Anyone who says they have only one life to live must not know how to read a book.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Rohinton Mistry
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1946 / 89
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:17 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
I: Thành Phố Bên Bờ Biển
ina Dalal chẳng mấy khi cho phép mình hồi tưởng lại cuộc đời với những xúc cảm tiếc nuối hoặc cay đắng, hay tự hỏi tại sao sự thể lại đến nông nỗi này, rồi lừa phỉnh bản thân bằng tương lai xán lạn mà những người xung quanh đã dự báo cho cô từ hồi cô đang đi học, khi tên cô vẫn còn là Dina Shroff. Và nếu có lỡ sa vào một khoảnh khắc hiếm hoi như vậy, cô sẽ lập tức vùng thoát khỏi nó ngay. Nhắc đi nhắc lại chuyện cũ phỏng có ích gì, cô luôn tự vấn bản thân, đằng nào kết cục chẳng như vậy; dù có chọn hành lang nào, rốt cuộc cô cũng sẽ đến cùng một căn phòng mà thôi.
Cha của Dina là một ông đốc tờ, một bác sĩ đa khoa với chuyên môn vừa phải nhưng đã trót khắc cốt ghi tâm lời thề Hippocrates có phần sâu sắc hơn các bạn đồng nghiệp. Trong những năm khởi đầu y nghiệp, lòng tận tụy với công việc của bác sĩ Shroff được các bạn đồng trang lứa, gia đình, cùng các bác sĩ lão thành xem là minh chứng tiêu biểu cho nhiệt tâm và sức sống tuổi trẻ. “Nhiệt huyết thanh xuân thật đáng quý biết mấy,” họ mỉm cười và gật gù với nhau, trong bụng chắc mẩm rằng thời gian sẽ dập bớt ngọn lửa lý tưởng ấy bằng một liều vừa phải hoài nghi pha trộn những gánh nặng gia đình.
Song cuộc hôn nhân, và sự ra đời của một cậu con trai, nối tiếp bằng một cô con gái mười một năm sau đó, chẳng tạo ra chút khác biệt nào đối với bác sĩ Shroff. Thời gian chỉ càng khoét sâu hơn tình trạng bất cân xứng giữa một bên là khát vọng xoa dịu những khổ đau của ông và bên kia là mong ước kiếm được một nguồn thu nhập dễ chịu.
“Thật đáng thất vọng,” bạn bè và người thân lắc đầu, đổi giọng. “Chúng ta đã đặt bao nhiêu hi vọng vào anh ta. Ấy thế mà anh ta cứ làm việc quần quật như một gã thầy ký, như một thằng loạn óc, chẳng thèm biết đến hưởng thụ cuộc sống là cái gì. Rõ khổ nhà chị Shroff. Nghỉ mát không, tiệc tùng không, rồi đến mãn đời cũng chả biết tí mùi vui thú nào mất.”
Bước sang tuổi năm mươi mốt, khi đa số các bác sĩ đa khoa đã bắt đầu tính đến những phương kế như giảm phân nửa thời gian làm việc, thuê một bác sĩ giúp việc với giá rẻ mạt, hoặc thậm chí bán cả phòng khám đi để nghỉ hưu sớm, thì bác sĩ Shroff lại chẳng có nổi một tài khoản ngân hàng lẫn lòng dạ để cho phép mình nuông chiều bản thân như thế. Thay vào đó, ông xung phong dẫn đầu một chiến dịch đưa sinh viên y khoa đến các vùng sâu vùng xa. Ở đó, nơi thương hàn và dịch tả, chưa hề bị thách thức bởi khoa học và công nghệ, vẫn đều đặn gặt hái nạn nhân qua từng năm, bác sĩ Shroff sẽ gắng hết sức để ghìm giữ lưỡi hái tử thần hay chí ít cũng khiến nó cùn mòn đi chút ít.
Còn bà Shroff lại tiến hành một chiến dịch khác hẳn: thuyết phục ông chồng khỏi dấn thân vào chỗ mà bà cho là nanh vuốt của cái chết không đường thoát. Bà quyết huấn luyện Dina nói năng làm sao để lay chuyển được ông bố. Nói gì thì nói, Dina, lúc ấy mười hai tuổi, cũng là cục cưng của ông. Bà Shroff biết chắc thằng con trai Nusswan sẽ chẳng giúp gì được trong vụ này. Lôi nó vào chỉ tổ phá hỏng bất cứ cơ hội khả dĩ nào hòng thay đổi quyết định của chồng bà.
Bước ngoặt trong quan hệ cha con đến từ bảy năm trước, vào đúng sinh nhật thứ mười sáu của Nusswan. Các cô dì chú bác đều được mời đến ăn cơm. Bỗng có người nói: “Nusswan này, chả mấy chốc mà cháu sẽ lại học trường y rồi thành bác sĩ, như cha cháu ấy.”
“Cháu không muốn trở thành bác sĩ,” Nusswan đáp luôn. “Cháu sẽ làm trong ngành xuất nhập khẩu.”
Vài người lớn gật đầu tán thành. Những người khác giãy nảy lên như đỉa phải vôi và quay ngay sang bác sĩ Shroff: “Có thật thế không? Con trai lại không nối nghiệp bố ư?”
“Dĩ nhiên là thật,” ông đáp. “Các cháu nhà tôi được phép chọn nghề gì tùy thích.”
Nhưng cô bé Dina năm tuổi đã nhận thấy nỗi đau hiện lên khuôn mặt của bố trước khi ông kịp giấu đi. Cô bé lon ton chạy đến và trèo lên lòng bố: “Bố, khi nào lớn, con cũng muốn làm bác sĩ giống như bố.”
Mọi người cười ồ lên và vỗ tay rầm rầm; ai nấy đều bảo, con bé thế mà kháu, thật biết cách có được những thứ mình muốn. Về sau, họ rỉ tai nhau rằng, rõ ràng thằng con trai không mang khí chất rắn rỏi như ông bố – chả có tham vọng gì sất, rồi cũng chẳng làm nên trò trống gì đâu.
Nhiều năm sau đó, Dina vẫn nhắc đi nhắc lại mơ ước đó, lúc nào cô bé cũng xem bố như một vị thánh ban phát sức khỏe cho mọi người, chiến đấu chống lại bệnh tật, và, có những lúc còn tạm đẩy lùi được cả cái chết. Còn bác sĩ Shroff thì vô cùng mát lòng mát ruột vì cô con gái sáng dạ. Trong những buổi tối họp phụ huynh ở trường dòng, thầy hiệu trưởng và các giáo viên luôn dành cho cô bé những lời tán dương tốt đẹp nhất. Nếu muốn, cô bé sẽ làm nên chuyện, bác sĩ Shroff biết chắc chắn là vậy.
Bà Shroff cũng biết chắc chắn rằng, cô con gái là người duy nhất bà có thể trông cậy trong chiến dịch chống lại kế hoạch nhân đạo ngu ngốc của ông chồng nhằm đi cứu giúp mấy ngôi làng khỉ ho cò gáy nào đó. Nhưng Dina không chịu hợp tác; cô không chấp nhận bất cứ thủ đoạn bất chính nào hòng giữ người cha thân yêu ở nhà.
Thế là bà Shroff đành tìm kế khác; bà không viện đến tiền bạc hay an nguy của bản thân ông hoặc gia đình để thuyết phục chồng nữa, vì bà biết những thứ đó đều vô dụng cả. Thay vào đó, bà lôi các bệnh nhân của ông ra, kêu rằng ông bỏ mặc họ, những con người già cả, yếu đuối, không nơi nương tựa. “Họ biết phải làm sao, nếu anh đi tới nơi xa xôi như thế? Họ đã tin tưởng và trông cậy vào anh biết bao nhiêu. Sao anh nỡ nhẫn tâm làm vậy? Anh không biết đối với họ, anh quan trọng đến nhường nào đâu.”
“Không, vấn đề không phải ở chỗ đó,” bác sĩ Shroff gạt đi. Ông đã quá quen với những lập luận trúc trắc mà vợ có thể nghĩ ra, dưới sự xúi giục của tình yêu bà dành cho ông. Ông kiên nhẫn giải thích rằng trên thành phố còn vô khối các bác sĩ đa khoa khác có thể xử lý đủ mọi loại bệnh tật trên đời, trong khi ở nơi ông sắp đến, người dân chẳng có bác sĩ nào cả. Ông trấn an bà rằng đó chỉ là một chuyến công tác ngắn hạn, rồi ôm hôn bà thắm thiết hơn hẳn lệ thường ông vẫn làm. “Anh hứa sẽ sớm quay về,” ông nói. “Còn trước cả khi em kịp quen với sự vắng mặt của anh kia.”
Nhưng bác sĩ Shroff không giữ nổi lời hứa. Chỉ mới đi chiến dịch được ba tuần, ông đã ra đi, không phải vì bệnh thương hàn hay dịch tả, mà vì một vết hổ mang cắn, trong điều kiện xa cách mọi phương thuốc kháng nọc rắn.
Bà Shroff đón nhận tin dữ một cách bình thản. Người ta nói đó là vì bà là vợ của một bác sĩ, vốn đã quen mặt cái chết hơn người thường. Họ tự lý giải rằng, hẳn trước kia ông cũng thường xuyên kể với bà những chuyện liên quan đến các bệnh nhân của mình; nhờ vậy, bà đã được chuẩn bị cho giây phút không thể tránh khỏi.
Bà lập tức bắt tay vào lo ma chay cho chồng, cắt đặt mọi việc nhanh nhẹn đến không ngờ, khiến những người xung quanh không khỏi ngỡ ngàng, phải chăng trong cách cư xử của bà có điều gì đó hơi bất bình thường? Giữa những lần thò tay vào túi xách để lấy tiền chi trả món nọ món kia, bà vẫn nhận lời chia buồn của khách khứa, an ủi những quyến thuộc đang buồn đau than khóc, rót thêm dầu vào chiếc đèn con đặt trên đầu giường nơi bác sĩ Shroff nằm, giặt và ủi tấm sari trắng, và kiểm tra xem trong nhà còn đủ hương trầm và gỗ đàn hương hay không. Bà cũng tự mình hướng dẫn các đầu bếp cách nấu bữa cỗ chay đặc biệt cho ngày hôm sau.
Sau bốn ngày tang lễ, Dina vẫn còn thút thít mãi không thôi. Bà Shroff, lúc ấy đang bận kiểm kê lại những chi phí cho lễ tụng niệm trên Tháp Bình Yên[4], nói giọng dứt khoát:
“Kìa, con, bình tĩnh lại đi. Bố con sẽ không thích thế đâu.” Nghe vậy, Dina bèn gắng nín khóc.
Tay viết séc, bà Shroff lơ đễnh tiếp lời: “Kể ra nếu muốn, con đã có thể can ngăn được ông ấy. Thế nào ông ấy cũng nghe lời con.”
Tiếng khóc của Dina lại vỡ òa, lần này còn tức tưởi hơn nữa. Ngoài nỗi xót thương dành cho cha, nước mắt của cô bé giờ đây chất chứa cả nỗi oán giận đối với mẹ, thậm chí căm ghét. Phải mất vài tháng sau cô mới hiểu rằng, những lời bà nói chẳng mang chút ác tâm hay ý định buộc tội nào, đó chỉ là một lời phát biểu đơn giản và buồn thảm về một sự thật đã rồi dưới góc nhìn của mẹ cô.
Sáu tháng sau cái chết của bác sĩ Shroff, sau khi đã đóng tròn vai trụ cột cho mọi người nương tựa, bà Shroff dần quỵ ngã. Rút lui dần khỏi cuộc sống thường nhật, bà hầu như không còn để tâm mấy đến việc nhà hay chính bản thân bà nữa.
Điều đó chẳng khiến Nusswan bận lòng, anh ta đã hai mươi ba tuổi và đang bận toan tính cho tương lai của riêng mình. Song Dina lúc ấy mới mười hai tuổi, hẵng còn cần sự dìu dắt của cha mẹ thêm vài năm nữa. Cô bé nhớ cha quay quắt. Việc mẹ thu mình lại khiến tình hình càng thêm bi đát.
Nusswan Shroff đã tự kiếm sống được bằng nghề buôn bán từ hai năm trước khi bố mất. Anh ta vẫn còn độc thân, sống tại nhà, đang vừa tích cóp tiền của vừa tìm kiếm một căn hộ thích hợp cùng một cô vợ xứng đôi vừa lứa. Nay bố mất, mẹ khép mình lại, anh ta bỗng nhận ra lùng tìm một căn hộ không còn là việc cần thiết nữa, còn kiếm vợ đã thành chuyện cấp bách.
Giờ đây anh ta giành lấy cương vị chủ gia đình và trở thành người bảo hộ hợp pháp cho Dina. Họ hàng thân thích đều cho thế là phải. Ai nấy hết lời ca tụng quyết định vị tha đó, và thừa nhận rằng họ đã đánh giá sai về năng lực của anh ta. Anh ta cũng nắm luôn thu chi của cả nhà, hứa hẹn rằng mẹ và em sẽ không thiếu thốn một thứ gì; anh ta sẽ lấy tiền lương của mình để chăm lo cho họ. Mồm nói thế, song anh ta biết không cần thiết phải làm như vậy. Nguyên khoản tiền bán phòng khám của bác sĩ Shroff đã là quá đủ.
Quyết định đầu tiên của Nusswan với tư cách chủ gia đình là cắt giảm số người giúp việc. Người đầu bếp vẫn đi làm nửa ngày và lo nấu hai bữa chính được giữ lại; còn Lily, cô hầu gái sống cùng cả nhà, bị cho thôi việc. “Chúng ta không thể tiếp tục cuộc sống xa xỉ như trước kia được nữa,” anh ta tuyên bố. “Lương bổng của con không kham nổi.”
Bà Shroff tỏ vẻ nghi ngại trước thay đổi này. “Vậy ai sẽ lo phần dọn dẹp, giặt giũ? Chân tay mẹ có còn khỏe mạnh như xưa đâu.”
“Mẹ đừng lo, ba mẹ con ta sẽ chia nhau làm. Mẹ có thể làm những việc nhẹ nhàng, như lau bàn ghế giường tủ. Chúng ta có thể tự rửa cốc tách bát đĩa, chắc chắn rồi. Em Dina còn trẻ, thiếu gì sức. Làm thế cũng tốt cho nó, có thế nó mới học được cách chăm nom cửa nhà.”
“Ừ, con nói cũng phải,” bà Shroff đáp, phần nào bị thuyết phục bởi tính cấp thiết của những biện pháp thắt chặt chi tiêu.
Nhưng Dina biết, trong chuyện này còn có uẩn khúc. Tuần trước đó, khi đi qua bếp để vào nhà vệ sinh, lúc ấy đã quá nửa đêm, cô bé nhìn thấy anh mình đang ở cùng cô giúp việc: Lily ngồi ở một đầu bàn bếp, hai chân đặt lên mép bàn; còn Nusswan, quần pyjama tụt xuống tận mắt cá, đứng giữa háng Lily, tay siết chặt hông cô ta vào thân mình. Dina nhìn lom lom cặp mông trần trụi của anh trai với vẻ tò mò mơ ngủ, rồi rón rén quay trở lại giường mà không hề đi vệ sinh, hai má đỏ bừng. Song ắt hẳn cô bé đã nấn ná ở đó hơi lâu, vì Nusswan đã kịp trông thấy cô.
Không một ai đả động gì tới chuyện đó. Lily ra đi (với một khoản trợ cấp khiêm tốn mà bà Shroff không hề hay biết đến); giữa hai hàng nước mắt, cô ta kêu rằng mình sẽ không bao giờ tìm được một gia đình nào khác tử tế hơn thế. Dina vừa thương hại lại vừa khinh bỉ cô ta.
