỏ đầy nắng, một cái chòi gỗ dựng trên cây, và món nước chanh tươi mát lạnh mẹ Charlie bưng ra cho bọn nó.
Sau đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp trong ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ Phục sinh. Cô giáo chủ nhiệm nói với cả lớp rằng Charlie sẽ không bao giờ quay trở lại nữa, Charlie chết rồi, rớt xuống mỏ đá lúc đạp xe ngang qua vách núi khi đang đi nghỉ ở Wales. Cô giáo đó thực là một mụ già đáng ghét, còn không nhịn được mà phải thêm vào rằng Charlie, như cả lớp đã biết thường xuyên không nghe lời người lớn, đã bị cấm rõ là không được đạp xe gần mỏ đá, nhưng vẫn cứ làm, có lẽ định thể hiện gì đó… nhưng cô chưa kịp nói hết thì phải dừng lại vì hai cô bạn học ngồi hàng đầu bật khóc nức nở.
Từ ngày hôm đó, mỗi lần nhìn thấy hay mường tượng ra một mỏ đá, Strike luôn thấy trước mặt mình là gương mặt của cậu bé tóc vàng đang cười vỡ ra thành nhiều mảnh. Strike không ngạc nhiên nếu tất cả các bạn trong lớp hồi đó đều có chung nỗi ám ảnh với cảnh hang động đen tối, cú rơi từ trên cao xuống và tảng đá vô tình.
“Vâng, tôi còn nhớ Charlie,” Strike trả lời.
Trái khế dưới cổ Bristow động đậy.
“Vâng. Thực ra là nhờ cái tên của anh cả đấy. Tôi nhớ rất rõ Charlie hay kể chuyện về anh, khi chúng tôi đi nghỉ, chỉ mấy ngày trước khi nó mất; ‘bạn em Strike’, ‘Cormoran Strike’. Thật là một cái tên lạ. ‘Strike’ có gốc từ đâu, anh có biết không? Tôi chưa bao giờ gặp ai tên vậy cả.”
Strike từng gặp nhiều người như Bristow, kiểu người thích cà kê đủ chuyện, từ thời tiết, lộ phí vào trung tâm, đến sở thích uống trà hay cà phê, chỉ để trì hoãn phải giải thích lý do muốn gặp hắn.
“Tôi có nghe nói hình như liên quan gì đó đến bắp ngô, hay một đơn vị để đong ngô.” Strike trả lời.
“Thật vậy sao? Không có gì liên quan đến đánh đấm, hay đình công[1] hết à, ha ha… à không, thực ra là tôi đang tìm người có thể giúp tôi một việc, rồi tôi thấy tên anh trong danh bạ.” Đầu gối của Bristow cựa quậy nhấp nhô, “anh cũng có thể tưởng tượng lúc đó tôi thấy như thế nào rồi đấy… cứ như là… có một dấu hiệu gì đó vậy. Có lẽ Charlie đang dẫn đường chỉ lối cho tôi, nói rằng tôi đã đi đúng chỗ.”
[1. Strike trong tiếng Anh có nghĩa là tấn công (động từ) hay đình công (danh từ) - ND]
Trái khế cổ họng của Bristow lại động đậy mỗi khi ông nuốt nước bọt.
“OK,” Strike đáp lời thận trọng, hi vọng là vị thân chủ mới này không nghĩ hắn ta làm nghề bói toán lên đồng.
“Chuyện của em gái tôi, anh biết đó.” Bristow nói tiếp.
“Cô ta đang gặp rắc rối à?”
“Nó chết rồi.”
Strike suýt tí nữa thì bật ra, “Gì chứ, chết luôn rồi hả?”
“Tôi rất tiếc,” Strike thận trọng nói.
Bristow cúi đầu khẽ nhận lời chia buồn.
“Tôi… việc này chẳng dễ dàng gì. Đầu tiên, anh nên biết em gái… quá cố của tôi là Lula Landry.”
Hi vọng vừa chỉ mới chớm nở từ vị khách hàng mới dần dần tụt xuống, như tấm bia đá rơi đánh thịch xuống bụng Strike. Người đàn ông ngồi đối diện với hắn một là ảo tưởng, hai là chập mạch. Không có lý nào trên đời mà cái tay mặt trắng bệch, trông giống thỏ này lại có cùng bộ gene với Lula Landry – biểu tượng sắc đẹp da nâu thanh mảnh, sắc sảo như kim cương.
“Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula.” Bristow nói nhỏ nhẹ, như thể biết được Strike đang nghĩ gì. “Tất cả chúng tôi đều là con nuôi hết.”
“Ừm…” Strike ậm ừ đáp. Vốn có một trí nhớ chính xác khác thường, hắn mường tượng lại ngôi nhà ngăn nắp, rộng rãi và mát mẻ ngày xưa, khu vườn cỏ xanh rực nắng, người mẹ tóc vàng uể oải ngồi ở bàn gỗ trong vườn, tiếng người cha nghiêm nghị gọi từ xa, cậu anh trai cáu kỉnh ngồi vọc bánh trái cây, Charlie liên tục làm trò hề chọc cười mẹ; nhưng hắn không thể nhớ ra có cô em gái nào cả.
“Anh chưa gặp Lula.” Bristow lại tiếp tục, cứ như thể Strike vừa nói ra hết ý nghĩ của hắn. “Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula sau khi Charlie mất. Nó mới có bốn tuổi lúc về với chúng tôi, trước đó nó ở với bên bảo trợ xã hội hai năm. Khi đó tôi khoảng 15 tuổi. Tôi vẫn còn nhớ mình đứng ở ngay cửa trước nhìn thấy bố bế nó đi vào. Nó đội một cái mũ len đỏ. Mẹ tôi vẫn còn giữ cái mũ.”
Và đột ngột, đến sửng sốt, John Bristow bật lên khóc nức nở. Hai tay ôm mặt, vai khòm xuống, cả người rung lên, nước mắt nước mũi giàn giụa chảy qua kẽ ngón tay. Mỗi khi vừa kìm lại được, cơn nức nở lại trào lên.
“Tôi xin lỗi… xin lỗi. Chúa ơi…”
Vừa thở hổn hển vừa nấc cục, Bristow rút khăn mùi sao chặm mắt, cố gắng giữ bình tĩnh.
Cửa phòng mở ra. Robin bước vào, bưng theo một khay nước. Bristow quay mặt đi, hai vai vẫn rung lên. Qua cánh cửa Strike lại lần nữa thấy người phụ nữ mặc complet vẫn ngồi ở phòng ngoài, cô ta quắc mắt nhìn Strike qua tờ báo Daily Express cầm trên tay.
Robin đặt xuống bàn hai tách cà phê, một bình sữa, một cái chén đựng đường và một đĩa bánh quy sô-cô-la, toàn những thứ Strike chưa bao giờ thấy trong văn phòng, rồi cười lịch sự khi Strike cảm ơn và bước ra.
“Khoan đã, Sandra,” Strike nói với theo. “Phiền cô…?”
Hắn rút ra một tờ giấy từ bàn làm việc và đặt lên đầu gối. Trong khi Bristow nhấp ngụm cà phê, Strike cố viết nhanh và rõ nhất đến mức có thể:
Phiền cô google xem Lula Landry có phải là con nuôi không, ai nhận nuôi vậy. Đừng nói gì với bà ngồi ngoài kia (bà ta làm gì ngoài đó vậy). Viết câu trả lời và đưa ngay vô cho tôi, đừng nói gì hết.
Strike đưa tờ giấy cho Robin, cô cầm lấy, không nói tiếng nào và bước ra.
“Xin lỗi… tôi vô cùng xin lỗi,” Strike thở hắt ra, khi cánh cửa vừa đóng lại. “Thực ra… thường tôi không như vậy… tôi đã trở lại làm việc, đi gặp khách hàng bình thường rồi…”
Bristow hít sâu vài hơi. Với đôi mắt màu hồng, trông ông ta càng giống một con thỏ bị bạch tạng. Đầu gối phải nhịp lia lịa.
“Thật là tồi tệ” Bristow phều phào, lại hít hơi sâu, “chuyện của Lula… còn mẹ tôi thì bệnh nặng…”
Strike ứa nước miếng nhìn mấy cái bánh quy sô-cô-la, hắn cảm giác như mấy ngày rồi chưa ăn gì; nhưng hắn e rằng nhồm nhoàm bánh trái khi Bristow cứ run rẩy sụt sùi và chùi mắt liên tục như thế sẽ khiến hắn trông rất vô cảm. Máy khoan bên đường vẫn ầm ĩ như súng bắn.
“Mẹ tôi buông xuôi kể từ khi Lula mất. Mẹ tôi thực sự ngã gục. Bệnh ung thư của bà tưởng đã êm rồi, nhưng bây giờ tái phát, bác sĩ nói không làm gì được nữa. Lần này là lần thứ hai. Khi Charlie mất mẹ tôi như quỵ luôn. Bố tôi lúc đó nghĩ rằng có thêm một đứa con nữa sẽ làm bà nguôi ngoai. Cả hai đều thích con gái. Rất là khó khăn mới xin được, cũng may Lula là con lai, khó tìm người nhận, vậy nên,” Bristow kết thúc câu chuyện, nấc thêm một cái nữa “nhà tôi mới xin được nó.”
“Nó rất xi-xinh. Nó đ-được người ta phát hiện trên phố Oxford khi đang đi mua sắm với mẹ tôi. Công ty Athena là chỗ đầu tiên phát hiện ra nó. Một trong những công ty tiếng tăm nhất. Mười bảy tuổi nó đã là người mẫu chuyên nghiệp. Lúc mất đi nó có khoảng mười triệu bảng. Tôi không biết tại sao tôi lại đi nói với anh chuyện này. Có khi anh cũng biết hết rồi. Ai cũng biết cả, ai cũng nghĩ là mình biết mọi thứ về Luna.”
Bristow vụng về nâng tách cà phê; bàn tay run đến nỗi cà phê rơi ra lên mặt vải quần ủi thẳng thớm.
“Chính xác là ông muốn tôi làm gì?” Strike hỏi.
Bristow run run đặt tách xuống bàn, rồi nắm chặt bàn tay lại.
“Họ nói em tôi tự tử. Tôi không tin.”
Strike còn nhớ những hình ảnh trên TV: túi đựng xác màu đen nằm trên băng-ca, máy ảnh liên tục chớp khi băng-ca được đưa vào xe cứu thương, đám thợ ảnh đứng chung quanh chờ đợi, giơ tay chĩa máy ảnh vào cửa xe tối om, ánh sáng trắng dội lại từ cửa gương đen. Strike biết về vụ Luna nhiều hơn hắn muốn biết; hầu như mọi sinh vật có ý thức ở cái xứ Anh quốc này đều như vậy. Cứ liên tục bị “dội bom” tin tức như thế thì có không muốn người ta cũng trở nên quan tâm, và trước khi kịp nhận ra thì ai cũng biết quá nhiều và đã kịp có chính kiến riêng về chi tiết vụ án, đến nỗi không thể ngồi vào ghế bồi thẩm đoàn được.
