Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 2 - Ý Tưởng Về Phương Bắc
“N
gài Asriel. Hiệu trưởng nói với giọng nặng nề và đến gần bắt tay ông ta. Từ nơi ẩn náu, Lyra dõi theo ánh mắt của ông Hiệu trưởng, và thấy ánh mắt ấy ném về phía trước bàn khoảng một giây, nơi đặt bình rượu Tokey.
“Ông Hiệu trưởng,” Ngài Asriel nói, “tôi đến quá muộn để tham dự bữa tối của ông, vì thế tôi đã tự nhiên như ở nhà trong căn phòng này. Xin chào ông Hiệu phó, thật mừng vì trông ông vẫn rất mạnh khỏe. Xin lỗi vì sự xuất hiện đột ngột của tôi. Tôi chỉ vừa mới đặt chân xuống đất. Vâng. Thưa ông Hiệu trưởng, rượu Tokey đổ hết mất rồi. Tôi nghĩ là ông đang đứng lên nó đấy. Người khuân vác đánh đổ nó, nhưng đó là lỗi của tôi. Chào Cha tuyên úy, tôi đã rất thích thú khi đọc bài viết gần đây nhất của Cha…”
Ông ta đến chỗ Cha tuyên úy và Lyra có thể nhìn rõ khuôn mặt của ông Hiệu trưởng. Một khuôn mặt vô cảm, còn con nhân tinh trên vai ông ta đang rỉa lông cánh và đi lại liên tục. Ngài Asriel đã chế ngự cả căn phòng, và dù ông đã cẩn thận để cố tỏ ra nhã nhặn với ông Hiệu trưởng trong học viện này, việc ai là người chiếm ưu thế thật rõ nhận biết.
Các Học giả chào đón người khách và đi vào phòng, một số ngồi quanh, một số trên ghế bành và những cuộc đàm thoại ồn ào nhanh chóng đầy ắp không gian. Lyra có thể thấy họ bị thu hút mạnh bởi chiếc hòm gỗ, màn hình và đèn chiếu. Cô biết rất rõ các Học giả: Ông Quản lý thư viện, ông Hiệu phó và những người còn lại. Họ là những người đã ở quanh cô trong suốt cuộc đời cô, dạy cô học, trừng phạt cô, an ủi cô, cho cô những món quà nho nhỏ, đuổi cô khỏi những câquả trong vườn. Họ là tất cả những người cô có trong gia đình của mình. Có thể họ còn coi cô như một thành viên trong gia đinh, nếu cô biết gia đình là gì. Nhưng nếu cô có biết, có lẽ cô sẽ cảm thấy gần gũi hơn với những người giúp việc trong học viện. Các Học giả có nhiều việc quan trọng cần làm hơn là tham gia vào trò chơi tình cảm với một con bé nửa hoang dã, nửa văn minh sống giữa họ do một sự tình cờ.
Ông Hiệu trưởng thắp cây đèn cồn phía dưới lò hâm thuốc bằng bạc nhỏ và đun nóng một chút bơ trước khi cho thuốc phiện vào. Thuốc phiện luôn được phục vụ sau bữa tiệc, nó làm đầu óc minh mẫn và kích thích nói chuyện, nó mang lại những cuộc nói chuyện hay ho. Ông Hiệu trưởng thường tự mình chuẩn bị thuốc phiện.
Trong tiếng bơ rán xèo xèo và tiếng nói chuyện lao xao, Lyra nhìn xung quanh để tìm mộị trí thoải mái hơn cho mình. Cô lấy một chiếc áo choàng ra khỏi mắc một cách thận trọng - một chiếc áo lông dài chấm đất và đặt nó xuống sàn tủ.
“Đáng ra cậu không nên dùng một cái áo cũ chẳng có chọn lựa gì như thế,” Pantalaimon thì thầm. “Nếu thoải mái quá, cậu sẽ ngủ cho mà xem.”
“Nếu thế thật, nhiệm vụ của cậu là đánh thức mình dậy.” Cô trả lời.
Cô ngồi và lắng nghe cuộc nói chuyện. Cuộc nói chuyện cũng vô cùng chán, phần lớn là về chính trị và tình hình chính trị của London vào thời điểm đó, cũng chẳng có tin tức gì thú vị về quân Tartar. Hương thơm của thuốc phiện đun nóng và lá thuốc len vào tủ quần áo khiến hơn một lần Lyra phát hiện mình đang ngủ gật. Nhưng cuối cùng cô nghe thấy tiếng người nào đó đập bàn. Các giọng nói im bặt, sau đó tiếng ông Hiệu trưởng vang lên.