Sau đó, cách thức tổ chức gia đình mới được áp dụng. Mọi thành viên đều thành thực cố gắng. Cuộc thử nghiệm khả năng “tự thân vận động” xem ra cũng thú vị. “Cứ như đi dã ngoại ấy nhỉ?” Bà Shroff nói.
“Chính thế đấy, mẹ ạ!” Nusswan tán đồng.
Ngày qua ngày, phần việc nhà của Dina tăng dần lên. Để làm bằng cho sự góp sức của mình, Nusswan vẫn rửa chiếc cốc và đĩa ăn sáng của mình trước khi đi làm. Ngoài việc đó ra, anh ta không làm gì cả.
Một buổi sáng, khi đã nuốt trôi hớp trà cuối cùng, anh ta nói: “Dina, anh muộn giờ làm mất rồi. Rửa hộ anh mấy thứ này nhé.”
“Em không phải người hầu của anh! Anh đi mà tự rửa bát đĩa của mình!” Những ấm ức đã dồn nén hàng tuần liền nay bắt đầu vỡ bung. “Anh nói ai sẽ lo việc của người nấy! Nhưng mọi thứ bẩn thỉu anh đều đổ hết cho em dọn!”
“Chà chà, xem cô hổ con nói gì này!” Nusswan kêu lên, giọng thích thú.
“Con không được nói năng kiểu đó với anh,” bà Shroff khẽ quở. “Nên nhớ, công việc phải được chia đều.”
“Anh ấy ăn gian! Anh ấy chẳng làm gì cả! Con mới phải làm tất!”
Nusswan ôm mẹ: “Con chào mẹ,” và vỗ nhẹ lên vai Dina để dàn hòa. Cô bé rùn người tránh. “Cô hổ con vẫn còn giận đây mà,” anh ta nói rồi bỏ đi làm.
Bà Shroff cố dỗ dành Dina, hứa sẽ bàn bạc với Nusswan, có khi còn thuyết phục anh ta thuê thêm một người giúp việc bán thời gian chăng, song quyết tâm của bà tan chảy chỉ sau vài tiếng đồng hồ. Mọi việc vẫn đâu vào đấy. Nhiều tuần trôi qua, thay vì tái lập công bằng trong gia đình, chính bản thân bà dần biến thành một trong những đầu việc góp thêm vào danh sách đã đầy ngất của cô con gái.
Giờ bà Shroff cần có người chỉ bảo mới làm nổi việc. Khi cơm canh được đặt trước mặt, bà cũng ăn, dù nó hầu như chẳng giúp ích gì cho bà, vì bà liên tục sút cân. Phải nhắc nhở luôn luôn để bà nhớ là phải tắm và thay quần áo. Nếu kem đánh răng được nặn ra bàn chải và giúi vào tay bà, bà mới đánh răng. Với Dina, nhiệm vụ đáng chán nhất là gội đầu cho mẹ, hàng nhúm tóc rơi lả tả xuống sàn phòng tắm, và đến lúc chải đầu, số tóc rụng xuống còn nhiều hơn.
Mỗi tháng một lần, bà Shroff lại đến đền thờ lửa dự lễ cầu nguyện cho chồng. Bà nói mình cảm thấy thanh thản vô cùng khi lắng nghe chất giọng êm ái của thầy Framji cầu cho linh hồn chồng bà được siêu thoát. Dina xin nghỉ học để đưa mẹ đi, vì lo bà sẽ lang thang đâu đó.
Trước khi cử hành buổi lễ, thầy Framji ngọt ngào bắt tay bà Shroff và dành cho Dina một cái ôm siết rất lâu vốn được ông ta ưu ái tặng riêng cho các cô bé và các thiếu nữ. Lừng tiếng là thích ôm ấp và ve vuốt, ông được người ta tặng cho cái danh tục Thầy Táy Máy và sống trong thái độ thù ghét của bạn bè đồng đạo, những người khó chịu với ông không phải vì những cử chỉ đó, mà vì bản tính thiếu tế nhị và thói ngoan cố không chịu nguỵ trang những vòng ôm của mình bằng cái vỏ tình cảm bề trên và tín ngưỡng. Họ sợ rằng đến một ngày, ông ta sẽ đi quá xa mà nhỏ dãi tong tỏng lên nạn nhân của mình hoặc làm gì đó, và bôi nhọ cả ngôi đền.
Dina co rúm người lại trong vòng tay của ông ta, trong khi ông ta vỗ lên đầu cô, xoa xát cổ cô, ve vuốt lưng cô và ép chặt thân mình vào người cô. Ông ta có bộ râu ngắn ngủn, lởm chởm, nom như cùi dừa nạo. Những sợi râu cào xước cả đôi má và trán cô bé. Ông ta chỉ chịu buông cô ra khi cô đã thu hết can đảm để giằng cơ thể đang bị bó cứng khỏi đôi tay ông.
Sau buổi lễ ngoài đền, Dina dành cả ngày còn lại ở nhà để ép mẹ mở miệng, cô xin bà lời khuyên về các công việc nội trợ hoặc bí quyết nấu nướng, và nếu cách đó không ăn thua, cô sẽ hỏi về bố và cuộc sống của hai người khi họ mới lấy nhau. Đứng trước thái độ trầm lặng lơ đễnh của mẹ, Dina cảm thấy bất lực. Chẳng bao lâu sau, nỗi lo lắng cô bé dành cho mẹ đã được xoa dịu dần dần bởi bản năng tuổi trẻ, cô bình tâm trở lại – rồi cô sẽ được nhận đủ khẩu phần khổ đau và u buồn khi đến lúc, không cần phải tự chất gánh nặng vào thân quá sớm làm gì.
Còn bà Shroff chỉ hắt ra từng âm tiết hoặc tiếng thở dài, rồi nhìn lom lom vào mặt Dina để chờ câu trả lời. Về khoản lau chùi đồ đạc, bà chẳng động cựa gì nhiều ngoài việc lau chiếc khung lồng tấm ảnh tốt nghiệp của chồng. Phần lớn thời gian bà chỉ nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ.
Nusswan thích nhìn nhận tình trạng suy sụp của mẹ như động thái hy sinh chính đáng của một bà quả phụ, trong đó bà rũ bỏ hết những bụi nhơ trần tục để có thể toàn tâm toàn ý chăm chút đời sống tâm linh. Anh ta bèn tập trung vào việc nuôi dạy Dina. Ý nghĩ về trách nhiệm khổng lồ đang dồn lên đôi vai mình khiến anh ta lo âu khôn nguôi.
Nusswan luôn xem cha mình là một con người kỉ luật nghiêm khắc; anh ta đã vô cùng ngưỡng vọng ông, thậm chí có phần e sợ ông. Anh ta cho rằng, nếu đã đứng vào cương vị của cha, anh ta cũng phải tạo ra được cái uy khiến người khác kiêng nể hệt như vậy, và anh ta rất chăm chỉ cầu nguyện với ước mong có đủ dũng khí và được dìu dắt để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Anh ta tâm sự với các họ hàng thân thích – các cô dì chú bác – rằng bản tính ngỗ nghịch và cứng đầu của Dina khiến anh ta phát điên, và rằng chỉ có sự giúp sức của Đấng Tối Cao mới cho anh ta sức mạnh để tiếp tục gánh vác trọng trách này.
Sự chân thành của anh ta khiến mọi người cảm động. Họ hứa sẽ cầu nguyện cho anh ta. “Đừng lo, Nusswan, rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy cả thôi. Chúng ta sẽ thắp một ngọn đèn ở đền thờ lửa.”
Ấm lòng trước sự ủng hộ của các bậc cha chú, Nusswan bắt đầu đưa Dina theo mình tới đền thờ lửa mỗi tuần một lần. Đến nơi, anh ta ấn một thanh gỗ đàn hương vào tay cô bé và gằn từng tiếng vào tai cô: “Giờ thì đi cầu nguyện cho tử tế vào! Hãy xin Bề Trên biến mày thành một cô gái ngoan, hãy xin Người làm cho mày biết nghe lời!”
Trong khi cô bé quỳ gối trước chính điện, anh ta bước dọc theo bức tường bao bọc điện thờ, nơi treo ảnh của các vị thầy tế và thầy cả. Anh ta dừng lại trước từng tấm hình, vuốt ve vòng hoa treo trên đó, ôm lấy khung ảnh, hôn lên mặt kính, và kết thúc cuộc hành trình ở bức ảnh lớn vẽ hình Zarathustra[5], nơi anh ta dán môi lên đúng một phút tròn. Sau đó, từ chiếc bình tro đặt ở cửa ra vào của chính điện, anh ta chấm một ít lên trán, quệt một vệt ngang họng, và cởi hai chiếc khuy trên cùng của chiếc áo sơ mi để xoa đều một nắm tướng tro lên khắp ngực.
Như xoa bột tan ấy, Dina trộm nghĩ khi ghé mắt nhìn từ nơi cô đang quỳ, bấm bụng để không bật cười thành tiếng. Cô không dám ngẩng đầu lên cho tới khi ông anh kết thúc trò hề của mình.
“Mày có cầu nguyện tử tế không đấy?” Anh ta cật vấn khi hai em đã ra khỏi điện.
Cô bé gật đầu.
“Tốt. Giờ thì tất cả những suy nghĩ xấu xa sẽ rời bỏ óc mày, mày sẽ thấy trái tim bình yên và tĩnh tại.”
Dina không được phép đến chơi nhà bạn vào những dịp lễ tết nữa. “Cần gì phải thế,” Nusswan nói. “Ngày nào đến trường mày chả gặp chúng nó.” Các bạn bè vẫn có thể đến thăm cô bé khi được ông anh cho phép, nhưng gặp gỡ kiểu này cũng chẳng vui vẻ gì, bởi anh ta luôn rình rập xung quanh.
Có một lần, anh ta nghe lỏm thấy em gái và cô bạn Zenobia đùa cợt về hàm răng của mình ở ngay phòng bên. Chuyện đó chỉ càng củng cố lòng tin của anh ta rằng những con quỷ nhỏ này cần được giám sát nghiêm ngặt. Zenobia bảo, trông anh ta chả khác gì một con ngựa.
“Phải đấy, con ngựa mang hàm răng giả rẻ tiền,” Dina đế thêm.
“Giá một con voi mà có ngần ấy ngà, thì nó sẽ vênh váo phải biết!” Zenobia càng làm già.
Hai đứa đang cười lăn cười bò thì ông anh bước vào. Anh ta nẹt cho mỗi đứa một cú lườm chết chóc rồi mới quay lưng bỏ đi với một tốc độ chậm rãi rợn người, bỏ lại đằng sau là bầu không khí im lặng và khiếp đảm. Phải rồi, có thế chứ, anh ta chợt ngộ ra trong cảm giác sửng sốt và đắc thắng: Nỗi sợ đã phát huy tác dụng.
Nusswan vốn rất nhạy cảm về hàm răng vẩu của mình. Hồi đến tuổi choai choai, anh ta đã thử đi nắn lại cho thẳng. Dina, lúc ấy mới sáu, bảy tuổi, đã trêu chọc ông anh không thương tiếc. Song quá trình chỉnh hình quá đau đớn nên anh ta bỏ ngang, và than rằng mang tiếng có bố là bác sĩ, thế mà khiếm khuyết của anh ta chẳng hề được quan tâm chữa chạy kịp thời từ khi còn bé. Anh ta thường chỉ vào khuôn miệng hoàn hảo của Dina, lấy đó làm bằng cho sự thiên vị.
Xót con, bà mẹ ra sức phân bua: “Con ơi, lỗi tại mẹ cả, mẹ không biết là trẻ con cần được mát xa răng thường xuyên và ấn nhẹ vào phía trong. Bà y tá già đỡ cho em Dina đã dạy mẹ thế, nhưng lúc đấy mà làm cho con thì không kịp nữa rồi.”
Nusswan chưa bao giờ tin lời mẹ. Và giờ, khi bạn của Dina đã về, cô bé phải trả giá. Anh ta bắt cô bé nhắc lại những gì hai đứa đã nói. Cô bé hiên ngang nhắc lại.
“Mày đã quen thói chuyện gì cũng tông tốc nói ra bằng hết. Nhưng mày có còn bé bỏng gì nữa đâu. Phải có người dạy cho mày biết thế nào là lễ độ.” Anh ta thở dài. “Thiết nghĩ, đấy chính là bổn phận của tao.” Và không hề báo trước, anh ta dang tay vả liên tục vào mặt cô bé. Anh ta chỉ dừng lại khi môi dưới của cô bật máu.
“Đồ con lợn!” Cô bé khóc tức tưởi. “Anh muốn tôi cũng xấu xí như anh chứ gì!” Nghe thế, anh ta vồ lấy cái thước và quật cô bé túi bụi, còn Dina chạy quanh, cố né tránh những cú vụt.
Duy chỉ lần này, bà Shroff bỗng nhận thấy có gì đó bất thường. “Sao con lại khóc, con gái?”
“Tại thằng quỷ hút máu ngu si kia ấy! Nó đánh con chảy cả máu đây này!”
“Chậc chậc, khổ thân con tôi.” Bà ôm Dina rồi trở về chỗ ngồi của mình bên cửa sổ.
Hai ngày sau vụ này, Nusswan cố làm lành bằng cách mang về cho Dina một bộ dây buộc tóc. “Em lấy mà buộc đuôi sam, đẹp lắm đấy,” anh ta nói.
Cô bé bèn mở cặp sách, lấy chiếc kéo thủ công ra và cắt vụn mớ dây buộc tóc thành từng mảnh nhỏ.
“Mẹ, mẹ xem kìa!” Anh ta kêu lên, gần như phát khóc. “Mẹ xem cô con gái thù dai của mẹ đấy! Bao nhiêu tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được, con tiêu cả cho nó. Vậy mà nó cảm ơn con thế đấy!”
Cây thước trở thành công cụ ưa thích của Nusswan trong công cuộc thiết lập kỉ cương. Quần áo của anh ta là nguyên nhân phổ biến nhất khiến Dina bị phạt. Sau khi giặt, ủi, và gập xong đồ, cô bé phải xếp thành bốn chồng riêng biệt trong tủ của anh trai: áo sơ mi trắng, áo sơ mi màu, quần trắng, quần màu. Đôi khi, cô bé cố tình bỏ một chiếc áo kẻ sọc vào giữa chồng sơ mi trắng, hoặc thả rông chiếc quần in họa tiết răng chó giữa cả đám quần trắng. Bị đánh đập là thế, song cô bé không bao giờ chán chọc tức ông anh.
“Với cung cách cư xử đấy, cháu có cảm giác chính quỷ Sa Tăng đang trốn trong tim nó,” anh ta mệt mỏi kêu than với những người họ hàng đến hỏi thăm tình hình. “Có khi cháu phải tống nó vào trường nội trú nào đó thôi.”
“Ấy, ấy, đừng làm quá lên,” các cô bác van vỉ. “Trường nội trú đã làm hỏng biết bao cô gái Parsi rồi đấy. Thế nào Thượng Đế cũng bù đắp xứng đáng cho lòng kiên nhẫn và tận tụy của cháu. Con Dina nữa, rồi nó sẽ cảm ơn cháu khi nó đủ lớn để hiểu rằng cháu làm thế chỉ vì lo cho nó mà thôi.” Họ ra về, miệng lẩm bẩm, thằng bé quả là một vị thánh, đứa con gái nào phải dày phúc lắm mới có được một ông anh như thế.
Những lời khích lệ của họ hàng giúp khôi phục tinh thần của anh ta, khiến Nusswan thêm bền gan. Anh ta tự mình mua tất cả quần áo cho Dina, đích thân quyết định cái gì mới là phù hợp cho một cô gái trẻ. Những món đồ mua về thường là nom chẳng ra sao, vì cô em gái không được phép ló mặt đến nơi anh ta mua hàng. “Tao không muốn phải đôi co với mày ngay trước mặt người bán hàng,” anh ta nói. “Mày chỉ toàn làm xấu mặt tao thôi.” Khi cô bé cần đồng phục mới, anh ta hộ tống cô bé đến trường vào ngày thợ may tới để giám sát việc đo đạc. Anh ta hạch sách thợ về giá cả và vải vóc, cố tính toán xem ông hiệu trưởng được lại quả bao nhiêu. Dina rất hãi sự kiện thường niên này, và luôn hoang mang không biết điều tủi hổ mới nào sẽ lại đổ xuống đầu mình ngay trước mặt các bạn cùng lớp.
