Nguyên tác: 傾城之戀 | Love In A Fallen City
Số lần đọc/download: 0 / 41
Cập nhật: 2020-10-24 12:43:08 +0700
Chương 1 - Chuyện Tình Giai Nhân
Đ
ể “tiết kiệm thời gian”, tất cả đồng hồ ở Thượng Hải đều được chỉnh nhanh hơn một tiếng, thế nhưng chỗ nhà họ Bạch lại bảo: “Đồng hồ nhà chúng tôi là loại đồng hồ cổ,” mười giờ của nhà họ là mười một giờ của nhà khác. Họ hát sai nhịp, không theo kịp khúc hồ cầm của cuộc sống.
Cây hồ cầm được kéo lên réo rắt, trong màn đêm muôn vạn ánh đèn, dây mã vĩ đưa đi đưa lại, câu chuyện thê lương không hồi kết - không hỏi đến âu cũng đành thôi!... Câu chuyện trên cây hồ cầm nên để cho cô ca nương kiều diễm diễn xướng mới phải, đôi gò má phấn hồng thon dài kẹp lấy chiếc mũi trắng như tuyết, nào hát, nào cười, nào ống tay áo che miệng... vậy mà ở đây chỉ có cậu Tư nhà họ Bạch ngồi một mình, kéo hồ cầm trên ban công tồi tàn, âm u.
Cậu Tư đang kéo đàn, chuông cửa dưới nhà chợt reo. Đây là một việc hi hữu ở nhà họ Bạch, theo quy định xưa nay, buổi tối tuyệt đối không được tiếp khách. Tối mà có khách đến, hoặc không dưng nhận được một cú điện báo, vậy ắt hẳn là việc khẩn cấp tày trời, chắc là có người chết.
Cậu Tư chăm chú lắng nghe, quả nhiên cậu Ba, mợ Ba, mợ Tư vừa bước lên nhà vừa nhặng xị, trong lúc vội vã không biết họ nói những gì. Trong căn buồng phía sau ban công, có cô Sáu, cô Bảy, cô Tám và bọn trẻ nhà cậu Ba, cậu Tư ngồi cả đấy, lúc này đều hơi hốt hoảng, cậu Tư ngồi ngoài ban công, từ trong bóng tối nhìn ra chỗ sáng, thấy hết sức rõ ràng, cửa vừa mở, cậu Ba mặc quần soóc áo may ô, giạng chân trước bậu cửa, vung tay ra phía sau, đập muỗi đen đét trên đùi, đứng từ xa gọi với về phía cậu Tư: “Chú Tư đoán xem làm sao? Thằng chồng cũ của cô Sáu, nghe bảo bị viêm phổi, chết rồi!” Cậu Tư đặt cây hồ cầm xuống đi vào trong nhà, hỏi: “Ai báo tin vậy?” Cậu Ba đáp: “Bà Từ!” Nói đoạn, cậu quay lại cầm cây quạt phẩy vào mợ Ba, nói: “Cô ở đây hóng chuyện làm gì, bà Từ còn ở dưới nhà kia kìa, bà ấy béo, ngại leo cầu thang, cô còn không xuống ngồi với bà ấy!” Mợ Ba đi rồi, cậu Tư bần thần nói: “Cái tay vừa chết ấy có phải họ hàng nhà bà Từ không nhỉ?” Cậu Ba đáp: “Thế mới nói. Nom bộ dạng, hẳn là do nhà bên kia cố nhờ bà Từ đến báo tin cho chúng ta, chắc chắn có dụng ý rồi.” Cậu Tư nói: “Chẳng lẽ họ muốn cô Sáu đến chịu tang?” Cậu Ba lấy cán quạt gãi gãi da đầu, đáp: “Theo lý, thì cũng nên...” Bọn họ cùng lúc nhìn cô Sáu một cái, Bạch Lưu Tô đang ngồi ở góc phòng, chậm rãi thêu một đôi dép vải. Vừa nãy cậu Ba, cậu Tư một hỏi một đáp, dường như không có chỗ cho cô lên tiếng, lúc này cô mới hờ hững nói: “Đã ly hôn rồi, giờ lại đi làm bà góa cho gã, để người ta cười rụng răng cho à!” Cô lại tiếp tục thêu dép như không có chuyện gì xảy ra, song trên đầu ngón tay lấm tấm mồ hôi lạnh, mũi kim rít lại, không thể nào rút ra được.
Cậu Ba nói: “Cô Sáu, không nói như thế được. Chú ấy năm xưa có lỗi với cô nhiều, chúng tôi biết cả. Nhưng giờ người ta đã chết rồi, chẳng lẽ cô vẫn để bụng sao? Hai cô vợ lẽ chú ấy bỏ lại, chắc cũng chẳng thủ tiết được đâu. Giờ cô cứ đường đường chính chính quay về chịu tang cho chú ấy, đứa nào dám cười? Tuy cô không sinh được mụn con nào, nhưng cháu chắt nhà người ta đầy cả ra, cô cứ tùy chọn lấy một đứa mang về làm con. Của nả tuy chẳng để lại gì, nhưng nhà chú ấy là danh gia vọng tộc, chắc chắn sẽ cắt cử cô trông giữ từ đường, mẹ con cô cũng chẳng chết đói được.” Bạch Lưu Tô cười nhạt đáp: “Anh Ba nghĩ cho em chu đáo thật đấy, nhưng tiếc là chậm một bước, ly hôn cũng đã bảy tám năm nay. Cứ theo cái cách anh nói, hóa ra mọi thủ tục pháp lý năm xưa đều là làm quấy quá thôi à? Chúng ta không đùa bỡn với pháp luật được đâu!” Cậu Ba đáp lại: “Cô đừng có hễ động một tí là lại lôi pháp luật ra dọa người ta, pháp luật ấy à, nay sửa đổi, mai sửa đổi, còn những điều tôi nói đều là lẽ trời, là tình người, là tam cương ngũ thường, thì không thay đổi được! Cô sống là người nhà người ta, chết đi làm ma nhà người ta, cây dẫu cao nghìn thước, nhưng lá vẫn phải rụng về cội...” Lưu Tô đứng dậy nói: “Mấy cái câu này, sao bảy tám năm trước anh không nói đi?” Cậu Ba đáp: “Tôi chỉ sợ cô cả nghĩ, cho rằng chúng tôi không muốn nhận cô về.” Lưu Tô nói: “Ủa? Giờ thì anh không sợ tôi cả nghĩ nữa chứ gì? Anh tiêu hết tiền của tôi rồi, nên không sợ tôi cả nghĩ nữa chứ gì?” Cậu Ba hỏi thẳng vào mặt Lưu Tô: “Tôi dùng tiền của cô? Được mấy đồng nào? Cô ở nhà chúng tôi, ăn cơm của chúng tôi, uống nước của chúng tôi, ngày xưa thì chẳng sao, thêm một người bất quá là thêm đôi đũa, nhưng giờ cô đi hỏi thử xem, giá gạo bao nhiêu đồng rồi? Tôi còn chưa nhắc đến tiền, mà cô lại nhắc đến trước cơ đấy!”
Mợ Tư đứng sau lưng cậu Ba, cười một tiếng nói: “Máu mủ ruột rà với nhau, lẽ ra không nên nhắc đến chuyện tiền nong. Nhưng mà đã nhắc đến tiền nong, thì là cả câu chuyện dài đấy! Tôi đã nói với anh Tư nhà này từ lâu rồi, tôi bảo: anh đi khuyên anh Ba đi, các anh buôn vàng, chơi cổ phiếu, thì đừng có dùng tiền của bà cô Sáu, dính vào rồi đâm lại xúi quẩy ra! Cô ta vừa được gả về nhà chồng, chồng liền trở thành thằng phá gia chi tử. Quay về nhà mẹ đẻ, rồi xem nhà mẹ đẻ cũng sẽ lụn bại cả thôi... thật đúng là sao Thái bạch sạch cửa nhà!” Cậu Ba tiếp lời: “Mợ Tư nói cũng có lý. Hồi xưa nếu không để cô ấy tham gia cổ phần, chắc chúng ta không đến nỗi lụn bại như thế này!”
Lưu Tô tức run bần bật, chống mặt đôi dép đang thêu dở vào cằm, cằm run lên như sắp rơi xuống. Cậu Ba lại nói: “Nhớ hồi xưa cô thút tha thút thít về nhà, làm ầm lên đòi ly hôn, có trách thì trách tôi là thằng đàn ông quá hào hiệp, thấy cô bị nó đánh ra nông nỗi ấy, thấy bất nhẫn, nên vỗ ngực đứng ra bảo: ‘Được! Cậu Ba họ Bạch tao tuy nghèo, nhưng trong nhà cũng không đến nỗi thiếu bát cơm cho em tao!’ Tôi biết cô chú là vợ chồng trẻ, ai không ngang bướng chứ? Cùng lắm là về nhà mẹ đẻ cỡ dăm ba năm, rồi thì chắc cũng hồi tâm chuyển ý. Tôi mà biết cô chú cắt đứt quan hệ thật, tôi lại ủng hộ cô ly hôn chắc! Chia cắt quan hệ vợ chồng nhà người khác, là việc làm dẫn đến tuyệt tử tuyệt tôn. Tôi đây đã có con trai, tôi còn trông mong chúng nó phụng dưỡng lúc về già nữa kia!” Lưu Tô tức đến tột độ, ngược lại buông giọng cười lớn: “Được! Được! Đều là lỗi của tôi, các người nghèo là do tôi ăn hại các vị. Các người lỗ vốn, là vì tôi rước vạ về cho các vị. Thằng con trai nhà các người có chết, cũng là do tôi hại, khiến các người tổn âm đức!” Mợ Tư vung tay tóm lấy cổ áo thằng con trai mình, dúi đầu nó vào Lưu Tô, quát: “Lại còn độc mồm độc miệng trù ẻo trẻ con nữa hả! Vì cái câu của mày, con trai tao mà chết, tao tìm mày hỏi tội nghe chưa hả!” Lưu Tô vội né người tránh, túm lấy cậu Tư nói: “Anh Tư xem, anh Tư xem... anh... anh nói một câu công bằng đi chứ!” Cậu Tư nói: “Cô chớ có sốt sắng, có gì cứ từ từ nói, chúng ta phải tính kế lâu dài. Anh Ba cũng vì suy tính cho cô đấy thôi...” Lưu Tô hờn dỗi hất tay ra, đi thẳng một mạch vào phòng.
Trong phòng không có đèn, chỉ thấy lờ mờ thấp thoáng trong bức màn, có mẹ cô đang nằm trên chiếc giường lớn bằng gỗ gụ, phe phẩy chiếc quạt tròn màu trắng. Lưu Tô đến trước giường, hai đầu gối mềm oặt, quỳ sụp xuống, phủ phục bên mép giường, khóc nấc lên gọi: “Mẹ!” Bà cụ Bạch tai vẫn còn thính, những lời bên phòng ngoài, bà đều nghe thấy cả. Bà ho một tiếng, thò tay sang bên gối rờ lấy chiếc ống nhổ, nhổ một bãi đờm, rồi mới nói: “Chị Tư là người lắm mồm, con đừng chấp làm gì. Con phải biết, ai cũng có cái khó của người ấy, chị Tư bản tính cứng rắn, xưa nay đều quản việc nhà, song anh Tư con lại kém cỏi, cờ bạc rượu chè trai gái đủ cả, cái việc chơi lắm rồi chuốc bệnh vào thân có thể bỏ qua, nhưng không nên rút tiền quỹ chung, báo hại chị Tư con mất hết thể diện, đành để chị Ba cáng đáng thay, trong lòng không nuốt trôi được cục giận ấy, đâm ra không thật sự thoải mái được. Chị Ba tinh thần lại không được tốt, phải duy trì cái nhà này thật chẳng dễ gì! Thôi thì về mọi mặt, con phải thông cảm cho anh chị con một chút đi vậy!” Lưu Tô nghe lời mẹ nói, rõ là muốn nói đỡ cho mấy đứa kia, cảm thấy chẳng có nghĩa lý gì, đành lặng thinh. Bà cụ xoay người vào trong, nói thêm: “Hai năm trước, gom góp chỗ này chỗ kia, bán một thửa ruộng đi, thì cũng đủ ăn trong hai năm. Nhưng thời buổi bây giờ khó khăn rồi. Mẹ đã cao tuổi, bảo đi là phủi tay đi ngay thôi, không lo được cho các con đâu. Trên đời này bữa tiệc nào cũng có lúc tàn, con theo mẹ, cũng không phải kế lâu dài. Quay về kia vẫn là đúng đắn. Nhận một đứa con rồi sống qua ngày, chịu khó độ mười mấy năm, thế nào cũng có ngày mở mày mở mặt.”
Đang nói thì rèm cửa rung rung, bà Bạch hỏi: “Ai đấy?” Mợ Tư thò đầu vào thưa: “Mẹ à! Bà Từ vẫn ở nhà dưới đấy, đang đợi bàn với mẹ về hôn sự của em Bảy.” Bà cụ Bạch nói: “Tôi dậy ngay đây, chị thắp đèn lên.” Đèn trong phòng đã thắp, mợ Tư đỡ bà ngồi dậy, hầu bà vận quần áo xuống khỏi giường. Bà Bạch hỏi: “Bà Từ tìm thấy người thích hợp rồi hử?” Mợ Tư đáp: “Nghe lời bà ấy nói thì rất được, có điều tuổi tác hơi già.” Bà cụ Bạch ho một tiếng nói: “Cái con Bảo Lạc, năm nay cũng đã hăm tư rồi, việc của nó tôi cứ canh cánh trong lòng mãi. Tôi sốt ruột cho nó, người ta lại còn bảo tôi: rắp tâm làm lỡ việc của nó vì nó không phải con đẻ!” Mợ Tư dìu bà cụ ra phòng ngoài, bà cụ nói: “Chị đem lá trà mới đằng kia ra, pha cho bà Từ một bát, trà trong cái hộp sắt tây màu lục là trà Long Tỉnh, năm ngoái bà cô cả mang đến, trà trong cái lon cao cao kia là trà Bích La Xuân, đừng có lấy nhầm đấy.” Mợ Tư vâng lời, gọi: “Người đâu! Bật đèn lên!” Chỉ nghe thấy tiếng bước chân vang lên, một toán con trẻ huỳnh huỵch chạy đến, giúp bác gái đưa bà xuống nhà dưới.
Mợ Tư một mình ở phòng ngoài lục tủ tìm lá trà cất riêng của bà, bỗng nhiên cười nói: “Ơ! Em Bảy! Em chui ra từ đâu thế hả, làm chị giật thót mình! Cứ bảo sao vừa nãy thoắt một cái đã không thấy tăm hơi đâu.” Bảo Lạc thỏ thẻ nói: “Em đứng ngoài sân thượng hóng mát.” Mợ Tư cười khằng khặc nói: “Chắc ngượng hả, chị bảo em này, bữa mai có về nhà chồng, việc gì cũng phải để tâm một chút, đừng có nằng nặc làm theo ý mình. Ly hôn có phải việc dễ dàng, muốn bỏ là bỏ luôn, bình thường nhẹ nhõm đâu! Nếu quả dễ như thế thật, anh Tư em là người chẳng ra gì, sao chị không bỏ quách đi! Chị cũng có nhà mẹ đẻ mà, đâu phải không có chỗ nào nương thân. Nhưng cái thời buổi này, chị không thể không nghĩ cho mọi người, chị vẫn còn chút lương tâm, chỉ cần biết có vậy, mà cũng không thể dựa dẫm vào người khác, ăn bám người ta được. Chị vẫn còn mấy phần liêm sỉ đấy!”
Bạch Lưu Tô lặng quỳ trước giường của mẹ cô, nghe những lời vừa rồi, liền ấn chặt đế dép thêu hoa trong tay vào ngực, một mũi kim đang mắc trên giày đâm vào tay mà cũng chẳng thấy đau. Cô lẩm bẩm: “Không thể tiếp tục ở đây nữa rồi! Không thể ở được nữa...” giọng u uất nhưng nhẹ bẫng, giống như chiếc đèn treo ám bụi chập chờn. Cô dường như đang nằm mơ, quanh đầu đâu đâu cũng treo đầy những bát đèn ám bụi, cô loạng choạng lao người về phía trước, chợt ngỡ đã gối đầu lên đầu gối mẹ, cô tức tưởi khóc òa: “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ phân xử cho con!” Mẹ cô thần mặt ra, cười khì khì mà không đáp tiếng. Cô ghì chặt lấy chân mẹ, ra sức lắc, khóc kêu: “Mẹ! Mẹ ơi!” Trong thoáng chốc quay lại chục năm về trước, hồi cô chỉ hơn mười tuổi, trên đường xem kịch về, trời mưa như trút nước, cô lạc mất người nhà. Cô đứng một mình trên vỉa hè, trơ mắt nhìn mọi người qua lại, mọi người cũng trơ mắt nhìn cô, cách lớp kính xe ướt đẫm nước mưa, cách vô số lớp kính vô hình - vô số những con người lạ mặt. Ai nấy đều bị nhốt trong thế giới nhỏ bé của họ, dẫu có đụng vỡ đầu cô cũng không thể chui vào được, dường như cô bị bóng đè. Bỗng nhiên nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân, đoán chừng là mẹ mình đang đến, cô bèn dốc sức định thần lại, làm thinh. Người mẹ mà cô đã van xin và người mẹ đích thực của cô vốn là hai con người khác biệt.
