Tôi tin những muộn phiền và thất bại đến với mình là nền tảng giúp tôi có thể cảm nhận cuộc sống ở một mức cao hơn.

Anthony Robbins

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 3
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 2
Cập nhật: 2020-10-08 21:12:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
1
Quân Mông Cổ và Đại Việt quần nhau suốt cả mùa đông năm 1287. Nhiều lần Ô Mã Nhi theo lệnh Thoát Hoan đem bọn Lý Hằng, Lý Quán đánh vào Thăng Long, nhưng bị Phạm Ngũ Lão đánh trả quyết liệt. Hai bên tả hữu quân của Nguyễn Chế Nghĩa và Trần Nhật Duật đánh kẹp vào khiến quân Nguyên Mông không tiến lên được, còn bị chết khá nhiều. Địa hình đa phần là sông, ngòi, hồ, ao khiến kỵ binh không thể thi thố. Vấn đề lương thảo vẫn luôn là chuyện nan giải cho Thoát Hoan. Các đoàn vận lương từ phía bắc xuống, từ vịnh bắc bộ vào luôn bị chặn đánh, đốt, cướp, phá… mười phần chỉ còn một hai. Trong khi đó lương thảo của quân Đại Việt đã khá hơn mấy năm trước rất nhiều. Cả vùng Thanh- Nghệ rộng lớn và trù phú đã cấp cho gần bốn chục vạn quân vượt qua mùa đông khắc nghiệt.
Thoát Hoan gửi thư về. Hốt Tất Liệt quyết định tung toàn bộ lương thảo chuẩn bị cho việc chinh phục Nhật Nhĩ Mãn xuống phía nam. Và khi quân đội đã có “thực túc” rồi thì tung quân đánh quyết liệt trên mọi vùng miền, mặt trận, quyết tiêu diệt Đại Việt trong năm 1288. Cuối mùa xuân, tháng ba, Trương Văn Hổ vận lương từ lưỡng Quảng (Quang Đông, Quảng Tây) qua vịnh Hạ Long để vào Tây Kết. Đoàn thuyền rồng rắn, dài đến bẩy tám dặm.
Trương Văn Hổ sợ có “sơ xuất” gì chăng, cho thuyền nhỏ lẻn vào trước báo cho Thoát Hoan cho quân ra tiếp ứng. Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem chiến thuyền cùng một vạn quân tinh nhuệ đi đón Trương Văn Hổ.
Thám mã của Đại Việt báo tin về kinh thành cho hai vua Trần và quân doanh của Quốc Công Tiết Chế ở phía bên kia sông. Vua Trần Nhân Tông cũng như Hưng Đạo Vương tức tốc cho người cầm lệnh ra cho Trần Khánh Dư “bằng mọi giá phải đánh tan được đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ”. Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng bẩm với Hưng Đạo Vương:
- Thưa cha, chắc chắn người Nguyên đã có đề phòng cẩn thận. Lại thêm có Ô Mã Nhi dẫn quân ra tiếp ứng. Con nghĩ cha cũng phải tăng cường cho Khánh Dư. Cụ thể cha cho con và Yết Kiêu ra trợ giúp cho hắn. Nếu đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ vào Đại Việt trót lọt thì chiến trận sẽ còn kéo dài và ác liệt. Sẽ biết bao sinh mạng binh sĩ ta sẽ phải bỏ ra. Lúc này việc thù hận nhau phải bỏ qua một bên. Tất cả phải vì chiến thắng của Đại Việt.
- Khá khen cho ý tốt của con. Hưng Đạo Vương nói - Nhưng binh pháp có câu: “Bỏ vào đất chết mới tìm ra chỗ sống. Bỏ vào chỗ mất mới tìm ra chỗ còn”. Cứ để Trần Khánh Dư tự xoay xở một mình mới thành công được. Nuôi lính ba năm dụng một giờ mà. Nếu ta đưa quân ra tiếp viện cho hắn chẳng khác gì “vẽ rắn thêm chân”. Cha nói thế không phải là bỏ mặc cho Khánh Dư mà thực chất là cha vô cùng tin vào tài năng xoay chuyển tình thế, biến nguy thành an của hắn. Nói “bỏ vào chỗ chết mới tìm ra chỗ sống” là nói với các tướng tài. Khi xưa khi quân Hán đánh Triệu, Hàn Tín đã lập trại tựa lưng vào bờ sông, các tướng đều lấy làm kinh hãi, nhưng sợ Tín không dám nói ra. Đến khi bị quân Triệu dồn đánh. Đến bờ sông Hàn Tín mới hô to lên rằng “Các tướng không liều chết quay lại đánh để bị dìm xuống sông chết đuối cả ư?”. Nghe thấy thế bọn Phàn Khoái, Chu Bột vội tỉnh ngộ, quay lại cùng ba quân liều chết xông vào đánh giặc. Nhờ thế mà chỉ trong một buổi sáng đã phá được hai mươi vạn quân Triệu. Còn thời Tam quốc, lão tướng Hoàng Trung đóng quân trên núi mà chém được Hạ Hầu Uyên, tướng yêu và là họ hàng của Tào Tháo. Về sau Mã Tốc cũng bắt chước cách ấy. Nhưng Tốc bất tài khi Tốc hô quân đánh xuống thì quân lính sợ Tư Mã ý rúm cả lại. Đến khi Tư Mã vơ cỏ đốt phía dưới thì quân Tốc hoảng loạn, bỏ chạy tán loạn cả. Nhiều lần trước đây cha đã từng nói Trần Khánh Dư là tướng tài, tướng văn võ song toàn. Lần này chúng ta sẽ xem Khánh Dư lạp nên kỳ công, đi vào lịch sử chống Nguyên Mông của Đại Việt ta.
Nghe Hưng Đạo Vương giảng giải một hồi Trần Quốc Tảng đuối lý không cãi lại được. Nhưng trong lòng vẫn áy náy không yên. Không phải là không tin cha, mà là không tin được rằng Trần Khánh Dư lại có được tài như Hàn Tín.
Trở lại phía Nguyên Mông, Ô Mã Nhi hăm hở dẫn đoàn chiến thuyền đi đón Trương Văn Hổ. Trong thư kín gửi riêng cho Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ cho hay, ngoài lương thảo, ngự tửu của vua ban còn có năm nàng “tiên nữ” Tiểu Nga la tư. Ô Mã Nhi gặp Trương Văn Hổ ở phía ngoài vịnh Hạ Lọng. Hổ mang rượu ra đãi. Ô Mã Nhi uống suốt đêm, đến sáng thì giục Trương Văn Hổ thúc thuyền tiến lên. Ô Mã Nhi trà trộn vào đám quân coi lương ở giữa đoàn thuyền vận tải. Còn lá cờ có con ó lớn cưỡi trên mình chú ngựa nhỏ thì phấp phới bay ở đoàn chiến thuyền đi trước. Trần Khánh Dư sau khi cho lính quan sát động tĩnh “vô cùng chắc chắn” mới thân dẫn doàn chiến thuyền hai vạn quân, đánh thẳng vào giữa đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Khánh Dư hăng hái đi trước, lao thuyền vào địch cắt đôi đoàn thuyền lương ra. Bất ngờ Ô Mã Nhi xuất hiện, lừng lững chui ra từ một thuyền chở rượu. Tuy bị bất ngờ, nhưng Trần Khánh Dư vẫn giữ được bình tĩnh, vung kiếm lăn xả vào đánh. Ô Mã Nhi vung đao đón đỡ. Đường đao của Ô Mã Nhi quá mạnh khiến người Khánh Dư lạng đi. Song Trần Khánh Dư vẫn lấy hết can đảm vung gươm lên đối địch. Đánh được ngoài hai mươi hiệp, biết đánh tiếp có thể mất mạng nên co cặp chân dài nhảy phắt trở lại chiến thuyền của mình. Quân của Ô Mã Nhi và quân áp tải lương của Trương Văn Hổ thừa thế đánh cho quân của Trần Khánh Dư bỏ chạy tán loạn. Trong lúc nguy nan trong đầu Trần Khánh Dư vẫn vang lên lời tựa của chính mình viết cho cuốn “vạn kiếp bí truyền tông” của Trần Hưng Đạo rằng "Tướng khéo thua thì không chết…” Khánh Dư tả xung hữu đột mở được đường máu thoát ra, đồng thời lệnh cho quân sĩ phất cờ lệnh “mạnh ai hãy cố sức mà bỏ chạy thoát thân”. Nhờ thế mà tung ra hai vạn quân và bốn trăm chiến truyền mới bị tổn thất một nửa. Tin Trần Khánh Dư đại bại truyền về kinh đô. Vua Trần Nhân Tông nổi giận sai người tức tốc phi ngựa ra Vân Đồn xích Trần Khánh Dư giải về theo điều sáu của quân luật là “Quân thua chém tướng”. Khánh Dư nói với viên quan ra bắt mình rằng:
- Ngươi hãy về tâu với hai thánh thượng và Quốc Công Tiết Chế rằng, hãy để cho đầu của Khánh Dư nằm trên cổ hắn thêm ba ngày. Rồi Khánh Dư sẽ đem đầu về chịu chém!
Hưng Đạo Vương nghe tin đoàn chiến thuyền của Khánh Dư bị đánh tan thì lại vô cùng mừng rỡ. Người lập tức tập hợp lũ thám mã lại ra các lệnh:
- Ra cửa sông Bạch Đằng nói với Nguyễn Khoái đóng thêm cọc lim và chuẩn bị căng giây xích đển đón đánh sáu trăm thuyền chiến khổng lồ của Nguyên Mông chắc chắn sẽ phải rút chạy qua đó.
Cử Trần Nhật Duật vào thay Phạm Ngũ Lão. Còn Ngũ Lão thì tuyển năm ngàn kỵ binh tinh nhuệ nhất, chờ có lệnh ra cửa sông Bạch Đằng tiếp ứng cho Nguyễn Khoái.
Lệnh cho tất cả các đạo quân, chuẩn bị tổng công kích đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Các tướng đều ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn nhau không hiểu thế này là thế nào kể cả Trần Quốc Tảng. Nhưng không ai đám hé răng hỏi nửa lời. Tất cả đều tuân lệnh răm rắp.
Trở lại chuyện Trần Khánh Dư thoát chết chạy về được Vân Đồn bèn tụ họp đám tàn binh lại vẫn còn được một vạn, cộng một vạn quân giữ nhà là hai. Số thuyền bè cũng còn trên bốn trăm. Khánh Dư cho tập hợp toàn bộ quân lính và thuyền bè lại nói rằng:
- Nếu chúng ta không liều chết tiêu huỷ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ thì tất cả đều bị triều đình xử chém tất cả. Vậy chỉ có đánh mới còn con đường sống. Vậy các ngươi nghĩ thế nào?
Tất cả hai vạn quân đều đồng loạt hô to” Sát Thát”. Khánh Dư lấy làm mừng lắm, trèo lên cột buồm cao nhất của một chiến thuyền, phóng tầm mắt “chim ưng" về vùng biển Hạ Long. Lúc này đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ sau khi nghi binh để Ô Mã Nhi đánh tan quân của Trần Khánh Dư, mới kềnh càng, nặng nề tiến vào vịnh. Trong đoàn thuyền dài tưởng như vô tận ấy Khánh Dư thấy có hình con ó lớn cưỡi trên lưng con ngựa nhỏ của Ô Mã Nhi cắm ở đầu, ở giữa và cả ở cuối thì cười thầm trong bụng mà đoán rằng chắc chắn không có Ô Mã Nhi trong đoàn thuyền vận lương này. Phải nói thật rằng Trần Khánh Dư quả là thần toán. Ngay lúc đánh tan đoàn chiến thuyền của quân Trần, Ô Mã Nhi đã dương dương tự đắc nói với Trương Văn Hổ rằng:
- Quân Đại Việt đã sợ đến mất mật rồi! Có cho kẹo chúng cũng không dám bén mảng tới gần đoàn thuyền lương. Rồi gã chọn lấy hai “tiên nữ” tiểu Nga la tư đang độ tuổi trăng rằm, cùng mấy thùng ngự tửu và vài chục tảng thịt cừu muối vứt lên một chiến thuyền nhẹ, căng buồm lướt sóng, phóng về Tây Kết trước.
Ô Mã Nhi chắc chắn không còn ở đây! Vừa tụt từ cột buồm xuống Trần Khánh Dư đã nói chắc như đinh đóng cột. Mà kể cả hắn còn ở đây thì ta thà chết dưới tay hắn chứ không chịu chết dưới đao phủ của triều đình vì là một tên bại tướng.
Nói rồi Trần Khánh Dư chia hơn bốn trăm chiến thuyền ra làm hai trăm cặp. Cứ một chiến thuyền chở binh lính đi kèm với một chiến thuyền chở đồ hoà khí. Tất cả cung tên đều phải mang theo thùng chở dầu. Trần Khánh Dư tự dẫn một hoả thuyền đâm thẳng vào giữa đội hình của đoàn thuyền vận lương của Trương Văn Hổ. Còn các đội hoả thuyền khác, cứ cách một thuyền thì tấn công đốt một thuyền. Chạng vạng tối bốn trăm chiến thuyền của Trần Khánh Dư xuất phát. Biển động nhẹ, gió heo may khô. Còn cách đoàn thuyền vận lương của Trương Văn Hổ chừng năm chục bước chân, Trần Khánh Dư cho đốt các đồ dẫn hoả trên chính thuyền của mình rồi lao thẳng vào giữa đoàn thuyền giặc. Các thuyền khác thấy vậy cũng đồng loạt hành động theo. Trương Văn Hổ chợt thấy những “con rồng lửa” nhất tề lao vào đoàn thuyền lương của mình thì vô cùng kinh hãi. Đang đi ở gần đầu đoàn, Trương Văn Hổ cho thuyền quay lại. Vừa hay gặp chiến thuyền của Trần Khánh Dư. Dư nhảy phắt sang thuyền của Hổ. Thanh kiếm trong tay múa tít. Chỉ loáng một cái đã chém gần chục thuỷ quân Nguyên Mông gục xuống biển hoặc rơi vào lòng thuyền. Trương Văn Hổ vác đại đao lại đối địch. Trần Khánh Dư miệng thét lớn: “Sát Thát”, rồi phóng thửng mũi kiếm vào ngực Hổ. Cũng là chiến tướng có tài và nhiều kinh nghiệm, Hổ vung đao đánh lại hết sức dữ dội. Nếu đằng thẳng ra thì chưa biết “mèo nào cắn mỉu nào”. Nhưng tâm trí của Hổ lúc này đang phải để vào đoàn thuyền lương. Thấy ba bề bốn bên lửa đã bắt đầu cháy rừng rực thì không còn tâm trí đâu mà giao đấu với Khánh Dư nữa. Thừa cơ Khánh Dư vung kiếm chém tới tấp, một nhát xả vào vai phải khiến cây đại đao rơi xuống lòng thuyền. Thấy chủ tướng bị nguy, mấy chục tên quân thân tín vung đao, kiếm vào cứu chủ. Trần Khánh Dư cũng không ham đánh, lùi ra mũi thuyền rồi nhảy phắt về thuyền mình đang ở thế áp mạn. Khánh Dư ra lệnh cho thuỷ thủ đưa thuyền cho mình đi đốc chiến. Lúc này lửa đã cháy khắp nơi. Các thuyền chở cỏ khô cháy dữ dội nhất, rồi đến các thuyền chở gạo và cả thuyền chở rượu, ngọn lửa bốc lên xanh lè!
Cùng với tiếng lửa reo phần phật là tiếng hô: “Sát Thát” vang động cả vùng vịnh vốn lặng im.
Trương Văn Hổ biết không thể cứu vãn được, kể cả có Ô Mã Nhi ở lại thì cũng đành bó tay nên ra lệnh cho lính quay mũi thuyền chạy về Quảng Đông. Còn viên giám quân, cũng vô cùng kinh khiếp, thần hồn nát thần tính, cho thuyền dong buồm chạy mãi vào tận… Chiêm Thành. Trong đám lửa cháy, quân reo, Trần Khánh Dư chợt nghe thấy những tiếng kèn thất thanh, nhưng giọng lại rất lạ, phát ra từ một thuyền chở rượu. Khánh Dư cho thuyền ghé vào thì vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ thấy ba thiếu nữ mặc váy, đang ôm nhau kêu khóc. Thuyền chưa cặp mạn, Khánh Dư đã nhảy vọt sang, hai tay cắp hai “nàng tiên” tiểu Nga la tư quăng sang thuyền của mình. Lửa đã cháy vào chiếc váy liền áo của cô thứ ba. Khánh Dư lại nhảy sang tiếp, mặc cho lửa rát bỏng bủa vây xung quanh, cắp ngang người cô gái cùng nhảy ùm xuống biển. Vùng vẫy một lúc cho lửa tắt Khánh Dư mới cắp cô gái bám vào mạn thuyền chèo lên. Mới mấy canh giờ trước Trần Khánh Dư còn là kẻ tội đồ, chờ xích lại đưa về triều đình xử trảm. Thì bây giờ đã trở thành người anh hùng dân tộc, lập được kỳ công có một không hai trong trận chiến chống Nguyên Mông của quân dân Đại Việt.
Phần thưởng cho Trần Khánh Dư còn có cả ba “tiên nữ” Tiểu Nga la tư, da trắng, mắt xanh, tóc vàng mà dù có nằm mơ cũng không thấy được.
Nửa đêm trở về bản doanh Khánh Dư viết thư về cho hai vua Trần và Quốc Công Tiết Chế, chỉ có đúng hai chữ: Thắng rồi! Và sai đích thân mấy kẻ mang xích ra bắt mình phi ngựa ngay trong đêm về triều bẩm báo.
Nhận được thư của Khánh Dư các tướng đều quỳ xuống vái lạy Trần Hưng Đạo. Theo thói quen, Người vừa vuốt chòm râu còn đen nhánh, vừa nói:
- Đã đến lúc ta đánh cho Nguyên Mông một trận để đời. Chỉ cần nghĩ tới Đại Việt là toát mồ hôi hột ra!
Rồi người sai Phạm Ngũ Lão đem năm ngàn quân kỵ, tức tốc đến cửa sông Bạch Đằng ứng giúp cho Nguyễn Khoái. Và hẹn đại quân do đích thân Người sẽ đến sau.
Trở lại chuyện Trần Khánh Dư đã khôn ngoan thả cho một vài chiến thuyền của Nguyên Mông trốn được về Tây Kết báo tin. Thoát Hoan rụng rời hết vía, lưng toát mồ hôi. Riêng Ô Mã Nhi vẫn nói cứng:
- Ta tạm rút binh về. Chờ biện lương đầy đủ đã, lại kéo sang lần nữa. Vội gì!...
Không còn cách nào khác Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi cùng Tích Lệ Cơ Ngọc thống lĩnh sáu vạn quân cùng sáu trăm chiến thuyền “khủng’ rút theo đường Bạch Đằng. Sai Phàn Tiếp đem năm ngàn quân kỵ đi theo đường bộ hộ tống ra tới biển. Còn đích thân Thoát Hoan dẫn bọn Lý Hằng, Lý Quán và các tướng khác tháo chạy theo đường Chi Lăng - Lạng Sơn.
Lại nói Phạm Ngũ Lão đem năm ngàn quân kỵ cắt đường từ Thăng Long ra cửa sông Bạch Đằng. Quân phóng suốt đêm không nghỉ, đến quá giờ ngọ thì gặp toán quân của Phàn Tiếp. Không nói nửa lời, Ngũ Lão vỗ ngựa lao vào vung đao chém tới tấp. Phàn Tiếp biết Ngũ Lão là hổ oai tướng quân của Đại Việt nên vẫy quân vây chặt lấy Ngũ Lão vào giữa. Toàn là kỵ binh Mông Cổ nên chúng rất thiện chiến. Những luỡi gươm cong sắc bén vung lên bổ xuống thật nhịp nhàng, thiện nghệ. Nhưng lúc này thời gian là vàng ngọc, không thể để Nguyễn Khoái phải đơn độc chống với Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc cùng sáu vạn quân và sáu trăm chiến thuyền “khủng”. Ngũ Lão gầm lên một tiếng thị uy rồi lia đao ra tứ phía. Những chiến binh Mông Cổ gục xuống như chuối bị chém. Phàn Tiếp cả sợ không dám giao phong. Hô quân rút chạy về phía Tây Kết.
Khi Phạm Ngũ Lão cùng năm nghìn kỵ binh đến cửa sông Bạch Đằng thì đúng vào lúc thuỷ triều đang lên. Quân của Nguyễn Khoái đang gồng mình chặn đánh đoàn thuyền rút chạy của Ô Mã Nhi. Những xích sắt căng lên đã cản không cho chiến thuyền của giặc trôi ra. Sau vài phút lúng túng, đứng trên suý thuyền Ô Mã Nhi đã phát hiện ra. Hắn sai lính mang búa khai sơn phủ xuống chặt xích chắn. Cuộc chiến ác liệt và đẫm máu diễn ra quanh và trên các sợi xích giữa quân Nguyên Mông và quân Đại Việt.
- Hiền huynh Nguyễn Khoái! Có Ngũ Lão đến trợ chiến với huynh đây! Ngũ Lão giao ngựa cho giám mã, vác đao chạy lên mặt đê và quát lớn.
Nguyễn Khoái đang ở một chiến thuyền ở giữa sông đốc thúc quân lính tác chiến thấy vậy trả lời.
- Ngũ Lão! Hãy đánh thẳng vào suý thuyền. Chui vào trong chém hết các tay chèo. Rồi bẻ lái cho thuyền quay ngang ra!
