Số lần đọc/download: 1362 / 14
Cập nhật: 2016-07-02 00:21:20 +0700
Chương 3
C
hủ nhật. NGÀY 30 THÁNG 6
Biên giới qua cửa khẩu núi Chief sang Mỹ không dễ dàng như Randy Mucklowe mong muốn. Sáng nay, lúc 8 giờ 10 phút, có hai nhân viên Mỹ mặc đồng phục đã kiểm tra rất kỹ chiếc xe tải Chevy nhỏ màu kem của anh. Mọi việc diễn ra bình thường khi họ tiến hành thẩm vấn, một thủ tục đã quá quen thuộc với Randy vì anh từng qua lại biên giới nhiều lần và nó thường chỉ mất vài phút. Cửa khẩu núi Chief là cửa khẩu nằm trên một trong những tuyến biên giới dài nhất thế giới mà không có lực lượng quốc phòng canh giữ. Nó nằm trên tuyến đường xe buýt du lịch mùa hè nối từ hồ waterton của Ganada đến khu Công viên Hòa bình Quốc tế Glacier của Mỹ. Chạy dọc hai bên con đường dài trải nhựa là cánh rừng thông và linh sam bạt ngàn. Trạm kiểm soát biên giới của hai nước Mỹ và Canada được bao quanh bởi các mỏm đá nhô ra từ dãy núi Rocky. Nhân viên bảo vệ người Mỹ yêu cầu Randy xuất trình giấy phép lái xe khi anh đưa xe vào kiểm tra. Bằng một thứ giọng khô khan đơn điệu, anh ta hỏi về mục đích chuyến đi của Randy. Randy trình bày mình đang hoàn thiện những bước cuối cùng để chuẩn bị cho cuộc khai quật trên vùng đất của người Anh - điêng. Hố khai quật nằm ở vùng đá pha sét phía tây bắc của núi Chief. Ngay lập tức họ yêu cầu Randy xuất trình các loại giấy tờ theo qui định.
o O o
"Việc này đã được Hội đồng cấp cao bố trí và cho phép, thưa ông," Randy giải thích.
Nhưng người lính gác lưỡng lự. Anh ta cười xã giao rồi đi về phía một người lính khác đang đứng trong trụ sở. Người kia bước ra ngoài, hai người thì thầm bàn bạc ngắn gọn với nhau, xem qua giấy tờ của Randy và tiếp tục kiểm tra chiếc xe tải.
"Chúng tôi muốn xem dụng cụ khai quật của ông, thưa giáo sư," một người lính giải thích. "Luật của người Anh - điêng chỉ cho phép một số loại xẻng và cuốc được sử dụng trên phần đất của họ."
Randy thở dài rồi buộc phải đồng ý. Anh miễn cưỡng tháo chiếc lốp dự phòng phía sau xe xuống và giúp hai người lính mở tấm vải bạt đựng mấy cái xẻng, sàng và lưới thép. Hai người vừa bàn bạc với nhau về tờ giấy có các con số và biểu đồ, vừa nhìn kỹ tấm lưới rồi nhấc xẻng và sàng lên để xem xét. Randy biết luật của Liên bang buộc họ phải kiểm tra tất cả những người Canada nhập cảnh vào Mỹ để làm việc trên vùng đất của người Anh - điêng. Biết vậy nhưng anh vẫn thở dài. Điều này chắc chắn sẽ gây phiền hà cho những kế hoạch mới của anh. Nhưng bây giờ phải gạt mối lo ấy sang một bên đã.
"Cảm ơn ông," một người lính nói. "Chúng tôi cần kiểm tra trên máy tinh. Nó không mất nhiều thời gian đâu."
Randy bắt đầu chất lại đồ lên xe.
"Chào buổi sáng, ngài giáo sư!" Một giọng nói vang lên từ phía sau.
Randy ngoái lại nhìn, một người phụ nữ tóc vàng cao gầy đang sải bước tiến lại phía anh. Cô ta mặc áo sơ-mi màu nâu, một chiếc kẹp hình lá cây gỗ thích màu đỏ sáng rực nơi ve áo. Chiếc mũ trên đầu cho thấy cô thuộc lực lượng cảnh sát bảo vệ biên giới Canada. Cô đi ra từ trạm kiểm soát biên giới bên Canada.
"Chào Margie!"
"Những người đàn ông ở đây đang gây khó dễ cho anh à?"
"Ồ, cô biết rồi đấy. Cô thế nào?"
"Tôi vẫn ổn. Hè này anh lại đi khai quật một điểm mới à?"
"Vâng. Một điểm mới ở núi Chief. Một chuyến khai quật truy tìm những điều thần bí. Chắc phải mất một tuần. Tôi hy vọng việc đi lại không mất nhiều thời gian. Tôi đã mời ba sinh viên cùng làm việc với mình."
"Anh đang tìm kiếm cái gì?"
"Sọ người, đồ tùy táng, và cúng tế. Các bộ tộc đã sinh sống ở đây hơn ba trăm năm qua. Viện bảo tàng Browning rất hứng thú với các Cổ vật đó nếu chúng tôi tìm được. Chúng tôi luôn muốn được khai quật tại núi Chief, nhưng giới cầm quyền tại Browning chưa cho phép."
"Trông anh rất phong độ đấy, Randy ạ. Anh và Connie chắc vẫn ổn chứ?"
Randy ngập ngừng rồi quyết định không nói ra sự thực. Margie không cần phải biết về những gì xảy ra giữa anh và Connie, về vụ ly dị và về...
"Chúng tôi vẫn ổn. Sao dạo này cửa khẩu kiểm tra chặt chẽ thế? Trước đây tôi thấy đơn giản thôi mà."
"Là do bọn buôn thuốc phiện và buôn lậu đồ cổ đấy. Mùa thu năm ngoái vừa xảy ra một vụ ăn trộm mặt nạ của người Anh - điêng ở Missoula. Nhiều khả năng cổ vật ấy vẫn còn trôi nổi ở trong nước. Chúng tôi đã tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt tại các cửa khẩu dọc biên giới, nhưng vẫn chưa tìm thấy chúng. Có thông tin cho biết, chúng sẽ được vận chuyển qua khu vực này hoặc xa hơn về phía đông. Nhưng đợt này chẳng có mấy xe cộ qua đây, ngoại trừ những chiếc xe du lịch chuyên dụng và xe buýt có trang bị radio làm nhiễu âm từ Glacier đi qua."
"Cô sẽ thấy tôi qua lại đây trong vài ngày tới. Cô thường làm ca nào vậy?"
"Tôi thường làm ca tối. Nhưng sáng nay sếp yêu cầu tôi làm thêm vì lượng phương tiện lưu thông qua đây có thể sẽ tăng do đang là kỳ nghỉ cuối tuần."
"Cô có cần tôi đưa trước danh sách các sinh viên sẽ đi cùng vào lần sau không? Tôi có một bản ở đây này."
Randy lấy chiếc ca-táp từ trong xe và rút ra một tờ giấy có tên ba sinh viên: Justiri Moore, Cara Simonds và David Home. Những giấy tờ khác bao gồm hộ chiếu, thẻ sinh viên của họ và giấy phép khai quật khảo cổ.
'Tôi nhận nó bây giờ cũng được, thưa giáo sư, nhưng sẽ không có ngoại lệ đâu nhé. Chúng tôi vẫn phải kiểm tra khi đoàn của anh ra vào cửa khẩu. Khi chúng tôi đã biết rõ anh là ai và những việc anh đang làm, anh sẽ được về nước dễ dàng."
"Cảm ơn Margie. Giờ tôi phải tiếp tục lên đường thôi vì một tiếng nữa tôi có hẹn với một người đến từ Browning tên là Sam Heavy Hand, rồi lại phải trở về trường để hoàn thành mấy việc nữa."
Margie mỉm cười, nhận các giấy tờ từ Randy và trở lại trạm gác bên Canada. Randy đóng ca-táp lại rồi cất vào trong xe. Đúng lúc ấy hai người lính Mỹ xuất hiện, họ đưa cho Randy giấy phép và bảo anh được tự do đi qua cửa khẩu.
"Cảm ơn các ông," Randy nói. Anh biết rằng tỏ ra lịch sự và nhún nhường với những người đàn ông này sẽ khiến họ tin tưởng mình hơn.
Randy vừa nhanh chóng buộc lại dụng cụ gọn gàng vừa suy nghĩ về những gì anh sẽ phải nói với Sam. Anh sẽ kể lại những chuyện xảy ra tại cửa khẩu để Sam hiểu được các khó khăn mà họ đang vấp phải. Randy muốn Sam tin tưởng mình, nhất là lúc này, khi anh đang có những kế hoạch mà Sam không hề biết.
Đến 8 giờ 30 phút, Randy tiếp tục lên đường. Anh lái xe từ phía nam đến xứ Babb thuộc Montana. Mệt mỏi rã rời nhưng đầu óc anh cứ lởn vởn về sự việc vừa xảy ra tại biên giới và câu chuyện mất trộm mặt nạ của người Anh - điêng mà Margie vừa kể. Anh và Sam đã đúng, nằm im giấu mình hàng năm trời quả nhiên là một ý kiến hay. Nhưng Randy vẫn cảm thấy lo lắng. Nếu lính gác biên giới Canada vẫn thường xuyên kiểm tra kỹ lưỡng mỗi khi anh trở về khu hồ Waterton sau một ngày đào bới thì sao? Trong kế hoạch, anh đã không tính đến tình huống này.
Lái xe đi trong ánh nắng đầu ngày dịu nhẹ, Randy cố nghĩ về những điều tốt đẹp. Anh là một giáo sư khảo cổ học, hoạt động trong lĩnh vực này đã được mười tám năm. Giới chuyên môn đánh giá rất cao về khả năng của anh. Được khai quật các vùng đất ở chân đồi Porcupine và những vùng đồi khác gần dãy núi Rockky là niềm vui, cũng là đam mê của Randy. Một năm trước, anh đã đăng bài báo thứ mười lăm của mình về vùng đất Kootenay thời tiền sử. Trước đó, tên tuổi Randy cũng đã nổi như cồn khi anh tiến hành khai quật bãi nhốt trâu và khu cắm lều của người Blackfoot, đồng thời giải mã được bí ẩn của những vòng đá Ti-pi ("Tipi ring" là những vòng đá được xếp bên ngoài những chiếc lều da hình nón của thọ dân châu Mĩ. Vòng đá típi cổ nhất được tìm thấy có tới 5000 năm tuổi). Anh đã sở hữu những đầu mũi tên bằng đá vỏ chai (Đá vỏ chai: tên khoa học là đá opxidian, là một loại đá có kiến trúc thuỷ tinh, đưọc hình thành khi dung nham núi lửa bị làm nguội quá nhanh) và những bùa hộ mệnh quý giá, không những thế, Randy còn là một trong số ít người trong giới định vị được con đường Flathead Pàss huyền thoại - con đường mòn được tạo ra bởi những thổ dân từ hàng ngàn năm trước. Giờ đây, lái xe trên con đường trải nhựa lấp lánh ánh nắng, Randy tự hỏi liệu danh tiếng của mình có giá trị gì chăng, tại sao lại đem cả sự nghiệp của đời mình đặt cược vào một việc quá ư mạo hiểm? Tự dẫn mình đến Montana để bàn công chuyện ở một nơi tù mù như xứ Babb? Điều đó chẳng khác gì một dãy nhà xiêu vẹo nằm cạnh đường cao tốc, chưa biết lúc nào sẽ đổ sụp. Thậm chí, ngay cả khi hình ảnh Sheree Lynn ùa về trong tâm trí, Randy cũng không thấy lòng thanh thản. Cô ấy rất yêu và tôn trọng anh, nhưng Randy luôn nhắc nhở mình phải cảnh giác. Không bao giờ được nói với đàn bà mọi thứ - đó là nguyên tắc. Sheree không bao giờ nghĩ đến kế hoạch mà anh đang được thực hiện. Liệu cô có đáng tin tưởng không? Trong hai mươi bốn giờ qua Sheree đã làm rất tốt, nhưng tại sao cô ấy lại ôm gã thanh tra kiêu ngạo đó? Chắc chắn Sheree không thể gạt mình được. Tên thám tử chết tiệt này nghi ngờ cô ấy vì chểnh mảng mà thằng bé kia phải chết. Hãy thả lỏng, thả lỏng đi nào. Randy cảm thấy bực bội khi máu ghen nổi lên. Nếu quá xúc động, Sheree Lynn có thể sẽ làm hỏng kế hoạch. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, mình và cô ấy sẽ nhanh chóng rời khỏi cái Ngôi nhà của quỷ Sa tăng hôi hám đó. Randy cười tự mãn. Anh biết mình đang trên bờ vực thẳm, nhưng chẳng bao lâu nữa, sau vụ này, mối lo tiền bạc chắc chắn sẽ tiêu tan. Vậy còn Darren Riegert? Hình ảnh xác chết lạnh ngắt treo lơ lửng trong tầng hầm tối tăm bẩn thỉu cứ chập chờn trong đầu Randy. Anh cố gạt nó đi. "Cho nó xuống địa ngục luôn đi," anh tự nhủ.
Randy tiếp tục cho xe chạy. Trên những, đồng cỏ hoang chạy dọc theo con đường trải nhựa, thỉnh thoảng từng bầy chim sáo và họa mi đỏ bay vụt lên rồi lại nhẹ nhàng sà xuống đậu trên các lùm cây liễu lá hình trái tim. Mấy con chuột đồng lao như tên bắn qua đường chẳng may bị xe của Randy cán chết. Sam Heavy Hand chắc sẽ nói với anh rằng chúng chết là một điều tốt, bởi lũ diều hâu sẽ có thức ăn cho những đứa con của chúng.
Rẽ xuống phía nam của con đường, Randy chợt có cảm giác lạnh gai người, giống như điềm báo của một sự chết chóc. Cuối cùng Randy cũng nhìn thấy xứ Babb hiện ra trước mặt, anh cho xe vào bãi đỗ, tắt máy và khóa cửa xe lại. Không khí ấm áp, mùi nhựa thông thoang thoảng quanh Randy khi anh bước vào quán rượu Horseshoe, lúc đó đã gần 9 giờ kém 5 phút. Anh gọi một ly Coor Light và kéo ghế ngồi xuống, uống một hơi thứ nước mát lạnh, anh phân vân có nên gọi thêm một bao thuốc lá Malboro không. Sam Heavy Hand vẫn đến muộn như thường lệ. Liệu anh ta có mang theo những thứ đó không, hay họ sẽ lại cãi nhau một trận như lần trước? Trên bờ vực thẳm. Chẳng còn nơi nào để đi, chẳng thể làm được gì ngoài một cuộc khai quật với sinh viên, và nếu anh đi nước cờ đúng thì... có lẽ... Randy chỉ nghĩ được tới đó. Anh chợt nhớ đến lời bà ngoại thường nói: "Đừng cố viết sẵn tiểu sử đời cháu, hãy để nó tự diễn ra. Và khi nó xảy ra rồi thì cháu hãy thay đổi nó cho phù hợp." Randy đã viết lại cuộc đời mình không chỉ một lần. Anh đã mất vợ, mất nhà. Anh còn bị bắt vì "ghi nhầm mục" cổ vật trong lần khai quật ở sông Belly hai năm trước. Vụ đó đã đặt dấu chấm hết cho mối quan hệ của anh với viện bảo tàng Glenbow nổi tiếng ở Calgary, cái nơi mà tên tuổi anh từng được khắc lên đĩa bạch kim. Randy là người tận tuy với công việc, nhưng anh cũng mạo hiểm đánh cược với nó không ít lần. Cuộc đời đã mang lại cho Randy kha khá kẻ thù. Nhưng anh chắc chắn là mình không bao giờ mong muốn phải trả nợ ngân hàng trong vòng hai mươi năm tới và tranh cãi suốt đời với người vợ cũ.
Randy ngả người trên chiếc ghế và chợt nhận ra Sam Heavy Hand đang tiến lại phía mình qua làn khói thuốc mù mịt. Tham lam và nóng nảy là nét tính cách đặc trưng của Sam. Gã quen với Randy từ nhiều năm nay. Trước đây, Randy rất ngưỡng mộ tình cảm của Sam dành cho thế giới bên ngoài, gã tin vào những thành viên của bộ tộc mình và vào quá khứ huy hoàng đã mất của họ. Nhưng từ khi Sam đến Montana làm thuê cho bà chị Rita, cuộc sống đã làm gã thay đổi hoàn toàn. Sam nghiện rượu, trộm cắp và là một con bạc khát nước. Tất cả những gì gã muốn là tiền. Khi đã có tiền, gã chỉ quan tâm đến những khẩu súng trường, đến chiếc xe bán tải và tới Las Vegas đánh bạc.
"Anh sẵn sàng chưa?"
Giọng Sam khàn đục. Gã đội một chiếc mũ cao bồi mới, mặc bộ đồ jean hiệu Lévis. Randy đứng dậy trả tiền đồ uống, gật đầu chào người phục vụ rồi theo Sam ra ngoài. Chiếc xe Ford màu xanh của Sam đang đỗ trên đường, một cái chăn nhỏ vứt trên chỗ nằm trong cabin, con chó săn già tên Crow của gã đang ngủ trên đó. Sam mở cửa xe và lôi ra một va-li lớn bằng vải. Gã đóng cửa lại rồi ra hiệu cho Randy đi theo. Randy đợi một chút trưởc khi bám theo phía sau, đề phòng trường hợp có bất kỳ ai - một đứa trẻ, một cô gái làm tiền hoặc một sĩ quan cảnh sát có thể theo dõi họ từ xa.
Randy bước một mình, nhẩm lại những lời định nói với Sam trong óc. Anh nheo mắt dưới ánh nắng mặt trời khi theo Sam leo lên ngọn đồi trồng toàn cây dương và cây bu-lô. Rồi họ rẽ xuống chỗ nhánh sông chảy ngang qua đám đá cuội xanh lấp lánh.
Ngồi dưới tán cây bu-lô, Sam lấy ra một chiếc chìa khoá từ túi áo bò và cẩn thận mở va-li. Randy cúi xuống quan sát một cách hồi hộp.
Nắp va-li bật mở, bên trong lấp lánh những đôi mắt bằng vàng và đôi môi bằng ngọc quý. Mỗi chiếc mặt nạ chỉ to bằng bàn tay người lớn. Chúng dẹt như chiếc đĩa với những chi tiết được chạm nổi rất đặc trưng. Dường như chúng được làm ra để phục vụ những nghi lễ cúng tế của người Anh - điêng. Randy cầm một chiếc lên ngắm nghía say sưa. Nó nhẹ như tờ giấy và vẫn đẹp lung linh như lần đầu anh nhìn thấy vào tháng mười năm ngoái.
"Anh hài lòng chứ? Tôi sẽ mang hàng đến núi Chief chỗ anh khai quật đúng như chúng ta đã thoả thuận. Hẹn gặp anh ở đó sau bữa trưa. Sau đó, ngay tối nay chúng ta sẽ đưa hàng qua biên giới bằng xe của anh. Anh và những sinh viên sẽ cùng hộ tống chúng qua biên giới, đó là một vỏ bọc ngụy trang rất tốt, phải không? Ai dám nghi ngờ một giáo sư danh tiếng nhỉ? Sẽ không ai kiểm tra xe anh đâu. Xe tôi sẽ đi sau, anh đồng ý chứ?"
“Sai!",Tôi vừa đi qua cửa khẩu sáng nay, lính gác Mỹ kiểm tra giấy tờ và xe rất kỹ, không bỏ sót một chi tiết nào. Họ còn yêu cầu tôi phải dỡ đồ ra để kiểm tra nữa."
"Vậy là tốt rồi. Họ đã kiểm tra một lần. Vậy thì còn gì đáng lo nữa?"
Randy thở dài và cố gắng kiên nhẫn.
"Chúng ta nên đợi một vài ngày nữa để họ quen với sự đi lại của tôi."
"Không, chết tiệt. Cách đó chẳng giải quyết được vấn đề gì, có khác gì bây giờ đâu. Cửa khẩu núi Chief khá thông thoáng: Luôn luôn là như thế. Anh muốn hoãn việc này lại, anh muốn..!",
"Tôi muốn nó trót lọt, thế thôi. Chúng ta đã thống nhất với nhau là phải cẩn thận. Chính anh đã nói phải nằm im chờ thời cơ thuận lợi. Nếu không, chúng ta đã mang chúng đi từ mùa thu năm ngoái."
"Với hàng đoàn lính gác liên bang đuổi theo ngay sau lưng chúng ta ư? Anh và thằng đối tác chết tiệt của anh đã làm chậm việc. Chính anh đã gặp hắn và hắn đã đề nghị ta cho thêm một thời gian để gom đủ tiền mặt. Thế mà cũng gọi là buôn bán à? Nó là loại buôn bán kiểu gì thế?"
"Sam, anh không biết gì cả, hãy câm miệng lại. Robert Lau là người đáng tin tưởng, hãy tin tôi."
"Tin tưởng là một từ khó khăn, Randy." Sam đứng dậy châm một điếu thuốc.
Randy không thích Sam những lúc như thế này. Cũng như hai lần trước, Sam luôn muốn thay đổi mọi thứ đã sắp đặt. Đầu tiên gã muốn hưởng phần hơn trong tỷ lệ ăn chia. Sau đó lại muốn bán số mặt nạ này cho một tên buôn đồ cổ người địa phương với giá chỉ bằng một phần ba giá mà Lau đã trả. Randy biết mình phải thay đổi kế hoạch. Tại sao phải tin tưởng Sam? Sam dụi điếu thuốc đang hút dở và ngồi xuống. Randy biết gã đã sẵn sàng đưa ra quyết định của mình.
"Tôi sẽ đi cùng anh, thậm chí ra tận bờ biển với anh để đảm bảo tôi có thể lấy đủ phần của mình."
"Cái gì?"
"Bốn mươi, sáu mươi. Sáu mươi phần trăm cho tôi vì tôi đã đánh cắp chúng. Bốn mươi phần trăm cho anh vì anh đã sắp xếp vụ mua bán này,"
"Được, và một mình tôi sẽ ra điểm hẹn để giao hàng như thỏa thuận trước đây. Chỉ một mình tôi thôi."
"Thằng Sam già này không ngu dốt đâu Randy. Cả anh và tôi đều cần tiền. Tôi muốn chắc chắn có được phần của mình."
"Không đâu, Sam." Randy nói rồi bước vào một lùm cây, đứng im lặng một lúc, hai tay chống hông.
"Nghe này," anh quay lại. "Tôi đã tin tưởng anh trong sáu tháng qua, chấp nhận để anh giữ những chiếc mặt nạ này. Bây giờ hãy để tôi đem chúng đi bán và mang tiền về. Nếu anh đi cùng thì Lau sẽ hoảng sợ và không giao dịch nữa. Lau là một thằng hay quan trọng hóa vấn đề, nó không thích bị người thứ ba giám sát."
"Kệ mẹ nó thích gì thì thích. Tôi cứ đi. Tôi có thể ngủ trong xe tại waterton và sẽ đóng vai người hướng dẫn các sinh viên của anh tiến hành khai quật. Tôi biết nơi đó, người dân bộ tộc tôi yêu mến vùng đất này và chẳng ai nghi ngờ khi thấy tôi muốn bảo vệ nó. Những chiếc mặt nạ sẽ được giấu trong ca-bin xe của anh. Vào ngày thứ bảy, chúng ta sẽ chuồn ra bờ biển trao hàng nhận tiền rồi hôn tạm biệt Lau. Sau đó chúng ta sẽ về nhà và sống cuộc đời giàu có."
"Hoặc là tôi đi một mình, hoặc là chuyện này chấm dứt ở đây, không mua bán gì nữa!"
Sam bật lên một tràng cười khô khốc.
"Đừng đùa với tôi, Randy. Anh đang khao khát chiếm sạch những vật đáng yêu bằng vàng này. Nghe đây, chúng ta sẽ cùng đi, anh gặp Lau tại hành lang một khách sạn chẳng hạn, và nói anh cần giao dịch ở một chỗ thoáng đãng hơn. Tôi sẽ theo dõi cả hai để không có việc bất trắc quái quỷ nào xảy ra. Vậy là có một cuộc mua bán tốt đẹp chứ gì?"
Randy định thuyết phục thêm lần nữa, nhưng Sam đã đứng lên đóng va-li lại.
"Tôi sẽ giữ chúng. Tôi đã lấy cắp chúng, nếu bị bắt, tôi sẽ phải vào tù. Còn anh vẫn tiếp tục sự nghiệp của mình với những bài báo về khai quật. Công bằng đấy chứ! Mà tôi đoán có khi anh còn bỏ trốn với số tiền của tôi nữa cơ."