Tất cả các bạn bè của Dina giờ đều để tóc ngắn, cô bé bèn xin được hưởng đặc ân tương tự. “Nếu anh cho em cắt tóc, em sẽ lau phòng ăn hàng ngày chứ không làm cách nhật nữa,” cô cố mặc cả. “Hoặc em sẽ đánh giày cho anh hàng tối.”
“Không,” Nusswan gạt đi. “Mười bốn tuổi đầu mà đã đua đòi mốt nọ mốt kia nỗi gì? Mày cứ để tóc đuôi sam là đẹp nhất. Vả lại, tao lấy đâu ra tiền để trả cho thợ làm tóc?” Nhưng anh ta lập tức thêm đánh giày vào danh sách việc nhà của Dina.
Một tuần sau lần nài xin cuối cùng, Dina quyết định xén cụt chiếc đuôi sam, với sự trợ giúp của Zenobia trong khu nhà vệ sinh trường. Tham vọng của Zenobia là trở thành nhà tạo mẫu tóc, và cô bé vô cùng phấn khích khi thần may mắn mang cái đầu của cô bạn gửi gắm vào tay mình. “Hay mình xén hết cả mớ bù xù này đi,” cô bé gợi ý. “Cắt thật ngắn luôn!”
“Cậu điên à?” Dina kêu lên. “Nusswan sẽ nhảy dựng lên mất.” Cuối cùng, hai bên nhất trí sẽ cắt kiểu thị đồng, và Zenobia tỉa tóc cô bạn cách vai chừng hai, ba phân. Nom sản phẩm có phần hơi luôm nhuôm, nhưng cả hai cô bé đều lấy thế làm hoan hỉ lắm.
Dina ngần ngại không dám vứt mấy cái đuôi sam vừa bị cắt vào thùng rác. Cô bé bèn cất vào cặp sách rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Cô kiêu hãnh diễu hành quanh nhà, liên tục đi qua đi lại trước các tấm gương để được ngắm mái tóc của mình từ đủ mọi góc độ khác nhau. Sau đó, cô ghé vào phòng mẹ và chờ đợi – một sự ngỡ ngàng, thích thú, hay gì đó từ phía bà. Nhưng bà Shroff chẳng nhận thấy điều gì hết.
Cuối cùng, cô bé đành hỏi: “Mẹ, mẹ có thích kiểu tóc mới của con không?”
Bà Shroff nhìn đăm đăm bằng ánh mắt vô hồn mất một lúc. “Đẹp lắm, con ạ, đẹp lắm.”
Tối hôm đó, Nusswan về muộn. Anh ta chào mẹ, và kêu rằng công việc ở chỗ làm lu bù quá. Rồi anh ta nhìn thấy Dina. Anh ta hít vào một hơi thật sâu và áp một tay lên trán. Mệt mỏi rã rời, anh ta ước sao có một cách nào khác để giải quyết việc này mà không cần viện đến một trận đánh nữa. Nhưng thái độ xấc láo, bất trị của con bé không thể không bị trừng phạt đến nơi đến chốn được; nếu không, làm sao anh ta còn dám nhìn mặt chính mình trong gương nữa?
“Ra đây nào, Dina. Nói xem, tại sao mày lại không nghe lời tao?”
Cô bé gãi gãi cổ, nơi những vụn tóc còn rơi rớt đâm vào khiến da ngứa ngáy. “Em không nghe lời anh ở chỗ nào?”
Anh ta tát cô. “Tao cấm mày hỏi vặn lại khi tao đang hỏi mày chuyện gì đó.”
“Anh chả nói anh không có tiền trả cho thợ cắt tóc còn gì. Cái này chẳng tốn đồng nào cả, em tự cắt đấy.”
Anh ta lại tát cô. “Tao đã cấm mày không được cãi cơ mà.” Anh ta lấy cây thước và đánh vào bàn tay cô bằng mặt thước, tiếp đó, vì thấy rằng hành động xúc phạm này là đặc biệt nghiêm trọng, anh ta dựng sống thước lên và quật vào các đốt ngón tay. “Thế này để mày chừa cái thói ăn vận như một đứa con gái hư hỏng đi nhé!”
“Thế anh đã tự nhìn cái đầu anh trong gương chưa? Trông anh chẳng khác gì một thằng hề!” Cô bé vặc lại, không hề nao núng.
Mái tóc của Nusswan, theo quan điểm của riêng anh ta, là tuyên ngôn của vẻ đẹp thanh tao tôn quý. Anh ta rẽ ngôi ở chính giữa, và áp đặt trật tự lên hai bên bằng phương pháp vuốt sáp có tính toán cẩn trọng. Lời chế giễu của Dina đã làm bùng nổ cơn thịnh nộ của nhà hành pháp. Anh ta đẩy cô bé, lúc ấy bắp chân và cẳng tay đã chằng chịt những vết thước quật, vào nhà tắm, và bắt đầu giật tung quần áo của cô ra.
“Tao không muốn nghe mày nói một chữ nào nữa! Không một chữ! Hôm nay mày đã vượt quá giới hạn rồi đấy. Giờ thì đi tắm ngay, đồ dơ bẩn! Dội cho sạch chỗ vụn tóc kia mau, trước khi mày đem chúng gieo rắc khắp nhà và mang xui xẻo về cho cái gia đình này!”
“Anh lo gì chứ, chỉ cần trông thấy mặt anh là vận xui phải sợ chết khiếp mà cút đi ngay.” Cô bé đứng đó trên nền gạch, trần truồng, nhưng anh ta vẫn chưa bỏ đi. “Em cần nước nóng,” cô nói.
Anh ta lùi lại, múc một ca nước lạnh từ xô rồi tạt vào người cô. Toàn thân run cầm cập, cô trừng mắt nhìn anh ta đầy thách thức, hai núm vú săn cứng lại. Anh ta cấu một bên đầu vú, rất mạnh, khiến cô bé giật nảy người. “Xem mày kìa, bắt đầu có ngực rồi cơ đấy. Mày tưởng mày đã lớn rồi ư? Tao thì xẻo luôn cặp vú bây giờ, cùng cái lưỡi độc địa của mày nữa!”
Anh ta săm soi cô bằng ánh mắt kì lạ. Cô bé bắt đầu thấy sợ. Cô hiểu rằng lời đáp trả gai góc của mình đã làm anh ta sôi tiết, rằng nó có dính dáng ít nhiều đến cách anh ta nhìn chằm chằm vào nhúm lông mới nhú ở nơi cặp đùi của cô tiếp giáp nhau. Tỏ vẻ quy phục để xoa dịu bớt cơn giận của anh ta sẽ là an toàn hơn. Cô quay đi và bắt đầu khóc, hai tay úp lên che mặt.
Thỏa mãn, anh ta bỏ đi. Chiếc cặp sách của cô nằm vạ vật trên giường đã thu hút sự chú ý của anh ta. Anh ta mở ra chỉ để kiểm tra hú họa và nhìn thấy mấy cái đuôi sam được nhét ngay phía ngoài. Dùng ngón cái và ngón trỏ nhón một cái lên, Nusswan nghiến răng lại cho đến khi một nụ cười từ từ kéo giãn những nét cáu kỉnh trên khuôn mặt anh ta ra.
Khi Dina tắm xong, anh ta kiếm một cuộn băng dính điện màu đen và dán chặt mấy chiếc đuôi sam vào tóc cô. “Mày sẽ phải để tóc thế này,” anh ta tuyên bố. “Tất cả các ngày, kể cả khi đi học, tới chừng nào tóc mày mọc dài lại thì thôi.”
Cô bé ước sao mình đã vứt quách mấy món tóc bất hạnh ấy ở nhà vệ sinh trường ngay từ đầu. Cảm giác hệt như mấy con chuột chết treo lủng lẳng trên đầu vậy.
Sáng hôm sau, cô lén mang cuộn băng dính đến trường. Những chiếc đuôi sam được tháo ra ngay trước giờ vào lớp. Làm thế đau lắm, vì băng dính bám rất chặt. Đến lúc tan học, cô nhờ Zenobia giúp mình gắn lại. Nhờ vậy, cô trốn được hình phạt của Nusswan vào những ngày trong tuần.
Nhưng ít ngày sau, bạo loạn bùng phát trong thành phố, hệ quả của phong trào Li khai và sự kiện người Anh ra đi. Dina bị kẹt ở nhà với Nusswan. Lệnh giới nghiêm cả ngày lẫn đêm được áp dụng tại tất cả các khu vực. Công sở, quán xá, trường học, tất thảy đều đóng cửa, và thế là chấm hết những khoảng thời gian được giải thoát khỏi mấy cái đuôi sam ghê tởm. Anh ta chỉ cho phép cô gỡ chúng ra khi tắm, và giám sát việc gắn lại ngay sau đó.
Bị nhốt trong nhà, Nusswan hết lời than vãn về tai họa đang ập xuống toàn đất nước, và càu nhàu không ngớt. “Cứ ngồi nhà ngày nào là tao mất tiền ngày ấy. Lũ người man rợ vô văn hóa khốn kiếp kia không xứng được độc lập. Cứ cho là bọn chúng phải chém nhau đến chết đi, thì tao chỉ ước sao chúng kéo đi chỗ khác mà làm cho êm chuyện. Về làng của chúng chẳng hạn. Đừng làm ảnh hưởng đến thành phố bên bờ biển xinh đẹp của chúng ta.”
Khi lệnh giới nghiêm được dỡ bỏ, Dina lao như bay đến trường, sung sướng chẳng khác nào chim sổ lồng, háo hức được tận hưởng tám tiếng tồn tại mà không có Nusswan. Còn chính anh ta cũng thấy nhẹ nhõm khi được trở lại nơi làm việc. Vào buổi tối đầu tiên khi cuộc sống toàn thành phố trở lại bình thường, anh ta về nhà với tâm trạng phấn khởi chưa từng thấy. “Lệnh giới nghiêm kết thúc rồi, và hình phạt dành cho mày cũng vậy. Giờ mày có thể vứt mấy cái đuôi sam ấy đi được rồi,” anh ta nói, và hào phóng đế thêm. “Kể ra, tóc ngắn cũng hợp với mày phết đấy.”
Anh ta mở cặp táp và lấy ra một chiếc băng đô mới. “Lấy cái này mà đeo, đừng dùng băng dính điện nữa,” anh ta pha trò.
“Anh đi mà đeo,” cô nói, nhất quyết không thèm nhận.
Ba năm sau ngày bố mất, Nusswan kết hôn. Vài tuần sau đó, công cuộc rút lui khỏi cuộc đời của mẹ anh ta hoàn tất. Nếu như trước đây bà còn ngoan ngoãn đáp lại các chỉ dẫn – dậy đi, uống trà đi, rửa tay đi, uống thuốc đi – thì nay những gì còn lại chỉ là một bức tường của trạng thái vô tri.
Nhiệm vụ chăm sóc mẹ đã vượt quá khả năng của Dina. Khi mùi bốc lên từ căn phòng bà Shroff đã đến ngưỡng không thể bưng mũi bịt mắt thêm nữa, Nusswan mới rụt rè mang vấn đề ra trình bày với vợ. Anh ta không dám nhờ thẳng vợ, mà chỉ hi vọng bản tính nhân ái sẽ thuyết phục chị ta tình nguyện xông pha. “Ruby, em yêu, tình hình của mẹ càng ngày càng xấu đi. Mẹ cần được chăm sóc cẩn thận, mọi lúc mọi nơi.”
“Thì đưa cụ vào trại dưỡng lão,” Ruby đáp. “Mẹ cứ ở trong đấy là tốt nhất.”
Anh ta gật đầu xuê xoa, và làm một việc vừa đỡ tốn kém hơn lại nhân văn hơn là gửi mẹ mình vào nhà máy bảo dưỡng tuổi già – như một vài người họ hàng ác miệng đã gọi – anh ta thuê một hộ lý toàn thời gian.
Thời hạn làm việc của người hộ lý chẳng kéo dài là bao; bà Shroff ra đi vào cuối năm đó, và rốt cuộc mọi người cũng hiểu ra rằng vợ của một bác sĩ chẳng hề miễn nhiễm với khổ đau hơn những người bình thường khác. Bà qua đời vào đúng ngày chồng mất theo lịch Shahenshahi[6]. Lễ cầu siêu cho họ được cử hành liên tiếp trong cùng một ngôi đền dưới sự chủ trì của thầy Framji. Đến tuổi này, Dina đã học được cách né tránh những cái ôm thân thiện quá mức từ phía ông thầy. Khi ông lại gần, cô lịch sự chìa một tay ra và bước lùi lại một bước, rồi một bước nữa, và một bước nữa. Gần như phải đuổi theo cô bé vòng quanh nhà nguyện, giữa những chiếc lư lớn cắm đầy gỗ đàn hương đang cháy phừng phừng, ông ta chỉ biết nở nụ cười ngớ ngẩn và đành bỏ cuộc.
Khi một tháng lễ cầu siêu đầu tiên cho bà Shroff đã kết thúc, Nusswan quyết định rằng cho Dina đi học tiếp là việc quá ư vô nghĩa lý. Tờ bảng điểm gần đây nhất của cô bé quá thảm hại. Nếu không nhờ có vị hiệu trưởng, vốn vẫn nhớ như in những kí ức hồi còn mồ ma ông Shroff và muốn coi những điểm số đó là dấu hiệu của một sự sa sút tạm thời, thì cô đã phải ở lại lớp rồi.
“Cô Lamb thật tử tế khi cho mày lên lớp,” Nusswan nói. “Nhưng sự thật là, kết quả của mày quá tệ. Tao sẽ không phí tiền đóng học cho mày thêm một năm nào nữa.”
“Lúc nào anh cũng bắt em lau chùi quét dọn, cả ngày em chẳng đào đâu ra một tiếng để học bài! Anh còn mong hòng gì nữa?”
“Đừng có bao biện. Một đứa con gái trẻ trung khỏe mạnh thế kia, làm có tí việc nhà thì ảnh hưởng gì đến học hành? Mày không biết mày may mắn đến thế nào ư? Còn hàng ngàn đứa trẻ nghèo khác trên khắp thành phố này, ngày thì đi đánh giày ngoài ga, hoặc đi nhặt giấy vụn, chai lọ, túi bóng, tối đến lại đi học. Thế mà mày còn kêu ca nữa à? Thứ mày còn thiếu chỉ là khát vọng học tập mà thôi. Tao quyết rồi, mày học thế là đủ.”
Dina không định chấp nhận số phận mà không hề phản kháng lại. Cô cũng cầu mong vợ Nusswan sẽ ra mặt nói đỡ cho mình. Nhưng Ruby chọn cách đứng ngoài cuộc chiến, vậy là vào sáng hôm sau, khi bị xua ra chợ với một tờ danh sách những món cần mua, Dina bèn chạy ngay đến nhà ông nội.
Ông nội sống với một người chú họ, trong một căn phòng sực nức mùi sáp mốc. Cô nín thở và ôm lấy ông, rồi trút hết mọi phiền não của mình vào một tràng câu chữ: “Cháu xin ông! Ông hãy bảo anh ấy đừng đối xử với cháu như thế nữa!”
Chân đã bước vào con đường suy kiệt của tuổi già, nên ông cụ phải mất một lúc mới nhớ ra Dina là ai, và cần một khoảng thời gian lâu hơn nữa để hiểu được cô bé muốn gì. Lúc ấy ông không đeo răng giả, nên khó mà luận nổi ông đang nói gì. “Cháu lấy hàm răng giả cho ông nhé?” Cô bé gợi ý.