Người ấy bước tới trước giường ngồi xuống, cất giọng lên mới hay là bà Từ. Bà Từ khuyên nhủ: “Cô Sáu đừng buồn, đứng dậy đi, dậy đi, trời oi bức...” Lưu Tô chống tay vào thành giường gắng gượng đứng dậy, nói: “Thím, cháu... cháu không thể tiếp tục ở đây thêm được nữa. Cháu biết cái nhà này chán ghét cháu từ lâu rồi, chẳng qua chưa nói ra thôi. Hôm nay thì nói xơi xơi như vỗ vào mặt nhau rồi, cháu cũng chẳng còn mặt mũi nào nấn ná ở lại đây thêm nữa!” Bà Từ kéo cô cùng ngồi xuống bên mép giường, nói thầm thì: “Cháu cũng thật thà quá, chẳng trách người ta hiếp đáp, mấy ông anh đầu tư buôn bán thế nào lại dùng nhẵn cả tiền của cô em! Kể cả phải nuôi em cả đời, cũng là điều nên làm thôi.” Lưu Tô chẳng dễ gì nghe được mấy lời công bằng này, tạm chẳng hỏi bà Từ xem bà ấy thật lòng hay giả vờ nghĩ vậy, từ đáy lòng cô rạo rực, nước mắt như mưa, cô nói: “Ai bảo cháu lú lẫn thế cơ chứ! Chỉ vì mấy đồng bạc, khổ thân cháu muốn đi cũng không xong.” Bà Từ nói: “Còn trẻ còn khỏe, sợ gì không còn đường sống hả cháu.” Lưu Tô đáp: “Còn đường sống, thì cháu đã bỏ đi từ lâu rồi! Đằng này cháu chưa từng đi học, người lại yếu xìu, tay khó xách nách khó mang, thím bảo cháu làm được việc gì cơ chứ?” Bà Từ trả lời: “Tìm việc là cái cớ thôi, tìm người mới là thật.” Lưu Tô đáp: “Như thế e là không được, đời cháu coi như chấm dứt từ lâu rồi.” Bà Từ nói: “Câu này, chỉ có người có tiền, không buồn ăn, chẳng buồn mặc, mới có tư cách nói. Không có tiền, muốn chấm dứt cũng không chấm dứt được đâu! Cho dù cháu có xuống tóc làm ni cô, có hóa duyên đi nữa thì vẫn là trần duyên thôi, không tách rời khỏi con người được!” Lưu Tô cúi đầu nín lặng. Bà Từ nói tiếp: “Việc này của cháu, nhờ thím từ hai năm trước chắc đỡ hơn một chút.” Lưu Tô mỉm cười nói: “Chắc thế thím ạ, cháu giờ đã hăm tám rồi!” Bà Từ nói: “Với nhan sắc đẹp như vầy của cháu, hăm tám cũng có là gì, thím sẽ lưu tâm giúp cháu. Mà nói vậy thím lại càng phải trách cháu đấy, ly hôn bảy tám năm rồi, cháu cũng phải có ý định sơm sớm đi một tí, cứ cao chạy xa bay có phải đỡ chuốc bực vào người không!” Lưu Tô đáp: “Thím ơi, thím có phải không biết đâu, gia đình mình thế này, làm gì có chuyện bằng lòng cho cháu ra ngoài giao du với ai? Thôi thì trông cậy vào người trong nhà vậy, nhưng cũng đừng nói là họ không tán thành, dẫu có tán thành đi nữa, thì dưới cháu còn có hai cô em chưa lấy chồng, mấy đứa con gái nhà anh Ba, anh Tư cũng dần phổng phao lên rồi, thu vén cho bọn ấy còn trở tay không kịp nữa là! Thời gian đâu để tâm đến chuyện của cháu đây?”
Bà Từ cười nói: “Nhắc đến chuyện em gái cháu, thím còn đang đợi người ta trả lời đây!” Lưu Tô nói: “Chuyện của em Bảy, có hy vọng gì không thím?” Bà Từ đáp: “Nói cũng có phần rõ ràng rồi. Vừa nãy thím có ý bảo mấy cô tự bàn với nhau, thím bảo thím lên đây thăm cô Sáu rồi xuống ngay; giờ thì phải xuống rồi. Cháu tiễn thím xuống dưới nhà được không?” Lưu Tô đành phải dìu bà Từ xuống gian chính, cầu thang cũ kỹ, bà Từ lại béo, thành thử cứ kêu răng rắc liên hồi. Bước vào gian chính, Lưu Tô định bật đèn lên, bà Từ nói: “Không cần đâu, vẫn nhìn rõ. Họ ngồi trong phòng mé Đông ấy mà. Cháu cứ theo thím, mọi người cười nói vui vẻ cả, sự việc cũng đã qua rồi, bằng không, mai đến bữa cơm thế nào chẳng phải gặp mặt nhau, lúc ấy có mà ngồi ngây ra.” Lưu Tô không thể nghe lọt tai được hai từ “ăn cơm”, trong lòng xót xa, đành gồng cổ lên, cười gượng nói: “Cảm ơn thím... nhưng lúc này người cháu hơi khó chịu, thực sự không thể gặp ai được, chỉ e sẽ hồn xiêu phách lạc, nói năng linh tinh rồi lại gây họa, phụ mất tấm lòng của thím.” Bà Từ thấy Lưu Tô nhất định không chịu gặp mọi người, cũng đành thôi, bèn đẩy cửa vào một mình.
Cửa khép lại, gian chính trở nên tối tăm, hai mảng sáng đèn vàng chiếu qua ô kính phía trên cửa, rơi xuống mặt gạch màu xanh. Dưới thứ ánh sáng mông lung, có thể nhìn thấy trong căn phòng từng dãy hòm sách, tráp gỗ tử đàn có khắc chữ bằng mực xanh được xếp men theo tường từ cao xuống thấp. Ở chính giữa chiếc án cổ, bên trong lồng kính, có đặt một chiếc đồng hồ pháp lam đổ chuông theo giờ, đã dừng chạy nhiều năm vì máy móc bị hỏng từ lâu. Hai bên có đôi câu đối đỏ rực rủ xuống, lấp lánh ánh vàng thếp hoa viền quanh chữ Thọ, mỗi bông hoa đỡ lấy một chữ đại tự nét mực đen thẫm. Dưới ánh sáng yếu ớt, từng chữ từng chữ đều như lơ lửng trong không trung, cách mặt giấy một quãng rất xa. Lưu Tô cảm thấy bản thân mình chính là một con chữ trong đôi câu đối, hư ảo, nhẹ bẫng, chơi vơi. Bạch công quán có một điểm giống như động phủ thần tiên, đó là: ở đây thong thả đi qua một ngày, thì trần thế ngoài kia đã trôi qua cả nghìn năm. Nhưng nơi đây trải qua một nghìn năm, thì đại để chẳng khác gì một ngày, bởi mỗi ngày đều đơn điệu và nhàm chán giống nhau. Lưu Tô đan hai cánh tay lại, ôm lấy cổ mình. Bảy tám năm đã vụt trôi chỉ trong nháy mắt. Cô còn trẻ không? Đâu quan trọng gì, hai năm nữa thôi cô sẽ già, chỗ này tuổi thanh xuân nào có hiếm gì. Họ có đầy tuổi thanh xuân, trẻ con hết đứa này đến đứa khác được sinh ra. Đôi mắt long lanh mới, cái miệng đỏ xinh mới, trí tuệ mới. Cứ mài mòn năm này qua năm khác, đôi mắt cùn đi, con người cùn đi, lớp người sau lại được sinh ra. Lớp người này bị hút vào trong bối cảnh sơn son thếp vàng rực rỡ, một chút xíu sắc vàng nhạt trong đó chính là ánh mắt khiếp sợ của người xưa.
Lưu Tô đột nhiên kêu lên một tiếng, bịt chặt mắt lại, loạng choạng leo lên cầu thang, leo lên cầu thang... lên tới tầng trên, về phòng riêng của mình, cô bật đèn, lao đến trước gương thay áo, ngắm nghía lại mình một hồi. Còn may, cô vẫn chưa già. Người có vóc dáng thon nhỏ trông thường không già, mãi mãi là cái eo thon gầy, là bờ ngực chớm nhú như thời con gái. Khuôn mặt cô, trước đây trắng như sứ, giờ thì từ sứ hóa thành ngọc, thứ ngọc xanh nhạt mờ đục. Cằm cô khi trước tròn trịa, mấy năm gần đây nhọn dần, khuôn mặt lại càng nhỏ, nhỏ đến đáng yêu. Khuôn mặt cô vốn hơi hẹp, nhưng khoảng cách giữa hai lông mày thì rất rộng. Một đôi mắt trong, mọng nước, điệu đà. Trên sân thượng, cậu Tư lại kéo hồ cầm, vẫn là điệu nhạc khi trầm khi bổng, Lưu Tô bất giác nghiêng đầu, hơi đánh mắt, làm mấy động tác múa may. Cùng với màn biểu diễn trước gương của cô, điệu hồ cầm nghe bỗng chẳng giống hồ cầm nữa, mà tựa như vũ khúc trong cung đình được hòa tấu trầm buồn bởi sênh, tiêu, cầm, sắt. Cô bước sang trái mấy bước, rồi bước sang phải mấy bước, mỗi bước đi dường như đều khớp với tiết tấu của điệu nhạc cổ xưa mà nay đã thất truyền ấy. Cô bỗng bật cười, một nụ cười âm trầm, chẳng có ý tốt gì, tiếng nhạc liền im bặt. Điệu hồ cầm ngoài kia lại tiếp tục ngân lên, nhưng câu chuyện mà nó đang kể lại là những chuyện trung hiếu tiết nghĩa xa vời, chẳng liên quan gì đến cô hết.
Lúc này, một mình cậu Tư lánh ở đó kéo hồ cầm, nhưng là bởi bản thân cậu biết rằng trong cuộc họp gia đình ở dưới nhà không có chỗ cho cậu phát ngôn. Sau lúc bà Từ ra về, nhà họ Bạch phải ngồi nghiên cứu, phân tích đề nghị của bà ta. Bà Từ định làm mối cho Bảo Lạc với một người họ Phạm, người này gần đây có qua lại tương đối mật thiết với ông Từ trong công việc khai thác quặng, bà Từ xưa nay rất am tường về gia thế của anh này, cho rằng những điều bà nắm được tuyệt đối đáng tin cậy. Bố của anh chàng Phạm Liễu Nguyên kia là một Hoa kiều có tiếng, ông có nhiều sản nghiệp rải ở các nước Srilanka, Malaysia... Phạm Liễu Nguyên năm nay ba mươi hai tuổi, song thân đã mất. Nhà họ Bạch chất vấn bà Từ, sao một chàng rể đạt tiêu chuẩn như vậy mà đến giờ vẫn độc thân, bà Từ bảo rằng hồi Phạm Liễu Nguyên từ Anh quốc trở về, vô số bà mặt dày mày dạn, đem cả con gái đến nhà, một mực đưa đẩy cho cậu ta, bà nào bà nấy đều rắp tâm ganh đua, thi nhau thể hiện, cũng đình đám một thời gian. Nhưng tung hô cậu ta như vậy, đâm lại khiến cậu ta cao ngạo, từ giờ cứ coi đàn bà con gái như rơm như rác dưới chân. Do hoàn cảnh đặc biệt thời thơ ấu, tính khí cậu ta cũng hơi quái dị. Bố mẹ đến với nhau cũng không phải chính thức gì, một lần ông bố xuất dương đi khảo sát, có quen với một cô đầm Hoa kiều nổi tiếng ở Luân Đôn, hai người đã bí mật kết hôn. Bà vợ lớn ở dưới quê cũng nghe được một chút phong thanh. Vì sợ bà lớn trả thù, cô vợ hai từ đầu chí cuối không dám về nước, thế rồi Liễu Nguyên sinh ra và lớn lên ở Anh. Sau khi ông bố qua đời, tuy bà vợ cả chỉ có hai mụn con gái, nhưng Phạm Liễu Nguyên muốn xác nhận thân phận của anh ta trên phương diện pháp lý cũng chẳng phải chuyện dễ dàng. Anh chàng một thân một mình lưu lạc ở Anh quốc, sau một phen lao khổ, mới nhận được quyền thừa kế. Đến giờ, người nhà họ Phạm vẫn giữ một thái độ thù hằn đối với anh ta, vì vậy anh này chủ yếu sống ở Thượng Hải, chẳng mấy khi quay về quê cũ Quảng Châu. Lúc tuổi còn nhỏ anh chàng bị một vài cú sốc, dần dần cứ đi theo con đường lãng tử, ăn chơi phè phỡn, làm đủ mọi trò, duy chẳng để tâm gì đến hạnh phúc lứa đôi. Mợ Tư liền nói: “Người như vậy chắc là kén cá chọn canh lắm đấy. Cô Bảy nhà mình là con của dòng thứ, chỉ e người ta không để mắt. Bỏ qua hôn sự tốt như vầy thì thật là tiếc quá!” Cậu Ba nói: “Thì thằng ấy cũng là con dòng thứ còn gì.” Mợ Tư nói tiếp: “Nhưng người ta ghê gớm lắm, chứ cứ ngây ngây ngô ngô như cái Bảy nhà mình, có mơ mà giữ nổi? Có khi đứa con gái lớn của tôi lại nhanh nhẹn hơn, chớ coi thường nó, người nhỏ nhưng tâm không nhỏ đâu, rất biết đến đại thể là đằng khác!” Mợ Ba nói: “Thế thì hình như tuổi tác chênh lệch nhau quá nhỉ!” Mợ Tư đáp: “Ối giời! Chị không biết đấy thôi, càng là loại người như thế, lại càng thích những cô trẻ trung ấy chứ. Đứa lớn mà chẳng được, vẫn còn đứa thứ hai cơ mà!” Mợ Ba cười nói: “Đứa thứ hai nhà cô nhỏ hơn anh ta những hai mươi tuổi cơ đấy!” Mợ Tư khẽ kéo mợ Ba một cái, đoạn nghiêm mặt nói: “Chị Ba này, chị đừng có hồ đồ như thế! Chị đỡ cho cái Bảy, nó là gì của nhà họ Bạch cơ chứ? Anh em cách nhau một lớp dạ con, còn xa khướt. Đã gả đi rồi thì đừng ai mong hưởng được lợi lộc gì từ nó! Tôi đây đều là nghĩ cho mọi người thôi!” Thế nhưng bà Bạch vẫn một lòng một dạ sợ họ hàng bàn ra tán vào, bảo bà ngược đãi cô Bảy vốn đã mồ côi mẹ, nên quyết định giữ nguyên kế hoạch ban đầu, bà Từ sẽ chọn ngày lành tháng tốt mời khách đến, giới thiệu Bảo Lạc cho Phạm Liễu Nguyên.
Bà Từ làm một công đôi việc, cùng lúc lại tìm cho Lưu Tô một anh họ Khương, làm ở Hải quan, vợ mới mất, để lại năm đứa con, anh này cũng muốn mau tục huyền, bà Từ thì dự định thu xếp việc của Bảo Lạc xong, sẽ tác hợp cho Lưu Tô, bởi Phạm Liễu Nguyên chẳng bao lâu nữa sẽ đi Tân Gia Ba[1]. Về việc tái giá của Lưu Tô, nhà họ Bạch chỉ coi đó là một trò cười, nhưng vì muốn đẩy Lưu Tô ra khỏi nhà, cũng chẳng còn cách nào, đành để lặng yên mặc cho bà Từ thu vén. Vì hôn sự của Bảo Lạc, nhà họ Bạch rối nhặng cả lên, quay như chong chóng. Cùng là hai đứa con gái, một đằng thì rôm rả tưng bừng, một đằng thì úi xùi lạnh nhạt, so ra thật khiến người ta khó xử. Bà cụ Bạch gắng thu gom hết các đồ trang sức bằng vàng bạc đá quý của cả nhà lại, thứ nào có thể đeo được lên người Bảo Lạc thì đều đeo cả lên. Vuông vải tơ tằm của con gái nhà cậu Ba được mẹ nuôi tặng hôm sinh nhật, cũng bị bà cụ ép mợ Ba phải đem ra may xường xám cho Bảo Lạc. Tài sản riêng của bà Bạch tích góp bao năm, phần nhiều là đồ da, mùa hè không thể mặc được, đành phải đi cầm một chiếc áo khoác lông chồn, dùng chỗ tiền ấy đi sửa mấy món đồ trang sức theo kiểu dáng tân thời. Nào là khuyên tai trân châu, vòng tay thúy ngọc, nhẫn lục bảo, chẳng cần kể ra cũng có thể biết Bảo Lạc được trang điểm lộng lẫy đến thế nào.
Đến hôm đó, bà Bạch cùng cậu Ba, mợ Ba, cậu Tư, mợ Tư đương nhiên đều phải đi. Bảo Lạc gián tiếp nghe được âm mưu của mợ Tư, trong lòng thực sự khó chịu, cố ý không cùng xuất hiện với hai đứa con gái của mợ Tư, nhưng lại cũng ngại nói là không cần bọn nó, bèn cố sống cố chết lôi Lưu Tô đi cùng. Một chiếc xe con đen sì ngồi những bảy con người, quả thực không tài nào nhét thêm được nữa, hai đứa con của mợ Tư là Kim Chi, Kim Thiền liền bị gạt ra một cách thảm thương. Họ đi từ năm giờ chiều, đến mười một giờ đêm mới về đến nhà. Kim Chi, Kim Thiền trong dạ thấp thỏm, sao đành lòng ngủ? Chúng chong chong đôi mắt chờ họ trở về, nhưng lại thấy cả bọn im như hạt thóc. Bảo Lạc xị mặt đi vào trong phòng bà, ào ào rũ xuống tất cả mọi thứ cài cắm trên người, trả lại cho bà cụ Bạch, chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng quay về phòng. Kim Chi, Kim Thiền kéo mợ Tư ra sân thượng, luôn mồm dò hỏi tình hình thế nào. Mợ Tư nổi giận nói: “Cũng chẳng thấy con gái nhà nào như chúng mày, có phải mình đi lấy chồng đâu, ai bắt phải nhiệt tình sốt sắng như thế!” Mợ Ba theo ra sân thượng, thẽ thọt nói: “Lời của thím đừng để người khác cả nghĩ!” Mợ Tư liền chĩa thẳng về phía phòng của Lưu Tô nói lớn: “Tôi chỉ chó mắng mèo đấy, tôi chửi nó đấy, làm sao nào? Có phải ngàn năm vạn đại chưa từng gặp đàn ông đâu, sao vừa ngửi thấy mùi giai là mê mẩn như con điên thế?” Kim Chi, Kim Thiền nghe mẹ chửi, chẳng biết đầu đuôi mô tê thế nào, mợ Ba cố gắng giữ cho mẹ chúng bình tĩnh lại, rồi nói với hai đứa: “Mọi người thoạt đi xem phim trước.” Kim Chi ngạc nhiên hỏi: “Xem phim ạ?” Mợ Ba nói: “Thế mới lạ chứ, rõ là đi xem người, nhưng lại chúi vào ngồi trong bóng tối, chẳng thấy cái gì cả. Sau đó bà Từ bảo với bác đó là chủ trương của tiên sinh họ Phạm kia, anh ta ngồi xét nét ở đó. Anh này muốn người ta ngồi đó hai ba tiếng, cho mặt ra mồ hôi, son phấn bợt đi, để trông cho rõ hơn. Nhưng đó là bà Từ đoán vậy. Chứ như bác thấy, tay họ Phạm từ đầu chí cuối rõ là không có thành ý. Hắn muốn xem phim, là vì lười tiếp chuyện với chúng ta. Xem xong phim, hắn chẳng muốn chuồn luôn còn gì?” Mợ Tư sốt sắng nói chêm vào: “Làm gì có chuyện, vụ việc hôm nay lúc đầu thì rất êm thấm, nếu không phải người trong nhà mình gây rối từ bên trong, thì chắc chắn quá bán đã thành!” Kim Chi, Kim Thiền đồng thanh hỏi: “Sau đó thì sao hở bác Ba, sao đó sao ạ?” Mợ Ba trả lời: “Sau đó bà Từ kéo hắn ta lại, muốn mọi người đi ăn cùng nhau. Hắn bảo hắn mời.” Mợ Tư vỗ tay nói: “Ăn thì ăn, nhưng biết rõ cô Bảy nhà ta không biết khiêu vũ, vào vũ trường rồi ngồi suông ở đấy, tính thế mà tính à? Không phải tôi nói, nhưng việc này phải trách anh Ba đấy, anh ấy cũng là người hay chạy ở bên ngoài, nghe tay họ Phạm dặn thằng lái xe đưa đến vũ trường mà cũng chẳng ngăn lấy một câu!” Mợ Ba vội đáp: “Thượng Hải có lắm nhà hàng như thế, anh ấy làm sao biết được nhà hàng nào có vũ trường, nhà hàng nào không? Anh ấy không so được với người nhàn nhã như chú Tư đâu, làm gì có có nhiều thời gian đi điều tra mấy thứ đó!” Kim Chi, Kim Thiền vẫn muốn dò nghe câu chuyện về sau, mợ Ba bị mợ Tư ngắt lời mấy lần, tụt hết cả hứng. Chỉ nói: “Sau đó thì ăn cơm, ăn xong cơm rồi về.”