Randy biết mình đã bị Sam dồn vào chân tường.
"Thôi được, tôi đồng ý. Nhưng anh giải thích xem ta sẽ đưa hàng qua biên giới bằng cách nào khi mà anh cứ khư khư giữ chúng?"
"Đơn giản thôi. Tôi sẽ mang chúng đến điểm khai quật ở Montana và làm như tôi đã nói."
"Được rồi. Nhưng vì Chúa anh đừng thay đổi như lần trước. Anh cứ đến nhưng một hai ngày sau hãy xuất hiện, tôi vẫn phụ trách nhóm sinh viên khai quật bình thường. Tôi không muốn xảy ra bất cứ một sự cố nào đáng tiếc chỉ vì anh say rượu hay vì anh là người Anh - điêng.".
"Đó là vùng đất của những người thổ dân, anh bạn thân mến ạ. Giờ cả hai ta đều là thổ dân rồi. Anh không nên quên điều đó."
Randy nhận thấy mặt Sam đỏ bừng vì giận dữ.
"Chúng ta hãy xem xét lại lần nữa những việc cần làm nhé"
"Được rồi. Tôi sẽ đến địa điểm khai quật. Công việc đào bới của các anh cứ tiến hành bình thường. Chúng ta đang ở trên vùng đất thiêng, vì thế không được nói tục, không hút thuốc lá, nhớ đấy! Tôi cũng chỉ uống một chút bia thôi. Trong khi anh làm việc, tôi sẽ giấu những chiếc mặt nạ trên xe bằng cách gói chúng trong túi đựng rác màu đen rồi cho vào lốp xe dự phòng. Các sinh viên sẽ nghĩ tôi là, hê hê, một người đàn ông tử tế. Cuối cùng, chúng ta sẽ lái xe đến cửa khẩu, đừng quá coi trọng bọn lính gác, chúng nhìn ngó xem xét nhưng chúng làm gì được ta nào? Một cái lốp dự phòng, có gì đâu nhỉ? Qua biên giới sang đất Canada, thoát khỏi Montana, mổ ca-bin ra, thế là chúng ta có một món hời lớn."
"Tôi thấy chưa yên tâm, Sam ạ."
"Rồi anh sẽ thấy yên tâm thôi."
o O o
Billy thức dậy lúc sáu rưỡi sáng và đi bộ cho khỏe người. Bỗng chuông điện thoại đổ từng hồi, ông vội băng qua mảnh sân đã nhú lên mấy mầm cỏ dại, bước qua hành lang mở bung cửa và nhấc ống nghe lên.
"Là tôi đây, anh bạn."
"Butch à?"
"Đúng. Tôi cần gặp anh ngay. Tôi lái xe đến nông trang rộng lớn của anh để tán gẫu chút nhé!"
"Nghe có vẻ được đấy. Tôi cảm giác có điều gì đó đã xảy ra."
"Đúng, mấy việc chết tiệt đang làm tôi rất điên đầu."
"Khi nào anh đến? Tôi sẽ làm bánh quế đãi anh."
"Tôi sẽ phóng hết tốc độ cho phép."
Billy đang pha cà phê thì thấy xe tuần tra của Butch đến. Tiếng chim sáo hót vang ngoài khoảng sân rộng. Sau bữa điểm tâm, khi mặt trời kéo những vệt nắng dài trên những mô đất trước nhà, Butch trao đổi với Billy toàn bộ câu chuyện đã xảy ra.
"Chúng tôi chưa xác định thủ phạm là ai. Lợi dụng đêm tối, kẻ gian nhảy qua cửa sổ đột nhập vào phòng ngủ của cô Sheree Lynn, lục lọi và lấy đi một số đồ đạc. Tôi nghi ngờ gã "tóc đuôi ngựa" Woody. Hắn là một kẻ sẵn sàng gây chuyện và không mấy lịch sự khi nói về Sheree Lynn."
"Thượng sỹ Royce không nhận diện được hắn à?"
"Hắn trùm khăn che kín mặt. Còn Royce thì bị thâm tím một bên mắt."
"Sao vậy?"
"Anh ta bị một cái đĩa ném vào người khi đang rượt đuổi tên trộm."
"Có ai nhìn thấy một người đàn ông trùm khăn chạy ra phố không?"
"Đến bây giờ chưa có một thông tin gì cả."
Hai người ra khỏi nhà và lên xe tuần tra. Họ cho xe chạy về hướng Lethbridge. Trên đường đi, Butch rút một chiếc điện thoại trong túi áo đưa cho Billy. "Đây là món quà tòa thị chính dành riêng cho anh."
Billy cầm chiếc điện thoại và gọi thử cho Dodd: "Chào buổi sáng, Dodd. Tôi muốn anh qua nhà Randy Mucklowe, đón cả anh ta và cô Bird rồi cho họ biết tin về vụ đột nhập. Tôi cần biết cô ấy mất những gì. Đó có thể là đầu mối giúp cho việc điều tra. Sau đó anh nghiên cứu kỹ hồ sơ về Keeler nhé. Ừ, Woody. À này, hôm qua hắn có khai báo gì không? Hãy tìm kiếm tên trộm, tìm kiếm những dữ liệu liên quan đến bọn người sống lang thang và kiểm tra hồ sơ của những người từng bị bắt giữ trong vòng mười năm trở lại đây nữa."
Butch vòng xe vào làn đường tốc độ cao chạy dọc theo thung lũng sông Belly. Sau hai mươi lăm phút, họ đến địa phận thành phố Lethbridge. Xe chạy qua con sông Oldman, qua công viên Indian Batrle nơi những con chim diệc đang bay lượn trên những ngọn dương, rồi dừng lại trước Ngôi nhà của quỷ Sa tăng trên đường Ashmead. Dodd và Sheree đang đứng đợi trước bậc thềm.
"Chào buổi sáng, cô Bird." Billy nói rồi tiến tới bắt tay Sheree Lynn.
"Sáng nay Randy đã tới Montana, thưa ông thanh tra. Anh ấy đang bắt đầu kế hoạch khai quật." Nét mặt Sheree Lynn có vẻ buồn rầu.
"Chúng tôi xin lỗi vì phải mời cô về đây vào một ngày chủ nhật đẹp trời như thế này," Butch nói và mở cửa chính.
"Ôi, lạy Chúa." Sheree Lynn nói và đưa tay che miệng khi nhìn thấy đồ đạc bị lục tung trong phòng ngủ của mình.
Tình huống này làm Billy hơi lung túng.
"Xin lỗi cô, chúng tôi đã cử người canh gác, thượng sỹ Royce đã luôn có mặt ở đây, nhưng rất tiếc..."
"Không vấn đề gì đâu."
"Bây giờ cô hãy bình tĩnh kiếm tra xem bị mất những gì?" Billy nói.
Cảnh sát viên Gloria Johnson đang đứng cạnh bàn trang điểm của Sheree thu thập dấu vết và dấu vân tay.
"Xin chào!", cô nói.
Chiếc giường bị kéo ra. Một cái giá nến bị vỡ nằm trên sàn nhà gần cửa sổ. Bàn chải và nước hoa bị vứt tung toé trên sàn. Một mảnh kính vỡ nằm ngay sát cửa ra vào.
"Tôi không thể nói chính xác thứ gì đã bị lấy đi," Sheree Lynn nói với Butch và bước ra gần cửa. "Có thể chỉ mất một cuốn sách hoặc một cái bàn chải."
"Đã có khách hàng nào của cô ở Trung tâm dịch vụ gia đình làm những điều tương tự như thế này chưa, cô Sheree?" Billy hỏi.
"Chưa."
"Cô có nghi ngờ ai không?"
"Ồ, tôi chỉ có thể đoán thôi. Có lẽ là mấy ông bố bà mẹ - mẹ của Cody chẳng hạn - bà ta từng nói tôi đang âm mưu đánh cắp lũ trẻ nhà họ. Ai biết bà ta sẽ làm gì?"
"Tôi vẫn chưa tìm được dấu vân tay nào, thưa ông thanh tra." John nói.
"Thế nên chúng ta chỉ có thể phỏng đoán." Billy nói thêm.
Sheree Lynn nhún vai nói: "Chẳng sao đâu thưa ông, dù sao thì người này cũng không hại ai cả." Nói rồi cô bắt đầu ôm mặt khóc.
Billy lấy khăn giấy từ trong túi đưa cho cô.
"Cảm ơn ông!", Sheree thổn thức.
Billy xuống tầng dưới kiểm tra cửa sổ phía sau, nơi kẻ trộm đã đột nhập vào ngôi nhà. Sau đó ông đi về phía những bậc thềm ngoài hành lang và quỳ xuống xem xét.
Sheree Lynn cũng đi xuống và hỏi: "Có gì ở đó không thưa ông thanh tra?"
Billy giơ tay lên cao: "Gọi Butch đến đây giúp tôi đi Sheree!".
Butch cầm trên tay chiếc túi ni-lon đã mở sẵn vội vã đi đến.
"Anh tìm thấy gì thế, Billy?"
Billy gắp sợi dây chun cao su màu đỏ cho vào trong túi rồi dùng tay vuốt miệng túi lại.
"Có lẽ phải gọi Woody đến thẩm vấn ngay trong sáng nay," Butch nói.
"Việc điều tra này sẽ mất nhiều thời gian đúng không?" Sheree Lynn lo lắng hỏi.
Billy đáp, giọng nói không giấu nổi sự thất vọng: "Tôi cho cô biết điều này: việc điều tra tiến hành chậm chừng nào thì càng khó ghép nối các sự việc lại với nhau chừng đó. Những thông tin mà chúng tôi có được sau một ngày thẩm vấn chỉ là cuộc điện thoại cô nhận được vào sáng hôm qua từ một người có thể biết được thủ phạm hay ít ra có liên quan tới cái chết của Darren Riegent. Chúng tôi vẫn đang thiếu những đầu mối và nhân chứng."
Billy vốn hiểu quá rõ rằng hiện trường là nơi lưu giữ những dấu vết trọng yếu để điều tra. Nó là chứng cứ để truy tố tội phạm, để tổng hợp các đầu mối nhằm xác định một cách lôgic về động cơ, thời gian và phương thức gây án. Billy cũng rất ít khi để lộ những tình tiết điều tra cho những người vốn đang bị tình nghi. Nhưng rồi ông nhận thấy rằng, nếu cố tình hé ra một số thông tin có thể sẽ mang lại hiệu quả nhất định cho công tác phá án - có thể là một dấu vết, một thái độ phản ứng, thậm chí là sự để lộ những cách đối phó của họ trong tương lai.
Billy để ý thấy Sheree Lynn chớp chớp mắt như thể đang phải chịu một con đau bất ngờ.
'Thưa ngài thanh tra, tôi rất mệt mỏi và không muốn dính vào mớ bòng bong này nữa. Tôi hy vọng các ông sớm kết thúc vụ án để Darren Riegert và Cody Schow có thể yên nghỉ."
"Vâng. Bây giờ, Butch và tôi sẽ đưa cô trở lại nơi ở của Randy. Khi nào cần chúng tôi sẽ liên lạc với cô sau."
Họ đưa Sheree về trên chiếc xe tuần tra. Cô ngồi cạnh Billy ở ghế sau.
"Vụ giết người này nhất định phải có động cơ," ông nói. "Kẻ nào đó muốn hãm hại đứa trẻ. Cô có biết ai trong số đó không?"
"Ông đã hỏi tôi câu đó rồi, ông thanh tra!", Sheree Lynn trả lời.
"Thế Woody thì sao? Cô có biết gì về ông ta không?"
"Đó là một kẻ nát rượu. Gã từng dùng dây thừng đánh Darren. Gã thừa nhận điều đó khi Tổ chức Bảo trợ trẻ em cử tôi đến nhà gặp bà Sharon Riegert. Woody rất hay nóng giận, thích gây gổ và đánh người vô cớ. Chính quyền đã có lần nhắc nhở gã. Sharon nói với tôi gã tình nhân của bà ta rất nghèo, gã sinh ra và lớn lên trong một nông trang khô cằn gần Khu Bảo tồn Thiên nhiên Peigan. Gã chưa bao giờ tham dự những buổi họp về dịch vụ xã hội mà tôi giới thiệu."
"Cô có biết có đứa trẻ nào tầm tuổi Darren mà ghen tức hay hận thù gì với thằng bé không?"
"Ghen tức ư? Chỉ có Blayne Morton, tôi nghĩ thế."
"Thằng bé đó có cùng nhóm với Cody Schow không?"
"Không. Thậm chí là đối địch. Darren từng kể về Blayne cho tôi nghe một, hai lần. Tôi cũng chỉ nhìn thấy nó một lần, khi nó đứng trước cửa một ngôi nhà trên đường Ashmead. Blayne là một đứa trẻ khá to con và có vẻ như Darren rất sợ nó. Cả Darren và Cody đều không tra gì Blayne. Cody còn kể hai đứa từng đánh nhau một trận kịch liệt ở trường. Blayne thường bắt nạt Darren, luôn thích lấy những tấm ảnh của Darren."
"Cô chưa từng nói chuyện với Blayne?"
"Chưa, thưa ông."
"Nó cũng chưa vào ngôi nhà cô ở bao giờ?"
"Theo tôi biết thì chưa."
"Cô có nghĩ thằng bé đó biết rõ về cô không? Ý tôi là, nó có biết cô đi đâu, làm gì và số điện thoại của cô là bao nhiêu không? Tôi đang suy luận thôi. Liệu Bayne có phải là đứa trẻ gọi điện đến cho cô sáng qua không?"
"Nó có thể biết được số điện thoại của tôi, à, của chúng tôi, từ Darren. Ai mà biết được chứ?"
Họ ngồi im lặng trong xe. Billy chờ đợi Sheree Lynn có thể nói thêm nhiều điều nữa. Từ kinh nghiệm bản thân, ông biết rằng sự im lặng nhiều khi lại là một động cơ tuyệt vời khiến người ta bộc bạch. Những người hay nói chuyện rất ghét khoảng trống im lặng trong câu chuyện. Nhưng Sheree Lynn vẫn lặng lẽ, hai mắt nhìn xuống, gương mặt đầy mệt mỏi.
Butch lái xe qua bên kia con sông rồi dừng lại cạnh một khu đất có nhiều dãy nhà đang xây dựng gần khuôn viên trường đại học. Billy ghi nhớ căn hộ Randy thuê. Nó không ấn tượng lắm, ông nghĩ một giáo sư lẽ ra phải sống trong một nơi sang trọng hơn thế.
"Randy thuê nhà ở đây phải không cô Sheree?"
"Anh ấy phải trả tiền trợ cấp cho vợ sau khi ly dị, thưa ông. Randy cũng là một người giản dị và khiêm tốn."
Butch để Sheree Lynn ở lại căn hộ đó rồi cùng Billy lái xe trở về.
"Royce đã tìm được quần áo của Darren chưa?"
"Chưa. Anh ta vẫn bị đau sau vụ ném đĩa, nhưng tôi sẽ bảo anh ta tiếp tục tìm kiếm ngay."
"Càng sớm càng tốt nhé, Butch."
"Tôi đang điều hành công việc nhanh hết sức có thể, anh bạn ạ."
"Chúng ta không thể ngừng lại, dù là để thở. Tôi cho là kẻ giết người đã liều mạng đột nhập vào ngôi nhà cốt để làm lộn tung mọi thứ lên. Tôi muốn anh điều động lực lượng cảnh sát canh gác ngôi nhà 24/24 giờ. Phải cắt cử người thay thế cho Dodd và Royce nữa!"
Butch gật đầu và cho xe vào đường Balham, đỗ cách chiếc xe tuần tra ngụy trang của Dodd khoảng hai trăm mét. Ông gọi điện cho Dodd để báo cho anh ta biết rằng ông và Billy sẽ đảm nhận công việc thay anh. Billy chăm chú quan sát ngôi nhà gỗ nhỏ mà Sharon Riegert đang thuê. Phía ngoài, hàng rào xiêu vẹo như muốn đổ sụp xuống. Trong sân, cỏ dại mọc um tùm. Ngôi nhà đã xuống cấp, cần phải được sơn sửa lại.
"Anh có nghĩ Woody đang ở đây không?"
"Tôi cũng linh cảm thế, Butch ạ. Tôi đoán cả hai đang nằm trên giường và nói với nhau về chuyện hôm qua."
Dutch đưa máy để Billy gọi cho Dodd. "Dodd, anh hãy đến nhà của Cody đi. Lấy địa chỉ từ trụ sở ấy. Nói chuyện với mẹ thằng bé và cả những người xung quanh nữa, nhất là những người hay nhòm ngó chuyện người khác. Tìm hiểu xem tối hôm thứ sáu bà ta ở đâu, làm gì. À này, gặp và làm việc với cả nhân viên tư vấn ở trường học nữa nhé, tên ông ấy là Bames, hỏi xem ông ta có ấn tượng gì về cậu bé tên Blayne Morton không."
Billy tắt máy. Hai người xuống xe và tiến tới cửa trước của căn nhà gỗ nhỏ. Họ đều không mang theo vũ khí, Billy đề nghị Butch điện thoại về trụ sở cử một cảnh sát đến đề phòng tình huống xấu xảy ra. Cảnh giác không phải là thừa, nhất là với một gã như Woody. Có thể gã đang ngồi đợi họ với một khẩu súng đã nạp đạn và sẵn sàng bắn bất cứ lúc nào.
Butch gõ cửa.
"Ồ, nó mở sẵn." Butch đẩy cửa nhè nhẹ và thận trọng đứng nép sang một bên. Billy đứng đối diện với ông.
"Vào đi, các cậu bé." Một giọng nói giễu cợt vang lên.
Butch liếc nhanh vào căn phòng tối tăm sực mùi rượu và đồ rán. Woody Keeler mặc chiếc quần lửng, khoác hờ áo sơ-mi, tóc buộc ngược về phía sau, tay cầm can bia đứng đó. Ánh đèn vàng vọt chiếu sáng ngay trên đầu gã.
"Các ông đến đây làm gì?"
Butch bước vào, giơ cho Woody xem tấm phù hiệu cảnh sát. Ông nói lý do ông và Billy có mặt. Woody cười khẩy, vẻ ngạo mạn. Gã đi ra sân, buông mình xuống chiếc đi văng và ngửa mặt lên trời.
"Sếp ạ, ông muốn nói chuyện với tôi thì hãy ra đây mà nói."
Butch lắc đầu và thở dài: "Hãy đợi ở đây, Billy. Tôi sẽ giải quyết việc này."
Sharon Riegert xuất hiện ở cửa trong bộ áo choàng tắm màu hồng cũ kỹ. Tóc bà ta rối bù, mặt mũi sưng húp.
"Chuyện gì đấy?" Bà ta hỏi, giọng khô khốc.
"Chúng tôi cần nói chuyện với bà và ông Woody, bà Riegert ạ."
"Chuyện gì?"
Sharon Riegert lách người ra phòng ngoài và ngồi xuống đi văng, trên đó xếp đầy những chiếc gối sa-tanh và một con chó bông khổng lồ. Bà ta ôm lấy con chó và đặt lên ngang ngực mình, đôi mắt nó to tròn như hai quả bóng. Trông con chó chẳng có vẻ gì dễ thương cả, thậm chí còn dữ tợn là đằng khác, ông nghĩ thế.
"Bà Riegert, ông Woody đã ở đâu trong khoảng từ mười giờ đêm hôm qua đến bốn giờ sáng ngày hôm nay?"
"Làm sao tôi biết được?"
"Ông ta có ở đây với bà không?"
"Thỉnh thoảng. Thế thì sao nào? Anh ta đã gây ra cái gì à?"
"Tối qua bà ở nhà chứ, bà Sharon?"
"Tất nhiên rồi. Tôi còn ở đâu được nữa."
"Bà Sharon, chúng tôi cần bà hợp tác để làm rõ một số vấn đề có liên quan đến vụ án."
"Ông quả là một cảnh sát lịch sự. Tên ông là gì nhỉ?"
"Yamamoto. Billy Yam..."
"Ông là người Trung Quốc hay nước nào?"
"Tôi là người Nhật."
Billy quan sát bà ta. Sharon hình như đang buồn ngủ, mắt đờ đẫn. Trên tay bà ta có những vết xước như bị mèo cào. Nhìn qua cửa ra vào, Billy thấy Butch đang cúi xuống nói chuyện với Woody Keeler. Mặt Butch nhăn nhó, ông đang nói gì đó rất nhanh. Woody vẫn ngồi không nhúc nhích trên ghế như thể bị dính chặt vào đó.
"Woody đã đi ra ngoài!", Sharon nói. "Anh ta đi ra ngoài sau đó lại về đây. Lúc đó tôi rất mệt. Tôi không nhớ chính xác là mấy giờ."
"Tôi cảm thấy rất tiếc về chuyện của con trai bà, bà Sharon ạ. Tôi muốn tìm ra kẻ nào đã sát hại nó."
"Ông làm được sao? "Sharon Riegert ngước lên.
Billy đã từng nhìn thấy nhiều khuôn mặt bị tàn phá vì đau đớn và buồn thương như thế này trước đây. Chúng lúc nào cũng khắc khổ và yếu ớt. Những đôi mắt luôn nheo lại như thể sợ những luồng ánh sáng chói lòa hay một sự thật khủng khiếp nào đó có thể khiến chúng bị mù.
"Chính là cô ta. Con mụ Bird phù thủy đó. Lẽ ra con tôi không nên ở trong ngôi nhà đó."
"Tại sao cô ta phải làm hại nó, bà Sharon?"
"Làm sao tôi biết được? Cô ta đã giết nó, thế thôi. Nó có lý do gì mà phải ở trong cái tầng hầm đó chứ?"
Sharon muốn khóc nhưng đã quá kiệt sức.
"Bà có biết Cody Schow không?"
"Một thằng ngu xuẩn. Tôi không thích nó. Nó hỗn với tôi lắm. Tôi đã bảo Darren nhiều lần đừng đi chơi với cái đồ cặn bã ấy, nếu không sẽ bị ăn đòn."
"Những đứa bạn khác của Darren thì thế nào, bà Sharon?"
"Bạn nào? Tôi không biết. Chỉ có một thằng béo phì có cái máy ảnh thôi."
"Bà có nhớ tên nó không?"
"Ông nghĩ tôi ngu lắm hả? Tên nó là Blayne. Nó rất hay lang thang ở khu vực này và thường đứng ở ngoài đợi Darren. Tôi không biết nó lợi dụng con tôi hay làm gì đó. Thỉnh thoảng tôi thấy hai đứa lại cùng nhau đi đâu đó."
"Cái máy ảnh đó loại nào?"
"Máy màu đen, kiểu cũ, phía trước sẽ bật ra khi chụp. Tôi nghĩ đó là loại mà ông thường thấy ở những nơi chụp ảnh lấy ngay..."
"Máy Polaroid."
"Tôi không biết, có thể là như vậy. Tôi không thích thằng Blayne."
"Blayne có đưa bức ảnh nào cho Darren không? Bà đã bao giờ nhìn thấy những bức ảnh đó chưa?"
"Tất nhiên là tôi thấy rồi."
Sharon Riegert vươn người đứng dậy khỏi những chiếc gối sa-tanh.
"Ông đến đây."
Billy đi theo bà ta vào một căn phòng nhỏ. Tấm rèm vải tối màu che kín ô cửa sổ duy nhất. Một chiếc giường hẹp được phủ tấm khăn trải giường nhàu nát. Những bức ảnh chụp Marilyn Manson (sinh năm 1969 - là nghệ danh của nam ca sĩ nhạc rock Brian Hugh Wamer. Marilyn Manson nổi tiếng với lối trang điểm quái dị không chỉ trên sân khấu mà ngay cả cuộc sống hàng ngày) và Metallica (Ban nhạc heavy metal nổi tiếng của Mỹ được thành lập từ năm 1981. Ban nhạc đã dành được rất nhiều giải thưởng Grammy uy tín và được vinh danh trong Rock and Roll Hall of Paine với tư cách là một trong những ban nhạc rock vĩ đại nhất Thế giới.) gắn đầy trên tường bằng đinh nẹp. Sharon cầm một cuốn sổ màu đỏ trên chiếc bàn cạnh giường rồi giở ra, bàn tay loạt soạt trên giấy. Hai tấm ảnh được chụp bằng máy Polaroid được kẹp ở cuối cuốn sổ.