- Tuân lệnh! Nói rồi Ngũ Lão cắp đao nhảy phắt từ bở đê lên một chiến thuyền gần bờ của giặc. Vừa đánh giết, vừa tìm đường đến suý thuyền của Ô Mã Nhi. Thấy Ngũ Lão dũng mãnh quá, bọn giặc dạt hết cả ra.
Chui được vào khoang suý thuyền, Ngũ Lão vung đao chém hết bên phải lại bên trái. Xác giặc đổ xuống như ngả rạ. Rồi túm gáy một tên bắt hắn bẻ bánh lái cho thuyền quặt ngang ra. Tên lính vừa yếu vừa sợ, run lẩy bẩy khiến Ngũ Lão phải quẳng hắn sang một bên rồi bẻ ngang bánh lái. Nước bắt đầu chảy xiết chứng tỏ thuỷ triều đang xuống, Ngũ Lão phải vận hết công lực mới làm được cho con thuyền khổng lồ quay ngang ra, chặn hẳn đoạn giữa của lòng sông, khiến cả đoàn thuyền tắc lại.
Hưng Đạo Vương khởi mười vạn quân tiếp ứng. Nhưng trên đường hành quân, con voi chiến của Người bị sa lầy, Hưng Đạo Vương đành gạt nước mắt xuống ngựa để kịp đưa quân ra tiếp ứng cho Nguyễn Khoái.
Hai vua Trần cũng chỉ để Thái sư Trần Quang Khải giữ kinh đô, thân chinh dẫn đội quân Thánh Dực ra Bạch Đằng trợ chiến.
Chưa bao giờ Ô Mã Nhi lại hung tợn như lúc này, nhất là từ lúc chiếc suý thuyền bị quay ngang ra. Và thuỷ triều xuống. Các cọc lim được cắm từ trước bắt đầu đâm thủng các chiến thuyền. Nhưng vừa hay đại quân của Hưng Đạo Vương đã đến kịp thời. Tất cả nhất loạt xông lên, cận chiến với giặc ngay trên các chiến thuyền khủng của chúng. Tuy nhiên lính Đại Việt không thể đến gần Ô Mã Nhi được. Cây đao của hắn là cây “ma đao" nhuốm máu hàng trăm tướng sĩ nhà Trần.
- Nguyễn Khoái đâu! Hãy nhảy lên chặn bàn tay hung thần của Ô Mã Nhi lại! Hưng Đạo Vương đứng chỉ huy trên bờ đê quát xuống.
Nguyễn Khoái vâng mệnh, nhảy phát lên. Ô Mã Nhi vẫn gầm gừ như con hổ dữ bị dồn vào con đường cùng vung đao chém hết sức mãnh liệt. Cũng đã từng giao đấu vài lần với Ô Mã Nhi nhưng chưa lần nào Nguyễn Khoái thấy hắn dũng mãnh lợi hại như lúc này. Phó đô tướng Đỗ Hánh xin phép hai vua Trần cũng xông lên thuyền trợ chiến. Hành nhảy đến bên Nguyễn Khoái vung đao chém. Ô Mã Nhi đỡ quật lại, khiến cây đao của Đỗ Hành văng xuống nước. Còn bản thân bị bắn ra mấy bước. Nguyễn Khoái phải lăn xả vào đánh để cứu Đỗ Hành. Vừa lúc đó trên nóc suý thuyền tiếng Phạm Ngũ Lão vọng xuống:
- Hiền huynh có Ngũ Lão ở trên này!
Hiểu ý Nguyễn Khoái vung đao nhằm cẳng chân Ô Mã Nhi lia tới, buộc Ô Mã Nhi phải ghìm đao đón đỡ. Chỉ trong một tia tích tắc thôi, Phạm Ngũ Lão biết rất rõ điều này, nếu không hạ được Ô Mã Nhi, để hắn chém ngược đao lên thì Nguyễn Khoái rất khó toàn mạng. Phóng đao xuống tấm lưng to như cánh phản của hắn thì vô cùng dễ. Nhưng việc phải bắt sống được hắn mới làm uy danh của Đại Việt tăng lên bội phần. Thế là Phạm Ngũ lão bèn dùng hai chân nhảy xuống đạp vào đúng hai thuỳ phổi sau lưng của hắn, đôi chân đã từng tập cả chục năm, đạp bằng cả một ngọn đồi sỏi đá đã khiến toàn thân Ô Mã Nhi đổ sập xuống. Nguyễn Khoái kề đao vào gáy. Còn Đỗ Hành kiếm đâu được một đoạn xích, xích tay hắn lại. Nhưng vừa đứng lên, bỗng hắn gầm lên một tiếng, giằng hai tay một cái đoạn xích bị bật tung ra. Ngũ Lão đứng phía sau điểm hiểm rất nhanh vào hai bên bả vai hắn. Rồi bẻ quặt hai tay hắn ra sau lưng, rút từ thắt lưng ra một sợi dây cước câu cá. Bẻ hai ngón tay cái Ô Mã Nhi lại, Ngũ Lão lấy đoạn cước trói chặt lại rồi giải huyệt. Ô Mã Nhi cố giằng ra, nhưng càng giằng sợi dây cước càng thít hai ngón cái của hắn lại, đau buốt đến tận óc. Ngũ Lão đẩy cái thân xác “quái vật” của Ô Mã Nhi về phía Đỗ Hành và vui vẻ bảo:
- Huynh hãy giải hắn về nộp cho hoàng thượng mà lĩnh thưởng! Nhưng nhớ xích chân, tay hắn lại cho hoàng thượng đỡ sợ!... Đây là món quà trả nghĩa bữa tiệc của huynh với chúng tôi ở quán gió Hồ Tây năm rồi!...
Đỗ Hành đứng ngẩn người ra một lúc mới hiểu… Trần Quốc Tảng bắt sống Tích Lệ Cơ Ngọc. Trận chiến vừa kết thúc Hưng Đạo Vương lại sai Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Nghiễm, Trần Quốc Tảng đem mười vạn quân phối hợp với Nguyễn Chế Nghĩa, Trần Quốc Uẩn và Trần Quốc Hiện đem theo mười lăm vạn quân từ Thăng Long và Tây Kết đuổi đánh hơn hai mươi vạn quan của Thoát Hoan.
Sáu trăm chiến thuyền “khủng” cộng với gần sáu vạn xác chết của lính Nguyên Mông đã làm tắc nghẹn hoàn toàn đoạn sông Bạch Đằng ấy. Sông phải đổi hướng chảy về hướng khác. Rồi khúc sông ấy trở thành bãi bồi, để gần bẩy trăm năm sau, tình cờ làm thuỷ lợi, người dân ở tỉnh Quảng Ninh đã phát hiện ra bãi cọc. Một vài chiếc đã được đưa về Bảo tàng lịch sử Việt Nam ở Hà Nội. Một số khác được đưa về Bảo tàng Quảng Ninh…
Trần Quốc Uẩn khiến tướng Trương Hiền phải đầu hàng. Bọn Lý Hằng, Lý Quán cố sống cố chết bảo vệ Thoát Hoan. Nguyễn Chế Nghĩa bắn chết Lý Quán. Trần Quốc Nghiễm bắn chết Lý Hằng. Phàn Tiếp lẩn vào đám tàn quân hòng chạy trốn, bị Phạm Ngũ Lão phát hiện bắn xuyên qua lưng. Một ngàn quân thiết kỵ bảo vệ Thoát Hoan chạy được về thị trấn Tư Minh bên Trung Quốc (cách Lạng Sơn chừng hai mươi dăm). Thế là ba chục vạn quân Nguyên Mông tinh nhuệ đã bị Đại Việt tiêu diệt vào cuối mùa xuân 1288. Bình luận về sự kiện này, Thủ tướng Nhật Bản Shizo Abê nhân bốn mươi năm quan hệ Việt Nam- Nhật Bản đã phát biểu trên Đài truyền hình Nhật Bản NHK vào cuối tháng 9 năm 2013, đại ý rằng vào thế kỷ 13, Việt Nam đã tiêu diệt đạo quân tinh nhuệ nhất của Mông Cổ, khiến Nhật Bản tránh được cuộc chiến tranh ác liệt với kẻ địch hung bạo nhất thời đại bấy giờ.
Mùa hạ, tháng tư, bàn xét công dẹp giặc Nguyên, hai vua Trần đã tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại vương (tức Hưng Đạo Đại vương) Hưng Vũ Vương được phong Khai quốc công. Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Những người có công được ban quốc tính, trong đó có Đỗ Khắc Chung được trở thành Trần Khắc Chung lại cho làm Đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ được phong quan nội hầu (lẽ ra là Liệt hầu tước hầu cao nhất) vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên vua mà lại dâng lên thượng hoàng, như vậy là báo công vượt cấp. Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở mà lại đón đánh và bắt giữ. Cho Man trưởng ở Lạng Giang là Lương Uất làm trại chủ Quy Hoá. Hà Tất Năng làm quan Phục tuần vì có công đem người Man ra đánh giặc.
Gia phong cho Nguyễn Khoái làm Liệt hầu, vì không nhận đất ở kinh đô, cho một quận làm ấp thang mộc gọi là Khoái Lộ (nay là huyện Khoái Châu, Hưng Yên)
Phạm Ngũ Lão được giao cho cai quản quân Thánh Dực với chức Hữu Kim Ngô Đại tướng quân. Đến thời vua Anh Tông. Phạm Ngũ Lão được phong đến chức Điện suý thượng tướng quân.
Trần Khánh Dư được trả lại chức Phiên kỵ tướng quân. Chức chỉ được phong cho hoàng tử.
Các tướng khác như Dã Tượng, Yết Kiêu đều được phong hầu. Gia phong cho Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng là Đại Vương. Gia phong cho Trần Quốc Toản từ tước hầu lên tước vương.
Về phạt bọn tướng làm phản như Trần Kiện, Trần Lộng đã chết hoặc trốn sang Tầu không được mang họ Trần mà đổi thành họ Mai. Riêng Trần Ích Tắc được gọi là á Trần, có ý khinh bỉ coi như đàn bà…
Ngày khải hoàn vua Trần Nhân Tông có hai câu thơ vừa như tổng kết cuộc kháng chiến, vừa như di chúc cho hậu thế về trách nhiệm giữ nước:
Đất nước hai phen bon ngựa đá
Non sông ngàn thủa vững âu vàng.
Phạm Ngũ Lão cũng xin được đọc bài thơ “Ngõ Lòng”. Vua đồng ý. Bài thơ có bốn câu:
Vung dáo non sông trải mấy thu/ Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu/ Trai chưa trả nợ công danh được/ Luống hổ tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Các quan đều vỗ tay tán thưởng. Duy có Nguyễn Khoái bước ra tâu:
- Muôn tâu hai thánh thượng, thần không rõ Vũ Hầu là ai mà Ngũ Lão “Huống hổ tai nghe”… Bởi vậy thần xin phép đổi thành: "Luống hổ tai nghe Hịch tướng sĩ của Quốc Công Tiết Chế” ạ!
Tất cả mọi người cười ầm cả lên, vui vẻ. Vua Trần Nhân Tông cười mà rằng:
- Nguyễn Khoái thế mà hóm hỉnh, thưởng cho một bát rượu lớn.
Uống xong, Nguyễn Khoái lại quỳ xuống tâu:
- Muôn tâu hai thánh thượng, có thằng giặc Ô Mã Nhi đã từng nói: “Hai Thánh thượng đi tới đâu hắn “sẽ đuổi theo tới đó”. Giữ lời hứa nên hôm nay hắn đã có mặt ở dưới chân điện Kính Thiên này. Chỉ có điều hai chân bị xích vào cột đá. Vậy có nên thưởng ngự tửu cho hắn không ạ?
Vua Trần Nhân Tông lại cười lớn và bảo:
- Nguyễn Khoái ơi là Nguyễn Khoái! Ngươi đáng được thưởng một bình ngự tửu… Còn thằng giặc Ô Mã Nhi đang bị xích dưới kia… cũng nên cho hắn “chung vui” với ta. Quân đâu! Đem cho hắn một vò rượu và một đùi bê thui.
Ô Mã Nhi hai chân bị xiềng vào nhau và xích vào một cột đá. Con hai tay được tự do. Khi rượu và đùi bê thui được mang đến, hắn vồ lấy nốc luôn nửa bình. Rồi loáng một cái đã ngoạm xong đùi bê thui. Tu nốt nửa bình rượu, hắn dùng hai tay quệt mép tỏ vẻ vẫn thòm thèm. Nguyễn Khoái hỏi:
- Ngự tửu của Đại Việt có ngon không?
- Ngon! Ngon hơn… nước đái ngựa của Mông Cổ một chút.
Nguyễn Khoái nổi giận giật lấy ngọn dáo của một tên lính hầu đứng bên. Chĩa vào chiếc bụng như chiếc trống cái của hắn, rít răng mà nói rằng:
- Ngươi thật không biết điều! Để ta chọc bình rượu trong bụng ra vậy!
Vừa lúc đó Hưng Đạo Đại Vương bước tới. Người đặt bàn tay rắn chắc lên vai Nguyễn Khoái chậm rãi giải thích.
- Chớ có động vào hắn. Hoà ước giữa Đại Việt và Nguyên Mông đã được ký rồi. Trong đó có điều khoản phải thả Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc về.
Nguyễn Khoái nín lặng bước lên triều. Hưng Đạo Vương cũng lên sau, đến chỗ Yết Kiêu đang đứng, rỉ tai nói: Cứ như thế! Như thế!
Yết Kiêu vâng lệnh, bỏ dở bữa tiệc đang vui, ra lấy ngựa phi như bay về hướng Hạ Long- Vân Đồn.
Hôm sau Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc được trao trả cho sứ giả nhà Nguyên. Cả hai được đưa xuống một chiếc thuyền rất gọn nhẹ nhưng chắc chắn. Gần như mới đóng. Rượu, thịt, thức ăn, nước uống được chất lên ê hề. Sử giả chứng kiến và ký vào biên bản. Thuyền rời bến, Ô Mã Nhi nhoẻn miệng cười, hẹn gặp lại Thăng Long.
Ba ngày sau, một chuyến xe bốn ngựa hộc tốc phóng từ Hạ Long về. Trên xe chở xác Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc.
Theo lời giải thích của viên giám mã đánh xe:
- Ô Mã Nhi say rượu, đòi vớt trăng dưới đáy vịnh! Rồi vật nhau với Tích Lệ Cơ Ngọc khiến thuyền bị lật và cả hai cùng chết đuối. May mà quân lính ở Vân Đồn phát hiện kịp thời nên còn vớt được xác.
Sứ giả nhà Nguyên cay đắng nhìn hai danh tướng lừng lẫy một thời từ Á sang Âu, rồi lại từ Âu và Á. Biết bị chơi khăm, nhưng không có tang chứng đành “ngậm bồ hòn” làm ngọt.
Hưng Đạo Đại Vương sai lính làm hai cỗ áo quan bằng gỗ trầm hương, đặt hai cái xác được tẩm nước thơm cẩn thận. Chỉ đậy sơ nắp quan tài rồi giao cho sứ Nguyên, chở bằng xe ngựa theo đường bộ Chi Lăng - Lạng Sơn…
12
Xét công đánh Nguyên Mông. Phạm Ngũ Lão được xếp thứ ba (cùng với Nguyễn Khoái) chỉ sau Hưng Đạo Đại Vương và Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật. Trần Khánh Dư xếp thứ tư. Vì vậy Ngũ Lão được vua phong cho hai nhăm mẫu đất ở phía tây thành Thăng Long để xây phủ đệ. Khác với các vương tôn công tử xây phủ to, gỗ quý và lớn cùng đá đẹp, Ngũ Lão chỉ xây ngôi nhà năm gian hai trái, phía mái giữa trổ lên hai căn gác để làm phòng thờ và gian đọc sách. Nhà xây bằng gỗ xoan đào và tre ngâm nên trăm năm cũng không bị mối mọt. Một chiếc chuồng ngựa thoáng đãng cho con Tía. Còn lại bao nhiêu đất, Ngũ Lão cho trồng cau nên gọi là phủ đệ vườn cau.
Năm 1290 đói. Nắng tháng 6 đến tháng 10. Trời trong xanh và khô như rang. Qua năm 1291 lại mất mùa to vì nắng hạn, sâu bệnh hoành hành. Một thăng gạo (khoảng ba bơ sữa bò bây giờ) giá một quan tiền. Dân chúng rất nhiều vùng phải bán ruộng đất, con cái (cả trai lẫn gái) giá đồng hạng một quan tiền để làm nô tì cho các nhà giàu và các gia đình quý tộc. Thành thử nhiều quý tộc mua nam thanh niên khoẻ mạnh về làm gia binh, con gái đẹp về làm tì thiếp. Tích tụ ruộng đất đến cả ngàn mẫu. Mùa thu, tháng tám con Tía trở bệnh, mới đầu không chịu ăn, chỉ uống nước. Buổi sáng Ngũ Lão ra thăm thấy nằm bụng sát xuống đất biết là hỏng rồi. Vì ngựa chỉ chuyên ngủ đứng chứ không như các loài vật khác như trâu bò ngủ nằm. Con Tía lúc mới sinh to quá cỡ. Vừa lọt lòng thì mẹ băng huyết chết. Ngũ Lão lúc dó mới mười tuổi. Sống trong chùa, hàng ngày ra ruộng bẻ ngô non về nấu cháo thành sữa mớm cho nó. Rồi nó cũng lớn lên. Đến khi được ba tuổi trổ mã, cao to khác thường, toàn lông một mầu đỏ tía. Không có một sợi lông tạp nào. Sư cụ biết là ngựa quý bèn huấn luyện thành ngựa chiến rồi giao cho Ngũ Lão. Trong chiến công lẫy lừng chống Nguyên Mông của Ngũ Lão có một phần đóng góp không nhỏ của nó. Là ngựa đực, nó cũng có nhu cầu tìm bạn gái. Nhưng vì trận mạc mà nó dã phải kìm nén. Có đêm Ngũ Lão lấy thêm thóc ra cho nó ăn. Thấy cái của quý của nó thòi ra như một cái chày giã gạo Ngũ Lão nựng nó, khi nào yên hàn rồi ta sẽ lấy vợ cho mi. Bởi ngựa chiến cũng như ngựa thồ ở miền núi cao, chỉ nhảy một lần là mất rất nhiều sức, khó có thể chiến đấu và thồ hàng như trước được nữa. Dường như biết ý chủ, con Tía đành “cố nhịn”. Đến ngày ca khúc khải hoàn thì nó đã mất khả năng của con đực. Ngũ Lão tính chuyện đưa nó về quê chôn. Chàng thuê một chiếc xe hai ngựa kéo đưa nó về. Nằm trên xe nó chỉ còn thở thoi thớp. Ngũ Lão tự tay đào một chiếc hố dài, rộng và rất sâu ở mảnh ruộng ở trước nhà. Lấy vải trắng liệm cho nó cẩn thận rồi cặp tấm thân dài và nặng của nó bằng hai tay nhẹ nhàng đặt xuống huyệt.
Chập tối Ngũ Lão đang thắp hương cho gia tiên và cha mẹ trong nhà thì thấy phía ngoài có tiếng động. Lúc đầu còn khẽ, sau là tiếng cãi nhau như chợ vỡ.
Ngũ Lão chạy ra thì thấy khoảng hơn hai chục người nam, phu, lão ấu đủ cả đã moi và khênh xác con Tía đưa lên mặt ruộng. Thấy Ngũ Lão ra, tất cả sụp xuống lạy như tế sao.
- Mong hổ hầu tha cho chúng tôi đói quá!
- Con tôi ốm, ba ngày nay chưa có gì bỏ bụng! Tội lắm tướng quân ơi!
- Hổ hầu làm phúc! Mẹ già tôi hấp hối muốn có cái gì bỏ vào bụng để chết đi khỏi biến thành mà đói.
Bao nhiêu người là bấy nhiêu lời cầu xin thảm thiết. Tất cả chung quy chỉ vì cái đói. Ngũ Lão ứa nước mắt nói với bà con:
- Được rồi! Mọi người yên lặng! Tôi đã có cách giải quyết rồi!... Trong làng có tay đồ tể nào không?
- Dạ! Bẩm có ạ! Có một tay chuyên mổ trâu, bò.
- Thế thì gọi hắn ra đây! Tôi sẽ thuê tiền hắn, lột da, lóc thịt chia cho bà con… Còn xương thì phải để tôi cho vào cái chum nước… Chôn cho nó. Dù sao cũng là nghĩa thầy trò. Cùng vào sinh ra tử với nhau.
Viên đồ tể được mời đến, hắn trạc bốn mươi. Ngũ Lão yêu cầu như thế và thuê hắn hai đồng. Hắn nâng nâng bộ cà của con Tía nói một câu xanh rờn:
- Tôi không lấy tiền… Chỉ xin bộ cà này về ngâm rượu.
- Còn bộ da ngươi đi thuộc cho ta. Hết bao nhiêu tiền, ta trả.
- Dạ vâng! Tôi xin nghe theo lệnh tướng quân.
Ngũ Lão vào nhà lấy ra mấy tấm cót, cho gã đồ tể trải ra cho khỏi bẩn. Mọi việc đến gần nửa đêm mới xong.
Ngũ Lão vét túi còn tổng cộng hai mươi quan tiền. Đem chia cho mỗi người một ít. Tuỳ người nhiều thì một đồng. Người ít nhất cũng được năm bảy hào...
Hôm sau Ngũ Lão sang lạy sư phụ. Tạ tội với người vì về quê mà không sang với thầy ngay. Sư cụ Hồng Quang đã ngót nghét trăm tuổi, tuy vóc hạc, nhưng vẫn còn rất tinh anh, người nói:
- Sư phụ đã biết hết cả rồi! Con làm như thế là vừa hết tình hết nghĩa với con Tía. Lại giúp được tí nào hay tí ấy với bà con chòm xóm lúc hoạn nạn, cơ hàn…
- Tấm da đó con định khi nào sang tiểu, thì bảo các con chúng nó gói nắm xương của con… gọi là “thầy trò sống chết có nhau”… Sự phụ thấy có được không ạ!