Kim Thiền nói: “Vậy Phạm Liễu Nguyên là người thế nào?” Mợ Ba đáp: “Bác đâu biết được? Tổng cộng cũng chẳng nghe hắn ta nói được ba câu.” Đoạn lại trầm tư một lát, rồi nói: “Nhưng khiêu vũ kể cũng không tồi nhỉ!” Kim Chi ‘ồ’ lên một tiếng, nói: “Anh ta khiêu vũ với ai vậy ạ?” Mợ Tư cướp lời nói trước: “Lại còn ai vào đây nữa, chẳng phải là cái cô Sáu của mày! Những người có lễ giáo, không được phép học khiêu vũ, chỉ có cái con ấy sau khi lấy chồng mới học được cái trò này từ thằng chồng vô tích sự kia thôi! Đúng là không biết xấu hổ, người ta hỏi mình, mình nói là không biết nhảy có phải là xong rồi không? Không biết cũng đâu phải việc gì đáng thẹn. Như bác Ba con, như mẹ, đều là tiểu thư con nhà cao quý, sống hơn nửa đời người rồi, trên đời có việc gì mà chưa từng trải? Nhưng chúng ta cứ không biết nhảy đấy đã sao!” Mợ Ba thở dài nói: “Nhảy một lần, thôi thì bảo là giữ thể diện cho người ta, nhưng lại còn nhảy lần hai, nhảy lần ba nữa!” Kim Chi, Kim Thiền nghe đến đây, bất giác há mồm cứng lưỡi. Mợ Tư lại lẩm bẩm chửi về phía bên kia: “Bị đống mỡ lợn chẹn óc rồi, đừng có tưởng phá hoại việc của em mình là có hy vọng, cô quên cái ý nghĩ đó đi! Người ta hàng bao nhiêu tiểu thư còn chẳng lọt mắt, nó lại thèm cái loại hoa tàn liễu rạc nhà cô ấy hả?”
Lưu Tô và Bảo Lạc ở trong cùng một phòng, Bảo Lạc đã lên giường đi ngủ, còn Lưu Tô thì ngồi xổm lần mò thắp hương muỗi, những lời trên sân thượng cô nghe rõ mồn một, nhưng lần này cô lại hết sức bình tĩnh. Cô đánh diêm, ngắm nhìn que diêm bốc cháy, lá cờ tam giác bé con rực lửa, phập phù trong làn gió tự dịch chuyển, dịch chuyển đến rìa ngón tay cô, cô thổi phù một cái dập tắt nó, chỉ còn lại một đoạn cán cờ cháy đỏ tí hon, rồi cán cờ cũng khô quắt lại, rủ xuống bóng ma xám xịt co quắp. Cô vứt que diêm đã cháy hết vào trong khay hương. Chuyện xảy ra hôm nay, cô không hề cố ý, song bất luận thế nào, cô cũng đã cho bọn họ trắng mắt. Họ tưởng đời cô đã hết rồi sao? Còn sớm chán! Cô mỉm cười. Trong lòng Bảo Lạc chắc chắn cũng đang chửi cô, thậm chí chửi còn khó nghe hơn những lời của mợ Tư. Nhưng cô biết tuy Bảo Lạc hận cô, song cô bé cũng phải nhìn lại chị mình với một thái độ kính cẩn. Một người con gái, dẫu có tốt đẹp hơn nữa, nếu đã không có được tình yêu của người khác giới, cũng sẽ không có được sự tôn trọng của những người đồng giới. Ở điểm này, đàn bà con gái nhỏ mọn như vậy đấy.
Phạm Liễu Nguyên có thật lòng thích cô không? Điều này cũng chưa chắc. Những lời anh ta nói với cô, một câu cô cũng chẳng tin được. Cô nhận ra cái thói quen nói dối phụ nữ của anh ta, cô không thể không thận trọng - bởi cô là người tứ cố vô thân, cô chỉ có mỗi mình cô thôi. Chiếc xường xám cánh ve màu nguyệt bạch cô vừa cởi ra được mắc trên giá. Cô khom người ngồi xuống, ôm lấy phần gối của chiếc xường xám, trang trọng áp mặt lên. Khói xanh từ cây hương muỗi chờn vờn từng lọn, bốc thẳng vào trong óc. Trong mắt cô, nước mắt lấp lánh như sao.
Mấy hôm sau, bà Từ lại đến Bạch công quán. Mợ Tư đã dự đoán trước từ lâu, bảo rằng: “Bà cô Sáu nhà chúng ta phá đám như vậy, chắc việc của con bé Bảy hỏng rồi. Bà Từ chẳng lẽ không giận sao? Bà Từ đã trách bà cô Sáu, liệu còn chịu giới thiệu cho nó không? Như thế gọi là trộm gà không xong mất nắm thóc đấy!” Bà Từ quả nhiên không hề hăng hái như trước, mà lại vòng vo giải thích vì sao hai hôm nay bà không đến nhà chơi. Rằng ông nhà có việc quan trọng phải đi Hồng Kông thương thuyết, nếu như mọi việc thuận lợi, dự định sẽ thuê nhà ở Hồng Kông, ở lại đó cỡ sáu tháng nửa năm, cho nên hai hôm nay bà bận thu dọn hành lý, chuẩn bị đi cùng ông ấy. Còn việc của Bảo Lạc, anh họ Phạm kia đã không còn ở Thượng Hải nữa rồi, đành tạm thời gác lại đã. Người định giới thiệu cho Lưu Tô là anh họ Khương kia, bà Từ thăm dò được, thì ra anh này đã có người rồi, nếu muốn tách họ ra, cũng hơi phiền phức. Theo lời bà Từ thì loại người này không đáng tin cậy, coi như bỏ qua. Mợ Ba, mợ Tư nghe được lời này, đôi bên đều đánh mắt với nhau, nhếch mép cười khẩy.
Bà Từ tiếp sau đó cau mày nói: “Ông nhà tôi có không ít bạn bè ở Hồng Kông, chỉ tiếc là nước xa không cứu được lửa gần... cô Sáu mà có thể đến đó một chuyến, có khi sẽ nhiều cơ hội hơn. Hai năm nay, người Thượng Hải ở Hồng Kông, cứ gọi là nhân tài tề tựu. Người Thượng Hải đương nhiên là thích người Thượng Hải, cho nên những cô tiểu thư đồng hương nghe nói rất được chào đón ở bên đó. Cô Sáu sang Hồng Kông, lo gì không có người tương xứng? Ở đó cứ gọi là vốc được cả nắm rồi tha hồ chọn!” Mọi người cảm thấy bà Từ rất khéo ăn nói. Hai hôm trước còn ầm ĩ vụ làm mai làm mối, thoắt một cái bỗng dưng im tịt, ngay bản thân bà Từ sau đó cũng khó xử, giờ lại đánh trống lảng, nói mấy câu đãi bôi, bà cụ Bạch nghe xong liền thở dài nói: “Đi Hồng Kông một chuyến, nói sao dễ thế! Riêng cái chuyện...” Không ngờ bà Từ liền cắt ngang lời bà cụ bằng một giọng rất sảng khoái: “Cô Sáu mà đồng ý đi, em sẽ mời cháu nó đi, em đã nhận lời giúp đỡ cháu, em sẽ giúp đến cùng.” Mọi người ngơ ngác quay sang nhìn mặt nhau, ngay cả Lưu Tô cũng thấy sững sờ. Cô đoán lúc đầu bà Từ nhiệt tình bảo sẽ làm mối cho mình, chắc là vì lòng trượng nghĩa nhất thời, bà đồng cảm với cảnh ngộ của mình thật. Vì cô mà bà ấy phải chạy đi chạy lại tìm kiếm người này người khác, lại bày cả tiệc rượu mời anh họ Khương, mối giao tình này hẳn là có thật. Nhưng đằng này là bỏ tiền bao cô đi Hồng Kông, mà số tiền đâu có nhỏ. Vì sao bà Từ không dưng lại chi cho cô một đống tiền như vậy? Người tốt trên đời này tuy nhiều, nhưng chẳng có mấy kẻ ngốc tình nguyện chi tiền để làm người tốt. Bà Từ chắc chắn có mưu đồ gì, lẽ nào lại là quỷ kế của Phạm Liễu Nguyên? Bà Từ từng nói chồng bà và Phạm Liễu Nguyên có quan hệ mật thiết trong việc làm ăn, hai vợ chồng này chắc rất nhiệt tình nịnh bợ anh ta đây. Hy sinh một người bà con cô quả không mấy liên quan đến mình để xu nịnh kẻ khác, cũng là việc có thể xảy ra. Thấy Lưu Tô đứng đó suy nghĩ miên man, bà cụ Bạch liền bảo: “Vậy không được, dù sao cũng không thể để bà...” Bà Từ cười khì khì nói: “Không sao đâu, chuyện vặt ấy mà, em làm được! Vả lại, em còn nhờ cô Sáu giúp vài việc. Em lôi hai đứa trẻ con đi theo, huyết áp em lại cao, không thể mệt quá, trên đường đi có cô Sáu, dù sao cũng hỗ trợ được. Em không coi cháu nó là người ngoài, sau này cũng phải nhờ cháu nó vất vả thêm nữa là!” Bà cụ Bạch khách sáo thay Lưu Tô một hồi. Bà Từ quay đầu lại, hỏi thẳng Lưu Tô: “Vậy Lưu Tô này, cháu cứ đi với chú thím một chuyến đi! Cho dù là đi chơi, cũng đáng mà!” Lưu Tô cúi đầu, mỉm cười đáp: “Thím đối xử với cháu tốt quá!” Cô lập tức suy tính, chuyện với anh họ Khương đã vô vọng, sau này dù có người làm mối giúp cô, cũng bất quá là tìm được người tầm tầm như anh họ Khương thôi, có khi còn chẳng bằng nữa. Bố của Lưu Tô là một tay cờ bạc có tiếng, cũng vì cờ bạc mà khuynh gia bại sản, là người đầu tiên dẫn dắt cả nhà họ đi vào con đường lụn bại. Bàn tay của Lưu Tô chưa từng chạm vào con xúc xắc hay quân bài mạt chược, nhưng cô cũng thích cờ bạc, cô quyết định đặt cược tương lai của mình. Nếu cô thua, cô sẽ thân bại danh liệt, không còn tư cách làm mẹ kế của năm đứa trẻ nữa. Nếu như đánh thắng, cô có thể giành được Phạm Liễu Nguyên, người mà biết bao kẻ luôn nhìn thèm muốn, để xả một bầu tức giận bấy lâu trong lòng cô.
Cô nhận lời bà Từ, nội trong một tuần bà Từ sẽ lên đường. Lưu Tô bèn sửa soạn hành lý. Tuy cứ bảo chẳng có đồ đạc gì nhiều, không cần thu xếp, nhưng cũng vẫn nhì nhằng mất mấy ngày. Bán mấy món đồ lặt vặt lấy ít tiền, may thêm mấy bộ quần áo. Bà Từ trăm công ngàn việc nhưng vẫn tranh thủ thì giờ làm cố vấn cho Lưu Tô. Việc bà Từ vun vén cho Lưu Tô như vậy, người của Bạch công quán rất để ý, dần dần cũng thấy hứng thú với Lưu Tô, ngoài chuyện nghi ngờ cô ra, họ cũng có mấy phần e ngại, sau lưng thì bàn tán xôn xao, trước mặt thì không còn chửi thẳng mặt như trước nữa, thi thoảng cũng gọi một tiếng “em Sáu”, “cô Sáu”, “tiểu thư Sáu”, chỉ sợ cô được gả cho tay tỉ phú Hồng Kông nào thật, sau này áo gấm về làng, mọi người cũng phải chường ra cái chỗ để nhìn mặt nhau, chẳng dám đắc tội với cô.
Ông bà Từ mang theo con nhỏ cùng đáp xe đến đón Lưu Tô lên tàu, ngồi khoang hạng nhất của một con tàu Hà Lan. Tàu nhỏ, rung lắc dữ, ông bà Từ vừa lên tàu đã ngủ vật ra, nôn ọe liên hồi, hai đứa trẻ con bên cạnh thì gào khóc quấy suốt, thành ra Lưu Tô phải phục vụ nhà họ đến mấy hôm trời. Dọc đường vất vả, mãi tàu mới cập bến, bấy giờ cô mới có cơ hội lên boong ngắm biển, đó là một buổi chiều đỏ rát, nhìn ra xa, thứ bắt mắt nhất là những tấm biển quảng cáo cỡ lớn xung quanh bến tàu, nào đỏ, nào hồng, nào da cam, tất cả đều in trên nền biển xanh ngắt, từng sọc từng sọc, từng vầng từng vầng, những sắc đối lập đầy kích thích, mảng trồi lên mảng hằn xuống. Lưu Tô nghĩ bụng, nếu có sảy chân ngã ở cái thành phố phô trương này, e là sẽ đau hơn ngã ở nơi khác, nghĩ tới đó trong lòng bỗng thấp thỏm không yên. Chợt cảm thấy có người chạy tới ôm chầm lấy chân mình, suýt bị xô ngã, Lưu Tô giật thót mình, quay lại nhìn, thì hóa ra là đứa con của bà Từ, cô vội định thần lại, qua giúp bà Từ thu xếp mọi thứ, ai ngờ ngót mười kiện hành lý với hai đứa bé con, không sao chịu quy về một chỗ, hành lý đủ thì thoắt một cái lại thiếu đứa trẻ con, Lưu Tô tất tưởi chạy đi chạy lại, chẳng buồn ra xem cảnh biển nữa.
Lên bờ, họ liền gọi hai xe taxi chở đến khách sạn ở Vịnh Nước Nông. Chiếc xe chạy ra khỏi khu chợ ồn ào, băng qua đồi núi, đi hơn tiếng đồng hồ, dọc đường chỉ thấy rặt những sườn đất vàng, đất đỏ, ở những chỗ hổng trên sườn đất lộ ra lùm cây rậm rạp, lộ ra bờ biển xanh lam. Gần tới Vịnh Nước Nông, cũng vẫn là những sườn đất và lùm cây như thế, nhưng dần tươi sáng hơn. Rất nhiều người đi chơi núi trở về, đáp xe đi vụt qua xe họ, xe nào cũng chở đầy hoa, gió thổi bạt đi những tiếng cười rộn rạo.
Đến trước cửa khách sạn, song không thấy khách sạn đâu. Họ xuống xe, bước trên những bậc đá rộng rãi, lên tới một khoảng đất trống nhô cao, xung quanh cây cỏ xác xơ, mới thấy ở quãng cao hơn nữa có hai ngôi nhà màu vàng. Ông Từ đã đặt phòng từ trước, những người phục vụ dắt họ men theo con đường đá cuội đi lên, bước vào trong nhà ăn vàng vọt, đi ngang qua dãy hành lang vàng vọt, đi lên tầng hai, rẽ ngoặt sang liền có một cánh cửa thông ra ban công nhỏ, dựng giàn hoa đậu tía, một nửa vách đón lấy nắng chiều. Ngoài ban công có hai người đang đứng trò chuyện, chỉ thấy một người con gái đứng quay lưng vào họ, buông xõa mái tóc dài đen nhánh chấm đến mắt cá chân, trên mắt cá chân là một chiếc vòng hoa đay bằng vàng, để chân trần, phía dưới cũng không thấy rõ có đi dép hay không, chỉ biết phía trên hơi lộ ra một đoạn quần bó ống kiểu Ấn Độ. Người đàn ông bị che khuất bởi phụ nữ kia, bất chợt thốt lên một tiếng: “Ôi! Bà Từ!” Nói xong liền bước tới chào hỏi, rồi gật đầu mỉm cười với Lưu Tô. Lưu Tô trông thấy Phạm Liễu Nguyên, tuy đã sớm lường được việc này, con tim vẫn không tránh khỏi loạn nhịp. Người phụ nữ ngoài ban công trong nháy mắt đã mất hút. Liễu Nguyên đi cùng họ lên lầu. Dọc đường mọi người không ngừng tỏ vẻ ngạc nhiên lẫn vui sướng như thể gặp lại cố nhân nơi đất khách quê người. Anh chàng Phạm Liễu Nguyên này tuy chưa đủ để gọi là đẹp trai, nhưng sự thô ráp tạo nên nét phong độ của anh ta. Vợ chồng ông Từ sai bảo đám phục vụ vận chuyển hành lý, Liễu Nguyên và Lưu Tô bước đi ở phía trước, Lưu Tô mỉm cười hỏi: “Anh Nguyên không phải đi Tân Gia Ba nữa à?” Liễu Nguyên khẽ trả lời: “Tôi ở đây đợi em mà.” Lưu Tô không ngờ anh ta lại thẳng thắn như vậy, liền không tiện hỏi thêm, chỉ sợ nói trắng ra không phải bà Từ mời cô đến Hồng Kông mà do anh ta mời, bản thân cô sẽ chẳng có chỗ nào lui bước, vì vậy đành coi như anh ta nói đùa, chỉ nhoẻn miệng cười một cái.