"Tôi tìm thấy những thứ này trong thùng rác mấy ngày trước, có lẽ phải một tuần rồi. Tôi nghĩ Darren đã đánh rơi nên đã nhặt chúng lên và cất vào vở cho nó. Ông cứ cầm mấy tấm ảnh đó đi. Giờ thì thằng bé cũng không cần đến chúng nữa rồi."
Sharon bỏ cuốn sổ xuống, tay trái bưng mặt, tay phải đưa hai bức ảnh cho Billy.
"Bà có nhớ Darren đã mặc gì vào ngày thứ sáu tuần trước không?"
"Không. Chắc là quần áo bình thường như mọi ngày thôi."
"Có phải nó mặc quần jean, áo khoác và đi giày ống không?"
"Có lẽ thế. Nó vốn thích màu đen. Tôi đoán là nó mặc áo sơ mi đen và quần jean. Sao ông lại hỏi vậy?"
"Chúng tôi vẫn đang đi tìm quần áo của thằng bé, bà Riegert ạ. Chúng có thể giúp chúng tôi tìm ra thủ phạm."
Sharon Riegert giơ tay lên, nhắm mắt lại: "Tôi không muốn nghe gì nữa." Nói rồi bà ta nhanh chóng rời khỏi phòng.
Billy xem xét hai tấm ảnh: một bức chụp hộp quà sô-cô-la Valentine màu đỏ, bức kia chụp Darren Riegert, mắt khép hờ, trên người mặc một chiếc áo khoác da. Billy liếc nhìn quanh căn phòng nhỏ nhưng chỉ nhìn thấy đống áo sơ-mi nhàu nát và đồ lót. Gầm giường cũng chẳng có gì cả. Vậy chiếc áo khoác da đâu? Billy quay ra phòng ngoài. Ở đó Sharon Riegert đang lấy tay quệt nước mắt và ôm chặt con chó nhồi bông vào ngực.
"Tôi có thể giữ mấy bức ảnh này được không, bà Sharon?"
"Ông hãy lấy những gì mình muốn."
"Bà có biết chiếc áo khoác của Darren ở đâu không?"
Sharon nhìn vào tấm ảnh và nhún vai. Billy liếc ra phía cửa trước. Một hàng mắc treo quần áo, trên đó có những chiếc áo khoác vải và một chiếc áo mưa.
"Ông Woody có bao giờ đánh Darren không?"
"Không. Thôi được rồi, thỉnh thoảng anh ta có đánh thằng bé. Tôi không nhớ, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả."
"Darren có kể với bà nó bị Blayne đánh không? Hoặc đe dọa chẳng hạn?"
"Nó chẳng bao giờ nói chuyện với tôi về thằng béo đó. Có một lần tôi đã nhìn thấy chúng một lát, vậy thôi."
Butch đi vào trong phòng, Woody theo sau cười nhăn nhở, nồng nặc men bia.
"Ông không khai thác được gì ở tôi đâu, cảnh sát trưởng ạ. Hãy hỏi cô ấy. Hãy hỏi cô ấy xem tôi đã ở đâu!"
Sharon đứng dậy, toàn thân bắt đầu run rẩy.
"Em không nói với ông ta điều gì cả, Woody. Em chỉ nói là anh ra ngoài có một lát thôi. Em nói rằng lúc đó mình mệt quá nên phải nghỉ trên giường, em không..."
"Được rồi, bà Sharon", Butch nói, giọng ông thật nhẹ nhàng và bình tĩnh.
"Các ông muốn uống bia hay thứ gì đó không?" Woody cười.
"Thôi, chúng ta đi, Billy. Chúc ông bà một ngày tốt lành!" Butch nói.
"Nhớ đóng cửa cẩn thận nhé!" Woody gào lên.
Vào trong xe tuần tra, Butch châm thuốc hút.
"Chẳng được gì cả," ông nói. "Chúng ta cần một lệnh khám nhà. Nhưng có khi hắn sẽ ném mọi thứ rác rưởi vào chúng ta nếu hắn ở đó. Tôi rất khó chịu, và khi tôi đã khó chịu về kẻ nào đó, tôi thường biết chắc cảm giác của mình là đúng."
"Hắn ta vẫn dùng chiếc dây chun đó để buộc tóc à?"
"Đúng vậy, sợi dây màu đỏ tươi."
"Sharon có nhắc đến Sheree Lynn và gọi cô ấy là phù thủy. Nhưng quan trọng hơn, bà ta cho biết Blayne thường quanh quẩn ngoài ngôi nhà, nó có một chiếc máy ảnh và cho tôi xem những thứ này."
Billy đưa cho Butch xem những bức ảnh.
"Hãy nhìn phía sau bức chụp hộp quà Valentine."
Butch đọc to: "Gặp mình tại sân vận động nhé, nếu không..."
"Nghe như một lời đe dọa nhỉ?"
"Có khi lại là một mối tình ngọt ngào chưa biết chừng. Một cô bé không thể chờ đợi thêm nữa để gặp cậu ta."
"Sharon không biết rõ về mối quan hệ giữa Darren và Blayne. Bà ta vẫn một mực đổ lỗi cho Sheree Lynn Bird."
"Thật là sai lầm, ông bạn nhỉ. Chính bà ta là người đã đánh đập thằng bé. Trong khi Sheree Lynn mới là mẫu hình người mẹ dịu dàng mà thằng bé luôn tìm kiếm."
"Có lẽ vậy," Billy đáp. Sheree Lynn Bird đã khiến những con người này thấy sợ hãi và giận dữ. Ông không nghĩ rằng những cảm giác, những phản ứng như thế sẽ dễ dàng thay đổi.
"Hãy nói về những sợi dây chun!", Billy nói, phá tan sự im lặng giữa hai nguời. "Chúng ta hãy mang sợi dây tìm được hôm nay đến phòng thí nghiệm. Nếu may mắn, đó có thể là một trong những cái dây mà Woody dùng để buộc tóc."
Butch dụi điếu thuốc lá. "Tôi ghét gã lưu manh đó."
"Blayne Morton có thể là một đầu mối quan trọng," Billy nói. "Cả hai người đều nói với tôi đó là một đứa trẻ hay bắt nạt và chuyên trấn lột bạn bè ở trường, nó lại thường đi với Darren nữa."
Butch cười: "Trên đường tới nhà ông bạn già Hawkes chúng ta làm một ly cà phê Colombian nhé?"
"Quán Mac’s cũng mở cửa vào chủ nhật à?"
"Ồ ông bạn, quán Mac lúc nào chả mở cửa."
***
"Chào ông. Tôi là Hawkes. Reggie Hawkes."
"Chào ông. Tôi là Billy Yamamoto."
Hawkes nhấc tấm bạt phủ xác Darren Riegert ra. Xác chết vẫn giống như lúc Billy trông thấy lần đầu, nhưng sáng nay khi Hawkes tiến hành khám nghiệm, bầu không khí nơi đây dường như trở nên quái gở. Những bức tường như u ám hơn, ánh đèn huỳnh quang tỏa ra thứ ánh sáng gay gắt, và thậm chí cả mùi amôniăc cũng trở nên hăng nồng hơn.
Hawkes chọc vào cổ Darren, da và những lớp cơ đã phồng lên như vỏ một quả cam. Ông giở biểu đồ báo cáo pháp y ra, lướt nhanh tới trang có bức ảnh đen trắng chụp cảnh Darren treo cổ dưới ống nước trong tầng hầm Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Ở góc dưới có dòng chữ ghi đầy đủ tên và học vị: Bác sỹ, Tiến sỹ Reginald D.Hawkes.
"Như các ngài thấy, so với bức ảnh cô Johnson chụp, vết bầm do dây buộc ở cổ - chỗ này và chỗ này nữa - rất phù họp với góc độ mà cái xác bị treo. Hãy nhìn chỗ này nữa, có sự chèn ép ở cái xương mà chúng ta hay gọi là quả táo cua Ađam. Không có dấu vân tay, không có sự chấn động, hộp sọ không bị giập. Nhưng có một thứ khá giá trị trong vòm miệng! Nó nằm ở trên lưỡi với một mặt dính đầy máu của nạn nhân."
Hawkes cầm một túi ni-lon lên, bên trong có một mẩu giấy đã biến màu, một mặt có ghi dòng chữ gì đó.
"Một đoạn trích từ cuốn sách của Daniel: 'Mene Mene Tekei' có nghĩa là 'Chúa sẽ chấm dứt sự tồn tại của các người'. Các người đã tỏ ra yếu kém. Một suy nghĩ khủng khiếp, tôi nghĩ vậy."
Hawkes dừng lại để thở. Ông ta nói bằng thứ giọng Anh khá nhanh và cao. Trên đôi môi mỏng là một bộ ria được chải và vuốt keo kỹ lưỡng, hai đầu được tỉa nhọn gọn gàng, ở giữa khum khum hướng lên trên mũi. Ông ta đeo một chiếc cà vạt khá nổi bật. Một người bảnh bao sang trọng, Billy thoáng nghĩ. Một cái microphone nhỏ gắn vào cổ áo Hawkes, dây mic được luồn trong chiếc áo choàng trắng và kéo dài nối với một máy ghi âm hiệu Sony đã cũ.
"Cẩn thận đấy", ông ta nói khi Billy bắt đầu di chuyển xung quanh bàn xác. "Đừng động đến sợi dây đó. Nếu anh làm tuột sợi dây, tôi sẽ phải làm lại từ đầu." Hawkes cười tinh quái.
"Công đoạn thứ nhất đã xong, giờ chúng ta hãy xem kỹ vùng cổ, tôi cũng chưa phát hiện ra nhiều điều lắm. Thời gian nạn nhân chết vào khoảng từ nửa đêm đến 0 giờ 20 phút sáng. Dương vật, hậu môn và trực tràng không bị ảnh hưởng gì, cũng không có dấu vết của máu, mồ hôi hay tinh dịch của người khác. Tôi không thấy bằng chứng của xâm hại tình dục. Tôi cũng đã yêu cầu các y tá kiểm tra nhanh mẫu máu thu được ở hiện trường sáng qua. Trong máu không có ma túy hay chất kích thích khác. Báo cáo kiểm tra độc tố tại bệnh viện cũng đã xác định không có thức ăn trong dạ dày trừ một chút sô-cô-la. Không phải sô-cô-la thực, đó là một thứ dầu thực phẩm có màu giống như sô-cô-la Thụy Sĩ. Không có độc tố. Ngực và lưng không có dấu hiệu bị đánh đập. Những vết dao rạch nông, dường như được rạch bằng một con dao có lưỡi răng cưa. Con dao mà các anh tìm thấy trong vườn tạo ra vết rạch rất phù hợp. Vết rạch được tạo ra trước khi thằng bé bị treo lên. Dấu vết máu chảy và đọng lại cho phép chúng ta khẳng định điều đó. Những vệt máu, ở đây và đây, trong lòng bàn tay trùng khớp với mẫu máu trong phòng thí nghiệm. Vì vậy có thể kết luận những vết máu trên xác đúng là của nạn nhân."
"Đây có phải là trường hợp bị tra tấn không?"
"Chắc chắn rồi, mặc dù vết cắt rất nhẹ, và cách thức cắt từ trên vùng ngực hướng dần về phía tim có thể làm ta nghĩ đến trường hợp nạn nhân thích tự hành hạ. Vết cắt nào chả đau, đúng không? Tôi thừa nhận mình đang làm vấn đề phức tạp thêm một chút. Có vẻ như nạn nhân sau khi bị cắt, rạch đã bị kẻ nào đó trói lại rồi mới chết."
Billy nhìn chằm chằm vào cái xác của Darren Riegert. Thằng bé còn quá trẻ.
"Khi xác chết đã cứng sau ba đến bốn tiếng thì trói hai tay theo tư thế này có khó không, thưa bác sỹ Hawkes? Theo như bức ảnh ông có trong báo cáo pháp y, cánh tay bị khuỳnh ra và cứng đờ một cách kì lạ. Nếu Darren Riegert bị trói trước khi chết, cánh tay chắc sẽ ở tư thế thoải mái hon - nó phải buông thõng xuống dưới chứ không xiên ngang sang hai bên như thế kia."
"Thực tế đang bày ra trước mắt chúng ta trên cái bàn xác này, thưa thanh tra." Hawkes trả lời. "Một trường hợp kỳ lạ. Hai bàn tay bị trói khiến tôi mất ăn mất ngủ. Vì thế tôi cho rằng cần phải khám nghiệm tử thi kỹ hơn. Tôi đã từng thấy nhiều vụ treo cổ trong đó nạn nhân bị dây thừng siết mạnh, kéo lên. Một vụ hành hình kiểu Lin-sơ từ nhiều năm trước - chẳng hạn. Nếu nạn nhân bị treo cổ như thế thì các vết bầm tím sẽ phải lớn hơn, đặc biệt là ở cổ, cổ họng cũng phải bị tổn thương nghiêm trọng. Căn cứ vào dấu vết của dây thừng trên cổ nạn nhân, tôi có thể nói rằng sự treo cổ này quá nhẹ nhàng. Vết bầm tím còn nhẹ hơn so với tôi hình dung khi nhìn bức ảnh Johnson chụp. Cái đài này được dùng làm bục đứng treo cổ phải không?"
"Chỉ là phỏng đoán thôi," Butch trả lời.
"Ừ, chỉ là phán đoán," Hawkes nói. "Cổ của thằng bé này bị bầm tím giống như một trường hợp khác vào mùa đông năm ngoái, trường hợp tự sát của Cody Schow. Mà ông có họ hàng gì với một người ở Coaldale tên là Arthur Yamamoto không thưa thanh tra?" Hawkes hỏi Billy.
"Ông ấy là bố tôi."
"Ông Arthur thường bán những cây hoa xinh xắn cho gia đình tôi vào mùa xuân. Tôi đã đọc cáo phó của ông ấy mấy tháng trước. Thành thực chia buồn với ông. Bố ông là một người làm vườn giỏi."
"Cảm ơn ông," Billy nói.
"Tôi không nhớ đã từng gặp ông bao giờ chưa, ông thanh tra ạ. Nhưng cho tôi hỏi ông có phải là Toshuo Yamamoto không?"
"Đó là anh cùng cha khác mẹ với tôi."
Billy bắt tay Hawkes, bác sỹ pháp y đã tháo găng tay. Sau đó ông lấy tấm ảnh chụp hộp sô-cô-la có dòng chữ phía sau để so sánh với nét chữ đẫm máu tìm thấy trong miệng Darren. Nhìn sơ qua thì chúng không giống nhau cho lắm. Billy quyết định sẽ giám định chữ viết và so sánh với bút tích phía sau bức ảnh. Butch và Billy trở lại trụ sở mang theo chiếc túi ni-lon có mẩu giấy trong miệng Darren. Butch lấy những tấm ảnh trong vụ Cody Schow và lựa chọn những bức ảnh tại hiện trường vụ Darren Riegert, họ trải các tấm ảnh của hai hồ sơ ra để xem xét.
"Máu Darren nhỏ xuống cả mặt trên và phía sau của cái đài. Có lẽ cái đài đã được đặt dưới xác thằng bé, rồi vì một lý do nào đó nó bị đẩy đổ về phía trước rồi bị đưa ra khỏi hiện trường."
Billy nhớ lại những nghi vấn của mình về chiếc đài. Tại sao nó lại được giấu trong vườn? Những vệt máu nhỏ giọt trên đó tương tự như những vết máu tìm thấy trên chiếc giày ống và người Darren. Billy cũng nhớ rằng không có vết máu nào được tìm thấy trên nền nhà ngay dưới cái xác. Hay là Darren đã đứng lên nó trước khi bị rạch và trước khi chiếc thòng lọng được quấn quanh cổ nó? Nhưng cơ thể nạn nhân chắc phải bê bết máu khi trèo lên cái đài vì có những giọt máu nhỏ lên mặt trên. Vậy tại sao cái đài lại xuất hiện trong tầng hầm? Trong đài không có cuộn băng nào, phải chăng cuộn băng đó đã bị lấy đi rồi? Và chắc chắn cái đài ấy được giấu đi khi xác Darren đã ngừng chảy máu. Nếu không thì phải có vết máu nhỏ trên nền xi-măng của tầng hầm.
"Chúc các ngài một ngày tốt lành!", cảnh sát viên Gloria Johnson xuất hiện trước cửa phòng thường trực, đeo một túi đồ chơi gôn trên vai. Cô đội chiếc mũ bóng chày màu đỏ, mặc áo thể thao có hình con chim hồng hạc đang vung cây gậy đánh gôn.
"Tôi ghé qua để thông báo cho các ngài biết phòng thí nghiệm đang hoàn tất kết quả giám định mẫu máu trên chiếc đài và trên con dao tìm thấy ngoài vườn. Tôi cũng đã đặt sợi dây chun của các ngài ở dưới kính hiển vi."
"Có gì không?"
"Bụi, rất nhiều bụi. Không có sợi tóc nào cả, không gầu, không nang tóc."
"Thật là khó khăn!", Billy cười gượng gạo. "Thế còn vụ trộm tối qua, cô có thu được dấu vân tay nào không?"
"Chẳng có gì, hoàn toàn sạch sẽ, tất cả mọi nơi, kể cả chỗ cửa sổ bị vỡ. Lan can cũng không có. Tôi muốn nghỉ một giờ để đi chơi gôn vì công việc tiến triển cũng chậm, có được không ạ? Tôi sẽ có mặt tại phòng giám định nếu các ông cần kết quả về dấu vân tay cũng như những dữ liệu có được từ ngày hôm qua."
"Cảm ơn Johnson," Billy nói. "Trước khi đi, cho tôi biết có thể tìm được một chuyên gia giám định chữ viết ngay bây giờ không?"
"Có đấy ạ. Có một người ở Trung tâm chỉ huy Cảnh sát Hoàng gia Canada."
"Trên đường đến chỗ chơi gôn, cô hãy mang tấm ảnh và tờ giấy này đến nhờ ông ấy kiểm tra. Chúng ta có cần một bản trưng cầu giám định không Butch?"
"Không, cần quái gì."
Johnson cười toe toét, cầm lấy tấm ảnh và tờ giấy rồi rời khỏi phòng. Billy có thể nghe thấy tiếng gậy đánh gôn của cô gõ xuống hành lang xa dần.
"Sếp ở trong đó à?" Một trung sĩ từ chiếc bàn phía ngoài hỏi vọng vào.
"Đúng rồi, trung sỹ. Anh có việc gì vậy?"
'Tôi vừa nhận một cuộc gọi, thưa thanh tra, Một người phụ nữ đang ở đường dây 201. Bà ta nói có thông tin về vụ Riegert."
Billy nhấc ống nghe.
"A lô, tôi là thanh tra Billy Yamamoto đây."
"Tôi là Irene Boume."
"Vâng. Bà có điều gì cần nói ạ?"
"Sharon Riegert vừa gọi cho tôi và nói về vụ việc của Darren."
"Bà là bạn của bà ta à?"
"Không, Chúa ơi! Tôi mới chỉ gặp Sharon một lần vào buổi tối gặp mặt phụ huynh và giáo viên. Nhưng con gái tôi biết Darren Riegert. Tôi thấy mình nên gọi điện cho ông."
Giọng nói có vẻ cấp thiết và căng thẳng. Billy tưởng tượng Irene Boume là một người phụ nữ cao, đeo chiếc vòng cổ bằng ngọc duyên dáng. Bà nói tiếp, có phần bình tĩnh hơn:
"Tôi biết chuyện về Cody Schow từ mùa đông năm ngoái. Con gái tôi biết Cody và có kể với tôi. Tôi tin rằng con bé cũng biết một số điều về Darren."
Có một khoảng im lặng ngập ngừng trên đường dây.
"Ông có thể đến nhà tôi được không, ông thanh tra? Chồng tôi bị đau tim và vừa mới bình phục, tôi thực sự không thể bỏ mặc ông ấy."
Irene Boume lại im lặng một lần nữa. Billy nghe thấy bà ta sột soạt lấy tay che ống nghe và hạ giọng nói chuyện với ai đó ở đầu dây bên kia.
"Là con bé Emily nhà tôi," bà ta tiếp tục, "từ hôm qua đến giờ nó cứ liên tục gọi điện cho ai đó ở trong phòng. Sáng sớm nay chồng tôi đã vô tình nghe thấy nó kể về một số đứa bạn cùng chơi với nhau. Nó có dùng từ 'chứng kiến'. Vừa rồi bà Riegert lại gọi điện báo tin về cậu con trai tội nghiệp khiến tôi nghĩ nên gọi điện ngay cho cảnh sát. Dù sao thì con bé Exnily nhà tôi cũng biết Darren Riegert mà."
"Cảm ơn bà Boume, Tôi sẽ đến ngay lập tức. Tôi rất muốn nói chuyện với con gái bà."
"Nó không làm điều gì sai cả, ông thanh tra ạ. Nó không phải là một đứa con gái xấu."
"Tôi hiểu."
"Vậy làm ơn hãy đến ngay nhé. Nhưng tôi không thể đảm bảo bất cứ điều gì đâu.." Bà ta dừng lại giữa câu. "Tôi phải đi đây. Nhà tôi ở số 62 đường Brighton."
*
Đầu giờ chiều, Billy một mình lái xe đến khu Tudor Acres, một khu dân cư nằm bên bờ thung lũng nhìn về phía Tây dãy Rocky. Khu này được bao quanh bởi dãy tường gạch thấp, lối vào là một cánh cổng sắt đưa tới một mê cung các đường phố được đặt tên theo các thành phố ở Anh. Billy lái xe qua một khu nhà hai tầng với hàng cột giả gỗ ở phía trước, cửa trước được làm bằng gỗ sồi sẫm màu, mỗi ô cửa bên cạnh lại treo một chiếc đèn lồng cổ to bằng quả bóng. Từ xa ông đã nghe thấy tiếng máy cắt cỏ chói tai và tiếng reo hò thích thú của đám trẻ con trong sân.
Billy tìm được số nhà 62 đường Brighton không mấy dễ dàng. Căn nhà của gia đình Boume nằm ở khu vực hình lưỡi liềm và dựờng như đánh đố những người khách đến thăm. Billy có cảm giác vị kiến trúc sư thiết kế ngôi nhà này muốn mọi người phải ngưỡng mộ vẻ bề thế, sang trọng của nó. Phần lớn sân được láng xi-măng để làm đường ô tô. Hai con chó bằng thạch cao được đặt gần bậc thềm phía trước trông như những lính canh bảo vệ lối vào của lâu đài.
"Mời vào, ông thanh tra. Ông uống cà phê nhé!" Bà Irene nói, hai tay khoanh phía trước như thể đang đứng trong hàng tiếp tân. Bà ta dẫn Billy đến một căn phòng sơn màu xanh da trời phía sau nhà. Phong cách lịch sự nhưng vô cảm của Irene khiến Billy có cảm giác bà ta đã luyện tập rất nghiêm túc những động tác như: đặt chiếc tách lên mặt bàn, ngồi xuống cạnh ông, hai bàn tay khẽ đặt trong lòng. Căn phòng tràn ngập mùi gỗ thông mới, trên tường treo bức ảnh chụp hai vợ chồng Irene, một bức chụp một cái thuyền, bức khác chụp một cô gái trẻ với mái tóc đen dài trong chiếc váy dài chấm đất. Bà Irene đặt một đĩa bánh quy bên cạnh cốc cà phê của Billy.
'Tôi đang ngắm nhìn bức ảnh gia đình bà. Có phải con gái bà đang mặc chiếc áo dài kia không?"
"Trong buổi lễ Kiên tin của nó đấy!" (Lễ kiên tín (còn gọi là lễ Thánh thể): Là một trong bảy bí tích theo nghi thức của đạo Thiên Chúa, bao gồm: Bí tích Rửa tội, Bí tích Thêm sức, Bí tích Thánh thể, Bí tích Hòa giải, Bí tích Xức dầu bệnh nhân, Bí tích Truyền chức, Bí tích Hôn phối).
"Tôi giữ chúng để nhớ về giai đoạn hạnh phúc nhất của gia đình mình," bà tiếp tục. "Đó là bức ảnh đẹp nhất tôi có về Emily. Từ khi bức ảnh đó được chụp, chúng tôi không gặp nhiều may mắn. Jack bị một cơn đau tim đột ngột hồi mùa thu năm ngoái. Và Emily, từ khi là học sinh trung học, nó đã trở thành một đứa con gái khác."
"Tôi rất tiếc, thưa bà Boume."
"Cảm ơn ông. Ông phải nghe tất cả những chuyện đau buồn của tôi. Tôi xin lỗi vì đã mang chúng ra kể với ông."
