Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Chương 3
E
m biết rõ là anh không muốn đi đâu, nếu anh có thể tránh được anh ấy, Stevens tự động trả lời. Tất cả còn tùy thuộc ở Mark...
Chàng còn buông lửng câu, chẳng biết mình muốn nói gì. Có những lúc chàng có cảm tưởng như Marie đã thoát xác, chỉ còn là một thân xác trống vắng bên cạnh chàng... Trong trường hợp này, có lẽ là do ánh phản chiếu của đèn xe bởi vì, không còn quan tâm đến chuyện Mark Despard, nàng bắt đầu đề cập đến một loại vải bọc đệm khá hấp dẫn trong phòng khách của họ ở New York.
Hẳn khi mình uống cốc tai, Stevens sẽ kể hết câu chuyện cho nàng và họ sẽ cùng cười với nhau để quên đi chuyện này. Chàng không nhớ Marie đã đọc được một tác phẩm nào của Cross chưa. Cũng có thể, nàng đã từng có trong tay những bản thảo của nhà văn này, bởi nàng đã đọc thay cho chàng rất nhiều tác phẩm nhưng, điều lạ lùng là, từ những tác phẩm đó, nàng chỉ còn nhớ những chi tiết liên hệ đến nhân vật hay nơi chốn xảy ra câu chuyện mà thôi.
Stevens quay sang vợ và thấy chiếc áo măng tô đã tuột khỏi bờ vai của nàng, ở cổ tay trái, nàng mang chiếc vòng bất hủ đó. Đây là món nữ trang chạm trổ mà nơi khóa vòng có chạm đầu con mèo đang ngậm một viên ngọc.
- Em đã đọc một tác phẩm nào của Cross chưa?
- Cross? Ai thế anh?
- Ông ta chuyện viết về những vụ án hình sự.
- Ồ! em biết loại đó... Không, nhưng điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi em không phải là người có đầu óc bệnh hoạn như bao kẻ khác. (Nàng giữ vẻ nghiêm trang). Em thấy Mark Despard, tiến sĩ Welden và anh đều quan tâm dến những vụ án mạng và những chuyện kinh khiếp... Anh không sợ rằng, như thế là thiếu lành mạnh?
Stevens chưng hửng. Chàng chưa từng nghe Marie nói thế bao giờ. Có cái gì đó như gượng ép, giả dối...
Chàng nhìn nàng một lần nữa và thấy sao nàng nghiêm đến thế. Chàng nói:
- Một viên chức cao cấp đã cho biết rằng, bao lâu mà người dân Mỹ còn quan tâm đến tội ác và ngoại tình, thì đất nước vẫn không thể lâm nguy. Và nếu có bao giờ em cảm thấy bị lây lan bởi những sở thích bệnh hoạn của anh như em đã nói, thì đây, bản thảo mới nhất của Cross. Ông ta viết về những bà-chúa-thuốc-độc và trong số này cũng có một người tên Marie nữa đấy.
- Thế à? Anh đã đọc xong?
- Chỉ mới liếc qua.
Nàng không tỏ ra một chút tò mò nào và chẳng hề quan tâm đến chuyện đó. Nàng cau mày khi lái xe chạy dọc theo con đường dẫn về nhà.
o O o
Stevens bước xuống xe với một cảm giác đói và lạnh. Có ánh sáng tươi vui lọt qua những cánh cửa lá sách cùng mùi cỏ non và tử đinh hương trong không khí. Sừng sững phía sau ngôi biệt thự là cảnh đồi cây phủ và ở trên đỉnh đồi, bức tường đồ sộ của Despard Park.
Ở phía tay phải của hành lang, khi bước vào, là phòng sinh hoạt với trường kỷ và những chiếc ghế bành bọc vải màu cam, những ngọn đèn tỏa ánh sáng dịu, hàng ngàn sách với gáy muôn màu, bản sao của một tác phẩm danh họa Rembrant treo trên lò sưởi. Ở cánh trái, qua những khung cửa kính, Stevens có thể trông thấy cảnh Ellen mập ú đang bận rộn trong nhà bếp.
Marie cầm lấy mũ và chiếc cặp da của chồng, rồi Stevens bước lên lầu để rửa tay. Điều này làm chàng thấy dễ chịu và chàng trở xuống nhà, miệng huýt sáo, nhưng trước khi đặt chân xuống bậc thang cuối, chàng dừng lại. Tại nơi đây, chàng có thể trông thấy chiếc cặp da của chàng đang nằm trên chiếc bàn nhỏ để máy điện thoại, cái khóa kéo mạ kền dịu dàng lấp lánh và Stevens đã nhận thấy rằng nó đã bị mở.