Liễu Nguyên hỏi thăm, biết phòng cô là phòng 130, bèn đứng lại nói: “Đến rồi!” Người phục vụ rút chìa khóa ra mở cửa, Lưu Tô vừa vào phòng liền đi thẳng đến bên cửa sổ, cả căn phòng giống như một khung tranh vàng sạm, khảm vào trong cửa sổ một bức tranh lớn. Sóng biển cuồn cuộn, bắn thẳng lên cửa sổ phòng Lưu Tô, khiến viền bức rèm nhuốm cả màu xanh lam. Liễu Nguyên nói với người phục vụ: “Đặt hòm ở trước tủ ấy!” Lưu Tô nghe thấy tiếng anh ta nói ở ngay bên tai, bất giác giật mình, quay mặt lại, người phục vụ đã ra khỏi phòng, nhưng cửa phòng chưa đóng. Liễu Nguyên tựa vào cửa sổ, đưa một cánh tay ra chống lên song cửa, che khuất ánh mắt của Lưu Tô, chỉ chăm chăm nhìn cô mỉm cười. Lưu Tô cúi đầu xuống. Liễu Nguyên cười nói: “Em biết không? Sở trường của em là cúi đầu.” Lưu Tô ngẩng đầu lên cười nói: “Gì cơ? Tôi không hiểu.” Liễu Nguyên đáp: “Có người giỏi nói chuyện, có người lại giỏi cười, có người giỏi quản việc nhà, còn em thì giỏi cúi đầu.” Lưu Tô nói: “Tôi chẳng giỏi gì đâu, tôi là người vô dụng lắm.” Liễu Nguyên cười nói: “Người đàn bà vô dụng lại là người đàn bà ghê gớm nhất đấy!” Lưu Tô cười, bước sang một bên nói: “Không nói chuyện với anh nữa, sang phòng bên cạnh xem sao đã!” Liễu Nguyên đáp: “Phòng bên cạnh? Phòng tôi hay phòng bà Từ?” Lưu Tô lại giật mình nói: “Anh ở phòng kế bên ạ?” Liễu Nguyên nói đỡ hộ cô: “Phòng tôi loạn xị bát nháo lắm, không thể để ai trông thấy được.”
Anh ta gõ cửa phòng 131, bà Từ mở cửa để họ vào, rồi nói: “Sang bên tôi uống trà đi, phòng chúng tôi có gian phòng khách con.” Đoạn liền bấm chuông gọi mấy món điểm tâm ăn kèm với trà lên. Ông Từ ở trong phòng ngủ bước ra nói: “Tôi vừa gọi điện cho ông Chu, ông này cứ nhặng lên đòi tiếp đón, mời mọi người chúng ta tới khách sạn Hồng Kông. Hôm nay ấy!” Đoạn nói riêng với Liễu Nguyên: “Có cả chú nữa!” Bà Từ nói: “Ông có nhã hứng thật đấy, say tàu mấy ngày giời, còn không tranh thủ nghỉ ngơi? Bữa tối nay thôi bỏ đi.” Liễu Nguyên cười đáp: “Khách sạn Hồng Kông là vũ trường cổ điển nhất tôi từng thấy. Từ kiến trúc, ánh đèn, cách bố trí, cho đến dàn nhạc đều theo kiểu cũ của Anh quốc, bốn năm chục năm trước là thời thượng lắm đấy, nhưng giờ thì không sốc mấy nữa rồi. Quả thực không có gì đáng xem nữa, trừ phi là mấy thằng Tây quái đản, giữa trời nóng bức, bắt chước theo người phương Bắc quấn vải quanh chân...” Lưu Tô nói: “Vì sao vậy?” Liễu Nguyên trả lời: “Cảm nhận tâm hồn Trung Hoa ấy mà!” Ông Từ cười nói: “Đã đến đây rồi, dù gì cũng phải đi xem xem, chú chịu khó đi theo vậy!” Liễu Nguyên cười đáp: “Em không dám nói chắc đâu, đừng đợi em.” Lưu Tô thấy anh này có vẻ không muốn đi, ông Từ lại không phải là người năng tới vũ trường, hiếm khi nào vui vẻ như thế, dường như thật lòng muốn giới thiệu bạn bè cho cô, cô lại bắt đầu thấy ngờ vực.
Song tối hôm ấy, toán người tới đón tiếp họ trong khách sạn Hồng Kông đều là những ông bà có đôi có cặp, mấy cậu con trai chưa vợ toàn là thanh niên độ đôi mươi. Lưu Tô đang nhảy, Phạm Liễu Nguyên bỗng nhiên xuất hiện, đón cô từ tay một người đàn ông khác, trong ánh đèn màu đỏ lệ chi, cô không nhìn rõ được khuôn mặt tối tăm của anh, chỉ cảm thấy anh trầm mặc một cách lạ thường. Lưu Tô cười nói: “Sao anh không nói gì vậy?” Liễu Nguyên cười đáp: “Những lời có thể nói trước mặt, tôi đều nói hết cả rồi.” Lưu Tô cười phì một tiếng, nói: “Lén lén lút lút, có lời gì phải nói sau lưng người khác sao?” Liễu Nguyên đáp: “Có mấy lời ngốc nghếch, không những phải nói sau lưng người khác, mà còn phải nói sau lưng mình nữa. Bản thân mình nghe thấy cũng cảm thấy ngượng. Ví như muốn nói, tôi yêu em, tôi cả đời này yêu em chẳng hạn.” Lưu Tô ngoảnh mặt đi, khẽ xì một tiếng: “Lại có những lời nhảm nhí vậy à!” Liễu Nguyên đáp: “Không nói thì lại trách tôi không nói gì, nói rồi lại chê tôi nói nhảm!” Lưu Tô cười: “Tôi hỏi anh, vì sao anh không muốn tôi tới vũ trường nhảy?” Liễu Nguyên đáp: “Đàn ông thông thường đều thích dạy cho đàn bà hư đi, sau đó lại thích cảm hóa người đàn bà hư, khiến người ta trở thành đàn bà ngoan. Tôi thì chẳng làm những việc rỗi hơi như thế. Tôi nghĩ đàn bà ngoan cứ thật thà một chút thì tốt.” Lưu Tô liếc nhìn anh ta nói: “Anh tưởng anh không giống với người khác sao? Tôi thấy anh cũng ích kỷ giống họ thôi.” Liễu Nguyên cười nói: “Ích kỷ thế nào nhỉ?” Lưu Tô nghĩ bụng: “Người đàn bà lý tưởng nhất của anh là người đàn bà vừa trong trắng thanh lịch lại vừa cợt nhả. Trong trắng thanh lịch là đối với người ngoài. Cợt nhả là đối với bản thân anh. Nếu tôi là người đàn bà ngoan hẳn, anh chắc chắn sẽ chẳng để ý đến đâu!” Cô nghiêng đầu cười với Liễu Nguyên: “Anh muốn tôi là một người đàn bà ngoan trước mặt người ngoài, và làm một người đàn bà hư hỏng trước mặt anh.” Liễu Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Không hiểu!” Lưu Tô giải thích lại: “Anh muốn tôi xấu với người khác, chỉ tốt với mình anh.” Liễu Nguyên cười nói: “Sao lại đảo ngược lại vậy? Càng nói càng khiến người ta lú lẫn đây này!” Anh ta lại trầm ngâm một lúc rồi nói: “Câu em nói không đúng.” Lưu Tô cười đáp: “Ồ! Anh đã hiểu rồi!” Liễu Nguyên nói: “Em tốt cũng được, xấu cũng xong, tôi không muốn em thay đổi. Khó có thể gặp được một người phụ nữ Trung Hoa đích thực như em.” Lưu Tô khẽ thở dài nói: “Tôi chỉ là một người lỗi thời mà thôi.” Liễu Nguyên nói: “Người phụ nữ Trung Hoa đích thực là người phụ nữ đẹp nhất trên đời, vĩnh viễn không bao giờ lỗi thời.” Lưu Tô cười đáp: “Một người kiểu mới như anh...” Liễu Nguyên nói: “Con người kiểu mới mà em nói, chắc là chỉ người theo kiểu Tây. Tôi quả không thể được coi là một người Trung Hoa thực sự, mãi đến mấy năm gần đây tôi mới dần dần được Hoa hóa thôi. Nhưng em biết đấy, người nước ngoài nào bị Hoa hóa, một khi đã bảo thủ, thì còn bảo thủ hơn bất kỳ ông đồ Nho nào.” Lưu Tô cười đáp: “Anh bảo thủ, tôi cũng bảo thủ. Anh đã từng nói, khách sạn Hồng Kông là vũ trường bảo thủ nhất...” Họ cùng bật cười, tiếng nhạc cũng vừa vặn ngừng lại. Liễu Nguyên dìu cô quay lại chỗ ngồi, mỉm cười nói với mọi người: “Bạch tiểu thư hơi đau đầu, tôi xin đưa cô ấy về trước!” Lưu Tô không ngờ anh ta lại có chiêu này, nhất thời không nghĩ ra cách nào đối phó, lại không muốn đắc tội với anh ta, vì mối giao tình còn chưa đủ sâu sắc, chưa đến mức độ có thể cãi nhau được, đành phải để anh ta khoác áo choàng giùm mình, rồi xin lỗi mọi người, cùng nhau ra về.
Họ quay ra liền gặp ngay một tốp các quý ông lịch lãm, vây quanh một người phụ nữ, cảnh tượng trông như muôn sao chầu nguyệt. Lưu Tô thoạt tiên chú ý đến mái tóc dài đen bóng của cô gái kia, tết thành hai dải đuôi sam lớn, quấn cao quanh đầu. Người phụ nữ Ấn Độ đó vẫn mang đậm chất phương Đông, mặc dù lần này cô ta đã ăn vận theo kiểu phương Tây. Dưới lớp áo khoác màu đen bằng lụa mỏng, cô ta mặc một chiếc áo dài bó màu vàng, che kín tay, chỉ để lộ ra những chiếc móng lóng lánh. Cổ áo khoét hình chữ V cực hẹp, kéo thẳng xuống phần eo, đó là kiểu dáng mới nhất ở Ba Lê[2], có tên gọi là “một sợi chỉ”. Da mặt cô ta vàng và trơn bóng, giống như tượng Quan âm Bồ tát được mạ vàng, song trong đôi mắt to và trĩu nặng của cô ta lại ẩn giấu loài quỷ quái. Chiếc mũi thẳng theo kiểu cổ điển, có điều hơi quá nhọn và quá mỏng. Đôi môi nhỏ hồng nhưng dày lên như bị sưng tấy. Liễu Nguyên đứng sững lại, hơi khom lưng chào cô ta. Lưu Tô đứng đó nhìn, cô ta cũng ngang nhiên nhìn lại, đôi mắt kiêu căng kia như đang đứng cách xa mấy nghìn dặm nhìn về. Liễu Nguyên bèn giới thiệu nói: “Đây là Bạch tiểu thư. Còn đây là công chúa Sahetini.” Lưu Tô bất giác tỏ thái độ kính cẩn. Sahetini đưa một bàn tay lại, chạm nhẹ đầu ngón tay vào tay Lưu Tô, rồi hỏi Liễu Nguyên: “Bạch Tiểu thư đây cũng đến từ Thượng Hải à?” Liễu Nguyên gật đầu. Sahetini mỉm cười nói: “Cô ấy không giống người Thượng Hải lắm nhỉ.” Liễu Nguyên cười đáp: “Vậy giống người ở đâu?” Sahetini chống ngón tay trỏ lên má, ngẫm nghĩ một lúc rồi xòe mười đầu ngón tay cong vút lên, ra bộ đã cố gắng hình dung nhưng vẫn không hình dung ra được, đoạn nhún vai cười, bước vào phía trong. Liễu Nguyên đưa Lưu Tô đi tiếp ra ngoài, tuy Lưu Tô không biết tiếng Anh, nhưng nhìn sắc mặt, cô cũng đã hiểu. Cô bèn cười nói: “Tôi vốn là người nhà quê mà.” Liễu Nguyên đáp: “Tôi ban nãy chẳng đã nói với em rồi, em là người Trung Hoa chính cống, vậy đương nhiên là khác với người Thượng Hải trong ấn tượng của cô ta.”
Cả hai người ngồi lên xe, Liễu Nguyên lại nói: “Em đừng có nhìn bộ dạng quý phái của cô ta. Cô ta ra ngoài khoe mẽ rằng mình là con gái ruột của vương công Kelihina Kerampa, chỉ vì vương phi bị thất sủng, được ban cho chết, nên cô ta cũng bị trục xuất khỏi biên giới, cứ lang bạt mãi, không về nước được. Thực ra, việc không thể về nước là có thật, những việc còn lại thì chẳng có ai có thể chứng thực được.” Lưu Tô nói: “Cô ấy đến Thượng Hải lần nào chưa?” Liễu Nguyên đáp: “Người ta cũng có tiếng ở Thượng Hải lắm đấy. Sau theo một ông người Anh đến Hồng Kông. Em thấy cái lão già đứng sau lưng cô ta không? Hiện tại ông này đang nuôi cô ta.” Lưu Tô cười nói: “Đàn ông các anh là vậy đấy. Trước mặt ai cũng chẳng tâng bốc, sau lưng thì nói cô ấy không ra gì. Một ả góa bụa nghèo nàn như tôi, xét về thân phận còn chẳng bằng cô ấy, chẳng biết đối với người ngoài anh sẽ nói gì về tôi nữa!” Liễu Nguyên cười đáp: “Ai dám một hơi nhắc tên hai cô cùng lúc?” Lưu Tô bĩu môi nói: “Chắc là vì tên của cô ấy dài quá. Nói một hơi chẳng hết.” Liễu Nguyên nói: “Em yên tâm. Em là người thế nào, tôi sẽ đối xử với em như thế, chắc chắn là vậy!” Lưu Tô tỏ vẻ yên tâm, tựa người vào cửa xe, thấp giọng: “Thật sao?” Câu nói này của anh ta, dường như không phải đang nói xấu cô, bởi cô dần dần cảm nhận được, khi hai người ở riêng bên nhau, anh luôn nhã nhặn lịch thiệp, ra bộ chính nhân quân tử. Chẳng hiểu vì sao, sau lưng mọi người anh ta điềm đạm đứng đắn là vậy, còn trước mặt mọi người, anh ta lại thích phóng túng buông tuồng. Cô nhất thời không hiểu đây rốt cuộc là tính khí kỳ quái của anh hay phía sau còn có mưu đồ gì.
Tới Vịnh Nước Nông, anh đỡ cô xuống xe, rồi chỉ vào rừng cây rậm rịt bên cạnh đường nói: “Em nhìn cây kia, đó là giống cây chỉ có ở miền Nam. Người Anh gọi nó là ‘cây hoa lửa rừng’.” Lưu Tô đáp: “Hoa nó màu đỏ ạ?” Liễu Nguyên trả lời: “Ừ, màu đỏ!” Trong bóng tối, Lưu Tô không nhìn ra sắc đỏ, nhưng dựa vào trực giác cô biết rằng màu đỏ ấy không thể đỏ hơn được nữa, nó đã đỏ đến nỗi không thể gom giữ lại, từng lùm từng lùm hoa nhỏ, làm tổ trên cây đại thụ chọc trời, cháy bùng lên những tiếng tí tách, thiêu đốt dọc đường, hun đỏ cả một bầu trời chàm tía. Lưu Tô ngửa mặt lên nhìn. Liễu Nguyên nói tiếp: “Người Quảng Đông gọi nó là ‘cây bóng’, em xem cánh lá này.” Lá cây giống như cỏ phượng vĩ, một con gió thoảng qua, những bóng đen nhỏ lác đác rung lên, bên tai chợt nghe thấy một chuỗi âm thanh khẽ khàng, không thành giai điệu, nghe tinh tang như tiếng chuông sắt ngoài hiên.
Liễu Nguyên nói: “Ta sang bên đó xem xem.” Lưu Tô không lên tiếng. Anh ta bước đi, cô mới chậm rãi đi theo. Thời gian dù sao vẫn còn sớm, những người đi dạo bộ trên đường còn nhiều mà - chẳng sao đâu. Từ khách sạn qua đó cũng phải đi bộ một quãng đường, lưng chừng trời có một nhịp cầu bắc ngang, bên kia cầu là núi, bên này cầu là một vách tường xây bằng gạch xám, chặn lấy dãy núi bên này. Liễu Nguyên tựa lưng vào tường, Lưu Tô cũng tựa lưng vào tường, trông lên thì bức tường này rất cao rất cao, khuất hết tầm mắt. Bờ tường lạnh và thô ráp, màu xám xịt. Khuôn mặt Lưu Tô áp lên tường, trong sự tương phản trông hoàn toàn thay đổi, đó là một khuôn mặt với làn môi đỏ, đôi mắt long lanh, có da, có thịt, có suy tư. Liễu Nguyên ngắm Lưu Tô rồi nói: “Bức tường này, chẳng hiểu tại sao lại khiến tôi nhớ tới những lời tận thế đại loại như... có một ngày, toàn bộ nền văn minh của chúng ta sẽ bị hủy diệt, mọi thứ đều chấm dứt - bị đốt hết, bị phá hết, sụp đổ hết, nhưng có lẽ vẫn còn chừa lại bức tường này. Lưu Tô, nếu như lúc đó chúng ta còn gặp nhau dưới chân tường này... Lưu Tô, có lẽ em sẽ thật lòng với tôi hơn, và có lẽ tôi sẽ thật lòng với em hơn.”
Lưu Tô giận nói: “Anh tự nhận là anh thích giả vờ nhé, vậy thì đừng đánh đồng tôi vào! Anh bắt được tôi nói dối lúc nào chưa?” Liễu Nguyên cười phì một tiếng: “Hay lắm, chẳng có ai trong sáng hơn em cả.” Lưu Tô đáp: “Thôi, đừng nịnh tôi nữa!”
Liễu Nguyên im lặng một lúc lâu, rồi thở dài. Lưu Tô nói: “Anh có việc gì không vừa lòng à?” Liễu Nguyên đáp: “Có nhiều lắm.” Lưu Tô than thở: “Nếu người tự do tự tại như anh mà cũng than thân trách phận, thì người như tôi chắc đã treo cổ từ lâu rồi.” Liễu Nguyên đáp: “Tôi biết em không vui. Chắc em cũng đã tiếp xúc đủ với những con người xấu, những việc xấu xung quanh ta rồi. Nhưng, nếu đây là lần đầu tiên em gặp họ, em chắc chắn sẽ thấy chướng mắt, và càng khó chịu hơn. Tôi cũng vậy, lúc tôi về Trung Quốc thì đã 24 tuổi. Tôi đã có rất nhiều giấc mơ đẹp về quê hương mình. Em có thể tưởng tượng được tôi đã thất vọng đến thế nào. Tôi không chịu đựng nổi cú sốc này, và trượt dốc một cách mất tự chủ. Em... nếu như em quen biết tôi của ngày xưa, có lẽ em sẽ thông cảm được cho tôi của hôm nay.” Lưu Tô thử tưởng tượng lại lần đầu tiên cô gặp chị dâu nhà anh Tư. Cô bỗng nhiên nói lớn: “Như vậy vẫn tốt hơn, lần đầu có nhìn thấy những thứ xấu xa hơn nữa, bẩn thỉu hơn nữa, thì đó vẫn chỉ là những thứ bên ngoài anh, những người bên ngoài anh. Nhưng nếu anh ở bên trong đó lâu ngày, anh làm sao phân biệt được rõ phần nào là họ, phần nào là bản thân anh?” Liễu Nguyên im lặng, một lúc sau mới nói: “Có lẽ em nói đúng. Có lẽ những lời này của tôi chỉ là cái cớ, tôi tự bỡn cợt mình.” Đột nhiên anh ta lại cười phá lên nói: “Thực ra tôi chẳng cần thiết phải viện cớ làm gì! Tôi thích chơi bời - tôi có tiền, có thời gian, còn phải tìm lý do nào khác nhỉ?” Anh ta suy nghĩ một lúc, rồi lại bực dọc, nói với cô: “Bản thân tôi cũng không hiểu được tôi - nhưng tôi muốn em hiểu tôi! Tôi muốn em hiểu tôi!” Ngoài miệng anh ta nói như vậy, nhưng trong lòng đã tuyệt vọng từ lâu, song vẫn cố chấp, vẫn nói với một giọng khẩn khoản: “Tôi muốn em hiểu tôi!”