- Cái tâm của con có trời biết, phật biết con ạ!
- Sư phụ ơi! Ngũ Lão nói giọng buồn rầu như mếu - Cảnh quan trường… chán nản lắm. Đến như Quốc Công Tiết Chế cũng ở lì hẳn điền trang Vạn Kiếp rồi, không buồn tham gia vào chính sự nữa… Con cũng định bắt chước hiền huynh Nguyễn Khoái… từ quan về… đi tu. Sư phụ dạy con thế nào?
- Không phải ai cũng có căn tu. Người không có căn tu như con thì có tu tại chùa, tại chợ, hay tại gia… thì cũng chẳng có kết quả gì… Có khi còn mệt mỏi rồi sinh bệnh ra… Số của con là phải còn chinh chiến. Giặc phương bắc thì đã tạm lui. Nhưng phía tây còn Lão Qua (tức Ai Lao). Phía nam còn Chiêm Thành, Chân Lạp, xa hơn tí nữa là Xiêm La… Họ còn quấy nhiễu, xâm lấn không để chúng ta yên đâu… Xa hơn nữa, thế nào giặc phương bắc cũng quay lại. Nhà Nguyên Mông thì trước sau sẽ đổ. Triều đại mới của Trung Hoa chắc chắn sẽ không để Đại Việt yên đâu. Số mệnh của sư phụ đã hoàn thành được tâm niệm của thầy sư phụ. Rèn dạy được ra con. Còn sứ mệnh của con, sư phụ muốn con phải làm được nhiều hơn sư phụ. Không chỉ đánh giặc cứu nước, cứu dân mà còn phải giữ được, truyền lại được ngọn lửa thượng võ ngàn năm của dân tộc có truyền thống thượng võ đó thì không thể không giữ nước được… Con có hiểu ý của sư phụ không?
- Thưa sư phụ! Con hiểu ạ! Nhưng ngặt một nỗi hiện giờ con vô cùng bận rộn việc triều đình, ngay đến cả con trai Phạm Ngộ, con cũng chỉ có thể cho nó học chữ chứ không thể luyện võ cho nó được.
- Sư phụ hiểu! Nhưng sư phụ có thúc dục con phải làm việc đó ngay bây giờ. Ngay lúc này đâu? Nhưng thời gian tới có điều kiện, con có thể bứt ra được thì hãy nhớ lời sư phụ căn dặn hôm nay. Người nối nghiệp không phải là con đẻ của con, là cháu nội, cháu ngoại của con. Mà là bất kỳ người dân Đại Việt nào, miễn là người đó có thiên bẩm, có lòng yêu nước, thuơng dân… như con.. Cây đao và cây cung con đang dùng, nhất thiết không phải vĩnh viễn để ở nhà con. Mà có thể trao cho “thiên hạ”. Để rồi nó sẽ tự tìm được chủ nhân xứng đáng phục vụ cho việc giữ nước sau này.
- Con xin ghi tâm, khắc cốt lời dạy của sư phụ.
Phạm Ngũ Lão có ngờ đâu, đây là lần cuối cùng được nghe lới chỉ giáo của sư phụ. Bởi hai năm sau, trong lúc Ngũ Lão dẫn quân đi dẹp loạn Ai Lao quấy nhiễu ở miền Tây nghệ An, thì ở nhà sư phụ đã về với Phật. Trở về quê Ngũ Lão đã khóc thầy đến chảy cả máu mắt. Nỗi đau xé lòng, ngang với lần nghe tin người mẹ vô vàn kính yêu bị kẻ xấu sát hại năm nào.
13
Ở trên đời thực quả có quá nhiều bất công, người tử tế, dù có may mắn thành đạt vẫn không tránh khỏi những nỗi niềm những bi kịch đau xót.
Sau chiến tranh một số cung điện, đền đài, dinh thự… của vua quan và các vương tôn công tử bị phá hoại hoàn toàn hoặc một phần. Công tác xây dựng, sửa sang lại tốn rất nhiều sức dân. Nhân nạn đói 1290-1291, một số quan lại quý tộc như “bắt được vàng” với việc mua một “nhân mạng” chỉ mất có một đồng bạc. Do vậy có người một lúc đã mua được cả ngàn người, vừa bóc lột được sức lao động, vừa tăng đáng kể đội quân “gia binh” của mình. Riêng Trần Khánh Dư vốn có tiềm lực từ khi còn ở Vân Đồn thì làm bằng “cả hai tay”. Một tay tăng cường đội gia binh lên tới bốn ngàn người đông vào loại bậc nhất các vương thời bấy giờ. Tay thứ hai là tích tụ ruộng đất. Biết vùng nào đói to, Khánh Dư móc nối với các quan lại địa phương nhờ họ làm “cai thầu” mua “cả lố” liền bờ, liền thửa cả trăm mẫu một. Ruộng của Nhân Huệ Vương thẳng cánh cò bay, có tới cả ba ngàn mẫu, hơn cả Hưng Đạo Vương khi xưa chỉ có hai ngàn.
Số ruộng đất tích tụ được Trần Khánh Dư dùng vào việc canh tác một phần. Một phần lớn cải tạo thành các sân đua ngựa, như sân đua ở Ân Thi, Hưng Yên. Theo tính toán khá nhạy bén của Vương thì Ân Thi tưởng xa mà lại hoá gần. Chỉ cần qua đò Sông Cái, đi ngựa một thôi đường ngắn là tới nơi. Cái lợi của việc đua ngựa không chỉ nằm ở việc “bán vé” mà nguồn chính là các tổ chức “cá độ” cho các vương giả, cùng các con cháu “lắm của nhiều tiền” lại sẵn máu me ăn thua cờ bạc. Tuy nhiên công trình này của Nhân Huệ Vương mất tới sáu bảy năm vẫn không thực hiện được vì vướng một số thửa ruộng nằm trong diện “xôi đỗ” mà chủ nhân của nó là những phú hộ có máu mặt ở địa phương, lại đã từng có đóng góp “sức của” vào ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nên các quan từ cấp phủ, cấp huyện đến cấp xã cũng phải kiềng…
Thời điểm sau chiến tranh, đất đai bỏ hoang hoá cũng nhiều. Nhất là các vùng ven biển, ven đồi, ven rừng hay xa các thị trấn… Triều đình lại có chính sách cho khai khẩn các vùng hoang hoá, không phải nộp thuế trong vòng mười năm, kể từ khi bắt đầu canh tác được. Trần Khánh Dư là một con người lạ kỳ. Việc gì cũng “tham gia “hết mình. Phải nói là đánh giặc cũng hết mình, được xếp vào loại “tứ trụ” có công. Việc làm ăn “kinh tế” cũng say sưa không kém. Lúc ở Thái Bình khi ở Nam Định, thoắt cái đã thấy ở Hà Nam, Ninh Bình. Vì thế cái thú ăn chơi gái gú cũng nức tiếng thời bấy giờ. Vương hơn hẳn các loại “Thúc Sinh” khác là có hẳn ba cô tiểu Nga la tư. Chiến lợi phẩm “bắt được” từ chiến thắng Vân Đồn lẫy lừng. Cùng với giá một đồng bạc một gái đồng trinh thủa đói kém, nhà Nhân Huệ Vương có tới dăm bảy trăm người, ở Phủ đệ tại Thăng Long và các toà dinh thự tại các đảo lớn nhỏ tại Hạ Long, Vân Đồn.
Áp dụng phương châm “đi buôn có bạn - đi bán có phường” Nhân Huệ Vương liên kết với một số quan lại trong triều cùng có sở thích như vương. Người có tiền thì rủ cùng hùn hạp làm ăn. Người có vị trí thì đóng góp “cổ phần” bằng tiếng nói của mình để “tranh thủ ý kiến “ủng hộ” hoặc “cho qua” của Thượng hoàng hoặc vua.
Một trong số bạn “thâm giao” nhất của Trần Khánh Dư thời bấy giờ là Đỗ Khắc Chung, người đã dám “to gan” vác cái xác của “ngựa kéo xe muối” đến trại Ô Mã Nhi những ngày đầu quân Nguyên Mông ồ ạt tiến sát Thăng Long để dò xét và xin “giảng hoà”, nhờ thế mà được vua Trần Nhân Tôn thẳng một bước xếp vào loại “ngựa kỳ”. Rồi đến lần xa gia phải trốn chạy ra Tam Trí, Khắc Chung cũng bắt chước Phạm Ngũ Lão, đưa tấm lưng mảnh mai ra cõng vua Trần xuống thuyền chạy trốn vào Thanh Hoá. Những ngày gian khổ đó, Khắc Chung luôn có mặt bên cạnh hai Thánh thượng, chịu khó "bưng bô, đổ vịt” mà lập nên công trạng lớn, được mang quốc tính từ họ Đỗ sang Trần thành Trần Khắc Chung và được phong làm Nhập nội hành khiển, được ở bên vua để giải quyết các việc “văn phòng” và tranh thủ tâu hót những việc hai Thánh thượng còn phân vân. Vì cuối đời được phong chức Đại hành khiển, tước quan Nội hầu. Khắc Chung cũng dìu em là Đỗ Thiên Hứ vào triều. Được cử đi sứ sang nhà Nguyên. Khắc Chung còn liên kết với một số quan lại khác, sau này vu vạ cho Thượng tể Quốc Chẩn làm phản bị giết cả nhà hơn một trăm người.
Trần Khắc Chung có tài xiểm nịnh, uốn lưỡi từ trái sang phải hoặc từ phải sang trái hết sức tài tình. Dưới đây là một thí dụ nhỏ. Năm 1290, vua Trần Nhân Tông đích thân đem quân đi đánh Ai Lao. Khắc Chung can:
- Giặc Nguyên mới lui, vết thương chưa khỏi, sao có thể nổi binh?
Vua hơi giận vặn lại:
- Chỉ có lúc này mới đáng ra quân mà thôi. Vì là sau khi quân giặc lui rồi, thì ba cõi ((chỉ Ai Lao, Chiêm Thành và Chân Lạp) tất cho là quân và ngựa của ta chết hại, thế không thể tránh khỏi được, sợ có sự khinh nhờn đối với ta. Cho nên cần đem đại quân đi đánh để thị uy.
Trần Khắc Chung thấy thế bèn đỡ lời.
- Nhà vua há chẳng biết làm khó nhọc dân là việc đáng lo, nhưng còn việc đáng lo hơn thế nữa. Đó là Thánh nhân lo xa bọn thần không thể nghĩ tới được.
Được “lời như cởi tấm lòng” vua đổi giận làm vui. Nhiều chuyện như thế rất nhiều, bạn đọc sẽ được xem tiếp ở phần sau với pha đi giải cứu công chúa Huyền Trân ở Chiêm Thành.
Trở lại việc Trần Khánh Dư khai khẩn đất hoang ở Ý Yên (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình), Lý Nhân (Hà Nam)… Nguyên đất ở đây là vùng đầm lầy. Nhưng với nhãn quan làm ăn từ thời còn ở Vân Đồn, Khánh Dư biết nên cải tạo thành các hồ nuôi tôm thì rất đắc địa. Thời đó thương nhân Trung Quốc sang Đại Việt “ăn tôm” tươi, bằng cách chở cả thuyền lớn tôm cùng với nước, đem về bán lãi một gấp mười. Số tôm ở Vân Đồn không đủ cung cấp cho thương lái Tầu. Bởi thế Khánh Dư mới tập hợp dân lưu tán lại, ứng cho ba đồng để khai khẩn một vuông tôm (rộng bằng một mẫu bắc bộ 360m2). Hẹn canh tác sau mười năm thì trả lại ao cho vương. Nhưng sau ba bốn năm khó nhọc, ăn đói, mặc rét, thau chua, rửa mặn, nạo vét hút bùn các vuông tôm, mới được hình thành. Nhưng Nhân Huệ Vương đã nuốt lời hứa mới sau ba năm canh tác đã đến thu hồi, tước đoạt.
Dân hỏi tại sao lại có sự lật lọng thế, Vương đáp:
- Đất đai là quốc gia công thổ, vua ra lệnh thu hồi.
- Lệnh của vua đâu? Dân hỏi lại.
- Ta là vương, ta là được thay mặt vua rồi, việc gì phải hỏi nữa.
Một số hộ dân quá uất ức, bị tước mất miếng cơm, manh áo, đẩy gia đình họ vào chỗ bần cùng đã vũ trang chống lại. Nhân Huệ Vương cho gia binh đến đàn áp, nhưng ra lệnh “chỉ được đánh què, chứ không đánh chết”. Rồi dỡ nhà cửa, phá vườn tược của họ ở trên bờ, đuổi đi chỗ khác. Đưa gia nhân của mình đến canh tác. Tiếng kêu dạy đất, đơn gửi đến quan huyện, quan phủ đều khônig có hồi âm vì phần sợ uy thế của vương, phần khác, mỗi vuông “giải toả” được, các quan đều được chia một đồng bạc. Dân tụ họp vài trăm người kéo lên kinh thành. Vua sai Trần Khắc Chung ra nhận đơn khiếu kiện. Sau vài ngày “thụ lí” Chung vào tâu với vua:
- Việc làm ăn chỉ có thoả thuận miệng. Không có khế ước nên không biết “Ai đúng, ai sai. Ai phải, ai trái” thì làm sao khu xử được.
Vua sai Trần Thì Kiến, một môn hạ của Hưng Đạo Đại Vương, lúc đó mới được bổ làm quan kiểm pháp, nhậm chức Đại an phủ kinh sư. Thì Kiến tính người cương trực. Khi được Hưng Đạo Vương tiến cử làm An phủ sứ Thiên Trường. Có người đem biếu mâm cỗ. Thì Kiến hỏi vì cớ gì mà biếu, người ấy nói:
- Vì ở gần trụ sở cho nên đem biếu. Chứ không có kêu xin gì cả.
Mấy ngày sau thì đến kêu xin việc tranh tụng ruộng đất. Thì Kiến móc họng mửa ra, rồi sai lính đuổi về. Rồi được thăng làm quan kiểm pháp. Mỗi khi có việc kiện, lấy lý mà bẻ, việc đến thì dùng phép đối phó. Mọi người đều coi là người giỏi xử đoán kiện tụng.
Trần Thì Kiến nhận đơn của dân ở các phủ Lý Nhân, Trường Yên và Ý Yên. Thân đến tận nơi xem xét cặn kẽ sự việc. Không chỉ đi một lần, mà đi tới ba, bốn lần. Sau khi nắm rõ vụ việc, Trần Thì Kiến thấy dân kiện là đúng nên khi khai triều, đem sự việc tâu lên vua. Lúc đó Khánh Dư mới ở bãi Tám (có lẽ là vùng ven biển Hải Phòng bây giờ) về kinh thành. Vua hỏi Khánh Dư: “Vì sao lại có chuyện tiền hậu bất nhất như thế, để dân kiện là đúng hay sai?”
Khánh Dư thản nhiên bước ra tâu rằng:
- QUAN LẠI, QUÝ TỘC LÀ CHIM ƯNG. QUÂN DÂN LÀ CON VỊT. BỞI THẾ ĐEM VỊT MÀ NUÔI CHIM ƯNG LÀ LẼ TỰ NHIÊN. CÓ GÌ MÀ LẠ!
Vua giận lắm, định mắng lại thì Trần Khắc Chung đã đưa mắt cho Khánh Dư. Dư viện cớ đau bụng ra ngoài.
Đó là năm 1296, lúc đó Phạm Ngũ Lão đã là Điện suý, chỉ huy quân Thánh Dực. Là người duy nhất ở hàng quan võ lên triều không phải cởi gươm. Thấy Khánh Dư nói như vậy thì lửa giận bốc lên đùng đùng. Bao nhiêu sự hy sinh xương máu của dân chúng qua các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, cùng với sự đói khổ lầm than đến cùng cực vì nạn tham quan ô lại, lẫn thời tiết khắc nghiệt gây mất mùa; ấy vậy mà Khánh Dư lại “tuyên bố” “xanh rờn” đến ghê sợ như vậy đã khiến Ngũ Lão không kìm nổi, đuổi theo Khánh Dư, tuốt gươm ra định chém. Nguyễn Chế Nghĩa lúc đó cũng đang là đô tướng, phó chỉ huy quân Thánh Dực thấy vậy vội đuổi theo, ôm chặt người Ngũ Lão lại và van vỉ:
- Hiền huynh, đừng xúc động quá! Việc này không thể nóng giận mà giải quyết được.
Phạm Ngũ Lão ấn mạnh gươm vào vỏ rồi nói:
- Đệ chịu đựng được thì ở lại! Huynh có lẽ phải từ quan thôi!
Vua Trần Anh Tông (lên ngôi năm 1293) vốn là vị vua thông minh. Biết tất cả việc làm sai trái của Trần Khánh Dư. Nhưng vì Khánh Dư là đại công thần trong cả ba lần chống Nguyên Mông nên không thể tuỳ tiện trị tội được. Anh Tông bèn bàn với các triều thần là Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung. Để xoa dịu dư luận cũng như kiềm chế bớt sự tác oai, tác quái của một số quan lại biến chất nên đã đề ra sắc luật mới là CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ BÁN THÂN HOẶC BÁN RUỘNG TRONG VÒNG NĂM NĂM CÓ THỂ CHUỘC ĐƯỢC THÂN VÀ ĐƯỢC RUỘNG. Quá năm năm thì thôi. Riêng các vùng nuôi tôm của Trần Khánh Dư có chỉ dụ riêng, cho dân khai phá thuê được phép sử dụng thêm hai năm nữa.
Trần Khánh Dư sau lần ấy, sợ vua quở trách nên rất ít khi vào triều. Nếu có vào cũng dự không quá bốn ngày. Mọi tình hình Khánh Dư đều nắm qua Trần Khắc Chung, tất nhiên là có dùng tiền bạc để mua chuộc “hối lộ” nhân vật này. Trần Khánh Dư và Trần Khắc Chung trở thành cặp bài trùng trong các vụ việc làm ăn, chạy chức, chạy quyền, chạy tiền, chạy tội. Bằng cách đó Khắc Chung đã đưa được em là Đỗ Thiên Hứ vào làm hành khiển trong cung, trở thành bàn tay nối dài nữa cho Trần Khánh Dư.
14
Năm 1297, mùa hạ, tháng năm quân Ai Lao với một đàn voi dữ xâm vào vùng thượng nguồn sông Mã của Thanh hoá. Chúng quấy phá vườn tược, hoa mầu, giết hại dân chúng rất nhiều. Nơi là thánh địa của hai vua Trần giai đoạn chống Nguyên Mông lần hai bị đe doạ nghiêm trọng. Quan trấn thủ Thanh Hoá không địch nổi sự hung hãn của giặc, dâng biểu cầu cứu về triều. Anh Tông họp bàn với các quần thần. Trần Khắc Chung bàn riêng với vua:
- Giặc Ai Lao kỳ này rất nguy hiểm. Chỉ có cử Phạm Ngũ Lão đi đánh dẹp mới khuất phục bọn chúng được. Năm 1294 chính Ngũ Lão đánh chúng phải chạy tan tác ở Nghệ An, bắt được voi ngựa rất nhiều… Ngũ Lão là quan võ. Ngồi lâu trong triều chân tay bứt rứt, ngứa ngáy. Đợt vừa rồi không có Nguyễn Chế Nghĩa can ngăn kịp thời thì biết chuyện gì đã xảy ra với Nhân Huệ Vương. Ý đồ của Khắc Chung và Khánh Dư là muốn đẩy Ngũ Lão vào chốn hiểm nguy, nếu thắng được Ai Lao cũng chỉ là việc nhỏ. Mà lỡ thua, tử trận thì bằng “nhổ được cái gai trong mắt”. Kế đó được Khánh Dư cười (tất nhiên có kèm theo một bọc tiền) và gọi là kế MƯỢN DAO GIẾT NGƯỜI.
- Việc này để ai gia bàn với Ngũ Lão đã - Vua Anh Tông nói - Dù sao chức Điện suý là rất quan trọng.
Trần Thì Kiến biết Phạm Ngũ Lão buồn bèn đến nhà chơi.
Thì Kiến ngạc nhiên thấy phủ đệ của Ngũ Lão quá sơ sài. Tiếp khách thì trải chiếu ngồi dưới nền gạch bát. Chỉ có hai phòng gác trổ ra để một làm phòng thờ và một làm phòng đọc sách gọi là tương đối tươm tất.
Triều chính hiện giờ rất còn thịnh. Ấy là nhờ vào Đức vua anh minh. Các tướng tài thời chống Nguyên Mông vẫn còn là trụ cột. Tuy nhiên các loại “sâu mọt” đang liên kết lại với nhau để đục khoét, kiếm chác. - Thì Kiến nói - Đệ đi các nơi đều nghe nói: thứ nhất quan hệ (chỉ sự kết bè, kết cánh với nhau; thứ nhì tiền tệ (ý nói việc gì cũng có thể dùng tiền để mua bán được); thứ ba là hậu duệ (chỉ con cháu, họ hàng của lớp vương hầu, quý tộc bấy giờ). Đây thực sự là quốc nạn, một thứ NỘI XÂM gặm mòn đất nước.
- Thế người đã báo với Quốc Công Tiết Chế chưa? Ngũ Lão hỏi lại.
- Báo rồi! Đệ với Đoàn Như Hài, Trương Hán Siêu lên gặp Đại vương ở Vạn Kiếp…
- Đại vương bảo sao - Ngũ Lão sốt ruột hỏi lại.
- Đại vương chỉ thở dài, không nói gì.