“Thôi, thôi, thôi!” Ông cụ giơ cả hai tay lên xua kịch liệt. “Không cần răng. Răng gì cong như móc câu, đeo vào đau cả miệng. Thằng nha sĩ khốn kiếp ngu như bò ấy, rõ đồ vô dụng. Đến thợ mộc còn đẽo được bộ răng tốt hơn thế.”
Cô bèn nhắc lại từng câu một thật chậm rãi, mãi sau ông cụ mới nắm được vấn đề. “Đi học à? Ai, cháu hả? Đương nhiên là cháu phải đi học rồi. Đương nhiên. Đương nhiên. Cháu phải đi học. Rồi còn lên đại học nữa chứ. Rồi, nhất định ta sẽ bắt thằng khốn mất dạy ấy cho cháu đi học, ta sẽ lệnh cho thằng Nauzer. À không, thằng Nevil – thằng Nusswan, phải rồi, ta sẽ buộc nó làm thế.”
Ông cụ bèn sai một người làm sang nhắn Nusswan tới gặp mình càng sớm càng tốt. Nusswan không thể từ chối. Anh ta quan tâm sâu sắc đến cách các thành viên trong gia đình nhìn nhận về mình. Sau khi lần lữa được vài ngày, viện cớ mình bận công mắc việc quá, anh ta đành đi, nhưng kéo theo cả Ruby để có thêm đồng minh. Chị ta đã được dặn phải lấy lòng ông cụ bằng mọi phương cách có thể.
Kể từ sau chuyến viếng thăm của Dina, trí óc của ông cụ đã lẫn lộn nhiều. Ông không còn nhớ chút gì về cuộc nói chuyện giữa hai ông cháu. Lần này ông có đeo răng giả nhưng chẳng chịu nói năng gì mấy. Sau khi được gợi ý và nhắc nhỏm chán chê, ông có vẻ đã nhận ra các cháu. Rồi, không thèm đếm xỉa gì đến Ruby, ông đột ngột quả quyết rằng Nusswan và Dina chính là vợ chồng. Ông nhất định không chịu từ bỏ niềm tin của mình, mặc cho Dina ra sức dỗ dành nịnh nọt.
Ruby ngồi trên ghế sô pha cầm tay ông cụ. Chị ta hỏi ông có muốn mình mát xa chân cho không. Rồi không đợi ông trả lời, chị ta vớ lấy bàn chân trái và bắt đầu nắn bóp. Móng chân ông cụ vàng khè, chắc phải lâu lắm rồi chưa được cắt tỉa.
Cáu tiết, ông cụ giật mạnh bàn chân khỏi tay chị ta. “Làm cái gì thế, con kia? Xéo, xéo mau!”[7]
Giật mình vì bị chửi bằng tiếng Hindi, Ruby chỉ biết ngồi há hốc miệng kinh ngạc. Ông bèn quay sang Nusswan hỏi: “Nó không hiểu gì sao? Con hầu gái nhà cháu nói tiếng gì vậy? Bảo nó cút khỏi ghế của ta ngay, xuống bếp mà ngồi đợi.”
Ruby đùng đùng bật dậy và ra ngoài cửa đứng. “Ông già thô bỉ!” Chị ta phun phì phì. “Da tôi chỉ hơi đen thôi mà!”
Nusswan chào một câu cộc lốc rồi về theo vợ, không quên quay sang ném một cái nhìn đắc thắng về phía Dina, khi đó vẫn còn chưa hết bối rối ngơ ngác. Cô cố nán lại, với hi vọng ông nội sẽ vét được chút sức tàn còn ẩn giấu đâu đó và cứu vớt cô. Một tiếng sau, cô đành bỏ cuộc. Cô hôn lên trán ông rồi ra về.
Đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy ông khi còn sống. Ông mất trong giấc ngủ vào tháng sau đó. Đứng giữa đám tang, Dina tự hỏi không hiểu móng chân ông nội đã dài thêm mấy phân bên dưới tấm vải trắng đang che phủ toàn thân ông cụ, chỉ để hở mỗi khuôn mặt.
Suốt bốn năm ròng, Nusswan đã bền bỉ dành dụm tiền cho đám cưới của Dina. Giờ món tiền tích cóp được đã kha khá, anh ta tính sẽ sớm cưới chồng cho em gái. Anh ta chắc chắn mình sẽ không gặp khó khăn gì trong việc tìm ra một cậu em rể tốt. Anh ta vẫn thường hãnh diện tự nhủ, Dina đã trở thành một cô thiếu nữ xinh đẹp, cô đáng được hưởng những gì tốt đẹp nhất. Đó sẽ là một đám cưới linh đình, xứng với em gái của một doanh nhân thành đạt, rồi họ hàng làng xóm sẽ còn phải trầm trồ bàn tán đến mãi về sau.
Khi cô bước sang tuổi mười tám, anh ta bắt đầu mời các chàng trai độc thân đủ tiêu chuẩn đến nhà họ. Cô cảm thấy kẻ nào cũng đáng ghét; họ đều là bạn bè của anh trai cô, và mọi cử chỉ, lời nói của họ đều nhắc cô nhớ tới Nusswan.
Nusswan tin rằng sớm muộn gì sẽ có một người cô thích. Anh ta không thể cấm đoán chuyện đi về của cô được nữa, cô đã qua độ tuổi cho những trò kiểm soát trẻ con đó mất rồi. Chừng nào cô vẫn hoàn thành đầy đủ việc nhà và mua đúng những món ghi trong tờ danh sách đi chợ của Ruby, nền hòa bình tương đối vẫn ngự trị trong ngôi nhà. Đến nay, mọi cuộc cãi cọ, có chăng, đều xảy ra giữa Ruby và Dina, như thể Nusswan đã ủy thác chức năng này cho vợ mình vậy.
Khi đi chợ, đôi lúc Dina vận dụng óc sáng tạo của mình và thay hoa lơ bằng bắp cải; hoặc có lúc cô bỗng thấy thèm hồng xiêm, bèn bỏ qua cam để chọn mua quả này. Y như rằng, Ruby sẽ đay nghiến cô vì tội phá hoại những bữa ăn đã được tính toán cẩn thận: “Đồ con gái nham hiểm, độc địa, làm hỏng hết bữa tối của chồng người ta rồi!” Chị ta cáng đáng cả phần luận tội lẫn phần tuyên án một cách tự nhiên, máy móc, và coi đó là một phần vai trò của mình trong cương vị một người vợ đảm.
Nhưng giữa hai người phụ nữ không chỉ có cãi vã và kèn cựa. Càng lúc đôi bên càng hòa hợp hơn. Trong số những món đồ Ruby mang về nhà chồng sau ngày cưới có một chiếc máy khâu nhỏ có tay quay. Chị ta hướng dẫn Dina cách sử dụng, còn dạy cô may những món đơn giản như vỏ gối, ga giường, rèm cửa.
Khi đứa con đầu lòng của Ruby ra đời, một bé trai được đặt tên là Xerxes, Dina giúp chăm nom cháu. Cô may cả áo sơ sinh và đan những chiếc mũ nhỏ xinh cùng áo len chui đầu. Để mừng sinh nhật một tuổi của thằng bé, cô làm một đôi giày len. Vào buổi sáng hạnh phúc ấy, họ đeo cho Xerxes những vòng hoa hồng và hoa huệ, và bôi một vệt son đỏ thật lớn lên trán đứa trẻ.
“Thằng bé đáng yêu quá đi mất!” Dina cười sung sướng.
“Đôi giày len em đan cho cháu nó xinh thật cơ!” Ruby xuýt xoa, và ôm chầm lấy cô.
Nhưng đó là ngày hiếm hoi trôi qua mà không có một cuộc cãi cọ nào. Khi công việc đã xong xuôi, Dina thích được ra khỏi nhà càng nhiều càng tốt. Nguồn trợ cấp cho những buổi lang thang bên ngoài bị giới hạn trong phạm vi số tiền cô có thể bớt xén được từ tiền chợ. Lương tâm cô không mảy may cắn rứt; cô coi đó là khoản trả công cho kiếp trâu ngựa mà mình phải gánh chịu, chưa kể đó chỉ là một phần nhỏ của món nợ cô còn bị thiếu.
Ruby đòi phải kê khai từng xu được tiêu đi. “Chị muốn xem hóa đơn mua hàng. Của tất cả các món!” Chị ta dằn nắm đấm xuống bàn bếp, khiến vung nồi vung xoong rung lên loảng xoảng.
“Mấy bà bán rau, bán cá ngồi vệ đường thì lấy đâu ra hóa đơn?” Dina đốp lại, và ném về phía chị dâu nắm hóa đơn mua hàng, cùng số tiền thừa cô đã chuẩn bị sẵn sau khi co kéo những món hàng không có giấy tờ làm bằng. Cô quay lưng bỏ đi, còn bà chị dâu bò cả xuống sàn để nhặt cho bằng hết từng hào từng cắc.
Số tiền dành dụm được đủ để mua vé xe buýt. Dina tới công viên, lang thang trong các viện bảo tàng và các khu chợ, ghé vào rạp chiếu phim (nhưng chỉ đứng ngoài để xem mấy tấm áp phích), và rụt rè lui tới cả các thư viện công cộng. Những cái đầu cúi gằm trước trang sách khiến cô có cảm giác lạc lõng; ở đây trông ai cũng học thức đầy mình, còn cô thì đến bậc phổ thông cũng chưa được học hết.
Ấn tượng ban đầu đó dần tan biến khi cô nhận ra rằng các ấn phẩm trên tay những con người nghiêm nghị đó rất muôn màu muôn vẻ, từ loại sách mang cái tên không thể phát âm nổi như Areopagitica[8] của John Milton, cho đến tạp chí Illustrated Weekly của Ấn Độ[9]. Cuối cùng, những phòng đọc cũ rộng mênh mang, với trần cao chót vót, ván lát sàn kêu cọt kẹt và tường ốp gỗ tối màu, trở thành chốn nương náu yêu thích của cô. Những chiếc quạt trần oai nghiêm treo lơ lửng trên thanh ống dài khuấy động cả không gian bằng âm thanh vù vù êm ái, rồi những chiếc ghế da sâu lút, mùi ẩm mốc và tiếng trang sách giở loạt soạt, tất thảy đều thật bình yên. Tuyệt nhất là, tất cả mọi người chỉ thì thầm khe khẽ khi cần nói gì đó. Lần duy nhất Dina nghe thấy tiếng quát tháo là khi người bảo vệ mắng một người ăn mày đang tính lẻn vào trong. Hàng giờ đồng hồ dần trôi đi khi cô lật giở những cuốn bách khoa thư, ngắm nhìn những cuốn sách về nghệ thuật, và tò mò mở những cuốn giáo trình y khoa phủ đầy bụi; rồi chốt lại cuộc viếng thăm bằng vài phút ngồi trong một góc tối của tòa nhà cổ kính, mắt nhắm nghiền; ở đây, thời gian có thể đứng yên mãi nếu người ta muốn thế.
Những thư viện hiện đại hơn thường có cả phòng nghe nhạc. Các phòng này có cả đèn nê-ông, bàn phoóc-mi-ca, điều hòa nhiệt độ, bốn phía tường sơn màu tươi sáng, và luôn luôn đông đúc. Cô cảm thấy những nơi như thế lạnh lẽo và khó gần, nên chỉ tìm đến khi muốn nghe nhạc. Cô chẳng biết mấy về âm nhạc, trừ vài cái tên hiếm hoi như Brahms, Mozart, Schumann, và Bach, mà tai cô đã được nghe từ hồi còn bé khi bố cô bật đài lên hoặc cho đĩa vào máy hát, đặt cô lên lòng và nói: “Nó giúp ta quên hết mọi phiền muộn trên đời, phải không con gái?” và Dina nghiêm trang gật đầu.
Đến thư viện, cô chọn đĩa nhạc hú họa, cố gắng ghi nhớ tên của những đĩa mình thích để sau này có thể bật lại. Công việc này khá hóc búa, vì các bản giao hưởng và công-xéc-tô và xô-nát chỉ được phân biệt bằng các con số, đứng trước là những chữ cái như Op. và K. và BWV[10], mà cô lại chẳng hiểu chúng có nghĩa gì. Nếu may mắn, cô còn tìm được những đĩa mang cái tên vẫn còn âm vang sâu sắc trong kí ức của mình, và khi giai điệu quen thuộc chảy tràn trong tâm trí, quá khứ lại được phục nguyên trong khoảnh khắc, và cô thấy như toàn thân bỗng nhức nhối bởi cảm giác trọn vẹn đến đê mê, tựa như một phần chân tay bị cụt được mọc lại như mới.
Cô vừa khao khát, lại vừa e sợ những trải nghiệm âm nhạc mãnh liệt ấy. Hạnh phúc viên mãn nơi phòng nhạc luôn bị thế chỗ bởi cơn cáu giận mang đủ mọi cung bậc khi cô trở về cuộc sống với Nusswan và Ruby. Những trận cãi vã quyết liệt nhất thường nổ ra vào đúng ngày cô đến phòng nghe nhạc.
Tạp chí và báo giấy thì đỡ phức tạp hơn nhiều. Nhờ đọc nhật báo, cô phát hiện ra trong thành phố có một số tổ chức văn hóa thường xuyên tài trợ cho các buổi hòa nhạc và độc tấu. Rất nhiều buổi biểu diễn trong số đó, thường là của các nghệ sĩ không chuyên trong nước hoặc các nghệ sĩ nước ngoài ít tên tuổi, cho phép vào cửa tự do. Cô bèn dùng vé xe buýt để tới xem những buổi hòa nhạc này, và tìm thấy ở đó thái độ hoan nghênh tựa như khi cô tới thư viện. Các nghệ sĩ đều tỏ vẻ mừng rỡ không giấu giếm trước sự hiện diện của cô trong những buổi tối thưa vắng khán giả.
Cô thường nấn ná bên ngoài rìa đám đông trong sảnh chờ, cảm thấy như mình là một kẻ mạo danh. Dường như những người khác đều rất am hiểu về âm nhạc, về những nghệ sĩ của buổi trình diễn tối nay; cứ xem cái cách họ cầm tờ chương trình và chỉ vào từng đầu mục trên đó thì thấy, thật tinh tế làm sao. Cô ước sao cửa chóng mở ra, để ánh đèn mờ ảo bên trong giúp cô che giấu những yếu kém của mình.
Âm nhạc nơi thính phòng không có sức mạnh khiến cô rung động tâm can như trong những giờ ngồi một mình giữa thư viện. Ở đây, những màn hài kịch sống chiếm thời lượng ngang ngửa với âm nhạc. Và sau vài buổi hòa tấu, cô dần nhận ra những khuôn mặt quen trong số khán giả.
Có một ông cụ thường ngủ gật khi bản nhạc đầu tiên vang lên được đúng bốn phút, lần nào cũng như lần nào; những người đến muộn thường bỏ qua hàng ghế nơi cụ ngồi, vì ngại va vào chân cụ. Đến phút thứ bảy, cặp kính của cụ tụt dần xuống sống mũi. Và đến phút thứ mười một (nếu bản nhạc dài tới mức này và chưa có tiếng vỗ tay nào để đánh thức cụ dậy), hàm răng giả bắt đầu trồi ra. Nhìn ông cụ, Dina lại nhớ đến ông nội.
Hai chị em một bà nọ, tầm ngũ tuần, vóc người cao và gầy, cằm nhọn, luôn ngồi ở hàng đầu và thường vỗ tay không đúng lúc, làm gián đoạn giấc ngủ của ông cụ kia. Bản thân Dina không hiểu lắm về các bản xô-nát cũng như kết cấu của chúng, song cô cũng biết rằng phần biểu diễn chưa kết thúc ngay khi nhạc tạm ngưng. Cô thường để ý bắt chước một người để râu dê, đeo kính mắt tròn có gọng mảnh và đội mũ bê rê, nom có vẻ là người trong nghề, nhờ vậy cô biết nên vỗ tay khi nào.