“Tôi nghe nói họ có mở điều tra chính thức?”
“Có, nhưng tay điều tra viên chịu trách nhiệm vụ án từ đầu đã nghĩ đây là vụ tự tử, chỉ vì Lula có uống lithium[2]. Hắn bỏ qua rất nhiều thứ… nhiều chỗ trên Internet người ta còn chỉ ra được.”
[2. Một loại thuốc điều trị chứng hưng trầm cảm và rối loạn lưỡng cực - ND]
Bristow chỉ tay vu vơ về phía bàn làm việc trống trơn của Strike, nơi đáng ra phải có một cái máy tính.
Lại một tiếng gõ cửa lịch sự. Cửa mở, Robin bước vào, đưa cho Strike một mẩu giấy gấp lại và đi ra.
“Phiền ông đợi một lát,” Strike nói “Tôi chờ thông tin này khá lâu.”
Strike mở mẩu giấy tựa vào đầu gối, cố không để Bristow nhìn thấy mặt sau và đọc:
Lula Landry được Ngài Alec và phu nhân Yvette Bristow nhận nuôi lúc bốn tuổi. Lula có tên chính thức là Lula Bristow nhưng lấy họ của mẹ nuôi làm nghệ danh khi bắt đầu công việc người mẫu. Lula có một anh trai là John Bristow, hành nghề luật sư. Người ngồi đợi ở ngoài là bạn gái của ông Bristow, cũng là thư ký ở công ty luật của ông này. Công ty tên là Landry. May. Patterson, do ông ngoại của Lula và John lập ra. Thân chủ giống hệt như ảnh chân dung của John Bristow trên trang web công ty LMP.
Strike vò mẩu giấy lại rồi ném vào thùng rác dưới chân. Hắn choáng váng. John Bristow không phải là người hoang tưởng và hắn – Strike, vừa có được một nhân viên tạm thời vừa có năng lực lại biết chấm phẩy đàng hoàng, hơn tất cả những người trước đó.
“Xin lỗi ông, làm ơn nói tiếp.” Strike nói với Bristow. “Ông đang nhắc tới vụ điều tra?”
“Vâng,” Bristow trả lời, cầm cái khăn mùi soa ướt nhẹp dặm mũi. “Tôi không phủ nhận là Lula cũng từng gây nhiều chuyện. Nó từng khiến mẹ tôi đau khổ ghê gớm, quả có thế. Tất cả bắt đầu khi bố tôi mất… chắc anh cũng biết hết rồi, Chúa mới biết báo chí viết bao nhiêu cho đủ… lúc đó Lula bị đuổi học vì dùng ma túy; nó bỏ chạy lên London, mẹ tôi tìm ra nó đang vạ vật với đám nghiện hút; ma túy làm bệnh của nó trầm trọng hơn; nó trốn khỏi trung tâm điều trị… đủ thứ chuyện rắc rối. Cuối cùng họ nhận ra là nó bị rối loạn lưỡng cực và cho thuốc phù hợp. Kể từ đó, cứ uống thuốc đều là nó ổn; người ngoài nhìn vào không thể biết nó có bệnh. Thậm chí nhân viên điều tra cũng chấp nhận rằng trước đó nó có uống thuốc, khám nghiệm tử thi cũng cho thấy vậy.”
“Nhưng cảnh sát và điều tra viên không thể thấy gì hơn ngoài một cô gái có tiền sử tâm thần. Họ cứ nói là nó trầm cảm, nhưng tôi có thể nói chắc với anh là lúc đó Luna không hề trầm cảm. Sáng hôm đó tôi còn gặp nó, nó hoàn toàn bình thường. Mọi thứ đang rất tốt đẹp, nhất là công việc. Nó vừa ký một hợp đồng trị giá năm triệu bảng trong vòng hai năm; nó nhờ tôi xem qua, đúng là hợp đồng ngon lành. Nhà thiết kế cũng là bạn thân của nó, Somé, chắc anh cũng có nghe tên? Lịch làm việc mấy tháng sau của nó kín đặc; sắp có chuyến đi chụp hình ở Morocco, nó rất mê đi đây đó. Anh thấy đó, chẳng có lý do gì khiến nó phải tự tử cả.”
Strike gật đầu lịch sự dù trong bụng chả thấy thuyết phục gì. Những người tự tử, theo kinh nghiệm của hắn, đều hoàn toàn có khả năng giả vờ quan tâm đến tương lai, một tương lai mà họ không hề có ý định dự phần. Tâm trạng phấn khởi, nhìn đời màu hồng vào buổi sáng của Landry hoàn toàn có thể dễ dàng chuyển sang u ám và vô vọng ngay buổi chiều và đêm hôm đó, trước khi cô chết. Strike từng biết đến những vụ tương tự. Hắn còn nhớ tay trung úy ở Trung đoàn Súng trường Hoàng gia. Tay này thức dậy trong đêm ngay sau tiệc sinh nhật tưng bừng, viết một mẩu giấy để lại cho gia đình, bảo họ gọi cảnh sát và đừng đi vào nhà để xe. Đứa con trai mười lăm tuổi là người đầu tiên phát hiện ra xác chết trong tư thế treo cổ từ trần nhà xe khi đi ngang qua bếp vào nhà xe để lấy xe đạp mà không hề thấy mẩu giấy. “Nhưng đó không phải là tất cả.” Bristow nói tiếp. “Có chứng cứ, chứng cứ rành mạch. Đầu tiên là lời khai của Tansy Bestigui.”
“Có phải là người hàng xóm khai là có nghe thấy cãi nhau ở tầng trên?”
“Chính xác! Bà ta nghe thấy tiếng một người đàn ông la hét, ngay trước khi Lula rơi xuống! Cảnh sát lơ chứng cứ này, bởi vì… ừ thì, bà ta có sử dụng cocaine. Nhưng điều đó không có nghĩa là bà ta không biết mình nghe thấy gì. Đến giờ Tansy vẫn khẳng định là Lula có cãi nhau với một người đàn ông chỉ vài giây trước khi nó rơi xuống. Tôi biết, vì tôi vừa nói chuyện với bà ấy mà. Công ty của tôi đang làm vụ ly dị của Tansy. Tôi chắc rằng tôi có thể thuyết phục bà ta nói chuyện với anh.”
“Rồi còn nữa,” Bristow nói tiếp, quan sát Strike một cánh lo lắng, cố phán đoán phản ứng của hắn, “vẫn còn mấy đoạn băng hình từ camera công cộng. Một người đàn ông đi về phía khu Kentigern Gardens khoảng hai mươi phút trước khi Lula ngã, và thêm một đoạn phim quay cảnh cũng người này chạy thục mạng từ Kentigern Gardens sau khi Lula bị giết. Cảnh sát không bao giờ biết được người này là ai, không tìm được tung tích gì cả.”
Với một vẻ sốt sắng lén lút, Bristow rút ra từ trong túi áo complet một bì thư hơi nhăn nhúm, đưa về phía Strike.
“Tôi viết ra hết rồi. Mốc thời gian và mọi chi tiết. Tất cả đều ở trong đó. Anh sẽ thấy mọi thứ khớp với nhau ra sao.”
Cái bì thư không làm cho Strike tin tưởng Bristow hơn chút nào. Hắn từng được dúi cho nhiều thứ như vậy: mấy dòng nguệch ngoạc sinh ra từ những ám ảnh cô độc và lầm lạc; những câu chuyện lan man ly kỳ; những biểu đồ thời gian rối rắm, bị bóp méo để khớp với các thể loại giả thuyết hoang tưởng. Mí mắt bên trái của vị luật sự giật giật, một bên đầu gối vẫn nhịp lên xuống và mấy ngón tay cầm bì thư vẫn run run.
Trong vài giây Strike cân nhắc giữa những dấu hiệu căng thẳng đó và đôi giày chắc chắn là hàng thủ công của Bristow cùng chiếc đồng hồ Vacheron Constantin lộ ra trên cổ tay tái xanh mỗi khi ông ta huơ tay. Đây rõ là một người hoàn toàn có khả năng trả và sẽ trả thù lao nếu hắn nhận làm. Có lẽ là đủ để Strike trả một đợt cho món nợ lớn nhất. Thở dài, vừa tự nguyền rủa lương tâm của mình, Strike nói:
“Ông Bristow.”
“Cứ gọi tôi là John.”
“John… Tôi phải nói thật với anh thôi. Tôi nghĩ thật không phải nếu tôi lấy tiền của anh.”
Những vết đỏ bắt đầu nổi lên trên cái cổ xanh tái và gương mặt không có nét gì nổi bật của Bristow. Tay ông ta vẫn cầm chặt cái bì thư.
“Ý anh là sao, không phải là sao?”
“Cái chết của em gái anh có lẽ được điều tra đến mức thấu đáo nhất có thể. Hàng triệu người, giới truyền thông trên cả thế giới theo sát từng cử động của cảnh sát. Họ có lẽ đã phải làm kỹ gấp đôi bình thường. Tự tử luôn là chuyện rất khó chấp nhận…”
“Tôi không chấp nhận gì cả. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Em tôi không tự tử. Có ai đó đã đẩy nó xuống từ ban công.”
Máy khoan bên kia đường đột nhiên dừng lại, giọng của Bristow đột nhiên vang dội khắp phòng. Bristow bùng nổ, theo kiểu một người yếu đuối bị ép tới đường cùng.
“Tôi hiểu. Tôi hiểu rồi. Anh cũng giống họ thôi, phải không? Lại một nhà tâm lý tự phong khốn nạn? Charlie chết, bố tôi chết, Lula chết và mẹ tôi cũng đang chết… Tôi mất hết rồi, tôi cần đi bác sĩ tâm lý, không phải thám tử, chứ gì? Anh nghĩ tôi chưa nghe những thứ như vậy cả trăm lần rồi sao?”
Bristow đứng bật dậy, dứt khoát, khác hẳn với vẻ ngoài răng thỏ và làn da đốm đỏ.
“Tôi khác giàu có, Strike. Xin lỗi tôi nói thẳng nhưng anh cũng thấy đó. Bố tôi để lại cho tôi một gia tài khá lớn. Tôi cũng có tìm hiểu chi phí những dịch vụ như thế này. Tôi đã tính trả anh gấp đôi.”