“Thưa các quý ngài,” ông nói, “tôi cảm thấy chắc chắn rằng tôi đang đại diện cho tất cả chúng ta khi tôi mời Ngài Asriel đến đây. Các chuyến viếng thăm của ông ấy rất hiếm hoi nhưng lại vô cùng quý giá, và tôi hiểu là ông ấy có điều gì đó đặc biệt thú vị muốn cho chúng ta thấy đêm nay. Hiện đang trong thời kỳ căngng về chính trị, như chúng ta đã biết. Sáng sớm mai Ngài Asriel được yêu cầu phải có mặt tại Nhà trắng, một chuyến tàu hơi nước đang sẵn sang chờ để đưa ông ấy đến London ngay sau khi chúng ta kết thúc câu chuyện tại đây, vì thế chúng ta phải biết sử dụng thời gian một cách khôn ngoan. Khi ông ấy nói xong, tôi nghĩ sẽ có một vài câu hỏi. Xin hãy hỏi ngắn gọn và thẳng vào vấn đề. Ngài Asriel, ông đã muố bắt đầu chưa?.
“Cảm ơn ngài Hiệu trưởng.” Ngài Asriel nói. “Để bắt đầu, tôi có một vài bản kính dương muốn cho các ngài xem. Ông Hiệu phó, tôi nghĩ ông có thể nhìn rõ khi đứng ở đây. Có thể ông Hiệu trưởng muốn chuyển sang chiếc ghế gần tủ quần áo?”
Ông Hiệu phó già gần như đã bị lòa, vì thế việc dành chỗ gần màn hình cho ông là việc làm lịch sự, và việc ông tiển lên trên có nghĩa ông Hiệu trưởng sẽ ngồi gần ông Quản lý thư viện, chỉ cách tủ quần áo nơi Lyra đang trốn khoảng một mét. Khi ông Hiệu trưởng ngồi vào ghế bành, Lyra nghe tiếng ông ta thì thầm.
“Hắn là một con quỷ! Hắn biết rượu có độc, tôi chắc chắn thế đấy.”
Ông quản lý thư viện thì thầm trả lời, “Hắn ta sẽ yêu cầu được tài trợ. Nếun ta buộc chúng ta phải biểu quyết…”
“Nếu hắn làm thế, chúng ta sẽ phải tranh cãi chống lại, với tất cả tài hùng biện mà chúng ta có.”
Đèn chiếu bắt đầu rít lên khi Ngài Asriel bơm mạnh. Lyra khẽ dịch chuyển và cô có thể nhìn thấy màn hình, trên đó có một vòng tròn màu trắng đang bắt đầu sáng lấp lánh. Ngài Asriel gọi, “Ai đó giúp tôi tắt đèn trong phòng được không?”
Một trong số các đứng lên và tắt đèn, căn phòng tối dần. Ngài Asriel bắt đầu:
“Như một vài người trong số các ngài đã biết, tôi lên đường đến phương Bắc mười hai tháng trước vì một nhiệm vụ ngoại giao với vua Lapland. Ít nhất, đó cũng là điều tôi định làm. Thực ra mục tiêu thực sự tôi hướng đến là đi xa hơn về phương Bắc, vùng băng tuyế để thử và khám phá điều gì đã xảy ra với đoàn thắm hiểm của Grumman. Một trong những thông điệp cuối cùng của Grumman gửi về Viện Hàn Lâm tại Berlin nói về một hiện tượng tự nhiên nào đó chỉ có thể nhìn thấy trên vùng đất phương Bắc. Tôi đã quyết tâm điều tra cũng như tìm ra tôi có thể làm gì với Grumman. Nhưng bức ảnh đầu tiên tôi sắp cho các ngài thấy không trực tip nói về những điều này.”
Ông đặt bản kính dương đầu tiên vào khung và trượt nó dưới các ống kính. Một bức ảnh đen trắng sắc nét hiện lên trên màn hình. Nó được chụp vào ban đêm, dưới ánh trăng sáng rõ, và nó cho thấy một túp lều gỗ ở giữa khoảng không, những bức tường màu tối nổi bật trên nền tuyết bao xung quanh và tạo thành một lớp dày trên mái lều. Bên cạnh túp lều là một dãy các thiết bị đ đạc phức tạp mà với Lyra trông nó giống thứ gì đó trong công viên Anbaric trên đường đến Yarnton: ăng ten, dây cáp, sứ cách điện lấp lánh dưới ánh trăng và phủ một lớp sương giá dày. Một người đàn ông mặc quần áo may bằng lông, khuôn mặt ông ta khó nhìn rõ trong chiếc mũ dày, đứng trước sân giơ tay lên như đang vẫy chào. Một bên ông ta có một chiếc bóng nhỏ hơn. Ánh trăng chiếu sáng vạn vật bằng thứ ánh sáng yếu ớt vàngt.
“Bức ảnh này được chụp bằng chất nitrat bạc tiêu chuẩn.” Ngài Asriel nói. “Tôi muốn các ngài xem một bức khác, cũng chụp ở vị trí đó chỉ một phút sau, với một chất bắt sáng mới được chuẩn bị đặc biệt.”
