We have more possibilities available in each moment than we realize.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Khoa Học
Biên tập: Minh Nguyen
Upload bìa: Dinh Hoang Minh
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 14068 / 1315
Cập nhật: 2017-04-06 08:39:18 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Phụ Lục A: Vị Trí Các Nước Được Nói Đến Trong Cổ Học Tinh Hoa So Với Bản Đồ Trung Hoa Hiện Nay.
(Các thông tin trong phụ lục này được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/)
3
BĐ1: bản đồ Trung Hoa hiện nay
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Qu%E1%BB%91c)
Chu: hay Châu, là một nước chư hầu cổ thời Xuân Thu, kinh đô ở Cảo Kinh, nay là huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây.
Đằng: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc là huyện Đằng tỉnh Sơn Đông bây giờ. Hàn: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc. Lãnh thổ của nước Hàn trải rộng trong khu vực ngày nay là miền nam tỉnh Sơn Tây, miền bắc tỉnh Hà Nam. Phía tây giáp với Tần, phía bắc giáp Ngụy và Triệu, phía đông giáp Tề, phía nam giáp Sở. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Hồ: tức là Hung nô ở phía bắc nước Trung Hoa hay vào nhiễu loạn nước Trung Hoa. Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. Xin xem thêm nước Sở.
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Xin xem thêm nước Sở.
Kỷ: nước nhỏ thời Xuân Thu; thời kỳ đầu, nước Kỷ có kinh đô tại khu vực đất Kỷ, ngày nay là huyện Kỷ của tỉnh Hà Nam, sau đó di dời tới khu vực ngày nay là huyện Tân Thái trong tỉnh Sơn Đông, rồi lại dời tới Duyên Lăng, ngày nay là huyện Xương Lạc, tỉnh Sơn Đông và cuối cùng là tới Thuần Vu, ngày nay là huyện An Khâu, tỉnh Sơn Đông.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lãnh thổ của nó chủ yếu nằm ở phía nam núi Thái Sơn, ở khu vực trung tâm và miền tây nam của tỉnh Sơn Đông ngày nay cùng một phần các tỉnh An Huy, Hà Nam và Giang Tô bây giờ.
4
Lương: xin xem nước Ngụy.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu nằm ở khu vực cửa sông Dương Tử, phía đông nước Sở. Kinh đô của nước Ngô là Cô Tô Tô Châu ngày nay. Lãnh thổ nước Ngô tương đương với tỉnh Giang Tô ngày nay.
Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc; lãnh thổ của nước Ngụy bao gồm các khu vực ngày nay là bắc Hà Nam, nam Sơn Tây và phần lớn các tỉnh Hà Bắc, Thiểm Tây. Sau khi dời đô từ An Ấp (nay ở phía tây bắc huyện Hạ tỉnh Sơn Tây) tới Đại Lương (nay là Khai Phong) trong thời kỳ trị vì của Ngụy Huệ Thành vương (369 TCN-319 TCN), thì nước Ngụy còn được gọi là Lương. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Sở: một nước lớn thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, ở nơi hiện nay là phía nam Trung Quốc. Ban đầu nước này được gọi là Kinh và sau đó là Kinh Sở, cũng còn gọi là Kiểm. Ở thời hùng mạnh nhất, Sở chiếm nhiều vùng đất rộng lớn, gồm các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Trùng Khánh, Hà Nam, Thượng Hải, và nhiều vùng thuộc Giang Tô, Quý Châu ngày này. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Tấn: một nước mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ (Hà Bắc) bây giờ.
Tần: là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc, tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ. Tần là nước chư hầu mạnh nhất ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ trước khi nó tiêu diệt toàn bộ sáu nước chư hầu còn lại (Tề, Sở, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ) và thống nhất đất nước dưới quyền cai trị của Hoàng đế đầu tiên là Tần Thuỷ Hoàng, có nghĩa là Hoàng đế thứ nhất. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc. Suốt thời Xuân Thu và Chiến Quốc, nước Tề là một nước chư hầu mạnh do khả năng đương đầu với những kẻ thù lớn bên cạnh như Sở và Tần. Kinh đô nước này đóng tại Doanh Khâu (nay là trấn Lâm Truy của quận Lâm Truy, địa cấp thị Truy Bác, tỉnh Sơn Đông). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Thục: tức là Thục Quân ở vào vùng Thành Đô về đất Tứ Xuyên bây giờ.
Tiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận phía đông Nội Mông Cổ bây giờ. Người Tiên Ti sau này tản mát và bị đồng hóa hay hỗn huyết để trở thành người Hán, người Mông Cổ cùng các dân tộc khác tại phương bắc Trung Quốc
Tiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất, nay là huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông.
Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Xin xem thêm bản đồ BĐ4.
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất thuộc miền đông tỉnh Khai Phong (Hà Nam) và một phần tỉnh Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Triệu: một nước thời Chiến Quốc. Lãnh thổ của nước Triệu bao gồm các khu vực ngày nay thuộc Nội Mông Cổ, nam Hà Bắc, trung Sơn Tây và đông bắc Thiểm Tây. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Từ: tức quận Đông Hải thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay.
Vệ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào miền nam tỉnh Trực Lệ (Hà Bắc) và miền bắc tỉnh Hà Nam bây giờ.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ. (Không nên nhầm lẫn với nước Việt Nam).
Yên: một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc. Thời kỳ đầu Chiến Quốc, lãnh thổ của Yên tương ứng với miền trung và miền bắc các tỉnh thành phố ngày nay là Bắc Kinh và Hà Bắc, do vùng đất phong tại Yên sơn, vì thế mà nước này được gọi
5
là Yên. Kinh đô của nước Yên đặt tại Kế Thành (nay là khu vực trấn Lưu Ly Hà thuộc quận Phòng Sơn, Bắc Kinh). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Chú thích:
Chư hầu là một từ xuất phát từ chữ Hán, trong nghĩa hẹp của chữ Hán dùng từ thời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu) để chỉ vua chúa phong kiến cấp dưới bị phụ thuộc, phải phục tùng và được một vua chúa phong kiến lớn, mạnh hơn làm thiên tử thống trị tối cao và sắc phong cho các vua chúa thuộc các nước và xứ lân bang yếu hơn.
Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc.
Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần (Tần Thủy Hoàng), và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến. Dưới thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được cho là như vậy) vị vua nhà Chu.
Cần lưu ý rằng vua và hoàng đế không phải hoàn toàn như nhau. Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà vua và triều đình cai trị, trong trường hợp này là nhà Chu. Vị vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình. Thay vào đó, sự trung thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút. Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn tới một vị vua ít quyền lực và một tình thế hỗn loạn. Vì vậy, ông đã dựng lên một Trung Quốc với một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào lòng trung thành của các quận công địa phương.
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n_Thu)
Chiến Quốc: Thời đại kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. Thông thường nó được coi là giai đoạn thứ hai của nhà Đông Chu, tiếp sau giai đoạn Xuân Thu, dù chính nhà Chu đã kết thúc vào năm 256 TCN, 35 năm trước khi kết thúc giai đoạn Chiến Quốc. Tương tự như giai đoạn Xuân Thu, vị vua nhà Chu chỉ đơn giản là một vua bù nhìn. Tên gọi Chiến Quốc xuất phát từ cuốn Chiến Quốc sách được biên soạn đầu thời nhà Hán. Bộ Chiến Quốc sách này còn được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc. Điểm khởi đầu thời Chiến Quốc hiện vẫn còn tranh cãi. Trong khi thông thường mọi người sử dụng năm 475 TCN (tiếp sau thời Xuân Thu)
thì năm 403 TCN – năm mà nước Tấn bị chia thành ba – cũng thỉnh thoảng được coi là năm bắt đầu của thời kỳ này.
Thời Chiến Quốc, trái với thời Xuân Thu, là một giai đoạn mà các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá
6
trình này đã bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc gồm có Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ và Tần.
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c)
Bản đồ một số nước ở Trung Hoa trong một số thời kỳ
BĐ2: bản đồ thời Chiến Quốc năm 260 TCN
(Qin: Tần, Chu: Sở, Han: Hàn, Wei: Ngụy, Qi:Tề, Zhao: Triệu, Yan: Yên) (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c)
7
BĐ3: bản đồ Tam Quốc năm 262
(Đỏ: Ngụy, Vàng: Ngô, Xanh: Thục)
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_Qu%E1%BB%91c)
BĐ4: bản đồ nước Tống và các nước xung quanh, thế kỷ 12 (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A...c_T%E1%BB%91ng)
Cổ Học Tinh Hoa Cổ Học Tinh Hoa - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc Cổ Học Tinh Hoa