"Vậy chúng ta hãy nói về Emily, về cuộc điện thoại sáng nay và sự chứng kiến cái gì đó. Bà có biết điều gì đã xảy ra đối với Darren Riegert không?".
"Có. Bà Riegert nói cậu bé bị treo cổ, người đầy vết rạch tại một nơi mà những người trong thành phố gọi là "Ngôi nhà của quỷ Sa tăng". Bà ta nói con mình bị rạch bằng dao. Chính việc bà ta luôn say xỉn và thờ ơ với con cái đã làm hại Darren. Tôi đã gặp thằng bé một lần. Nó có vẻ thảm hại và yếu ớt. Tôi không tưởng tượng được có kẻ nào lại muốn hại một con mèo đáng thương như thế. Tôi xin lỗi, điều đó nghe thật nhẫn tâm. Có những đứa trẻ luôn gặp rắc rối, ông thanh tra ạ. Thật không may, con gái tôi là một trong số đó. Nó cứ bám đuôi những đứa kia - cho phép tôi nói như vậy. Việc nó nhắc đến một nhân chứng là điều tôi hoàn toàn không hay biết. Cho đến sáng nay tôi mới nghe thấy điều đó, xin hãy tin tôi."
Billy nhận thấy trong giọng nói của bà ta ẩn chứa một sự giận dữ cố kìm chế. Bà Bourne nhìn xuống và thả lỏng đôi tay.
"Mời ông đi theo tôi."
Billy theo Irene ra ngoài tiền sảnh và đi lên một cầu thang gỗ được chạm khắc tinh xảo. Bà ta dừng lại trước một cánh cửa đóng kín, mời Billy ngồi xuống một chiếc ghế sô-fa gần đó, còn mình thì dựa vào cạnh bàn, đôi mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không.
"Khi mẹ của Darren gọi điện đến đây, hình như bà ta đang say rượu. Bà ta nói mình đang gọi điện cho tất cả những người biết Darren. Tôi không biết là bà ấy có số điện thoại của mình. Sharon nói những điều rất kỳ quặc, như bảo tôi phải kiểm tra xem con gái mình có an toàn không, có được bảo vệ hay không. Tôi nghĩ người đàn bà này đang bị điên, thật sự là như vậy. Khi tôi nói với Emily là Darren đã chết, con bé sững người rồi òa khóc. Nó chạy lên đây, vào phòng này, khoá cửa lại và ở trong đó đến bây giờ không chịu ra ngoài."
"Con có thể nghe thấy mẹ nói ở ngoài đó đấy, mẹ ạ."
Giọng nói của Emily như xé tan sự yên lặng của hành lang. Nó đanh và giận dữ. Billy ngạc nhiên vì giọng cô bé giống như người lớn, giống với giọng của một người đàn bà hơn là của một cô gái mười bốn tuổi.
"Mẹ đã mời thanh tra cảnh sát đến đây, Emily. Bác ấy muốn nói chuyện với con."
"Cảnh sát nào?" Giọng nói như xuyên qua cánh cửa đóng chặt. "Mẹ đã gọi cảnh sát đến à?" Emily bắt đầu thổn thức.
Irene Boume đứng dậy: "Xin ông bỏ qua một vài chuyện. Tôi không biết mình có thể giúp được gì nếu ông làm việc với Emily. Tôi đã cố gắng nói chuyện với con bé. Nó đang không được khoẻ."
"Mẹ! Con có thể nghe được mẹ đang nói gì. Đừng có nói dối về con nữa!"
"Con gái tôi bị bệnh từ tháng mười hai năm ngoái. Nó bị những cơn bùng nổ cảm xúc hành hạ. Con bé không theo học ở trường được. Nó chỉ giam mình trong phòng, hình như nó đã thay đổi rất nhiều sau khi Cody Schow chết. Tôi đã đưa con bé đến bác sỹ tâm lý để điều trị nhưng không thành công. Tôi có thể bảo Emily mở cửa nhưng chỉ e nó không cho ông vào."
"Mẹ đi đi. Hãy để con một mình."
Billy tiến tới gần cửa.
"Emily phải không? Bác là Billy Yamamoto. Bác có thể vào và nói chuyện với cháu được không? Bác muốn biết thêm về Darren Riegert, bác cần sự giúp đỡ của cháu."
"Bác bảo mẹ cháu xuống dưới tầng dưới đi."
"Emily!"
"Mẹ đi đi. Nếu không con sẽ không mở cửa đâu."
"Tôi xin lỗi, bà Boume. Bà có thể xuống dưới một lát được không?"
Irene Boume đứng dậy và bước xuống cầu thang. Billy nhìn nắm đấm cửa phòng ngủ của Emily xoay nhẹ. Cánh cửa từ từ mở ra, Emily lùi lại. Cô bé mặc một chiếc váy ngủ màu trắng khiến Billy liên tưởng đến hình ảnh của Émily trong bức ảnh ở tầng dưới, chỉ khác là trên cổ cô bé giờ đây có xăm hình một con nhện hổ màu đen.
"Cháu có muốn bác ở ngoài hành lang không, Emily? Cháu cứ đứng đấy, còn bác sẽ ngồi trên ghế sô-fa này nói chuyện nếu cháu muốn thế."
"Không. Cháu không muốn mẹ nghe ngóng, rình rập câu chuyện của chúng ta. Mời bác vào."
Billy bước vào một căn phòng khá rộng rãi, bên trong kê một chiếc giường có màn che và hầu như đồ đạc đều trắng muốt. Các bức tường trước mặt ông đều trống trơn trừ một tấm bảng nhỏ dán đầy ảnh mèo con, những chú cá voi xinh xắn và ảnh chụp phong cảnh dãy Rocky. Trên chiếc tủ gương có ảnh của Emily và hai cô gái khác. Khi cửa đóng lại, Emily đi ngang qua phòng và ngồi lên mép giường, chiếc váy ngủ trùm kín hai chân. Billy nhìn xung quanh và giật mình bởi bức tường đối diện với giường ngủ của cô bé. Chúng được sơn màu đen và đỏ tía, treo đầy ảnh. Nhìn vào đó ta có cảm giác như đang thấy nửa tối nhất của mặt trăng. Căn phòng như có hai bộ mặt, một ngây thơ tinh khôi đầy nữ tính, một u ám buồn rầu và đậm chất Gô-tích.
"Bác có thích căn phòng này không?" Emily hỏi.
"Sao cháu lại trang trí nó như thế?" Billy quan sát phản ứng của Emily.
"Vì nó sẽ làm cho mẹ cháu điên lên. Bà ta ghét điều đó, nhưng cháu nghĩ nó thật thú vị. Đó mới chính là cháu."
"Cháu đã đọc cuốn Thanatopsis chưa?
"Cháu thấy nó thật nhàm chán. Cody Schow lại thích nó. Cody nói nó đem lại cho anh ta quyền năng."
"Cháu và Cody là bạn à?"
"Cháu đã từng chơi rất thân với Cody. Anh ta là người điềm tĩnh và rất tôn trọng cháu. Cháu không biết mẹ cháu đã kể những gì với bác hoặc tại sao bà ấy lại mời bác đến đây. Cháu chẳng có gì phải nói ra cả." Giọng của Emily không còn hào hứng như trước nữa. Cô bé nói quả quyết.
"Emily này, thật không phải chút nào nếu cứ giấu kín những thông tin trong khi mọi người đang vất vả để tìm ra sự thật về một vụ án mạng."
"Darren đã bị sát hại ư?"
Thái độ của Emily thay đổi hẳn. Cô bé lấy tay che mặt và buông mình xuống đệm, nằm bất động trong giây lát. Billy cảm thấy cô bé bắt đầu bấn loạn, chuẩn bị khóc lóc và gào thét thật to. Ông đi về phía trước.
"Sáng nay bác đã thấy thi thể của Darrén ở nhà xác, Emily ạ. Kẻ nào đó đã trói chặt tay cậu ấy. Ai đó đã ở cùng cậu ấy dưới tầng hầm..."
"Thôi đi!" Emily bắt đầu khóc nức nở.
Billy cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại. Mỗi khi thẩm vấn một ai đó dễ bị kích động, ông đều có cảm giác này. Bình tĩnh đi nào. Ông đưa hai tay ra sau gáy và ngước mắt lên trần nhà quan sát kỹ màu sắc của nó. Sau khi đã trấn tĩnh lại, Billy hạ thấp giọng:
"Emily, hãy kể cho bác nghe về những cuộc điện thoại và những gì cháu biết về người chứng kiến. Những thông tin của cháu sẽ giúp bác rất nhiều trong việc điều tra vụ án mạng của Darren."
"Emily?" Tiếng của bà Irene Bourrie vọng lên. "Emily, con vẫn ổn chứ?"
Emily nhảy bật dậy, lấy tay phải quệt ngang khuôn mặt còn ướt lệ của mình.
"Mẹ đừng can thiệp vào chuyện này. Mẹ hãy đi đi và để con yên."
Billy nghe thấy tiếng chân Irene Boume đi ra phía sau nhà.
"Bác có biết rằng phải sống với mẹ cháu là vô cùng khó chịu không?"
Billy vẫn yên lặng và chờ đợi. Emily rời khỏi giường. Cô bé hít một hơi dài, nhìn ông rồi hướng ra cửa sổ. Trong giây lát đôi mắt cô bé dường như trống rỗng nhưng chúng định thần trở lại rất nhanh.
"Cháu có nhiệm vụ phải ở đó. Để làm nhân chứng cho cậu ấy. Thế thôi."
Billy lấy cuốn sổ ghi chép ra.
"Bác lấy sổ ra làm gì? Bác đang làm gì vậy?"
"Bác cần ghi chép lại những điều này Emily ạ. Bác cần biết những gì đã thực sự xảy ra."
"Bác nói nghiêm túc chứ? Hay là bác đang cố tình phô trương thể hiện đấy hả?"
"Bác là cảnh sát điều tra, Emily ạ. Đây là những việc mà một cảnh sát điều tra phải làm."
"Hay thật. Cháu đã nhìn thấy chuyện này trên ti vi nhưng cháu không nghĩ bác lại làm y như thế."
"Tại sao cháu lại phải ở đó Emily?''
Nước mắt lăn dài trên khuôn mặt cô bé. "Darren và cháu đã lên kế hoạch. Darren nói cháu có thể đến và theo dõi cậu ấy. Chúng cháu có một bí mật. Cháu đã hứa với cậu ấy là không bao giờ tiết lộ với bất cứ ai. Nhưng bây gịờ còn có nghĩa gì đâu."
"Đó không phải là lỗi của cháu, Emily."
"Darren đã cầu xin cháu đừng kể với ai."
"Cháu rất thích cậu ấy phải không?"
"Chúng cháu là bạn bè. Chúng cháu tin ở nhau."
"Cầm lấy khăn giấy này đi, Emily. Bình tĩnh nào."
"Darren bị bắn à? Hay có ai đó đã đâm chết cậu ấy?"
"Đó là một vụ treo cổ, Emily ạ. Kẻ nào đó đã dùng dao rạch lên người Darren, và như bác đã nói, hắn trói tay cậu ấy lại."
"Bác biết đấy, Cody và Darren đã có một thỏa thuận với nhau. Hai người bảo cháu không bao giờ được nói ra và cháu đã không nói. Cody và Darren đã làm việc đó vào lễ Giáng sinh. Quỷ Sa tăng đã dẫn đường cho họ và hai người không nói với ai hết.".
"Cháu đã chứng kiến Cody tự treo cổ phải không?"
"Darren và cháu đã đứng như hóa đá và nhìn Cody từ đầu đến cuối. Darren đã rất mừng cho Cody."
"Cháu hứa với bác là sẽ nói ra sự thật, Emily nhé?"
Emily nhìn Billy một cách không thiện cảm. Ông nhẹ nhàng nói với cô bé:
"Bác không phải là mẹ cháu, Emily. Hãy nói cho bác sự thật."
"Cháu đã thề rồi." Cô bé lại khóc một lúc rồi lau nước mắt.
"Cháu đã gọi điện cho ai sáng sớm hôm nay?"
"Mẹ cháu nói với bác rồi à?"
"Ừ, Emily. Bác nghĩ mẹ cháu rất quan tâm đến điều đó."
"Vâng, chắc chắn rồi."
"Ai vậy Emily? Cháu nói đi!"
"Đó là bác sĩ Massenet."
"Ông ấy là ai?"
"Không phải ông mà là cô. Đó là bác sĩ trị liệu của cháu. Bác sĩ Massenet nói rằng bất cứ khi nào cháu muốn nói chuyện thì cô ấy sẵn sàng lắng nghe. Cả tối hôm qua cháu gọi cho cô Massenet nhưng chỉ nghe thấy tiếng nói từ cái hộp trả lời tự động ngu xuẩn, thế nên sáng nay cháu đã gọi lại cho cô ấy."
"Khi gọi điện cho cô Massenet cháu đã biết Darren chết chưa?"
"Chưa ạ."
"Cháu có nói với cô ấy về kế hoạch bí mật không? Rằng cháu sẽ chứng kiến Darren tự tử ấy?"
"Một phần thôi. Cháu gọi cho cô ấy... Vâng, cháu nói rằng Darren và cháu có một bí mật và cháu sẽ làm nhân chứng cho cậu ấy."
"Còn gì nữa?"
"Cháu không thể nói gì thêm với cô ấy nữa. Cháu rất buồn và giận Darren.Cậu ấy.. cậu ấy đã phản bội cháu. Bác sĩ Massenet nói cháu nên thường xuyên chia sẻ cảm xúc với cô ấy và cháu đã làm thế. Cháu đã cố gắng chia sẻ."
"Darren đã phản bội cháu ư?"
Emily mím môi lại. "Cháu không muốn nói về điều đó."
"Có phải hôm qua cháu đã gọi điện suốt cả ngày không?"
"Mẹ cháu đã nói với bác thế à?"
"Ừ."
Billy chờ đợi.
"Đáng lẽ Darren phải gọi cho cháu. Cậu ấy hứa sẽ báo cho cháu biết. Cháu cứ ngỡ cậu ấy vẫn còn sống và.. Hóa ra cậu ấy không muốn cháu có mặt ở đó."
Cô bé bật dậy, giận dữ ném một chiếc gối trên giường ra cửa.
"Darren đã hứa! Đã nói cháu là người duy nhất mà cậu ấy muốn có mặt! Cháu không muốn cậu ấy chết. Nhưng cậu ấy nói đó là một điều tốt bởi cuốn sách thiêng kia đã chỉ ra như vậy. Cậu ấy muốn đến với Cody. Cậu ấy sẽ được yên bình."
Mắt Emily chớp liên hồi, hơi thở dồn dập, mặt đỏ dần lên. Billy tiến tới đỡ cô bé ngồi xuống. Ông biết rằng Emily vừa trải qua một con xúc động mạnh.
"Để bác gọi mẹ cháu."
Emily đột ngột há miệng ra như bị ngạt, toàn thân cứng đờ, cô bé dường như bị giằng xé giữa những suy nghĩ hỗn độn và cảm giác không tin tưởng mẹ cô. Billy cầm lấy tay Emily. Cô bé dần dần trấn tĩnh lại, ngẩng lên: "Cháu ổn rồi, cháu không sao đâu." Đúng là giọng nói đã bình tĩnh hơn, cô bé ngồi dựa vào đầu giường để định thần lại.
"Chắc là cháu đã cố gọi cho Darren cả ngày hôm qua?"
"Vâng, cả ngày. Nhưng chẳng ai nghe máy."
"Cháu còn gọi điện cho ai nữa không?"
"Ý bác nói là bác sỹ Massenet phải không? Không."
"Vậy giúp bác nhé, Emily. Cháu biết là cuối tuần Darren sẽ đến Ngôi nhà của quỷ Sa tăng để thực hiện nghi lễ đó. Giống như là Cody Schow đã thực hiện lúc trước, một nghi thức tự sát, đúng không?"
Ký ức đau đớn thoảng qua trên khuôn mặt nhợt nhạt của Emily. Cô bé hiểu rõ rằng Billy đang nói đến cái chết và sự mất mát, một trò chơi bệnh hoạn và hão huyền của hai đứa trẻ vị thành niên.
"Cuốn sách Thanatopsis đã dạy họ làm thế. Cody đã lên kế hoạch như vậy."
Emily hít vào một hơi như thể bắt đầu phải đi ngược lại trên một lối mòn trong khu rừng tối tăm nào đó. Càng nói, giọng cô bé càng nhỏ dần như muốn giấu đi từng âm thanh mình phát ra. "Cậu ấy cởi quần áo, cầu nguyện và nhảy nhót trong một vòng tròn theo một vũ điệu nhất định rồi lại nhảy ngược lại. Ba lần như vậy sau đó lại cầu nguyện."
"Cháu có nhớ lời hát cầu nguyện đó không?"
"Đó là những từ ngữ thật buồn cười. Cody học được chúng từ cuốn sách ấy. Mene Mene Tekel. Darren cứ bắt cháu học thuộc nhưng cháu không thích, cháu nói mình không muốn tham gia vào nghi thức của họ. Darren nói cháu chỉ cần là người làm chứng để tôn vinh họ và nhớ họ mãi mãi."
Giọng cô bé tắt hẳn.
"Cháu có nghĩ làm thế là đúng không? Chứng kiến việc đó và không nói với ai có phải là một việc làm đúng đắn không?"
"Cháu không biết."
"Khi Darren Riegert không báo gì cho cháu, cháu đã làm gì?"
"Cháu đợi. Cháu nghĩ là cậu ấy sẽ làm việc đó vào tối thứ sáu. Cháu đã gọi điện đến nhà Darren vài lần nhưng không ai nhấc máy. Lúc đó đã rất muộn, cháu thấy sợ và gọi cho cô Sheree Lynn. Cháu đã cố gọi vào số máy của cô ấy ở Ngôi nhà của quỷ Sa tăng nhưng không được. Cháu sẽ biết Darren vẫn an toàn nếu cô Sheree Lynn nhấc máy và biết cậu ấy ở đâu. Cháu đã quá mệt khi gọi điện đến nhà bạn trai của cô ấy nên chẳng còn nhớ mình đã nói gì nữa."
"Cháu nói 'Họ đã hành sự rồi à? Darren đã đi chưa?" Billy nhắc lại cho cô bé,
Emily chớp mắt rồi nhìn lơ đãng vào khoảng không.
"Vậy Sheree Eynn đã nói gì lúc đó?"
"Cháu không nhớ."
"Cố nhớ lại xem nào, Emily."
"Cháu không nhớ được, thật đấy."
"Cháu có gọi điện cho ai khác vào sáng hôm đó không? Các bạn của cháu chẳng hạn. Hoặc ai đó quen biết Darren?"
"Không ạ."
"Và cháu cũng không biết Darren đã chết cho tới khi nghe mẹ cháu nói?"
"Lúc đầu cháu không tin mẹ, cháu nghĩ bà ấy đang nói dối. Cho tới khi bác tới đây thì cháu biết đó là sự thật." Emily ngồi thừ ra một lúc rồi nói tiếp: "Giá như cháu biết trước! Cháu không thể tin được là cậu ấy bị giết hại."
"Cháu có biết ai chụp tấm ảnh này không, Emily?" Billy nói và rút tấm ảnh chụp Darrem mặc chiếc áo da đưa cho Emily. Cô bé cẩn thận cầm lấy nó.
"Bác có thể cho cháu tấm ảnh này được không?" Emily nói và áp tấm ảnh vào ngực mình.
"Không phải lúc này Emily ạ. Bác cần dùng nó làm chứng cứ, cháu có biết ai chụp nó không?"
"Thằng lợn Blayne Morton."
"Cháu có biết nó không?"
"Cháu ghét nó. Nó theo dõi Darren suốt ngày. Một lần nó đã nói với Darren là sẽ trừng phạt cậu ấy nếu tiếp tục đi chơi với Cody."
"Cháu đã bao giờ nhìn thấy Blayne đánh hay đe doạ gì Darren chưa?"
"Ôi Chúa ơi, bác không nghĩ đó là nó đấy chứ? Blayne ấy?"
"Bác không biết. Bọn bác chưa có bằng chứng."
Emily đã bình tĩnh hơn. Dường như ý nghĩ Blayne là thủ phạm khiến cô bé giảm bớt sự lo lắng và sợ hãi.
"Cody nói với cháu là Blayne luôn theo dõi Darren nên đừng để cậu ấy đi một mình. Blayne mang cái máy ảnh ngớ ngẩn của nó đi khắp nơi, lúc nào nó cũng nổi điên lên với mọi người. Cháu nghĩ nó quý Darren nhưng Cody nói Blayne chửi Darren luôn mồm."
"Bác có thể nhờ cháu một việc không?"
"Ý bác nói với tư cách một người bạn à?"
Billy mỉm cười. "ồ không, như một thám tử."
Khuôn mặt của Emily đầy vẻ tò mò. Cô bé nhăn trán lại và ngả người về phía trước. "Bác cần gì?"
"Có phải quyển sổ màu xanh trên bàn kia là sổ danh bạ điện thoại của cháu không? Những số điện thoại riêng của cháu ấy?"
"Cháu không cho mẹ cháu đến gần quyển sổ đó bao giờ."
"Đây là trò yêu thích của bác. Cháu có thể lựa chọn có hoặc không. Bắt đầu nhé!"
Emily chộp lấy quyển sổ trên mặt bàn và mở ra.
"Bác muốn biết gì?" Emily hỏi đầy háo hức. Tâm trạng cô bé đã thay đổi, lúc này nó như một đứa trẻ sẵn sàng tham gia vào trò chơi đuổi bắt trốn tìm.
"Hãy đếm xem cháu có bao nhiêu số điện thoại riêng, số điện thoại của các bạn cháu ấy."
Emily rụt tay lại.
"Tại sao?" cô bé hỏi.
"Nào cháu, cứ đếm cho bác. Không cần đưa cho bác, bác không hỏi cháu tên của họ đâu."
Emily bắt đầu giở lướt nhanh từng trang.
"Mười tám," cuối cùng cô bé nói.
"Khoảng bao nhiêu người trong số đó biết Darren Riegert, cháu ước lượng thôi cũng được."
Emily lại lật giở sáu trang giấy có những cái tên được viết bằng mực xanh lá cây, nhiều tên còn được đánh dấu bằng hình mặt cười ngộ nghĩnh.
"Không có ai cả. Những đứa này đều là con gái, và hầu như cháu không còn gặp chúng nữa. Chúng nó là những đứa khinh người và không trung thực. Darren không biết chúng. Bác có biết là cậu ấy sợ nhiều người không? Cậu ấy sợ mọi người sẽ làm tổn thương tình cảm của mình."
"Cảm ơn cháu, Emily."
Billy viết nhanh và gập cuốn sổ tay lại.
"Bác định đi bây giờ à?"
"Ừ, bác phải đi."
"Trông Darren thế nào? Có ổn không ạ?" Giọng Emily run rẩy.
"Cậu ấy trông thanh thản, Emily ạ."
Khi Billy xuống dưới cầu thang, ông nghe thấy tiếng khoá cửa trong phòng của Emily. Bà Boume đang đứng một mình trên lối vào trước cửa căn phòng màu xanh.
"Ồ, ông thanh tra."
"Con gái bà thừa nhận nó và Darren Riegert đã chứng kiến Cody Schow treo cổ tự sát. Emily cũng biết Darren có kế hoạch tự sát theo nghi lễ như Cody. và muốn cô bé chứng kiến."
"Chắc là nó nói dối."
"Tôi tin cháu, bà Boume ạ. Nó có vẻ thành thật."
"Vâng, kể ra thì cũng chẳng có lý do gì để con bé nói dối ông. Nó không phải là đứa hay dựng chuyện. Nó hay im lặng, ít ra cũng là với vợ chồng tôi." Mặt bà Boume bỗng trở nên trầm tư.
"Con gái của bà gọi điện cho bác sỹ Massenet sáng nay. Nó nói..."
"Cô ấy là bác sĩ trị liệu của chúng tôi, một người vui vẻ và rất hay giúp đỡ người khác. Cô ấy chắc hẳn đã rất kiên nhẫn để giải quyết... Lẽ ra Emily đã có thể can ngăn được cậu bé!"
Bà Irene ngồi xuống. Việc con gái bà chứng kiến một vụ tự tử khiến bà choáng váng.
"Lẽ ra nó phải giúp được cậu bé. Ôi Chúa cả!"