Lưu Tô bằng lòng thử xem. Trong một mức độ nào đó, cô có thể bằng lòng với mọi thứ. Cô ngả mặt quay sang phía anh ta, nhỏ giọng đáp lời: “Tôi hiểu, tôi hiểu mà.” Cô an ủi anh, song bất chợt nghĩ tới khuôn mặt đang tắm trong ánh trăng của mình, khuôn mặt yêu kiều, mắt và lông mày đẹp đến không tưởng, đẹp đến mênh mang, cô từ từ cúi đầu xuống. Liễu Nguyên bật cười khúc khích, anh đổi giọng, cười nói: “Đúng rồi, em đừng quên, sở trường của em là cúi đầu nhé. Nhưng cũng có người nói, chỉ những cô bé độ mười tuổi mới quen cúi đầu. Những người quen cúi đầu, luôn thích cúi đầu. Cúi đầu nhiều năm, có lẽ trên cổ cũng có nếp nhăn.” Lưu Tô đổi sắc mặt, bất giác đưa tay xoa cổ, Liễu Nguyên cười nói: “Đừng cuống, em thì chắc chắn không có đâu. Lát về phòng, lúc nào không có người, em hẵng cởi cúc áo ra coi cho rõ.” Lưu Tô không ứng tiếng, quay người đi thẳng, Liễu Nguyên đuổi theo, cười nói: “Tôi sẽ nói cho em biết vì sao em giữ được sắc đẹp của mình. Sahetini lần trước bảo: cô ta không dám lấy chồng, bởi vì phụ nữ Ấn hễ rảnh rang thì chỉ ở trong nhà, ngồi cả ngày rồi sẽ béo. Tôi hỏi: phụ nữ Trung Hoa thì sao, suốt ngày chỉ ngồi, muốn béo lên cũng không được - bởi vì béo lên chí ít cũng cần phải tốn một chút sức. Lười đâm ra cũng có cái hay của lười!”
Lưu Tô không đoái hoài đến Liễu Nguyên, dọc đường anh ta dè chừng hơn, cười nói khẽ khàng. Về đến khách sạn sắc mặt Lưu Tô mới dãn ra, hai người ai về phòng nấy. Bản thân Lưu Tô ngẫm nghĩ, hóa ra anh Liễu Nguyên này rất coi trọng tình yêu dưới góc độ tinh thần. Điểm này cô cũng tán thành, bởi kết quả của tình yêu tinh thần luôn đi đến hôn nhân, còn tình yêu thể xác thì luôn dừng lại ở một giai đoạn nào đó, ít có triển vọng kết hôn, tình yêu tinh thần chỉ có một nhược điểm: trong quá trình yêu nhau, người con gái luôn không hiểu được những gì chàng trai nói. Nhưng điều này cũng chẳng nhằm nhò gì. Về sau vẫn tiến tới hôn nhân, vẫn tìm mua nhà, bày biện nội thất, thuê người ở - những việc này, phái nữ am thuộc hơn cánh đàn ông nhiều. Nghĩ vậy, một chút hiểu lầm hôm nay, cô cũng chẳng để bụng làm gì.
Sáng sớm ngày hôm sau, Lưu Tô thấy phòng bà Từ im phăng phắc, biết rằng bà Từ chắc chắn dậy muộn. Hình như bà Từ có nói, theo quy định ở đây, gọi đồ ăn sáng về phòng ăn, thì phải trả thêm phụ phí và ghi hóa đơn, bởi vậy Lưu Tô quyết định tiết kiệm cho người ta một chút, cô sẽ ăn ở nhà ăn. Lưu Tô chải đầu xong, vừa bước ra khỏi cửa phòng, một người phục vụ đã đợi sẵn ở bên ngoài, trông thấy cô, liền tới gõ cửa phòng Liễu Nguyên. Liễu Nguyên lập tức chạy ra, cười nói: “Cùng đi ăn sáng nhé!” Vừa đi, anh ta vừa hỏi: “Ông bà Từ còn chưa dậy à?” Lưu Tô cười nói: “Chắc tối qua ông bà ấy đi chơi về mệt! Tôi không nghe thấy tiếng họ về, chắc là phải gần sáng.” Hai người lựa một chiếc bàn ngoài hành lang của nhà ăn ngồi xuống. Ngoài lan can đá là những cây cọ cao lớn, lớp lớp tán lá buông thõng rung rinh dưới ánh mặt trời, trông như dòng suối ngập tràn ánh sáng. Dưới gốc cây cũng có đài phun nước, nhưng không được hùng vĩ và tươi đẹp như vậy. Liễu Nguyên hỏi: “Ông bà Từ hôm nay định chơi gì?” Lưu Tô đáp: “Nghe nói là định đi tìm nhà.” Liễu Nguyên nói: “Tìm nhà là việc của họ, ta chơi là việc của ta. Em thích ra bờ biển hay vào thành phố chơi?” Chiều hôm trước Lưu Tô đã lấy kính viễn vọng quan sát bãi biển xung quanh, trai gái ăn vận đồ bơi xanh xanh đỏ đỏ, quả nhiên náo nhiệt vô cùng, chỉ có điều hành động của họ hơi tự do thái quá, cô không khỏi dè chừng, bèn đề nghị vào thành phố. Họ bắt một chiếc xe hơi của khách sạn vào khu trung tâm.
Liễu Nguyên dắt Lưu Tô vào nhà hàng Đại Trung Hoa ăn cơm. Lưu Tô thoạt nghe, thấy những người phục vụ đều nói tiếng Thượng Hải, xung quanh cũng đều nghe thấy tiếng quê mình, bất giác kinh ngạc hỏi: “Đây là quán Thượng Hải hả anh?” Liễu Nguyên người nói: “Em không nhớ nhà sao?” Lưu Tô cười nói: “Nhưng... đến Hồng Kông mà lại đi ăn đồ ăn Thượng Hải, hình như hơi ngốc thì phải.” Liễu Nguyên đáp: “Đi cùng em, tôi thích làm những việc ngốc nghếch. Thậm chí là bắt xe điện đi một vòng, xem một bộ phim đã xem tới hai lần...” Lưu Tô nói: “Bởi vì anh bị lây bệnh ngốc của tôi rồi, phải không?” Liễu Nguyên cười nói: “Em muốn giải thích sao cũng được.”
Ăn xong, Liễu Nguyên đưa chiếc cốc thủy tinh lên uống nốt chỗ trà còn lại, rồi nâng cao chiếc cốc, ngắm nghía bên trong. Lưu Tô hỏi: “Có gì đáng coi vậy, cho tôi xem với.” Liễu Nguyên đáp: “Em chĩa về hướng có ánh sáng nhìn xem, quang cảnh bên trong khiến tôi nhớ đến khu rừng ở Mã Lai.” Bã trà còn lại trong cốc dạt sang một bên, những mẩu lá trà màu lục bám trên thành cốc ngả về một phía, dưới ánh sáng, trông như một cây chuối sống động. Đám lá trà đọng dưới đáy cốc, đan xen, chất chồng, trông như những vạt cỏ bồng bò lan mặt đất. Lưu Tô nhìn lên phía trên, Liễu Nguyên nhoài người chỉ trỏ. Cách một lớp thủy tinh xanh ngắt, Lưu Tô bỗng thấy đôi mắt của Liễu Nguyên như đang tủm tỉm nhìn mình, cô buông chiếc cốc xuống, cười. Liễu Nguyên nói: “Tôi đưa em đi Mã Lai nhé!” Lưu Tô đáp: “Đi làm gì?” Liễu Nguyên nói: “Về với thiên nhiên.” Anh ta ngẫm lại một chút, rồi nói: “Chỉ là, tôi không tưởng tượng được cảnh em mặc xường xám chạy trong rừng trông sẽ thế nào... Nhưng tôi cũng không tưởng tượng được cảnh em không mặc xường xám.” Lưu Tô vội tối sầm mặt xuống: “Anh đừng nói linh tinh!” Liễu Nguyên nói: “Tôi nói rất đứng đắn đấy. Lần đầu tiên gặp em, tôi đã cảm thấy em không nên mặc loại áo dài hở vai này rồi, nhưng em cũng không nên mặc đồ Tây. Xường xám Mãn Châu có lẽ thích hợp hơn, chỉ có điều đường nét trông lại quá cứng.” Lưu Tô đáp: “Nói tóm lại, người xấu ăn vận thế nào trông vẫn không thuận mắt!” Liễu Nguyên cười nói: “Em đừng hiểu lầm, ý tôi là: trông em không giống người của thế giới này. Em có rất nhiều cử chỉ gợi không khí romantic, rất giống diễn Kinh kịch.” Lưu Tô cong mày lên, cười nhạt: “Diễn Kinh kịch, một mình tôi cũng chẳng diễn được! Tôi đâu có thích làm bộ làm tịch - cũng là bất đắc dĩ thôi. Người ta đùa giỡn tôi, nhưng tôi không đùa giỡn với người ta, người ta coi tôi là con ngốc, tìm tôi để bắt nạt!” Liễu Nguyên nghe những lời này, vẻ mặt cũng hơi ủ dột, anh nhấc chiếc cốc không lên, thử uống một ngụm, rồi lại đặt xuống, than thở: “Vâng! Đều trách tôi cả. Tôi giả vờ giả vịt quen rồi, cũng vì mọi người đều giả vờ với tôi. Chỉ riêng với em, tôi đều nói những câu thật lòng, nhưng em không nghe ra.” Lưu Tô đáp: “Tôi đâu phải con sâu trong bụng anh.” Liễu Nguyên nói: “Vâng. Đều trách tôi cả. Nhưng tôi quả thực đã hết sức nhọc lòng vì em. Lần đầu tiên gặp em ở Thượng Hải, tôi đã nghĩ, nếu tách rời những người nhà em ra, có lẽ em sẽ tự nhiên hơn. Chờ mong mòn mỏi mãi em mới đến Hồng Kông... Lúc này, tôi lại muốn đưa em đến Mã Lai, đến khu rừng nguyên sinh...” Liễu Nguyên cười với chính mình, giọng nghẹn ngào, trầm đục, đang cười tự nhiên dừng lại, anh gọi người phục vụ tới tính tiền. Họ trả xong tiền liền ra về, Liễu Nguyên đã trở về trạng thái ban đầu, lại bắt đầu với giọng điệu của giới thượng lưu - một thứ giọng điệu cực kỳ lịch thiệp.
Hằng ngày anh đều theo cô đi khắp nơi, vui chơi đủ mọi trò, xem phim, xem kịch Quảng, đến sòng bạc, đến nhà hàng Carostar, nhà hàng Tư Hào, quán café Thanh Điểu, hiệu lụa Ấn Độ, quán ăn Tứ Xuyên hiệu Cửu Long... Buổi tối họ thường đi dạo đến tận khuya, bản thân cô cũng không thể tin rằng, ngay đến tay cô, anh cũng khó khi nào chạm phải. Cô luôn cảnh giác, sợ anh đột ngột gỡ mặt nạ ra, tấn công cô một cách bất ngờ, vậy mà ngày lại qua ngày, anh vẫn duy trì phong độ quân tử, cô như gặp phải một địch thủ lớn, nhưng rốt cục phía địch vẫn chẳng có động tĩnh gì. Ban đầu cô cảm thấy bất an, giống như bị hẫng một bậc cầu thang khi bước xuống lầu, trong lòng thấp thỏm nặng nề, nhưng sau rồi cũng thành quen.
Chỉ có một lần nọ, trên bờ biển. Khi ấy Lưu Tô đã quen Liễu Nguyên hơn một chút, cảm thấy đi dạo bờ biển cùng anh cũng chẳng có vấn đề gì, bởi vậy họ ở đó suốt cả buổi chiều, họ ngồi bên nhau trên bãi cát, một người quay mặt về phía Đông, còn một người quay mặt về phía Tây, Lưu Tô phàn nàn có muỗi. Liễu Nguyên nói: “Không phải muỗi, chỉ là một loại côn trùng nhỏ thôi, gọi là con nhặng cát, vết nó cắn chỉ là một chấm đỏ bé xíu, trông như nốt ruồi đỏ thôi.” Lưu Tô lại phàn nàn: “Ánh nắng này thật khó chịu.” Liễu Nguyên nói: “Phơi nắng một chút nữa, rồi ta vào lán nghỉ, tôi thuê một lán ở đó rồi.” Mặt trời khát nước, hút ừng ực lấy nước biển, sau đó súc miệng, nhổ ra, phát ra những tiếng rào rào, lượng nước trên người cũng bị mặt trời hút sạch, người trở thành phiến lá khô màu vàng, nhẹ bẫng. Lưu Tô dần dần cảm thấy chóng mặt nhưng sảng khoái một cách lạ thường, song cô vẫn không thể chịu đựng được hơn, lại một lần nữa kêu lên: “Muỗi đốt!” Cô quay đầu lại, lấy tay vỗ lên tấm lưng trần của mình. Liễu Nguyên cười nói: “Làm vậy mất sức lắm. Để tôi vỗ giùm em, em vỗ giùm tôi.” Lưu Tô quả nhiên chăm chú rình muỗi, vỗ thẳng lên cánh tay của Liễu Nguyên, kêu lên: “Giời ạ, để nó chạy thoát rồi!” Liễu Nguyên cũng để ý bắt muỗi giùm cô. Hai người cứ thế vỗ lưng nhau đen đét, tiếng cười quyện lại làm một. Lưu Tô đột nhiên bị sàm sỡ, cô đứng dậy đi về khách sạn, Liễu Nguyên lần này không đuổi theo. Lưu Tô đi đến dưới tán cây, đứng trên con đường đá giữa hai mái lán lau thì dừng lại, rũ cát trên váy ngắn rồi quay đầu lại nhìn, Liễu Nguyên vẫn ở chỗ cũ, nằm ngửa mặt lên trời, hai tay đan sau gáy, rõ ràng anh lại đang nằm mơ trong ánh mặt trời, người đã khô như chiếc lá vàng. Lưu Tô về tới khách sạn, từ cửa sổ lấy kính viễn vọng nhòm ra, lần này, nằm bên cạnh anh có một người con gái, tóc tết quấn quanh đầu. Dẫu Sahetini có cháy ra tro, Lưu Tô vẫn nhận ra được.
Từ hôm ấy, cả ngày Liễu Nguyên quấn quanh Sahetini, chừng như anh ta quyết tâm lạnh nhạt với Lưu Tô vậy. Lưu Tô vốn đã quen ngày nào cũng ra ngoài, giờ bỗng dưng rảnh rang, trước mặt bà Từ cũng chẳng biết nói cớ gì, đành bảo là bị trúng gió, phải ở trong phòng hai ba ngày. May mà ông trời cũng có mắt, đổ xuống một trận mưa rả rích liên thiên, đỡ phải lấy cớ, cũng chẳng cần phải ra khỏi nhà. Một buổi chiều nọ, cô cầm ô đi dạo một vòng quanh vườn hoa của khách sạn, trời đã sẩm tối, đoán chừng nhà bà Từ đi xem nhà cũng sắp về, cô bèn ngồi dưới hiên đợi họ, chiếc ô giấy dầu tươi tắn mở rộng gá lên lan can, che khuất khuôn mặt cô. Chiếc ô nền hồng, bên trên có hình vẽ lá sen màu thạch lục, từng giọt nước mưa men theo gân ô trượt xuống. Trận mưa này rất lớn. Trong mưa vẳng lại tiếng xe hơi xoèn xoẹt, một bầy trai gái nói cười hỉ hả dìu dắt nhau bước lên thềm, người đi đầu chính là Liễu Nguyên. Sahetini được anh ta dìu lên, trông thật thảm hại, trên cặp chân trần lấm tấm những bùn. Cô ta cởi chiếc mũ cói xuống, làm rớt một đống nước xuống đất. Liễu Nguyên liếc thấy ô của Lưu Tô, bèn ra nói chuyện mấy câu với Sahetini ở cầu thang, Sahetini một mình bước lên lầu, Liễu Nguyên tới bên Lưu Tô, lấy khăn mùi xoa không ngừng lau những vệt nước trên mặt trên người. Lưu Tô và anh vẫn hàn huyên với nhau vài câu. Liễu Nguyên ngồi xuống nói: “Nghe nói hai hôm trước em mệt à?” Lưu Tô đáp: “Chỉ bị cảm gió thôi.” Liễu Nguyên nói: “Thời tiết mấy ngày nay thật khó chịu. Vừa nãy bọn tôi tới du thuyền của cái ông người Anh, ăn uống ở đó, rồi chạy thuyền tới đảo Thanh Y.” Lưu Tô buột miệng hỏi Liễu Nguyên về cảnh trí trên đảo. Đang nói chuyện, Sahetini lại từ trên lầu bước xuống, cô ta đã thay một bộ đồ Ấn Độ, khoác một chiếc áo choàng không tay màu vàng trứng, dài chấm đất, trên vai áo choàng có đính những dải hoa bằng sợi bạc rộng cỡ hai tấc. Cô ta cũng tựa vào lan can, lựa một chiếc bàn ở quãng xa ngồi xuống, một tay thong dong gá lên lưng ghế, móng tay sơn nhũ màu bạc. Lưu Tô cười nói với Liễu Nguyên: “Anh còn không qua đó đi?” Liễu Nguyên cười nói: “Người ta là hoa đã có chủ rồi.” Lưu Tô nói: “Cái ông già người Anh ấy, đâu quản được cô ta?” Liễu Nguyên cười đáp: “Ông ta không quản được cô ấy, nhưng em lại quản được tôi.” Lưu Tô bĩu môi cười nói: “Gớm! Tôi mà là tổng đốc Hồng Kông, là thần thành hoàng của Hồng Kông, quản bá tánh một phương, tôi cũng không quản đến anh.” Liễu Nguyên lắc đầu nói: “Một người đàn bà không biết ghen, dù ít dù nhiều cũng có bệnh.” Lưu Tô phì cười, một lúc sau, liền hỏi: “Anh nhìn tôi làm gì?” Liễu Nguyên cười đáp: “Tôi thấy từ nay trở đi phải chăng em chuẩn bị đối xử tốt với tôi hơn.” Lưu Tô đáp: “Tôi đối xử tốt hơn hay tệ hơn, anh cũng đâu có để tâm?” Liễu Nguyên vỗ tay nói: “Cũng phải thế chứ! Trong giọng nói này cũng phảng phất có mùi ghen tuông rồi.” Lưu Tô buột miệng cười thành tiếng, nói: “Cũng chưa từng thấy ai như anh, cố sống cố chết bắt người ta phải ghen!”