Điều tệ hại hơn cả là chàng có cảm tưởng như mình đang chơi trò gián điệp hay đóng vai những kẻ âm mưu trong chính ngôi nhà của chàng. Chàng không thích như vậy. Cảm thấy vô cùng có lỗi, chàng bước đến bên chiếc bàn con và vội vàng xem xét tập bản thảo.
Bức ảnh của Marie d’Aubrey không còn ở đó nữa.
Không chần chờ suy nghĩ, Stevens đi ngay sang phòng sinh hoạt, và chàng có cảm tưởng rằng có một sự thay đổi khéo léo đang xảy ra trong không khí của căn phòng. Marie ngả nửa người trên đi văng, cạnh bàn dọn cốc tai, cầm trên tay cái ly đã cạn. Khuôn mặt nàng hơi ửng hồng và nàng ra dấu chỉ cho chàng cái ly ở trên bàn xoay.
- Anh làm gì mà lâu thế. Uống cạn cái ly đó đi rồi anh sẽ thấy khỏe hơn.
Trong khi uống, chàng có cảm giác là Marie đang quan sát chàng. Ý nghĩ đó tuy chỉ thoáng qua, nhưng chàng thấy nó đáng tởm vô cùng, nên chàng vội vàng xua đuổi nó bằng cách uống cạn ly cốc tai, rồi tự pha cho mình một ly nữa, chàng lại uống thêm một hơi. Và chàng thận trọng đặt ly xuống.
- Nè Marie, hình như ngôi nhà số 1 của đại lộ King nay trở thành một ngôi nhà đầy bí ẩn. Anh chẳng ngạc nhiên khi thấy xuất hiện những bàn tay ma quái giữa những màn cửa hay phát hiện những tử thi trong chiếc tủ sát tường. Em có biết một người đã mang cùng tên với em, mà trong thế kỷ trước có thói quen đầu độc người ta bằng asenic?
Nàng cau mày nhìn chàng:
- Quỉ thần, anh nói gì kỳ vậy Ted? Từ lúc xuống tàu tới giờ, em thấy anh thật kỳ lạ. (Nàng ngập ngừng rồi cười.) Anh có nghĩ rằng em đã bỏ thuốc độc vào ly cốc tai của anh?
- Nếu vậy, anh sẽ không tha thứ cho em đâu! Thôi, hãy nói chuyện đứng đắn. Anh xin được hỏi em câu này, tuy có vẻ kỳ cục: em có bao giờ nghe nói đến một người đàn bà sống cách đây trăm năm và giống em như đúc, ngay cả mang một chiếc vòng tay có đầu con mèo y hệt như em?
- Ted, thực vậy sao...?
Chàng không còn giữ cái giọng nhẹ nhàng nữa:
- Marie, em hãy nghe anh. Chúng ta không nên làm cho chuyện này trở thành huyền bí. Có thể điều này chẳng có gì quan trọng, nhưng hình như có ai đã cố tình đưa một bức ảnh của em, ăn mặc theo thời trang vào giữa thế kỷ XIX, vào một cuốn sách, như là chân dung của một phụ nữ, mà qua bản luận tội thì bà ấy đã giết hơn phân nửa những người gần gũi với bà. Đây không phải là chuyện đáng ngạc nhiên cho lắm, bởi chẳng phải là lần đầu tiên mà Cross bị cáo buộc là người đùa bỡn tồi tệ. Tuy nhiên, anh muốn hỏi em một câu và mong em phải thành thật trả lời: bà Marie d'Aubrey đó là ai? Bà ta có họ hàng gì với em?
Marie đứng dậy. Nàng không có vẻ gì là tức giận hay ngạc nhiên, nhưng nhìn chồng với một vẻ lo ngại thương cảm:
- Này Ted, em đang cố nặn óc để tìm hiểu, bởi anh đang nói chuyện nghiêm túc với em. Vào thế kỷ trước, có một phụ nữ tên Marie d'Aubrey (như anh biết đó, cái tên này rất quen thuộc) đã đầu độc khá nhiều người và thế là anh nghĩ rằng người đàn bà đó và em chính là người duy nhất? Vì thế mà anh đóng vai vị phán quan tối cao? Nếu em là bà Marie d'Aubrey đó (nàng nhìn vào tấm gương ở bên trên bờ vai, và thoáng trong một giây, Stevens có cảm tưởng như có gì bất thường trong tấm gương) thì anh làm sao để chứng tỏ rằng em vẫn sống mãi với số năm tháng như thế?