"Giúp đỡ là một việc bất khả thi trong tình huống này, bà Bourne. Emily nói giữa Darren và Cody có một thoả thuận gì đó. Bà làm ơn gọi bác sỹ Massenet bảo chiều nay cô ấy đến nhé. Con gái bà hiện đang trong trạng thái bị kích động mạnh và có thể cháu sẽ làm điều không tốt cho bản thân. Cần phải có sự can thiệp của bác sĩ chuyên môn, càng sớm càng tốt."
"Sharon Riegert đã nói với tôi phải trông chừng con bé. Thật là xấu xa và hèn hạ." Nói rồi bà Bourne đứng dậy. Bà ta dường như đang bị kích động, hai tay liên tục chà xát vào nhau. "Tôi sẽ gọi điện cho bác sĩ Massenet ngay bây giờ." Dừng lại một chút, bà tiếp tục: "Con gái tôi cũng có trách nhiệm trong chuyện này. Con bé đã chứng kiến cái chết của Cody Schow mà không có hành động nào can thiệp. Vậy nó có bị buộc tội không? Lạy Chúa, tin này chẳng tốt đẹp gì với Jack"
"Tôi cần phải lấy lời khai theo quy định, bà Boume ạ. Những việc đó có thể đợi đến tuần sau. Bà biết đấy, vụ tự tử của Cody Schow đã khép lại gần một năm rồi nhưng vì nó liên quan đến cái chết của Darren Riegert nên chúng tôi phải lật lại hồ sơ. Không có dấu hiệu của sự gian trá nhưng sự có mặt của Emily lúc đó tạo ra những tình tiết mới cần phải làm sáng tỏ. Chúng tôi cần sự chứng thực của bác sĩ Massenet để xem Emily đã thú nhận những gì hay bịa ra những gì. Emily nói cô bé đứng như hoá đá khi nhìn Cody tự mình treo cổ."
"Tôi biết là có cả ma tuý ở đó." Irene Boume nói những lời cuối cùng mà không nhìn vào mặt Billy.
"Tôi sẽ đưa nội dung cuộc nói chuyện ngày hôm nay vào hồ sơ điều tra vụ án Darren Riegert. Tôi sẽ thông báo với bà trong trường hợp ngài cảnh sát trưởng Bochansky muốn mời Emily đến trụ sở để thẩm vấn thêm."
Irene Boume nở một nụ cười gượng gạo.
"Hãy gọi cho Massenet và nói cho cô ấy biết những việc diễn ra sáng nay. Nếu cô ấy biết tôi và bà đã gặp nhau rồi thì mọi thứ sẽ rõ ràng hơn."
"Chắc chắn rồi, thưa ông thanh tra."
"Tôi phải gọi điện về trụ sở."
Khi Billy bấm máy, Irene Boume ngồi xuống chiếc bàn trong bếp và úp mặt vào lòng bàn tay. Billy nghe thấy tiếng viên sỹ quan trực ban ở đầu dây bên kia:
"Thưa thanh tra, có một chuyên viên tư vấn vừa đến đây. Một ông Bames nào đó."
"Tôi xin lỗi. Thượng sỹ, anh hãy nói to lên."
"Có một chuyên viên tư vấn tên là Bames, ông ấy đến cùng một sinh viên trẻ liên quan đến vụ Darren Riegert."
"Thế à?"
"Sếp nói ông nên đến đây khi đã xong việc ở đó."
"Được rồi. Nói với sếp anh tôi đang trên đường về"
Billy tắt máy. Irerie Boume đang đứng ở tiền sảnh và mở cửa trước.
"Hãy gọi cho tôi," bà hạ thấp giọng, "nếu tôi có thể làm gì giúp các ông. Tôi có thể đương đầu với nhiều thứ, ít nhất tôi cũng đã biết con gái mình từng chứng kiến những gì. Ông thấy đấy, từ sau cái chết của Cody Schow con bé mới bắt đầu cư xử bậy bạ như vậy. Nó chẳng bao giờ kể với vợ chồng tôi về những điều nó thấy hoặc làm. Tôi ước mình có thể... có thể làm được nhiều thứ như tôi vừa nói."
"Tạm biệt bà Irene Boume."
Mặt trời đang thiêu đốt nền xi măng cứng của lối ra khi Billy quay chiếc Pontiac ra ngoài. Ông lái xe chầm chậm, cố nhớ lại những đường phố dẫn tới lối ra của khu Tudor Acres. Ông rẽ vào đường Windsor, đi đến tận cùng đường Oxford và rồi cũng tìm thấy lối ra. Billy lắc đầu. Ông dừng lại, tắt máy và lấy sổ ra ghi lại tất cả những gì nhớ được, bên ngoài những chiết xe ô tô lao qua vùn vụt trên con đường bốn làn xe dẫn vào thành phố. Mình có nên tin Emily không? Chẳng có lý do gì mà không tin cả. Đầu gối của ông bắt đầu đau. Đó là một dấu hiệu không tốt. Sự đau nhức như thế này thường đi cùng với mệt mỏi và là dấu hiệu đầu tiên của thất bại. Một kẻ giết người đang nhởn nhơ bên ngoài. Chứng cứ phạm tội quá ít ỏi. Tất cả những gì ông có thể làm bây giờ là chờ đợi.
o O o
Đó là một đêm cay đắng đối với Justin Moore. Một cuộc chạy đua marathon cũng không mệt bằng một, hai tiếng ngủ chập chờn. Cả tối cậu đã ngồi một mình và uống rất nhiều rượu và Coca rồi để nguyên quần áo leo lên giường nằm mê mệt. Khi giấc ngủ vừa đến, ác mộng về Yianni lại làm cậu giật mình tỉnh giấc. Lúc này, ánh nắng mặt trời buổi trưa như đót cháy phòng ngủ của cậu, Jưstin phải ra khỏi giường và buộc phải đối mặt với những gì ngày mới đem lại cho mình.
Justin bước vào nhà tắm, lát sau, cậu mặc một chiếc quần soóc ka-ki kiểu nhà binh và một chiếc áo sơ-mi cotron rồi bước xuống cầu thang vào phòng ăn. Mẹ cậu đã chuẩn bị một ít cam bổ sẵn được đựng trên chiếc đĩa sứ tinh xảo của bà. Aileen Moore rất chú ý tới những bữa ăn trang trọng trong ngày, và trưa chủ nhật cũng không phải là ngoại lệ. Đầu Justin đau như búa bổ.
"Ồ, chàng trai lười nhác. Con vẫn còn muốn ăn sáng à? Mẹ có món thịt muối nóng cho con trong lò đấy." Mẹ cậu hất hất đầu về phía cánh cửa thông ra bếp.
"Con chỉ dùng cà phê thôi mẹ ạ."
Justin ngồi xuống ghế và cau có nhìn vào những miếng cam nhỏ đang rỉ nước. Cậu thở dài. Có thể Yianni sẽ nhân nhượng và cho cậu thêm một tuần nữa nếu cậu mang đến cho hắn một số tiền nữa vào thứ bảy tới cùng với một món quà. Nhưng là quà gì đây? Một chai Whisky chăng? Cậu biết Yianni còn muốn nhiều thứ nữa.
Aileen Moore bước vào phòng ăn mang theo một tách cà phê bốc khói và chiếc điện thoại.
"Con có điện thoại này!"
Justin lưỡng lự trước khi nói chuyện điện thoại. Mẹ cậu ngồi xuống đối diện vợi cậu và châm thuốc hút.
"Cứ nói chuyện đi cưng, mẹ không nghe lén chuyện của con đâu."
Giọng nói trong điện thoại vang lên ngập ngừng sau một lúc yên lặng.
"Em thật sự muốn nói chuyện với anh."
"Về chuyện gì?"
"Chúng ta hãy nói chuyện một cách nghiêm túc nhé, Justin."
"Nào Karen, em đã đồng ý rồi. Em trả anh cái nhẫn, chúng ta đã thoả thuận..."
"Em biết. Nhưng có chuyện xảy ra, chuyện rất quan trọng."
"Này, anh còn nhiều chuyện..."
"Anh đến đón em rồi đi uống cà phê được không, Justin? Em xin anh đấy!".
Justin thở dài. Nghĩ tới cuộc sống của mình trong tương lai, cậu nhận thấy rằng, dù vấn đề của Karen có là gì đi nữa thì cũng không làm tình trạng của cậu tồi tệ thêm.
"Khoảng 10 phút nữa anh sẽ đến đón em."
Khi Justin uống xong tách cà phê, mẹ muốn cậu cắt xén bãi cỏ phía sau nhưng Justin nói vài tiếng nữa sẽ làm. Justin lái chiếc xe Olds đi dọc theo đường Baroness khoảng mười hai dãy nhà sau đó rẽ về phía đông, ô tô nườm nượp xung quanh cậu, tiếng động cơ làm ngắt quãng những lời cầu nguyện trong đầu cậu: tiền, Yianne, tiền, cảnh sát. Nhà của Karen ở phía cuối đường. Justin lái xe chầm chậm khi những lời buộc tội bừng thức trong đầu cậu: Mày đã đánh những đứa trẻ vị thành niên. Mọi chuyện sẽ ra sao nếu cảnh sát hỏi mày về Cody và Darren?
Hàng hiên trước ngôi nhà gỗ của gia đình Karen đã bong son, những cái cột đỡ mái che cũng nghiêng đi. Tiếng động cơ chiếc xe Olds rồ lên khi Karen ra hiệu dừng xe, Karen chạy từ trên cửa trước xuống những bậc xi măng. Cô mặc quần jean và áo phông màu hồng, tóc buộc về phía sau bằng một cái khăn sặc sỡ trông như một băng rôn ở trường học.
"Chúng ta hãy đi khỏi đây đã.''
Karen ngồi vào ghế trước của chiếc xe, Justin vào số và cho xe chạy. Tại trung tâm thành phố, Karen ngồi bên cạnh tách cà phê và bắt đầu khóc.
"Em đã có thai."
"Cái gì? Em không thể!"
"Đó là tất cả những gì anh có thể nói sao?"
"Chúa ơi! Chết tiệt!" Justin cúi sát vào khuôn mặt sợ hãi của Karen. "Em bảo là em đã uống thuốc tránh thai rồi cơ mà?"
"Em uống rồi nhưng thỉnh thoảng chu kỳ không ổn định. Đó là một sự cố."
"Ôi, phức tạp đây!" Justin dựa lưng vào ghế và bắt đầu gõ gõ ngón tay trên mặt bàn. "Em đã nói với bố em rồi phải không?"
"Em buộc phải nói."
"Buộc phải? Ý em là gì?"
Karen lại khóc, cô tìm tay của Justin nhưng cậu đã giật tay về.
"Ý em là gì, Karen?"
"Em nói với mẹ em, mẹ em nói với bố em."
"Hay đấy! Thật là hay!"
"Chúng ta làm gì bây giờ hả anh?"
"Chúng ta ư?"
"Bố em sẽ giết chúng ta mất. Ông ấy sẽ giết anh nếu anh không làm gì đó."
"Vì Chúa. Anh phải làm gì?"
"Anh hãy nói nhỏ thôi, Justin."
"Anh phải làm cái gì?" Justin thì thầm.
"Cưới em."
"Đây không phải là những năm 50, Karert. Em đã nghe nói đến phá thai chưa?"
"Em không thể làm điều đó." Karen úp mặt vào lòng bàn tay.
Justin rút một cái khăn giấy và đưa cho cô: "Đây. Lau đi."
Karen lau nước mắt. "Em không thể, Justin. Em yêu anh."
"Em không thể làm điều này với anh, Karen ạ. Không phải lúc này. Và hơn nữa, chúng ta đã đồng ý chia tay rồi cơ mà, em nhớ chứ?"
"Anh yêu em, phải không anh?"
Justin quay đi. Cậu muốn đứng ngay dậy và bước thật nhanh ra ngoài để không khí yà ánh nắng mặt trời rửa trôi những tội lỗi của mình. Justin thích Karen và đã hẹn hò với cô được hơn một nãm, nhưng chắc chắn là cậu không yêu Karen. Cô ấy khá đẹp và họ đã có những giây phút nóng bỏng tuyệt vời, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở đó.
"Bố em sẽ giết anh, Justin." Giọng Karen hạ thấp xuống như một điềm báo. Cô đã bình tĩnh hơn và ngồi thẳng dậy, đôi mắt nâu nhìn thẳng vào mặt Justin.
"Đó là một lời đe doạ phải không? Em đang tìm cách làm anh sợ à? Để anh nói cho em biết, ngay bây giờ và ở đây, chúng ta sẽ giải quyết chuyện này nhưng anh sẽ không định mua nhẫn cưới. Em hiểu không? Đó là lỗi của em. Em thích quan hệ và em có thaỉ. Em ngủ với anh và kể lại với bố mẹ. Bây giờ, em sẽ làm những gì anh muốn, em có nghe anh không?"
"Đừng bắt ép em, Justin." Giọng Karen run run. "Anh đừng tưởng bố em sẽ không trút sự tức giận của Chúa lên đầu anh."
Justin cúi người về phía trước, hai tay ôm mặt.
"Em phải giúp anh, Karen."
"Ý anh là gì?"
"Anh cần tiền."
"Đừng thế nữa. Anh lâm vào nợ nần nhanh hơn bất kỳ ai trên thế giới này."
"Đừng đá anh khi anh bị ngã."
Karen hạ thấp giọng nhưng tiếng nói của cô trở nên lạnh lùng và thiếu tin tưởng: "Lần này anh cần bao nhiêu tiền?"
"Khoảng hơn năm nghìn."
"Chỉ có Chúa mới giúp được anh."
"Anh vay số tiền đó từ Yianni Pappas."
Justin nhìn mặt Karen, cô ngẩng lên với một điệu bộ khinh thường.
"Sao anh có thể làm thế?"
"Anh còn bán cả cần sa nữa. Một gã cảnh sát đã gọi điện và nói là muốn nói chuyện với anh về Sheree Lynn, cô gái sống cạnh nhà anh. Hắn muốn hỏi anh về hai thằng bé bị mất tích, Darren Riegert và Cody Schow. Cảnh sát đã tìm thấy xác của Darren sáng sớm thứ bảy vừa rồi."
Mặt của Karen trắng bệch.
"Nhưng anh có làm gì chúng đâu?"
"Anh bán cần sa cho chúng, Karen. Chúng mới là trẻ vị thành niên."
"Được rồi, nhưng anh không biết tí gì về chúng, đúng không? Anh không phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra với chúng."
"Có thể có, có thể không. Những đứa trẻ này trả anh bằng tiền ăn trộm được. Anh chắc chắn thế. Cảnh sát có thể bắt giữ anh vì đã bán ma tuý cho những trẻ vị thành niên. Lúc đó anh sẽ không có tiền để trả Yianni. Em không biết thằng Yianni đâu. Hắn có thể tìm đến đòi mẹ anh hoặc đốt nhà anh."
"Justin, bình tĩnh nào. Em thì chẳng có gì để cho anh cả. Anh đã thử vay ngân hàng chưa?"
"Bọn ngân hàng chết tiệt, họ đã từ chối anh."
"Làm ơn nói nhỏ thôi."
Justin nhắm mắt rồi ngả đầu về phía sau, cổ họng cậu nghẹn lại như bị ai đó bóp chặt. Cậu đấm mạnh xuống mặt bàn rồi đứng phắt dậy nhanh đến nỗi cốc cà phê trên bàn văng xuống nền nhà.
"Đi thôi." Vừa nói Justin vừa cầm cổ tay Karen lôi đi.
Cậu đưa Karen trở về nhà cô. Dọc đường họ không nói với nhau câu nào. Justin choáng váng với ý nghĩ: mình sắp sửa là một ông bố. Cậu nhìn theo Karen bước ra khỏi xe, băng qua đường vào ngôi nhà gỗ. Dáng đi mềm mại của cô khơi lên những cảm giác yêu thương xưa cũ trong Justin... Cậu luôn thích sự ngọt ngào của Karen, vậy mà bây giờ cô lại bị đối xử một cách giận dữ và tàn nhẫn.
"Xin lỗi em, Karen," cậu thì thầm.
Justin khởi động máy và lái xe đi, cậu cứ lái mãi cho tới khi nhận thấy mình đang ở mép sông Oldman. Toàn thân Justin toát mồ hôi, thiếu chút nữa thì cả nguời và xe đã lao xuống dòng nước cuồn cuộn. Justin ngồi không nhúc nhích, hai tay vẫn bám chặt lấy vô-lăng.
Một ngày mới như thế đấy.
Những ngày cuối tuần cay đắng. Cậu hạ cửa kính xe xuống, ước gì có thể bay lên trong nắng ấm và được tự đo. Justin biết giờ cậu phải nghĩ và lên kế hoạch. Cậu hiểu rằng dù cho có xảy ra chuyện gì thì mình cũng phải giữ đầu óc tỉnh táo và phải hết sức cảnh giác.
o O o
Billy đưa bà Morton vào phòng thẩm vấn rộng chưa đầy 15 mét vuông. Đó là một phụ nữ thấp lùn mặc quần màu tía và áo khoác bằng vải bông, tay cầm một chiếc ví màu vàng rơm. Gương mặt phờ phạc, bà ta mang vào phòng một bầu không khí ảm đạm y như mùi nước hoa rẻ tiền xức khắp người. Bà Morton không có vẻ gì là sợ hãi, nhưng ngoan ngoãn, chẳng khác nào một con chó được huấn luyện đi theo gót chân chủ. Qua ô cửa kính có thể nhìn thấy phòng thẩm vấn có tường cách âm, trong đó kê một cái bàn, hai chiếc ghế, một máy quay và con trai bà ta đang ngồi ở đó. Blayrte Morton khoảng mười bốn tuổi, cao lớn, khoảng trên dưới trăm cân. Khuôn mặt nó như nặn bằng bột, chỉ hở ra hai khe mắt bé tí tẹo, mái tóc sặc sỡ trông hệt như một đống thạch cam. Bà mẹ miễn cưỡng ngồi xuống ghế.
"Chúng tôi sẽ ghi âm lời khai của bà trước, bà Morton," Billy nói. "Đây là camera. Bà không phải sợ. Bà có nhớ ông Bames, chuyên viên tư vấn ở trường trung học không? Ông ta đã tham gia với chúng tôi và ở đây để giúp bà nếu bà muốn. Tôi có một vài câu hỏi. Tất cả những gì tôi muốn là sự thật, bà Morton ạ."
Chuyên viên tư vấn Barries khá gầy có bộ râu được cắt tỉa gọn gàng, trán hói, mặc một bộ quần áo màu nâu vừa vặn khuôn người. Bames kể với Billy là ông ta cũng đang cắt tỉa khu vườn của mình. Billy nhận thấy ngay ông ta là kiểu người hay giúp đỡ người khác, với một phong cách cùng giọng nói điềm tĩnh và thân thiện.
"Bà đã sẵn sàng chưa, bà Morton?" Bames hỏi. "Ngài thanh tra đây sẽ không làm bà mất nhiều thời gian đâu. Tôi biết bà đã đau buồn như thể nào."
Bà ta ngồi yên và có vẻ thụ động.
"Hãy nói với tôi về Blayne," Billy vừa nói vừa ngồi xuống đối diện với bà Morton. "Bà thấy con mình sáng nay như thế nào?".
"Hai năm nay con trai tôi vẫn thế. Hai năm rồi tôi vẫn nhìn thấy nó làm những việc đó. Tôi không biết tại sao thằng bé làm thế. Blayné nói rằng có một sức mạnh nào đó đã bắt nó làm. Từ khi bố nó bỏ đi, thằng bé thích hát cái kiểu đó. À, Blayne cũng thích đọc cuốn sách đó nữa. Tôi có mang nó đến đây, thưa ông thanh fra. Nó trông như Kinh Thánh nhưng chẳng giống những cuốn kinh tôi từng nhìn thấy. Thằng Blayne hát, vừa hát nó vừa châm những que diêm đang cháy vào da thịt mình. Blayne nói nó muốn bị đau và cần phải có sự đau đớn để nghe được giọng nói bí ẩn đó."
Billy nhận cuốn sách từ bà Morton. Nó có bìa màu đỏ, trên đó rập nổi một hình biểu tượng màu vàng. Ông mở trang đầu tiên, nó có những câu thần chú và những hình vẽ. Billy nhìn lại trang bìa và nhận ra nó là một phiên bản khác của Thanatopsis - cuốn sách mà Darren rnang theo khi chết.
"Blayne đã thức suốt đêm qua phải không?"
"Ồ vâng. Nó hát và nhảy múa suốt đêm. Hầu như hai ngày nay rồi, bắt đầu từ thứ sáu. À không, từ sáng thứ bảy, lúc tôi xong công việc và về nhà muộn. Tôi làm nghề dọn vệ sinh tại tòa nhà của chính phủ trên đường Burdetr. Tôi nhìn thấy thằng bé ở phòng ngoài. Tôi không thể ngủ được mặc dù rất mệt. Tôi sợ phải xa Blayne, sợ nó có thể tự huỷ hoại mình."
"Lúc đó khoảng mấy giờ?"
"Khoảng một giờ sáng. Tôi đi taxi về vì lúc đó quá muộn."
"Bà có ngồi lại với Blayne không?"
"Ô, có chứ. Tôi đã cố gắng. Nó cần được bảo vệ, ông thanh tra ạ. Nó cần được đưa đến bệnh viện lần nữa."
"Bà nói đã cố ngồi lại với Blayne. Vậy chuyện gì đã xảy ra tiếp theo, bà Morton?"
"Vâng thưa ông. Tôi đã cố, nhưng được một lúc thì tôi buồn ngủ. Tôi thiếp đi và thức dậy vào lúc 7 giờ sáng, và thằng bé vẫn đang nhảy nhót trên sàn nhà, rồi ngã sụp xuống một góc nhà, giống như lúc nó ở trong bệnh viện trước kia!",
"Cháu có nói gì với bà không?"
"Nói gì à? Nó chỉ hát thôi. À không, hình như nó nói: 'Người ta đã phản bội con'. Chỉ có thế. Tôi nghe thấy rất rõ. 'Người ta đã phản bội con'. Tôi nghĩ Blayne đang nói về bố nó."
"Bà có nhận thấy những thay đổi bất thường khác của con trai bà ngoài những vết thương do diêm không? Có dấu vết khác trên quần áo hay chân tay nó không?"
Billy bỗng nhận thấy mình đang hình dung về thằng bé Blayne ở phòng bên, mặt và tay lốm đốm những vết máu, không nhận thức được đầy đủ tình trạng của chính mình.
"Không, Blayne nhà tôi là một thằng bé sạch sẽ. Nó chỉ mặc những gì mình có, như ở bên kia. Có điều trông nó lúc nào cũng mệt mỏi."
Bà ta nhìn sang phía cửa kính và ngắm Blayne ở phòng bên cạnh. "Như tôi nói, lúc đó Blayne đang nằm trên nền nhà và tôi đỡ nó dậy, cho nó ăn. Blayne đã ngủ cả ngày. Cả ngày thứ bảy. Cứ để nguyên quần áo như vậy. Đến tối nó lại tiếp tục hát và nhảy, cả đêm như thế."
"Bà có thức cùng cháu không?"
"Tôi đã cố. Tôi không thể ngủ được vì nó cứ hát như vậy nên hỏi nó: 'Blayne, ai đã phản bội con, ai vậy?'. Nhưng nó không trả lời. Vì thế sáng nay tôi dậy sớm, theo dõi nó khoảng hai tiếng đồng hồ, rồi sau bữa trưa tôi gọi một chiếc taxi đến đây. Tôi cứ nghĩ về điều Blayne nói. Có người đã làm hại con tôi, đã phản bội nó chăng? Tôi đưa nó đến đây và thượng sỹ Dodd đã ngồi cùng tôi chờ ông quay về."
"Một điều nữa, thưa bà Morton."
Người đàn bà thở ra như trút được một gánh nặng. Billy đưa cho bà ta chiếc khăn giấy để bà ta lau mũi. Ông rút ra tấm ảnh chụp Darren Riegert từ trong túi áo và đặt nó lên bàn.
"Bà đã bao giờ nhìn thấy cái này chưa?"
Bà Morton nhìn chằm chằm vào bức ảnh, miệng hơi há ra, sau đó chớp chớp mắt nhìn Billy rồi nhanh chóng cụp mắt xuống, tay nắm chặt lấy mép bàn.
"Ông lấy tấm ảnh này từ Blayne?"
"Từ một đứa bạn của Blayne tên là Darren."
"Thằng bé đã chết ấy à?" Mặt bà ta tái đi.
"Tôi lấy tấm ảnh này từ mẹ cậu ta. Bà ấy nói Bláyne đã đưa nó cho Darren. Bà có nhận ra nó không?"