- Huynh thấy chán nản lắm! Cũng định lên thăm Đại vương một ngày gần đây. Ngũ Lão đáp.
Trần Thì Kiến vừa về thì có trát của vua mời vào gặp riêng.
- Ai gia định cử Điện suý đi dẹp loạn Ai Lao ở bắc Thanh Hoá - Mở đầu Anh Tông nói - song muốn xem ý của Điện suý thế nào? Vì việc quản quân cấm vệ cũng là điều tối hệ trọng. Nếu Điện suý không đi, ai gia sẽ cử tướng khác.
- Quân Ai Lao nhiều lần khinh nhờn vì cậy có nhiều voi dữ. Kỳ này nếu Thánh thượng cử mạt tướng đi - Ngũ Lão đáp. - Xin cho quan coi quân khí chế cho thật nhiều pháo đùng và cấp cho thật nhiều cung tên. Còn việc ai quản quân cấm vệ đã có Hầu gia Đỗ Hành và đô tướng Nguyễn Chế Nghĩa đều là những người tài giỏi cẩn trọng, nên không có gì phải lưu tâm cả… Mạt tướng có một việc không biết có nên bẩm với Thánh thượng hay không?
- Điện suý có gì cứ nói! Thượng hoàng Trần Nhân Tông cũng rất yêu quý Điện suý. Có lần Người đã than, nếu có Điện suý đi hộ giá lần ấy thì chưa chắc Trần Bình Trọng đã phải bỏ mình.
- Thượng hoàng quá khen thôi. “Chứ tài đức của mạt tướng cũng chẳng có gì đáng phải để ý… Còn chuyện mạt tướng muốn tâu với thánh thượng hôm nay là… mạt tướng tuy chưa già nhưng đã cảm thấy mỏi mệt… không hẳn là muốn từ quan… Mà muốn thánh thượng bố trí cho việc… có thời gian rảnh rỗi một chút… để còn thực hiện di nguyện của sư phụ.
- Được rồi! Ai gia ghi nhớ lời thỉnh này của Điện suý. Sau lần này về… Ai gia sẽ tính với Điện suý sau.
Ngũ Lão từ tạ ra về. Phóng ngựa lên Vạn Kiếp gặp Hưng Đạo Đại Vương
Vừa gặp Người. Ngũ Lão đã quỳ xuống sụp lạy:
- Ngũ Lão ít lên thăm… Mong Đại vương xá tội cho.
Hưng Đạo Đại Vương vuốt chòm râu đã lốm đốm bạc nói:
- Con giờ giữ trọng trách trong triều. Làm gì có dư giả thời giờ mà đi đây đi đó được… Nhưng mà cái việc con quá nóng nảy, toan chém Nhân Huệ Vương, theo cha là nên kiềm chế… phải kiềm chế. Không phải giữ cho mình mà là giữ cho triều đình, tức là giữ cho nước.
- Cha đã dạy thế. Con xin tạ tội trước cha… Vì Ngũ Lão này trước sau vẫn chỉ là gã nhà quê đan sọt, không thể gạt bỏ bản tính lỗ mãng được…
- Con nói lại càng sai rồi… Vả lại sự việc nói cho cùng vẫn chưa xảy ra.
- Con nghĩ việc làm của Nhân Huệ Vương đối với dân chúng, không phải việc này mà nhiều, rất nhiều việc khác nữa như mua gia nô, sắm ruộng đất nhân thiên tai mất mùa… thực chất là một tội ác với dân chúng. Mà đã là tội ác… thì không thể làm ngơ mãi được!
- Con ơi! Con đã đọc muôn vàn cuốn sách. Hẳn có nghe nói “ném chuột còn phải giữ bình quý” sao? Nhân Huệ Vương tuy là có tội với dân, nhưng trước đây đã có công với nước (tức là có công với dân)… Bởi thế không thể thẳng tay như các kẻ khác được. Vả lại nước ta, từ ngàn năm nay đến giờ… và tới ngàn năm sau vẫn vậy. Việc chống xâm lược phương bắc bao giờ cũng là việc hệ trọng nhất, việc được đặt lên hàng đầu. Rồi lịch sử sau này, người ta chỉ thấy nổi rõ việc Nhân Huệ Vương đốt cháy tan tành bảy mươi vạn thạch lương của Nguyên Mông, mà thấy mờ nhạt chuyện bóc lột, ức hiếp dân chúng. Ở ta bây giờ cũng thế mà sau này cũng thế!... Đó là nỗi đau của người dân Đại Việt mà có lần Quốc Tảng cũng đã nói với cha, nhưng cha không tài nào an ủi nó được. Phạm Ngũ Lão buồn rầu đáp lại một tiếng “Vâng” - Rồi mãi một lúc sau mới đề đạt:
- Cha ạ! Con có việc này muốn lên nhờ cha giúp đây!
- Việc gì vậy, con cứ nói. Cha con với nhau có gì mà ngại!
- Chả là thánh thượng sai con đi dẹp loạn Ai Lao ở bắc Thanh Hoá! Con muốn xin cha cho Dã Tượng đi cùng.
- À, tưởng chuyện gì, chứ việc ấy cha bằng lòng ngay. Và chắc Dã Tượng cũng thích thú nữa. Vậy cha sẽ giao cho con Dã Tượng làm tuỳ tướng, để con sai bảo.
- Ấy chết! Nếu thế thì con không dám nhận đâu! Dã Tượng là anh em với con. Vả lại bây giờ cũng được phong tước hầu rồi, làm tuỳ tướng cho con sao tiện. Nếu cha đồng ý để Dã Tượng làm phó tướng… con mới đồng ý.
- Điện suý vẫn nghĩ đến tình anh em xưa… quả rất quý. Hưng Đạo Đại Vương nói vui.
- Cha diễu con thế làm con tổn thọ mất!
Thế là hai cha con cùng cười phá lên..
Ngũ Lão kể cho Đại Vương việc sư phụ của mình trăng trối phải tìm được “truyền nhân” để giữ cho được ngọn lửa truyền thống thượng võ, nhằm chống lại sự xâm lược, bành trướng của giặc phương bắc sau này. Hưng Đạo Đại vương nói:
- Sư phụ của con thực sự là Đại anh hùng. Đại anh hùng giấu mặt. Người nghĩ xa như vậy là rất đúng. Cha cũng đã tính rồi nhà Nguyên giỏi lắm còn đứng được khoảng bốn chục năm nữa là cùng, bây giờ đã bắt đầu loạn rồi. Nhà nước mới nào lên cầm quyền ở phương bắc cũng đều nghĩ tới việc xâm chiếm Đại Việt. Để làm bàn đạp đánh xuống Chiêm Thành, Chân Lạp. Phía tây thì chiếm Ai Lao rồi Xiêm La. Và còn đi xa hơn nữa. Nhà Nguyên cũng đã tính như vậy nên mới phong cho Thái tử Thoát Hoan làm Trấn nam vương là với ý đồ đó. Nhưng bị Đại Việt ta chặn đứng được.
- Con thật là người có phúc lớn nên mới gặp được sư phụ con và cha. - Ngũ Lão nói.
- Con chỉ mới nói đúng một nửa thôi. Phải nói thêm là sư phụ con có cơ duyên lớn mới phát hiện ra con và truyền dạy võ thuật thượng đẳng cho con. Còn cha cũng có duyên để rèn rũa, dạy thêm cho con về binh pháp... Do đó việc sư phụ dặn con như con vừa nói là rất đúng. Đánh mấy sự quấy nhiễu của Ai Lao, Chiêm Thành chỉ là việc gãi mấy nốt ghẻ bên ngoài. Phải chuẩn bị cho lâu dài để chống giặc phương bắc mới là chuyện của gan ruột của Đại Việt. Cha nghĩ đất Thanh - Nghệ thời nào cũng là đất dường cột của quốc gia. Còn có thể vào đó để tìm “truyền nhân”. Tìm được dăm bảy người thì càng tốt. Số này phải tiếp tục làm công việc ấy cho thế hệ sau, như là một cuộc chạy tiếp sức vậy.
- Con xin ghi nhớ lời cha. Sau khi dẹp Ai Lao xong, trở về con sẽ bắt tay ngay vào việc đó.
Phạm Ngũ Lão tâu với vua xin ba vạn quân và đề cử bổ nhiệm Dã Tượng làm Phó tướng.
- Sao không đốc xuất năm vạn cho chắc thắng - Vua Anh Tông quan tâm hỏi lại.
- Dạ, bẩm! Quân chỉ cốt tinh chứ không cốt đông.
- Thôi được tuỳ Điện suý! Ngoài ra có cần lấy ai làm tiên phong nữa không?
- Dạ, bẩm! Dã Tượng là phó tướng kiêm tiên phong là đủ ạ!
Mùa thu, tháng tám Phạm ngũ Lão làm chánh tướng. Dã tượng làm phó kiêm tiên phong dẫn ba vạn quân vào miền tây Thanh Hoá. Quân Ai Lao đang hoành hành dữ dội ở vùng thượng nguồn sông Mã nhờ vào đội tượng binh ba chục con, trong đó có một con voi trắng khổng lồ vô cùng hung hãn.
Biết Phạm Ngũ Lão đem quân đến, tướng Ai Lao sai rào dậu trại hết sức chắc chắn rồi dẫn đội tượng binh ra nghênh chiến. Ngũ Lão sai quân cung vỗ bắn chặn quyết liệt khiến chúng không dám xông thẳng vào quân ta, mà chỉ ở phía quân Ai Lao, múa vòi và đú lên các tiếng ghê rợn. Ngũ Lão ghé vào tai Dã Tượng:
- Đệ ra bắt sống con voi trắng về đây.
Dã Tượng vâng lệnh cưỡi ngựa xông lên, bên lưng dắt hai búa gỗ lim lớn. Tay cầm một sợi dây mây rất dẻo và vót nhọn đầu. Không chờ lệnh tướng Ai Lao, con voi trắng hung hãn xông ra. Ngựa và voi tiếp giáp nhau. Dã Tượng tung người nhảy lên cổ voi, thả cho ngựa chạy về bên trận Đại Việt. Con voi tung vòi lên, định cuốn Dã Tượng quật xuống đất rồi dùng chân di chết. Chỉ chờ có thế, Dã Tượng đã nhanh trong chớp mắt luồn sợi dây mây qua lỗ mũi rồi quấn luôn mấy vòng quanh cổ voi. Con voi bị “trói” voi”, chạy lòng lên để quật Dã Tượng xuống. Dã Tượng quắp chặt hai chân vào cổ voi, hai tay rút hai búa gỗ lim bên sườn nện tới tấp vào hai bên mang tai con quái vật. Tướng Ai Lao thúc ba chục con voi ra trợ chiến. Phạm Ngũ Lão cho nổ pháo đùng đinh tai nhức óc, lửa xanh, lửa đỏ bắn toé ra xung quanh khiến lũ vôi khiếp sợ co vòi lùi lại.
Sau một hồi đập đã tay, con voi trắng thực sự bị choáng. Đến lúc đó Dã Tượng mới dắt hai chiếc búa gỗ vào sườn, vừa xoa hai bàn tay vào vùng mang tai vừa cúi xuống thủ thỉ mấy câu gì vào tai, con voi trắng có vẻ ưng thuận. Dã Tượng quát một câu gì đó, con voi trắng vội quỵ hai chân trước xuống, quỳ xin hàng.
Ngũ Lão thúc trống liên hồi thúc kỵ binh Đại Việt tràn sang. Quân Ai Lao lui về, đóng chặt cửa trại cố thủ, không dám ra dánh.
Dã Tượng dong con voi trắng về, tháo sợi dây mây luồn qua lỗ mũi ở vòi nó ra. Rồi sai lính lôi ra hai vác mía cho nó ăn. Lúc đầu nó còn đưa mặt nhìn Dã Tượng như muốn hỏi xem Dã Tượng có đồng ý không. Dã Tượng gật đầu. Con voi trắng từ tốn dùng vòi quấn từng cây mía rất bụ, đã đến thời cho nước ngọt đút lên miệng, ăn ngon lành. Mọi người kể quân Ai Lao đều kinh sợ trước tài thuần dưỡng voi dữ của Dã Tượng.
Hôm sau Ngũ Lão cho vây ba cửa đông, nam, bắc của giặc. Riêng của tây thì bỏ ngỏ. Pháo đùng nổ ròn rã, đinh tai, nhức óc. Quân lính dùng búa bổ bứt tung các cửa trại. Rồi kỵ binh và bộ binh xông vào. Tướng Ai Lao biết không địch nổi, bèn dẫn quân tháo chạy ra cửa tây. Chạy chừng mười dặm, bỗng thấy một loạt pháo nổ vang. Khói pháo vừa tan đã thấy Dã Tượng cầm đao lớn, hiên ngang ngồi tên cổ voi trắng, phía sau là năm ngàn quân kỵ, cung tên, dáo mác, đao kiếm sát khí đằng đằng. Tướng Ai Lao quay đầu dẫn quân chạy lộn lại, vừa mới được hai dặm đã thấy Ngũ Lão oai phong lẫm liệt trên mình con ngựa ô đen bóng. Quân lính phía sau cũng đằng đằng sát khí thì luống cuống chưa biết xử trí thế nào thì thấy Ngũ Lão hỏi:
- Tướng Ai Lao, không xuống voi hàng đi! Còn chờ đến lúc nào nữa. Hàng thì sống! Chống thì chết.
Quân Đại Việt cũng hô lớn: “Hàng thì sống! Chống thì chết!” Biết không có đường nào khác tướng Ai Lao xuống voi, giơ đao lên trời xin hàng.
Một toán quân Đại Việt đã lọt vào chiếm trại từ lúc nào. Phạm Ngũ Lão oai vệ ngồi trên chiếc ghế bành lớn. Phía sau Dã Tượng cầm dao “đứng hầu”. Quân lính áp giải tướng Ai Lao vào. Ngũ Lão trông thấy vội đứng bật dậy, rút con dao găm bên sườn ra, cắt dây trói cho tướng Ai Lao ra. Rồi sai lính đem ghế và bầy rượu cùng ngồi uống và hàn huyên.
Ngũ Lão hỏi:
- Quân Ai Lao có mạnh bằng quân Nguyên Mông không?
- Dạ làm sao mà so được với rợ Hồ ạ!
- Ấy thế mà rợ Hồ đã bại trận ba lần trước Đại Việt. Vậy cớ gì mà Ai Lao lại cứ sang quấy rối Đại Việt vậy?
Tướng Ai Lao ấp úng. Ngũ Lão phải gặng hỏi mãi mới đáp:
- Dạ! Là do Xiêm La xui ạ!
- Xui thế nào?
- Sứ giả Xiêm La sang bảo Đại Việt có rất nhiều công chúa đẹp hỏi chắc là họ không gả đâu! Mà Ai Lao lại có đội tượng binh hùng mạnh thì cứ đem sang mà quấy nhiễu. Muốn được yên ổn thì phải gả công chúa cho.
- Thế ngươi có biết thâm ý của người Xiêm La là thế nào không?
- Dạ, mạt tướng chỉ nghe theo lệnh vua sai, làm sao mà biết được!
- Chính vì thế mà ta mới “mời” tướng quân cùng ngồi ở đây uống rượu để giảng giải cho tướng quân nghe. Sau đó trở về tướng quân nói lại thiệt hơn cho vua Ai Lao nghe. Vốn là Xiêm La từ xưa đã rất thèm khát vùng vựa lúa phì nhiêu của Ai Lao ở phía tây bắc, bên bờ Mê Kông. Xiêm La xui Ai Lao chiến tranh với Đại Việt để Ai Lao hao người, tốn của. Sau yếu đi. Lúc đó Xiêm La mới có cơ hội làm được việc đó.
- Quả thật là vua tôi chúng tôi không biết gì về thâm ý này của Xiêm La ạ! Bây giờ Điện suý nói tôi mới rõ. Nếu Điện suý tha về, nhất định tôi sẽ trình bầy hơn thiẹt ý của Điện suý với vua của tôi.
- Để tỏ sự đại lượng của Đại Việt, ta sẽ tha cho tướng quân cùng các quân sĩ được trở về Ai Lao. Không giữ lại một ai. Riêng đội tượng binh thì phải giữ lại. Không có vua Ai Lao lại dùng chúng đẻ tiếp tục quấy nhiễu Đại Việt lần nữa.
- Nếu được như vậy thì bại tướng đây, xin quỳ lạy Điện suý ba lạy. Nói rồi tướng Ai Lao đứng dậy. Nhưng Ngũ Lão đã đỡ lại và bảo:
- Tướng quân không phải làm vậy! Cái cốt yếu là phải giữ chữ tín với nhau là được.
- Tôi xin thề với Điện suý là lần sau vua có sai tôi sang quấy nhiễu Đại Việt, dù có bị chém đầu tôi cũng không đi.
- Tướng quân đã nói vậy là đủ rồi.
Phạm Ngũ Lão tha hết cho quân Ai Lao về, chỉ giữ lại đội tượng binh đem về kinh thành. Riêng con voi trắng khi ra gần đến cửa rừng già thì Dã Tượng bảo với nó:
- Ngươi nguyên là thú hoang dã. Vậy hãy trở về với đại ngàn đi.
Con voi trắng dùng dằng không nghe. Dã Tượng bảo:
- Dù có về Thăng Long, người cũng không được ở cùng ta đâu. Ngươi là “báu vật” thế này, sứ Nguyên biết thế nào cũng đòi Đại Việt phải đem cống. Sang đấy tất sẽ bị xích chân vào cột đá. Trong vườn thú, cho mọi người chiêm ngưỡng. Về với đại ngàn sống đời tự do có sướng hơn không?
Con voi trắng khổng lồ đú lên một tiếng lớn, rồi quỳ hai chân trước, phủ phục trước mặt Dã Tượng. Tự nhiên từ hai đôi mắt nhỏ của nó chảy ra hai dòng nước mắt.
Dã Tượng dặn thêm:
- Về với đại ngàn, ngươi chớ có cậy sức mạnh mà ăn hiếp đồng loại. Nhất là việc tranh giành voi cái nhé!
Nó lại đú lên một tiếng như đáp lại lời căn dặn chí tình, chí cốt ấy.
Đoàn quân đi khuất rồi, mà con voi trắng vẫn phủ phục nơi bìa rừng. Mãi một lúc lâu sau, Dã Tượng lại nghe thấy ba tiếng đú cực lớn của nó. Dã Tượng biết đó là lời chào từ biệt, và đến lúc đó nó mới trở vào rừng.
Vua Anh Tông thân ra cửa nam đón đoàn quân chiến thắng của Phạm Ngũ Lão và Dã Tượng trở về. Kể hết lại mọi chuyện đã nói với tướng Ai Lao cho Anh Tông nghe. Anh Tông cảm động lắm nói:
- Điện suý quả là dường cột của quốc gia. Vũ đã giỏi mà văn (lý nói là trí) cũng tài.
Và để tìm mọi cách phủ dụ Phạm Ngũ Lão, một năm rưỡi sau, khi con gái của Ngũ Lão là Phạm Thị tự là Tĩnh Huệ, vừa tròn mười sáu tuổi, vua Anh Tông đã sai người mai mối, cưới là thứ phi.
Mười năm sau vào năm 1308 vì Phạm Thị không có con, nên xin với vua được ra ngoài để đi tu. Cũng vì nể trọng Phạm Ngũ Lão nên được vua Anh Tông đồng ý ngay. Chứ nhiều trường hợp khác đành sống lủi thủi một mình suốt đời trong cung cấm. Phạm Thị về làng Phù Ủng, một hôm lên chùa Bảo Sơn thấy chùa đổ nát, tiêu điều thì than: “Chùa này là nơi tiên quân ta (chỉ Phạm Ngũ Lão) từng luyện tập võ nghệ mà có được ngày hôm nay. Ta về đây tu sửa lại chùa, có thể thờ vua, lại có thể thờ gia tiên va sư phụ thay cho cha ta, trung hiếu vẹn cả đôi đường, đó cũng là sở nguyện của ta.” Bèn bán hết tư trang, dồn tiền sửa lại chùa, làm điện ở phía bên đông chùa, lại làm nhà riêng ở đằng sau để làm nơi thờ cúng tổ tiên. Khi làm xong thượng hoàng ngự đến xem, ban cho biển ngạch để tỏ lòng hiếu kính.
14
Lại nói Trần Khánh Dư, sau vụ tuyên bố xanh rờn trong triều “quan lại, quý tộc là chim ưng, còn lính và dân là con vịt. Việc dùng vịt để nuôi chim ưng là lẽ tự nhiên, việc gì phải bàn cãi”; thấy vua giận lắm nên Trần Khắc Chung “xui” nên ít vào triều. Khánh Dư tập trung thì giờ vào vui chơi, săn bắn và quyết tâm hoàn thành sân đua ngựa ở bên Hưng Yên. Tuy nhiên như trên đã nói công việc bị ngưng trệ vì có một số nhà phú ông kiên quyết không chịu bán ruộng, đặc biệt có nhà của chị cả Lưu, cả trăm mẫu ruộng vào loại “thượng đẳng điền” nằm lọt ở giữa trường đua, kiên quyết không bán, dù trả giá rát cao. Khiến Khánh Dư rất buồn bực. Một hôm thấy một vị thầy Tầu đi ngang qua Phủ liền gọi vào bói một quẻ. Thầy Tầu gieo quẻ xong, cắp tráp đi ngay, không nói gì. Khánh Dư cho người đuổi theo bắt lại:
- Tại sao lại dám vô lễ bỏ đi như vậy? Khánh Dư quát.
- Dạ! Bẩm tôi không dám nói.
- Ta đây từng vào sống ra chết lập được công to. Bĩ cực phải đi bán than bữa no, bữa đói đã từng trải qua. Có sự gì nữa cơ chứ mà ngươi không dám nói?