Trả gấp đôi. Lương tâm vốn cứng rắn và không khoan nhượng của Strike mấy hôm nay hơi sứt mẻ sau một loạt xui xẻo, giờ đây chính thức bị một đòn gục hẳn. Con người thực dụng trong hắn hớn hở nghĩ ngay tới những viễn cảnh xán lạn: thù lao một tháng sẽ trả nốt chỗ phí thuê nhân viên tạm thời và một phần khoản nợ tiền thuê nhà; hai tháng thì dọn luôn mấy khoản nợ đang gay go… ba tháng, xóa sạch một phần lớn trong chỗ thâm hụt tài khoản… bốn tháng…
Nhưng John Bristow đang vừa nói vừa đi ra cửa, tay vò nát cái bì thư mà Strike từ chối không nhận.
“Tôi muốn anh làm vụ này phần vì Charlie, nhưng tôi cũng có biết chút ít về anh, tôi đâu có phải là thằng ngu hoàn toàn. Cục điều tra đặc biệt, quân cảnh, đúng không? Từng được huy chương nọ kia. Ngoài ra, tôi không thể khen gì cái chỗ này được.” Bristow gần như gào lên, và Strike nhận ra những giọng phụ nữ nói chuyện ở phòng ngoài cũng im bặt, “nhưng tôi đã sai, và anh thì không cần việc. Được rồi! Quên mẹ nó đi. Tôi chắc tôi sẽ tìm được người khác làm. Xin lỗi đã làm phiền anh!”
4
Cuộc trò chuyện của hai người đàn ông truyền qua tấm vách mỏng, mỗi lúc một rõ; và giờ đây, khi máy khoan bên đường tự dưng im bặt, giọng Bristow lại càng rõ mồn một.
Vừa để tự giải khuây, và vì vẫn còn khá hưng phấn, Robin cố đóng tròn vai thư ký của Strike, không để lộ cho bạn gái của Bristow biết là cô mới làm ở đây có nửa tiếng đồng hồ. Cô giả bộ lờ đi những tiếng la hét. Tự dưng cô muốn đứng về phe Bristow, mặc dù vẫn chưa rõ nguyên nhân vụ cãi cọ. Công việc và con mắt tím bầm của Strike cũng có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng thái độ của hắn thật tồi tệ, thêm nữa ngực trái của cô vẫn còn đau.
Bạn gái của Bristow nhìn chằm chằm vào cánh cửa đóng kể từ lúc giọng nói của hai người đàn ông trở nên to hơn tiếng máy khoan vọng vào. Alison đậm người, da ngăm, tóc úp bồng bềnh và hàng chân mày rậm gần như dính liền nhau nếu không tỉa tót, mặt mũi lúc nào cũng càu cạu như giận ai. Robin để ý thấy rằng bồ bịch thường ngang nhau về mức độ hấp dẫn hình thức, mặc dù thường là nếu có nhiều tiền thì người ta có thể kiếm được người yêu trội hơn mình. Tự nhiên Robin thấy mến ông Bristow, cứ từ quần áo và tên công ty mà suy thì ông ta hoàn toàn có thểm tìm được một cô bạn gái xinh hơn, nhưng lại đi chọn cô này. Robin nghĩ ắt hắn Alison phải là người dịu dàng tốt tính, khắc hẳn với vẻ ngoài.
“Cô có muốn dùng cà phê không cô Alison?” Robin hỏi.
Alison đưa mắt nhìn quanh, như thể ngạc nhiên vì có người vừa lên tiếng, có lẽ vì đã quên mất Robin đang ngồi đó.
“Không, cảm ơn,” Alison trả lời, giọng trầm mà ngân nga khác thường. “Tôi biết là ông ấy sẽ lại đau khổ,” cô ta nói tiếp, giọng nói có một sự thỏa mãn kỳ quái. “Tôi đã cố gắng khuyên thôi bỏ đi, nhưng ông ta chẳng thèm nghe. Có vẻ như cái tay thám tử này sẽ từ chối. Thế là tốt.”
Vẻ ngạc nhiên của Robin không qua khỏi mắt của Alison, cô ta tiếp tục nói, thoáng vẻ mất kiên nhẫn:
“Sẽ tốt hơn cho John nếu ông ấy chấp nhận sự thật. Cô ta tự tử. Cả gia đình đều đã chấp nhận điều đó rồi. Tôi không hiểu tại sao John lại không thể làm được.”
Robin chẳng còn lý do gì để tiếp tục giả vờ không hiểu. Ai cũng biết vụ Lula Landry. Robin còn nhớ rõ hôm nghe tin cô người mẫu nhảy lầu trong một đêm tháng Giêng nhiệt độ dưới không, lúc đó Robin đang đứng cạnh bồn rửa chén trong bếp nhà bố mẹ. Tin tức được phát ra từ radio, nghe xong Robin thốt lên một tiếng ngạc nhiên, rồi chạy ra khỏi bếp trong bộ áo ngủ để kể ngay với Matthew, đợt đó cả hai về nhà bố mẹ Robin dịp cuối tuần. Làm sao mà cái chết của một người không hề quen biết lại có thể ảnh hưởng tới mình như vậy? Robin từng rất ngưỡng mộ vẻ đẹp của Lula Landry. Cô vốn không thích làn da quá trắng của mình, trong khi đó Lula có làn da nâu bóng, khung xương hoàn hảo, đẹp sắc sảo.
“Vụ cô Landry cũng chưa lâu lắm nhỉ.”
“Ba tháng,” Alison nói, tay giũ tờ báo Daily Express. “Tay thám tử này có được việc không?”
Robin đã kịp thấy rõ thái độ khinh khỉnh của Alison khi nhìn quanh văn phòng cũ nát, đặc biệt là phòng chờ chật chội, lôi thôi không thể chối cãi. Cô cũng đã thấy trên mạng trụ sở hoành tráng, tinh tươm như cung điện nơi Alison làm việc. Cô trả lời, phần nhiều vì tự ái chứ cũng chẳng phải vì muốn bênh vực Strike.
“À vâng,” Robin bình tĩnh nói. “Ông này thuộc loại lão luyện nhất đó.”
Nói xong cô rạch một cái phong bì màu hồng, in toàn hình mèo con, làm bộ như đang giải quyết một sự vụ ly kỳ phức tạp mà Alison không thể hiểu được.
Trong lúc đó, Strike và Bristow mặt đối mặt trong căn phòng kế bên, một người tức tối, người kia thì loay hoay tìm cách đổi ý sao cho đỡ xấu hổ nhất.
“Strike, tất cả những gì tôi muốn,” Bristow nói, giọng khàn khàn, mặt vẫn đỏ gay, là công lý.”
Cứ như thể Bristow vừa gõ một tiếng vào một thanh chỉnh âm vô hình; hai từ cuối cùng vang khắp văn phòng tồi tàn; để lại một dư âm van vỉ trong lồng ngực Strike. Lần này Bristow đã đánh gục Strike, cứ như thể tìm được ngọn đèn chong cuối cùng mà Strike cố giữ lấy sau khi mọi thứ khác đã biến thành tro. Đúng là Strike đang cần tiền kinh khủng, nhưng Bristow vừa cho hắn thêm một lý do nữa, tốt đẹp hơn để quên luôn mớ lương tâm còm cõi của mình.
“OK. Tôi hiểu. Tôi hiểu ý anh rồi, John. Mời anh quay lại ngồi xuống nói chuyện. Nếu anh vẫn còn muốn tôi giúp, tôi sẵn lòng làm.”
Bristow vẫn nhìn trừng trừng. Trong văn phòng không có tiếng động nào, từ xa vọng lại tiếng la lối của mấy người công nhân làm đường bên dưới.
“Anh có muốn… à, chị nhà… vào nói chuyện luôn không?”
“Không,” Bristow đáp lời, vẫn còn căng thẳng, tay vẫn giữ lấy nắm đấm cửa. “Alison nghĩ tôi không nên làm việc này. Tôi cũng không biết tại sao cô ta muốn đi cùng tôi hôm nay. Chắc là chờ xem anh từ chối tôi.”
“Mời anh ngồi. Giờ ta nói lại cho có đầu có đuôi nhé.”
Bristow hơi do dự, rồi quay lại, ngồi xuống ghế.
Strike không thể kìm được nữa, với tay lấy một cái bánh quy sô-cô-la cho hết vào miệng. Hắn rút ra một cuốn sổ ghi chép mới từ ngăn kéo, với tay lấy cái viết và kịp nuốt hết miếng bánh trong thời gian Bristow quay lại chỗ ngồi.
“Tôi giữ cái này nhé?” Hắn đề nghị, chỉ tay về phía cái phong bì mà Bristow vẫn đang cầm khư khư.
Ông luật sư dè dặt đưa phong bì cho Strike, cứ như thể vẫn chưa tin lắm. Strike không muốn xem ngay nội dung ở trong trước mặt Bristow, hắn vỗ lên đó một cái rồi đặt qua một bên, ra vẻ cho Bristow thấy rằng nó đã trở thành tài liệu điều tra giá trị. Xong, Strike cầm viết sẵn sàng chờ đợi.
“John, giờ anh hãy kể lại ngắn gọn sự việc hôm rm gái của anh mất. Sẽ rất có ích cho điều tra.”
Vốn là một người kỹ tính và làm việc có phương pháp, Strike còn từng được đào tạo nghiệp vụ cao cấp. Đầu tiên, phải để cho nhân chứng kể lại câu chuyện bằng cách của riêng họ; những lời kể lể lan man thường để lộ ra nhiều chi tiết, mới coi qua có vẻ vụn vặt nhưng có thể trở thành những mẩu bằng chứng vô cùng quan trọng sau này. Sau khi đã ghi nhận được hết những ấn tượng và các hồi tưởng đầu tiên, điều tra viên mới được bắt đầu khai thác và sắp đặt các sự kiện sao cho chặt chẽ và chính xác: con người, nơi chốn, tài sản…
“Ôi,” Bristow thốt lên, vừa mới tức giận sôi sục, nhưng khi bắt đầu được hỏi thì ông ta có vẻ do dự, không biết phải nói gì, “Tôi không… để xem…”
“Lần cuối cùng anh gặp cô ấy là lúc nào?” Strike hỏi.
“Chắc là… buổi sáng trước khi nó mất. Chúng tôi… có cãi nhau, sự thật là vậy nhưng ơn trời là sau đó có làm hòa.”
“Khoảng mấy giờ?”
“Sớm. Trước chín giờ, tôi đang trên đường tới sở làm. Chắc khoảng chín giờ kém mười lăm?”
“Hai người cãi nhau chuyện gì?”
“À, là chuyện bạn trai của nó, Evan Duffield. Chúng nó vừa quay lại với nhau. Gia đình chúng tôi tưởng là đã xong hết rồi, chúng tôi còn đang rất mừng. Duffield rất tệ hại, một tên nghiện ngập, lúc nào cũng thích gây sự chú ý, phải nói là tệ nhất trong đám bạn của Lula.