"Tất cả những gì tôi biết là Blayne có một cái máy ảnh và luôn chụp những bức ảnh thế này. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều bức trong phòng nó. Nó cũng thích ngày Valentine nữa. Có lần nó đã mua một hộp quà màu đỏ nhân dịp Valentine và để trong phòng mình."
"Được rồi, bà Morton. Bây giờ tạm thời thế đã." Billy giúp bà ta đứng dậy và nói sẽ gặp Blayne để tiếp tục làm việc.
"Thằng bé đang rất mệt, ông thanh tra ạ. Ông có muốn tôi ở đó với nó không?"
"Ô không, bây giờ tôi muốn nói chuyện với một mình cháu đã. Bà yên tâm, tôi sẽ không làm nó sợ đâu. Tôi chỉ hỏi nó vài câu thôi."
"Vâng, thế thì tốt."
Bà Morton miễn cưỡng đi ra cửa như thể bị ra lệnh. Chuyên viên tư vấn Bames phải dìu bà ta ra khỏi phòng. Khi ông quay lại, Billy đang ghi chép vào cuốn sổ nhỏ.
"Bà ta đang ở ngoài hành lang. Ông sẽ làm gì với thằng bé, ông thanh tra?"
Ở phòng bên cạnh, Blayne vẫn nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Nó ngồi bất động như thể bị yểm bùa.
"Dodd, anh có thể gọi giúp tôi một chiếc xe cứu thương không? Tôi nghĩ tốt nhất là đưa đứa trẻ này đến trạm y tế để theo dõi. Anh hãy gọi sếp Bochansky của anh đến để hoàn tất thủ tục lấy cung nhé. Chỉ một đêm thôi. Cho cả bà mẹ đi cùng cũng được."
"Sẵn sàng, thưa ngài."
"Tôi cần phải nói chuyện với thằng bé, ông Bames ạ. Ít nhất tôi cũng muốn biết xem nó sẽ nói với tôi những gì. Cảm ơn ông đã giúp đỡ chúng tôi, tìm ra những cái tên và triệu tập họ đến đây."
"Tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ, ông thanh tra. Ông định khai thác gì ở Blayne?"
"Tôi chưa thể nói ngay được."
Khi mở cửa vào phòng thẩm vấn, Billy thấy Blayne giật mình hoảng hốt và chớp mắt liên tục. Nó úp lòng bàn tay xuống mặt bàn, mắt nhìn lên trần nhà.
"Blayne, bác là Billy. Bác muốn nói chuyện với cháu một chút. Bác vào nhé?"
Blayne Morton bắt đầu hát khe khẽ, thân mình đu đưa, lắc lư. Bames đứng ngoài cửa và ra hiệu cho một sỹ quan vào đợi ở hành lang phòng khi cần trợ giúp.
"Bác là Billy, Blayne ạ."
Billy ngồi xuống đối diện với thằng bé đang lắc lư liên tục. Ông gật đầu ra hiệu cho Bames bắt đầu ghi hình.
"Blayne Morton, 14 tuổi, ngày 30 tháng 6."
Billy nói bằng thứ giọng nhỏ nhưng kiên quyết và thận trọng khi ông rút cuốn sổ ra khỏi túi áo. Blayne mặc một chiếc áo phông trắng nhàu nẩt, ngực áo có những vết bẩn. Billy cúi người gần hơn nhưng không nhìn thấy dấu sơn đen hay vết máu. Rồi ông nhìn bàn tay của Blayne. Trên bàn tay thằng bé có những vết thương đã và đang đóng vảy to bằng đầu điếu thuốc lá. Da của nó vàng vọt, nhưng chẳng có vết đỏ hay đen nào cả. Tóc nó rất tốt nhưng cũng không có dấu vết của sơn đen hay máu. Billy cúỉ xuống gầm bàn để kiểm tra giày và chiếc quần jean đen của Blayne. Có những vết bẩn ở mũi giày và gấu quần. Chuyên viên tư vấn Bames vẫn đứng im lặng. Billy theo dõi Blayne lắc lư trên ghế. Đôi mắt tròn to màu xám của thằng bé dường như không nhận thấy sự có mặt của Billy và Bames.
Đôi mắt ấy đột nhiên ngân ngấn nước.
"Cứu cháu với." Nó thì thào.
"Bác có thể làm gì để giúp cháu, Blayne?"
"Darren," Blayne trả lời. "Darren Riegert đã phản bội cháu."
Đôi mắt của Blayne long lên sòng sọc, nó đưa hai bàn tay chi chít vảy ôm lấy mặt rồi tiếp tục lắc lư người và hát bằng một thứ giọng nhỏ đều đều: "Darren yêu sự bình yên. Darren yêu sự bình yên."
"Sỹ quan trực ban đâu?"
Blayne bỗng ngừng hát. Nó nhắm mắt và ngã từ trên ghế xuống sàn nhà đánh huych một tiếng.
Billy liếc nhìn Bames. "Cứ kệ nó," Bames thì thào.
Người sỹ quan trực ban đã đứng đợi lệnh ở cửa.
"Anh tìm mẹ thằng bé vào đây, bà ta đang ở ngoài hành lang ấy." Billy ra lệnh.
Billy và Bames im lặng quan sát Blayne đang nằm trong tư thế bào thai, hai tay ôm chặt lấy đầu gối, miệng rên khe khẽ. Bà Morton hốt hoảng bước vào, áp chặt chiếc ví màu vàng rơm vào ngực.
"Ôi, Blayne, con trai tôi!"
Bà ta cúi xuống cạnh nó, hai mẹ con trông nhợt nhạt như hai xác chết.
"Tôi đã gọi xe cấp cứu, bà Morton ạ." Billy nói.
"Cảm ơn ông, thanh tra."
"Viên sỹ quan này sẽ hộ tống hai mẹ con bà đi. Bà thấy ổn chứ?"
"Họ sẽ trông chừng con trai tôi à?"
"Chúng tôi sẽ đưa Blayne đến bệnh viện. Bà có thể ở lại với cháu nếu muốn. Sáng mai, nếu cháu khá hơn, bà nên gọi điện cho bác sỹ riêng của gia đình."
"Vâng, sáng nay tôi đã gọi cho bác sỹ nhưng ông ấy có việc phải ra ngoài thành phố, thứ hai mới về," bà Morton phân trần.
Ngoài cửa, thấp thoáng bóng nguời mặc áo blouge trắng đang đi về phía Billy. Vậy là xe cấp cứu đã đến nhanh hơn ông tưởng. Blayne vẫn nằm đó, hai tay che mặt. Billy lùi lại phía sau nhường chỗ cho sỹ quan trực ban và nhân viên y tế nâng Blayne lên cáng rồi đưa ra xe cứu thương.
"Chúng ta tiếp tục nhé, ông Bames!", Billy gợi ý. "Tôi sẽ mua cho ông một cái sandwich, còn ông hãy kể tiếp cho tôi về những người có liên quan tới hai thằng bé, được không?"
Hai người đàn ông rảo bước ngang qua thảm cỏ xanh mướt của khu vườn Galt, không gian nơi đây thật yên tĩnh. Một đài kỷ niệm được dựng lên chính giữa khu vườn, đó là tượng một người lính bằng đồng đang đứng dựa vào khẩu súng trường, báng súng tì lên một mô đất nhỏ. Những cây dương và vân sam đại thụ trong vườn được trồng bởi những cư dân Anh đầu tiên đặt chân đến vùng đất này sau cuộc nổi loạn của Riel (Là cuộc nổi loạn của người dân Metis dưới sự chỉ huy của Louis Riel chống lại chính phủ Canada khi chính phủ Canada chiếm đất của họ. Louis Riel (1844-1885) là một nhà chính trị và lãnh tụ của dân Metis ở đồng cỏ miền Tây. Ông là người khai sinh ra tỉnh bang Alberta của Canada. Sau cuộc nổi loạn thất bại đầu tiên năm 1869, ông phải trốn sang Hoa Kỳ. Dù Riel phải sống lưu vong, người Metis vẫn 3 lần bầu ông vào quốc hội Canada. Trong thời lưu vong, ông cho mình là một thiên sứ được Thượng Đế sai xuống trần để bênh vực dân Metis da đỏ. Ông bỏ Hoa Kỳ về lại Canada, lãnh đạo cuộc nổi loạn năm 1885 nhưng thất bại. Ông bị bắt và bị tử hình, lúc vừa 41 tuổi). Những luống hoa bóng nước và dã yên thảo đan xen vào nhau tạo thành một tấm thảm hồng rực rỡ. Trên cành cây, từng đàn chim sẻ cùng sáo đá bay lượn và hót líu lo trong nắng chiều. Hai người rẽ vào một khu phố lớn mua bánh sandwich và đồ uống nhẹ rồi quay trở lại ngồi bên chiếc bàn gỗ kê dưới những tán cây râm mát.
"Ông nghĩ gì về những đứa trẻ này?" Billy hỏi. "Ông biết chút ít về Cody Schow, Darren Riegert và cả Blayne Morton nữa, đúng không?"
"Chúng là những đứa trẻ cô đơn, sống lang thang. Con của các gia đình tan vỡ."
"Ông đã gặp bố mẹ chúng chưa?"
"Tôi đã gặp và nói chuyện với họ." Bames trả lời không do dự. "Nhưng họ chẳng bao giờ nói nhiều về bọn trẻ. Con cái họ thường gặp nhiều rắc rối: bỏ học, đánh nhau, hút thuốc... Thêm nữa, chúng đều lầm lì, ít nói và thích sống đơn độc một mình. Không đứa nào thích chơi thể thao hay khiêu vũ. Dường như chúng quá tự ti, lãnh đạm với mọi người. Tôi nhận thấy Blayne bây giờ đã khác trước, nhưng tôi không muốn nói điều gì khi bà Morton còn đang ở đó. Tôi không muốn phủ nhận những phán đoán của ông, nhưng tôi không chắc những gì chúng ta vừa thấy là sự thật."
"Ý của ông là gì?
"Có thể thằng bé đã nói dổi chúng ta. Tôi đã từng thấy nó đu đưa lắc lư như thế này một lần trong văn phòng của tôi, khi nó bị bắt quả tang vì tội ăn cắp sách giáo khoa của những đứa khác và giấu trong ba lô. Chúng tôi cũng từng phạt Blayne vì những hành động bạo lực nửa vời nó gây ra. Đó là một đứa trẻ có tâm lý bất ổn. Tâm trạng Blayne thay đổi như thời tiết, mà nó lại biết cách lôi kéo người khác cuốn theo tâm trạng của mình. Giám sát nó kỹ càng thì ông mới có kết luận chính xác, thanh tra ạ."
"Hình như thằng bé này từng quấy rối Darren và đánh nhau với những cậu bé khác trong trường?"
"Cody không cho Blayne gia nhập vào hội của nó. Còn Blayne thì theo như tôi biết chỉ thích thú mỗi một điều, ấy là dụ Darrèn đi theo mình. Blayne là một kẻ to xác thích bắt nạt người khác. Nó thú nhận với tôi như vậy trong một lần bị tôi bắt vì tội, đe dọa và đánh đập một đứa nhỏ trong hành lang."
“Ông có nghĩ vụ treo cổ của Darren là tự sát không?"
Bames ngừng ăn. Ông nhìn thẳng về phía trước, gỡ kính râm ra và xoa xoa lên những ngón tay của bàn tay phải.
"Tôi mong là thế. Nghe hơi lạ phải không? Cody và Darreh là bạn thân, chúng thường lui tới chỗ ở cửa cô Bird. Tôi e rằng hai cậu bé này đã có một thỏa thuận gì đó. Chỉ là cảm giác thôi. Nói thật, dựa trên những gì tôi biết về hai đứa, tôi thấy khó mà tin được chuyện một đứa có thể hành động mà thiếu đứa kia. Thế nên khi ông nói Darren bị trói và bị dao rạch, tôi thấy thật khó mà phán đoán, ừ, ai mà biết được chứ? Có thể đây là một vụ trả thù. Do ghen tuông nghi ngờ chẳng hạn. Blayne dĩ nhiên cũng được liệt vào danh sách tình nghi, chắc ông cũng nghĩ thế phải không? Bọn trẻ vị thành niên này có những mối hận thù và những cuộc chiến mà chúng chằng bao giờ kể với chúng ta cả."
"Để tôi lật lại vấn đề. Hai cậu bé được tìm thấy trong tình trạng treo cổ ở cùng một tầng hầm. Cậu bé thứ hai còn bị thương. Cuốn sách của quỷ Sa tăng và cô Bird là hai yếu tố hoàn thiện nốt bức tranh này. Vài năm trước ở Vancoúver, chúng tôi cũng có một vụ gần tương tự. Bốn cô bé mười lăm tuổi được tìm thấy rải rác trong 9 tuần liền ở những ga-ra khác nhau quanh khu vực đường Marine Drive. Các cô bé đều bị chết vì khí độc carbon monodixe. Chúng tự sát có thỏa thuận ư? Không. Một vụ giết người hàng loạt. Một giáo viên đã đi quanh thành phố, dụ dỗ các em gái, đánh thuốc mê chúng, đầu độc chúng rồi lên ô tô xem chúng chết. Người đồng sự của tôi tên là Harry Stone đã tìm thấy thuốc mê và mặt nạ phòng độc của sát thủ giấu trong một cặp tài liệu của học sinh. ”
"Vậy ông nghĩ thế nào về vụ này, thưa thanh tra? Là tự sát hay giết người hàng loạt? "
"Tôi không biết, ông Bames ạ. Tôi cần phải xem xét nó từ nhiều góc độ. Ông có biết trong thành phố có nhóm giáo phái nào đang hoạt động không? Mối liên hệ giữa những nghi thức tôn giáo và niềm đam mê của những cậu bé này với quỷ Sa tăng có thể dẫn đến những đầu mối nào đó".
“Tôi không biết, thưa thanh tra. Tôi chưa từng biết đến một giáo phái nào ở đây cả. Điều đó không có nghĩa là không có bất cứ một giáo phái nào. Nhưng ông biết đấy, chúng thường ẩn trong thế giới ngầm. Hầu hết những thành viên trẻ của các giáo phái đều có xu hướng rời bỏ trường lớp và biến mất trong những con phố."
'Ừ, "Billy đồng ý. "Chúng ta đi thôi, ông Bames."
***
Trở về trụ sở, Bames đưa cho Billy danh thiếp của mình, Billy cũng trao cho ông ta số điện thoại riêng cùng email của sở cảnh sát. "Cảm ơn ông, ông Bames. Thứ hai tôi sẽ liên lạc với ông. Chúng tôi có thể tiến hành vài cuộc thẩm vấn nữa không?"
"Có lẽ các ông không thẩm vấn được nhiều nữa đâu. Tôi đã kiểm tra các dữ liệu trong máy tính và chẳng tìm thấy một cái tên nào còn liên quan đến Darren Rierert nữa. Người bạn thân nhất của cậu bé thì đã chết rồi."
"Ông có biết một cô bé tên là Emily Boume không? Cô bé có mái tóc đen và xăm hình con nhện lên cổ ấy?"
"Tôi không nhớ lắm? Cô bé ấy có liên quan đến vụ này sao? "
"Cô bé nói mình là bạn của Cody và Darren. Tôi đang kiểm tra lại mối liên hệ giữa cô bé với hai đứa trẻ kia."
Hai người đàn ông bắt tay nhau rồi Bames ra về. Sau khi tiễn nhân viên tư vấn ra phía phòng thường trực, Billy đi dọc lại hành lang để vào phòng của Butch. Ông ngồi vào bàn máy tính, nhập mật khẩu rồi lướt qua những dữ liệu về Cody Schow và Sheree Lynn Bird, ghi vào sổ những thông tin quan trọng trong các báo cáo của điều tra viên, thông tin về dấu vân tay, những phân tích pháp y. Sau khi đã nghiên cứu hàng giờ, ông tắt máy rồi đặt quyển sổ lên bàn. Hãy thả lỏng các giác quan một lát nào. Sheree Lynn Bird có liên quan thế nào đến vụ này nhỉ? Billy bừng mở mắt. Thú vị đây. Sao câu hỏi này lại xuất hiện trong đầu mình đầu tiên? Ông lại nhắm mắt lại, ngả người vào lưng ghế. Đầu ông cứ ong ong. Những hành động và thái độ của Blayne Morton có phải là triệu chứng của điên loạn hay không, khi thằng bé dường như cố tung hỏa mù để che giấu đi cảm giác tội lỗi? Billy nhét cuốn sổ vào trong túi áo, nơi gần trái tim, rồi rảo bước về phía quầy uống cà phê và gặp Dodd ở đó.
'Dodd, anh lấy cho tôi lời khai của cô Bird được không?"
'Vâng, thưa ngài."
'Nghe này, trường học đang trong thời gian nghỉ nên anh hãy gặp hiệu trưởng để mượn cuốn kỷ yếu năm nay và năm ngoái của trường nhé. Tôi cần những bức ảnh của Darren và Blayne."
Dodd viết vội mấy cái tên vào một mẩu giấy nhỏ.
“Còn nữa, hãy nói với hiệu trưởng là sau kì nghỉ hè hãy phóng to bức ảnh của Darren lên rồi dán trên bảng tin cho học sinh toàn trường thấy. Anh cũng nhờ ông ấy in một bản thông báo xem có ai biết Darren hoặc nhìn thấy cậu bé trong những tuần qua không. Nếu anh tìm thấy bức ảnh rõ nét nào của Blayne hãy mang đến những trạm xe bus của thành phố và hỏi tài xế lái các tuyến chính từ Ashmếad đến khu phố Blayne sống xem có ai nhìn thấy thằng bé không.
'"Sẵn sàng, thưa ngài."
"Anh có mang sổ theo không đấy?"
Dodd lục lọi trong túi và lôi ra một quyển sổ. Anh vừa bước theo Billy vừa lật giở những trang giấy và đọc nhanh:
'Thưa ngài, tôi đã hỏi hàng xóm của cả Woody Keeler và Sharon Riegert. Không ai trông thấy họ ra khỏi nhà vào tối thứ sáu. Rồi tôi lái xe đến một đại lý bia gần ngôi nhà gỗ của bà Sharon, chủ cửa hàng đó có biết Woody. Và, tối thứ sáu, như thường lệ, Woody đã đến cửa hàng tậu về một két bia. Lúc đó khoảng 6 rưỡi."
'Được rồi."
“Cuốn băng ghi lời khai của cô Bird và ông Mucklowe đã được hoàn tất theo lệnh ông. Tôi đã hỏi chủ nhà và những người hàng xóm quanh khu hai người đó ở, nhưng không ai biết tối thứ bảy họ ở đâu. Cũng theo lệnh ông, tôi đến nhà Schow để hỏi xem tối qua họ ở đâu nhưng bà Schow đang say xỉn, bà ấy từ chối trả lời và đóng sập cửa lại."
Lúc này Billy và Dodd đã đứng ở lối vào phòng giám định.
“Chào Johnson!"
Căn phòng rất sáng và nồng nặc mùi thuốc sát trùng. Johnson đang ở đó, đeo tạp dề và găng tay, trên cổ cô lủng lẳng một chiếc khẩu trang.
“Có tin gì mới chưa?
“Trước tiên, chuyên gia chữ viết đã xem xét dòng chữ trong mẩu giấy được lấy từ miệng của Darren và dòng chữ sau tấm ảnh ông đưa cho tôi." -Johnson vừa nói vừa đưa tấm ảnh chụp hộp quà Valentirte cho Billy. “Ông ấy nói những bút tích này không giống nhau cho lắm, nhất là trong cách viết chữ E hoa. Chữ trong mẩu giấy nghiêng nhiều hơn so với chữ sau tấm ảnh."
“Còn gì nữa? "
“Tầng hầm trong Ngôi nhà của quỷ Sa tăng không có dấu vết nào đáng kể, không vết tích nào trên ống nước hay bồn rửa. Những dấu vết trên tay vịn cầu thang, trên tay nắm cửa, trên máy giặt hay máy sấy bị động chạm tới thường xuyên nên đã mờ đi rất nhiều và chẳng có mẫu nào rõ ràng để phân tích."
"Vết máu trên chiếc khăn giấy đã che đi vết tinh dầu dưỡng da hay những dấu vết khác của người dùng nó. Cả mẩu giấy được tìm thấy trong miệng của nạn nhân cũng trong tình trạng tương tự."
“Cô có tìm được điều gì khi kiểm tra sợi dây thừng hay chiếc đài không? "
"Tất cả các vết máu đó đều là của Darren."
Billy đứng cạnh bàn, nhìn chăm chú vào những vật trước mặt. Dodd dừng lại một lúc ngoài cửa, hít vài hơi thật sâu rồi bước vào đứng cạnh Billy. “Cái mùi ở đây làm tôi thấy khó chịu quá."
"Tôi có một câu hỏi cho cả hai người," Billy vừa nói vừa nhìn Dodd và Johnson. "Chúng ta cho rằng chiếc đài này là của Darren, nhưng căn cứ vào đâu? Có chắc chắn không? Những vật như thế này không có số sê-ri, mà các mẫu sản xuất mọi năm đều giống nhau. Nó cũng có thể thuộc về tôi, đúng không nào? Có thể ai đó đã mang nó tới hiện trường như một quà tặng, một thứ lễ vật trong nghi thức cúng tế chẳng hạn."
Dodd chen ngang: "Nhưng đã có dấu vân tay của Darren Riegert trên đó."
"Bởi vậy chúng ta có thể giả định hoặc là Darren đã mang cái đài này đến Ngôi nhà của quỷ Sa tăng, hoặc là kẻ sát nhân đã đi găng tay nên không để lại dấu vân tay trên đó."
Johnson ngập ngừng: "Trước khi ông đến đây tôi đã làm một số phân tích. Tôi đã đặt đôi giày của cậu bé lên trên chiếc đài. Đây, để tôi làm lại cho ông xem."
Johnson lấy đôi giày ống có dây vết máu của Darren Riegert từ trong túi nilon ra rồi đặt từng cái một lên chiếc đài.
"Ông thấy không?" Johnson vừa nói vừa chỉ vào những giọt máu khô trên giày và cạnh của chiếc đài. "Khi tôi nhấc đôi giày lên, ông thấy mặt trên của chiếc đài không có vết máu nào. Giờ tôi lại đặt đôi giày vào chỗ cũ, có thể thấy những vết máu kéo dài từ mũi giày tới mép chiếc đài."
"Như vậy thằng bé đi giày và đứng trên chiếc đài khi cơ thể nó đang chảy máu."
"Có vẻ là hợp lý."
"Điều này có nghĩa gì?" Dodd hỏi lại.
"Chỉ có hai khả năng: Darren bị rạch trước hoặc trong khi nó đứng trên chiếc đài. Những vết máu trong bức ảnh chụp hiện trường lại cho thấy thằng bé bị rạch khi đứng dưới ống nước, ngay vị trí cái thòng lọng. Như vậy, đã có kẻ bắt Darren phải đứng trên chiếc đài trong lúc dùng dao rạch cổ tay và ngực nó. Chúng ta đã thu được con dao và mẫu máu trong lòng bàn tay phải của nạn nhân. Vậy những vết máu đó có phải là của chính nạn nhân khi cầm con dao đẫm máu không? Còn những vết máu chảy thành dòng riêng biệt là do con dao rơi xuống hay do hung thủ bỏ lại cạnh chiếc đài?"
Johfison vừa vỗ nhẹ vào chiếc đài vừa nói: "Thưa ông, có thể Darren Riegert đã dùng dao tự rạch mình hoặc hung thủ bắt cậu ta đứng lên chiếc đài rồi rạch, và sau đó con dao được đặt trên nền nhà như là..."
Dodd lắc đầu: "Có thể thằng bé đã cầm con dao tự rạch mình, sau đó vì đau quá mà thả con dao rơi xuống."
"Có thể như vậy," Billy tán đồng. "Có thể Darren bị ép phải làm như thế. Vấn đề là tại sao chiếc đài lại bị đem ra khỏi hiện trường? Và tại sao kẻ tòng phạm - ta hãy cứ gọi như thế - lại đem vùi con dao xuống đất? Con dao lại bị vùi một cách cẩu thả, như thể kẻ đó cố tình để chúng ta tìm thấy nó vậy. Chiếc đài thì được giấu kỹ hơn. Vậy phải chăng những thứ này được giấu đi trong lúc thủ phạm đang vội và rất hoảng sợ? Hay hắn cho rằng chôn giấu những tang vật sẽ loại bỏ dấu vết của mình tại hiện trường nhằm đánh lạc hướng cảnh sát điều tra?"