Bấy giờ hai người lại trở nên tốt đẹp, họ cùng ăn tối với nhau. Bề ngoài tuy Lưu Tô gần gũi với Liễu Nguyên hơn, nhưng trong lòng lại lo: anh ta khiến mình ghen, chẳng qua là dùng kế khích tướng, ép mình phải tự động sà vào lòng anh ta. Mình đối xử với anh ta trước sau đều lạnh nhạt, giờ lại đối xử tốt vào đúng lúc này, hy sinh bản thân một cách vô ích, anh ta nhất định sẽ không cảm thấy biết ơn mình, chỉ nghĩ rằng mình đã trúng kế. Có nằm mơ cũng đừng hòng mong anh ta lấy mình... Rõ ràng, anh ta cần mình, nhưng anh ta không mong muốn lấy mình. Nhà mình tuy nghèo, nhưng cũng là danh gia vọng tộc, mọi người đều có máu mặt cả, anh ta không gánh nổi cái tội danh dụ dỗ này. Thế nên anh ta mới phải chọn cái thái độ đàng hoàng kia. Giờ thì tôi biết rồi, anh chỉ hoàn toàn ra vẻ trong sạch mà thôi. Bất cứ việc gì anh cũng chỉ mong rũ bỏ trách nhiệm. Sau này nếu tôi bị ruồng bỏ, tuyệt đối sẽ chẳng có ai để tôi dốc bầu oán thán.
Lưu Tô nghĩ đến đây, bất giác nghiến răng căm giận. Ngoài mặt vẫn thể hiện với anh ta như trước. Bà Từ đã thuê được một căn nhà ở trường đua ngựa, sắp sửa chuyển qua đó. Lưu Tô định sang đó cùng, nhưng lại cảm thấy đã quấy rầy người ta hơn một tháng rồi, giờ tiếp tục ở lâu hơn nữa, quả thực rất áy náy. Cứ bế tắc thế này kể cũng không ổn. Tiến không được, lùi cũng chẳng xong, thật sự rất nhọc lòng. Hôm nay, trong đêm hôm khuya khoắt, cô lên giường một lúc lâu, trằn trọc mãi mới thiếp đi được một lát, đột nhiên điện thoại ở đầu giường đổ chuông reng reng. Cô nghe điện, đầu bên kia đúng là giọng của Liễu Nguyên, anh chỉ nói một câu: “Anh yêu em.” Rồi cụp máy. Tim Lưu Tô đập thình thịch, cô giữ chặt lấy điện thoại, ngồi bần thần một lúc, rồi mới khe khẽ đặt điện thoại về chỗ cũ, ai ngờ vừa gá điện thoại lên, một hồi chuông nữa lại réo tới. Cô một lần nữa nhấc tai nghe, Liễu Nguyên ở đầu dây bên kia hỏi: “Anh quên hỏi em một câu, em có yêu anh không?” Lưu Tô ho một tiếng rồi cất giọng nói, cổ họng vẫn khàn đặc. Cô khẽ nói: “Anh phải biết từ trước rồi chứ, vì sao em lại tới Hồng Kông?” Liễu Nguyên than thở: “Anh biết từ trước rồi, nhưng sự thật rõ ràng bày ra trước mắt, anh không chịu tin là vậy. Lưu Tô, em không yêu anh.” Lưu Tô đáp: “Sao anh biết là em không?” Liễu Nguyên im lặng, hồi lâu mới nói: “Kinh Thi có một bài thơ...” Lưu Tô vội đáp: “Em không hiểu những thứ đó đâu.” Liễu Nguyên sốt ruột nói: “Anh biết là em không hiểu, nếu em hiểu, thì đã chẳng cần anh phải nói! Để anh đọc cho em nghe: Sinh tử biệt ly, cùng nàng hẹn ước, nắm tay nàng đi, cùng nàng già nuột[3]. Anh vốn không giỏi văn, không biết giải thích thế này có đúng không. Anh thấy đây là một bài thơ đau buồn nhất, sống chết và ly biệt, đều là việc lớn mà chúng ta không thể quyết định được. So với sức mạnh của thế giới bên ngoài, con người chúng ta rất nhỏ bé, thực sự rất nhỏ bé! Nhưng ta vẫn nói rằng: ‘Ta sẽ mãi mãi ở bên nhau, đời này kiếp này quyết không chia lìa.’ - Cứ như bản thân ta làm chủ được vậy.”
Lưu Tô trầm tư một hồi lâu, bỗng dưng bực mình nói: “Anh cứ nói thẳng ra là anh không lấy vợ đi cho xong, sao phải vòng vo, cái gì không tự quyết được? Ngay cả người thủ cựu như tôi, cũng còn nói được câu ‘lần đầu lấy chồng theo chồng, lần sau lấy chồng theo mình’ nữa là! Anh là người tự do không bị quản thúc, bản thân anh không làm chủ được cho anh, thì ai làm chủ được cho anh?” Liễu Nguyên nói một cách lạnh nhạt: “Em không yêu tôi, em còn cách nào khác không, em làm chủ được không?” Lưu Tô đáp: “Nếu anh thật lòng yêu tôi, anh còn để ý đến những thứ đó à?” Liễu Nguyên nói: “Tôi không hồ đồ đến mức ấy, tôi không cần phải bỏ tiền ra để lấy một người không có chút tình cảm nào với tôi để về quản thúc tôi. Như vậy quá bất công. Và cũng bất công cả với em nữa. Ồ, có lẽ em không quan tâm. Căn bản em tưởng rằng hôn nhân là sự bán dâm trường kỳ...” Lưu Tô không đợi anh ta nói hết câu, liền dập điện thoại đánh cộp một cái xuống, tức đến đỏ mặt tía tai. Anh ta dám sỉ nhục cô như vậy, anh ta dám ư! Cô ngồi xuống giường, bóng tối nóng bức bao trùm lấy cô giống như một tấm thảm nhung màu nho tím. Khắp người mồ hôi, ngứa ngáy, lọn tóc chích lên cổ và lưng, bức bối đến khó chịu. Cô chống hai tay lên má, lòng bàn tay lại lạnh ngắt như băng.
Tiếng chuông điện thoại lại vang lên. Cô không nhấc nữa, mặc cho nó đổ chuông. “Reng reng reng... reng reng reng...” những đợt sóng âm chói tai vang lên trong căn phòng tĩnh mịch, trong khách sạn tĩnh mịch, trong Vịnh Nước Nông tĩnh mịch. Lưu Tô đột nhiên hiểu ra rằng, cô không thể đánh thức cả cái khách sạn Vịnh Nước Nông này được. Bà Từ còn ở ngay phòng kế bên. Cô run rẩy nhấc điện thoại lên, đặt xuống nệm. Nhưng xung quanh quá tĩnh mịch, tuy đã cách một quãng xa, cô vẫn nghe rõ tiếng Liễu Nguyên bình tĩnh nói trong điện thoại: “Lưu Tô, từ cửa sổ phòng em có nhìn thấy trăng không?” Lưu Tô không biết vì sao, bỗng nhiên nghẹn ngào khóc. Mặt trăng trong nước mắt to và mờ ảo, ánh sáng bạc, mang theo viền sáng màu xanh. Liễu Nguyên nói: “Bên anh, trên cửa sổ có một nhành dây hoa rủ xuống, che khuất một nửa. Có thể là hoa hồng, cũng có thể không phải.” Liễu Nguyên không nói thêm nữa, nhưng điện thoại cứ để đó mãi. Mãi lâu sau, mãi lâu sau, Lưu Tô ngờ rằng anh đã ngủ rồi, thì đầu dây bên kia cuối cùng cũng khe khẽ vang lên một tiếng cụp. Tay Lưu Tô run rẩy nhấc điện thoại ra khỏi nệm, đặt về chỗ cũ. Cô sợ anh sẽ gọi đến lần nữa, nhưng anh đã không làm vậy. Tất cả chỉ là một giấc mơ - càng nghĩ càng giống một giấc mơ.
Sáng sớm ngày hôm sau cô cũng không dám hỏi anh, bởi anh sẽ cười giễu cô - “ngày nghĩ sao đêm chiêm bao là vậy”, cô nhớ anh một cách sốt sắng như thế, ngay cả trong mơ anh vẫn gọi điện cho cô và nói ‘anh yêu em’? Thái độ của Liễu Nguyên cũng chẳng khác mấy so với ngày thường. Họ vẫn đi chơi cả ngày với nhau như trước. Lưu Tô bỗng nhiên cảm thấy có quá nhiều người nghĩ họ là một cặp vợ chồng, những nhân viên phục vụ, mấy bà mấy mợ từng nói chuyện với cô trong khách sạn, cũng chẳng trách sao họ lại hiểu lầm. Liễu Nguyên và cô ở cạnh phòng nhau, ra ra vào vào đều kề vai sát cánh, đêm khuya còn cùng nhau đi dạo biển, chẳng phải né tránh một chút nào. Một chị vú nuôi đẩy chiếc xe trẻ con đi qua, cúi đầu chào Lưu Tô một tiếng “bà Phạm”. Mặt Lưu Tô cứng ngắc, cười cũng chẳng đành, mà không cười cũng chẳng xong, chỉ đành cau mày liếc Liễu Nguyên một cái, khẽ giọng nói: “Chẳng hiểu sao họ nghĩ thế!” Liễu Nguyên cười nói: “Ai gọi em là bà Phạm em cứ mặc họ; nếu họ gọi em là cô Bạch, mới chẳng hiểu sao họ nghĩ thế!” Mặt Lưu Tô biến sắc. Liễu Nguyên xoa cằm, mỉm cười nói: “Em đừng có gánh oan cái hư danh này!”
Lưu Tô ngạc nhiên nhìn Liễu Nguyên, bỗng nhiên hiểu ra rằng con người anh ta thật cay độc. Trước mặt mọi người, anh ta cố ý ra vẻ gần gũi với cô, khiến cô không có cách nào chứng minh được giữa hai người chưa có quan hệ gì. Tình thế của cô như ngồi lên lưng cọp, về quê không được, gặp bố mẹ không xong, ngoại trừ việc làm tình nhân cho anh ta, sẽ chẳng còn con đường nào khác. Vậy nếu cô chiều theo anh ta, không những bao công sức trước đây của cô trở thành công cốc, mà sau này mạt kiếp cũng không xoay chuyển lại được. Cô không thể! Cho dù cô phải gánh oan cái hư danh này, anh ta bất quá cũng chỉ ăn thua trên lời nói mà thôi. Suy cho cùng, anh ta vẫn chưa có được cô. Mà anh ta đã chưa có được cô, có lẽ một ngày nào đó anh ta sẽ quay lại bên cô, mang theo điều kiện nghị hòa khả dĩ.
Cô đưa ra quyết định, bèn nói với Liễu Nguyên rằng cô định quay về Thượng Hải, Liễu Nguyên cũng không níu cô thêm, nhiệt tình đòi tiễn cô về tận nhà. Lưu Tô nói: “Việc đó thì không cần đâu. Anh còn phải đi Tân Gia Ba mà?” Liễu Nguyên đáp: “Dù sao cũng đã lỡ rồi, lỡ thêm một thời gian nữa cũng chẳng sao. Ở Thượng Hải cũng có việc đợi giải quyết.” Lưu Tô biết anh ta vẫn có một chính sách nhất quán, chỉ sợ mọi người không tiếp tục bàn tán về đôi họ. Mọi người càng nói có sách mách có chứng, cô càng khó có thể bao biện, và đương nhiên Thượng Hải không thể là chỗ yên thân được nữa. Lưu Tô suy tính, cho dù Liễu Nguyên không đưa cô về, mọi việc cũng không thể giấu được người nhà cô. Cô đã ra khỏi nhà, thì cũng phải để anh tiễn cô về một đoạn. Bà Từ cảm thấy hết sức ngỡ ngàng khi thấy đôi họ đang nồng thắm mặn mà, bỗng dưng tách nhau ra, bà hỏi Lưu Tô, rồi hỏi Liễu Nguyên, cả hai người tuy đều nói rằng bị người kia đá, nhưng bà Từ nào có chịu tin.
Ở trên tàu, họ có rất nhiều cơ hội để gần gũi, nhưng Liễu Nguyên đã có thể ngăn được ánh trăng ở Vịnh Nước Nông, thì hoàn toàn có thể ngăn được ánh trăng trên boong tàu. Từ đầu chí cuối anh không có một câu nào chắc chắn với cô cả. Thái độ của anh nhàn nhạt, nhưng Lưu Tô nhận ra cái vẻ thanh thản của anh ta là vẻ thanh thản của sự tự mãn - anh ta đã nắm chắc được trái tim cô, cô không thể tuột khỏi bàn tay anh được.
Đến Thượng Hải, Liễu Nguyên tiễn cô về đến tận nhà, anh không xuống xe, nhưng trong Bạch công quán từ lâu đã có tai mắt, dò biết được cô Sáu sống chung với Liễu Nguyên ở Hồng Kông. Nay cô ta chơi bời cùng người ta hơn một tháng, rồi trở về như không có chuyện gì, rõ ràng là cố ý làm mất mặt nhà họ Bạch.
Lưu Tô dụ dỗ Liễu Nguyên, chẳng qua là vì tiền của anh này. Một khi cầm được tiền rồi, chắc sẽ không lẳng lặng về nhà như vậy, rõ ràng là không hưởng được lợi gì từ phía anh ta. Lẽ xưa nay, đàn bà mắc bẫy đàn ông đã là đáng chết rồi; đằng này đàn bà còn gài bẫy để đàn ông mắc phải, thì càng là một ả dâm phụ; nếu đàn bà muốn gài bẫy để đàn ông mắc phải nhưng không thành, ngược lại còn mắc bẫy của người ta, vậy thì tội dâm ác còn nhân đôi, có giết ả cũng hiềm bẩn dao kéo. Ngày thường ở Bạch công quán, ai có lỗi bằng cái hạt vừng, mọi người cũng sẽ khiến nó nổ bung lên. Đến khi thật sự gặp phải tội đại nghịch vô đạo, ai nghe thấy cũng phải rợn mình, thì các cậu các mợ lại quá phấn khích, nói lắp ba lắp bắp chẳng được câu nào, mọi người đành ra nghị quyết trước là: “Cấm có vạch áo cho người xem lưng”, nhưng sau đó lại chia nhau đi kể lể với họ hàng bè bạn, bắt họ phải thề giữ bí mật, rồi thì lại đi dò hỏi từng người, nghe ngóng xem họ có biết không, biết được bao nhiêu. Cuối cùng cả nhà cảm thấy không thể giấu giếm thêm nữa, thế là thẳng thắn công bố rộng rãi, mở cửa sổ rống ầm ĩ lên, rồi vỗ đùi đánh đét cảm khái kể lể một phen. Bấy nhiêu thứ thủ tục ấy, họ cũng phải vất vả bận bịu trong cả một mùa thu, bởi vậy lần lữa không đưa ra hành động dứt khoát xử lý Lưu Tô. Bản thân Lưu Tô cũng thừa biết, lần này cô về, vị thế đã khác hẳn ngày trước. Cô và cái gia đình này đã đoạn tuyệt tình nghĩa từ lâu rồi. Cô cũng đã từng nghĩ ra ngoài tìm lấy một việc lặt vặt, làm kiếm bát cơm. Dẫu khổ hơn nữa, cũng còn hơn phải chịu ấm ức trong cái nhà này. Nhưng nếu tìm dăm ba cái nghề thấp kém, thì lại đánh mất đi thân phận của một tiểu thư đài các. Thân phận ấy, có ăn vào cũng vô vị, song vứt đi lại tiếc. Đặc biệt là lúc này, đối với Liễu Nguyên, cô vẫn chưa tuyệt vọng, cô không thể tự hạ thấp giá trị của bản thân mình được, bằng không anh ta sẽ càng có cớ để cự tuyệt lấy cô. Bởi vậy bất luận thế nào cô cũng phải nhẫn nhịn một thời gian.
Đến cuối tháng Mười một, Phạm Liễu Nguyên quả nhiên đánh điện từ Hồng Kông lại. Tờ điện báo ấy, người trong Bạch công quán đều truyền tay nhau xem hết. Bà cụ Bạch sau đó mới gọi Lưu Tô lại, đưa tận tay cho cô. Điện báo chỉ vẻn vẹn có mấy chữ: “Xin hãy tới Hồng Kông. Vé tàu đã nhờ Thông Thế Long mua rồi.” Bà cụ Bạch thở dài một hơi, nói: “Anh ta đã gọi con đi, thì con đi đi!” Cô ti tiện đến vậy ư? Cô rớt nước mắt. Vừa rơi nước mắt, cô đột nhiên mất đi sự khống chế, cô phát hiện ra mình đã không thể nào nhẫn nhịn được hơn nữa. Một mùa thu mà cô đã già đi hai tuổi - cô không thể chống lại được sự già nua nữa! Thế rồi cô rời khỏi nhà đến Hồng Kông lần thứ hai. Lần đi này, cô đã đánh mất cảm giác mạo hiểm vui sướng của lần đầu, cô đã thất bại. Cố nhiên, mọi người đều thích bị khuất phục, nhưng điều đó chỉ hạn chế trong một phạm vi nào đó. Nếu cô thuần túy bị chinh phục bởi phong độ và sức hấp dẫn của Liễu Nguyên, điều đó sẽ khỏi cần phải nói, nhưng trong đó còn pha tạp áp lực gia đình - đây mới chính là phần đau khổ nhất.
Liễu Nguyên đứng đón cô ở bến tàu dưới làn mưa bụi mịt mờ. Anh nói chiếc áo mưa pha lê màu xanh của cô giống như một chiếc lọ, rồi chua thêm một câu: “Đó là lọ thuốc.” Cô tưởng rằng anh đứng đó chế giễu sự yếu ớt của cô, nhưng anh lại ghé tai cô nói thêm một câu nữa: “Em là thuốc để chữa bệnh cho anh.” Cô đỏ mặt, lườm Liễu Nguyên.