- Anh không nói như vậy. Anh chỉ muốn hỏi có phải em là người thuộc dòng dõi...
- Thuộc dòng dõi... Không, này Ted, tốt hơn anh nên pha cho em một ly cốc tai nữa, bởi vì em sẽ điên mất vì những chuyện của anh!
- Được, chúng ta sẽ không nghĩ thế nữa. Nhưng cũng có điều là một nhà xuất bản có uy tín không thể nào chấp nhận chuyện bị mất cắp những bức ảnh nằm trong bản thảo mà họ đang giữ... Này, Marie em hãy nhìn thẳng vào mặt anh, có phải cách đây ít phút em đã mở cặp của anh?
- Không.
- Em không mở cặp của anh và không lấy tấm hình của Marie d'Aubrey bị lên đoạn đầu đài vì can tội sát nhân vào năm 1861 chứ?
- Hẳn nhiên là không! Cuối cùng nàng đã bật khóc, rồi giọng nàng vỡ vụn. Ồ! Ted, cái chuyện này nghĩa là thế nào?
- Có ai đó đã lấy bức ảnh vì nó không còn ở trong tập bản thảo nữa. Ở đây chỉ có hai vợ chồng mình và Ellen. Như thế, trừ khi có kẻ lạ lẻn vào đây trong lúc anh đang ở trong phòng, anh không thể hiểu được là tại sao bức ảnh đã biến mất. Ở trang đầu bản thảo có ghi địa chỉ của Cross. Anh định gọi điện thoại cho ông ấy để hỏi xem nếu không in bức hình đó thì có gì bất tiện không, nhưng dẫu sao anh cũng phải hoàn lại bức ảnh đó cho ông ta...
- Thưa bà, bữa ăn đã dọn, Ellen loan báo ở ngưỡng cửa. Và cùng lúc đó, có tiếng búa-cửa vang lên ngoài cổng.
Điều này chẳng có gì lạ lùng và thường diễn ra trên cả chục lần mỗi ngày, nhưng Stevens cảm thấy như bị một cú choáng, Ellen gắt gỏng bước ra cửa.
- Ông Stevens có đấy không? Có tiếng Mark Despard hỏi.
Stevens đứng dậy. Marie vẫn ngồi im, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Khi bước ngang qua nàng - vì một lý do mơ hồ nào đó mà chàng không kịp phân tích - Stevens cầm lấy bàn tay của nàng và đưa lên môi. Rồi chàng niềm nở đón Mark Despard, nói với anh ta rằng chàng sắp sửa ngồi vào bàn ăn và hỏi anh có thích dùng một ly cốc tai không?
Mark Despard bước vào và theo sau ông là một người đàn ông lạ mặt. Ánh sáng của chiếc đèn lồng bằng sắt uốn đang rọi sáng nơi hành lang, đùa giỡn trên mái tóc vàng óng với đường ngồi rẽ giữa của Mark và rọi vào đôi mắt của anh, một đôi mắt xanh trong. Mark là một luật sư. Anh thừa kế văn phòng của cha anh, qua đời sáu mươi năm trước đây, nhưng anh chẳng có bao nhiêu thân chủ bởi vì, như anh nói, anh không thể xem cái ác và điều thiện như nhau, và thân chủ thì chẳng ai ưa nói đến lầm lỗi của họ. Mỗi khi về sống lại Despard Park, nơi mà anh rất thích, anh thường mặc một chiếc áo khoác dùng để đi săn, bên trong là chiếc áo sơ mi bằng dạ, một quần nhung ống túm có đường viền chạy dọc theo hông và mang ủng cao.
Despard nhìn quanh, xoay xoay chiếc mũ trên tay:
- Rất tiếc phải làm phiền anh như thế này, nhưng tôi không đừng được vì một chuyện vô cùng quan trọng và không thể trì hoãn...
Anh ta quay sang người đàn ông đi cùng. Ông ta có vẻ to con hơn anh, nhưng không cao bằng. Khuôn mặt của ông, với những nét cương nghị trông dễ mến, mặc dầu với cái nếp nhăn đào sâu giữa cặp lông mày. Ông ta khoác một chiếc áo ba-đờ-xuy dày, trang trọng. Đúng là một con người mà ta khó quên.