Ông nâng bản kính dương đầu tiên lên và cho một bản khác vào khung. Bức ảnh này tối hơn nhiều, như thể ánh trăng đã biến mất
Đường chân trời vẫn được nhìn thấy, với hình dáng mờ tối của túp lều và mái lều phủ đầy tuyết màu sáng của nó nổi bật lên, nhưng đống dụng cụ đã bị ẩn đi trong bóng tối. Người đàn ông đã thay đổi gần như hoàn toàn: ông ta tắm trong ánh sáng, một dòng hạt lấp lánh dường như chảy xuống từ cánh tay giơ cao.
“Ánh sáng đó, đang đi xuống hay đi lên?”.
“Nó đang đi xuống.” Ngài Asriel nói. “Nhưng đó không phải ánh sáng, đó là Bụi.”
Điều gì đó trong cách nói của ông khiến Lyra tưởng tượng Bụi được viết hoa, như thể nó không phải là Bụi thông thường. Phản ứng của các Học giả làm chắc chắn thêm cảm giác của cô, những lời của Ngài Asriel tạo ra một sự im lặng đột ột, theo sau là nhưng cái há hốc mồm ngờ vực.
“Nhưng làm thế nào mà…”
“Không thể nào lại…”
“Thưa các ngài,” giọng Cha tuyên úy vang lên. “Hãy đề Ngài Asriel giải thích.”
“Đó là Bụi,” Ngài Asriel nhắc lại. “Nó được ghi lại trên đĩa như ánh sáng vì các hạt Bụi tác động đến chất bắt sáng như những photon tác động đến nitrate bạc. Cũng một phần để km tra lại điều này mà tôi lên phương Bắc. Như các ngài thấy, cái bóng của người đàn ông hoàn toàn không nhìn thấy. Giờ tôi muốn các ngài nhìn vào hình bên trái của người đàn ông.”
Ông chỉ vào cái bóng nhỏ hơn bị che mờ.
“Tôi nghĩ đo là con nhân tinh của người đàn ông.” Ông giám thị nói.
“Không phải, Lúc đó con nhân tinh có hình dáng một con rắn và đang cuốn trên cổ ông ta. Hình dáng các ngài có thể nhìn lờ mờ đó là một đứa trẻ.”
“Một đứa trẻ bị chia tách?” Ai đó nói, và cái cách ông ta ngừng lại cho thấy ông biết đó là điều không nên nói ra.
Sự im lặng căng thẳng bao trùm.
Rồi ngài Asriel, nói với giọng bình tĩnh, “Một đứa trẻ hoàn chỉnh. Và đó là đứa trẻ, dưới tính chất của Bụi. Đây chính xác là tâm điểm của vấn đề phải vậy không?”
Không ai nói gì trong nhiều giây. Rồi tiếng Cha tuyên úy vang lên.
“A,” ông nói, như một người chết khát vừa uống say, đặt cốc xuống để thở ra hơi thở đã tìm kiếm suốt thời gian uống, “và những dòng Bụi…”
“… Đến từ bầu trời, bao phủ người này trong một thứ giống như ánh sáng. Ông có thể kiểm tra bức ảnh này gần đến mức ông muốnôi sẽ để chúng lại đây sau khi đi. Tôi đang cho các ngài xem vì tôi muốn mô tả tác động của loại chất dẫn sáng mới này. Giờ tôi muốn cho các ngài xem một bức ảnh khác.”
Ông đổi bản kính dương. Bức ảnh tiếp theo cũng được chụp vào ban đêm, nhưng lần này không có ánh trăng. Nó cho thấy một nhóm những ngôi lều ở vị trí cận cảnh, hiện ra lờ mờ trên đường chân trời, bên cạnh là một đống thùng gỗ và một chiếc xe trượt bẩn thỉu. Nhưng điểm thú vị chính của bức ảnh nằm ở bầu trời. Những dòng và màn ánh sáng treo như những tấm rèm, cuốn lại và kết tràng thành những cái móc cao hàng trăm mét hay thổi về một bên trong những luồng gió không thể nhìn thấy bằng mắt thường.
“Đó là cái gì vậy?” Ông Hiệu phó hỏi.
“Đây là một bức ảnh chụp Hiệ̓n tượng cực quang.”
“Một bức ảnh rất đẹp.” Giáo sư Palmerian nói, “một trong những bức ảnh đẹp nhất tôi từng xem.”
“Xin lượng thứ cho tính đãng trí của tôi,” giọng run run của người lĩnh xướng già vang lên, “nhưng nếu tôi từng biết Hiện tượng cực quang là gì thì đến giờ toi cũng quên mất rồi. Có phải đó là cái người ta gọi là Ánh Sáng Phương Bắc?”