Anh đặt lại căn phòng ngày trước cho cô. Đêm hôm ấy, khi cô về phòng, cũng đã là hai giờ. Sau khi trang điểm trong phòng tắm xong, cô tắt đèn đi ra, sực nhớ công tắc đèn trong phòng đặt ở đầu giường, đành phải mò mẫm bước tới, chân cô bỗng giẫm phải một chiếc giày da trên mặt sàn, suýt nữa ngã dúi dụi, đang trách mình sơ suất, không cất giày cẩn thận, trên giường bỗng có tiếng người cười: “Đừng sợ em! Giày của anh đấy!” Lưu Tô ngừng một lát, hỏi: “Anh đến làm gì?” Liễu Nguyên trả lời: “Anh luôn muốn ngắm trăng từ cửa sổ phòng em. Bên đây nhìn rõ hơn bên anh.”... Cú điện thoại gọi đêm hôm ấy quả thực là do anh gọi - không chỉ là một giấc mơ! Anh yêu cô. Con người cay độc này, yêu cô, vậy mà anh ta lại đối xử với cô chỉ như vậy! Cô thấy lạnh lòng, liền quay người đi tới trước bàn trang điểm. Mảnh trăng cuối tháng Mười một chỉ là một móc câu màu trắng, giống như hoa sương trên ô cửa kính. Nhưng mặt biển dù sao cũng có một chút hơi trăng, ánh vào cửa sổ, thứ ánh sáng mong mỏng soi sáng mặt gương. Lưu Tô chậm rãi gỡ mạng trùm tóc xuống, lấy tay chải tóc, mái tóc rối, những chiếc kẹp rơi xuống đất kêu leng keng. Lưu Tô đội lại mạng trùm tóc, miệng ngậm chặt đầu mạng, cau mày cúi xuống nhặt từng chiếc kẹp lên. Liễu Nguyên đi chân đất đến sau lưng Lưu Tô, một tay khẽ đặt lên đầu, xoay mặt Lưu Tô lại, rồi hôn lên môi cô. Mạng trùm tóc rớt xuống đất. Đây là lần đầu tiên anh hôn cô, vậy mà cả hai người đều nghi hoặc đây không phải lần đầu tiên, bởi trong mộng tưởng của họ việc này đã diễn ra vô số lần. Trước kia họ có rất nhiều cơ hội - hoàn cảnh thích hợp, tâm trạng thích hợp; Liễu Nguyên từng nghĩ, Lưu Tô chắc cũng đã nghĩ đến khả năng này. Vậy mà cả hai đều là những người tinh quái, suy tính quá chi li để rồi cuối cùng chẳng ai dám mạo hiểm. Lúc này sự việc bỗng dưng trở thành hiện thực, cả hai đều đờ đẫn. Lưu Tô cảm thấy mình đi đúng một vòng rồi dừng lại trước gương. Chiếc xường xám cộc tay áp chặt lên mặt gương lạnh. Môi anh từ đầu chí cuối không hề rời khỏi môi cô. Anh còn đẩy cô vào gương, cả hai như ngã vào trong gương, vào trong một thế giới mập mờ khác, se lạnh, nóng bỏng, hoa lửa rừng cháy thẳng trên người họ.
Ngày hôm sau, anh bảo với cô rằng, một tuần sau anh sẽ đi Anh. Cô đòi anh đưa cô đi cùng, nhưng anh bảo rằng không thể. Anh đề nghị thuê cho cô một căn hộ ở Hồng Kông để cô ở lại, đợi nửa năm một năm anh sẽ quay về. Nếu cô muốn về nhà ở Thượng Hải, anh cũng sẽ tùy theo ý cô. Cô đương nhiên không muốn về Thượng Hải. Những con người ở nhà kia - cách họ càng xa càng tốt. Một mình ở lại Hồng Kông, có cô đơn một chút cũng được. Vấn đề ở chỗ khi anh trở về, tình hình có gì thay đổi, thì đều là ở anh. Tình yêu trong một tuần liệu có níu giữ được trái tim của anh không? Nhưng xét ở một góc độ khác, Liễu Nguyên không phải là người làm gì đó lâu dài, cái kiểu thoắt hợp thoắt tan như thế này, anh chẳng có cơ hội để chán ngấy, điều này chắc gì đã không có lợi cho cô. Một tuần luôn đáng lưu luyến hơn một năm... Anh quả nhiên sẽ mang theo kỷ niệm nồng nàn quay về tìm cô, cô có lẽ cũng thay đổi! Người phụ nữ gần 30 tuổi, luôn có vẻ yêu kiều, mềm mại khác thường, nhưng cũng sẽ tàn lụi chỉ trong nháy mắt. Tóm lại, việc giữ lấy một người đàn ông lâu dài mà không có sự ràng buộc của hôn nhân là một việc rất khó khăn, rất đau khổ, cơ hồ còn là việc không thể nào thực hiện được. Ôi! Mặc kệ nó đi! Cô thừa nhận Liễu Nguyên rất đáng yêu, anh mang lại cho cô sự kích thích tuyệt diệu, nhưng mục đích mà cô đi theo anh suy cho cùng là sự an toàn về mặt kinh tế. Điểm này, Lưu Tô biết cô có thể yên lòng.
Họ cùng ngắm nghía một căn hộ nằm ở đường Babington, tọa lạc trên một con dốc. Căn phòng được sơn sửa xong, họ thuê một chị giúp việc người Quảng Đông, tên là A Túc. Đồ nội thất mới chỉ đặt làm được vài thứ quan trọng nhất, Liễu Nguyên đã sắp phải ra đi. Những việc còn lại đành để Lưu Tô dần dần thu xếp, trong nhà còn chưa có lò sưởi, chiều tối mùa đông đó, lúc tiễn Liễu Nguyên lên tàu, Lưu Tô ăn quấy quá vài miếng sandwich ở khoang nhà ăn của tàu. Cô ấm ức nghẹn lòng, cứ vậy uống thêm vài ly rượu, gió biển lại không ngừng thổi tới, đến lúc về cũng đã có đôi phần say xỉn. Đến nhà, A Túc đang ngồi trong bếp đun nước rửa chân cho đứa con chị ta dắt theo. Lưu Tô đi quan sát mọi ngóc ngách trong nhà một lượt, đi đến đâu bật đèn đến đó. Lớp sơn xanh trên cửa sổ phòng khách vẫn chưa khô, cô chạm ngón trỏ vào sờ thử, sau đó bôi ngón tay nhơm nhớp lên tường, bôi một cái liền có một vết sơn xanh bám lại. Sao lại không nhỉ? Điều này đâu có phạm pháp? Đây là nhà mình cơ mà! Cô cười, rồi in thẳng dấu tay màu xanh rõ rệt lên bức tường quét vôi màu bồ công anh.
Cô lảo đảo bước vào căn phòng bên cạnh. Một căn phòng trống rỗng, hết phòng này đến phòng khác, tất cả chỉ là một thế giới trống rỗng. Cô cảm giác mình có thể bay lên trần nhà. Căn phòng quá trống trải, cô chỉ có thể đem ánh đèn ra lấp đầy khoảng trống đó. Ánh sáng như vẫn không đủ, ngày mai cô sẽ nhớ thay mấy bóng đèn có công suất lớn hơn.
Cô bước lên cầu thang. Trống rỗng đến là hay, cô sốt sắng cần một sự lặng thinh tuyệt đối. Cô đã quá mệt rồi, khiến Liễu Nguyên vui là một việc quá vất vả, tính khí của anh xưa nay đến cổ quái; đối với cô, vì anh ta yêu thật lòng nên lại càng cổ quái, lúc nào cũng không vui. Anh đi rồi, đâm ra lại hay, điều đó khiến cô thở phào nhẹ nhõm. Giờ thì cô chẳng cần ai hết - kẻ đáng ghét, người đáng yêu, cô nhất loạt bất cần. Từ hồi nhỏ, thế giới của cô đã quá chật chội. Xô lấn, bon chen, giẫm đạp, ôm vác, từ già chí nhỏ, rặt những người là người. Một nhà gần hai mươi con người ở chung, bạn có cắt móng tay trong phòng cũng có người đứng ngoài cửa sổ nhìn thấy. Vất vả lắm mới cao chạy xa bay, đến được nơi không có người này. Nếu cô chính thức làm vợ của Liễu Nguyên, cô sẽ có rất nhiều trách nhiệm, cô sẽ không rời xa con người được. Nhưng hiện tại, cô bất quá chỉ là tình nhân của Liễu Nguyên, không lộ diện, cô phải trốn tránh mọi người, mọi người cũng phải tránh cô. Yên lặng thì yên lặng đấy, chỉ tiếc rằng ngoài con người ra, cô không còn hứng thú nào khác. Với một chút kiến thức vốn có của mình, dựa vào chút bản lĩnh ấy, cô có thể làm một người vợ hiền, một người mẹ tận tâm; nhưng ở đây cô không có đất dụng võ. “Giữ nhà” ư, căn bản làm gì có nhà để giữ. Trông nom trẻ con ư, Liễu Nguyên đâu cần trẻ con. Sống tiết kiệm ư, cô chẳng cần phải lo nghĩ về chuyện tiền bạc. Cô làm sao có thể tiêu khiển hết quãng thời gian này? Tìm bà Từ đánh bài hay đi xem kịch? Về sau dần dần mê hát hò, hút thuốc phiện, rồi bước vào con đường của các bà các mợ? Cô đột nhiên đứng sững lại, ưỡn ngực, hai tay chắp chặt sau lưng. Làm gì đến nỗi ấy! Cô không phải loại người hạ lưu đó, cô kiềm chế được bản thân mình. Nhưng... cô có thể kiềm chế để bản thân cô khỏi phát điên lên không? Ba căn buồng hình chữ Phẩm[4] trên lầu và ba căn buồng hình chữ Phẩm dưới lầu, tất cả đều được bật đèn sáng trưng. Sàn nhà mới đánh sáp, thành ra ánh đèn chiếu trông sáng loáng. Nhưng không một bóng người. Hết buồng này đến buồng khác, thét gào trong cơn trống trải... Lưu Tô nằm lên giường, rồi lại muốn xuống tắt đèn, nhưng lại không cựa quậy nổi. Sau đó cô nghe thấy tiếng A Túc lê đôi guốc mộc bước lên lầu, vừa đi vừa tắt đèn bùm bụp, bấy giờ thần kinh căng thẳng của cô mới dần dần được buông lỏng.
Ngày hôm đó là ngày mồng 7 tháng Mười hai, năm 1941. Ngày mồng 8 tháng Mười hai, tiếng đại bác nổ rền trời. Giữa những tiếng nổ, màn sương bạc của một sớm mùa đông dần dần tan rã, trên đỉnh núi, trong thung lũng, cư dân toàn đảo đều ngóng nhìn ra biển, họ nói rằng: “Trận chiến đã bắt đầu!” Không ai có thể tin được, vậy mà cuối cùng chiến tranh cũng đã nổ ra. Lưu Tô một thân một mình ở đường Babington, nào có biết gì. Mãi đến khi A Túc dò hỏi được thông tin từ nhà hàng xóm, cô mới bàng hoàng thức tỉnh, lúc bấy giờ bên ngoài đã bước vào giai đoạn chiến đấu cam go. Gần đường Babington có một viện thí nghiệm khoa học, trên nóc dựng một khẩu pháo cao xạ, pháo đạn không ngừng bay lại, một chuỗi âm thanh nhức nhối vang lên: “Chíu bằng bằng bằng bằng bằng...” sau đó lại một tiếng “uỳnh” dội xuống mặt đất. Chuỗi âm thanh “chíu bằng bằng bằng bằng...” đã xé rách không khí, giật đứt dây thần kinh. Màn trời xanh nhạt bị xé thành từng mảnh, bay phần phật trong trận gió hàn. Trong gió cùng lúc văng lại vô số mẩu dây thần kinh đứt gãy.
Căn phòng của Lưu Tô trống rỗng, lòng cô cũng trống rỗng, nhà không dự trữ lương thực, đâm ra bụng cũng trống rỗng. Trước cảnh vườn không nhà trống, trận chiến đáng sợ này càng trở nên dữ dội. Gọi điện đến nhà bà Từ ở gần trường đua ngựa nhưng máy toàn bận, bởi lẽ những người có mắc điện thoại trong thành phố không ai không bận gọi điện hỏi han xem nơi nào an toàn, để lên kế hoạch tị nạn. Đến tận chiều Lưu Tô mới gọi được đến nhà bà ta, nhưng đầu dây bên kia đổ chuông mãi không có người nhấc, chắc hẳn ông bà Từ đã vội vã bỏ chạy, rời đến vùng nào đó yên bình hơn. Lưu Tô không có dự định gì, pháo đạn lại vang lên mỗi lúc một kịch liệt. Cỗ pháo cao xạ gần nhà trở thành tiêu điểm chú ý của máy bay. Tiếng máy bay vù vù quanh nóc nhà, “vù vù vù...” bay quanh một vòng rồi quành lại, “vù vù vù...” một cách khổ sở, như chiếc máy xoắn ốc của nha sĩ, gí thẳng vào nơi sâu thẳm của linh hồn. A Túc ôm đứa con đang khóc rống lên, ngồi ở bậu cửa phòng khách, chị ta dường như rơi vào trạng thái hôn mê, lắc lư sang hai bên, rồi lầm rầm hát như mê sảng, vừa dỗ vừa vỗ nhẹ vào người đứa bé. Ngoài cửa sổ, một loạt đạn “chíu bằng bằng bằng bằng...” lại vang lên, một tiếng “bùm” cắt phăng một góc mái hiên, cát đá rào rào đổ xuống. A Túc hét lên một tiếng, bật phắt người dậy, bế con chạy ra ngoài. Lưu Tô đuổi kịp đến cửa, túm lấy chị ta hỏi: “Chị chạy đi đâu?” A Túc đáp: “Không ở đây được nữa đâu! Tôi... tôi đưa cháu nó vào cống ngầm tránh đã!” Lưu Tô nói: “Chị điên rồi hả! Chị muốn chết hả!” A Túc rối rít nói: “Cô thả cho mẹ con tôi đi đi! Tôi... tôi chỉ có mỗi đứa con này thôi... không thể chết được... cứ vào cống ngầm tránh đã...” Lưu Tô ra sức kéo A Túc lại, chị ta đẩy cô ra, khiến cô ngã nhoài xuống đất, A Túc nhân đó bèn lao ra khỏi cửa. Đúng lúc này, một tiếng nổ rung trời chuyển đất vang lên, cả thế giới tối sầm lại, giống như một chiếc hòm to khổng lồ, đóng sập nắp xuống đánh “rầm” một cái. Vô số nỗi oán hờn đều bị nhốt cả bên trong.
Lưu Tô tưởng mình đã chết, ai ngờ vẫn còn sống. Vừa mở mắt ra, cô thấy khắp mặt đất phủ đầy mảnh vụn thủy tinh và bóng nắng. Cô cựa mình bò dậy, đi tìm A Túc, A Túc ôm chặt lấy đứa con, đầu cúi xuống, tì trán vào bức tường xi măng bên trong cổng, người đờ đẫn vì cú rung chuyển vừa rồi. Lưu Tô kéo chị ta vào nhà thì nghe thấy phía ngoài inh ỏi, một quả bom rơi xuống nhà hàng xóm, để lại ngoài vườn một miệng hố lớn. Sau cú nổ lớn lần này, chiếc hòm lại đóng lại, nhưng chưa được bình yên. Những chuỗi âm thanh “bằng bằng bằng” tiếp tục vang lên, dường như có người dùng búa đập liên tiếp lên nắp hòm. Đập từ sáng đến tối, rồi lại đập từ tối đến sáng.
Lưu Tô cũng nghĩ đến Liễu Nguyên, không biết tàu của anh đã rời khỏi cảng chưa, có bị đánh chìm không. Nhưng nghĩ đến anh Lưu Tô lại cảm thấy hoang mang, giống như đã bước sang một kiếp khác. Giai đoạn hiện tại này hoàn toàn không liên quan gì đến quá khứ trước kia của cô, tựa như một bài hát trong vô tuyến, đang hát được nửa thì đột nhiên phát ra những tiếng nổ roẹt roẹt do ảnh hưởng của thời tiết xấu, nhưng sau khi tiếng nổ chấm dứt, bài hát vẫn tiếp tục vang lên, chỉ sợ sau khi tiếng nổ chấm dứt, bài hát đã hát xong, như vậy sẽ chẳng còn được nghe nữa.
Ngày hôm sau, Lưu Tô và mẹ con A Túc chia nhau ăn hết mấy miếng bánh quy trong lọ, tinh thần dần suy nhược, mỗi mảnh vụn của bom đạn réo lên lại giống một cú tát lên mặt cô. Ngoài đường có một chiếc xe tải quân dụng rầm rầm chạy tới, bất ngờ đỗ ngay trước cửa. Tiếng chuông cửa reo lên, Lưu Tô đích thân ra mở cửa thì thấy Liễu Nguyên, cô vội nắm bàn tay rồi ôm chặt lấy cánh tay anh, như A Túc ôm đứa con mình. Cả người lao về phía trước, đập đầu vào bờ tường xi măng phía trong cổng. Liễu Nguyên đưa bàn tay kia ra đỡ lấy đầu cô, cuống quýt nói: “Em hoảng quá à? Đừng cuống, đừng cuống nhé! Em vào thu xếp những vật dụng cần dùng, mình đến Vịnh Nước Nông luôn. Mau lên, mau lên em!” Lưu Tô tất tưởi chạy vào nhà, một mặt hỏi: “Bên Vịnh Nước Nông không sao chứ anh?” Liễu Nguyên nói: “Mọi người đều bảo chắc không tới bờ bên ấy đâu. Vả lại ở khách sạn việc ăn uống sẽ chẳng có vấn đề gì, họ dự trữ nhiều lắm.” Lưu Tô đáp: “Tàu của anh...” Liễu Nguyên trả lời: “Tàu chưa đi. Người ta đưa hành khách ở khoang đầu tới khách sạn Vịnh Nước Nông luôn. Vốn dĩ tối qua anh định về đón em rồi, nhưng không gọi được xe, xe bus công cộng thì anh không chen lên được. Khó khăn lắm hôm nay mới nghĩ cách kiếm được cái xe này về.” Lưu Tô đâu còn tâm trí để chỉnh lý tư trang, chỉ nhét quấy quá mấy thứ vào một chiếc ba lô con. Liễu Nguyên cho A Túc hai tháng tiền lương, dặn chị ta trông nhà. Cả hai người lên xe liền cúi mặt xuống nằm úp trong khoang chở hàng của xe tải, bên trên có căng lớp bạt màu vàng lục, trên đường xóc lên xóc xuống, khuỷu tay và đầu gối của họ đều bị trầy xước.
Liễu Nguyên than thở: “Sau vụ này, phần kết của biết bao câu chuyện đã tan thành mây khói.” Lưu Tô cũng buồn rầu, một lúc lâu sau mới nói: “Anh mà chết thì câu chuyện của em chắc chấm dứt thật. Còn em chết thì câu chuyện của anh còn dài lắm!” Liễu Nguyên cười nói: “Em định thủ tiết thờ anh sao?” Thần kinh của hai người có vẻ hơi bất thường, vô duyên vô cớ họ cùng cười ha hả. Mà đã cười là không sao dừng lại được. Cười xong thì toàn thân run rẩy.