“Giờ nghĩ lại tôi thấy mình hơi quá lời,… phải đến giờ tôi mới thấy được. Tôi lớn hơn Lula đến mười một tuổi. Lúc nào tôi cũng muốn bảo vệ nó, anh hiểu không. Có lẽ nhiều khi tôi hơi làm quá. Lúc nào nó cũng nói là tôi không hiểu.”
“Hiểu gì kia?”
“Ừm… bất kỳ chuyện gì. Nó có rất nhiều vấn đề. Chuyện làm con nuôi. Chuyện nó là người da đen trong một gia đình da trắng. Nó hay nói là tôi nói gì mà chẳng được… Tôi không biết nữa. Có lẽ nó đúng.”
Bristow hấp háy mắt lia lịa sau cặp kính. “Vụ cãi vã hôm đó thực ra là đã bắt đầu từ hôm trước trên điện thoại. Tôi không thể tin nổi là nó ngốc đến mức quay lại với tay Duffield. Vậy mà cả nhà đã thở phào nhẹ nhõm khi chúng chia tay… Anh biết đó, nó cũng từng có quá khứ nghiện ngập, giờ lại cặp kè với một thằng nghiện…” Bristow hít một hơi. “Nó không muốn nghe gì hết. Nó chưa bao giờ nghe ai. Nó giận tôi lắm. Tới nỗi nó dặn người bảo vệ dưới nhà đừng cho tôi lên gặp, nhưng… Wilson vẫn mở cửa cho tôi.”
Bẽ mặt thật, Strike nghĩ thầm, đến nỗi phải đi cậy cục bảo vệ.
“Đáng ra hôm đó tôi không đến,” Bristow nói tiếp, đau khổ, những vệt đỏ lại xuất hiện trên cổ ông ta, “nhưng tôi đang giữ hợp đồng với Somé, muốn đưa lại cho nó; nó có nhờ tôi xem lại trước khi ký… Nó thường không quan tâm tới những chuyện giấy tờ như vậy. Khi biết Wilson để tôi đi lên nhà, nó không bằng lòng tí nào, chúng tôi lại cãi nhau nhưng rồi cũng qua nhanh. Sau đó nó bình tĩnh lại.
“Tôi có nói là mẹ rất mong gặp nó. Lúc đó mẹ tôi vừa ra viện, anh thấy đó. Mẹ tôi nhập viện phẫu thuật cắt bỏ tử cung. Lula có nói là sẽ đi thăm mẹ, nhưng không chắc lắm. Nó nói còn bận nhiều việc.”
Bristow hít một hơi sâu; đầu gối bên phải lại bắt đầu nhấp nhổm, hai bàn tay xương xẩu liên tục xoa vào nhau.
“Tôi không muốn anh nghĩ xấu về nó. Ai cũng nghĩ nó là đứa ích kỷ, nhưng nó là con út trong gia đình, lại được nuông chiều, rồi chuyện bệnh tật, từ đó nó trở thành trung tâm chú ý, rồi sau đó nổi tiếng, bị vây quanh, đi đâu cũng có paparazzi bám theo. Cuộc sống của nó không bình thường.”
“Rõ là không bình thường” Strike đáp.
“Vậy là, tôi kể cho Lula nghe là mẹ ốm nặng, đau đớn ra sao, và nó bảo là sẽ đi thăm mẹ ngay. Rồi tôi đi về; có ghé qua văn phòng để lấy vài hồ sơ từ Alison. Hôm đó tôi làm việc ở nhà mẹ, để có người cho mẹ đỡ buồn. Sau đó tôi có gặp Lula khi nó đến thăm mẹ, khoảng giữa buổi sáng. Nó ngồi lại với mẹ một lúc, cho đến khi ông cậu tôi đến. Nó đi qua phòng làm việc để chào tôi. Trước khi về nó còn ôm tôi tạm biệt…”
Giọng Bristow bắt đầu vỡ ra, ông cúi nhìn xuống đùi.
“Anh dùng cà phê nữa không?” Strike mời. Bristow lắc đầu, vẫn cúi xuống. Strike bưng khay nước ra phòng ngoài, để Bristow có thời gian bình tĩnh lại.
Khi Strike ra phòng ngoài, bạn gái của Bristow ngước lên nhìn hắn, vẫn cau có. “Anh vẫn chưa xong à?” Cô ta hỏi.
“Chưa, như chị thấy đó,” Strike đáp, không hề mỉm cười. Cô ta liếc nhìn hắn khi hắn nói với Robin.
“Phiền cô lấy cho tôi một tách nữa, ừm…?”
Robin đứng dậy cầm lấy cái khay từ tay hắn, không nói gì cả.
“John phải quay lại văn phòng lúc mười giờ rưỡi.” Alison lên tiếng, lớn giọng một chút. “Tụi tôi chỉ ở đây được thêm mười phút nữa là tối đa.”
“Tôi nhớ rồi.” Strike trả lời lạnh nhạt, rồi quay vào phòng trong. Bristow đang ngồi như cầu nguyện, úp mặt lên hai bàn tay.
“Tôi xin lỗi,” Bristow lầm bầm, khi Strike vừa ngồi xuống. “Đến giờ tôi vẫn thấy nói chuyện này thật khó khăn.”
“Không sao cả,” Strike nói, tiếp tục cầm sổ ghi chép lên. “Vậy Lula có đến gặp mẹ anh? Lúc đó khoảng mấy giờ?”
“Chừng mười một giờ. Trong kết quả điều tra người ta có ghi lại hết, cả những việc nó làm sau đó. Nó ra xe và được chở tới một hiệu đồ nó rất thích, sau đó thì trở về căn hộ. Nó đã có hẹn trước với chuyên viên trang điểm tại nhà ngay buổi chiều hôm đó, rồi Ciara Porter bạn nó ghé qua. Chắc anh đã thấy Ciara Porter rồi, cũng là người mẫu như Lula vậy. Da trắng tóc vàng. Lula và Ciara từng chụp chung tấm ảnh thiên thần, chắc anh cũng biết: hai đứa không mặc gì cả, chỉ che người bằng túi xách và đeo cặp cánh. Sau khi Lula mất Somé dùng tấm ảnh này trong chiến dịch quảng cáo. Nhiều người thấy phản cảm vô cùng.
“Ciara và Lula ngồi với nhau cả buổi chiều hôm đó ở nhà Lula, sau đó cả hai đi ăn tối, gặp Duffield và vài người khác. Rồi cả đám đi đến hộp đêm Uzi và ở đó tới quá nửa đêm.”
“Duffield và Lula cãi nhau. Rất nhiều người chứng kiến. Duffield có động tay chân một chút, cố giữ Lula lại nhưng nó vùng ra, bỏ về một mình. Ai cũng tưởng chính Duffield giết em tôi, nhưng hắn có chứng cứ ngoại phạm rõ ràng.”
“Từ lời khai của tay bán ma túy, đúng không?” Strike hỏi, tay vẫn viết.
“Chính xác. Lula về tới căn hộ khoảng một giờ hai mươi sáng. Khi nó đi vào thì có bị chụp hình. Chắc hẳn anh còn nhớ những tấm hình đó. Báo nào cũng đăng.”
Strike vẫn còn nhớ rõ: trong tấm hình, người phụ nữ vốn được chụp hình nhiều nhất thế giới cúi đầu, vai khom, mắt khép và hai cánh tay tự ôm lấy người, quay mặt tránh đám phóng viên. Sau khi có kết luận tự tử, bức ảnh lại được gán thêm một ý nghĩa đao to búa lớn: người phụ nữ trẻ đẹp và giàu có, chỉ một giờ trước khi tự tử, vẫn còn cố gắng che giấu nỗi đau khổ của mình trước những ống kính mà cô từng chinh phục, những kẻ từng ngưỡng mộ cô.
“Đám săn ảnh có hay chực sẵn trước nhà Lula không?”
“Có, nhất là khi họ biết được nó vừa đi với Duffield về, hay khi muốn chụp hình nó say xỉn lê lết về nhà. Nhưng đêm đó thì tụi nó không chỉ đợi mỗi Lula mà còn chờ cả Deeby Macc – tay ca sĩ rap người Mỹ cũng mới dọn về tòa nhà đó. Hãng đĩa của tay này đã thuê căn hộ ngay dưới căn của Lula. Khi xảy ra sự việc thì Deeby Macc không muốn ở đó nữa, cảnh sát có mặt khắp tòa nhà nên anh ta chuyển đến khách sạn cho tiện. Đám thợ săn ảnh bám theo Lula từ hộp đêm Uzi nhập hội chung với đám đang đợi Macc ngoài cửa. Sau khi Lula đi vào trong thì tụi nó tản dần đi. Nghe đâu là vì có tin vài tiếng nữa Macc mới về tới nơi.
“Đêm hôm đó trời lạnh tê tái. Tuyết rơi. Nhiệt độ dưới không. Nên khi con bé ngã xuống, trên đường không có ai cả.”
Bristow chớp mắt, uống một ngụm cà phê đã nguội, còn Strike chợt nghĩ về đám paparazzi vừa đi khỏi hiện trường ngay trước khi Lula Landry rơi xuống từ ban công. Thử tưởng tượng, lúc đó tay nào mà vô tình nán lại, chụp được cảnh ấy thì ắt hẳn đã giàu to, khỏi cần làm ăn gì nữa.
“John này, bạn gái của anh có dặn là anh phải đi đâu đó lúc mười giờ rưỡi.”
“Hả?”
Bristow có vẻ đã bình tĩnh hẳn. Ông ta nhìn chiếc đồng hồ đắt tiền rồi há hốc.
“Trời đất, tôi không biết mình đã ngồi đây lâu vậy. Giờ… giờ sao hả anh?” Bristow hỏi, trông hơi hoảng loạn. “Anh sẽ đọc ghi chép của tôi chứ?”
“Vâng, đương nhiên rồi,” Strike quả quyết, “và tôi sẽ gọi cho anh vài ngày tới, sau khi làm mấy việc sơ bộ. Lúc đó tôi sẽ hỏi anh nhiều hơn.”
“Được rồi” Bristow nói, lạng quạng đứng dậy. “Đây là danh thiếp của tôi. Anh muốn tôi trả phí kiểu gì?”
“Nếu được anh tạm ứng cho một tháng trước.” Strike đáp. Hắn cố nén hết sự ngượng ngùng, chợt nhớ ra Bristow đòi trả gấp đôi, hắn liền đọc một con số cao ngất ngưởng. Strike mở cờ trong bụng khi thấy Bristow không mặc cả gì hết, cũng không hỏi Strike có nhận thanh toán bằng thẻ hay hứa sẽ mang tiền đến sau, mà ngay lập tức rút ra một cuốn séc và một cây viết.