Lại có một người đàn ông trung niên vui tính, luôn mặc đúng một bộ âu phục màu nâu trong tất cả các buổi hòa nhạc, gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Ông thường lượn như đèn cù khắp sảnh chờ để chào người này người kia, đầu lắc lư không ngớt, và quả quyết với họ rằng buổi biểu diễn tối nay sẽ rất tuyệt. Những chiếc cà vạt ông đeo là đề tài đồn đoán thường trực của mọi người. Có những tối chúng được thắt dài lòng thòng, chiếm trọn cả mặt tiền, treo đu đưa trước đũng quần. Lại có hôm mép cà vạt chẳng vượt quá ngang bụng. Kích cỡ của nút thắt cũng biến đổi muôn hình vạn trạng, từ nhỏ tí tẹo cho đến to đùng như cái bánh gối. Ông không đi, mà nhảy chồm chồm từ chỗ người nọ sang chỗ người kia, và nói năng ngắn gọn hết mức có thể; bởi vì, như ông hay phân bua, rằng chỉ còn ít phút nữa là mở màn, vậy mà ông còn phải đi chào bao nhiêu người nữa.
Dina để ý thấy ngoài sảnh có một chàng trai rất giống cô, thích đứng ngoài quan sát khung cảnh vui nhộn khi những người cùng đi nghe nhạc hòa trộn vào nhau. Cô thường đến từ sớm, vì háo hức muốn ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt; nhờ vậy cô có cơ hội nhìn thấy anh phóng xe đạp như bay tới, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống và dắt xe qua cổng. Người gác cổng cho phép sự tự do này để đổi lấy vài đồng trà thuốc. Anh dựng xe bên sườn tòa nhà và khóa lại, không quên lấy chiếc cặp giấy chằng trên giá đèo hàng phía sau. Anh tháo đôi vòng kẹp ống quần và cất vào cặp. Xong xuôi, anh ngồi xuống góc ưa thích của mình trong sảnh để nghiền ngẫm tờ chương trình hoặc ngắm nhìn đám đông.
Đôi khi mắt họ chạm nhau, hai bên cùng nhận ra âm mưu thầm lặng của đối phương. Người đàn ông vui tính mặc bộ âu phục màu nâu không đả động gì đến Dina, song có lôi chàng trai kia vào danh sách thăm hỏi của mình. “Chào cậu, Rustom! Thế nào, khỏe chứ?” Ông ta gọi toang toang, thế là Dina biết tên anh chàng.
“Khỏe lắm, cảm ơn chú.” Rustom đáp, đoạn phóng ánh mắt qua vai áo vét nâu nhìn Dina, khi ấy đang thích thú quan sát.
“Này, cậu nghĩ sao về nghệ sĩ dương cầm sắp biểu diễn tối nay? Liệu anh ta có chuyển tải nổi chiều sâu cần có trong những khúc nhạc chậm không? Cậu có nghĩ rằng phần cực chậm – ái chà, xin thứ lỗi, thứ lỗi, tôi sẽ quay lại ngay, tôi phải ra chào ông Medhora một câu đã,” và ông quày quả bỏ đi. Rustom mỉm cười với Dina và lắc đầu giả bộ thất vọng.
Chuông reo vang, cửa thính phòng rộng mở. Hai chị em bà cao kều hối hả chạy lên hàng đầu, chân bước đều tăm tắp, đoạn họ lật hai chiếc ghế gập bọc nỉ màu huyết dụ ra, và ngồi thụp xuống một cách đắc thắng, rồi quay sang cười hớn hở với nhau, sung sướng vì đã lại chiến thắng trò ghế nhạc[11] bí mật của riêng mình. Dina chọn ghế ngay sát lối đi trung tâm như thường lệ, nằm ở khoảng giữa khán phòng.
Khi các chỗ ngồi dần được lấp đầy, Rustom bước đến bên cô. “Chỗ này có trống không?” Cô gật đầu.
Anh bèn ngồi xuống. “Cái ông Toddywalla kia tính hay nhỉ?”
“Ô, đó là tên ông ấy hả? Vâng, ông ấy buồn cười thật.”
“Nếu buổi diễn có nhạt quá, thì xem tạm ông ấy chắc cũng đủ vui rồi.”
Đèn mờ dần, hai nghệ sĩ bước ra sân khấu trong tiếng vỗ tay lẹt đẹt. “Nhân tiện, tôi là Rustom Dalal,” anh nói, đoạn nghiêng người sát lại và chìa tay ra, đúng lúc cây sáo đón lấy nốt la trong trẻo của đàn dương cầm và ngân lên nốt la tròn đầy réo rắt của riêng mình.
Cô thì thầm “Dina Shroff” nhưng không bắt lấy tay anh, vì bóng tối khiến cô không thể nhìn ra ngay bàn tay đang giơ ra. Khi cô định thần được, thì đã quá muộn; anh đã bắt đầu rút tay lại.
Đến giờ giải lao, Rustom hỏi cô muốn uống cà phê hay thức gì đó lành lạnh.
“Thôi, cảm ơn anh.”
Họ nhìn các khán giả bước dọc lối đi, để tìm đường ra nhà vệ sinh hoặc đi uống nước. Anh bắt chéo chân và nói:
“Tôi hay thấy cô đến nghe hòa nhạc lắm.”
“Vâng, tôi thích lắm.”
“Cô có chơi nhạc không? Dương cầm, hay…?”
“Không ạ.”
“Ồ. Ngón tay cô đẹp lắm, tôi cứ đoan chắc cô biết chơi dương cầm kia đấy.”
“Không ạ,” cô nhắc lại. Má cô hơi nóng lên, và cô đưa mắt xuống nhìn những ngón tay mình. “Tôi có biết gì về âm nhạc đâu, tôi chỉ thích nghe thôi.”
“Tôi nghĩ thế là hay nhất đấy.”
Cô không hiểu anh nói thế là có ý gì, nhưng cũng gật đầu.
“Còn anh? Anh có chơi nhạc không?”
“Như mọi bậc phụ huynh Parsi mẫu mực khác, bố mẹ bắt tôi phải học đàn vi-ô-lông từ nhỏ,” anh cười lớn.
“Giờ anh còn chơi không?”
“À, thỉnh thoảng thôi. Khi nào tôi nổi hứng muốn tra tấn bản thân chút đỉnh, tôi lại mở hộp ra và bắt nó kẽo kẹt nỉ non một lúc.”
Cô mỉm cười: “Ít ra bố mẹ anh cũng vui lòng, vì được nghe anh chơi nhạc.”
“Không, các cụ mất cả rồi. Tôi sống một mình.”
Nụ cười của cô vụt tắt. Cô dợm miệng định chia buồn, nhưng anh đã vội vã tiếp lời: “Lúc tôi chơi, chỉ có hàng xóm chịu khổ thôi,” và cả hai lại bật cười.
Kể từ sau lần đó, họ luôn ngồi cạnh nhau, đến tuần tiếp theo cô đã chịu để anh đãi một chai Mangola trong giờ giải lao. Khi hai người đang ngồi ngoài sảnh chờ, nhấp từng ngụm nước đựng trong chai mát lạnh và ngắm những hạt hơi nước đọng trên mặt thủy tinh, ông Toddywalla bỗng bước tới trước mặt họ.
“Rustom này, cậu thấy nửa đầu buổi biểu diễn thế nào? Theo ý tôi thì chỉ ở mức trung bình thôi. Anh chàng thổi sáo kia nên tập thêm vài bài hít thở đã, rồi hẵng nghĩ đến chuyện lên sân khấu lần nữa.” Ông ta nán lại đủ lâu để được giới thiệu với Dina, vốn là lý do chính khiến ông mò tới. Nháy mắt, ông đã kịp nhảy ton tót đi tìm nạn nhân tiếp theo.
Sau buổi hòa nhạc, Rustom dắt xe tiễn cô ra tận bến xe buýt. Những khán giả khác đang lũ lượt ra về đều nhìn họ. Để phá vỡ bầu không khí im lặng, cô hỏi: “Phải đạp xe giữa phố xá đông đúc thế này, anh có sợ không?”
Anh lắc đầu. “Tôi đã đi xe đạp bao nhiêu năm nay, thành thử nó ngấm cả vào máu rồi.” Anh đợi xe buýt của cô vào bến, và đạp xe theo sau chiếc xe hai tầng sơn đỏ cho đến khi hai bên chia hai hướng. Anh không thể nhìn thấy cô đang dõi theo mình từ tầng trên. Cô nhìn mãi bóng anh khuất xa dần, đôi lúc ánh mắt cô mất dấu anh, rồi lại tìm ra anh dưới một ngọn đèn đường, và không rời anh cho đến khi anh biến thành một cái chấm nhỏ mà chỉ có trí tưởng tượng của cô mới khẳng định được đó là Rustom.
Chỉ trong vài tuần, những khán giả thường trực của các buổi hòa nhạc đã coi họ là một đôi. Nhất cử nhất động của họ đều bị săm soi với vẻ quan tâm xen lẫn hiếu kì. Rustom và Dina đều thấy buồn cười vì tự dưng được chú ý, song chỉ liệt động thái này vào cùng hàng với những trò lố của ông Toddywalla.
Một lần nọ, vừa đến nơi, Rustom đã nhìn khắp xung quanh để tìm Dina giữa đám đông. Một người trong số hai chị em ngồi hàng đầu vội sán lại gần và thì thầm bằng giọng dè dặt: “Cô ấy đến rồi, đừng lo nhé. Cô ấy vừa vào phòng vệ sinh thôi.”
Hôm ấy trời mưa rất to, Dina ướt như chuột lột, cô vào phòng vệ sinh nữ để cố lau cho khô bớt, song chiếc khăn mù soa nhỏ xíu không kham nổi trọng trách này. Chiếc khăn bông treo sẵn trên thanh ngang nom lại chẳng hấp dẫn chút nào. Cô bèn gắng xoay xở hết mức, rồi bước ra, nước trên tóc vẫn nhỏ giọt tong tỏng.
“Sao vậy?” Rustom hỏi.
“Ô của tôi bị gió thổi tốc ngược lên. Tôi không kịp kéo lại.”
Anh bèn lấy chiếc khăn mù soa lớn của mình ra đưa cô. Ý nghĩa của cử chỉ này không lọt qua nổi đôi mắt của những người đứng xung quanh họ: Cô ấy sẽ nhận, hay không nhỉ?
“Thôi, cảm ơn anh,” cô nói, đoạn lùa ngón tay trên mái tóc ướt nhẹp. “Để một tí là khô thôi.” Toàn thể những người đi nghe hòa nhạc nín thở.
“Đừng lo, khăn của tôi sạch lắm,” anh mỉm cười. “Thôi nào, vào trong kia lau cho khô đi, tôi sẽ chạy đi mua hai cốc cà phê nóng.” Thấy cô vẫn còn ngại ngùng, anh bèn dọa sẽ cởi luôn áo sơ mi ra để lau tóc cho cô ngay giữa sảnh chờ này. Cô bật cười, nhận lấy chiếc khăn của anh rồi trở vào phòng vệ sinh. Ai nấy sung sướng thở phào.
Đứng trong phòng, Dina lấy chiếc khăn lau tóc thật kĩ. Khăn này có mùi dễ chịu thật, cô thầm nghĩ. Không phải nước hoa, mà là một thứ hơi người sạch sẽ. Mùi của anh. Cũng chính là mùi thỉnh thoảng cô vẫn ngửi thấy khi ngồi bên anh. Cô áp khăn lên mũi và hít vào một hơi thật sâu, rồi vội vã gập nó lại, thẹn thùng.
Khi buổi biểu diễn kết thúc, trời vẫn mưa lâm thâm. Họ cuốc bộ ra bến xe buýt. Cơn mưa phùn rì rào trên những tán cây, tưởng như từng chiếc lá cũng đang run lên. Dina rùng mình.
“Cô có lạnh không?”
“Chỉ hơi hơi thôi.”
“Mong là cô không bị ốm. Bị ướt thế cơ mà. Tôi bảo này, sao cô không mặc áo mưa của tôi vào, tôi sẽ cầm chiếc ô của cô.”
“Đừng ngốc thế, ô của tôi hỏng rồi còn đâu. Vả lại, anh vừa cầm ô vừa đạp xe làm sao được?”
“Được chứ sao không! Tôi có thể dựng ô lên đầu mà đạp xe cũng được nữa là.” Anh vẫn tha thiết. Thế là, dưới mái hiên nhà chờ xe buýt, hai bên đổi ô và áo cho nhau. Anh giúp cô khoác chiếc áo mưa Duckback lên người, tay anh khẽ lướt qua vai cô. Ngón tay anh thật ấm áp khi chạm lên làn da cô lạnh buốt. Tay áo hơi dài một chút, phần còn lại khá vừa vặn. Cô nhận ra chiếc áo còn được anh ủ cho ấm sực nữa; nhờ nó, cái lạnh dần bị quét sạch khỏi cơ thể cô.
Họ đứng sát bên nhau, cùng ngắm nhìn những tia mưa xiên chênh chếch trong quầng sáng của cây đèn đường. Và rồi họ nắm tay nhau lần đầu tiên, cảm giác như đó là điều tự nhiên nhất trần đời. Thật khó để đôi bên rời nhau khi xe buýt trờ tới.
Kể từ đó, Rustom chỉ đạp xe từ nhà đến chỗ làm và ngược lại. Buổi tối anh đi xe buýt, để hai người có thể cùng đi và anh được biết nhà cô ở đâu.
Thấy anh không đi xe đạp, Dina mừng lắm. Cô chỉ mong anh bỏ hẳn thứ phương tiện này, đi thế quá nguy hiểm với tình hình giao thông hiện nay.
“Em sẽ lấy chồng,” Dina tuyên bố giữa bữa cơm tối. “A,” anh trai cô cười rạng rỡ. “Tốt, tốt. Em chọn ai, Solly hay Porus?” Đó là tên hai người được anh ta đưa về gần đây nhất.
Dina lắc đầu.
“Thế thì chắc là Dara hay Firdosh rồi,” Ruby nói và mỉm cười đầy ẩn ý. “Cả hai chàng này đều mê em như điếu đổ còn gì.”
“Tên anh ấy là Rustom Dalal.”
Nusswan ngạc nhiên lắm; cái tên đó không hề nằm trong vô số ứng viên mà anh ta đã lôi đến trước mặt Dina suốt ba năm vừa qua. Có lẽ đó là người cô đã gặp trong những buổi họp mặt gia đình mà anh ta ghét cay ghét đắng. “Thế ta đã gặp cậu ấy ở đâu?”
“Chúng ta thì không. Chỉ em thôi.”
Nusswan không thích câu trả lời này tí nào. Anh ta cảm thấy mình bị xúc phạm, bởi mọi nỗ lực, mọi lựa chọn của mình đều bị cô em gái sổ toẹt vì một gã ất ơ nào đó. “Chỉ thế mà em đã đòi cưới gã đấy ư? Em biết gì về hắn và gia đình hắn? Hắn biết gì về em, về gia đình em?”
“Tất cả mọi thứ,” Dina đáp lại bằng tông giọng khiến anh ta lo lắng. “Em quen Rustom được một năm rưỡi nay rồi.”
“A à. Giữ bí mật ghê nhỉ!” Anh ta chậc chậc vẻ mỉa mai. “Thế hắn làm nghề gì, cái gã họ Dalal, chàng Rustom-trongbóng-tối của em ấy?”
“Anh ấy là dược sĩ bào chế thuốc.”
“Ha! Dược sĩ bào chế thuốc! Lại một thằng chết giẫm chuyên nghề pha phách! Sao em không dùng cho đúng từ đi! Chắc lại cái loại suốt ngày đứng sau quầy, trộn trộn ngoáy ngoáy thuốc chứ gì?”