- Dạ! Bẩm quả thật tôi không dám ạ!
- Ta cho phép lành dữ thế nào ta cũng trả mười quan tiền.
- Thế thì tôi chỉ nói một câu thôi. Nhà sắp có đại tang.
Khánh Dư nổi giận nói:
- Cha mẹ ta khuất núi đã lâu. Vợ con không có. Ta thì còn lâu mới chết… Đúng là đồ “bói ra ma, quét nhà ra rác”. Rồi sai người nhà đuổi thầy bói đó, không trả đồng nào như đã hứa.
Trở lại việc làm trường đua ngựa, Trần Khắc Chung hiến kế:
- Ruộng của chúng nó ở giữa, đường mương dẫn nước vào, huynh cứ cho lính lấp kín lại. Đường ra vào cũng rào kín lại. Xem chúng nó có canh tác nổi không? Lúc đó phải bán vội giá rẻ là đằng khác.
Khánh Dư nghe theo, sai lính cứ như lời Khắc Chung mà làm.
Lại nói đứa con trai chị cả Lưu, năm đó vừa tròn mười bẩy. “Nữ thập tam nam thập lục”, năm thằng bé mười sáu chị lấy cho nó cô vợ theo câu ca truyền thống “nữ hơn hai, trai hơn một”. Con dâu chị mười tám, ngực nở, hông to, lưng ong thắt đáy, đúng là tướng mắn đẻ. Cưới được đúng “chín tháng, mười ngày” thì “tòi” ra một thằng cháu nội, giống bố như đúc. Đúng là giỏ nhà ai, quai nhà nấy. Chị tuyên bố:
- Con độc, cháu phải đàn. Con cứ đẻ cho bà chục đứa, bà nuôi được tất. Cô con dâu đỏ chín cả mặt.
Thời “ông ngoại” còn làm “quan huyện giả” có lần từ trên phủ về, giữa đường gặp một kẻ trần truồng như nhộng toàn thân máu me. Dương vật bị cắt đút vào miệng. Biết là lũ “giang hồ trả thù ân oán”. Ông đã định bỏ mặc. Nhưng rồi lại nghĩ "cứu một mạng người, bằng xây bẩy toà tháp” nên xuống kiện đi bộ, sai người nhà khiêng hắn đến nhà quan đại phu (lương y). Chạy chữa suốt ba tháng trời, hết hơn trăm bạc, hắn mới khoẻ lại. Ông gọi hắn vào buồng bảo:
- Bây giờ ngươi đã “chơn lông đỏ da” có thể ra ngoài vẫy vùng, báo ân, báo oán được rồi!
Hắn sụp lậy dưới chân ông ngoại, dùng răng cắn chạt lấy gấu quần ông, nước mắt chứa chan nói:
- Con sinh ra không biết cha mẹ là ai… Lớn lên sống đời giang hồ vất vưởng, gây ra tội ác cũng nhiều và ác báo cũng lắm. “Oan oan tương báo” biết đến bao giờ cho xong. Nay con được ông ra tay độ thế, cứu mạng. Con xin ở lại làm thân chó ngựa để đền đáp. Nếu ăn ở hai lòng thì trời chu, đất diệt. Chết không có chỗ chôn.
Thấy hắn thực lòng, ông đồng ý đặt tên cho hắn là “Hoàn Lương”. Sau thấy không tiện đổi thành Hoàng Lương. Hoàng Lương có chút ít võ nghệ, có tài sử dụng một thanh “quất đồng” (roi đồng) tương đối khá. Lúc đó con chị cả Lưu cũng đã đủ mười lăm, mười sáu nên bảo Hoàng Lương:
- Cậu dạy cho cháu một vài miếng… để có lúc phải phòng thân. Hoàng Lương vâng lời, dạy cho cậu cả quyền cước và bài roi mười tám đường. Với võ nghệ ấy, chưa thể làm được nên “cơm cháo gì”, nhưng cũng có thể đánh được vài ba tên lính. Bởi thế khi quân của Trần Khánh Dư đến lấp mương dẫn nước, nó đã dẫn gia nhân ra ngăn cản. Nó nói rất có lý:
- Ruộng là ruộng của Nhân Huệ Vương thật. Nhưng mương nước là của chung, của tổng, của hương. Các anh không có quyền lấp.
Rồi nó sai gia nhân khai trở lại. Hai bên xô sát, nó rút thanh quất bằng đồng ở sau vai, vung mấy đường khiến ba tên lính bị thương, đứa vỡ đầu chảy máu, đứa gãy tay.
Trần Khánh Dư hay tin thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt. Có lẽ chưa bao giờ Khánh Dư thấy “bức bối” như lúc này liền sai lính dắt con ngựa trắng ra, con chim ưng cũng đi theo, đậu trên vai.
Khánh Dư xuống ngựa quát:
- Đứa nào dám đánh lính của bản vương bị thương!
Lúc này chị cả Lưu và Hoàng Lương có việc không có nhà. Cậu cả dẫn gia nhân ra quát lại:
- Chính là ta. Ông có bản lĩnh gì thì hãy giở ra đi!
Trần Khánh Dư điên tiết, rút thanh trường kiếm ra, cũng định chỉ “cảnh cáo” cho hắn một mũi vào vai, vào đùi, hay chỗ nào đó không thể mất mạng được. Nhưng chàng thanh niên quá hăng lại không lượng được sức mình, lăn xả vào vung quất đánh. Khánh Dư né qua mặt, đưa một đường kiếm thẳng. Cậu thanh niên không tránh được, vô tình lưỡi kiếm xuyên qua ngực, gục xuống chết liền. Khánh Dư cũng sợ hãi vội nhảy vọt lên con ngựa trắng phi về kinh thành.
Chiều chị cả Lưu về, hay tin ngất lịm đi. Phải mất cả canh giờ đổ thuốc và lay gọi chị mới hồi tỉnh. Khi được biết kẻ giết con mình chân dài, cưỡi ngựa trắng trên vai có con chim ưng đậu thì chị đã nấc lên:
- Trời quả báo! Trời quả báo đây!...
Chị nói mà cũng không hiểu được là nói quả báo ai. Mọi người tất nhiên là càng không hiểu. Chị vào buồng lấy ra một vuông vải, trên đó có vẻ hình một người chân dài, cưỡi ngựa trắng, đầu đội mũ có gắn lông công, và trên vai có một con chim ưng oai vệ đậu. Vốn là bức vẽ Khánh Dư bỏ quên trên thuyền khi bán cả than củi và thuyền cho chị gần hai mươi năm trước. Chị giữ lại bức vẽ dưới đáy giương (hòm) với ý định lúc trăng trối nếu thằng con có hỏi bố nó là ai, thì đưa bức tranh ra. Nhưng sự thể bây giờ lại hoá ra thế này.
Chị bèn tập hợp mấy chục gia nhân và thuê bà con lối xóm khiêng quan tài đứa con trai lên kinh thành. Phía trước quan tài có treo vuông vải có hình vẽ đó. Có người biết chỉ cho chị, người trong tranh chính là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Đoàn người khiêng quan tài rầm rập kéo đến phủ Nhân Huệ Vương. Đang buồn bực, thấy bên ngoài ồn ào, Khánh Dư vội bước ra xem có chuyện gì.
Trông thấy chị Cả Lưu dẫn đầu đoàn người Khánh Dư nói:
- Chúng ta đã có thoả thuận là không bao giờ gặp lại nhau rồi cơ mà!
- Đồ giết người! Hổ dữ cũng không ăn thịt con… Còn ngươi hãy nhìn thằng bé đi… Cặp chân dài giống ai? Cái trán rộng. Đôi mắt to có hai hàng mi cong. Rồi cái mũi cao, nhọn với hai cánh mũi mỏng… giống ai?
Khánh Dư nhìn quan tài đặt trước cổng, nghe chị cả Lưu nói, tai ù đi. Mắt hoa lên, nảy đom đóm. Nhưng trong đầu vẫn còn tự hỏi: Chẳng lẽ.. chuyện đó lại là thật!”.
Chị cả Lưu gào lên:
- Giết người phải đền mạng!
Rồi rút từ cạp quần phía sau lưng ra một chiếc liềm cắt cỏ, nhằm cái thân cao lớn của Khánh Dư ném tới. Là võ tướng tài giỏi, giá như đó là lưỡi kiếm, lưỡi dao hay lưỡi búa… Khánh Dư dễ dàng tránh được. Thậm chí là giơ tay ra bắt nhẹ nhàng. Nhưng đây lại là chiếc liềm cong cong, nên đường đi của nó khá vòng vèo. Khánh Dư chưa kịp tránh thì nó đã liệng qua đầu rồi mũi nhọn cắm phập vào vai phải. Khánh Dư ôm vai ngã xuống. Lũ lính xông ra kề gươm vào cổ chị và Hoàng Lương. Khánh Dư cố gượng đau đứng lên. Nhìn người vừa làm mình bị thương, tự nhiên thấy lòng đau như dao cắt, Khánh Dư quát bọn lính.
- Thả họ ra! Thả tất cả ra!...
Chị Cả Lưu đưa xác con về, đưa lên chùa Bảo Sơn làm lễ hoả thiêu. Rồi chị đem tro cốt trở lại bến Bình Than xưa trải dài xuống sông…
Qua một số người chị cả Lưu biết Trần Khánh Dư có cháu đầy đàn. Song tuyệt nhiên không thấy có đứa con nào! Có thể ông ta đã “trải con” ra khắp thiên hạ, nhưng mà cuối cùng thì sự thể lại trớ trêu như vậy! Chị đâm chột dạ! Ông ta là người quyền thế, lại giàu có vào hạng nhất nước. Biết đâu ông ta chả cho người về đây dò la. Và biết còn có đứa cháu nội. Sẽ tìm cách bắt về thì chị “đâm trắng tay”. Nghĩ rồi làm liền. Chị gọi con dâu tới, đưa cho nó một trăm bạc và bảo:
- Con dùng số tiền này làm dấn, làm vốn. Rồi tái giá! Đừng ở vậy như mẹ đây. Khổ lắm! Mẹ phải đưa cháu đi… không người ta sẽ đến bắt mất.
Đứa con dâu của chị “lăn ra như con bống” bị mắc cạn. Khóc ngằn ngặt đòi đi theo. Chị dỗ:
- Mẹ chỉ đưa cháu đi vài năm thôi! Bao giờ yên hàn mẹ sẽ mang cháu về để “mẹ con gặp nhau”.
- Nhà cửa, văn tự đất đai ruộng vườn chị giao tất cho bà con họ hàng trông giữ. Một buổi sáng sương mù còn giăng mù mịt, cách vài bước chân không nhận rõ mặt nhau. Chị địu sau lưng đứa bé. Phía trước bụng, trong lớp quần lót chị quấn một “ruột tượng” đựng tiền nong. Bên hông dắt một con dao găm cực sắc để phòng thân và sử dụng hàng ngày. Hoàng Lương cõng sau lưng một kiện hàng đồ dùng, quần áo, thức ăn cho trẻ. Phía trước bụng cũng là một “ruột tượng” tiền vàng lớn. Tay cầm roi đồng, sườn đeo đoản kiếm. Ba nhân mạng ra phía bờ đê sông Cái, xuống một chiếc thuyền vừa phải nhưng rất chắc chắn, đi về đâu không ai rõ.
Trần Khánh Dư sau mấy ngày điều trị khỏi vết thương ở vai. Sai người đi dò la tung tích nhà chị cả Lưu. Khi hay tin chị đã đưa cháu nội đi biệt tích thì ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Ta đã đến chậm một bước rồi! Thật là thấp mưu thua trí đàn bà.
Rồi cho người đi tìm lại thầy Tầu để hỏi chuyện. Nhưng lão cũng bặt vô âm tín.
Mấy ngày sau con ngựa bạch cũng lăn ra chết vì đã đến cõi. Còn con chim ưng lông đỏ mỏ quặp cũng bay về rừng. Mọi việc rối bung lên, khiến Khánh Dư vô cùng bứt dứt. Ông ta ra lệnh bỏ “dự án” xây trường đua ngựa, mặc dù đã bỏ đến mầy ngàn đồng vào đó. Trần Khắc Chung đến chơi, an ủi:
- Huynh ạ! Ngựa tái ông hoạ phúc biết về đâu. Như đệ đây, hồi hàn vi, lấy vợ con nhà giầu. Nhưng khi giặc Nguyên Mông sang, ông bà nhạc hèn nhát theo giặc. Đến khi giặc thua, triều đình thu hết điền sản, thế là đâm ra trắng tay. Được thằng con trai, vừa rồi nó lấy con vợ chả ra gì. Đệ có mắng nó: "Sao cưới vợ không hỏi tao! " Nó bặm môi trợn mắt quát lại: “Ông có coi mẹ tôi và ông bà ngoại tôi ra gì đâu, mà bắt tôi việc đó phải hỏi ông? "
- Nói thật là ta quan hệ với cả ngàn đàn bà. Nhưung bây giờ ngẫm lại, thấy không có ai cho ta được sự “sung sướng tột đỉnh” như với chị ta mới lạ chứ! Khánh Dư tâm sự.
- À chuyện đó có gì là lạ đâu” Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Lúc đó huynh thèm cơm, thèm rượu, thèm cả đàn bà. “Buồn ngủ bỗng gặp chiếu manh”, tự nhiên được “cơm no, bò cưỡi” sao không thấy sướng. Đến ngay cả con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp cũng được xơi vịt thoả thích, chứ không phải bắt chuột nữa là…
- Ngươi nói cũng có lý! Nhưng mà ai ngờ sự việc nó lại đến một cách lạ kỳ như vậy. Giá như ta không vội vàng đuổi tay thầy bói đi. Giữ hắn lại… biết đâu sự thể sẽ khác. Vả lại cái thằng bé… con ta ấy. Nó hung hăng quá. Không biết mình biết người. Tay ta đã dài, cây kiếm cũng dài, ta đưa ra cốt để doạ hắn, tưởng hắn cũng có võ nghệ, gạt hoặc tránh ra một bên, nào ngờ nó cứ nhảy bổ vào ta, vung quất quật thẳng vào đầu. Thế là lưới kiếm xuyên qua ngực nó. Ta rút tay lại thì đã… không kịp nữa rồi…
- Thôi huynh đừng buồn nữa! Còn bao nhiêu việc ở Vân Đồn đang chờ huynh… với ba cô đầm tiểu Nga la tư, da trắng, mắt xanh, tóc vàng, váy ngắn đến bẹn… chờ huynh.
Khánh Dư không đáp lại, Trần Khánh Dư nói tiếp:
- Hỏi thật huynh, cái món ấy chỉ khác là “mầu râu ngô” còn có gì khác nữa không?
- Cũng như nhau cả thôi! Nhưng mà lũ đầm ấy được cái tự nhiên lắm! Nó “sướng” là rên đến phát sợ lên. Ngoài ra “cái của mình” nó cứ coi như của “ngoài trời” tự nhiên vần vò, nghịch ngợm. Chứ không như gái ta. Cứ nằm trơ như khúc gỗ… Nhiều lúc cũng thấy chán!
Trần Khắc Chung rụt rè hỏi:
- Có dịp ra Vân Đòn, huynh cho đệ thử… một lần cho biết được không?
- Chỉ sợ người không có sức! Ta cho ngươi thử cả ba. Không khéo bị “ thượng mã phong” lại đổ tiếng ác cho ta.
- Huynh yên tâm, đệ là quan văn, nhưng cũng hiểu được binh pháp “biết mình, biết người. Trăm trận, thăm thắng”.
Trần Khắc Chung thường xuyên đến uống rượu, khiến Nhân Huệ Vương cũng một phần nguôi ngoai được nỗi buồn. Khoảng gần mười ngày sau thì con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp bay về. Trông nó nhẹ nhàng, tráng kiện hẳn ra. Đặc biệt nó còn tha về một con rắn chúa cái cực lớn. Có thể là vợ con rắn đực nó đã giết để cứu Nhân Huệ Vương trong cuộc đi săn ngày nào. Nhân Huệ Vương hứng chí bảo:
- Đúng là nhất điểu nhì ngư. Tam xà tứ tượng. Đến loài vật cũng biết “báo thù mươi năm chưa muộn” Con rắn cái này chờ nó thay mỏ, thay móng để trả thù cho chồng nhưng mà con chim ưng này vẫn tỏ ra “quái kiệt” hơn.
- Bởi vì nó là vật nuôi của huynh mà! Trần Khắc Chung nịnh khéo.
Nhân Huệ Vương vốn là con người hành động. Chỉ một thời gian ngắn sau, ở Khánh Dư dường như chưa có biến cố gì xẩy ra. Việc kiếm một bạch mã khác dễ như trở bàn tay. Theo lời khuyên của Trần Khắc Chung, Trần Khánh Dư trở ra Vân Đồn chấn hưng việc làm ăn, buôn bán ở đó. Vương cho nạo vét mở rộng luồng lạch để thuyền lớn có thể ra vào dễ dàng được. Cái đầu mối nhập hàng từ Trung Quốc sang cũng được mở rộng, chắp nối lại, đi vào hoạt động quy củ, chặt chẽ và phát triển hơn. Khách (chỉ lái buôn Tầu) vào ăn hàng ngày cũng một đông. Họ bán chủ yếu là thuốc bắc, thôi thì đủ loại từ thuốc bổ, đến thuốc kích dục và đặc biệt cả… thuốc độc giết người từ từ đến chết ngay tắp lự. Ngoài ra còn có gấm Tứ Xuyên, đồ sứ Giang Tây, các loại rượu quý như Mao Đài… Còn họ ăn tạp từ “thượng vàng, đến hạ cám”. Các thứ quý hiếm thì gồm sừng tê, ngà voi, xương hổ, ngọc bích, ngọc đỏ… Loại trung thì cá ngựa đỏ, cá ngựa đen, thảo quả, gỗ hương, gỗ trắc, gỗ huỳnh đàn… Loại “hạ cám” gồm sắn khô thái lát, khoai lang tươi, khoai lang khô, thậm chí cả mùn cưa của các loại gỗ quý.
Khánh Dư phân chia ra từng khu vực. Khu nào chuyên buôn bán ngành hàng đó cho dễ quản lý. Những tay làm ăn trí trá, buôn bán hàng giả, Khánh Dư cho thích chữ vào mặt. Cấm cho quay trở lại Đại Việt. Thi thoảng cũng có thuyền buôn lớn từ Nhật Bản và Mã Lai vãng qua. Họ thích đồ gỗ và đồ gốm Bát Tràng của ta. Và bán tơ lụa rất đẹp, cùng các đồ thuỷ tinh cao cấp. Bấy giờ Vân Đồn trở thành thương cảng sầm uất nhất không chỉ của Đại Việt mà còn cả ở vùng phía nam Trung Quốc và nói rộng ra là của vùng Đông Nam Á.
Nhân Huệ Vương cũng khéo biết tổ chức mạng lưới thu thuế rất hiệu nghiệm. Cả thuế nhập lẫn thuế xuất. Có những thứ thuế Khánh Dư đặt cao chót vót. Khách còn chịu đựng được thì còn để. Khi thấy có vẻ đã “già néo thì đứt dây” Vương mới cho nới ra. Tiền thuế thu được, cũng như tiền lãi, một nửa vương nộp về cho triều đình. Tự nhiên được một nguồn thu không nhỏ, từ thượng hoàng đến vua đều khen Khánh Dư là người “buôn bán mát tay”. Thật tiếc là sau khi Nhân Huệ Vương mất, thương cảng lụi dần và giờ tức là bẩy trăm năm sau, chúng ta mới lên kế hoạch xây dựng Vân Đồn thành “vùng kinh tế mở”.
15
Năm 1230, màu xuân tháng hai, có người đàn bà ở lộ Hồng (hiện không rõ ở đâu) sinh đứa con trai hai đầu.
Mùa hè, tháng 6, sao sa…
Hưng Đạo Đại vương ốm nặng. Vua Anh Tông thân đến điền trang Vạn Kiếp hỏi:
- Chẳng hay Đại vương chết, giặc phương bắc lại sang thì dùng kế sách gì để chống lại?
Hưng Đạo Đại vương trả lời:
- Ngày xưa Triệu Võ Đế dựng nước, vua Hán cho quân đánh thì nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), rồi đem đại quân từ Khâm Chân, Liên Châu đánh vào tỉnh Trường Sa, dùng đoàn binh úp đằng sau, đó là một thời. Đến thời Đinh Lê dùng được người hiền tài, đất phương Nam mới mạnh, mà phương bắc thì mỏi mệt, suy yếu. Trên dưới cùng lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ (khu vực Thái Nguyên bây giờ) phá được quân Tống, đó cũng là một thời. Nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm chiếm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh thẳng vào Khâm Châu, Liên Châu là vì có thể đánh được. Mới rồi Toa Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hoà mục, nước nhà góp sức. Giặc tự bị bắt, đó là trời xui nên vậy. Tóm lại, giặc cậy trận dài, ta cậy binh ngắn. Lấy ngắn chế dài là việc thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu nó đi chậm như cách tằm ăn, không cần của dân, không cần được chúng thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời mà làm, có thu được binh linh một lòng như cha con thì mới dùng được vả lại KHOAN THƯ SỨC DÂN ĐỂ LÀM KẾ SÂU GỐC BỀN RỄ. ĐÓ LÀ THƯỢNG SÁCH ĐỂ GIỮ NƯỚC. MẤT LÒNG DÂN LÀ MẤT TẤT CẢ.