- Xin giới thiệu với anh, đây là người bạn của tôi, một bác sĩ... Ông Partington, Despard linh hoạt nói tiếp trong khi người kia vẫn bình thản. Này Ted, chúng tôi muốn được trao đổi riêng với anh. Có thể là câu chuyện sẽ kéo dài nhưng theo tôi, nếu anh biết được vấn đề này quan trọng như thế nào, hẳn anh sẽ không phiền khi bị kéo dài thời giờ...
- Chào Mark! Marie nói, mỉm một nụ cười quen thuộc. Đúng đấy, chúng tôi sẽ chờ cơm, không sao cả. Mời tất cả hãy sang phòng làm việc của Ted.
Sau những lời giới thiệu vội vã, Stevens đưa hai người đàn ông về phòng làm việc của chàng, ở đầu bên kia hành lang và họ bước xuống hai bực thang để vào. Đây là một căn phòng rất hẹp nên với ba người, họ đã choán cả phòng. Mark cẩn thận khép cửa lại tựa lưng vào đó:
- Ted, Mark nói, bác Miles của tôi bị thảm sát.
- Mark, anh...
- Ông ta bị đầu độc bằng asenic.
- Mời quí vị ngồi, Stevens nói, chỉ những chiếc ghế bành bọc da, rồi chàng đến ngồi sau bàn giấy và hỏi: Ai đã làm như thế?
- Theo như tôi biết thì hẳn phải là một người trong gia đình chúng tôi, Despard thở dài nói. Và bây giờ, khi anh đã biết chuyện rồi, tôi sẽ nói rõ lý do tại sao tôi đến đây để trình bày với anh.
Đôi mắt trong xanh của Despard nhìn đăm đăm vào ngọn đèn:
- Có một việc mà tôi rất muốn và đương nhiên là tôi phải làm. Nhưng để thi hành, tôi cần có sự trợ giúp của ba người nữa. Giờ tôi đã có hai và chỉ duy nhất anh là người thứ ba mà tôi có thể tin tưởng. Nhưng nếu anh đồng ý giúp đỡ chúng tôi, anh phải hứa với tôi một điều: dẫu chúng ta có khám phá điều gì, chúng ta sẽ không thông báo cho cảnh sát biết.
- Anh không muốn cho tên sát nhân bị trừng trị? Stevens hỏi, mắt hướng về tấm thảm như để che dấu sự bối rối của mình.
- Ồ! có chứ, Mark đáp với một vẻ cuồng nhiệt băng giá, nhưng chúng ta đang sống trong một thời đại lạ lùng, mà tôi không tài nào thích hợp nổi. Tôi rất kinh sợ bị người ta xen vào những công việc riêng tư và tôi không muốn để những chuyện như thế phơi bày trên báo chí. Chính vì thế, dù có tìm được thủ phạm hay không, tôi cũng không muốn cho cảnh sát biết. Đêm nay, nếu anh đồng ý giúp đỡ chúng tôi, ta sẽ khai quật hầm mộ, mở quan tài của bác tôi ra và sau đó, chúng ta sẽ xét nghiệm tử thi của ông, dẫu tôi đã tin chắc đây là một vụ đầu độc. Anh thấy, hơn tuần nay tôi đã biết rằng bác Milles là nạn nhân của một vụ mưu sát, nhưng tôi không làm gì được vì tôi muốn giữ kín chuyện và không một bác sĩ... Tôi muốn nói...
Bằng một giọng dễ nghe Partington xen vào:
- Mark muốn nói là hầu hết các bác sĩ, vì sợ tai tiếng nên không chịu xét nghiệm tử thi trong những điều kiện như thế này. Chính vì thế mà anh đã nhờ đến tôi.
- Tôi nào muốn nói như thế!