“Đúng vậy. Nó có nhiều tên gọi. Nó là hòa trộn của những trận bão các hạt cháy và những tia mặt trời dữ dội có cường độ lớn - không nhìn thấy bằng mắt thường nhưng gây ra bức xạ dạ quang khi tương tác với khí quyển. Nếu có thời gian, tôi đã nhuộm bản kính dương này và chỉ cho các ngài thấy các màu sắc: xanh lá cây nhạt và màu hoa hồng, phần lớn là như vậy, với một chút đỏ sẫm dọc mép dưới của tm màn này - như cấu tạo của nó. Bức này được chụp với chất dẫn sáng thông thường. Giờ tôi muốn các ngài xem tấm ảnh chụp bằng chất dẫn sáng đặc biệt.”
Ông tháo bản dương kính ra. Lyra nghe thấy tiếng ông Hiệu trưởng nói khẽ, “Nếu hắn bắt phải có một cuộc biểu quyết, chúng ta có thể viện dẫn điều khoản cư trú. Hắn ta đã không ở trong Học viện vt quá ba mươi tuần trên năm mươi hai tuần.”
“Hắn ta đã lôi kéo được Cha tuyên úy về phía mình rồi…” Ông Quản lý thư viện thì thầm đáp lại.
Ngài Asriel đặt một bản dương kính mới vào khung đèn chiếu. Nó cũng cho thấy cảnh tương tự. Cũng giống cặp ảnh đầu tiên, nhiều đường nét nhìn thấy dưới ánh sáng thông thường đã mờ hơn rất nhiu trong tấm ảnh này, cả các vệt bức xạ trên bầu trời cũng vậy.
Nhưng ở giữa Hiện tượng cực quang, cao phía trên khung cảnh hoang vắng, Lyra có thể nhìn thấy thứ gì đó có hình khối. Cô dí sát mặt vào khe hở để nhìn rõ hơn, và cô có thể thấy các Học giả ngồi gần màn hình cũng đang ngóng lên. Khi nhìn vào màn hình, sự thắc mắc của cô càng tăng lên vì không thể nhầm lẫn được, trên bầu trời có đường nét mt thành phố: Các gác chuông, mái vòm, các bức tường… Những tòa nhà và đường phố treo lơ lừng trên không! Cô gần như nín thở vì ngạc nhiên.
Học giả Cassington nói, “Đây trông giống… một thành phố.”
“Chính xác là như vậy.” Ngài Asriel nói.
“Một thành phố trông một thế giới khác, không nghi ngờ gì nữa phải không?” Ông Chủ nhiệm khoa nói với giọng coi thường.
Ngài Asriel không để ý đến ông ta. Một số Học giả cảm thấy rất thích thú, việc này giống như viết các hiệp ước bảo vệ sự tồn tại của kỳ lân trong khi chưa từng nhìn thấy con nào, họ đang được giới thiệu một mẫu vật sống mới bắt được.
“Đây có phải là công việc của Barnard - Stokes không?” Giáo sư Palmerian hỏi. “Đúng thế phải không?”
“Đó là điều tôi muốn tìm hiểu cho ra.” Ngài Asriel nói.
Ông đứng một bên của màn hình, Lyra có thể nhìn thấy đôi mắt đen của ông tìm kiếm giữa đám Học giả khi họ nhìn vào bản dương kính về Hiện tượng cực quang, những tia sáng xanh lá cây ánh lên từ đôi mắt con nhân tinh ngồi bên cạnh ông. Tất cả những mái đầu đáng kính nghển lên, những mắt kính phản chiếu ánh sáng lóa, chỉ có ông Hiệu trưởng và ông Quản lý thư viện là ngồi tựa vào ghế bành, đầu họ chụm vào nhau.
Cha tuyên úy nói, “Ngài nói ngài đang tìm kiếm tin tức về chuyến thám hiểm của Grumman, thưa Ngài Asriel. Tiến sĩ Grumman cũng nghiên cứu hiện tượng này chứ?”
“Tôi tin là ông ấy cũng đã nghiên cứu, và tôi tin ông ấy có rất nhiều thông tin về vấn đề này. Nhưng ông ấy sẽ không thể nói cho chúng ta, vì ông ta đã chết.”
“Không thể thế được” Cha tuyên úy nói.
“Tôi e là đúng như vậy và tôi có bằng chứng đây.”
Một làn sóng xôn xao lan khắp Phòng nghỉ, khi dưới sự chỉ dẫn của Ngài Asriel, hai hay ba Học giả trẻ tuổi kéo chiếc hòm gỗ ra trước phòng. Ngài Asriel rút bản dương kính cuối cùng ra nhưng vẫn để đèn chiếu sáng, trong ánh sáng chói lòa của vòng tròn, ông cúi xuống mở chiếc hòm. Lyra nghe thấy tiếng rít của móng tay cọ vào gỗ ẩm. Ông Hiệu trưởng đứng lên nhìn, chắn mất tầm nhìn của Lyra. Chú cô nói tiếp:
“Nếu các vị còn nhoàn thám hiểm của Grumman biến mất mười tám tháng trước. Viện hàn lâm nước Đức cử ông ta đến đó để đi xa tận đến hố từ và thực hiện nhiều quan sát khác nhau về bầu trời. Chính trong khuôn khổ chuyến đi này ông ta đã quan sát được hiện tượng kỳ lạ chúng ta vừa xem. Không lâu sau đó, ông ta biến mất. Có giả thiết rằng ông ta gặp tai nạn và rằng xác ông ta đang trong một kẽ nứt nào đó cho đến tận bây giờ. Trong thực tế, không có tai nạn nào cả.”