Mùa thu, tháng tám, ngày 20 Hưng Đạo Đại Vương mất ở nhà riêng ở Vạn Kiếp. Trước khi mất có dặn bốn con đẻ và ba con nuôi là Yết Kiêu, Dã Tượng và Phạm Ngũ Lão đến dặn rằng:
- Hãy xây lăng mộ giả cho cha. Còn thân thể thì bí mật hoả táng. Tro cốt cho vào ống tròn, gắn kín hai đầu rồi đem chôn ở vườn An Lạc. Chôn xong nhớ trồng cây trồng cỏ lên như cũ để không ai có thể phát hiện ra. Phòng sau này giặc Tầu sang sẽ đào mồ, cuốc mả cha, làm tổn hại đến khí thiêng sông núi.
Vua truy tặng tước Thượng phụ thượng quốc công, Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Còn dân chúng thờ phong cho Ngài là Đức Thánh Trần và dựng đền thờ người ở Kiếp Bạc Chí Linh Hải Dương cùng rất nhiều nơi khác không đếm xuể... Gần bẩy trăm năm sau, từ điển quân sự của Anh Quốc, đã xếp Hưng Đạo Đại Vương và Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam nằm trong số một trăm tướng thiên tài của mọi thời đại.
16
Năm 1301, Thượng hoàn Trần Nhân Tông qua chơi Chiêm Thành. được vua Chiêm là Chế Mân tiếp đãi hết sức ân cần. Người ở lại đất Chiêm gần chín tháng. Trước khi về có hứa gả con gái út là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để lập làm hoàng hậu. Thay thế hoàng hậu cũ người Java. Chế Mân từng là đồng minh của Đại Việt trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai. Với bốn trăm chiến thuyền và hai vạn quân Đại Việt cộng với kế bỏ thành trống, Chế Mân đã làm phá sản kế hoạch xâm chiếm của mười lăm vạn quân Toa Đô cùng một ngàn chiến thuyền.
Khi Thượng hoàng về nước, đem việc đó ra hỏi ý kiến các quan. Mọi người đều phản đối vì khi đó Huyền Trân mới 15 tuổi. Năm 1305, sứ giả Chiêm lại đem rất nhiều cống phẩm cùng hai châu Ô và châu Rí (chứ không phải là châu Lý như nhiều sách báo đã viết, vì tiếng Chiêm không có từ Lý) làm lễ rước dâu. Vua Anh Tông xót em gái út phải gả chồng xa. Một số quan lại phản đối quyết liệt cho rằng việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân chẳng khác nào vua Hán bên Tầu phải gã Chiêu Quân cho Hung Nô. Riêng Trần Khắc Chung lúc ấy đã được phong tới chức Đại hành khiển thì lại ra sức ủng hộ Thượng hoàng. Năm 1306 công chúa Huyền Trân do vậy mới được gả cho Chế Mân làm hoàng hậu. Một năm sau, vào năm 1307, sau khi sinh được thái tử ĐADA thì Chế Mân đột ngột qua đời. Theo tục lệ nước Chiêm, hoàng hậu phải lên dàn thiêu để chết theo vua. Vua Anh Tôn biết vậy, sợ em gái phải chết thảm bèn cử người đi cứu Huyền Trân và thái tử ĐADA về. Trước đây Khắc Chung đã hết lời khuêyn gả Huyền Trân nên cực chẳng đã phải xung phong đem thuyền nhẹ đi cứu. Sau khi chuyển đồ lễ viếng gồm voi nan, ngựa giấy, vàng thỏi giấy, Khắc Chung nói thác ra rằng:
- Nếu hoàng hậu Huyền Trân hoả táng thì việc làm chay không có người chủ trương chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời đón linh hồn vua cùng về rồi hãy vào giàn thiêu.
Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung biết họ đã bị mắc bẫy, nên ra đến bờ biển bèn sai người cướp lấy công chúa đưa lên thuyền căng buồm chạy thẳng ra khơi. Người Chiêm trở tay không kịp. Thuyền ra giữa trùng khơi thì trời đổ mưa to. Nước mưa rơi dầm dề trên nóc thuyền tạo nên một bản nhạc buồn đến não lòng. Nhất là đối với Huyền Trân sau hơn một năm xa nhà, sống nơi đất khách quê người, dù ở nơi lầu son gác tía, kẻ hầu, người hạ, lại được Chế Mân hết sức yêu chiều nhưng cứ cảm thấy như đang sống trong cơn ác mộng. Thèm được nghe, được nói tiếng mẹ đẻ vô cùng. Bấy giờ phải chuẩn bị chết thảm trên giàn thiêu thì càng cảm thấy “hồn xiêu, phách lạc”. Đến khi thuyền ra được khơi xa thì như từ cõi chết trở về, mặc dù phải để lại đứa con dứt ruột đẻ ra, vẫn cảm thấy sung sướng vô cùng. Giữa lúc tâm trạng đang buồn vui, tủi hờn lẫn lộn thì Khắc Chung vén màn bước vào khoang thuyền nơi Huyền Trân đang nằm. Huyền Trân ngả vào lòng Khắc Chung thổn thức. Vốn trước đây Khắc Chung có tài thêu tay rất khéo, nên ngoài giờ làm việc ở trong triều, còn được bố trí dạy công chúa thêu thùa. Mặc dù tuổi tác chênh lệch đến hơn hai mươi tuổi, nhưng Khắc Chung vẫn khéo léo cầm tay Huyền Trân rồi rót vào tai nàng những lời nịnh hót đường mật dưới mắt dám sát của hàng chục cung nữ, nhưng tình cảm trai gái không phải là không có sự nẩy nở giữa hai người. Khắc Chung hỏi Huyền Trân:
- Nàng có biết vì sao ta liều chết vào Chiêm cứu nàng không?
- Vì người muốn chuộc lại lỗi lầm đã xui Thượng hoàng gả ta cho Chế Mân chứ gì? Huyền Trân đáp lại trong nước mắt.
- Không phải! Vì ta yêu nàng. Nàng không biết là ta yêu làng tới ngần nào đâu… Ta vào lần này, một là cứu được nàng về. Hai là được cùng chết với nàng. Khắc Chung tung ra những lời có cánh.
- Yêu ta! Yêu ta… mà lại xui Thượng hoàng gả bán ta.
Huyền Trân vặc lại.
- Phải! Nàng cứ trách ta đi! Cứ tát vào mặt ta cũng được - Khắc
Chung vừa nắm tay công chúa để tát nhẹ vào má mình - Nếu ta không xui Thượng hoàng gả nàng đi! Thì ta biết đến một ngày nào đó tình cảm của ta đối với nàng lộ ra thì… cả nhà ta sẽ phải chịu tội chết chém. Ta là kẻ hèn nhát! Yêu mà lại đi làm hại người mình yêu… để tự cứu bản thân mình… Đến bây giờ ta mới thấy hối hận vô cùng… Bởi thế cả triều đình bao nhiêu văn thần võ tướng tài giỏi có ai dám đi cứu nàng đâu. Chỉ có ta với tình si mê nàng… dù có chết, mà đi chuyến này thì mười phàn chắc chết chín… mà ta vẫn đi. Vậy nàng thử nghĩ xem, không vì nàng thì vì ai…
Khắc Chung vừa nói vừa luồn tay qua lưng, ôm lấy vai bên kia của Huyền Trân xiết mỗi lúc một chặt hơn vào lòng mình. Mưa. Những giọt mưa nặng hạt vẫn gõ đều đều trên nóc thuyền căng làm cho lời nói của Khắc Chung như có thêm sức nặng của tình cảm. Huyền Trân thổn thức, nàng vừa cảm thấy biết ơn, vừa cảm thấy rung động thực sự trước tình cảm của người thầy năm xưa. Khắc Chung đặt bàn tay lên ngực nàng. Mặc hai bầu vú còn căng sữa, Huyền Trân vẫn để nguyên. Khắc Chung vội vàng xoay người, lần lần cởi từng cúc áo của nàng ra. Rồi úp bộ mặt đã bắt đầu có tuổi tác của mình vào cặp vú sề sệ căng sữa của nàng, lúc đầu còn bú nhè nhẹ. Sau mút lấy mút để. Và khi cơn dục vọng lên tới đỉnh điểm. Khắc Chung cởi nốt chiếc váy của nàng ra và hai thân thể chập vào với nhau làm một… Trước khi đi, Khắc Chung có đến phủ đệ của Trần Khánh Dư. May mắn là Nhân Huệ Vương lại đang có mặt ở kinh thành. Khắc Chung nửa buồn nửa vui nói với Khánh Dư rằng:
- Lần này đệ đi, lành ít, dữ nhiều!... Nếu may mắn cứu thoát được công chúa về thì huynh cho đệ đưa công chúa ra một hòn đảo nào đó ở Vịnh Hạ Long tá túc một thời gian nhé!
- Gan của ngươi cũng to đấy nhỉ? Khánh Dư bảo.
- Người ta bảo: “Gái có công thì chồng chả phụ” Khắc Chung nói - Cứu được công chúa không bị chết thảm trên giàn thiêu, thì có gì, cũng chẳng là gì… Dù sao công chúa cũng có chồng rồi cơ mà.
- Thì ra “lòng vả cũng như lòng sung” - Khánh Dư nói. Đàn ông đều háu gái như nhau cả. Trước đây ta tưởng chỉ có người “khoẻ mạnh “ như ta thì mới có cái “máu ấy” Ai ngờ kẻ “cắt mặt không ra hột máu” như ngươi mà cũng “máu thật”. Thôi được! Nếu cứu được công chúa về… thì cứ “dong thuuyền ra vịnh Hạ Long. Ta sẽ cho người đón ngươi ở đó. Sẽ bố trí ngươi và công chúa ở một hòn đảo thật là thần tiên nhất trong vịnh…
- Ôi! Thật là không có lời nào nói lên được sự cảm kích của đệ với huynh… Có sự động viên đó của huynh, đệ nhất quyết sẽ cứu được công chúa về…
Để đánh lạc hướng quân Chiêm, Khắc Chung cho thuyền ra tít khơi xa, rồi chạy ngoặt xuống phía nam, sau đó khi biết chắc đã đánh lạc hướng quân địch, Khắc Chung mới cho dong thuyền ngược lên phía bắc. Như lời hẹn với Khánh Dư, Khắc Chung cho thuyền ra thẳng Hạ Long. Nhân Huệ Vương cho người đón sẵn, bí mật đưa ra một hòn đảo ở tít ngoài khơi, nơi mà Nhân Huệ Vương vẫn dùng để hành lạc, ở đó tuy xa bờ, song lại rất đầy đủ tiện nghi…
Về phía công chúa Huyền Trân, cảm cái ơn cứu mạng như “trời biển” của Khắc Chung, phần vì oán trách Thượng hoàng, tủi thân tủi phận nên phó mặc để Khắc Chung đưa đi đâu thì đi… cũng không muốn về kinh đô Thăng Long nữa.
Một hôm, nhân Khánh Dư ra đảo chơi, Khắc Chung bảo:
- Từ ngày đệ đi cứu công chúa đến giờ đã thấm thoắt được gần một năm rồi! Cũng phải tính ngày về thôi. Nhưng ngặt một nỗi…
- Nỗi gì? Khánh Dư hỏi lại.
- Sợ bọn thuỷ thủ tố đưa công chúa ra đây!
- Chuyện này dễ không! Mỗi đứa chỉ cần dùng một viên thuốc của Tầu… Là khi về đến kinh thành chũng chẳng còn nhớ được điều gì.
- Có thật chuyện ấy sao?
- Ngươi không tin ta à? Ngay hôm nay ta sẽ cho vào thức ăn, thức uống của bọn chúng. Về vẫn khẻo mạnh bình thường. Chỉ có điều là mọi chuyện… lú lẫn hết.
- Đa tạ huynh nhiều lắm!
- À, còn cái món “râu ngô” có lần ngươi đã nói với ta là muốn thưởng thức thử xem sao? Giờ còn “háu “ nữa không? Khánh Dư vừa cười vừa bảo.
Khắc Chung ớ ra một lúc mới nhớ ra, cười bảo:
- Thì huynh cho đệ “ném náp” một tý xem sao?
- Được thôi! Có điều là chúng hơi cứng tuổi một chút rồi. Chứ không còn “ngon” như thời mười lăm, mười sáu. Sắp tới ta cũng sẽ tính cho chúng qua Tầu rồi trở về cố quốc…
… Một buổi sáng, Huyền Trân ngủ mê, ngủ mệt mãi mà không mở mắt ra được. Thấy gác qua bụng mình là một khúc gỗ rất dài và nặng. Cố sức lắm công chúa mới đẩy nó qua một bên và choàng mắt ra. Nàng vô cùng kinh ngạc thấy người nằm cạnh mình không phải là Khắc Chung, mà là một khuôn mặt vừa lạ, vừa quen với vầng trán rộng đã bắt đầu hói, miệng rộng với hai khoé mép rất gọn. Nàng nhận ra Trần Khánh Dư. Một tình cảm chua chát dâng lên bóp nghẹt trái tim nàng. Khánh Dư vẫn ngon giấc sau một đêm hành lạc. Huyền Trân đau đớn lê về phía bàn trang điểm, gục mặt xuống bàn khóc nức nở. Thượng hoàng đã dùng nàng để trao đổi. Giờ, cái người thề sống, thề chết vào tận “hang hùm miệng rắn” để cứu nàng, cũng biến nàng thành “món hàng" để đổi trao. Trời ơi! đời sao mà chua chát thế này!
Chiều Khắc Chung mới vác mặt đến, Huyền Trân đón hắn ở cửa. Nàng không nói không rằng, vung tay thẳng cánh cho hắn một cái tát nảy lửa. Rồi nàng rít qua kẽ răng?
- Đồ mày dày lũ chúng mày!
Ngay hôm sau, Khắc Chung cho thuyền hồi cung.
Từ đó hai người không nói với nhau câu nào.
Vua Anh Tông thấy em gái trở về lành lặn. Sau gần một năm “lênh đênh” trên biển, biết là Khắc Chung đã làm gì, những cũng chẳng biết xử thế nào.
Riêng Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (vì gả con gái cả cho Anh Tông và làm quan rất thanh liêm, nên được tập tước của cha) thì ghét Khắc Chung lắm. Một lần gặp ở cửa triều, Quốc Tảng chỉ mặt Khắc Chung mà mắng rằng:
- Người này đối với nước là bất tướng, lại lấy họ là Trần Khắc Chung thì nhà Trần có lẽ hết vì mày chăng?
Rồi rút gươm ra toan chém, Khắc Chung vội lẩn vào toán các quan chuẩn bị vào chầu. Từ đấy mỗi lần gặp Quốc Tảng từ xa, Khắc Chung đã tìm cách “lủi” cho nhanh, cho khéo. Năm năm sau, vào năm 1313 Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng chết (thọ 61 tuổi) Khắc Chung mới hết lo.
Còn về Huyền Trân, trở lại Thăng Long, công chúa xuất gia đi tu vào năm 1309 lấy pháp danh là Hương Tràng, và mất tại chùa Nộm Sơn tức Quảng Nghiêm Tự tại huyện Thiện Bản Tĩnh Nam Định vào ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn 1340. Dân chúng biết ơn bà và tôn là Thần Mẫu. Với Chiêm Thành việc giải cứu Huyền Trân được coi là hành vi bất tín của Đại Việt khiến dân Chiêm nổi giận, đòi lại hai châu Ô, châu Rí. Và nhiều lần vượt biển ra đánh phá Đại Việt…
Trở lại chuyện trần Khánh Dư sau khi đã cứu mạng Trần Khắc Chung trong suốt gần một năm trời với công chúa Huyền Trân, ngoài ra còn thưởng thức món “râu ngô” thì thì một lần trở về kinh thành, có bảo với Khắc Chung rằng:
- Ngươi là quan Đại hành khiển, lúc nào cũng được túc trực quanh vua. Vậy hãy tìm cơ hội tâu cho ta lên chức Đại vương thì ta sẽ cho người một ngàn lượng vàng.
Khắc Chung thấy thế thì mừng lắm, nhận lời ngay. Nhân một hôm vua Anh Tông gọi vào bàn việc cơ mật, đã tranh thủ tâu rằng:
- Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư có công lớn trong cả ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Đuợc xếp thứ tư sau Hưng Đạo Đại Vương, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái lại là Thiên tử nghĩa nam của Thái hoàng Trần Thánh Tông. Thế mà cứ ở mãi tước vương thì e là quá thiệt thòi. Trong khi Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, công lao không được bằng Nhân Huệ Vương mà lại được phong Đại Vương.
Vua Anh Tông vốn anh minh nên đáp lại rằng:
- Hưng Nhượng Vương là Quốc Trượng (cha vợ của vua), làm quan cần cù liêm chính. Cha là Hưng Đạo Đại Vương đã mất thì việc con được tập tước của cha là lẽ đương nhiên, không ai dèm pha gì được. Còn Nhân Huệ Vương, đành rằng có công lớn, nhưng tính tình kiêu ngạo, ăn chơi sa đoạ, bị dân các nơi kiện, đã không biết sửa mình còn nói “quan lại quý tộc là chim ưng, lính dân là vịt, thì việc đem vịt nuôi chim ưng là lẽ tự nhiên”. Mới rồi lại gây ra thảm án chết người ở Hưng Yên, may mà gia chủ không kiện, nên triều đình mới bỏ qua…
- Một người như vậy phong Đại vương thế nào được?
Khắc Chung năn nỉ thêm vài lần khác, viện cả việc Khánh Dư đã có công xây dựng thương cảng Vân Đồn, nhưng vua Anh Tông đều gạt đi.
Biết Trần Khắc Chung đã bị thất sủng sau vụ công chúa Huyền Trân, Nhân Huệ Vương nghĩ không còn lợi dụng được gì nên từ đó không chu cấp tiền cho Khắc Chung đánh bạc nữa.
Vua Chiêm là Chế Chí vốn tính gian manh, nhiều lần đồng ý hoà hiếu với Đại Việt, rồi lại tráo trở, lật lọng đem quân ra quấy rối ở vùng Thanh - Nghệ. Nhiều lần gây cho Đại Việt tổn thất đáng kể.
Năm 1312, mùa xuân, tháng ba, vua Anh Tông quyết định đem Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn đi đường núi. Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư lĩnh thuỷ quân đi đường biển. Vua Anh Tông thân chinh đi đường bộ, có Điện suý Phạm Ngũ Lão đem quân Thánh Dực đi hộ giá. Đoàn Nhữ Hài tâu với vua:
- Quân ta rầm rộ tiến theo ba đường thế này tất là bắt được Chế Chí. Nhưng để khỏi bị tổn thất, dù ít, dù nhiều xin Thánh thượng cho bản quan đến lấy lẽ thiệt hơn dụ hàng Chế Chí là thượng sách.
Vua Anh Tông ưng thuận. Đoàn Nhữ Hài đến đại bản doanh của Chế Chí, quân lính cho vào. Đoàn Nhữ Hài bảo:
- Đại binh của Đại Việt chia ba đường cùng tiến. Chiêm thành lấy gì chống đỡ đây!
Chế Chí cười đáp:
- Xưa quân Toa Đô với cả ngàn chiến thuyền lớn cùng mười lăm vạn quân tinh nhuệ mà gần ba năm trời không làm gì được nước Chiêm. Thử hỏi Đại Việt bằng được mấy phần Toa Đô.
- Người Chiêm vẫn tự hào vua của họ Chế Chí có tài thao lược tính đâu ra đó. Nay nghe nói vậy mới biết dân nước Chiêm bị nhầm to rồi. Đoàn Nhữ Hài ung dung nói.
- Ngươi nói thế là sao? Chế Chí vặn lại.
- Nhân Huệ Vương lá tướng đánh thuỷ giỏi nhất thời nay.
Huệ Võ Vương cũng là tướng tài hiếm có. Riêng Điện suý Phạm Ngũ Lão chẳng phải ngài đã nghe chính là người đã bắn chết Toa Đô ở bến Chương Dương đó sao? Lần này Điện suý hộ giá vua Trần đến đây, thử hỏi người Chiêm có ai là đối thủ.
- Ta nghe nói Điện súy Ngũ Lão cách ba trăm bước, bắn tách đôi ngọn tre, chuyện đó có không?
- Trăm nghe không bằng một thấy. Nếu Ngài muốn Điện suý sẽ bắn thử cho Ngài coi.
- Ừ, thì cứ coi chuyện đó là thật thì ngươi định khuyên ta thế nào?
- Tôi cất công sang đây chỉ để nói cho Ngài một điều thôi. Một điều song lại tốt cho cả Chiêm Thành lẫn Đại Việt. Ấy là Ngài hãy sớm hàng đi!
Chế Chí ngẫm ngĩ hồi lâu rồi đồng ý.
Trần Khánh Dư thấy mình đem binh vượt biển vất vả mà không lập được công gì, vả lại vừa rồi cậy nhờ Trần Khắc Chung để xin vua phong lên Đại Vương không được thì đành “một liều ba bẩy cũng liều”. Biết Chế Chí đem quan và quân đi đường biển lại hàng vua Anh Tông, Khánh Dư dương buồm, thúc quân đuổi theo, hòng bắt Chế Chí, cướp công của cả vua Anh Tông và Đoàn Nhữ Hài. Nhữ Hài thấy vậy thì sợ hãi vội tức tốc phi ngựa về báo với vua rằng:
- Khánh dư khinh nhờn phép nước. Muốn tranh công cả với Thánh thượng!
Vua Anh Tông cho thuyền cấp tốc ra chặn quân của Khánh Dư lại, rồi gọi giám quân của Nhân Huệ vương đến. “Giận cá chém thớt”. Vua Anh Tông sai lôi Nguyễn Ngỗi ra ngoài chặt hai chân, từ ống chân trở xuống.
Trần Khánh Dư lúc ấy mới cả sợ vội vàng tâu với vua:
- Tôi sợ Chế Chí vốn phản trắc nên đi sau để đề phòng đó thôi! Chứ không có ý gì!