Vượt qua màn mưa bom bão đạn, chiếc xe tải đã đến được Vịnh Nước Nông. Tầng một của khách sạn Vịnh Nước Nông có quân đội đóng quân, Liễu Nguyên và Lưu Tô vẫn ở trong căn phòng cũ ở tầng trên. Ở ổn định rồi thì mới phát hiện ra, tuy khách sạn có nhiều lương thực dự trữ, nhưng đều để đó cho quân lính ăn. Ngoài hoa quả, thịt bò, dê và pho mát đóng hộp ra, còn có từng túi bánh mì trắng và bánh mì vỏ trấu. Mỗi ngày khách chỉ được phát cho hai miếng bánh quy soda, hoặc hai cục đường vuông, ai nấy đều đói rã họng, chỉ còn thoi thóp.
Hai ngày đầu ở Vịnh Nước Nông cũng có thể coi là bình lặng, nhưng tình hình sau đó lại đột ngột thay đổi, lửa dần dần cũng lan tới đó. Tầng trên khách sạn không có vật che chắn, mọi người không thể náu mình trên đó, đâm ra đều xuống cả bên dưới, ở nguyên trong nhà ăn, cửa kính trong nhà ăn được mở choãi ra, trước cửa có chất các túi cát, quân Anh quốc dựng khẩu pháo lớn ở đó, bắn ra ngoài. Chiến hạm ở trong vịnh dò đúng chỗ pháo đạn được bắn ra, nhất nhất đều bắn trả lại. Quãng giữa cây cọ và bồn phun nước, đạn bay đi bay lại như thoi đưa. Liễu Nguyên và Lưu Tô cùng mọi người áp sát lưng vào bờ tường trong đại sảnh. Khung cảnh u ám đó càng giống tấm thảm Ba Tư cổ xưa được thêu lên các loại hình nhân vật, hầu tước, công chúa, tài tử, giai nhân. Chiếc thảm treo trên cây sào, mặc cho gió đập phủi những bụi bặm phía trên, đập rồi lại phủi, đập cật lực, đập đến nỗi người bên trên cùng đường mạt vận. Đạn pháo bắn về bên này, họ chạy sang đầu bên kia; bắn về bên kia, lại chạy sang đầu bên này. Cuối cùng cả một gian đại sảnh bị bắn thủng lỗ chỗ, sạt xuống một mặt tường, chẳng còn chỗ nào để chạy trốn nữa, đành ngồi xuống đất, phó mặc số trời.
Đến bước này Lưu Tô lại cảm thấy hối hận khi có Liễu Nguyên ở bên, một người dường như lại có hai cơ thể, cũng tức là sẽ phải chịu nguy hiểm gấp hai lần. Một viên đạn nếu không bắn trúng cô, có thể sẽ bắn trúng anh, nếu anh chết, hoặc giả tàn phế, cuộc sống của cô sẽ khó lòng tưởng tượng được. Nhưng nếu cô bị thương, để khỏi lụy đến anh, cô cũng đành nghiến răng chịu chết. Dẫu chết, cũng không chết sạch sẽ sảng khoái một mình. Cô đoán Liễu Nguyên cũng nghĩ như vậy. Những chuyện khác cô không biết, nhưng trong tích tắc này, cô chỉ có anh và anh cũng chỉ có cô.
Đôi bên đã đình chiến. Những đôi trai gái bị vây khốn trong khách sạn Vịnh Nước Nông dần dần chạy vào trong thành. Đi qua sườn đất vàng, sườn đất đỏ, lại là sườn đất đỏ, sườn đất vàng, dường như ngờ rằng đã đi sai đường, nên lại quành về. Nhưng không, con đường khi trước không có những miệng hố vỡ toác, chứa đầy đất đá thế này. Liễu Nguyên và Lưu Tô nói chuyện rất ít. Trước kia ngồi trên xe đi một đoạn đường là có một đoạn trò chuyện, nhưng giờ đã đi bộ được mấy mươi dặm mà họ vẫn không nói với nhau một lời nào. Thi thoảng nói một câu, nhưng mới nói ra một nửa thì lần nào người kia cũng biết được nửa sau rồi, không cần thiết phải nói tiếp nữa. Liễu Nguyên nói: “Em nhìn kìa, trên bãi biển!” Lưu Tô đáp: “Vâng!” Trên bãi biển giăng đầy những tấm lưới sắt ngổn ngang lởm chởm, bên ngoài lưới sắt, nước biển trắng nhạt cuồn cuộn nuốt lấy dải cát vàng nhạt. Trời mùa đông tạnh ráo cũng có màu xanh phớt nhạt. Đã qua mùa hoa lửa rừng. Lưu Tô nói: “Bức tường kia...” Liễu Nguyên trả lời: “Cũng chưa lại xem sao.” Lưu Tô thở dài nói: “Thôi anh ạ!” Liễu Nguyên đi bộ đã nóng người, liền cởi áo ngoài vắt lên cánh tay, cánh tay cũng chảy mồ hôi. Lưu Tô nói: “Anh sợ nóng thì để em cầm!” Nếu là ngày trước, Liễu Nguyên sẽ tuyệt đối không chịu, nhưng giờ anh ta đã không còn ga lăng nữa, nên cuối cùng cũng đưa cho cô. Đi thêm một đoạn, núi dần dần cao hơn. Chẳng biết do gió thổi hay do bóng mây trôi qua, sườn núi với hai mảng màu xanh vàng từ từ râm lại. Đến khi nhìn kỹ thì hóa ra không phải vì gió cũng chẳng phải vì mây, mà là vì mặt trời nhởn nhơ trôi qua đầu núi, một nửa sườn núi bên này chìm vào trong bóng xanh khổng lồ. Trên núi có mấy nhà đang đốt lửa, khói bốc lên - khói phía Bắc núi màu trắng, khói phía Nam núi màu đen - vậy mà mặt trời chỉ nhởn nhơ trôi qua đầu núi.
Về đến nhà, đẩy cánh cửa khép hờ ra, từ trong nhà một đàn bồ câu vỗ cánh bay ra. Trong hành lang đầy bụi bặm và phân chim. Lưu Tô bước tới đầu cầu thang, bất giác hét lên “ối giời ơi”. Chiếc rương cô mới đặt làm nằm nghiêng ngả, mở chềnh ềnh ra trên gác hai, còn có hai chiếc khác trôi theo cầu thang lăn xuống dưới, chân cầu thang ngập ngụa những lụa là gấm vóc. Lưu Tô khom lưng, nhặt lên một chiếc xường xám bằng nhung màu vàng mật, nhưng không phải là đồ của cô, rặt những cáu ghét mồ hôi, vết thuốc lá và cả mùi nước hoa rẻ tiền. Cô lại phát hiện ra rất nhiều đồ dùng của phụ nữ lạ, các tạp chí rách nát, hộp quả vải ngâm đã khui nắp, rớt ra những giọt nước đường nhầy nhụa còn sót lại, để lẫn một đống với quần áo của cô. Căn phòng này từng bị quân lính chiếm đóng sao? Những binh lính người Anh mang theo gái? Dường như họ bỏ đi quá đường đột. Những dân nghèo bản địa đi cướp từng nhà, quá bán chưa từng qua thăm đây, bằng không, đã không để lại tất cả những thứ này. Liễu Nguyên giúp cô lớn giọng gọi A Túc. Con chim bồ câu lưng xám cuối cùng, lách mình chui ra, lướt ngang qua ánh nắng vàng bên trong cổng, bay vụt ra ngoài.
A Túc chẳng biết đi đâu. Nhưng những chủ nhân trong nhà vẫn phải sống dù không có chị ta. Họ không kịp dọn dẹp nhà cửa, đã phải đi lo chuyện ăn uống, tốn tiền cho rất nhiều việc, phải mua một bao gạo với giá cao. Cũng may gas không bị cắt, nhưng nước máy thì không còn. Liễu Nguyên xách chiếc thùng bằng chì vào trong núi kín một thùng nước suối về nấu cơm. Sau đó ngày nào họ cũng chỉ mải mê ăn uống và quét dọn nhà cửa. Liễu Nguyên làm tất cả các công việc nặng như quét dọn, lau cọ sàn, giúp Lưu Tô vắt những chiếc chăn ga nặng trịch. Lưu Tô lần đầu vào bếp nấu cơm, nhưng lại nấu ra được mùi vị quê nhà. Vì Liễu Nguyên vẫn thèm các món ăn Mã Lai, nên cô lại học nấu các món “sadai” chiên và cà ri cá. Tuy họ cảm thấy hứng thú chưa từng có đối với ẩm thực, song vẫn tích cực dè sẻn. Liễu Nguyên không mang nhiều tiền Hồng Kông, hễ có tàu đến, họ vẫn phải nghĩ cách trở về Thượng Hải.
Ở lại Hồng Kông sau kiếp nạn này không phải là kế lâu dài. Ban ngày tất bật bận rộn rồi cũng trôi qua. Nhưng hễ đến tối, trong cái thành phố chết chóc này, không có đèn, không có tiếng người, chỉ có những cơn gió lạnh mênh mông, ba thang âm “ò...e...í” thét gào vô cùng tận, tiếng này ngừng, tiếng kia lại dần réo lên, ba con rồng xám xịt song hành, bay thẳng một mạch về phía trước, thân rồng kéo dài tít tắp, chẳng nhìn thấy đuôi. Ba tiếng “Ò...e...í” réo cho đến cùng, ngay cả con rồng cũng không còn nữa, chỉ còn một dải không khí hư vô, một nhịp cầu hư vô dẫn vào bóng tối, dẫn vào khoảng hư vô của hư vô. Nơi đây mọi thứ đều đã chấm hết. Chỉ còn lại một ít tường xiêu vách đổ với những con người văn minh đánh mất trí nhớ, lảo đảo mò mẫm dưới bóng hoàng hôn, như thể tìm kiếm chút gì, nhưng thực ra mọi thứ đều đã chấm hết.
Lưu Tô ôm chăn ngồi nghe tiếng gió buồn lạnh. Cô thực biết rằng bức tường xây bằng gạch xám gần Vịnh Nước Nông chắc chắn vẫn sừng sững đứng đó. Gió ngưng lại, như ba con rồng màu xám cuộn tròn mình trên bờ tường, lấp lánh những chiếc vảy bạc dưới ánh trăng. Cô dường như đang nằm mơ, lại đi đến chân tường, rồi Liễu Nguyên tiến lại, cuối cùng cô cũng gặp được Liễu Nguyên... Trong cái thế giới đầy biến động này, tiền tài, bất động sản, tất cả những thứ tưởng chừng lâu bền, đều không thể dựa dẫm được nữa. Thứ có thể dựa dẫm chỉ có hơi thở trong lồng ngực cô, và con người đang nằm ngủ bên cô. Lưu Tô đột nhiên bò đến bên Liễu Nguyên, ôm lấy anh qua lớp chăn bông. Từ trong chăn, Liễu Nguyên cũng đưa tay ra nắm chặt lấy tay cô. Họ nhìn thấu nhau. Tất cả chỉ là sự cảm thông hoàn toàn trong một tích tắc, vậy mà khoảnh khắc này đủ cho họ sống bên nhau êm đềm đến chín, mười năm.
Anh chẳng qua là người đàn ông ích kỷ, cô chẳng qua là người đàn bà ích kỷ. Trong thời đại chiến tranh loạn lạc này, không có nơi nào dung túng cho những kẻ theo chủ nghĩa cá nhân, nhưng dầu sao cũng có chỗ dung thân cho đôi vợ chồng bình thường này.
Một hôm, trên đường đi chợ, họ gặp công chúa Sahetini. Sahetini mặt mũi vàng kệch, mái tóc lõa xõa tết vội thành một cái đuôi sam, mặc một chiếc áo bông dài vải xanh chẳng rõ mượn được từ đâu, dưới chân vẫn xỏ đôi dép da hoa văn có đính thất bảo kiểu Ấn. Sahetini bắt tay nồng thắm với hai người, hỏi họ giờ ở đâu, và sốt sắng muốn xem nhà mới của họ. Cô nàng lại chú ý đến những con hàu đã được bỏ vỏ trong chiếc làn của Lưu Tô, và muốn học cô cách chế biến món canh hàu. Liễu Nguyên thuận miệng mời Sahetini đến ăn bữa cơm gia đình, và cô nàng liền vui vẻ theo về. Lão già người Anh của Sahetini đã vào trại tập trung, hiện giờ cô sống ở nhà một tay lính tuần người Ấn thân quen, vẫn năng làm mấy việc lặt vặt giùm cô. Đã lâu lắm rồi Sahetini chưa được ăn no. Cô gọi Lưu Tô là “Bạch tiểu thư”. Liễu Nguyên cười bảo: “Đây là vợ tôi. Cô phải chúc mừng tôi mới phải!” Sahetini đáp: “Thật sao? Hai người lấy nhau lúc nào vậy?” Liễu Nguyên nhún vai trả lời: “Đăng một cái tin vắn trên tờ báo Trung Quốc, cô biết đấy, hôn nhân trong thời chiến, luôn qua quýt như vậy...” Lưu Tô không hiểu họ nói gì. Sahetini hôn Liễu Nguyên rồi lại hôn Lưu Tô. Nói cho cùng bữa cơm của họ vẫn rất đạm bạc, Liễu Nguyên còn thanh minh rằng họ cũng hiếm khi được ăn canh hàu như thế này. Từ lần đó, Sahetini không tới chơi lần nào nữa.
Hôm họ tiễn Sahetini ra về, Lưu Tô đứng bên bậu cửa, Liễu Nguyên đứng sau lưng cô, đan bàn tay anh vào bàn tay cô, cười nói: “Anh bảo là chúng mình bao giờ lấy nhau nhỉ?” Lưu Tô nghe thấy vậy, chẳng nói một lời, chỉ cúi đầu, rơi nước mắt. Liễu Nguyên kéo tay cô lại nói: “Nào nào, hôm nay chúng ta tới tòa báo đăng một cái tin vắn, song có lẽ em phải đợi một thời gian, đợi khi mình về Thượng Hải, sẽ có đội kèn trống cờ quạt, rồi còn mời cả họ hàng nữa.” Lưu Tô nói: “Xì! Họ mà cũng xứng!” Nói đoạn liền phì cười, ngả về phía sau, tựa lên người Liễu Nguyên. Liễu Nguyên đưa tay ra phía trước giễu Lưu Tô nói: “Vừa khóc vừa cười ăn mười... bát cháo!”
Hai người cùng nhau vào thành phố, đi tới một nơi có ngã quặt, con đường bỗng nhiên dốc xuống dưới, trước mắt chỉ có một khoảng trời ướt đẫm, kỳ ảo, mênh mông màu mực nhạt. Trước cánh cửa sắt con có một tấm biển sứ tây, đề mấy chữ: “Nha sĩ Triệu Tường Khánh”. Gió thổi mạnh đến nỗi móc sắt trên tấm biển kêu lên kèn kẹt, phía sau tấm biển chỉ có bầu trời kỳ ảo kia.
Liễu Nguyên dừng chân đứng ngắm hồi lâu, cảm thấy một nỗi sợ hãi lẫn sau vẻ yên bình, đột nhiên rùng mình, nói với Lưu Tô: “Giờ thì em phải tin rồi nhé: ‘Sinh tử ly biệt’, chúng ta đâu thể làm chủ được mình? Khi bom đạn nổ, không may...” Lưu Tô giận nói: “Đến lúc này mà anh vẫn nói là không làm chủ được à!” Liễu Nguyên cười đáp: “Anh không hề có ý rút lui. Ý anh là...” Anh nhìn sắc mặt cô, cười nói: “Thôi không nói nữa, không nói nữa!” Họ tiếp tục bước đi, Liễu Nguyên lại nói: “Ma xui quỷ khiến thế nào, chúng mình lại yêu nhau thật!” Lưu Tô đáp: “Anh nói anh yêu em từ lâu rồi mà.” Liễu Nguyên cười đáp: “Cái đó không tính. Hồi ấy cứ mải tán tỉnh, lấy đâu ra thời gian mà yêu?”
Tin kết hôn đã được đăng lên báo, ông bà Từ chạy tới chúc mừng, song vì hai ông bà chạy khỏi thành phố bị bao vây đến nơi an toàn, chỉ chăm chăm lo cho mình, mặc sự sống chết của Lưu Tô, nên trong lòng cô không mấy dễ chịu, cũng đành phải mỉm cười chào đón. Liễu Nguyên mở tiệc mời bù. Không lâu sau, con đường giao thông Hồng Kông-Thượng Hải được khôi phục, họ bèn trở về Thượng Hải.
Lưu Tô chỉ quay về Bạch công quán thêm một lần, sợ lắm kẻ nhiều lời lại gây ra chuyện thị phi. Nhưng rồi vẫn không tránh khỏi phiền phức, mợ Tư quyết định ly dị với cậu Tư, mọi người sau lưng đều chỉ trích Lưu Tô. Lưu Tô ly hôn rồi tái giá, nhưng lại gặt hái được thành tựu kinh người đến vậy, chẳng trách bọn người xung quanh đều học theo tấm gương của cô ta. Lưu Tô ngồi dưới bóng đèn thắp hương muỗi. Nghĩ tới mợ Tư, cô mỉm cười.
Liễu Nguyên giờ không bỡn cợt với cô nữa, anh dành những lời đùa cợt nói cho phụ nữ khác nghe. Đây là hiện tượng đáng phải chúc mừng, điều đó chứng tỏ anh đã hoàn toàn coi cô là người nhà - một người vợ danh chính ngôn thuận, song Lưu Tô vẫn buồn rầu đôi chút.
Việc Hồng Kông bị chiếm đóng đã khiến cô thành công. Nhưng trong cái thế giới không thể giải thích nổi này, ai biết được đâu là nhân, đâu là quả? Ai mà biết được? Có lẽ để cho cô thành công, nên cả thành phố lớn phải điêu đứng. Hàng ngàn hàng vạn con người chết đi, hàng ngàn hàng vạn con người đau khổ, sau đó là cuộc Đại Cách mạng long trời lở đất... Lưu Tô không hề cảm thấy chỗ đứng của cô trong lịch sử có điểm gì kỳ diệu. Cô chỉ cười tủm tỉm đứng dậy, đá khay hương muỗi vào gầm bàn.
Người giai nhân nghiêng nước nghiêng thành trong câu chuyện truyền kỳ đại để là như vậy.
Đâu đâu cũng có những câu chuyện truyền kỳ, nhưng không thấy câu chuyện nào có kết cục viên mãn đến vậy. Cây hồ cầm được kéo lên réo rắt, trong màn đêm muôn vạn ánh đèn, dây mã vĩ đưa đi đưa lại, câu chuyện thê lương không hồi kết - không hỏi đến âu cũng đành thôi!
(Nguyên đăng trên Tạp chí, kỳ 6 số 11, kỳ 1 số 12, Thượng Hải tháng 9 năm 1943)
Trần Quang Đức dịch