“Nếu tiện, phiền anh thanh toán một phần tư số đó bằng tiền mặt,” Strike bồi thêm, thử vận may và lại một lần nữa choáng váng khi Bristow đáp, “Tôi cũng nghĩ có khi anh muốn vậy…” và đếm ngay một xấp tờ năm mươi bảng, thêm vào tấm séc.
Họ vừa ra đến phòng ngoài thì Robin bước vào, trên tay là tách cà phê mới của Strike. Khi cửa vừa mở, bạn gái của Bristow đứng dậy, gấp tờ báo lại, ra vẻ đã phải chờ đợi lâu. Cô ta cao gần bằng Bristow, người to lớn, mặt mày cáu kỉnh, hai bàn tay to như đàn ông.
“Vậy là anh nhận lời rồi hả?” Cô ta hỏi Strike. Hắn có cảm giác cô ta đang nghĩ hắn lợi dụng anh bạn trai giàu có này. Rất có thể cô ta đúng.
“Vâng, John đã đồng ý thuê tôi,” Hắn đáp.
“Được rồi,” Cô ta đáp, bất cần. “Anh hài lòng rồi chứ, John?”
Ông luật sư mỉm cười, cô ả thở dài và vỗ lên cánh tay của Bristow, có vẻ chịu đựng nhưng mệt mỏi, y như mẹ dỗ con. John Bristow đưa tay chào Strike, rồi bước theo cô kia ra khỏi phòng, tiếng bước chân của họ nhỏ dần về phía cầu thang.
5
Strike quay lại nhìn Robin, lúc này đang ngồi trước máy tính. Tách cà phê của hắn đặt bên cạnh chồng thư từ đã được sắp xếp gọn gàng trên bàn.
“Cảm ơn cô,” hắn nói, nhấp một ngụm cà phê. “Cho hỏi thêm chút. Tại sao cô làm nhân viên tạm thời?”
“Ý anh là sao?” Robin hỏi, đầy nghi ngờ.
“Cô viết đúng chính tả, biết chấm phẩy. Cô phản ứng nhanh. Cô lanh lợi, mấy cái tách và khay nước ở đâu ra vậy? Còn cả cà phê và bánh quy nữa?”
“Tôi mượn của ông Crowdy. Tôi có nói tới trưa sẽ đem trả hết.”
“Ông nào kia?”
“Ông Crowdy, ở tầng dưới. Thiết kế đồ họa.”
“Hắn cho cô mượn không như vậy?”
“Vâng,” Robin trả lời, hơi tự ái. “Tôi nghĩ mời khách uống cà phê thì mình phải có cà phê.”
Cách cô dùng từ “mình” nhẹ nhàng, như muốn động viên tinh thần làm việc của Strike.
“Trước giờ Giải pháp Tạm thời chưa có ai giỏi như cô, tôi nói thật lòng. Xin lỗi tôi cứ gọi cô là Sandra; đó là tên của người trước đây. Cô tên gì?”
“Robin.”
“Robin”, hắn lặp lại. “Tên vậy thì dễ nhớ quá.”
Strike vừa định đùa một chút, có ý bóng gió đến Người dơi và phụ tá Robin nhưng chưa kịp mở miệng thì chợt nhận ra Robin đang đỏ bừng mặt[1]. Đã quá muộn, mấy lời nói có vẻ vô tội của hắn giờ trở nên thật kỳ cục. Robin quay ghế nhìn vào màn hình máy tính, Strike chỉ còn thấy cạnh gò má cô đang đỏ gay. Trong một giây bối rồi, căn phòng như bị thu nhỏ lại, tưởng chỉ còn bằng cái buồng điện thoại công cộng.
[1. Robin trong tiếng Anh là tên của một loài chim có ức đỏ - ở đây câu nói của Strike khiến Robin nghĩ tới vụ va chạm lúc nãy, khi Strike túm lấy ngực của Robin - ND]
“Tôi đi ra ngoài một chút,” Strike nói, đặt tách cà phê còn y nguyên xuống và đi ngang như cua về phía cửa, tay với lấy áo khoác. “Nếu ai có gọi…”
“Anh Strike… trước khi anh đi ra tôi nghĩ anh nên xem cái này.”
Mặt vẫn còn đỏ, Robin rút ra từ trên chồng thư đã mở bên cạnh máy tính một tờ giấy màu hồng chói và một cái bì thư cùng màu, cả hai đều đã được Robin cho vào bì nhựa trong suốt. Strike để ý thấy chiếc nhẫn đính hôn khi cô đưa tay lên.
“Có người dọa giết anh.” Cô nói.
“À, ờ,” Strike đáp. “Cô đừng lo. Cứ mỗi tuần lại có một cái như vậy.”
“Nhưng…”
“Đó là một thân chủ cũ không hài lòng. Hơi khùng. Ông ta nghĩ dùng giấy màu đó sẽ đánh lạc hướng tôi.”
“Được thôi, dù vậy anh cũng phải đi báo cảnh sát chứ?”
“Để họ cười cho à?”
“Chẳng có gì tức cười, đây là thư dọa giết!” Robin đáp, và Strike nhận ra vì sao cô ta lại bỏ lá thư cùng với phong bì của nó vào bì nhựa riêng. Hắn thấy hơi cảm động.
“Cô cứ xếp chung với mấy cái trước,” hắn nói, chỉ tay về phía tủ hồ sơ trong góc. “Nếu ông ta muốn giết tôi thì đã giết rồi. Trong đó cô sẽ thấy ông ta gởi thư như vậy đã được chừng sáu tháng. Cô ở đây một mình ổn chứ, khi tôi đi ra ngoài!”
“Tôi sẽ chịu được,” Robin trả lời. Strike thấy hơi buồn cười vì trong giọng Robin có chút gì chua ngoa, cộng thêm sự thất vọng rõ rệt khi thấy hắn không hề có ý định lấy dấu vân tay trên lá thư màu hồng in hình mèo con chi chít.
“Nếu cô cần gì thì cứ gọi theo số di động của tôi trên danh thiếp, ở trong ngăn kéo đầu tiên.”
“Được rồi.” Robin đáp, không nhìn Strike lẫn ngăn kéo.
“Nếu cô muốn ra ngoài ăn trưa thì cứ tự nhiên. Chìa khóa dự phòng ở đâu đó trong ngăn bàn.”
“OK.”
“Hẹn gặp lại.”
Strike dừng lại ngay bên ngoài cửa gương trước lối vào toilet chật chội. Bụng hắn sôi lên, nhưng hắn cảm thấy tác phong làm việc của Robin, cũng như cách cô quan tâm tới sự an toàn của hắn đều cần phải được ghi nhận. Quyết định ra quán ngồi rồi hẵng tính tiếp, hắn đi xuống cầu thang.
Ra tới đường, Strike đốt một điếu thuốc, rẽ trái và đi ngang qua quán Bar Café số 12 vẫn còn đóng cửa, ngược lên lối hẹp của Ngõ Denmark, rồi băng qua trước tiệm bán đàn sặc sỡ tường dán đầy quảng cáo, xa dần tiếng máy khoan ầm ầm không ngừng nghỉ. Vòng vèo quanh đám gạch đá và rác rưởi ngay trước Centre Point, hắn bước qua bức tượng Freddie Mercury vàng chóe trước cửa nhà hát Dominion bên kia đường. Freddie Mercury đứng cúi đầu, một nắm tay giơ lên trong không khí, trông như vị tà thần giữa tất cả sự hỗn loạn chung quanh.
Mặt tiền hoa mỹ kiểu thời Victoria của quán Tottenham hiện ra ngay sau đám gạch đá và công trường xây dựng. Strike đi tới, thấy dễ chịu khi nhớ tới cục tiền trong túi. Hắn đẩy mấy lớp cửa, bước vào một không gian kiểu Victoria trầm mặc với những chi tiết nội thất uốn lượn bằng gỗ sẫm màu và đồng thau bóng loáng. Vách ngăn kính mờ, băng ghế bọc da thuộc đã lên nước, gương soi mạ vàng, tượng thiên thần và sừng dê trang trí trong quán gợi lên một thế giới ngăn nắp, đáng tin cậy, trái ngược hẳn với đường sá bị đào xới bên ngoài. Strike gọi một vại Doom Bar và đem ra phía sau quán bia đang vắng vẻ. Hắn đặt cái ly xuống một cái bàn tròn cao, ngay dưới vòm kính lòe loẹt trên trần nhà, và đi thẳng vào nhà vệ sinh nam khai nồng nặc.
Mười phút sau, khi thấy dễ chịu hơn nhiều, Strike đã uống hết một phần ba ly bia, men bia làm hắn tê người, trong khi vẫn rã rời. Loại bia xứ Cornwall này làm hắn nghĩ tới gia đình, sự yên ổn và bình an mà hắn đã đánh mất từ lâu. Đối diện Strike là một bức tranh khổ lớn lờ mờ vẽ một thiếu phụ thời Victoria đang nhảy múa, tay cầm hoa hồng. Cô gái trong tranh bẽn lẽn nô đùa, nhìn về phía Strike qua một lớp cánh hoa tung bay, bộ ngực tràn trề lấp ló dưới lớp áo màu trắng. Trông cô khác xa với một người phụ nữ thật, cũng như cái bàn hắn đang ngồi hay người đàn ông béo phì tóc đuôi ngựa đang đứng bơm bia sau quầy bar.
Strike lại miên man suy nghĩ về Charlotte. Charlotte là người thật không thể chối cãi; xinh đẹp, dữ dội như một con cáo cái bị dồn vào đường cùng, thông minh, đôi lúc rất hài hước, và theo lời ông bạn già nhất của Strike, là “điên từ trong xương.” Liệu lần này mọi thứ đã chấm dứt, thực sự chấm dứt hay chưa? Co mình mệt mỏi, Strike nhớ lại những hình ảnh tối qua và sáng nay. Cuối cùng Charlotte đã làm điều mà Strike không thể tha thứ được, và chắc hắn sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn khi liều thuốc tê tạm thời này hết tác dụng: nhưng trước mắt hắn vẫn phải đối mặt với vài chuyện thực tế. Mới hôm qua hắn còn đang ở chỗ Charlotte; một căn nhà nhỏ, sành điệu và đắt tiền ở Đại lộ Holland Park. Điều đó cũng có nghĩa là, kể từ hai giờ sáng hôm nay, hắn đã trở thành kẻ vô gia cư tự nguyện.