Vua Anh Tông nghe Khánh Dư chống chế như thế thì cũng bớt giận không nói thêm gì nữa. Riêng điện suý Ngũ Lão thì nghĩ rằng: “Triều Trần sau Anh Tông đã có dấu hiệu suy. Việc sư phụ dặn đã đến lúc phải thực hiện rồi”.
Trần Khánh Dư trở lại thuyền, Nguyễn Ngỗi đau đớn than:
- Tôi chết mất Nhân Huệ Vương ơi!
Khánh Dư bảo:
- Ngươi chết! Vợ con để đấy ta lo, không phải vương vấn nỗi gì!
Lần ấy bình Chiêm, nhờ uy của Phạm Ngũ Lão và nhờ tài khéo ăn nói của Đoàn Nhữ Hài mà Đại Việt không tốn một mũi tên đã thành công. Chỉ riêng Nguyễn Ngỗi là phải chịu thiệt thòi…
16
Nhân việc vua Anh Tông đang vui, Phạm Ngũ Lão vào triều tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Hiện giờ nhà Nguyên ở phía bắc đã suy. Chiêm Thành ở phía nam đã quy phục. Ai Lao ở phía Tây cũng không dám quấy dối gì. Thần giờ đã ở tuổi 60, chinh chiến nhiều năm nên muốn về nghỉ ngơi an hưởng tuổi già. Mong được Thánh thượng chuẩn tấu.
Vua Anh Tông đáp:
- Nước Triệu thời chiến quốc chỉ bé bằng cái kẹo mà có Liêm Phả tuổi đã 80 mươi mà ngày vẫn ăn hết ba bốn cân thịt (cân ta, một cân bằng khoảng 0,3kg, uống hết mấy vò rượu. Tay vẫn giương nổi cung hai tạ khiến cho nước Tần ở phía Tây bắc phải e dè. Nước Tề, nước Nguỵ phải khiếp sợ. Điện suý nay mới bước vào tuổi lục tuần sao đã gọi là già được.
- Muôn tâu thánh thượng, Liêm Phả không phải như thần. Thường xuyên được ở nhà. Chỉ khi nào nhà nước có việc, vua Triệu mới cho người đén gọi. Còn thần phải túc trực suốt ngày đêm nên cảm thấy rất mệt mỏi. Nếu được như Liêm Phả khi nào có giặc dã, Thánh thượng cho gọi, thần xin sẵn sàng đến ngay. Phạm Ngũ Lão tâu tiếp.
- Thôi được rồi! Vua Anh Tông tỏ ra dễ dãi - Chức Điện suý thượng tướng quân với con triện có đầu hổ, tướng quân cứ giữ - Lúc nào ai gia có việc sẽ cho người vời tướng quân vào - Lúc đó chỉ mong tướng quân đừng “kêu mệt”!
- Đa tạ ân sủng của Thánh thượng! Phạm Ngũ Lão đáp - Thần từ thuở tiên đế, có từ nan việc gì đâu!
Về nhà nói với vợ là quận chúa An Nguyên và con là Phạm Ngộ, lúc này đã làm quan văn trong triều, rồi chuẩn bị hành trang lên đường. Với chiếc tay nải vắt vai, bên trong có mấy bộ quần áo nâu thay đổi, một chai rượu mạnh, một đồng bạc trắng và mấy củ gừng già (ba thứ này dự phòng làm thuốc đánh gió cho những người đi giang hồ có kinh nghiệm). Phạm Ngũ Lão đóng vai người “mãi võ” bán “thuốc cao đan hoàn toán” Ông cuốc bộ vào phía nam, về xứ Thanh-Nghệ. Ngày đi, đêm nghỉ. Tới các thị trấn có đông người thì ghé lại dăm ba hôm. Chỗ nào có tổ chức thi đấu võ thuật thì ở lại lâu hơn. Hy vọng tìm được “truyền nhân” như lời sư phụ trăng trối lại. Ông đã đi được vài ba tháng, dừng lại ở rất nhiều nơi, cũng gặp không ít phiền toái, cảnh bất công “trướng tai gai mắt” như ở một thịt rấn miền tây Thanh Hoá. Tại đây có một tên bá hộ, người to như trâu lăn, lập “lôi đài” thách mọi người thi đấu. Nghe nói hắn thường cậy có sức khoẻ và tiền của để ức hiếp dân lành, đến quan huyện cũng phải kiềng mặt hắn. Ngũ Lão nghĩ: “phải dạy cho hắn một bài học”. Hai chân vừa xuống tấn thì không hiểu là ván võ đài dùng làm nền ải hay là sức của Ngũ Lão còn quá mạnh mà chân phải thụt xuống. Dăm gỗ làm tướp hết cả bắp chân, máu me túa ra. Lẽ ra tên bá họ theo lẽ “thượng võ” phải dừng lại, thì nhân cơ hội đó, lại phóng thẳng một cú “song phi”, hai bàn chân nhằm thẳng vào giữa ngực Ngũ Lão. Như người khác, chắc chắn là dính đòn đến tàn phế: ngực dập, chân mắc dưới sàn gãy. Nhưng chỉ đứng có một chân, Ngũ Lão vẫn nhẹ nhàng thu hai bàn tay lại, chờ hai bàn chân hộ pháp phóng tới thì đẩy mạnh ra. Người gã bá hộ tung lên, lưng đập xuống võ đài đánh rầm một tiếng. Miệng thổ ra huyết.
Ngũ Lão rút bắp chân tướp máu lên, tiến lại nắm lấy tóc hắn mà đe:
- Tao tạm tha cái mạng chó cho mày! Nếu còn ức hiếp dân lành, lần sau quay lại, đừng trách ta không báo trước!
Rồi một buổi chiều, Phạm Ngũ Lão tới bên bờ sông Lam, ngồi trên bờ đê hóng mát, nhìn xuống phía bãi bồi thấy nương dâu xanh mát mắt. Biết là ở đây là vùng trù phú, dân cư làm ăn chăm chỉ và có quy củ, nề nếp. Lấp ló trong đám dâu Ngũ Lão thấy một người đàn ông trạc tuổi ngũ tuần đang cầm roi đồng chạy đuổi, đùa nghịch với một đứa trẻ mới độ mười một, người hai. Qua thân các cây dâu nhưng vẫn nhận ra cặp chân dài khoẻ mạnh, nhanh nhẹn của đứa bé. Ngũ Lão thấy hay hay, liền lấy một hòn đất ném xuống, để làm quen với cả hai người. Ai dè, gã đàn ông nổi xung, chạy tới, chẳng nói chẳng rằng, vung cây roi đồng vụt thẳng vào vai Ngũ Lão. Ngũ Lão nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy. Gã vội tung chân đá vào ngực ông. Ngũ Lão lại cười, nắm lấy chân hắn, rồi giơ cả người hắn lên trời như nắm một con nhái. Đứa trẻ thấy thế thì chạy vào vườn dâu gọi mẹ:
- Mẹ! Mẹ ơi! Có ông thiên lôi đang bắt nạt cậu hai!
Người đàn bà tuổi đã lục tuần, nhưng tóc còn đen, người hơi đẫy nhưng gọn vội chạy tới. Lúc đó Ngũ Lão đã đặt người đàn ông mà thằng bé gọi là cậu hai xuống. Bốn mắt nhìn nhau. Cả hai cùng định há miệng ra, rồi lại cùng đưa tay lên miệng, làm ám hiệu “im lặng”.
- Chỉ cả, không ngờ chị lại ở đây! Ngũ Lão lên tiếng trước.
- Chú! À… ông chú. Ông có việc gì mà đi đến nơi này.
- Ơ, mẹ quen ông ta à? Đứa bé nhanh nhẹn hỏi.
- Không phải là quen!... Mà là họ hàng! Con phải gọi là ông đấy!
- Ông trẻ hơn mẹ, mà sao con phải gọi thế?
- Ông còn ít tuổi hơn mẹ… Nhưng ông thuộc chi trên. Mẹ thuộc chi dưới. Mẹ phải gọi ông là chú. Còn con phải gọi ông là ông chú. Nghe chưa!
Chị có một cơ ngơi thật rộng, với ba dãy nhà gỗ lim, cột lim, sàn thưng gỗ lim dày, mái lợp ngói âm dương. ở giữa là một sân gạch rộng mênh mông. Sàn nhà lát đá xẻ mầu hồng. Cậu hai thấy chị cả đón tiếp vị khách lạ hết sức cung kinh thì cũng có vẻ sờ sợ, và không hiểu ra sao?
Buổi tối, sau bữa cơm rượu thịnh soạn, Ngũ Lão nói:
- Chị Cả à! Em… (chị vội đưa mắt) Ngũ lão chữa lại ông chú thấy thằng cháu trán rộng, mắt sáng, mũi cao, miệng rộng, hàm vuông… Chân tay dài, nhanh nhẹn và cứng cáp… Có thể luyện võ được.
- Thế ông không thấy… cháu ông đang tập đánh roi đấy à?
- Ông họ đã xem rồi! Các bài roi của cậu hai chỉ để bắt bọn trọm trâu, trộm chó được thôi! Chứ còn muốin có võ công để cứu được nước, giúp được dân thì phải tìm thầy khác… Tập theo cách khác. Bên cạnh luyện võ, còn phải học văn nữa…
- Úi trời ơi! Ở cái vùng bán sơn địa này thì lấy đâu ra thầy… thượng thặng để dạy cho nó… Hay là chú… À, ông chú… Chị định bảo “chú đưa nó về kinh đô”, nhưng đã vội chữa lại - tìm xem có ai… thì mời giúp. Có bán cả gia sản cho… cháu luyện văn, luyện võ thành tài… tôi cũng sẵn lòng.
- Thôi được rồi, bắt đầu từ ngày mai… ông chú họ sẽ thử tập cùng với cháu xem sao?
Rồi hai người chụm đầu thì thầm… ông chú họ là người “mãi võ bán thuốc cao”. Họ Mã tên Phu Hùng. Còn chị là chị cả. Cậu em là cậu hai. Cháu bé có tên tuổi rất kêu; Họ Lưu, tên Trọng Nhân. Rồi chị thì thầm kể cho Ngũ Lão, từ ngày bỏ làng ra đi, thấm thoắt đã được mười năm. Vào đây nhờ có dấn, có vốn lại biết căn cơ làm ăn nên chả mấy chốc chị trở thành giầu có nhất vùng. Ruộng có vài trăm mẫu. Đồi rừng, thì bạt ngàn. Trâu bò hàng trăm con. Người ăn, kẻ ở cũng có đến dăm bảy chục. Lại được cái Hoàng Lương trung thành, tận tuỵ hết mức…
Rồi chị hỏi về làng xóm thế nào? Ngũ Lão đáp vẫn như xưa.
- Nhiều lúc muốn đánh liều ra thăm một chuyến - Chị nói - Nhưng rồi lại sợ… lộ chuyện ra… Người ta vào bắt mất Trọng Nhân… nên lại thôi.
- Ông ta (chỉ Nhân Huệ vương) vẫn còn cường tráng lắm! Của cải thì vào loại giầu nhất nước. Tính khí kiêu căng… có lúc dám coi vua… chả ra gì. Ngũ Lão thì thầm kể.
- Thôi! Tránh voi chẳng xấu mặt nào! … Bây giờ có… ông chú họ vào đây… thì cũng thấy ấm áp hơn rồi.
- Ông chú họ… một năm chỉ ghé qua đây vài lần. Mỗi lần khoảng trên dưới một tháng. Ông còn việc triều đình… và các việc khác nữa… Về học chữ. Chị cả ra phố huyện tìm thầy, mời về tận nhà mới được. Đất Thanh -Nghệ là đất võ. Song cũng là đất văn, có nhiều thầy đồ rất giỏi.
Từ hôm sau, Trọng Nhân gọi “ông chú họ” là sư phụ và xưng con. Việc luyện tập thì cũng giống như ngày xưa sư cụ rèn Ngũ Lão. Đầu tiên là tập nội công. Một vườn chuối lớn được trồng. Đất đồi thì tha hồ chỗ nào cũng có để tập đá. Buổi sáng sư phụ bắt Trọng Nhân dậy từ cuối giờ dần (khoảng năm giờ sáng, bắt xuống sông gánh năm chục gánh nước lên tưới cây. Một hôm trời mưa, đường trơn, Trọng Nhân bị trượt chân ngã lăn lông lốc từ sườn đồi xuống sát mép sông. Chỉ cả xót con khóc sưng cả mắt và có ý trách sư phụ sao lại phải “hành xác” đệ tử cực nhọc đến như vậy. Sư phụ cho gọi Trọng Nhân vào, ba mặt một lời, Sư phụ hỏi:
- Con có muốn tập võ nữa hay không?
- Dạ, thưa sư phụ…Dù gian khổ thế nào con cũng xin cố ạ!
- Nhưng mẹ con thấy vất vả quá… Muốn con thôi. Nếu con nghe mẹ. Sư phụ thu xếp đi ngay!
- Thưa mẹ - Trọng Nhân quỳ dưới chân chị cả nói - Nếu mẹ bắt con nghỉ… con sẽ bỏ nhà đi theo sư phụ!
- Thưa sư phụ. Chỉ cả hỏi Ngũ Lão - Không có cách nào “học tắt” được à?
- Võ thuật, nếu không học đến nơi đến chốn thì thà không học còn hơn - Sư phụ giảng giải - Biết theo kiểu… Ngũ Lão định nói đến trường hợp của cha Trọng Nhân. Nhưng sợ động vào nỗi đau của chị cả nên kịp dừng lại…. mấy tay mãi võ ngoài đường, ngoài chợ… dễ chết oan lắm.
Trọng Nhân có tố chất của người học võ thuật, lại ham luyện tập nên tiến bộ rất nhanh. Chị cả mừng ra mặt. Một hôm nhờ người vào tận Hà Tĩnh mời thầy đồ họ Nguyễn, một họ có danh tiếng về chữ nghĩa về làm gia sư cho con. Ông thầy đồ vào phòng Ngũ Lão thấy sư phụ chỉ chuyên tâm đọc sách, ngâm thơ thì rất lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Dạ! Tôi hỏi khí không phải. Sư phụ có phải dòng dõi Phục ba tướng quân Mã Viện không ạ!
- Họ Mã nhà Phục ba là họ trâu ngựa. Còn họ Mã nhà tôi là họ Mã thượng. Không có giây mơ rễ má gì…
Buổi sáng trời rét như cắt thịt, trò thì gánh nước từ dưới sông lên, còn sư phụ thì đi quyền để “giữ sức”. Vị gia sư thấy sư phụ tay đấm, chân đá cứ nhẹ như không mà tiếng gió toát ra thì lại mạnh mẽ vô cùng, biết là loại “cao thủ võ lâm”, sống mai danh ẩn tích.
Rồi thầy đồ mới sư phụ qua phòng mình uống trà. “Bình minh nhất ấm trà mà”. Nói lòng vòng mấy chuyện, vị gia sư đặt thẳng vào việc:
- Tôi có đứa cháu ngoại, cũng ham mê võ nghệ lắm! Nhưng nhà nghèo… Vậy tôi đưa cháu sang đây! Tiền dạy học cho Trọng Nhân, xin gửi cho sư phụ. Không biết có được không?
Sư phụ cười sảng khoái nói:
- Thầy cứ cho cháu qua đây! Tôi chỉ nhìn qua là tập với cháu vài buổi là biết cháu có theo được nghiệp này hay không? Võ thuật… cũng là nghệ thuật. Không có năng khiếu, tài năng và lòng say mê thì cũng như văn chương.. chả nên cơm nên cháo được đâu. Còn nếu cháu có thiên bẩm, thì dù nhà nghèo đến đâu, thầy không cần phải trả nửa xu, tôi cũng sẽ luyện cho cháu được… Vả lại ngoài giờ tập võ, học chữ… ở đây thiếu gì việc để các cháu nó làm… Tự kiếm cơm nuôi bản thân được.
Mấy ngày sau, cháu vị thầy đồ sang, tư chất không bằng Trọng Nhân. Nhưng nếu gặp thầy giỏi, chịu khó khổ luyện thì cũng có cơ thành tài được.
Năm sau lại có hai anh em nhà họ Lê, từ Thanh Hoá vào. Sư phụ thấy đây cũng là mầm non nhiều hứa hẹn, liền vui vẻ nhận ngay.
Qua năm 1314 vưa Anh Tông nhường ngôi cho con là Minh Tông lên nối ngôi. Phạm Ngũ Lão nhờ thế mà càng có nhiều thời gian sống ở vùng Đô Lương- Nghệ An hơn. Học trò nào mới đến Ngũ Lão cũng dạy bài phải khắc cốt, ghi tâm: “Học võ là để cứu nước, giúp dân”. Qua ba năm “lò võ” của sư phụ họ Mã đã có tới hơn hai chục võ sinh. Sư phụ chia ra từng nhóm vài ba người một. Lớp trước dạy lớp sau. Chỉ có các bài nâng cao thì sư phụ mới trực tiếp truyền thêm.
Sư phụ Mã bỏ tiền ra tậu ruộng, tậu đất đai, trâu bò. Các võ sinh tự canh tác nuôi thân, để mà luyện võ. Sư phụ còn nhờ Nguyễn tiên sinh (mời ba thầy để đến dạy chữ cho các môn sinh. Tiền thù lao tất nhiên là thầy Mã chi trả tất. Không muốn “phô trương” nên sư phụ Mã cấm các học tò được tham gia các ngày hội võ thuật ở xung quanh, nhân dịp tết đến xuân về.
Thời gian cứ thấm thoắt trôi. Mới ngày nào sư phụ Mã đến đây Trọng Nhân mới mười một mà nay đã 16. Chị cả lập tức hỏi vợ cho nó. Ngũ Lão khuyên nên chờ thêm hai ba năm nữa. Nhưng riêng việc này thì chị kiên quyết cho sư phụ “ra rìa”. Mười tháng sau, một cặp song sinh ra đời. Đứa nào cũng “chân tay dài, rộng cả”. Chị cả mừng đến rơi nước mắt, đặt đứa ra trước là Khánh Trung, đứa ra sau là Khánh Đức..
Một lần Phạm Ngũ Lão có việc phải về kinh sáu tháng. Khi quay lại thấy Trọng Nhân chững chạc hơn nhiều. Trọng Nhân khoe, mới tự luyện được ngón phóng lao, bách phát bách trúng. Sư phụ hỏi nhờ đâu mà con nghĩ ra được “chiêu” này? Trọng Nhân thưa:
- Một lần theo đoàn thợ săn. Họ bẫy được một con gấu ngựa cực lớn. Chân nó đã dính bẫy rồi. Nhưng đám thợ vác dáo vào đâm, đều bị nó dùng hai tay trước đoạt hết. Con cũng cầm dáo lao vào. Nó đoạt được ngay. Con bèn lùi lại. Vớ một ngọn dáo, nhằm ức có chùm lông trắng của nó phóng tới. Chỉ một phát trúng ngay tim. Con gấu ngựa nặng tới hơn hai tạ gục xuống liền. Về nhà con nghĩ. Địch ở sát thì dùng đao, ở xa thì dùng cung tên. Còn ở lưng chừng thì phóng lao là thượng sách. Thế là con luyện “chiêu” này. Giờ cách xa hai chục bước, con phóng “bách phát, bách trúng”.
- Con hơn sư phụ là phúc lớn cho nước nhà rồi! Ngũ Lão ôm chầm lấy Trọng Nhân, nghẹn ngào, mừng rỡ nói.
Mùa xuân năm 1318, vua Chiêm là Chế Năng lại làm phản. Đánh phá vùng bắc Quảng Trị và Quảng Bình. Đưa yêu sách đòi lại hai châu Ô và châu Rí. Vua Minh Tông sai Huệ võ vương Quốc Chẩn đem tám vạn quân vào đánh dẹp. Chế Năng vốn là người nhanh nhẹn, văn võ song toàn. Quân Trần từ Thăng Long vào mỏi mệt, muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Chế Năng vờ thua. Quốc Chẩn thúc quân đuổi theo. Được ba mươi dăm, ba bề là núi, quân phục của Chiêm Thành đổ ra, từ trên đánh xuống, thế như chẻ tre, vây chặt quân Trần vào một thung lũng. Quốc Chẩn sai mười tráng sĩ đột phá vòng vây, chạy thoát được ba về Thăng Long xin cứu viện. Vua Minh Tông, nửa đêm cho gọi Phạm Ngộ vào cung, bảo Ngộ tìm bằng được Phạm Ngũ Lão về kinh sư ngay. Phạm Ngộ sai người đi ngựa trạm vào thẳng Đô Lương truyền lệnh của vua. Ngũ Lão ngay trong đêm, thu xếp đi thẳng tới thành Nghệ An. Trọng Nhân xin đi theo. Mẹ cả hai tay bé Khánh Trung và Khánh Đức ra, và hỏi:
- Các con có cho bố đi không?
Khánh Nghĩa trả lời bằng cách dựng chim, đái vọt cần câu một bãi rất xa. Mẹ cả cười lẫn nước mắt bảo:
- Nếu không có hai đứa bé này thì dẫu có kề gươm vào cổ tôi cũng không cho Trọng Nhân đi.
Thấy con lên ngựa, tay cầm đao, lưng gài năm ngọn lao, oai phong lẫm liệt, mặc dù mới qua tuổi mười bẩy được mấy ngày, mẹ cả bảo:
- Vì nước, con hãy đi đi! Nhưng cả hai thầy trò nhớ bảo trọng.
Nửa đêm hai người đến thành Nghệ An, đập cửa. Lính canh ra quát. Phạm Ngũ Lão đưa tên lính binh phù có đầu hổ bảo vào dựng quan tổng trấn dậy và đưa cái này ra. Viên quan tổng trấn đang ngủ với vợ bé nổi giận toan chém tên lính, nhưng khi trông thấy binh phù có đầu hổ thì vội vàng sai mở cửa thành mời hai người vào. Phạm ngũ Lão hỏi:
- Quân Triều đình đang bị quân Chiêm vây khốn ở Quảng Bình- Quảng Trị ngươi có biết không?