- Này anh bạn, tôi hiểu anh mà, Partington nói khi nhìn Stevens. Nhưng tốt hơn, ta nên nói rõ cái vị thế của tôi trong vụ này. Cách đây mười năm, tôi là chồng chưa cưới của Edith, chị của Mark. Tôi là bác sĩ giải phẫu và dạo đó, tôi có khá đông khách ở New York. Tôi có tiếp tay cho một vụ phá thai - quí vị khỏi cần quan tâm đến lý do nhưng xin hiểu rằng tôi nghĩ đó là lý do chính đáng và tôi bị phát hiện. Báo chí mặc sức công kích và sau đó, đương nhiên tôi bị khai trừ ra khỏi y sĩ đoàn. Điều này chẳng mấy quan trọng bởi tôi có tiền của, nhưng Edith thì vẫn luôn nghĩ rằng người đàn bà mà tôi giúp đỡ đó là... Tóm lại, đây là chuyện xa xưa. Từ dạo ấy, tôi sống rất đầy đủ tại Anh quốc nhưng cách đây một tuần, Mark gọi điện bảo tôi về đây - anh nói sẽ giải thích rõ mọi việc cho tôi - và tôi đã đáp chuyến tàu đầu tiên để hiện diện hôm nay. Bây giờ, anh đã biết hết rồi đấy.
Stevens đứng dậy và lấy ra từ tủ búp phê một chai uýt ki, chai nước và ba cái ly. Chàng nói:
- Mark, tôi sẵn sàng giữ bí mật cho anh, nhưng giả thử anh phát hiện được những yếu tố đủ chứng thực cho sự nghi ngờ của anh? Giả thử bác anh đã bị ám hại? Anh sẽ tính ra sao?
Mark đưa tay lên trán:
- Chỉ có trời biết! Cái câu hỏi này khiến tôi gần phát điên. Tôi phải làm gì đây? Nhúng tay vào một tội ác để trả thù cho một tội ác đầu tiên? Không, cám ơn, tôi chưa đến nỗi yêu thương ông bác tôi để làm như vậy... Nhưng chúng ta cần biết. Chúng ta không thể tiếp tục sống với một tên sát nhân. Hơn nữa, bác Miles không chết đột ngột. Cơn đau của ông đã khéo dài và ai đó đã cố tình nuôi dưỡng những cơn đau này. Người đó đã đầu độc ông từng ngày, cũng có thể kéo dài trong nhiều tuần, người ta không thể xác định bởi, với asenic, những triệu chứng thường trùng hợp với chứng bệnh viêm dạ dày ruột mà ông mắc phải. Trước lúc căn bệnh ông trở nặng khiến chúng tôi phải cho một y tá kèm bên ông, bác Miles thường cho bữa ăn lên lầu, nhưng cả ở Margaret, chị bồi phòng, ông cũng không muốn cho đặt chân vào phòng ông. Ông chỉ nói dứt khoát một lần rằng hãy để khay thức ăn ở trên chiếc bàn con cạnh cửa phòng ông, và ông cho biết thêm rằng bao giờ cần thì ông sẽ dùng! Vì thế, khay thức ăn vẫn thường để bên ngoài một thời gian. Vậy là bất cứ ai ở trong nhà hay là một người khách cũng nên - đều có thể rải asenic vào thức ăn của ông, nhưng...
Mark không ngăn được phải cao giọng:
- Nhưng trong cái đêm mà ông qua đời vào lúc ba giờ sáng thì khác hẳn. Và vì vậy mà tôi muốn đi sâu vào vấn đề, để chứng minh rằng vợ tôi đã ám hại bác Miles.
Stevens dừng lại khi định với tay lấy hộp xì gà. Lucy! Chàng mường tượng đến vẻ lịch thiệp của vợ Mark, mái tóc huyền, tánh tình vui tươi của nàng... Lucy! Chẳng thể nào!
- Tôi biết anh nghĩ gì, Mark nói với vẻ man dại. Điều đó có vẻ điên rồ, phải thế không? Tôi còn biết hơn thế nữa là, trong đêm ông bác tôi từ trần, Lucy đã ở cạnh tôi tại St David, tham dự một dạ vũ hóa trang. Nhưng có những chứng cớ mà chúng ta phải bác bỏ và tốt hơn nên xem chúng là một sự nhầm lẫn. À! Ted, tôi mong anh sẽ không rơi vào một tình cảnh như thế này. Tôi dứt khoát phải phát hiện kẻ giết bác Miles để xem ai là người đã làm hại vợ tôi. Và lúc đó, tôi cam đoan với anh là sẽ rất đẹp mặt!
Chẳng ai đụng đến uýt ki. Mark rót vào ly của anh, uống một hơi rồi nói tiếp:
- Bà Henderson, người bếp quản gia của chúng tôi, đã nhìn thấy tội ác. Bà đã trông thấy lượng thuốc độc sau cùng. Và theo như lời bà, kẻ sát nhân hẳn là Lucy.