“Ông có gì ở đó vậy?” ông trưởng khoa nói. “Có phải có một chiếc thùng chân không không?”
Ngài Asriel không trả lời ngay. Lyra nghe thấy tiếng bật của khóa kim loại và tiếng rít khi không khí tràn vào một khoang trống, sau đó là sự im lặng. Nhưng sự im lặng không kéo dài. Sau một lúc, Lyra nghe thấy những tiếng nói pha trộn những tiếng kêu sợ hãi, tiếng phản đối, tiếng người bực bội và sợ hãi.
“Nhưng cái gì…”
“… Thật là dã man…”
“…Nó đã bị…”
“…Chuyện gì đã xảy ra?”
Ông Hiệu trưởng cắt ngang những tiếng nói đó.
“Ngài Asriel, ông có thứ quái quỷ gì ở đây vậy?”
“Đây là đầu của Stanislaus Grumman.” Tiếng Ngài Asriel vang lên.
Trong tiếng hét, Lyra nghe tiếng ai đó chạy về phía cửa và lao ra với những tiếng kêu rời rạc và đau đớn. Cô ước có thể nhìn thấy cái họ đang nhìn.
Ngài Asriel nói, “Tôi tìm thấy xác ông ta vùi trong băng tuyết dưới Svalbard. Cái đầu đã bị làm như vậy bởi kẻ giết người. Các ngài có thể thấy những đường nét đục khắc đặc biệt. Tôi nghĩ có thể ông cũng quen với nó, thưa ông Hiệu phó. “
Giọng ông già rất chắc chắn khi ông nói, “Tôi đã nhìn thấy người Tartar làm như vậy. Đó là kỹ thuật có thể tìm thấy ở những người thổ dân Siberia và Tungusk. Từ đó, tất nhiên, nó thâm nhập sang các vùng đất Skaraeling. Tôi có thể xem xét nó gần hơn không, ngài Asriel?”
Sau một lúc im lặng, ông lại nói tiếp:
“Mắt tôi không được rõ lắm, và băng tuyết cũng hơi bẩn, nhưng có vẻ như có một lỗ thủng trên chóp sọ đúng không?”
“Đúng thế.”
“Bị khoan phải không?”
“Chính xác.”
Việc này làm dấy lên những lời thì thầm thích thú. Ông Hiệu trưởng dịch chuyển và Lyra lại có thể nhìn thấy. Ông Hiệu phó, trong vòng tròn sáng phát ra từ đèn chiếu, đang cầm một chiếc đầu phủ băng lên gần mắt, Lyra có thể thấy những thứ phía trong nó: một đống màu khó nhận ra là đầu người. Pantalaimon bay vòng quanh Lyra, sự đau đớn của nó làm ảnh hưởng đến cô.
“Này,” cô thì thầm, “hãy lắng nghe xem.”
“Tiến sĩ Grumman từng là Học giả của học viện này,” ông trưởng khoa nói với giọng kịch liệt.
“Rơi vào tay quân Tartar…”
“Nhưng đó là phía cực Bắc?”
“Chắc chúng đã tiến vào sâu hơn mức bất cứ ai có thể tưởng tư̖ng? “
“Có phải tôi nghe ngài nói ngài tìm thấy ở gần Savalbard?” ông trưởng khoa hỏi.
“Đúng vậy.”
“Liệu chúng ta có phải hiểu rằng panserbjorne có dính dáng gì vào vụ này?”
Lyra không hiểu từ này, nhưng rõ rang các Học giả thì có.
“Không thể nào,” Học giả Cassington nói chắc nịch. “Họ không bao giờ cư xử với thái độ như vậy đâu.”
“Thế thì ngài không hiểu Iofur Raknison rồi,” Giáo sư Palmerian, người đã thực hiện rất nhiều chuyến thám hiểm đến vùng Bắc cực nói. “Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào khi biết ông ta đã bị đưa đến những người chuyên lột da đầu theo phong tục của người Tartar.”
Lyra lại nhìn chú Asriel. Ông đang nhìn các Học giả với ánh mắt lấp lánh sự vui thích đầy vẻ châm biếm và không nói gì.
“Iofur Raknison là ai vậy?” có ai đó hỏi
“Là vua xứ Svalbard,” Giáo sư Palmerian nói, “Vâng, đúng thế, một trong những panserbjorne. Ông ta là một kẻ đoạt ngôi, gần như vậy, dùng thủ đoạn để giành được ngai vàng, hay theo tôi hiểu là như vậy, nhưng là một nhân vật đầy quyền lực, chứ không hề ngốc nghếch, dù điệu bộ màu mè lố lăng. Ông ta có một cung điện xây bằng đá cẩm thạch nhập khẩu, tạo thành cái mà ông ta gọi trường đại học…”
“Để cho ai chứ? Những con gấu chăng?” Ai đó nói, và mọi người cười rộ.