- Dạ, bẩm Điện suý, bỉ chức làm sao mà biết được ạ!
- Vậy thì bây giờ ta báo! Ngươi hãy lập tức điều cho ta năm ngàn quân kỵ. Xuất phát ngay đêm nay.
- Dạ, chỉ sáng mai… Thong thả bỉ chức sẽ điều binh cho Điện suý ngay.
- Nếu còn chần chừ, ta lấy đầu ngươi bây giờ!
Ngay trong đêm Phạm Ngũ Lão dẫn năm ngàn quân kỵ thẳng tiến vào vùng Quảng Bình - Quảng Trị. Ngũ Lão hỏi Trọng Nhân:
- Bây giờ con tính thế nào?
- Nhân lúc kẻ địch còn chưa biết có viện binh, ta cứ tung quân đánh thẳng vào. Trong đánh ra, ngoài đánh vào, chắc là giải vây cho Huệ Võ Vương được!
- Kế đó mới là trung sách. Ta có cách này hay hơn. Đó là chịu khó, chịu khổ dẫn quân đi vòng qua đường núi. Rồi đánh tập hậu vào trại địch. Bị bất ngờ chắc chắn quân ta sẽ toàn thắng.
Nhưng Chế Năng là người có đảm lượng và cũng giỏi binh pháp nên khi thấy quân của Phạm Ngũ Lão bất ngờ đánh tập hậu đã đổi hậu quân thành tiền quân, sẵn sàng nghênh địch. Chế Năng cầm giáo dài thúc ngựa xông lên. Hai bên có bốn tướng cầm đinh ba và búa lớn kèm sát bảo vệ. Trọng Nhân thấy vậy rút cây lao ở sau lưng nhằm đúng giữa ngực tướng cầm búa lớn. Mũi lao xuyên thấu ngực khiến viên tướng này chết lăn dưới chân ngựa. Hăng máu Trọng Nhân rút mũi lao thứ hai. Ngũ Lão quát to:
- Đừng giết Chế Năng! Để ta bắt sống có lợi hơn.
Trọng Nhân phóng chết viên tướng cầm đinh ba. Vừa lúc đó Ngũ Lão áp sát tới, vung đao chém, Chế Năng đưa dáo lên nghênh địch. Hai tướng còn lại vây đánh Trọng Nhân. Đánh được chừng hai chục hiệp, liếc thấy Trọng Nhân có phần núng giữa hai tướng giặc, Ngũ Lão bèn vờ lỡ đà để Chế Năng phóng dáo sang. Chỉ chở có vậy, Ngũ Lão né qua một bên, thúc ngựa lên một nhịp, vươn tay cắp ngang người Chế Năng ném xuống đất. Lính Đại Việt kề đao vào cổ, rồi dùng dây chão trói chặt Chế Năng lại. Hai tướng đang vây Trọng Nhân thấy vậy, vội vàng bỏ chạy. Trọng Nhân phóng lao trúng vào lưng chết viên tướng thứ ba. Tên còn lại sợ hãi xuống ngựa xin hàng. Năm ngàn quân của Phạm Ngũ Lão đánh thốc vào giữa trại, chém giết tan hoang. Thấy kẻ địch rối loạn từ bên trong. Quốc Chẩn thúc quân đánh vào. Giặc bị giết vô kể. Hơn năm vạn quân bó dáo xin hàng. Thấy Ngũ Lão, Quốc Chẩn xuống ngựa, vái mà rằng:
- Điện suý là người trời hay sao mà sa được xuống giữa lòng trại địch.
Ngũ Lão chỉ vào Trọng Nhân cười đáp:
- Tất cả là nhờ có tài phóng lao của tiền tướng này!
Trọng Nhân chín đỏ cả mặt vì sung sướng và vì ngượng.
- Sư phụ con nói chơi đó! Người mới thật là dùng binh như thần - Trọng Nhân nghiêm trang đáp.
Quốc Chẩn, Ngũ Lão và Trong Nhân giải Chế Năng về Thăng Long. Qua thành Nghệ An, Ngũ Lão trao trả năm ngàn quân kỵ, rồi nói với Trọng Nhân:
- Con thích lên kinh sư hay về nhà với mẹ.
Không chần chừ, Trọng Nhân đáp:
- Con muốn về nhà với mẹ ngay bây giờ!...
Vua Minh Tông ra tận của nam thành Thăng Long đón tiếp Ngũ Lão và Quốc Chẩn. Quốc Chẩn xuống ngựa, quỳ dưới xa giá tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Chế Năng gian trá và hoạt binh hơn cha là Chế Chí nhiều. Không có Điện suý và một tiền tướng là Trọng Nhân ứng cứu kịp thời thì Quốc Chẩn này không còn được thấy mặt rồng của bệ hạ.
- Tiền tướng Trọng Nhân đâu? Vua Minh Tông hỏi.
- Dạ! Muôn tâu thánh thượng! Tiểu tướng mới 17, nhớ mẹ quá nên đã nằng nặc xin về nhà rồi! Ngũ Lão tâu.
Vua Minh Tông đáp:
- Tuổi trẻ tài cao, hẳn là đệ tử ruột của Điện suý.
Rồi sai viết chiếu khen ngợi và ban ghưởng cho Trọng Nhân một ngàn lượng vàng. Sai quân đưa vào Nghệ An ngay ngày hôm đó.
Ba tháng sau Phạm Ngũ Lão mới quay trở lại Đô Lương. Hoàng Lương ốm nặng, đang hấp hối. Ngũ Lão đến thăm tận giường. Hoàng Lương thều thào nói:
- Tôi có lời với Mã sư phụ. Khi sư phụ chưa tới, một tay tôi “tự tung tự tác” trong trang trại. Từ khi sư phụ tới vị trí đó của tôi không còn. Nhưng càng về sau, tôi càng thấy là mình sai. Được nói với sư phụ trước lúc nhắm mắt, xuôi tay… tôi thấy…. lòng được thanh thản… nhiều, nhiều lắm!
Phạm Ngũ Lão an ủi:
- Trang trại có được như ngày hôm nay là nhờ chị Cả tháo vát, quyết đoán. Nhưng sự đóng góp của ngươi là không nhỏ. Phải nói là mười phần thì công của ngươi là ba, bốn… Chị cả lo cho đám tang của cậu hai rất to. Bắt tất cả gia nhân trong nhà phải để trở….
Phạm Ngũ Lão bàn với chị cả và Trọng Nhân:
- Bây giờ cháu đã trưởng thành rồi. Việc làm ăn trong trại chỉ cả vẫn phải gánh vác. Riêng chuyện “lò võ” thì giao cháu đảm nhiệm. Một ngàn lượng vàng vua ban, nên để Trọng Nhân mua sắm ngựa nghẽo., binh khi, mua thêm vườn đồi để các đệ tử có phương tiện luyện tập và đất đai làm ăn… theo cách “mỡ nó rán nó”.
Chị cả nghe thấy Ngũ Lão nói thế thì hơi chột dạ, bảo:
- Thế ông chú thì làm gì?
- Phải, mẹ con nói đúng đấy! Sư phụ định về kinh luôn à?
- Sư phụ đã già rồi… Năm nay sư phụ chưa về, thì sang năm sư phụ về… Còn những bí quyết võ công và cách dùng binh thế nào cho thần diệu mà sư phụ đã học được ở Quốc Công Tiết Chế, sư phụ sẽ phải gấp gáp truyền hết lại cho con. Vả lại… Chỉ qua một trận đánh vừa rồi con đã lớn lên rất nhiều. Bằng ba năm luyện tập ở nhà. Bắt đầu từ hôm nay, con phải quản lý “võ đường". Từ cách tuyển sinh, chế độ tập luyện cho các lứa tuổi… đến việc ăn ở, học chữ nghĩa của họ… một tay con phải làm tất.
Mùa đông năm đó Phạm Ngũ Lão về quê ăn tết ba tháng. Mãi tới đầu tháng ba năm sau, Ngũ Lão mới quay vào. Người vẫn tráng kiện, nhưng dáng dấp đã có phần chậm chạp. Một tối Ngũ Lão gọi riêng Trọng Nhân vào buồng, người nằm trên sập gỗ, cầm tay đệ tử dặn mấy lời tâm huyết;
- Võ công của sư phụ là do tiền nhân để lại. Không phải của riêng sư phụ, mà là bảo vật của cả Đại Việt. Nay con đã tiếp nhận được hầu hết rồi, sư phụ có về với tổ tông cũng không phải hối tiếc gì. Phần con khi chọn người vào nối nghiệp, cái chính là phải chọn cái TÂM, rồi mới tới cái TÀI. Ai có TÂM có TÀI truyền hết cả cho người ta. Đừng giữ làm của “gia truyền” chỉ dành cho con cháu mình. Như con thấy đấy! Con của sư phụ là Phạm Ngộ, có TÂM nhưng không có tài nên sư phụ đã không truyền dạy cho nó.
Ngày mai sư phụ muốn về kinh. Sư phụ muốn con dùng xe ngựa có giường nằm đích thân đưa sư phụ về. Thanh đao và cây cung cũng không phải là của gia bảo của gia đình sư phụ. Con hãy giữ lấy. Sau này ai có TÂM có TÀI thì con trao lại cho họ. Hôm sau, Phạm Ngũ Lão chào tạm biệt chị Cả. Chị ngã lăn ra khóc từ nhà trên xuống nhà dưới. Xe đã lăn bánh rồi chị còn chạy theo níu lại…
17
Những ngày trên giường bệnh Phạm Ngũ Lão được sống quây quần đầm ấm bên vợ con. Quận chúa An Nguyên cũng đã già yếu đi nhiều, nhưng sắc mặt lúc nào cũng vui vẻ bên chồng. Vừa uống một bát thuốc bổ xong, Phạm Ngũ Lão cầm tay vợ bảo:
- Lấy ta, nàng luôn phải chịu thiệt thồi. Gần như suốt cả đời “nam chinh - bắc chiến”. Hai lần chống Nguyên Mông, bốn lần bình định. Ai Lao gây rối, hai lần dẹp Chiêm Thành. Việc triều chính cũng thật nặng nề bởi cái chức điện suy, phải lo an nguy cho Thánh thượng.. Có đêm “nửa đêm nửa hôm” thánh thượng có chỉ truyền vào, dù mưa rét cũng phải đi. Để lại nàng trơ trọi một mình.
- Phu quân ơi! Xin chàng đừng nói gì nữa. Đời thiếp gặp được chàng là phúc lớn, tu được từ kiếp trước… Chàng có biết không, như trước đây thiếp đã từng nói, có biết bao nhiêu kẻ muốn lấy thiếp. Thiếp biết họ đâu có cần gì thiếp mà cái họ cần là cái chức của Nghĩa phụ thiếp. Đến khi Nghĩa phụ “hai năm mươi” thì họ sẵn sàng vứt thiếp vào sọt rác như quả chanh đã vắt nước. Nghĩa mẫu là hiểu thiếp. Bởi thế Phu nhân bảo chỉ đám nào An Nguyên gật thì phu nhân mới gả. Hôm Nghĩa phụ đưa chàng về. Nghĩa mẫu nhìn thiếp thấy mặt thiếp đỏ xuống tận cổ thì Phu nhân biết là “cá đã cắn câu rồi”.
Chúng ta có hai con., Trai có, gái có. Con gái Tĩnh Huệ được vua Anh Tông hỏi làm thứ phi, thiếp đã không lấy làm mừng, cả chàng cũng vậy. Tĩnh Huệ không có con đâu phải là nó không sinh được. Là đàn bà thiếp biết, các cuộc tranh giành nơi hậu cung không chỉ mất mạng bản thân mà nhiều khi còn mất mạng cả gia tộc, ba họ. Chàng thử nghĩ xem, chàng là Điện suý, quyền cao chức trọng, lại được vua rất sủng ái. Nếu Tính Huệ có con trai nữa thì… Cái đó sẽ là cái gai trong mắt rất nhiều người. Vậy thì tốt nhất là cho nó… tịt ngòi. Chuyện này dễ hơn trở bàn tay. Chỉ một cánh thuốc nhỏ như hạt gạo, không mùi, không vị cho vào thức ăn, đồ uống là… êm ru thôi mà. May mà Tĩnh Huệ được trở về, đi tu. Ấy cũng là nhờ cái đức của chàng. Chứ hàng chục người khác, chết già, chét héo nơi thâm cung lạnh lẽo.
Còn Phạm Ngộ làm quan được tiếng là thanh liêm. Tài không bằng Trương Hán Siêu. Nhưng đức độ chả kém ai. Hẳn chàng còn nhớ chuyện Hán Siêu nói chơi: "Phạm Ngộ và Lê Duy ăn hối lộ". Vua nghe được liền phán: “Hán Siêu là hành khiển làm quan ở sảnh, Phạm Ngộ là thẩm hình làm quan ở viện, ta đều tin như nhau cả, sao lại để cho ta tin quan ở sảnh, mà ngờ quan ở viện”. Rồi bèn cho đối chất. Hán Siêu đuối lý phải phạt 300 quan tiền. Không bao lâu sau lấy Phạm Ngộ làm quan tri chính sự đồng trị, Thượng thư tả trị sự, chức ngang với Hán Siêu.
- Sau chuyện đó ta đã dặn nó. Ngũ Lão mỉm cười nói - Làm quan mà chỉ cốt giữ cho thanh liêm là chỉ biết lo cho bản thân mình. Là vị quan tốt trước hết phải biết lo điều dân lo. Thấy dân bị oan sai, dù có phải mất chức cũng vì dân mà đòi cho được công bằng, lẽ phải. Nó nghe ra khiến ta rất mừng.
Phạm Ngũ Lão biết mình không thể qua khỏi mới dặn vợ con rằng:
- Sau khi ta mất thì chôn ở phủ vườn cau. Ba năm sau cải táng, lấy da con ngựa tía đã thuộc để trong phòng đọc sách của ta gói xương ta lại rồi cho vào tiểu, đưa về quê nhà. Không được xây lăng mộ to làm gì. Cứ đặt xương cốt của ta phía dưới phần một của ông bà nội là được.
Năm 1320, mùa đông thán 11, Điện suý Phạm Ngũ Lão qua đời, thọ 66 tuổi. Vua Minh Tông thương tiếc vô cùng, nghĩ chầu năm ngày. Đó là ân điển đặc biệt.
Ngay sau khi Phạm Ngũ Lão mất, dân làng Phù Ủng tự góp tiền xây đền thờ ông ở ngay tại nền đất ngôi nhà ông sinh ra. Hàng năm, dân làng còn tổ chức lễ hội từ 11 đến 14 tháng Giêng để tưởng niệm người anh hùng “đan sọt” có công cứu nước giúp đời. Không chỉ có dân làng Phù Ủng mà dân ở huyện Ân Thi, ở tỉnh Hưng Yên và nhiều địa phương khác trên toàn quốc về dự hội… Phạm Ngũ Lão còn được phối thờ ở đền Kiếp Bạc bên cạnh Hưng Đạo Đại Vương.
Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc tới hai nhân vật chính nữa là Trần Khắc Chung và Trần Khánh Dư. Đại Việt sử ký toàn thư có nói về Trần Khắc Chung là kẻ giả dối để cầu tiếng khen, không chăm sóc sản nghiệp cửa nhà. Mỗi khi buổi sáng vào chầu thì nghỉ tạm ở cục Thượng Liễn cửa Vĩnh Xương, xem kỹ các bản tấu để dự bị bầy tâu. Khi tan chầu ra về thì đến Đông cung (Minh Tông khi ấy còn ở Đông cung) dạy học đều là miễn cưỡng kiềm sức mà làm. Thường cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh bạc, có khi thâu đêm suốt sáng hai ba ngày đêm, thường ngồi ngay trên bàn mà xúc cháo ăn, không nghỉ lúc nào. Lại như các bạn bè gặp những ngày đầy tuổi con, mừng nhà mới có mời là đến. Thậm chí nhà quan, thầy thuốc có món ngon cũng đến ăn. Người thết đãi thì khen ngợi vợ, con họ. Trước Khắc Chung lấy nàng Bảo Hoàn thời giặc Nguyên xâm lấn, cha mẹ Bảo Hoàn hàng giặc, điền sản đều bị xung công. Đến khi vua mới lên ngôi, xuống chiếu trả lại cho, nhưng Khắc Chung cũng không đem điền sản ấy dùng vào việc thờ cúng. Bởi thế khi con trai là Công Xước lấy vợ, Khắc Chung không đồng ý mới mắng rằng: “Mày lấy con gái nhà ấy, sao không báo cho tao biết”. Con trai cãi lại: “Thì ông đối với mẹ và đằng ngoại nhà tôi có ra gì đâu mà phải hỏi”.
Đến việc giết quốc phụ thượng tế Quốc Chẩn cùng gia quyến hơn một trăm người, cũng có bàn tay của Trần Khắc Chung tham gia. Khi ấy vua Minh Tông đã ở ngôi được 15 năm, tuổi đã cao mà chưa lập thế tử, cha sinh ra hoàng hậu là Quốc Chẩn có ý chủ trương nên đợi hoàng hậu sinh ra con đích tôn sẽ lập Đông cung Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con của Thái sư Trần Nhật Duật muốn đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử Vượng, mới đem của đút cho gia nhân của Quốc Chẩn là Trần Phẫu 100 lượng vàng, và bảo Phẫu vu cáo cho Quốc Chẩn việc mưu phản. Vua tin là thực, giam Quốc Chẩn ở chùa Tư Phúc, rồi đem việc ấy hỏi Trần Khắc Chung. Khắc Chung vào hùa với Văn Hiến Hầu và cùng với mẹ sinh ra hoàng tử Vượng đều là người ở Giáp Sơn (quê Khắc Chung), mà lại từng dạy Vượng học, nên mới trả lời, rằng: “Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó”. Vua mới cấm tiệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng Hậu lấy áo tẩm nước đưa vào cho Quốc Chẩn uống, uống xong thì chết. Bắt hơn 100 người xét hỏi, tất cả đều kêu oan. Vài năm sau, gặp khi vợ cả, vợ lẽ tên Phẫu ghen nhau, đem việc Văn Hiến Hầu dúi cho vàng tâu lên vua. Vua giao xuống cho ngục quan xét. Lê Duy là người cương trực, xét hỏi ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị tội lăng trì. Văn Hiến được miễn tội chết, giáng xuống làm thứ dân, xoá tên trong sổ hoàng tộc. Việc nhẫn tâm đến như thế mà Khắc Chung còn vào hùa làm được thì việc gì hắn không dám làm. Chỉ có việc đi sứ gặp Ô Mã Nhi để cầu hoà và dò xét tình hình địch là khả quan thôi, cho nên được khen là người giỏi. Đưa về chôn ở Giáp Sơn. Gia nô của Huệ Võ Vương Quốc Chẩn đào mồ lên, băm nát xác ra.
Trở loại chuyện Trần Khánh Dư, theo Đại Việt Sử ký toàn thư ghi, năm 1340 Nhân Huệ Vương chết không biết sử có ghi nhầm không, chứ ngay từ lần quân Nguyên xâm lược đầu tiên (năm 1258) Trần Khánh Dư lúc đó khoảng mười tám đôi mươi rồi. Nếu quả như thế thì Trần Khánh dư sống trên dưới một trăm tuổi sao?
Tuy nhiên, thiên hạ có câu “đa thọ- đa nhục”, chỉ biết rằng cuối đời, con thì không thấy mà cháu cũng chết cả rồi. Chỉ còn lại con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp làm bạn với Nhân Huệ vương lúc xế chiều. Tuy nhiên nó cũng đã “lụ khụ” lắm rồi, lông lá xù xì, không thể nhảy được nữa, hống chi là bay. Cũng không thể tự mổ bụng vịt ra mà ăn, mà phải nhờ đám gia nhân vứt cho ít thịt vụn. Nhiều lúc nó ỉa xoẹt cả ra sập của Trần Khánh Dư.
Nhân Huệ Vương chết được mấy hôm thì con chim ưng cũng bỏ ăn mà chết. Gia nhân không đem chôn mà vứt xác nó vào nhà tiêu.
Về người anh hùng có tài và cũng có nhiều tật (tội thì chính xác hơn) thì mãi hơn một trăm năm sau ngày mất, mới được ai đó dựng đến thờ ở mãi tận đảo Quan Lạn, cách thành phố Hạ Long bây giờ khoảng 40 km. Vào gần mười năm trở lại đây, dân đánh hàng “tiểu ngạch” qua Trung Quốc và ngược lại, cũng gom góp tiền xây đền thờ Trần Khánh Dư tại đảo Cái Bầu - thuộc Vịnh Hạ Long. Hơn bảy trăm năm sau ngày Đại phá quân Nguyên ở cửa sông Bạch Đằng, chính phủ đã có quyết định thành lập khu kinh tế mở tại cảng Vân Đồn, nơi Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư trấn thủ và lập nên chiến công, giống như khu kinh tế Thâm Quyến ở bên Tầu.
Có thể tới lúc đó, người ta sẽ dựng tượng Trần Khánh Dư, ngồi trên mình ngựa trắng, đầu đội mũ có cắm lông công, trên vai có chú chim ưng lông đỏ mỏ quặp đậu. Bên sườn đeo kiếm dài, tay trái đặt vào đốc kiếm. Còn bàn tay phải, chụm lại chĩa thẳng ra biển Đông. Muốn biết chuyện này có thành hiện thực hay không, xin chờ hồi sau sẽ rõ…
Chim Ưng Và Vịt Chim Ưng Và Vịt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Vịt