(“Bluey, dọn vô với em đi. Anh biết vậy là hợp lý mà. Như vậy anh có thể tiết kiệm thêm tiền trong khi gây dựng công việc, và em có thể chăm sóc anh. Anh không nên ở một mình khi vẫn còn đang hồi phục. Đừng ngớ ngẩn thế Bluey…
Không còn ai gọi hắn là Bluey nữa. Bluey đã chết.)
Đây là lần đầu tiên trong mối quan hệ dài lâu và rắc rối này hắn lại là người bỏ đi trước. Ba lần trước đều do Charlotte đòi chia tay. Dường như cả hai luôn hiểu rằng, nếu hắn bỏ đi, nếu hắn đã thấy đủ rồi, cuộc chia tay sẽ hoàn toàn khác so với tất cả những lần Charlotte đòi cắt đứt, lần nào cũng đau khổ và lộn xộn nhưng không hề dứt khoát.
Charlotte sẽ không dừng tay với hắn, cho đến khi trả thù đến hả dạ. Như cảnh sáng nay, lúc cô ta tìm ra hắn trong văn phòng cũng chỉ là màn khởi đầu cho những gì sắp xảy ra trong những tháng, thậm chí là năm tới. Hắn chưa thấy ai lại mê trả thù đến vậy.
Strike đi cà nhắc tới quầy bar, gọi thêm một vại bia nữa và trở về bàn, tiếp tục ủ rũ suy tư. Chia tay với Charlotte đã đưa hắn tới chỗ bần cùng. Hắn nợ nhiều quá, đến nỗi nếu không có John Bristow giờ đây hắn đã phải xách túi ngủ ra đường. Thực tế là nếu Gillespie đòi trả lại món nợ mà hắn đã vay để đặt cọc văn phòng thì Strike sẽ không còn đường nào khác ngoài màn trời chiếu đất.
(“Chào anh Strike, tôi gọi xem mọi chuyện thế nào, vì tháng này tiền trả góp vẫn chưa thấy đâu… Anh sẽ trả trong mấy ngày tới chứ?”)
Và cuối cùng (bởi vì hắn đã bắt đầu mổ xẻ sự thất bại của cuộc đời mình thì sao không làm luôn cả thể?) là dạo nay hắn phệ ra gần cả chục kí lô, hắn không chỉ thấy mình béo ị và yếu sức, mà còn cảm thấy áp lực tăng lên trên phần chân giả đang đặt dưới bàn. Strike phải đi cà nhắc vì trọng lượng tăng thêm làm mỏm chân cụt bị trầy xước. Cuộc đi bộ xuyên qua London sáng sớm nay với cái túi nặng trên vai càng làm chân hắn đau hơn. Nhưng biết được cảnh cơ hàn đang đợi mình phía trước, Strike đã quyết định chọn cách đi rẻ tiền nhất.
Hắn đến quầy gọi vại thứ ba. Trở lại bàn dưới vòm kính, hắn rút điện thoại ra gọi cho một người bạn ở Sở Cảnh sát London, mặc dù hắn mới quen vài năm nhưng đã trở thành thân thiết trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt.
Cũng như Charlotte là người duy nhất gọi hắn là “Bluey”. Sĩ quan điều tra Richard Anstis là người duy nhất gọi Strike là “Mystic Bob”. Anstis rống lên khi nghe tiếng hắn trên điện thoại.
“Có việc nhờ mày đây,” Strike nói với Anstis.
“Nói luôn đi.”
“Ai làm vụ Lula Landry?”
Anstis vừa tìm số điện thoại vừa hỏi chuyện công việc, cái chân phải và vị hôn thê của Strike. Strike trả lời, nói dối về cả ba.
“Tốt lắm,” Anstis nói vui vẻ. “OK đây là số của Wardle. Tay đó cũng được, hơi tự cao, nhưng còn được hơn cha Carver; cha đó tệ lắm. Tao sẽ nói trước với Wardle. Tao sẽ điện ngay luôn nếu mày muốn.”
Strike lấy một tờ rơi quảng cáo du lịch ở kệ gỗ trên tường và ghi lại số điện thoại của Wardle ngay giữa hình mấy con ngựa Hoàng gia.
“Khi nào mày tới chơi?” Anstis hỏi. “Đem cả Charlotte nhé.”
“Ừ, hay đó. Tao sẽ điện sau, giờ bận lắm.”
Sau khi cúp máy, Strike ngồi suy tư thêm một lúc lâu, rồi gọi thêm một người quen lớn hơn Anstis nhiều tuổi và trong một giới hoàn toàn ngược lại.
“Nhờ ông anh một chuyện.” Strike nói. “Đang cần ít thông tin.”
“Việc gì?”
“Tùy ông anh. Thằng em cần chút gì để trao đổi với cớm.”
Cuộc trò chuyện kéo dài khoảng hai mươi lăm phút, có nhiều lúc cả hai đều im lặng, những khoảng ngừng càng về sau càng dài và căng thẳng hơn, cho đến khi Strike có được mẩu thông tin tạm coi là địa chỉ và hai cái tên, hắn chép lại ngay giữa hình mấy con ngựa, và thêm một lời cảnh báo mà hắn không ghi lại nhưng nhớ rất kỹ. Hai bên chấm dứt khá vui vẻ, lúc này Strike vừa ngáp vừa điện cho Wardle. Wardle cầm máy ngay, giọng to và cụt ngủn.
“Wardle.”
“Vâng chào anh. Tôi là Cormoran Strike và….”
“Anh là ai chứ?”
“Cormoran Strike,” Strike nói “tên tôi”.
“Ờ ờ” Wardle đáp. “Anstis mới gọi. Anh là tay thám tử tư? Anstis nói anh muốn hỏi về vụ Lula Landry?”
“Đúng rồi.” Strike nói tiếp, cố không ngáp, mắt nhìn vào mấy tấm ván trần, trên có vẽ tranh cảnh chè chén say sưa, nhìn kỹ thì hóa ra là tiệc thần tiên trong vở Giấc mộng đêm hè, trong tranh có một người đàn ông đầu lừa. “Tôi muốn lấy hồ sơ vụ đó.”
Wardle cười phá lên.
“Anh mới cứu mạng tôi hả?”
“Có mấy thông tin anh quan tâm. Tôi nghĩ biết đâu anh muốn trao đổi chút.”
Im lặng một lúc.
“Tôi đoán chắc anh không muốn trao đổi qua điện thoại?”
“Hẳn rồi,” Strike đáp. “Hôm nào hết giờ đi làm một vại ở đâu đó được không?”
Sau khi ghi lại tên quán bia gần Scotland Yard[2] và đồng ý gặp đúng một tuần sau (nếu không sớm hơn được), Strike cúp máy.
[2. Trụ sở cảnh sát London]
Trước đây Strike rất khác. Hai năm trước hắn vẫn có oai với nhân chứng và nghi can; giống như Wardle vậy, một người luôn bận rộn hơn người khác và có quyền chọn cuộc phỏng vấn diễn ra lúc nào, ở đâu và bao lâu. Cũng như Wardle, hắn không cần mặc đồng phục và lúc nào cũng toát ra vẻ công chức và uy quyền. Giờ đây, hắn là một thằng cà nhắc mặc áo nhăn nhúm, đổi chác với người quen cũ, xuống nước làm ăn với mấy tên cớm mà trước đây còn mừng rúm mỗi khi hắn gọi điện.
“Đồ khốn,” Strike nói to, vọng vào ly bia. Ly bia thứ ba hết veo nhanh chóng, chỉ còn một chút xíu dưới đáy.
Điện thoại đổ chuông; số văn phòng hiện lên trên màn hình. Chắc là Robin gọi nói chuyện Peter Gillespie đòi tiền. Hắn không trả lời, Robin để lại lời nhắn. Hắn uống cạn ly rồi đi ra.
Đường phố sáng sủa và lạnh lẽo, vỉa hè ẩm ướt, những vũng nước ánh lên mỗi khi mặt trời ló ra khỏi mây. Strike đốt tiếp một điếu thuốc nữa ngay ngoài cửa quán Tottenham, vừa hút vừa nhìn đám công nhân sửa đường di chuyển quanh cái hố. Hút xong, hắn lững thững về phố Oxford giết thời giờ, chờ cho đến khi Giải pháp Tạm thời đi về để hắn trở lại văn phòng ngủ một giấc.
6
Robin đợi mười phút, cho tới khi chắc là Strike đã đi hẳn rồi mới lấy điện thoại di động gọi loanh quanh. Các bạn của Robin khi nghe tin cô mới đính hôn thì hoặc hét lên phấn khích hoặc tỏ vẻ ganh tị, cả hai phản ứng đều khiến Robin sung sướng như nhau. Đến giờ ăn trưa, cô tự thưởng cho mình một tiếng giải lao, mua ba tạp chí chuyên để cho cô dâu và một gói bánh quy mới (thâm 42 xu vào chỗ tiền chi vặt đựng trong hộp thiếc), rồi trở về văn phòng một mình. Trong bốn mươi phút hạnh phúc sau đó, Robin ngắm nghía các thể loại hoa cưới và áo cô dâu, vẫn còn sướng tê người.
Hết giờ nghỉ trưa tự đặt ta, Robin rửa đám tách chén và khay nước rồi đem trả lại cho Crowdy cùng với gói bánh quy mới mua. Để ý thấy cha này rất sốt sắng muốn giữ cô lại nói chuyện trong khi mắt đảo lia từ miệng tới ngực cô, cả tuần sau đó Robin cố tránh mặt.
Strike vẫn chưa về. Robin tự tìm thêm việc để làm, cô dọn các ngăn kéo, vứt ra những thứ mà cô đoán là những nhân viên trước đây để lại, hai mẩu sô-cô-la sữa bám bụi, một cái dũa móng tay đã mòn, nhiều mẩu giấy ghi số điện thoại và vẽ vời lăng nhăng. Thêm một hộp kẹp giấy bằng sắt kiểu cũ, Robin chưa thấy loại này bao giờ, khá nhiều sổ tay nhỏ màu xanh, mặc dù không in logo nhưng vẫn toát ra mùi công chức. Với kinh nghiệm từ nhiều văn phòng, Robin có cảm giác đám sổ kia bị thó từ kho của một cơ quan nhà nước nào đó.
Thỉnh thoảng điện thoại văn phòng đổ chuông. Sếp mới của Robin có rất nhiều tên. Một người gọi hỏi gặp “Oggy”[1]; một người khác thì đòi gặp “Thằng khỉ con”, rồi một giọng khô khan, dứt dạt gởi lời nhắn phiền “Ông Strike” gọi lại cho ông Peter Gillespie càng sớm càng tốt. Mỗi lần như vậy, Robin đều gọi vào máy di động của Strike, nhưng toàn vào thẳng hộp thư thoại. Vì thế cô để lại lời nhắn trên điện thoại, viết lại tên mỗi người gọi và số điện thoại trên một mẩu giấy Post-it rồi mang vào phòng của Strike dán gọn gàng trên bàn.