Nhưng Giáo sư Palmerian vẫn tiếp tục, “Vì tất cả những điều đó, tôi nói cho các ngài biết là Iofur Raknison rất có thể làm chuyện này với Grumman. Hơn nữa, khi được tăng bốc, ông ta có thể cư xử rất khác thưởng, nếu hoàn cảnh đòi hỏi.
“Và ngài biết làm thế nào để ông ta cư xử khác đi, phải không Trelawney?” Ông Trưởng khoa hỏi với giọng nhạo báng.
“Thực sự là tôi biết. Ngài có biết ông ta muốn điều gì là trên hết không? Thậm chí hơn cả một tấm bằng danh dự? Ông ta muốn một nhân tinh! Hãy tìm cách cho ông ta một nhân tinh, và ông ta sẽ làm bất cứ điều gì cho ông.”
Các Học giả cười ầm lên.
Lyra dõi theo câu chuyện ột cách mơ hồ: những điều Giáo sư Palmerian nói chẳng có nghĩa lý gì. Bên cạnh đó, cô không còn đủ kiên nhẫn để nghe thêm bất cứ điều gì về thuật lột da đầu và Ánh Sáng Phương Bắc cũng như thứ Bụi huyền diệu kia. Nhưng cô đã thất vọng, vì Ngài Asriel đã kết thúc việc trình diễn các thành tích và các bức ảnh của mình, câu chuyện nhanh chóng chuyển sang hướng tranh cãi xem có nên đưa cho ông thêm tiền để thực hiện một chuyến thám hiểm khác không. Những lời tranh cãi qua lại, Lyra cảm thấy mí mắt nặng trĩu. Cô nhanh chóng rơi vào giấc ngủ, còn Pantalaimon cuộn người quanh cổ cô trong hình dáng yêu thích khi ngủ của nó, một chú chồn ecmin.
Cô choàng tỉnh dậy khi ai đó lay vai.
“Khẽ thôi,” chú cô nói. Tủ quần áo đã mở, và ông đang quỳ gối ở đó, quay lưng lại ánh đèn. “Họ đi hết rồi, nhưđây vẫn có vài người giúp việc. Quay về phòng ngủ của mày ngay, và hãy cẩn thận không được hé răng một lời nào về chuyện này đấy.”
“Họ có biểu quyết cấp tiền cho chú không?” Cô hỏi với giọng ngái ngủ.
“Có.”
“Bụi là gì vậy?” Cô hỏi, cố gắng đứng lên sau khi đã ngồi quá lâu ở tư thế gò bó.
“Không phải việc của mày.”
“Nó thực sự liên quan đến cháu đấy,” cô nói “nếu chú muốn cháu làm một gián điệp trong tủ quần áo, chú phải nói cho cháu biết cháu đang thăm dò chuyện gì. Cháu xem cái đầu của người đàn ông được không?”
Bộ lông chồn ecmin trắng của Pantalaimon dựng đứng lên. Cô cảm thấy nó gãi vào cổ mình. Ngài Asriel cười nhưng nụ cười tắt rất nhanh.
“Đừng có làm ta bực mình,” ông nói, và bắt đầu đóng gói các bản dương kính vào thùng đựng mẫu vật. “Mày có theo dõi ông Hiệu trưởng đấy chứ?”
“Có ạ, ông ta tìm bình rượu trước khi làm bất cứ điều gì.”
“Tốt, nhưng ta đã làm ông ta đau đớn rồi. Hãy làm như mày được bảo và đi ngủ đi.”
“Nhưng chú sắp đi đâu vậy?”
“Trờ li miền Bắc. Ta sẽ đi trong mười phút nữa.”
“Cháu đi cùng chú được không?”
Ông dừng tay và nhìn cô như thể đây là lần đầu tiên hai người gặp nhau. Con nhân tinh của ông ta quay sang nhìn cô với đôi mắt báo màu xanh lá cây rất to, và dưới cái nhìn chăm chú của cả hai, Lyra đỏ bừng mặt. Nhưng cô cũng nhìn lại dữ dội.
“Chỗ của mày là ở đây,” cuối cùng chú cô lên tiếng.
“Nhưng tại sao? Tại sao chỗ của cháu lại ở đây? Tại sao cháu không thể lên phương Bắc cùng chú? Cháu muốn được nhìn thấy Ánh Sáng Phương Bắc, những con gấu, băng tuyết và tất cả mọi thứ. Cháu muốn biết về Bụi. Và cả thành phố trong không khí nữa. Đó có phải là một thế giới khác không?”