Khi Billy nói xong nhận định của mình, Dodd và Johnson nhìn nhau. Dodd giở cuốn sổ tay ra và ghi lại những câu hỏi mà Billy vừa nêu. Trong bầu không khí im lặng ngột ngạt. Billy xem kỹ lại những tang vật vừa thu được: chiếc đài, con dao, sợi dây thừng. Ông đã xác định đúng vết cháy của sợi dây, nhưng ông không chắc nó được làm từ chất liệu gì. Nó được bện từ sợi ni-lon nhưng nhiều chỗ đã bị xơ, có lẽ vì ni-lon rẻ tiền và lại bị mòn đi trong quá trình sử dụng nên bề mặt xù xì của nó đã xuất hiện những vết thâm giống như được bện bằng sợi gai dầu.
"Cô có tìm thấy gì ở đoạn dây này không, Johnson?"
"Có thưa ngài. Có vài sợi lông chó và mấy dấu vết trên da của Darren còn lưu lại trên đó."
"Còn cái túi bị vấy máu thì sao?"
"Đó là máu của Darren Riegert. Trong túi chẳng có gì ngoài xơ vải và mấy sợi ni-lon của dây thừng."
Billy cầm cuốn sách của Darren lên, cuốn Thanatopsis. Ông tự hỏi không biết Dodd hay Johnson đã giở nó ra để nghiên cứu các câu thần chú hay những thứ bên trong nó hay chưa. Cuốn sách là tang vật cuối cùng họ chưa phân tích. Billy giũ giũ cuốn sách, từ phía trong rơi ra một tấm ảnh chụp bằng chiếc máy Polaroid.
"Ồ," Billy kêu lên làm cho hai người kia phải chú ý.
Bức ảnh chụp một hộp quà Valentine màu đỏ. Billy rút hai tấm ảnh từ trong túi ra và đặt chúng thành một hàng trước mặt Johnson và Dodd.
"Ai đã chụp những bức ảnh này thưa ngài?" Johnson hỏi.
"Hai bức tôi giữ được xác định là do Blayne Morton chụp. Còn bức ở trong cuốn sách..."
"Chắc chắn cũng là nó chụp." Dodd xen vào. "Tấm ảnh này cũng chụp cái hộp kẹo màu đỏ ấy."
"Nhưng tại sao nó lại ở trong cuốn Thanatopsisi? Có chữ viết đằng sau nó không?"
Johnson lật ngược tấm ảnh ra sau.
"Có, thưa ông. Có dòng chữ: 'Hãy gặp mình tối nay! Mình xin cậu đấy!'"
Nói rồi cô đưa tấm ảnh cho Billy. Ông nhận ra dòng chữ trên bức ảnh này giống hệt như dòng chữ ghi trên bức chụp món quà Valentine trước.
"Hãy in tấm ảnh này ra, Johnson. Tôi nghi ngờ nó là một trong những tấm Blayne Morton chụp. Bây giờ chúng ta có ba tấm ảnh của Blayne Morton gửi cho Darren Riegert, một trong số chúng được tìm thấy ở hiện trường. Nó được cố ý mang tới đó hay chỉ là vô tình kẹp trong cuốn sách?"
"Như thế vẫn chưa đủ để kết luận phải không ạ?" Johnson hỏi.
"Chúng ta phải tìm được chứng cứ rõ ràng để chứng minh Blayne Morton có mặt tại hiện trường."
"Hai người có tìm thêm được gì về Woody Keeler không?" Billy hỏi.
Cả Dodd và Johnson đều phì cười: "Có, thưa ngài. Chúng tôi để dành đến lúc cuối này đấy."
Johnson tháo găng tay còn Dodd đi mở cánh cửa xoay để Billy vào phòng máy tính. Đó là một căn phòng có hai cửa, một thông với hành lang, một thông với phòng giám định.
"Đây là phòng truy cập đặc biệt của chúng tôi." Johnson giải thích và mở cửa.
"Chắc hôm qua Dodd đã giải thích với ông, nơi này lưu trữ toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết nối trực tuyến với các đơn vị khác trong tỉnh. Tất cả đều an toàn và bí mật tuyệt đối. Sếp Butch nói ông ấy không muốn nhân viên của mình truy cập bừa bãi vào các dữ liệu hoặc ngồi chơi cả ngày bên bàn làm việc." Johnson liếp mắt ranh mãnh về phía Dodd.
"Này..." Dodd định cự cãi lại nhưng Johnson đã ngồi vào bàn máy tinh gõ mật khẩu. Billy kéo ghế và ra hiệu cho Dodd ngồi xuống.
"Woody Keeler, 34 tuổi. Đây là hồ sơ trợ cấp thất nghiệp của hắn, thưa thanh tra."
Billy xem lướt qua những ngày tháng trong hồ sơ, những địa chỉ thay đổi liên tục, những thông tin về việc làm mà trung tâm bảo trợ xã hội cung cấp cho Woody, cùng với đó là lý do hắn từ chối. Johnson nhấp chuột, hồ sơ hình sự Woody Keeler hiện lên trên màn hình.
"Hai biên bản phạt vì lái xe trong tình trạng say rượu, một lần bị giữ vì lái chiếc xe ăn cắp nhưng sau đó được bỏ qua. Đó là tháng 9 năm 1996, Woody Keeler đã cung cấp các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu xe. Hắn nói là do mình đỗ xe nhầm chỗ và bị phạt vì lỗi không mang giấy tờ hợp lệ."
"Mả đến phần quan trọng hơn đi, Johnson." Dodd hăm hở.
"Woody Keeler bị bắt một lần vào năm 1990 vì tội danh đánh người gây thương tích."
Johnson di chuyển con trỏ đến mục tìm kiếm, rồi chọn dữ liệu. Trên màn hình hiện ra bản sao hồ sơ báo cáo của Cảnh sát Hoàng gia Canada về Woody Keeler.
"Cảnh sát Hoàng gia yêu cầu mỗi tội phạm phải có một bản báo cáo viết tay và một bản đánh máy, cốt để các nhân viên quản lý thông tin một cách tốt nhất."
"Sao cô biết được những điều này hả Johnson?" Dodd tò mò hỏi.
"Đó là một nguyên tắc làm việc có từ trước của quân đội. Chúng ta có thể tra tìm những tội phạm nghiêm trọng qua hồ sơ của Cảnh sát Hoàng gia lưu trữ trong 50 năm qua. Tất nhiên là trừ những hồ sơ thuộc loại tối mật do Bộ Quốc phòng quản lý."
Billy đọc trên màn hình những thông tin mới về Woody Keeler. Hắn từng bị tình nghi đánh người tại Khu bảo tồn Peigan thuộc địa phận Brocket vào ngày 30 tháng 8 năm 1990. Lúc đó hắn 26 tuổi. Ngay ngày hôm sau, Keeler bị bắt. Nạn nhân là một cậu bé mới 17 tuổi tên là Ervin Bom With a Tooth. Cậu bé đã phải nhập viện ở St.Michael, Lethbridge trong tình trạng hai chiếc răng cửa bị gãy và choáng nhẹ. Một nhân chứng cho biết ông ta đã nhìn thấy Keeler đi ra từ một cửa hàng đồ dùng gia đình ở Brocket, trên tay cầm một chai rượu và đâm sầm vào cậu bé này. Sau đó thì xảy ra ẩu đả. Về sau, một thành viên trong gia đình nạn nhân đã nhận ra Keeler chính là bạn học cũ của người cha quá cố của Ervin.
"Tòa án đã xử phạt Keeler ba tháng tù tại nhà giam thành phố Lethbridge. Nhưng sau đó hắn được tại ngoại và đã đăng kí tham gia lao động công ích."
"Hãy cho ngài Billy xem phần cuối đi." Dodd nói.
"Tôi cũng tìm hiểu thêm về cậu bé Ervin. Vào ngày 15 tháng 9 năm 1990, hai tuần sau khi vụ đánh nhau xảy ra, cảnh sát lại xử lý một vụ khác liên quan đến án mạng. Hiện vụ án vẫn chưa được giải quyết. Tôi nghĩ ông cần một bản sao trên giấy của vụ án này."
Johnson mở tủ đựng hồ sơ và rút ra một tập bìa cứng màu xanh da trời. Cô đưa cho Billy bản sao hồ sơ của Woody Keeler và bản photo một bài viết trích từ báo Lethbridge Herald số ra cùng ngày với báo cáo của Cảnh sát Hoàng gia.
Billy đọc tiêu đề của bài báo:
CẬU BÉ THỔ DÂN TREO CỔ TẠI SÂN VẬN ĐỘNG
Nạn nhân là một cậu bé người Peigan, 17 tuổi, thi thể được tìm thấy vào sáng thứ năm tại sân vận động trường trung học Brocket. Cảnh sát viên thuộc đội Cảnh sát Hoàng gia địa phương, Walter Schmidt đã nhận được điện thoạỉ của ngài hiệu trưởng Allan Houk từ sáng sớm. Nạn nhân bị treo cổ trên giá bóng rổ. Theo nhận định ban đầu của cảnh sát viên Schmidt, đây có thể là một vụ giết người. Các thành viên trong gia đình nạn nhân đã đến và nhận dạng. Qua khám nghiệm tử thi, bác sỹ pháp y đã kết luận: Ervin Bom With a Tooth chết do bị ngạt "Hiện tại chúng tôi chưa có đầu mối," cảnh sát viên Schmidt nói. "Chân tay cậu bé đều bị trói bởi dây điện. Chúng tôi đang tìm hiểu bản chất của vụ việc."
"Chuyện gì xảy ra tiếp theo?" Billy sốt ruột.
"Tôi đã tìm kiếm thông tin trên các số báo Herald phát hành liên tục trong sáu, tám rồi mười hai tháng. Nhưng chỉ có hai bài viết về vụ này, họ nói cảnh sát vẫn chưa tìm ra manh mối và đang kêu gọi mọi người hợp tác với cơ quan điều tra. Tôi có thể cho ông xem hồ sơ của Cảnh sát Hoàng gia nếu ông muốn. Cảnh sát ở Brocket và Fort Macleod không tìm thấy manh mối và nhân chứng. Gia đình cậu bé cũng không giúp được gì. Bản cam kết tù nhân của Woody Keeler ghi lại khá trình tự những việc làm của hắn theo thời gian. Hàng ngày hắn đến trình diện Trung tâm cộng đồng, đi làm việc và gọi điện báo khi trở về nhà. Hắn chỉ phải phục vụ ở trại giam mười lăm ngày đầu của tháng 11 năm 1990. Đến năm 1992, vụ án buộc phải đình lại."
Billy xem lại bài báo.
"Ngày mai Johnson đi Brocket nhé. Cô có bận gì không?"
"Thưa ngài, sáng mai tôi đi đánh bóng ở Henderson lúc 6 giờ, nhưng khoảng 9 giờ là tôi có thể lên đường được."
"Hãy gặp và nói chuyện với viên cảnh sát phụ trách vụ của Ervin. Tôi biết vụ án xảy ra đã lâu, và những người ở Peigan có thể không muốn nói chuyện với cô. Tất cả những nỗ lực này có thể đổ xuống sông xuống bể, nhưng chúng ta vẫn phải thử, đúng không?"
Johnson gật đầu. Billy tiếp tục: "Hãy nói chuyện với những người trong gia đình của Ervin, xem họ biết gì về Woody Keeler. Tìm hiểu xem hắn có còn lai vãng quanh khu bảo tồn không? Hắn còn bạn bè ở đó không? Mẹ Ervin là người thế nào? Chúng ta cần xem xét liệu có mối liên hệ nào ở đây không. Ta có ảnh của Woody chưa?"
"Tôi không rõ," Dodd trả lời. "Để tôi kiểm tra lại."
"Cảnh sát ở Brocket có thể có ảnh rồi, thưa ngài. Nó sẽ ở trong hồ sơ bắt giữ của họ," Johnson nói.
"Hãy hỏi lại mọi người. Chúng ta cần kiểm tra xem Woody có để lại dấu vết nào không. Tôi không nghĩ vụ của Darren Riegert liên quan đến vụ của Ervin, Woody không có động cơ rõ ràng nào để giết Darren. Nhưng chúng ta cũng cần bắt đầu từ đâu đó."
Lên tầng trên, Billy đi tìm Butch nhưng ông bạn cảnh sát trưởng không có trong văn phòng. Viên sỹ quan ở bàn thường trực nói với Billy là Butch đã đi dự một cuộc họp quan trọng của cảnh sát Lethbridge, khoảng một tiếng nữa ông ấy sẽ về. Billy đứng trầm ngâm trong giây lát.
"Tôi hiểu."
"Tôi có thể cho ông số điện thoại của phòng họp nếu ông muốn."
"Không, cảm ơn. Thế là được rồi."
Thời gian tiếp tục trôi đi. Bụng Billy réo ầm ầm. Đầu gối bị thương của ông giờ lại giở chứng. Ông khập khiễng quay trở lại phòng Butch tìm hai viên Tylenol uống cho đỡ đau. Vài phút sau, ông vào phòng thẩm vấn B, ở đó có một chàng trai đang ngồi đợi.
"Cậu là Justin Moore phải không?"
Justin đứng lên, vội rút tay ra khỏi túi quần. Billy nhận thấy trên khuôn mặt nhẵn nhụi và điển trai của cậu ta thoáng chút hoảng hốt. Ông mời Justin ngồi xuống. Chiếc camera bắt đầu hoạt động. Billy nói về nội dung vụ án xảy ra tại Ngôi nhà quỷ Sa tăng và những khó khăn trong quá trình điều tra. Justin lắng nghe một cách chăm chú; Billy ghi nhận thái độ lịch sự của cậu ta.
"Điều mà chúng tôi cần ở cậu đó là trả lời đúng sự thật, Justin ạ."
"Về hai đứa trẻ đó phải không?" Justin hỏi lại.
"Chúng ta sẽ bắt đầu từ chúng. Cậu đã bao giờ gặp chúng chưa?"
"Tôi nhìn thấy chúng trong sân và thỉnh thoảng thấy chúng đứng đợi cô Sheree Lynn ở bậc thềm trước nhà."
"Cậu đã bao giờ nói chuyện với chúng chưa?"
"Chưa. Tôi biết tên chúng là vì nghe thấy cô Bird nói chuyện với mẹ tôi về chúng. Mẹ tôi rất tức giận khi những đứa trẻ đó cứ đến ngôi nhà của cô Bird."
"Tại sao?"
"Vì bà biết những đứa trẻ này hay gây rắc rối. Chúng là con của những gia đình sống bằng trợ cấp xã hội. Bà sợ chúng sẽ đột nhập vào nhà tôi ăn trộm."
"Vậy đã có vụ đột nhập nào chưa?"
"Chưa."
Justin ngồi thẳng dậy và hít một hơi thật sâu, Billy nhận thấy cậu ta vặn vẹo hai bàn tay, chân cứ di di tại chỗ.
"Cậu biết về cô Shereè Lynn Bird như thế nào?"
"Cô ấy thuê nhà của cô tôi, bà Marion. Tôi biết hai đứa trẻ thỉnh thoảng đến đó. Tôi còn biết Cody đã sử dụng ma tuý, cô Sheree Lynn nói với mẹ tôi như vậy. Tôi cũng được biết cô Sheree Lynn bị thất nghiệp. Bạn trai cô ấy là giáo sư ở trường đại học, tôi là sinh viên của ông ấy. Thế đã đủ chưa? Cô Sheree Lynn một lần đã đề nghị mẹ tôi sơn lại ngôi nhà đó nhưng bà nói chúng tôi không có đủ tiền."
"Cậu đã trực tiếp nói chuyện với cô Sheree Lynn bao giờ chưa?"
"Tôi chỉ chào cô ấy, không nhiều lắm, mặc dù cô ấy là người khá thân thiện. Cô Sheree thích được tán tỉnh, thưa ông thanh tra. Trông cô ấy rất khêu gợi. Có lần cô ấy mời tôi sang sân chơi và tắm nắng với mình. Sheree Lynn nói muốn để ngực trần tắm nắng. Tất nhiên là tôi bị cám dỗ. Nhưng... sau đó cô ấy rất lạnh nhạt với tôi." Justin vừa nói vừa nhìn Billy cố tỏ ra thân thiện và thoải mái hơn trong tư thế ngả người ra phía sau.
"Tối thứ sáu vừa rồi cậu đã ở đâu?"
"Tôi ở nhà."
"Với mẹ cậu à?"
"Hai mẹ con tôi xem tivi. Mẹ tôi đi ngủ sớm, tôi còn xem phim và ngủ muộn hơn."
"Cậu có thấy gì bất thường ở nhà bên cạnh không? Có ai đi ra hoặc đi vào chẳng hạn?"
"Tối đó thì không. Tôi thực sự không chú ý đến cái nhà đó. Ý tôi là, tôi chỉ hay nhìn thấy mấy thằng bé và giáo sư Mucklowe. Trừ một thời gian, khoảng một năm trước đây, họ thi thoảng có tổ chức tiệc tùng và mở nhạc to đến tận khuya."
"Loại nhạc gì?"
"Rock, đôi lúc là heavy metal. Mẹ tôi mấy lần định doạ sẽ báo cảnh sát, nhưng họ lúc nào cũng chỉ mở nhạc đến khoảng 23 giờ nên chúng tôi củng mặc kệ. Tôi nhớ, tháng 11 năm ngoái, vào một buổi tối ấm áp khác thường, tôi vô tình nhìn qua cửa sổ nhà bếp và thấy Cody đang trần truồng nhảy nhót ở bãi cỏ phía sau trong tiếng nhạc nện thình thình. Sau đó nó nằm lăn ra đất và kêu gào như thể gặp ác mộng, nhưng tôi có cảm giác nó vẫn tỉnh táo."
Justin nhìn như dán vào mặt bàn. Cậu ta đã thoải mái hơn, giọng nói không còn hụt hơi như lúc ban đầu.
"Cậu cho rằng lúc đó đã xảy ra chuyện gì?"
"Nó bị quá khích vì loại nhạc nặng, tôi nghĩ vậy."
"Đó là lần duy nhất cậu nhìn thấy kiểu hành động như thế phải không?"
"Vâng, nhưng có lẽ chuyện không chỉ có vậy."
"Ý cậu là gì?"
"Cody có những hành động thật man dại. Rất may phòng ngủ của mẹ tôi không trông ra ngôi nhà đó. Tôi nhớ có một lần tôi bắt gặp giáo sư Mucklowe bước ra ngoài thảm cỏ, chỉ mặc độc cái quần đùi. Ông ta túm lấy cổ Cody rồi họ quấn lấy nhau, không biết là đang nhảy hay đang đánh nhau nữa. Lúc đó trời tối nhưng vì quang mây nên tôi vẫn nhìn thấy được. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh đó. Thật khác thường." Justin dừng lại vài giây.
Billy hỏi lại: "Họ đang đánh nhau hay là đang nhảy?"
"Tôi nghĩ là đánh nhau. Sau đó Randy cầm tay Cody và lôi thằng bé vào trong nhà. Chỉ thế thôi."
"Cậu còn nhìn thấy những điều tương tự xảy ra nữa không?"
"Không, thưa ông. Nhưng tôi luôn thấy có điều gì đó khác thường trong ngôi nhà đó."
"Như thế nào?"
Justin ngập ngừng: "Chỉ là một giả thiết. Có cái gì đó giữa những thằng bé này với cô Sheree Lynn. Tôi không biết. Tôi chưa tận mắt nhìn thấy điều gì xảy ra, nhưng tôi thấy việc những thằng bé hay ngủ lại ngôi nhà này thật kỳ cục."
"Cậu nghĩ họ có quan hệ tình dục với nhau?"
"Không, thưa ông."
"Thế cậu đã nghĩ gì, Justin?"
"Vâng, tình dục, có lẽ thế. Ma tuý hoặc tình dục. Dù vậy, tôi vẫn chưa chứng kiến bất cứ điều gì."
"Tối hôm đó cậu đã xem phim gì?"
"Vào tối thứ sáu ư?"
"Tên bộ phim ấy là gì?"
"Đó là một bộ phim đen trắng kinh điển nói về mấy người sống sót trên phao cứu sinh. Mẹ tôi đã thuê nó."
"Cậu cho tôi biết tên cửa hàng cho thuê phim đó được không?"
"Vâng, thưa thanh tra. Mẹ tôi luôn thuê ở một cửa hàng nằm ở góc đường gần khu nhà tôi." Justin đưa cho Billy tên và số điện thoại của cửa hàng.
"Đêm đó cậu đi ngủ vào lúc mấy giờ?"
"Khá muộn. Khoảng 2 giờ hay 2 rưỡi gì đó."
"Sáng thứ bảy cậu làm gì?"
Justin ngồi thẳng dậy. Cậu ta có vẻ bồn chồn, đôi chân rậm rịch dưới gầm bàn.
"Tôi xuống phố để mua vài thứ."
"Lúc nào?
"Chắc vào khoảng 11 giờ."
"Cậu đã mua những gì?"
"Tôi không mua được gì cả. Tôi đến trung tâm thương mại rồi đến cửa hàng Boorman xem áo nhưng không thấy cái nào mình thích."
Không còn gì để hỏi thêm, Billy cảm ơn Justin rồi cho cậu ra về. Hai người hàng xóm khác sống trên đường Ashmeád cũng đều trả lời không biết chuyện gì đã xảy ra vào tối thứ sáu. Họ hầu như chẳng biết gì về Sheree Lynn và mấy cậu bé kia. Lật giở cuốn sổ ghi của mình, Billy gạch chân những lời khai của Justin về việc Cody trần truồng nhảy nhót và sự xuất hiện của Mucklowe trong vườn. Ý nghĩ về hành vi lệch lạc tình dục xuất hiện trong đầu ông. Ông đánh dấu vào sổ kế hoạch gặp gỡ Sheree Lynn và Randy lần tới.
Đi bộ ra bãi đỗ xe, Billy tự hỏi liệu có đúng đắn không khi mình rời khỏi trang trại và tham gia phá án cùng với Butch? Suy cho cùng thì cái ngày ông ký vào đơn xin nghỉ hưu tại văn phòng cảnh sát Vancouver cách đây bảy tháng chính là ngày kết thúc sự nghiệp của một cảnh sát điều tra rồi. Tại sao mình không gọi điện cho Butch nói rằng mình đã có một kỳ cuối tuần rất vui và từ ngày mai công việc sẽ là của ông ấy? Những ranh giới và hướng điều tra đã được xác định. Butch có trong tay những công sự đắc lực: JohnSon thông minh, còn Dodd thì cẩn thận. Liệu anh ta có xứng đáng là cánh tay phải của Butch không?
Chợt Billy dừng lại và ngước mắt lên bầu trời xanh bao la. Ông nhớ về vùng đất mênh mông nơi người cha Arthur Yamamoto từng sinh sống. Rồi ký ức về lời hứa tự đáy lòng của ông với cha ùa về. Năm ông 20 tuổi, vào cái ngày gặp gỡ đầu tiên giữa hai cha con sau bao nhiêu năm xa cách, trong vòng tay ôm chặt trong những giọt nước mắt, ông đã nói với người anh cùng cha khác mẹ Toshiro những lời mà đến tận bây giờ vẫn nhớ như in: "Em sẽ trở thành một cảnh sát để chống lại những sự bất công mà cha chúng ta từng chịu đựng."
Billy thấy nước mắt mình dâng đầy trong khóe mắt.
"Vì Chúa!" ông thì thầm.
Billy mở cửa chiếc xe Pontiac và hạ cửa kính xuống cho những làn gió mát thổi vào xua tan đi những ngột ngạt bên trong. Chờ cho xe ra khỏi bãi, ông nhìn về phía đường chân trời thẳng tắp, tưởng tượng ra cảnh bầu trời đổi sắc mỗi khi hoàng hôn và thấy khuây khoả lại. Năm phút sau, Billy lái xe ra khỏi bãi đỗ của trụ sở cảnh sát và cho xe chạy chầm chậm về phía Dawson. Đường phố lúc cuối chiều dày đặc những chiếc xe nhỏ chở đồ, kết quả sau một ngày chủ nhật mua sắm của các gia đình. Billy nhớ lại khi ông còn nhỏ, thành phố này rất hoang sơ. Ngày chủ nhật, đường phố vắng tanh chẳng có mấy ô tô và người qua lại, những ô cửa sổ các nhà hàng đều che rèm kín do luật cấm. Trong khi đó, nhà thờ lại chật ních người đến cầu nguyện. Tiếng chuông trên tháp vang lên không dứt từ 10 giờ sáng đến 1 giờ chiều.