[1. Tiếng lóng chỉ bánh nhân thịt xứ Cornwall - ND]
Máy khoan bên ngoài vẫn ầm ầm. Khoảng hai giờ chiều, trần nhà kêu răng rắc vì người ở tầng trên bắt đầu đi qua đi lại; nếu không Robin cứ tưởng chỉ có mỗi mình cô trong cả tòa nhà. Ở một mình, cộng thêm cảm giác sung sướng tưởng như muốn vỡ lồng ngực mỗi khi nhìn thấy chiếc nhẫn trên bàn tay, Robin trở nên bạo dạn. Cô bắt đầu dọn dẹp văn phòng nhỏ xíu, giờ đây chỉ có mỗi cô trông giữ.
Mặc dù mọi thứ trông có vẻ cũ kỹ dơ bẩn, Robin nhanh chóng phát hiện ra chúng được sắp xếp có tổ chức rạch ròi, hợp với tính cách ngăn nắp gọn gàng của cô. Những tập hồ sơ bìa giấy nâu (thật là cổ điển vì bây giờ người ta toàn dùng bìa nhựa màu) được xếp ngay ngắn trên kệ đằng sau bàn của Robin theo thứ tự thời gian. Mỗi hồ sơ được đánh số thứ tự viết tay ở gáy. Cô mở một hồ sơ ra và thấy mấy cái kẹp giấy kiểu cũ được dùng để đính giấy tờ vào tập hồ sơ. Nội dung bên trong viết theo một kiểu riêng, khó hiểu. Có lẽ cảnh sát toàn viết như vậy; biết đâu Strike từng là cảnh sát.
Robin tìm ra xấp thư dọa giết màu hồng mà Strike nhắc đến ở ngăn kéo giữa của tủ đựng hồ sơ, bên cạnh là một tập cam kết giữ bí mật. Robin rút ra một tờ cam kết và đọc: bản cam kết đơn giản, quy định rằng người ký tên không nhắc đến những tên tuổi hay thông tin trong hồ sơ của khách hàng ngoài giờ làm việc. Robin nghĩ ngợi một lúc, rồi ký và ghi ngày. Cô mang nó vào bên trong phòng làm việc của Strike, đặt lên bàn để Strike có thể ký vào phần còn lại. Sự thề thốt đơn phương này khiến cô lại thấy công việc có gì đó bí hiểm, thậm chí là hấp dẫn như cô đã hình dung khi đứng ngoài cửa gương, trước khi nó mở tung ra và Strike suýt chút nữa thì xô cô xuống cầu thang.
Sau khi đặt tờ cam kết lên bàn Strike, Robin nhìn thấy túi thể thao bị nhét trong góc, ngay sau tủ đựng hồ sơ. Chỗ dây kéo túi hở ra để lộ một góc áo đã bẩn, một cái đồng hồ báo thức và túi đựng xà phòng. Robin đóng ngay cửa phòng Strike lại, như thể vừa vô tình thấy chuyện riêng tư đáng xấu hổ của người khác. Cô nghĩ tới người đẹp tóc đen chạy ra khỏi tòa nhà lúc sáng, những vết thương đủ kiểu của Strike và cách anh ta đuổi theo cô nàng, có chút chần chừ ban đầu nhưng vẫn khá quyết liệt. Trong tâm trạng vui sướng của một người vừa đính hôn, Robin thấy thương hại những người không có may mắn trong tình cảm – một sự thương hại đi kèm với nỗi hân hoan khó tả khi cô nghĩ tới viễn cảnh thiên đường của riêng mình.
Năm giờ chiều, ông sếp tạm vẫn chưa về, Robin quyết định đã đến giờ nghỉ. Cô vừa khẽ ngân nga vừa điền vào phiếu ngày công, rồi hát to thành tiếng khi mặc áo khoác. Cô khóa cửa, bỏ chìa khóa dự phòng vào hộp thư và cẩn trọng bước về phía cầu thang sắt, về nhà với Matthew.
7
Đến đầu giờ chiều, Strike đến tòa nhà Hội sinh viên Đại học London. Bước đi dứt khoát qua quầy lễ tân, giả vờ đang cau có, Strike tranh thủ dùng được phòng tắm mà không bị ai hỏi han hay đòi xuất trình thẻ sinh viên. Sau đó hắn vào căn-tin ăn bánh mì tròn hơi thiu kẹp thịt nguội và một thỏi sô-cô-la. Rồi hắn tiếp tục đi lang thang, mắt lờ đờ vì mệt mỏi, thỉnh thoảng dừng lại hút thuốc, rồi tạt vào hàng quán mua mấy thứ thiết yếu cho cuộc sống tạm bợ sắp tới bằng tiền Bristow mới đưa. Đầu chiều tối hắn ngồi thu lu trong một quán ăn Ý, sau lưng là mấy hộp đồ vừa mua chồng lên nhau ngay cạnh quầy bar. Hắn ngồi đó uống hết ly này tới ly khác cho tới lúc đã quên được một nửa lý do vì sao phải ngồi đó giết thời gian.
Strike về đến văn phòng lúc gần tám giờ tối. Đây cũng là thời điểm mà hắn thấy London đáng yêu nhất; vừa hết giờ làm việc, cửa sổ mấy quán bia bắt đầu lên đèn ấm cúng, như những viên đá trang sức cho thành phố. Đường phố sôi động hẳn, những tòa nhà cổ kính vốn sừng sững giờ trở nên dịu dàng dưới ánh đèn đường, có vẻ gì đó chở che. Strike có cảm giác mấy toà nhà đang thì thầm: Tụi tao thấy nhiều đứa như mày rồi khi hắn lê bước trên phố Oxford, tay ôm một cái giường xếp đóng thùng. Bảy triệu rưỡi trái tim cùng đập một lúc trong thành phố cổ kính mà sôi động này, trong đó sẽ có nhiều trái tim còn đau đớn hơn tim hắn hiện giờ. Bước chân rã rời qua những hàng quán đang đóng cửa, trên đầu là bầu trời đang chuyển màu xanh tím, cảm giác lọt thỏm vô hình giữa không gian rộng lớn bao quanh, Strike tự dưng cũng thấy khuây khỏa phần nào.
Phải cố sức Strike mới tha được cái giường xếp leo cầu thang lên tầng hai, vừa đến cửa văn phòng thì chân phải đau đớn không chịu được. Hắn đứng dựa vào tường một lúc, trọng tâm cơ thể đổ dồn về hết phía chân trái, thở hổn hển vào cửa gương, thấy hơi thở mờ mờ bám trên mặt kính.
“Đồ mập khốn nạn.” Hắn tự rủa. “Chó chết.”
Lau mồ hôi trên trán, hắn mở khóa cửa và đẩy đám đồ đạc mới mua vào trong. Trong phòng làm việc, hắn đẩy bàn qua một bên rồi bật cái giường ra, giũ túi ngủ được cuộn tròn và lấy nước từ bồn rửa mặt đổ đầy vào ấm đun siêu tốc.
Tối nay hắn lại ăn mì ly, sở dĩ hắn chọn món này vì nó gợi nhớ đến những thứ hắn thường mang theo trong túi thức ăn ngày trước: cứ như có mối liên hệ chặt chẽ nào đó giữa những món ăn đồ khô dễ nấu và nơi ở tạm bợ, khiến hắn với tay lấy ngay mấy ly mì. Khi nước đã sôi, hắn đổ vào ly mì, ăn bằng cái nĩa nhựa lấy từ căn-tin trường Đại học hồi chiều. Hắn ngồi trên ghế, nhìn xuống đường sá vắng tanh, nghe tiếng xe rồ máy trong ánh chiều chập choạng ở cuối đường và tiếng bass thình thịch vọng lên từ quán Bar Café số 12 ở tầng trệt.
Hắn từng ngủ ở những nơi tệ hơn thế này nhiều. Sàn đá trong bãi đỗ xe nhiều tầng ở Angola, nhà máy kim loại bị đánh bom nơi bọn hắn phải dựng lều ở tạm và mỗi buổi sáng lại ho ra bụi đen. Tệ hơn nữa là phòng ngủ tập thể nhớp nháp trong hợp tác xã ở Norfolk mà ba mẹ con hắn dọn đến ở, khi đó hắn lên tám còn đứa em gái cùng mẹ khác cha mới sáu tuổi. Hắn cũng nhớ cả những cái giường bệnh viện không hề êm ái mà hắn nằm trong nhiều tháng, những ngôi nhà hoang (lại đi cùng với mẹ), và những cánh rừng lạnh tê tái nơi hắn tập trận. Mặc dù cái giường xếp rất thô sơ, không chút gì mời gọi dưới ngọn đèn trần trụi, nó vẫn thoải mái hơn rất nhiều so với mấy chỗ hắn vừa nghĩ đến.
Chuyện đi mua đồ thiết yếu, dựng trại ngay trong văn phòng khiến Strike lại thấy mình là một người lính, sẵn sàng làm việc phải làm, không thắc mắc hay càm ràm gì cả. Hắn vứt ly mì đã ăn xong, bật đèn lên và ngồi xuống ghế của Robin.
Hắn lập bộ hồ sơ mới – bìa kẹp hồ sơ, giấy trắng, một cái kẹp giấy; cuốn sổ ghi lại cuộc phỏng vấn Bristow; tờ rơi quảng cáo từ quán Tottenham; danh thiếp của Bristow. Trong lúc làm, hắn để ý thấy các ngăn kép sạch sẽ gọn gàng hơn, màn hình máy tính không còn bám bụi, mấy cái tách cà phê và đám rác rưởi cũng biến mất, thoang thoảng có mùi nước hoa xịt phòng Pledge. Hơi tò mò, hắn mở hộp thiếc đựng tiền chi vặt. Trong đó có mẩu giấy viết tay, chữ viết tròn trịa của Robin ghi lại hắn nợ cô ta bốn mươi hai xu tiền bánh quy sô cô la. Strike lấy bốn mươi bảng trong ví ra (vẫn tiền của Bristow) và bỏ vào hộp; rồi nghĩ sao đó, hắn đếm thêm bốn mươi hai xu lẻ đặt lên trên.
Sau đó hắn lấy một cây viết bi trong đống viết đã được Robin xếp lại ngay ngắn ở ngăn kéo đầu tiên. Hắn bắt đầu viết, trôi chảy và nhanh chóng, đầu tiên là ghi ngày tháng. Hắn xé trang giấy ghi cuộc phỏng vấn với Bristow, đính kèm vào trong tập hồ sơ; ghi thêm những việc đã làm hôm nay, gồm cả điện thoại (nhưng hắn không ghi gì cả về cuộc gọi thứ hai với gã bạn đã cung cấp những cái tên và địa chỉ mà hắn sắp dùng để đổi chác với Wardle).