“Mày sẽ không được đi cùng ta, nhóc con ạ. Hãy gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu đi. Thời gian này đang rất nguy hiểm. Hãy làm như mày được bảo và đi ngủ đi, nếu mày là một cô bé ngoan, ta sẽ mang về cho chiếc răng của con mooc có hình khắc của người Eskimo. Đừng có lèo nhèo thêm nữa nếu không ta sẽ nổi giận đấy.”
Con nhân tinh của ông gầm lên một tiếng hung dữ khiến Lyra chợt nhận thấy điều gì có thể xảy ra khi răng nó ngoạm vào cổ họng mình.
Lyra mím môi và nhăn mặt nhìn chú. Ông đang bơm khí khỏi chiếc bình chân không, và không để ý gì đến cô, như thể đã hoàn toàn quên mất có cô ở đây vậy. Không nói một lời nào, nhưng vừa mím môi vừa nhăn mặt, cô bé cùng con nhân tình của mình đi ra và lên giường đi ngủ.
Ông Hiệu trưởng và ông Quản lý thư viện là bạn cũ và cũng là đồng minh, đã thành thói quen, sau mỗi bận gay cấn, họại làm một ly rượu brantwin và an ủi lẫn nhau. Vì thế sau khi thấy Ngài Asriel đã đi khỏi, họ đi dạo tại nhà ông Hiệu trưởng và ngồi trong phòng làm việc, buông rèm và đốt lò sưởi, các con nhân tinh của họ ngồi ở những vị trí quen thuộc, trên đầu gối hay vai chủ, và họ bắt đầu suy nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra.
“Ông có thực sự tin rằng hắn biết trong rượu có độc không? Người quản lý thư viện hỏi.
“Tất nhiên là hắn đã biết, tôi không biết vì sao, nhưng hắn đã biết, và chính hắn đã làm đổ bình rượu. Tất nhiên là hắn đã làm việc đó rồi”.
“Tha lỗi cho tôi, ông Hiệu trưởng, nhưng tôi không thể yên tâm được. Tôi không bao giờ vui vẻ với ý nghĩ…”
“Về việc đầu độc hắn?”
“Đúng, về việc giết người.”
“Khó có ai vui vẻ được với ý nghĩ đó, Charles. Vấn đề là như vậy có tồi tệ hơn là kết quả nếu không làm hay không. Được rồi, Chúa đã can thiệp, và làm chuyện đó không xảy ra. Tôi chỉ tiếc là đã làm ông cảm thấy nặng nề khi biết chuyện này.“
“Không, không.” Ông Quản lý thư viện phản đối. “Nhưng tôi ước gì ông đã nghĩ kỹ hơn với tôi.”
Ông Hiệu trưởng im lặng một lúc trước khi lên tiếng, “Đúng vậy, có lẽ đáng ra tôi nên làm thế. Chiếc Chân-kế đã cảnh báo hậu quả kinh hoàng nếu Ngài Asriel theo đuổi nghiên cứu này. Không kể đến những việc khác, đứa trẻ sẽ bị lôi kéo vào, và tôi muốn giữ an toàn cho nó càng lâu càng tốt.”
“Liệu công việc của Ngài Asriel có gì liên quan đến luật lệ trong Kỷ luật của tòa tôn giáo không? Cá người ta gọi là Ủy ban tôn giáo ấy?”
“Ngài Asriel - không, không. Hoàn toàn ngược lại. Ủy ban tôn giáo cũng hoàn toàn không thể bác lại được Tòa án tôn giáo. Đó là một luật lệ mang tính áp đặt cá nhân, nó được điều hành bởi người nào đó không thích ngài Asriel. Ở giữa hai bọn họ, tôi thấy run rẩy, Charles ạ.”
Đến lượt ông Quản lý thư viện im lặng. Kể từ khi giáo trưởng John Calvin chuyển sang ghế giáo hoàng ở Geneva và thiếtập Kỷ luật của Tòa án tôn giáo, quyền lực của Giáo hội trở nên tuyệt đối trong tất cả các mặt của cuộc sống. Bản thân chức giáo hoàng đã bị bãi bỏ sau khi Calvin qua đời, và tam giác được thiết lập bởi tòa án, học viện và hội đồng, thường được gọi là Hội tam điểm và lớn dần lên. Những tổ chức này không phải lúc nào cũng thống nhất, đôi khi sự kình địổi lên giữa chúng. Phần lớn thế kỷ trước, tổ chức quyền lực nhất là Học viện của các Giám mục, nhưng trong những năm gần đây, Kỷ luật cảu Tòa án tôn giáo đã thế chỗ và là tổ chức có ảnh hưởng và đáng sợ nhất trong số các tổ chức Giáo hội
Nhưng luôn có hội cho những tổ chức độc lập lớn mạnh dưới sự của một thành phần khác trong Hội tam điểm; Ủy ban tôn giáo, tổ chức ông Quản lý thư viện nói đến, là một trong số đó. Ông Quản lý thư viện không biết nhiều về tổ chức này, nhưng ông không thích sự sợ hãi mình vừa nghe thấy, và ông hoàn toàn hiểu sự lo lắng của ông Hiệu trưởng
“Giáo sư Palmerian có nhắc đến một cái tên, ông nói sau khoảng một phút, “Barnard—Stokes phải không? Chức năng của Barnard - Stokes là gì vậy?”