Rồi anh ta tự nhắc mình rằng nổi cáu ngay lúc này là không sáng suốt. “Vậy, chừng nào chúng ta sẽ được gặp cái gã giời ơi đất hỡi của em đây?”
“Để làm gì? Để anh có thể trực tiếp sỉ nhục anh ấy à?”
“Anh chẳng có lý do gì phải sỉ nhục hắn cả. Nhưng anh có nghĩa vụ phải gặp hắn, và cho em lời khuyên thích hợp. Quyết định cuối cùng vẫn là của em kia mà.”
Đúng ngày đã hẹn, Rustom đến với một hộp bánh kẹo làm quà cho Nusswan và Ruby. Anh đặt nó vào tay Xerxes, giờ đã sắp tròn ba tuổi. Với Dina, anh mua tặng cô một chiếc ô mới. Ý nghĩa của món quà khiến cô không khỏi cảm động. Cô mỉm cười. Anh lén nháy mắt với cô, nhân lúc hai người kia không để ý.
“Đẹp quá!” Cô vừa xuýt xoa vừa mở ô ra. “Hình ngôi chùa dễ thương thật!” Nền vải màu lam biển, còn cán ô đúc bằng thép không gỉ, với phần mũi nhọn hoắt nom khá đáng sợ.
“Món vũ khí lợi hại quá nhỉ?” Nusswan pha trò. “Cẩn thận kẻo chọc vào người khác đấy nhé!”
Họ cùng uống trà, với bánh xăng-uých kẹp pho mát và bánh quy bơ do Ruby và Dina chuẩn bị, và cuộc gặp gỡ trôi qua hết sức suôn sẻ. Nhưng đến tối, khi khách đã ra về, Nusswan kêu rằng anh ta không tài nào hiểu nổi trong đầu cô em gái có gì: não hay mùn cưa.
“Ai lại đi chọn một gã mã ngoài không có, của nả không có, tiền đồ cũng không có nốt? Người ta đi hỏi vợ thì đem nhẫn kim cương. Có người lại mang đồng hồ vàng, tệ lắm cũng được cái ghim cài áo. Còn anh chàng của em mang gì nào? Một cái ô chết giẫm! Thế mà anh đã mất bao nhiêu thì giờ và công sức để mai mối em cho luật sư, kế toán viên giám định, sĩ quan cảnh sát, rồi kĩ sư xây dựng. Toàn con cháu những nhà danh giá. Nếu họ hàng làng xóm nghe được tin em gái anh lấy một gã bào chế thuốc chẳng có tí chí tiến thủ nào, thì anh làm sao cất đầu lên nổi? Em đừng mong anh sẽ mừng cho em hoặc đến dự đám cưới. Với anh, đó chỉ có thể là ngày đen tối, ngày sầu thảm mà thôi!”
Thật đáng buồn, anh ta thở vắn than dài, chỉ vì muốn làm tổn thương anh trai mà cô đang tâm hủy hoại cuộc đời của chính mình. “Nhớ lấy lời anh, lòng hận thù của em sẽ quay về ám em. Anh vô tài, chẳng ngăn nổi em, em đã hai mươi mốt tuổi đầu rồi, chẳng còn bé bỏng gì nữa để anh phải chăm chút. Nếu em cứ nhất quyết đòi vùi đời mình trong cống rãnh, thì anh cũng chỉ biết bất lực đứng nhìn thôi!”
Dina đã lường trước tất cả. Những lời lẽ dội xuống đầu cô và trôi tuột vào quên lãng, không mảy may khiến cô bận lòng. Cô chợt nhớ, hệt như những giọt mưa trượt khỏi chiếc áo mưa đáng yêu của Rustom trong buổi tối tuyệt vời hôm nào. Nhưng cô lại tự hỏi, như cô đã từng hỏi vô số lần, không hiểu anh trai cô học được món thuyết giáo ở đâu mà tài đến thế. Cả cha lẫn mẹ của họ đều không có mấy năng khiếu về khoản này.
Vài ngày sau, Nusswan dần bình tâm trở lại. Nếu Dina phải đi lấy chồng và sẽ rời khỏi ngôi nhà này mãi mãi, tốt hơn hết mọi chuyện nên diễn ra êm thắm, không cần loạn lên làm gì. Trong bụng anh ta cũng lấy làm mừng vì Rustom Dalal không phải một con cá sộp. Thật không thể chịu đựng nổi nếu các bạn anh ta bị thua cuộc vì một kẻ giàu sang danh giá hơn.
Anh ta dự phần vào kế hoạch đám cưới với lòng nhiệt tình và hào phóng vượt quá sự mong đợi của Dina. Anh ta muốn đặt hẳn một gian sảnh để tiếp khách và tự trang trải mọi khoản chi phí bằng chính số tiền mình đã tích cóp cho em gái. “Ta sẽ làm đám cưới khi hoàng hôn xuống, rồi mời khách dùng bữa tối. Ta sẽ tổ chức một bữa tiệc ra trò, rồi ai cũng phải ghen tị với em cho mà xem. Ban tứ tấu này, rồi hoa trang trí, đèn nến. Anh có thể lo nổi ba trăm khách. Nhưng rượu thì thôi – vừa đắt, lại vừa nguy hiểm. Cảnh sát lượn vè vè khắp nơi, cứ đút mồm được một thằng thì y như rằng có ngay mười thằng khác thò mặt ra đòi chia phần.”
Đêm hôm đó, khi hai vợ chồng đã yên vị trên giường, Ruby, đang mang bầu đứa con thứ hai, tỏ vẻ không hài lòng vì cung cách phóng tay của chồng. “Nếu hai đứa chúng nó muốn cưới nhau, thì cứ để mặc anh chàng Rustom Dalal ấy tiêu pha thế nào tùy thích. Đó có phải trách nhiệm của anh đâu, nhất là vì cô ấy còn chẳng chịu để anh chọn chồng cho. Dina có bao giờ biết quý những gì anh làm cho cô ấy đâu.”
Tuy vậy, Rustom và Dina lại chọn một cách giản dị hơn. Đám cưới được tổ chức vào buổi sáng. Theo nguyện vọng của Dina, đó chỉ là một buổi lễ kín đáo cử hành tại chính ngôi đền thờ lửa nơi lễ cầu siêu cho cha mẹ cô được thực hiện vào ngày giỗ hàng năm. Thầy Framji, nay đã già cả, lưng còng gối mỏi, chỉ biết đứng trong bóng tối nhìn ra, tấm tức vì mình không được mời làm lễ. Thời gian đã làm ông chậm chạp đi nhiều, và nay da thịt của những thiếu nữ trẻ trung chẳng còn mấy khi rơi vào vòng tay một thời từng rất nhanh nhẹn, khéo léo kia nữa. Nhưng cái tên Thầy Táy Máy vẫn theo ông đến tuổi xế bóng, ngay cả khi tất cả những thứ khác đã phai mờ. “Nhục mặt chưa,” ông ta hầm hè với một thầy khác. “Lão đây đã gắn bó với nhà Shroff biết bao năm nay. Lúc nhà có người chết, họ liền đến nhờ vả lão, nào làm lễ saros-nu-paatru, lễ afargan, lễ baaj, lễ faroksy[12]. Vậy mà trong một dịp vui vẻ thế này, lúc cần người làm chứng cho đám cưới, thì lão lại chẳng được vời đến. Cái nhà này thật vô liêm sỉ!”
Đến tối, một bữa tiệc được tổ chức tại tư gia nhà Shroff. Nusswan đòi chí ít cũng phải có dăm mâm cỗ, và thuê riêng một người nấu nướng. Có bốn mươi tám khách, trong đó sáu người là bạn của Rustom, cộng thêm bà thím Shirin và ông chú Darab. Còn lại đều là người thân quen của Nusswan, bao gồm cả những người họ hàng không thể quên mời nếu không muốn nghe lời ong tiếng ve của bà con họ mạc – cái kiểu nói xa nói gần, thì thầm bóng gió mà anh ta vốn rất dị ứng.
Phòng ăn, phòng khách, phòng làm việc của Nusswan và cả bốn phòng ngủ đều được kê dọn lại để tiện cho việc bày biện và di chuyển. Bàn được kê thêm vào để lấy chỗ đặt thức ăn và nước uống. Xerxes và các bạn rối rít chạy từ phòng nọ sang phòng kia, thỏa sức thám hiểm và khám phá, miệng không ngớt hò hét, cười đùa. Bỗng nhiên được tự do chơi nghịch trong căn nhà mà mỗi lần đến chơi, chúng lại có cảm giác như đi ở tù vì phải chịu sự giám sát ngột ngạt từ ông bố nghiêm khắc của Xerxes, đứa nào đứa nấy sướng như điên. Hễ bị một đứa va vào người, Nusswan lại thầm than khổ trong bụng, nhưng ngoài mặt anh ta vẫn tươi cười và vỗ vỗ vào vai nó.
Đang giữa bữa tiệc, anh ta lấy ra bốn chai uýt-ki Scotch trong tiếng vỗ tay nhiệt liệt của quan khách. “Giờ ta sẽ bơm thêm chút sức sống cho buổi tối hôm nay, và cho đôi vợ chồng mới cưới nữa!” Những người đàn ông thì thầm với nhau rồi cùng gật gù và cười phá lên, toàn những chuyện không dành cho tai phụ nữ.
“Nào, em rể,” Nusswan vừa nói vừa gõ leng keng hai chiếc ly không trước mặt Rustom. “Cậu là dân trong nghề, vậy thì còn chờ gì nữa mà không pha cho mỗi người một liều Johnnie Walker?”
“Vâng,” Rustom thật thà đáp và đón lấy cặp ly.
“Đùa thôi, đùa thôi,” Nusswan vội kêu lên, tay giữ chặt cái chai. “Ai lại để chú rể phải ra tay trong chính lễ cưới của mình?” Đó là lần duy nhất anh ta đá xoáy nghề dược sĩ của Rustom trong suốt cả buổi tối.
Một tiếng sau khi rượu Scotch được rót ra, Ruby xuống bếp; đã đến lúc dọn bữa tối. Bàn ăn được đẩy sát vào tường để bày tiệc đứng. Mấy người phục vụ khệ nệ bưng những đĩa thức ăn nặng trĩu, nóng hổi vào, miệng kêu “Làm ơn tránh ra! Tránh ra!” để dẹp đường. Mọi người vội lùi lại, nhường chỗ cho thức ăn đi qua.
Mùi xào nấu thơm phức hứa hẹn những món ăn ngon miệng đã tràn ngập cả ngôi nhà trong suốt buổi tối, khiêu khích khứu giác và dằn vặt dịch vị, nay đột nhiên có sức mạnh chế ngự cả đám đông. Một bầu không khí im ắng bỗng bao trùm toàn bộ căn phòng. Ai đó tếu táo nói to lên rằng, ở đâu có người Parsi, thì ở đó chuyện ăn uống là số một, việc hàn huyên chỉ xếp thứ hai thôi. Nghe vậy, một người khác bèn chữa: Không, không, hàn huyên phải xếp thứ ba chứ, còn việc thứ hai thì thiết tưởng không nên nhắc đến khi có mặt phụ nữ và trẻ em thế này. Những người nghe thủng câu chuyện lập tức tưởng thưởng cho câu đùa xưa như trái đất đó một tràng cười nhiệt tình.
Ruby vỗ tay: “Nào, xin mời mọi người! Cơm nước đã dọn ra cả rồi! Mọi người hãy ăn nhiều vào, đừng khách sáo, thức ăn còn nhiều lắm!” Chị ta đi khắp phòng, gặp ai cũng rối rít cáo lỗi: “Xin bỏ quá cho gia đình chúng tôi vì không sửa soạn nổi một bữa tiệc tử tế!” đúng như cung cách của gia chủ xưa nay phải thế.
Và ai nấy đồng loạt đáp: “Ấy chết, sao chị lại nói thế, Ruby! Mọi sự thế là tươm tất lắm rồi!” Vừa tự lấy thức ăn, nước uống cho mình, họ vừa tranh thủ hỏi han Ruby về cái thai và ngày sinh nở.
Nusswan săm soi những chiếc đĩa được chuyển qua trước mặt mình, dịu dàng trách móc những người khách lấy quá ít thức ăn. “Kìa, chị Mina, chị đùa đấy ư? Ăn có ngần này thì đến con chim cảnh nhà tôi cũng bị đói nữa là.” Nói rồi, anh ta nhanh nhẹn xúc thêm cơm rang cho Mina. “Ấy, đợi đã, Hosa, lấy thêm một xiên thịt nữa đi, ngon lắm, tin tôi đi, một xiên nữa nào, mạnh dạn lên!” và khéo léo gắp hai xiên thịt thả vào đĩa của vị khách còn đang ngần ngừ. “Nhớ lấy thêm nữa nhé!”
Trong khi mọi người đang mải mê ăn uống, Dina thấy thím Shirin và chú Darab của Rustom đứng ngoài hiên, có phần tách biệt khỏi những người còn lại, cô bèn ra hỏi thăm: “Chú thím ăn nhiều vào nhé. Chú thím đã lấy đủ thức ăn chưa ạ?”
“Đủ lắm rồi, con ạ, đủ lắm rồi. Món nào cũng ngon cả.” Thím Shirin vẫy tay gọi cô lại gần, rồi lại ra hiệu để cô nghiêng đầu xuống cho tới khi tai Dina đã ghé sát vào miệng bà. “Nếu con có cần gì – nhớ nhé, bất kì điều gì, cứ đến gặp ta và chú Darab.”
Chú Darab lập tức gật đầu, tai ông rất thính. “Dù có vấn đề gì cũng vậy. Chú thím giống như cha mẹ Rustom vậy. Con cũng là con gái chúng ta.”
“Con cảm ơn chú thím.” Dina đáp, cô hiểu những câu nói này còn hơn cả một lời đón chào theo lệ thường từ phía nhà trai. Cô ngồi xuống bên cạnh chú thím, nhìn họ ăn. Đứng bên bàn ăn, Nusswan giơ đĩa và nĩa lên, ra hiệu nhắc cô tự lấy cho mình chút thức ăn. Vâng, để sau ạ, cô khẽ đáp, và nán lại bên thím Shirin và chú Darab, còn hai người vừa ăn vừa ngắm nhìn cô với ánh mắt đầy âu yếm.
Khi Nusswan ra hiệu cho phép mấy người phục vụ vào dọn dẹp bát đĩa, trong nhà hẵng còn một vài người khách. Nhận thấy cử chỉ ý nhị của chủ nhà, họ bèn đồng loạt cảm ơn và xin cáo từ.
Trên đường ra cửa, một người túm lấy ve áo Rustom mà cười khùng khục, và thì thọt rằng cả cô dâu lẫn chú rể thật may mắn vì hai bà thông gia hai bên đều đã khuất núi. “Không công bằng, thật không công bằng! Sẽ chẳng có ai cật vấn cậu xem đêm tân hôn súng ống có hoạt động tốt không, cậu may thật đấy! Cũng chẳng có ai lật ga giường lên để kiểm tra cả!” Nói đoạn, anh ta xoi ngón tay vào bụng Rustom. “Như thế càng dễ lên tiên!”
“Chúc mọi người ngủ ngon!” Nusswan và Ruby luôn miệng chào. “Chúc ngủ ngon, chúc ngủ ngon. Rất cảm ơn đã quá bộ đến dự tiệc với gia đình chúng tôi.”
Khi người khách cuối cùng đã ra về, Rustom nói: “Bữa tiệc vui quá. Chúng em cảm ơn anh chị đã vất vả cắt đặt.”
“Vâng, phải đấy ạ, em cảm ơn anh chị!” Dina cũng nói thêm vào.