Làm xong, Strike đánh số thứ tự trên gáy tập hồ sơ, viết thêm vào đó một dòng Chết đột ngột. Lula Landry rồi đặt tập hồ sơ vào góc phải trên kệ.
Cuối cùng hắn mới mở phong bì Bristow đưa để xem những manh mối quan trọng mà cảnh sát đã bỏ qua, như ông ta nói. Chữ viết tay của ông luật sư gọn gàng và đủ nét, hơi ngả ra sau, dày đặc cả trang giấy. Đúng như lời Bristow, nội dung ghi chép chủ yếu là về hành động của một người được ông ta đặt tên là “Người bỏ chạy”.
Người bỏ chạy là một người đàn ông da đen, mang khăn quàng cổ che kín mặt, xuất hiện trên đoạn băng ghi hình từ camera đặt trên xe buýt đêm tuyến Islington về phía Tây London. Ông ta lên xe khoảng năm mươi phút trước khi Lula Landry chết. Sau đó ông ta lại tiếp tục xuất hiện trong băng ghi hình từ camera ở khu Mayfair, đi về hướng căn hộ của Landry lúc 1 giờ 39 phút sáng. Trên băng ông ta dừng lại để đọc một mẩu giấy (có lẽ là ghi địa chỉ hay chỉ đường? Bristow cẩn thận viết thêm) rồi đi ra khỏi tầm máy quay.
Băng ghi hình tiếp tục cho thấy Người bỏ chạy đang chạy thục mạng ngang qua camera lúc 2 giờ 12 phút sáng, rồi biến khỏi tầm máy quay. Có thể là một người da đen thứ hai – chắc đang canh chừng? Đang trộm xe thì bị phát hiện? Xe hơi ở góc đường có phát báo động. Bristow ghi chú ở đoạn này.
Cuối cùng là đoạn băng ghi hình một người da đen trông rất giống Người bỏ chạy đi dọc theo con đường gần Khu Gray’s Inn Square; cách hiện trường vài dặm ngay trong buổi sáng sau khi Landry chết. Mặt vẫn che kín, Bristow chú thích.
Strike dừng lại, dụi mắt rồi nheo lại đau đớn, sực nhớ ra chỗ bầm tím. Hắn đang ở trạng thái choáng váng không tỉnh táo báo hiệu cơ thể đã kiệt sức. Thở dài, rên hừ một tiếng, Strike tiếp tục đọc ghi chép của Bristow, bàn tay lông lá cầm sẵn một cây viết để đánh dấu.
Ở văn phòng luật in trên tấm danh thiếp sang trọng kia, ắt hẳn Bristow biết vận dụng luật pháp một cách khách quan và vô tư. Nhưng nội dung mớ ghi chép này càng củng cố suy nghĩ của Strike rằng ngoài đời, vị thân chủ của hắn có một nỗi ám ảnh mà chính ông ta cũng không giải thích được. Nguyên nhân có thể rất vô chừng, ông ta có lẽ luôn sợ mấy tay ông kẹ giang hồ, tội phạm da đen, hay là một điều gì đó sâu sắc, riêng tư hơn. Cho dù là gì đi nữa thì rất khó có chuyện cảnh sát không điều tra tới nơi tới chốn về Người bỏ chạy và tên đồng phạm (có lẽ đóng vai cảnh giới, có thể ăn trộm xe) và cảnh sát ắt hẳn có lý do chính đáng mới loại trừ hai tên này khỏi vòng nghi vấn.
Ngáp sái cả miệng, Strike lật tới trang thứ hai.
Lúc 1 giờ 45 phút sáng, Derrick Wilson, người bảo vệ trực hôm đó bị đau bụng nên phải chạy ngay vào nhà vệ sinh. Ông ta ngồi trong đó khoảng mười lăm phút. Do đó, mười lăm phút trước khi Lula chết, sảnh lễ tân của tòa nhà trống trơn, ai cũng có thể đi vào đi ra mà không bị phát hiện. Wilson chỉ ra khỏi nhà vệ sinh sau khi Lula rơi xuống, do nghe tiếng Tansy Bestigui la hét.
Khoảng thời gian này cũng là lúc vừa kịp cho Người bỏ chạy di chuyển đến khối căn hộ ở số 18 Kentigem Gardens, nếu xuất phát từ góc đường Alderbrook và Bellamy lúc 1 giờ 39' theo trên camera.
“Nhưng làm sao,” Strike thì thầm, bóp trán, “tên này có thể nhìn xuyên qua cửa trước tòa nhà để biết là bảo vệ không có ở đó mà đang ngồi cầu?”
Tôi đã nói chuyện với Derrick Wilson, ông ta sẵn sàng cho anh phỏng vấn.
Và tôi cá là anh có dúi tiền cho Wilson rồi luôn, Strike nghĩ, mắt nhìn số điện thoại của người bảo vệ dưới hàng chữ cuối cùng.
Strike đặt cây viết xuống bàn mà không ghi thêm gì, rồi kẹp ghi chép của Bristow vào hồ sơ. Rồi hắn tắt đèn, cà nhắc ra ngoài hành lang, tới phòng vệ sinh đi tè. Sau khi đánh răng trên cái bồn rửa mặt đã nứt nẻ, hắn khóa cửa gương lại, đặt đồng hồ báo thức và cởi đồ ngoài.
Trong ánh đèn đường từ ngoài cửa sổ, Strike tháo chân giả, xoa bóp chỗ cụt nhức nhối rồi cởi nốt lớp đệm mềm đã không còn tác dụng giảm đau. Hắn đặt chân giả ngay bên cạnh điện thoại đang sạc pin, lết người vào túi ngủ rồi gác tay sau đầu, nhìn lên tường. Giờ đây, đúng y như hắn lo lắng, sự rã rời của cơ thể vẫn không đủ làm đầu óc ngừng suy nghĩ. Vết thương cũ tái phát càng như tra tấn, dày vò hắn.
Không biết bây giờ cô ta đang làm gì?
Tối hôm qua, hắn còn sống trong một căn hộ đẹp đẽ, ở khu ngon lành nhất London, với người phụ nữ mà bất kỳ đàn ông nào trông thấy cũng phải ghen tị, thật như trong một thế giới khác.
“Tại sao anh không dọn vô ở với em? Trời ơi, Bluey, có gì đâu phải nghĩ? Tại sao không?”
Ngay từ đầu hắn đã biết đó là một sai lầm. Hai người từng thử ở chung trước đó, và mỗi lần thử mọi chuyện lại tệ hại hơn lần trước.
“Tụi mình đã đính hôn rồi, trời đất, tại sao anh không muốn sống chung với em?”
Cô ta nói ra những điều để chứng tỏ rằng sau khi hắn sém chết trận, cô ta đã thay đổi, hoàn toàn khác xưa, cũng như hắn giờ đây chỉ còn một cái chân rưỡi.
“Em không cần nhẫn nhiếc gì cả. Đừng có bày đặt, Bluey. Anh phải để dành tiền mà còn lo công việc.”
Hắn nhắm mắt lại. Không thể quay lại nữa, sau sáng nay. Cô ta từng nói dối quá nhiều lần về một chuyện vô cùng quan trọng. Nhưng hắn cứ nghĩ đi nghĩ lại, cứ như kiểm tra lại một phép tính đã làm xong, sợ mình mắc một lỗi cơ bản nào đó. Hắn thận trọng từ từ nghĩ lại chuyện Charlotte liên tục tính sai ngày tháng, thái độ khăng khăng không chịu đi gặp bác sĩ, rồi những cơn giận nảy lửa mỗi khi hắn hỏi thẳng. Đùng một cái cô ta tuyên bố “hết rồi”, mặc dù vẫn không đưa ra bằng chứng là trước đó “có gì” cả. Strike có khá nhiều kinh nghiệm đau thương từ thói chua ngoa của Charlotte, một người dường như luôn có nhu cầu khiêu khích, nhiếc móc và thử thách người khác.
“Anh đừng hòng giở trò điều tra với tôi. Anh đừng hòng đối xử với tôi như một tên thuộc cấp nghiện ngập của anh. Con này không phải là đối tượng điều tra của anh nhé, tôi cứ tưởng anh yêu tôi, vậy mà anh chẳng thèm tin lời tôi, thậm chí cả trong chuyện này…”
Nhưng những lời nói dối đã ăn sâu vào con người và cuộc sống của Charlotte. Chấp nhận yêu và sống với Charlotte cũng có nghĩa là dần dần ngập trong sự dối trá đó, luôn phải vừa đấu tranh với cô ta để có được sự thật vừa cố tỉnh táo trước thực tế. Tại sao, hắn, một kẻ từ nhỏ đã luôn có nhu cầu truy tìm sự thật, lúc nào cũng muốn biết chắc chắn, từ những việc nhỏ nhất, lại có thể yêu say đắm và dài lâu đến vậy một người phụ nữ có khả năng nói dối dễ dàng như người ta hít thở?
“Hết thật rồi.” Hắn tự nhủ. “Phải thế thôi.”
Nhưng hắn không muốn nói với Anstis, cũng không muốn nghĩ đến việc phải báo với ai khác, chưa đến lúc. Bạn của hắn ở khắp London sẽ mời hắn đến ở, họ sẵn lòng mở cửa phòng cho khách lẫn cửa tủ lạnh ra cho hắn, sẵn sàng an ủi và giúp đỡ hắn. Nhưng cái giá phải trả cho một cái giường êm ấm và những bữa cơm nhà là việc phải ngồi lại ở bàn ăn, sau khi bọn trẻ con tắm rửa sạch sẽ đã thay đồ đi ngủ, để kể đi kể lại ngày cuối cùng kinh hoàng với Charlotte, rồi để cho đám vợ và bạn gái của bạn hắn tha hồ thông cảm, tội nghiệp. So với cảnh đó, hắn thà ở một mình lạnh lẽo, ăn mì ly và ngủ trong túi ngủ thế này.
Hắn vẫn cảm thấy phần chân đã mất của mình dù chuyện đã cách nay hai năm rưỡi. Cái chân phải vô hình nằm trong túi ngủ; cứ như hắn có thể duỗi ngón chân cái tưởng tượng nếu muốn. Mệt như vậy nhưng mãi một lúc sau Strike mới ngủ được, và thậm chí khi hắn đã ngủ, Charlotte vẫn đi ra đi vào mỗi giấc mơ, quyến rũ, chửi rủa và ám hắn như ma.
Con Chim Khát Tổ Con Chim Khát Tổ - Robert Galbraith (J.k.rowling) Con Chim Khát Tổ