“À, đó không thuộc lĩnh vực của chúng ta, Charles ạ. Theo tôi hiểu, Giáo hội linh thiêng dạy rằng tồn tại hai thế giới: thế giới của tất cả những thứ chúng ta có thể nhìn, nghe, sờ mó, và một thế giới khác, thế giới tinh thần của thiên đường và địa ngục. Barnard và Stokes là hai - tôi phải nói thể nào nhỉ - nhà thần học phản bội đã mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của rất nhiu thế giới khác như thế giới này, không phải thiên đường hay địa ngục mà là thế giới vật chất và đầy tội lỗi. Những thế giới đó ở đây, rất gần, nhưng không nhìn thấy và không đến gần được. Giáo hội thiêng liêng tất nhiên không đồng ý với ý tưởng dị giáo xấu xa này rồi, và Barnard cùng Stokes đã bị buộc phải im lặng.”
“Nhưng không may cho hội Tam đim, dường như có những tranh cãi về toán học khá thuyết phục cho lý thuyết về thế giới này. Bản thân tôi chưa bao giờ ủng hộ cả, nhưng Học giả Cassinton nói với tôi chúng rất thuyết phục”
“Bây giờ Ngài Asriel đã chụp một bức ảnh về một trong những thế giới đó.” Ông Quản lý thư viện nói “Và chúng ta đã cấp tiền cho ông ấy đi đến thế giới đó. Tôi biết vậy.”
“Đúng vậy, có vẻ với Ủy ban tôn giáo, và những người bảo hộ quyền lực của nó nữa, Học viện Jordan là một lò ủng hộ dị giáo. Giữa Ủy ban tôn giáo và kỷ luật của Tòa án tôn giáo, tôi cần phải cân bằng, Charles ạ. Trong lúc đó, đứa trẻ vẫn tiếp tục lớn lên. Họ vẫn chưa quên con bé. Sớm muộn rồi nó cũng sẽ quan tâm đến điều đó, nó sẽ bị kéo vào dù tôi có muốn bảo vệ nó hay không.”
“Nhưng làm sao ông biết điều đó, vì Chúa? Lại chiếc Chân-kế cho biết phải không?”
“Đúng vậy. Lyra có một phần trong tất cả những chuyện này, và là phần chủ yếu. Điều mỉa mai là ở chỗ nó phải làm tất cả mọi chuyện mà không nhận ra mình đang làm gì. Nó có thể được giúp đỡ, tuy nhiên, nếu kế hoạch rượu Tokey của tôi thành công, nó đã có thể an toàn thêm chút nữa. Tôi muốn tránh cho nó một cuộc hành trình lên phương Bắc. Tôi ước gì có thể giải thích cho nó về tất cả những chuyện vừa rồi…”
“Nó sẽ chẳng nghe đâu.” Ông Quản lý thư viện nói. “Tôi biết quá rõ tính tình con bé. Cứ thử nói với nó điều gì quan trọng, nó sẽ nghe tai nọ qua tai kia trong năm phút rồi bắt đầu nhấp nhổm không yên. Nếu kiểm tra nó vào lần sau thì đảm bảo nó đã quên sạch rồi. “
“Nếu tôi nói với nó về Bụi thì sao? Ông có nghĩ nó sẽ chăm chú lắng nghe không?”
Ông Quản lý thư viện làm một tiếng động tỏ ý không tin.
“Sao nó lại phải thế chứ?” ông nói. “Tại sao một điều bí ẩn mang tính lý thuyết ở một nơi xa lắc lơ lại thu hút một đứa trẻ khỏe mạnh vô tư chứ?”
“Vì đó là điều nó sẽ phải trải qua. Một phần trong đó có cả một cuộc phản bội nặng nề.”
“Ai sẽ phản bội con bé?”
“Không, không, đó là điều đáng buồn nhất: nó sẽ là kẻ phản bội, và đó là một việc thật tồi tệ. Nó không được biết điều đó, tất nhiên, nhưng không có lý do gì nó lại không biết về Bụi. Có thể ông đã sai, Charles ạ, có thể nó sẽ thích thú lắng nghe chuyện này, nếu chúng ta giải thích cho nó một cách đơn giản. Và như thế có thể giúp ích cho nó sau này. Nhờ vậy sẽ giúp tôi bớt lo lắng hơn về con bé.”
“Trách nhiệm của người già,” ông Quản lý thư viện nói, “là lo lắng cho con trẻ, Và trách nhiệm của con trẻ là coi thường sự lo lắng của người già.”
Họ ngồi thêm một lúc nữa rồi chia tay, vì đã muộn, vì họ đều đã già và đều đang lo lắng.