“Không có gì, không có gì!” Nusswan vội xua tay, và Ruby gật đầu. “Đấy là nhiệm vụ của anh chị mà.”
Thoạt đầu, Dina và Rustom đã đồng ý ngủ lại đây theo gợi ý của Nusswan. Nhưng rồi họ nhận thấy các phòng còn cần được sắp đặt lại sau bữa tiệc. Vì vậy tới thẳng căn hộ của Rustom sẽ tiện hơn.
“Đừng lo lắng gì cả, mấy người này sẽ lo phần dọn dẹp, họ được trả công để làm việc đó cơ mà.” Nusswan nói. “Hai em cứ về đi.” Anh ta ôm lấy em gái, rồi đến em rể. Với Dina, đó là cái ôm thứ hai trong ngày. Lần thứ nhất là lúc buổi sáng, sau khi thầy cả kết thúc phần ban phúc lành cho cô dâu chú rể; đó cũng là lần thứ nhất trong suốt bảy năm trời. Một cục nghẹn bỗng dồn lên cổ cô. Cô cố nuốt xuống; trong khi đó, Nusswan vội vã đưa tay lên quệt ngang mắt. “Chúc hai đứa hạnh phúc!” Anh ta nói.
Dina đi lấy chiếc va li đã được chuẩn bị sẵn cho đêm nay. Các đồ đạc còn lại của cô sẽ được chuyển đi sau. Nusswan tính chia cho cô một phần bàn ghế tủ giường trong số gia sản cha mẹ họ để lại. Anh ta tiễn hai vợ chồng trẻ đến hết con ngõ rải đá cuội ra tận taxi và vẫy tay chào tạm biệt. Cô ngạc nhiên nhận thấy giọng anh mình hơi lạc đi: “Chúc hai đứa mọi điều tốt lành! Thượng Đế sẽ phù hộ cho các em!”
Sáng hôm sau, hai vợ chồng thức dậy rất muộn. Rustom đã xin nghỉ làm hẳn một tuần, dẫu rằng họ không đủ tiền để đi bất cứ đâu trong tuần trăng mật.
Dina đứng giữa gian bếp âm u để pha trà trong khi chồng cô dõi theo bằng ánh mắt lo lắng. Căn bếp là phòng nhếch nhác nhất trong nhà, trần và tường đều đen kịt khói ám. Bà mẹ Rustom đã quen nấu bếp than từ thuở lọt lòng. Cuộc kết thân ngắn ngủi giữa bà và dầu hỏa diễn ra không suôn sẻ cho lắm – dầu sánh ra, lửa bùng lên, làm bỏng cả đùi bà. Bà đi đến kết luận: dùng than lành hơn nhiều.
Rustom đã tính sơn lại căn bếp trước đám cưới, và cả các phòng còn lại nữa, nhưng hầu bao không cho phép. Anh hết lời xin lỗi cô về tình trạng của ngôi nhà. “Chắc em chưa quen sống trong cảnh này. Mấy bức tường trông ghê quá.”
“Không sao đâu, ổn mà anh,” cô vui vẻ gạt đi. “Để sau này vợ chồng mình sơn lại cũng được.”
Có lẽ chính sự hiện diện của cô trong căn nhà, nhất là lại vào đúng bữa sáng, khiến anh đột nhiên phát hiện ra những thiếu sót xung quanh mình. “Sau khi bố mẹ mất, anh bắt đầu bỏ dần các thứ đồ đạc đi. Cái gì đối với anh cũng trở thành thừa thãi. Anh đã định sống một đời khổ hạnh, chỉ bầu bạn với cây đàn vi-ô-lông. Thay vì dùng giường đinh, anh hành xác bằng tiếng rền rĩ của ruột mèo.”
“Dây đàn được làm bằng ruột mèo thật à?”
“Hồi xưa thì thế. Còn vào cái thời xưa hơn nữa, các nghệ sĩ vi-ô-lông còn phải tự đi săn thú để có nguyên liệu làm dây đàn kia. Hồi đấy làm gì có những cửa hàng bán nhạc cụ kiểu L. M. Furtado hay Godin & Company như bây giờ. Ở tất cả các nhạc viện danh tiếng của châu Âu, người ta đều dạy cả nhạc lý lẫn thủ thuật moi ruột đấy.”
“Mới sáng ra mà anh đã nói nhăng nói cuội rồi!” Cô khẽ mắng, nhưng chính óc hài hước kì quặc lại là điểm cô thích nhất ở anh.
“Dù sao, anh cũng đã tìm thấy một thiên thần xinh đẹp cho riêng mình, vĩnh biệt những ngày khổ hạnh. Bộ ruột mèo có thể nghỉ ngơi được rồi.”
“Em thích nghe anh đàn lắm. Anh nên tập chăm chỉ vào.”
“Em đùa đấy à? Anh chơi còn tệ hơn cái gã biểu diễn ở nhà hát Patkar tuần trước. Mà hắn chơi cứ như đàn đang bị tắc lỗ f ấy.”
“Khiếp, nghe kinh quá!”
Nhìn mặt cô nhăn nhó, anh cười phá lên. “Làm sao anh nói khác được, người ta gọi chỗ đấy như thế thật mà. Nào, để anh cho em xem lỗ f của đàn anh nhé.” Anh lấy chiếc hộp đàn cất trên nóc tủ búp phê xuống. “Em thử nhìn hình dáng của hai cái khe hở trên hộp đàn mà xem!”
“Ô, trông giống hệt chữ f viết thảo.” Cô di ngón tay theo đường uốn lượn, và khẽ chạm lên sợi dây đàn. “Nhân tiện đang mở đàn ra, anh thử chơi bản gì đó đi.”
Anh đóng chiếc hộp lại, hơi kiễng chân lên cất nó trở lại nóc tủ. “Chơi đi, chơi đi, chơi đi – hồi xưa bố mẹ anh cũng toàn nói thế đấy.” Anh cầm lấy tay cô và áp nó lên môi. “Ước gì anh biết đường mà giữ lại chiếc giường đôi.” Đoạn anh ngượng nghịu hỏi: “Tối qua em có được thoải mái không?”
“Có ạ.” Nhớ lại những kí ức còn tươi nguyên về chiếc giường đơn chật hẹp nơi họ ôm chặt lấy nhau mà ngủ, má cô bừng đỏ.
Sau bữa sáng với trứng ốp lếp và bánh mì phết bơ, anh mở cửa trước ra và nói có một bất ngờ dành cho cô. “Đêm qua trời tối quá, nên anh chưa cho em xem được.”
“Cái gì vậy anh?”
“Em phải ra hẳn ngoài này mới thấy.”
Cô nhìn thấy một tấm biển đồng mới tinh, lấp lánh dưới nắng, trên mặt khắc mấy chữ “Ông bà Rustom K. Dalal. Anh đắm mình trong niềm vui sướng của cô trước tấm biển tên.
“Anh vừa mới treo lên hôm kia thôi.”
“Dễ thương quá!”
“Đổi tên trên biển thì dễ thôi,” anh dặng hắng. “Chứ đổi tên ghi trên hóa đơn thuê nhà thì khó hơn nhiều đấy.”
“Ý anh là sao?”
“Tiền thuê nhà được thu dưới tên bố anh, mặc dù cụ đã mất chín năm nay rồi. Ông chủ nhà cứ mong anh sẽ mất kiên nhẫn mà giúi tiền nhờ sang tên căn nhà cho anh. Ông ta đã đánh tiếng nhiều lần rồi.”
“Thế anh có định sang tên không?”
“Dĩ nhiên là không. Ông ta chả làm gì được đâu, đã có Luật thuê nhà bảo vệ chúng ta rồi. Hóa đơn thuê nhà ghi tên ai không quan trọng. Còn em cũng được quyền sống ở đây, với tư cách vợ anh. Kể cả nếu anh có chết ngay ngày mai đi nữa.”
“Rustom! Đừng nói vớ vẩn thế!”
Anh cười phá lên. “Lắm lúc thấy người thu tiền nhà mang hóa đơn ghi tên bố anh đến, anh chỉ muốn bảo ông ta lên trên thiên đường mà đòi tiền, địa chỉ của chủ thuê nhà mới trên ấy.”
Dina tựa đầu lên vai anh. “Với em, thiên đường là trong chính căn nhà này.”
Rustom kéo cô sát lại và ôm lấy cô. “Anh cũng thế.” Đoạn anh đưa ống tay áo chùi tấm biển mấy lượt cho thêm bóng. Giữa lúc hai vợ chồng còn đang say sưa ngắm nó thì hai chiếc xe kéo tay chạy tới và dừng lại trước cửa nhà họ, trên xe chất đầy đồ đạc dọn từ nhà Shroff sang.
Ban đầu, Rustom đã thuê một chiếc xe tải nhỏ vì trước đó Dina có xin Nusswan cho mình lấy chiếc tủ quần áo lớn của bố, chiếc tủ có vòm bằng gỗ vân hồng khắc hình mặt trời và hoa lá. Cô nói mình có thể đánh đổi mọi thứ khác chỉ để lấy mình chiếc tủ này. Nusswan hứa sẽ suy nghĩ song rốt cuộc lại từ chối. Anh ta giải thích rằng cố đẩy chiếc tủ qua khung cửa chật hẹp nhà Rustom có thể làm hỏng nó, những vết xước xát sẽ làm tổn thương kỷ niệm về cha họ, vả lại, kích thước của nó cũng không phù hợp với những căn phòng quá nhỏ bé.
Vì vậy anh cho cô một chiếc tủ búp phê khác, nhỏ nhắn và giản dị hơn, một cái bàn làm việc nhỏ, và một chiếc giường đôi. Ngoài ra còn có một chiếc hộp lớn chứa đầy dụng cụ nấu ăn được Ruby đóng gói sau khi bí mật tìm hiểu liệu căn bếp nhà Rustom đã được trang bị đầy đủ hay chưa. Bước đầu, cô mua cho đôi vợ chồng trẻ xoong chảo, một chiếc lò nướng, dao nĩa, một cái thớt, một cái chày cán bột.
Hai xe đồ được dỡ ra và chiếc giường đôi được lắp vào. Một người kéo xe đề nghị mua lại chiếc giường đơn cũ. Rustom đồng ý bán cho anh ta với giá ba mươi rupi, và nhận được thêm mười rupi nữa nhờ bán chiếc đệm cho người kia.
Thấy Dina nhìn họ khiêng chiếc giường đi, anh nói: “Anh hiểu em đang nghĩ gì. Nhưng căn nhà này chẳng còn chỗ nào để kê thêm một chiếc giường nữa cả.” Cô tự hỏi không biết tối nay họ sẽ nằm gần nhau đến đâu, khi đã có chiếc giường đôi này.
Song khi họ thức dậy vào buổi sáng tiếp theo, một nửa chiếc giường vẫn phẳng phiu sạch sẽ như chưa từng có ai nằm lên. An tâm rồi, cô mới dành cả ngày để sắp đặt tổ ấm mới theo ý của mình. Trước hết, cô báo để cửa hàng Seva Sadan ngừng mang bữa tối đến cho Rustom. Còn với bữa trưa, cô sẽ chuẩn bị sẵn hộp cơm cho anh khi anh trở lại làm việc vào tuần tới.
“Giờ anh không phải lo chuyện ra ngoài ăn hay bỏ bữa nữa rồi,” cô nói, đoạn trèo lên ghế để xem xét chiếc giá cao trong bếp. Cô tìm thấy một lô bình vại bằng đồng đỏ và đồng thau, một cái ấm nước, cùng một bộ dao.
“Mấy thứ đó hỏng hết rồi,” Rustom nói. “Anh đã định đem bán đồng nát rồi đấy chứ. Để mai nhé, anh hứa đấy.”
“Đừng, chỗ này toàn là đồ ngày xưa, bền lắm. Ta có thể đem đi sửa và mạ lại. Ngày nay anh không mua được đồ chất lượng thế này đâu.”
Một hôm, nghe thấy tiếng rao của thợ hàn nồi đi rong ngoài cửa sổ, cô bèn gọi anh ta vào để hàn những chiếc vại bị rò và gắn lại chiếc quai ấm đã hỏng. Cô đích thân theo dõi xem anh ta làm ăn có tử tế không. Với mỗi chiếc vại được hàn xong, cô lại mang vào nhà tắm đổ nước để thử.
Một ông thợ mài dao đi qua, chiếc bánh mài khoác lủng lẳng trên lưng. Anh thợ hàn ngừng tay búa cho cô vỗ tay tới lần thứ hai để gọi người kia lại.
Những lưỡi dao cùn mòn dần sáng lên với đường nét sắc lẹm. Cô sung sướng tận hưởng nguồn sinh lực, sự chuyên chú, những tiếng đập, tiếng gõ được dồn vào công cuộc biến tổ ấm của mình thành một nơi gọn gàng, ngăn nắp, vì hàng thập kỷ hôn nhân hạnh phúc với Rustom còn ở phía trước. Cô thầm nghĩ, một đời người, cũng như bao thứ khác, cần được gia công tỉ mỉ. Người ta phải gò nắn, phải gõ đập, phải đánh bóng, nếu muốn thu được những gì toàn hảo, viên mãn nhất từ nó.
Ông thợ mài dao hơi nghiêng mặt tránh những tia lửa bắn tung tóe từ chiếc bánh mài đang quay tít. Trông như pháo hoa trong lễ Divali vậy, cô bỗng nghĩ. Còn bên tai cô, từng đợt quai búa của anh thợ hàn ngân lên những âm thanh nghe vui tươi lạ.
Dina và Rustom kỉ niệm một năm ngày cưới bằng một buổi đi xem phim và ăn tối ở ngoài. Họ xem bộ phim Mệnh lệnh tàu ngầm[13] với diễn viên William Holden trong vai một sĩ quan hải quân Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Suốt cả buổi chiếu, họ nắm tay nhau không rời. Sau đó, hai vợ chồng đi ăn món cơm rang gà ở tiệm Wayside Inn.
Sang năm thứ hai, Dina muốn xem phim gì đó bớt u ám. Vì vậy họ chọn Xã hội thượng lưu[14] của Bing Crossby, một phim mới ra lò. Nhân dịp này, cô mua một chiếc váy mới, màu xanh nước biển, với một lớp váy giả ngắn bao quanh eo luôn nhấp nhô uốn lượn theo từng bước đi.
“Anh không biết em có nên mặc chiếc váy này không,” Rustom bước tới từ phía sau, tay vuốt ve eo vợ.
“Tại sao?” Cô mỉm cười, và hơi uốn éo thân mình để trêu anh.
“Em sẽ làm đàn ông đi ngoài đường phát cuồng lên mất. Tốt hơn hết là nên mang theo chiếc ô mũi nhọn in hình ngôi chùa để phòng thân.”
“Chẳng lẽ anh không định bảo vệ em và xả thân vì em ư?”
“Có chứ. Nếu thế, anh sẽ mang cây giáo kia giúp em. À, anh sẽ đem theo cả chiếc đàn vi-ô-lông của anh nữa. Nghe tiếng đàn nỉ non, chắc bọn người xấu còn hãi nữa.”
Hai vợ chồng đều rất thích bộ phim. Chiếc váy xanh trở thành câu chuyện đùa của riêng hai người khi họ tưởng tượng ra những người phụ nữ hay ghen ăn tức ở và những người đàn ông có máu Sở Khanh sẽ thèm khát được chạm tay vào nó tới mức nào. Họ ăn tối ở tiệm Mongini’s, vốn nổi tiếng là có nhiều món tráng miệng tuyệt ngon.