Rẽ vào khu Dufferin, Billy đi qua một nghĩa trang rộng lớn toàn những gốc cây trơ trụi, trước đây vốn là bệnh viện St.Michael. Rồi ông đến một một khu phố buôn bán nhỏ với hiệu sách Mormon và những cửa hàng hoa nằm giáp với bãi đỗ xe của bệnh vịện địa phương. Đó là một tòa nhà lớn với những cửa kính khổng lồ, có rất nhiều cây xanh và bể bơi nhỏ. Những bệnh viện bây giờ trông càng giống khách sạn, Billy nghĩ rồi nhấn ga hướng về phía khoa Thần kinh nơi Blaýne Morton đang điềú trị. Ông sắp xếp lại những câu hỏi trong đầu. Ai đã trói Darren Riegert? Có phải thủ phạm đã bắt Darren đứng trên chiếc đài không? Ai đã nhét mảnh giấy đó vào miệng của Darren?
Billy cùng một y tá bước vào phòng bệnh của Blayne Morton, những giả thuyết trong đầu ông càng trở nên rối rắm hơn khi Blayne có thể có động cơ giết người. Trước mặt ông, thằng bé đang nằm co quắp trên giường sau tấm rèm che kín một nửa. Y tá chỉ vào khuôn mặt nhợt nhạt và đôi môi mím chặt của Blayne.
"Thưa ông thanh tra, hôm nay thằng bé như phát điên. Nó hò hét và lao đầu vào tường, chúng tôi phải cố gắng lắm mới giữ chặt được nó."
Nhân viên y tá là một phụ nữ nhỏ bé có đôi mắt sáng và giọng nói rất đanh. Túi áo ngực của cô nhét một bao thuốc lá bạc hà.
"Nó còn chộp lấy bao thuốc của tôi và lôi ra khỏi túi."
Billy hỏi cô về toa thuốc mà bác sĩ kê và tác dụng của nó.
"Bệnh nhân sẽ được xuất viện trong vòng 10 tiếng nữa. Bác sĩ nói nó phải được quản lý chặt chẽ. Tôi sẽ gọi điện cho ông khi bệnh nhân tỉnh dậy. Chắc chắn thằng bé sẽ kể cho ông nghe về câu chuyện cuộc đời mình."
"Cảm ơn cô," Billy nói rồi mở cuốn sổ tay. "Cô có ngại không nếu tôi ghi lại một vài chi tiết? Cô thông cảm, đó là nghề nghiệp của tôi. Không mất quá 2 phút đâu."
"Ông cứ tự nhiên."
Billy ghi lại tình trạng sức khoẻ, trạng thái tinh thần và toa thuốc bác sỹ kê cho Blayne. Ông cũng xem qua phác đồ điều trị của thằng bé.
"Blayne đã vào đây điều trị như thế này bao giờ chưa?" Billy hỏi.
Cô y tá dẫn Billy đến phòng trực, hồ sơ bệnh án của Blayne được lưu ở đó. Sau vài giây, cô đưa ngón tay dọc theo cột thông tin trên màn hình máy tính.
"Bệnh nhân đã nhập viện hai lần. Một lần do uống quá liều Aspirin và Valium. Lần thứ hai do cậu ta có những hành vi bạo lực thiếu kiểm soát. Đó là vào tháng 12 năm ngoái. Trong ba ngày điều trị tại viện, bác sĩ đã kê toa thuốc chống trầm cảm cho cậu ta." Nói đến đó cô y tá ngẩng lên. "Tôi nhớ ra rồi. Cậu ta thực sự cuồng loạn trong lần đó. Chúng tôi không thể có được câu trả lời trực tiếp từ cậu ta."
"Cô có nhớ những thứ mà cậu bé đã nói không?"
"Có, nó nói điều gì đó về ma quỷ, luôn nhắc tên ai đó đã được bình yên. Miệng còn lẩm bẩm chết là mới là cuộc sống đích thực và nói những câu vô nghĩa. Thằng bé còn nói dối tên của mình và gào khóc. Tôi nhớ, có lần nó đã ném cái bô vào bệnh nhân cùng phòng. Chúng tôi buộc phải chuyển nó sang một phòng riêng. Ba ngày sau, thằng bé trở lại bình thường như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Vì vậy chúng tôi đã cho nó xuất viện"
"Cô có nghĩ cậu ta giả vờ không?"
"Không. Bởi vì tôi đã chứng kiến nhiều người mắc bệnh tâm thần, ông thanh tra ạ." Cô ho nhẹ rồi nói tiếp: "Những đứa trẻ nào bị nghiện mới bị giữ lại lâu hơn."
"Blayne không nghiện ma tuý, phải không?"
"Vâng!", cô ta kiểm tra trên màn hình. "Cậu ta trong sạch."
Billy đưa cho nhân viên y tá tấm danh thiếp có số điện thoại của mình. Cô ta kẹp nó vào chiếc kẹp sắt trên mặt bàn rồi bắt tay Billy tạm biệt.
"Rất vui được gặp ông, ông thanh tra," cô nói rồi nở một nụ cười ấm áp.
Billy đi xuống bằng thang máy. Như vậy Blayne đã có phản ứng tương tự vào lần Cody tự sát. Cụm từ "bình yên" cũng được thốt ra như trong cuộc phỏng vấn ngày hôm nay. Cả hai lần nó đều nói trong những tiếng thổn thức. Những chi tiết này cần phải ghi nhớ.
o O o
Trong phòng ăn, Randy Mucklowe ngồi trầm ngâm trên ghế, nhấm nháp ly rượu Whisky. Cạnh đó Sheree Lynn Bird đang pha trà thảo dược. Randy vừa trở về từ Montana, anh vừa bước chân vào cửa thì Sheree đã than vãn về vụ ngôi nhà bị đột nhập. Randy quàng tay ôm cô tỏ ra quan tâm an ủi. Nhưng lúc đó trong đầu anh lại ta đang nghĩ về Sam, về những chiếc mặt nạ khảm vàng và món tiền lời mà chúng mang lại, có thể lên tới 700 ngàn đô la. Vậy thì những chuyện về Ngôi nhà quỷ Sa tăng và Darren Riegert có gì là quan trọng chứ? Chỉ vài ngày nữa, nếu kế hoạch thành công, anh ta sẽ có rất nhiều tiền và sẽ cùng Sheree Lynn đến sống tại Vancouver.
Randy uống một hơi dài rồi vội tay lấy chai rượu rót tiếp đầy ly. Sheree Lynn kéo ghế ngồi xuống bên cạnh và nắm lấy tay anh. Cô uống trà trong im lặng. Làm sao mình có thể trừ khử được Sam? Randy tự hỏi, anh ta cảm thấy đã kiên nhẫn quá đủ rồi. Tên Sam Heavy Hanđ đang phá hỏng mọi thứ. Robert Lau đã đồng ý trả 100 ngàn đô la cho mỗi chiếc mặt nạ, và hắn không phải là người thích bị lừa dối hay những sự thay đổi đột ngột. Lau như con cáo già, hắn rất tàn bạo và đầy cảnh giác. Randy tin một khi Lau đã sờ tay vào lô hàng quý báu kia thì hắn sẽ trả tiền sòng phẳng, dù hắn không hề thích sự tham gia của Sam.
Sheree Lynn vẫn ngồi yên lặng bên Randy. Uống xong cốc trà, cô tỏ ra sẵn sàng muốn chia sẻ những suy tính của Randy. Randy bèn kể cho cô về những gì đã xảy ra trước đó ở xứ Babb. "Tốt thôi, vậy chúng ta sẽ làm việc với Sam," cô nói.
Nhưng liệu họ có hợp tác được với Sam không? Sam đã đánh cắp những chiếc mặt nạ này từ phòng thí nghiệm của trường đại học, đã giữ chúng gần một năm nay. Mỗi khi nghĩ về việc này Randy lại thoáng thấy lòng day dứt. Cùng lúc đó, trong anh lại trỗi dậy niềm khao khát cùng với nỗi lo sợ khi mưu toan kiếm tiền phi pháp. Randy tin rằng Chúa đã cho anh ân huệ được sở hữu những chiếc mặt nạ đó. Anh từng nghĩ sự nghiệp cả đời mình là đi tìm và bảo tồn cổ vật. Anh đã có nhiều đóng góp cho ngành khảo cổ học, nhưng bù lại anh được những gì? Một chút vinh quang, có lẽ vậy, nhưng tất cả chỉ là hư danh.
Chiếc điện thoại đổ chuông dồn dập. Randy không nhúc nhích.
"Em nghe nhé?" Sheree Lynn đề nghị.
"Không. Cứ kệ nó."
"Có thể ông thanh tra gọi đấy."
"Chưa nghe vội, cứ từ từ đã."
Randy ngồi bất động. Vợ cũ của anh thườrtg gọi đến để đòi tiền trợ cấp sau ly hôn. Mình đã phải thanh lý mấy khoản tiền bảo hiểm và chuyển đến một căn hộ hai phòng rẻ tiền thế này còn chưa đủ sao? Randy uống cạn ly rượu, với tay lấy chai định uống tiếp thì chuông điện thoại lại reo.
"Mẹ kiếp!"
Randy ném mạnh chiếc ly vào bồn rửa. Tiếng kêu khô khốc rồi vỡ vụn. Sheree Lynn vòng tay ôm lấy anh.
"Đừng nóng, anh yêu.".
Anh gạt cô ra. "Hãy để anh một mình."
Randy xuống cầu thang và vào phòng làm việc. Anh mở cửa rồi ra ban công hít thở cho dễ chịu. Vài phút sau quay lại, Randy đã thấy Sheree Lynn đứng ngay ở lối vào. Randy sững người khi nhìn vào gương mặt cô. Cái nhìn đầy lo lắng của cô khiến cho anh phải tập trung suy nghĩ. Randy biết lúc này anh không được mất kiểm soát. Phải tạo cho Sheree cảm giác được bảo vệ, được yêu thương để có thể điều khiển cô. Chắc chắn Sheree Lynn sẽ không bao giờ để lộ những bí mật giữa họ đâu. Sheree thật quyến rũ, cô luôn làm Randy thấy vui vẻ và thoải mái, nhất là những lúc thế này. Ở bên cô, anh thấy tĩnh tâm hơn. Đúng như các đồng nghiệp của anh đã từng nhận xét. Sheree Lynn là một giải thưởng, một chiến lợi phẩm, một người đàn bà xứng đáng để đàn ông phải chịu đựng đau khổ.
"Em yêu,..." Randy gọi khẽ và đến bên Sheree Lynn. "Em có điều gì muốn nói, hãy nói đi."
Sheree Lynn đứng ở cửa, hai tay khoanh trước ngực. Cô ngập ngừng, nửa như hờn dỗi, nửa như khiêu khích.
"Anh có biết là... anh đã làm cả hai chúng ta tổn thương bởi sự giận dữ của chính mình không. Em biết Sam đang tìm cách lợi dụng anh. Nhưng hãy kiên nhẫn, anh yêu."
Giọng cô làm Randy dịu lại.
"Em nói đúng, em yêu. Chúng ta sẽ vượt qua được chuyện này."
Kể cả khi nghe thấy giọng nói của chính mình, Randy vẫn thấy váng vất trong đầu tiếng cười ngạo mạn của Sam Heavy Hand.
o O o
Những bận rộn của một ngày điều tra không thể cản trở chuyến viếng thăm thường lệ của Billy đến gia đình người anh trai cùng cha khác mẹ. Từ sau đám tang của cha, hai anh em ông đã thống nhất chủ nhật nào cũng cùng nhau đến thăm mộ cha. Billy vẫn chưa thể quên cái ngày mà sự im lặng khủng khiếp đè nặng lên hai anh em ông khi họ lau rửa phòng của cha và đọc những giấy tờ về thuế, tài sản và tiền bảo hiểm cha để lại cho hai người.
Những cơn gió từ phía tây thổi mạnh hơn khi Billy đến sân nhà Toshiro vào chiều muộn. Chiếc Pontiac chạy chầm chậm vào lối đi lát gạch. Billy định bóp còi báo hiệu nhưng rồi lại quyết định đỗ xe trước cửa ga-ra và đi ra cửa sau bấm chuông. Nhà của Toshiro nằm ở khu phố mới trong thị trấn Coaldale. Đó là một căn nhà hai tầng quay mặt về hướng đông, mái lợp kiểu Tây Ban Nha, bên ngoài sơn màu cà phê. Sân sau thông ra một khoảng đất được cày xới cẩn thận, trước đây từng được dùng để trồng củ cải đường.
"Là em đây!"
Billy cúi đầu đi xuống những bậc thềm hẹp. Nền xi măng màu xám gây cảm giác buồn tẻ. Không khí bụi bặm và ngột ngạt khiến Billy liên tưởng đến tầng hầm trong Ngôi nhà của quỷ Sa tăng. Ông ngửa mặt nhìn lên những ống dẫn nước và những thanh rầm ở trên đầu. Cái ống nước này đủ sức cho một đứa trẻ có trọng lượng 130 pound treo cổ.
Toshiro thò đầu qua ô cửa sổ gần lò sưởi: "Anh đang lấy mấy cái thùng ở đây."
Billy bước vào căn phòng nhỏ kín mít. Bên trong, Toshiro đang đặt bốn thùng các-tông và một chiếc va-li bọc da lên chiếc ghế gỗ dài lấm chấm vết sơn.
"Đây là đồ của mẹ em." Toshiro đưa cho Billy một cái va-li đã sờn có khoá làm bằng đồng, các góc đều đã méo và lõm xuống.
"Bố đã giữ những thứ này suốt ngần ấy năm à?" Billy hỏi.
Toshiro im lặng không đáp. Ông bước đến bên cái giỏ đựng quần áo đan bằng vỏ cây liễu gai.
Đó là quần áo của Arthur Yamamoto. Billy cố hình dung bố mẹ mình đã mặc những trang phục sờn cũ đó như thế nào. Chắc là trông họ lạc lõng lắm. Toshiro tiến hành phân loại đống quần áo và không nhìn Billy. Toshiro cũng cư xử như vậy tại đám tang. Billy biết có một hố sâu ngăn cách giữa mình và anh trai mà không bao giờ hai người vượt qua được. Toshiro luôn thu mình trong thế giới riêng - một thế giới chứa đựng những hối tiếc xót xa và lòng đố kỵ nhỏ nhoi. Billy đến bên cạnh Toshiro và cùng gấp quần áo với anh.
"Anh có muốn giữ lại bộ nào không?"
Toshiro gật đầu: "Anh muốn giữ chiếc áo khoác bằng dạ," vừa nói vừa nhấc nó lên rồi đặt xuống chiếc bàn gỗ sơn xanh bên cạnh.
Nata bước vào phòng. Bà khá thân thiện với Billy và thường thay mặt chồng nói chuyện với ông.
"Chị pha trà rồi đấy," Nata nói, giọng bà thật ngọt ngào, đầm ấm.
Khoảng một tiếng sau, đống quần áo đã được phân loại xong. Billy nói với người anh cùng cha khác mẹ rằng mình không cần gì ngoài cái va-li của mẹ. Toshiro đưa cho Billy một số bức ảnh bố đã chụp khi còn trẻ. Billy giở lướt nhanh qua.
"Em chưa bao giờ nhìn thấy những bức ảnh này."
Trong một bức ảnh đã ngả màu, ông Arthur trông có vẻ mệt mỏi giữa một không gian cũng ảm đạm không kém. Khuôn mặt rầu rĩ của bố làm Billy thấy buồn. Bố trông yếu đuối và vô tư làm sao! Hình ảnh của bố khiến Billy liên tưởng tới Darren Riegert. Ông nhìn những tấm hình khác. Có tấm chụp một người phụ nữ nhỏ nhắn gầy gò bên cạnh con đường nhỏ dẫn vào nông trang nhà ông. Đó là bác Setsuko, chị gái của bố. Billy nhìn lại các tấm ảnh một lần nữa rồi nhét chúng vào túi áo. Sau đó ông và Toshiro đóng thùng lại, tắt điện và đi lên tầng trên.
"Anh nhớ bảo trọng nhé!" Billy thì thầm.
Rồi ông quay đầu bước đi, không nhìn phản ứng của Toshiro. Billy đi nhanh qua cửa sau về phía chiếc Pontiac, mở thùng xe cho chiếc va-li vào rồi đóng cửa lại và lái đi trong yên lặng.
Những cánh đồng lúa mạch ở hai bên đường đã ngả màu tím nhạt trong ánh nắng chiều. Billy lái xe qua con dốc Burdet, sau đó rẽ phải vào khu vườn Galt, đi theo đường tàu cũ về phía bắc tới đồn cảnh sát của thành phố Lethbridge. Khi lái xe vào bãi đỗ, ông nghe thấy tiếng ầm ầm của đoàn xe tải chạy từ phía nhà máy bia tới các khu phố đang xây dựng bên bờ tây sông Oldman. Ông đi bộ vào khu tiếp dân và đi dọc theo hành lang, các phòng hai bên đều khoá, giờ này chỉ có phòng của Butch đang mở cửa. Butch đang cúi xuống tủ hồ sơ thu xếp giấy tờ.
"Tôi nhận được tin nhắn từ giáo sư Mucklowe!", Butch nói. "Trong máy trả lời tự động."
Butch bước tới bàn, bật loa điện thoại. Giọng của Randy vang lên: "Tôi nghĩ phải gọi cho ông. Tôi sẽ đến Montana một tuần để tiến hành khai quật quanh vùng núi Chief. Các sinh viên cũng đi cùng tôi. Vì vậy tôi cho ông số điện thoại di động trong trường hợp cần liên lạc: 456-7889. Sheree Lyrm sẽ tiếp tục ở chỗ tôi trong vài ngày tới. Xin lỗi ông vì đã nhắn tin qua thư thoại."
"Anh ta cũng tốt đấy chứ?"
"Có vẻ anh ta sẵn sàng cho chúng ta biết họ ở đâu."
"Anh định về nhà à?"
"Tôi định sáng mai đến sớm để xem lại hồ sơ."
"Cuối cùng thì tôi cũng thuyết phục được Sở cảnh sát trả tiền thù lao theo tuần cho anh với vai trò cố vấn. Sáng mai Dodd sẽ cho anh biết cụ thể là bao nhiêu. Anh đã gặp lại Blayne Morton chưa?"
"Rồi, cậu ta đang được cho uống thuốc an thần liều cao. Khi tôi đến, Blayne vẫn chưa hết bấn loạn. Tôi đã tìm thấy tấm ảnh thứ ba."
"Tôi biết."
"Cũng về chủ đề ấy, một hộp sô-cô-la Valentine màu đỏ. Nó nằm trong cuốn sách chúng ta thu được tại hiện trường."
Butch gom những giấy tờ trên mặt bàn lại và cùng Billy đi đến bãi đỗ xe. Những cơn gió chiều thổi bay mái tóc hứa hẹn một ngày thứ hai nóng bức. Butch chui vào trong xe của mình.
"Mai tôi phảỉ giúp Lorraine khai trương cửa hàng ở Fort Macleod. Chắc sẽ có rất nhiều khách du lịch ở đó nhưng tôi sẽ cố gắng về đây ngay trong buổi sáng để gặp anh," Butch nói và lái xe đi.
Billy vào xe, thắt dây an toàn rồi lùi chiếc Pontiac. Vừa lái xe ông vừa nghĩ về những điều bí ẩn của vụ án.
Chưa đầy ba phút sau, Billy đã ra đến đến đường cao tốc. Chiếc Pontiac chạy xuống khu nhà máy bia, băng qua gầm cầu High Level bằng thép rồi vượt qua sông Oldman - dòng sông chảy qua những ngọn đồi xanh mướt với làn nước sóng sánh như màu trà sữa. Chiếc xe tiếp tục hướng về phía tây bắc, xuyên qua vùng Kipp và Coalhurst rồi men theo đường xe lửa cũ về nhà. Cho xe vào nông trại, Billy tắt máy. Trước hiên nhà, những cây thông và những viên đá trắng trong bao tải vẫn ở đó đợi ông. Trong ánh nắng của buổi chiều tà, những cây cỏ trước sân và trên cánh đồng gần đó dường như đang tự phát ta ánh sáng của riêng mình. Xa xa, khu Head - Smashed - In Buffalo hiện ra mờ ảo trong ánh hoàng hôn sắp tắt.
Sau bữa tối, Billy mặc một chiếc áo len mỏng dài tay và đi dạo trên con đường dốc thoai thoải trước nhà. Buổi tối với Billy là thời gian yêu thích nhất trong ngày. Đối với ông, sự thay đổi của bầu trời thật thú vị và chứa đầy bí ẩn. Những đám mây trôi về phía tây rồi chuyển dần từ màu xám sang màu vàng, chúng trải dài từ đỉnh những ngọn núi của dãy Rocky tới tận vùng biên giới Montana ở phía Nam. Một con thỏ đực chạy vụt qua con đường rải sỏi, đuôi nó trắng muốt và dựng lên như một cái gậy di động, nó chạy đến mô đất rồi dừng lại nghển cổ lên nghe ngóng. Khi Billy trở về nhà, ông đi vòng một lượt kiểm tra các cửa sổ rồi khoá cửa bếp và cửa chính.
Billy ngồi trên ghế sô-fa trong phòng khách và nhắm mắt lại. Một nguyên tắc của Thiền là hành động mà không hành động. Ông thả cho ý nghĩ bồng bềnh như cánh hoa trôi trên mặt hồ tĩnh lặng.
Không có dấu vân tay. Không có chút manh mối nào? Billy lướt qua các tình tiết của vụ án một lượt. Ông tưởng tượng Harry Stone đang ngồi đối diện với mình, hai chân gác lên cạnh bàn như hồi còn trực đêm trong văn phòng ở Vancouver. Những lúc đó Harry thích nói về công việc ban ngày.
"Chúng ta hãy tổng hợp lại nào, BillyHarry sẽ nói như thế, hai tay úp sau gáy. Billy thường ngồi ngả người về phía sau, lật giở cuốn sổ tay.
"Chúng ta đã tìm ra Blayne Morton."
"Có thể đó là điểm mấu chốt của vụ án!", Harry nói. "Thằng bé đang che giấu cái gì đó phía sau sự hoảng loạn, ngây dại. Một kẻ chuyên đi bắt nạt lại thích kết bạn với kẻ hay bị bắt nạt như Darren Riegert. Có lẽ Blayne cũng tham gia vào trò chơi của quỷ Satăng? Ai mà biết được? Hay là cậu ta yêu Darren? Có thể việc chụp ảnh Darren và rạch thân thể là một kiểu của trò chơi tình dục mà chúng nghĩ ra."
Đúng là việc Blayne đối xử tồi tệ với Darren Riegert trước khi án mạng xảy ra là có động cơ và nhân chứng rõ ràng.
"Nhưng hãy xem xét lại một lần nữa, Billy. Ba bức ảnh không phải là chứng cứ để anh có thể truy tố được Blayne. Anh cần có chứng cứ chứng minh được Blayne Morton có mặt tại hiện trường trong khoảng thời gian diễn ra án mạng."
"Chúng ta còn có đối tượng Woody Keeler nữa."
"Ồ," Harry nói, "đừng đẩy vấn đề xa như thế. Anh cho rằng hắn là một gã ưa bạo lực? Tất nhiên rồi. Nhưng một kẻ giết người thì khác với một kẻ thích hành hạ người khác. Mà thôi, biết đâu được, đôi khi những phụ nữ hiền lành nhất cũng đầu độc chồng mình đấy thôi! Nhưng động cơ của hắn là gì? Hay hắn bị mắc bệnh tâm thần và động cơ duy nhất là thú vui nghe tiếng thét của nạn nhân?"
Billy lật đi lật lại những suy nghĩ ấy và liếc mắt nhìn đồng hồ trên lò sưởi. Sự im lặng làm ông liên tưởng đến sự tĩnh lặng trong căn phòng dưới tầng hầm của Ngôi nhà quỷ Satăng. Nó giống như sự im lặng của một nấm mồ. Liệu có mối liên hệ nào đến tôn giáo ở đây không? Ngọn nến trên nền nhà là thế nào? Còn những hình vẽ trên tường thì sao? Những vấn đề này cần phải tiếp tục điều tra. Ông có thể phải xem lại hồ sơ vào ngày thứ hai và cả thứ ba nữa để tìm hiểu thêm về Blayrie Morton và Woody Keeler. Có lẽ phải xin lệnh khám nhà Morton.
Billy tắt đèn, ông vươn vai, vừa rời khỏi phòng vừa mỉm cười.
"Chúc ngủ ngon, Harry!"