Tới kỉ niệm ba năm ngày cưới, họ quyết định mời Nusswan, Ruby, và bọn trẻ (nay đã có hai đứa) tới nhà ăn tối. Kể từ ngày đôi trẻ lấy nhau, mối quan hệ giữa hai nhà hết sức nồng ấm. Dina và Rustom luôn được mời đến dự sinh nhật bọn trẻ, cả dịp lễ Navroze[15] và Khordad Sal[16]. Dina thường ghé qua nhà anh chị, khi thì đi một mình, lúc lại đi cùng Rustom, để cho các cháu ít bánh kẹo, hoặc chỉ để chào một câu. Bao nhiêu oán giận xưa đã hoàn toàn tiêu tan, tới mức khó mà nhớ nổi những cảm giác ấy một cách rõ rệt. Người ta rất dễ quy rằng đó chỉ là một sản phẩm phóng đại của trí tưởng tượng mà thôi.
Buổi tiệc nhỏ diễn ra hết sức đầm ấm. Dina không đủ tiền sắm quần áo mới nên mặc luôn bộ váy xanh mua từ năm ngoái. Ruby không ngớt trầm trồ trước bộ váy và hết lời ca ngợi tài bếp núc của Dina. Chị ta khen rằng món cơm rang đậu rất ngon miệng. Dina khiêm tốn đáp lại rằng mình đã học được nhiều điều từ chị dâu. “Nhưng em còn lâu mới khéo léo đảm đang được như chị.”
Với hai đứa trẻ, một sáu tuổi và một ba tuổi, Dina nấu riêng hai phần ăn không nêm gia vị cay. Nhưng Xerxes và Zarir nằng nặc đòi được ăn giống như người lớn. Ruby bèn cho hai đứa nếm thử một chút, dù lưỡi đã thè cả ra nhưng chúng vẫn muốn ăn nữa.
“Không sao,” Dina vừa cười vừa nói, “ăn kem vào là hết cay ngay.”
“Cô cho bọn con ăn luôn nhé?” Hai đứa trẻ đồng thanh kêu lên.
“Chú Rustom sẽ đi mua ngay đây,” Dina đáp. “Nhà cô chú không có thùng lạnh để trữ kem như nhà các con. Đây, các con dùng tạm cái này nhé.” Đoạn cô lấy mấy miếng đường từ chiếc khay lễ đựng vòng hoa và dừa rồi thả vào miệng bọn trẻ.
Sau bữa ăn, trong khi cô dọn bàn cùng Ruby, Rustom quyết định đã đến lúc đi mua vài hộp kem Kwality. “Nếu họ không có kem dâu, thì các con muốn ăn kem vị gì, sô-cô-la hay vani?”
“Sô-cô-la ạ!” Xerxes nói.
“Lani ạ!” Zarir bập bẹ, khiến cả nhà cười ồ lên.
“Lani cơ à!” Rustom trêu. “Lúc nào con cũng thích khác người, nhỉ?”
“Anh chẳng biết thằng bé lấy cái tính đấy ở đâu ra,” Nusswan nói. “Chắc chắn không phải bố nó rồi!” và tất cả lại cười. Nhân cơ hội đó, anh ta đế thêm: “Thế còn vợ chồng chú thì sao, hả Rustom? Anh nghĩ cũng đến lúc có một gia đình rồi đấy. Rong chơi đến ba năm là đủ rồi.”
Rustom chỉ mỉm cười, anh không muốn mở đường cho một cuộc tranh luận mới. Anh mở cửa để bước ra, thì Nusswan đứng bật dậy nói: “Để anh đi cùng chú nhé?”
“Không, không, anh cứ ngồi chơi đi, anh là khách mà. Vả lại, nếu hai anh em ta đi bộ thì mất thời gian lắm. Một mình em có thể đạp xe đi, chỉ mất mười phút thôi.”
Dina bèn bày sẵn đĩa và thìa sạch ra để chờ kem, tiện thể đặt một ấm nước lên bếp. “Đến lúc anh ấy về là vừa vặn có trà ngon để uống rồi.”
Mười lăm phút sau, cả nhà vẫn ngồi đợi. “Anh ấy đi tận đâu thế nhỉ? Trà đã ngấm lắm rồi. Có lẽ hai anh chị cứ uống trà trước đi.”
“Thôi, đợi chú Rustom về đã.” Ruby gạt đi.
“Có lẽ hàng bán kem hôm nay đông khách lắm.” Nusswan nói.
Dina đun thêm một ấm nước đầy để pha loãng trà, rồi đặt lại chiếc ấm xuống dưới gối ủ. “Anh ấy đi được bốn nhăm phút rồi.”
“Có khi cửa hàng hết kem rồi cũng nên.” Nusswan nói. “Kem dâu được nhiều người thích nên chóng hết lắm. Có lẽ chú ấy đã ra một cửa hàng khác ở xa hơn rồi.” “Anh ấy không làm thế đâu, anh ấy biết em sẽ lo mà.” “Nhỡ xe của chú ấy bị xịt lốp thì sao,” Ruby nói.
“Kể cả phải dắt xe đi bộ về thì cũng chỉ mất hai mươi phút thôi.”
Cô bước ra ngoài hiên để ngóng xem có bóng anh đạp xe về từ đằng xa không. Cô bỗng nhớ lại những đêm họ rẽ theo hai ngả đường sau khi tan buổi hòa nhạc, cô ngồi trên tầng hai của xe buýt, mắt cố bám theo chiếc xe đạp của anh đang khuất dần khỏi tầm nhìn.
Kí ức đó khiến cô mỉm cười, nhưng nụ cười nhanh chóng vụt tắt dưới nỗi lo lắng của thực tại. “Có lẽ em sẽ đi xem có chuyện gì.”
“Không, để anh đi!” Nusswan vội giành phần.
“Nhưng anh làm sao biết cửa hàng đó ở đâu, cả đường Rustom đi nữa. Hai người lại lạc nhau mất thôi.”
Cuối cùng cả hai anh em cùng đi. Thấy Dina căng thẳng, anh ta không ngừng quả quyết rằng: “Chắc là do nguyên nhân gì đó cực kì giản dị thôi.” Cô gật đầu, chân bước nhanh hơn. Phải vất vả lắm ông anh mới theo kịp.
Lúc đó đã hơn chín giờ tối, phố xá vắng lặng. Trong con ngõ nơi có hàng kem ở cuối đường, một tốp người đang xúm đông xúm đỏ bên vỉa hè. Khi đến gần hơn, Nusswan và Dina nhận ra cả cảnh sát cũng có mặt.
“Không biết có chuyện gì nhỉ?” Nusswan nói, cố giấu nỗi hoảng hốt.
Dina là người phát hiện ra chiếc xe đạp trước. “Xe của Rustom kìa!” Cô kêu lên. Giọng cô bỗng biến thành giọng một người khác, khiến ngay bản thân cô cũng cảm thấy xa lạ.
“Em có chắc không?” Anh ta biết là có. Chiếc xe đã méo mó nhưng yên xe vẫn lành lặn. Anh ta vội rẽ đám đông để tới chỗ mấy người cảnh sát. Bão tố gào thét bên tai cô, và những lời họ nói vẳng đến nơi cô đứng thật yếu ớt, như thể từ một chốn nào đó rất xa xăm.
“Gã lái xe tải khốn kiếp!” Viên phó thanh tra nói. “Đâm rồi bỏ chạy ngay. Tôi nghĩ anh chàng đó hết hi vọng rồi.
Đầu nát bét. Nhưng dù sao xe cứu thương vẫn đưa anh ta vào viện.”
Một con chó hoang chạy tới liếm láp vũng chất lỏng đặc sệt màu hồng chảy lênh láng ngay gần chiếc xe đạp. Thế là cửa hàng vẫn còn kem dâu, Dina đờ đẫn nghĩ. Một viên cảnh sát bèn giơ chân đá con vật lông hung vàng. Nó kêu ăng ẳng và lùi lại, rồi lại mon men tới liếm tiếp. Thấy anh ta đá nó lần nữa, cô thét lên:
“Thôi đi! Nó có làm gì hại đến anh đâu! Để nó ăn!”
Giật mình, người cảnh sát lập bập “Vâng” và lùi lại. Con vật vừa vục mõm xuống ăn hăng hái, vừa rên ư ử khoan khoái nhưng mắt vẫn lấm lét liếc trộm bàn chân người đàn ông nọ.
Nusswan hỏi tên bệnh viện. Viên phó thanh tra lấy địa chỉ của anh ta, và hỏi Dina, lúc ấy đang đứng nhìn đăm đăm vào chiếc xe móp méo, địa chỉ của cô. Ông ta dịu dàng giải thích rằng chiếc xe sẽ bị tạm giữ làm bằng chứng, phòng khi họ tìm thấy gã lái xe tải. Ông ta cũng ngỏ ý cho họ đi nhờ đến bệnh viện.
“Cảm ơn ông,” Nusswan nói. “Nhưng những người ở nhà tôi sẽ lại lo lắng không biết có chuyện gì xảy ra mất.”
“Không có gì, tôi sẽ cho một nhân viên về báo để họ biết có một vụ tai nạn và hai người đang ở bệnh viện,” viên phó thanh tra nói. “Rồi sau đó anh có thể giải thích kĩ hơn.”
Nhờ sự giúp đỡ của viên phó thanh tra, các thủ tục ở bệnh viện được xúc tiến nhanh chóng, nên Nusswan và Dina có thể sớm trở về nhà. “Anh gọi tắc xi nhé?” Nusswan nói. “Không, em muốn đi bộ.”
Khi họ về đến nhà, hai hàng nước mắt lặng lẽ lăn dài trên má cô. Nusswan ôm lấy cô và vuốt tóc cô. “Em gái tội nghiệp của anh,” anh ta thì thầm khe khẽ. “Em gái bé bỏng tội nghiệp của anh. Anh ước sao mình có thể mang chú ấy trở lại cho em. Cứ khóc đi, không sao đâu, cứ khóc cho thỏa lòng đi em ạ.” Chính anh ta cũng không khỏi sụt sịt khi phải kể lại với Ruby về vụ tai nạn.
“Thượng Đế ơi!” Ruby thổn thức. “Sao lại xảy ra tai họa này cơ chứ! Chỉ trong vài phút mà cả thế giới của Dina đã tan tành mây khói! Tại sao lại thế? Sao Người lại để chuyện đó xảy ra?” Chị ta cố trấn tĩnh lại rồi mới đánh thức bọn trẻ dậy; trong khi đó, Dina vào nhà trong để thay bộ váy xanh ra.
“Giờ bọn con ăn kem dâu được chưa ạ?” Xerxes và Zarir hỏi bằng giọng ngái ngủ.
“Chú Rustom không được khỏe, ta phải về nhà thôi,” Ruby nói, chị ta nghĩ tốt nhất là về sau sẽ giải thích dần cho bọn trẻ hiểu.
Ít phút sau, Dina bước ra khỏi phòng, Nusswan bước tới bên cô, nói: “Em cũng về nhà với anh chị đi, em không ở đây một mình được đâu.”
“Đúng rồi, phải đấy!” Ruby đồng tình, đoạn cầm lấy tay cô và siết chặt.
Dina gật đầu, rồi bỏ vào bếp và bắt đầu gói ghém phần cơm rang đậu còn thừa. Ruby tò mò nhìn cô làm, có phần e sợ, mãi mới dám hỏi: “Chị giúp em nhé?”
Dina lắc đầu. “Không nên lãng phí chỗ cơm này. Trên đường về nhà, ta có thể mang cho người ăn mày ở góc phố.” Về sau, mỗi khi kể lại chuyện này với bất kì ai, Nusswan luôn nói anh ta rất ấn tượng với cách xử sự đường hoàng của em gái mình trong cái đêm hãi hùng đó. “Không vật vã khóc lóc, không đấm ngực thùm thụp, không vò đầu bứt tóc như người ta vẫn thường thấy ở một người phụ nữ phải trải qua một cú sốc như thế, một mất mát như thế.” Song anh ta vẫn nhớ như in thái độ điềm tĩnh của mẹ mình trước sự kiện tương tự và quá trình suy sụp đi liền sau đó. Anh ta mong sao Dina không đi theo vết xe đổ này.
Dina bỏ vào va li một bộ sari trắng cùng những món đồ sẽ cần dùng trong vài ngày tới. Đó cũng chính là chiếc vali cô đã mang theo vào đêm ngày cưới của mình ba năm về trước.
Sau khi đám tang và bốn ngày cầu nguyện xong xuôi, Dina sửa soạn để trở về căn hộ của mình. “Sao vội thế em?” Nusswan kêu lên. “Em cứ ở đây thêm một thời gian đã.”
“Phải đấy,” Ruby nói. “Ở đây em còn có anh chị. Chứ về đấy em chỉ có một mình, biết làm gì cho hết ngày?”
Dina dễ dàng xuôi theo ý anh chị, bởi chính cô cũng cảm thấy chưa sẵn sàng quay về. Những giờ phút khó khăn nhất là lúc trước khi bình minh lên. Cô nằm ngủ, một tay vòng sang ôm lấy gối. Đôi lúc cô đưa khuỷu tay huých nhẹ chiếc gối, cử chỉ để nhắc Rustom rằng cô muốn anh ôm mình. Và khi cảm giác về sức nặng của một cơ thể người không hiện hữu, cô bừng tỉnh dậy giữa cảnh trống vắng. Trong bóng tối nhập nhoạng của thời khắc mặt trời chưa ló rạng, cô chợt nhớ ra mất mát của mình. Thỉnh thoảng, cô vô thức gọi tên anh, và nếu nghe thấy, Ruby hoặc Nusswan sẽ chạy vào phòng cô, ôm cô thật chặt và vuốt ve mái tóc cô.
“Em ở lại đây chẳng phiền phức gì cho anh chị đâu!” Nusswan nói. “Thật ra, có em bầu bạn thì chị Ruby càng vui.”
Thế là Dina ở lại. Người nọ truyền tai người kia rằng tạm thời cô đang ở nhà anh trai, thế là họ hàng làng xóm lũ lượt kéo nhau đến an ủi cô. Khi phần thăm hỏi mang tính thủ tục đã hoàn tất, cuộc nói chuyện dần mang màu sắc một buổi đoàn tụ thân mật, và Nusswan cùng Ruby rất mừng vì những dịp thế này. Họ đều nhất trí rằng: “Giờ đó là điều tốt nhất có thể dành cho Dina.”
Thím Shirin và chú Darab của Rustom có mặt trong cả bốn ngày cầu nguyện trên Tháp Bình Yên, và một tuần sau đó lại đến thăm cô. Họ ngồi chơi một lát, nhấm nháp ly rượu chanh, rồi nói: “Với chú thím, mất nó chẳng khác nào mất một đứa con trai. Nhưng con hãy nhớ lấy, con vẫn là con gái của chú thím. Nếu cần bất cứ thứ gì, con cứ đến gặp chú thím. Nhớ nhé, bất cứ thứ gì.”
Nghe thế, Ruby thấy hơi tự ái. “Chú thím thật tử tế quá. Nhưng đã có cháu và Nusswan chăm lo cho cô ấy rồi.”
“Phải rồi, tất nhiên, tạ ơn Thượng Đế,” đôi vợ chồng già vội đáp, vẻ e dè vì giọng Ruby có phần hơi xẵng. “Đức Ngài thế nào cũng phù hộ cho vợ chồng hai cháu sống lâu, khỏe mạnh. Dina thật may mắn vì có anh trai và chị dâu thế này.” Họ chỉ nán lại một lát nữa rồi ra về, trong bụng cầu mong sao mình đã xoa dịu được Ruby ít nhiều.
Một tháng trôi qua, Dina trở lại với nếp sống xưa và khôi phục vai trò trước đó của mình trong gia đình. Người giúp việc được cho nghỉ. Dina không lấy thế làm phiền, ít ra cô cũng có cái gì đó để lấp vào những chuỗi ngày dài dặc, trống tênh của mình. Xerxes và Zarir thì đương nhiên sướng phát cuồng vì có cô Dina đến ở cùng. Xerxes đã lên lớp hai còn Zarir mới đi nhà trẻ. Cô tự nhận nhiệm vụ đưa bọn trẻ đến trường; việc này cũng đơn giản, tiện đường đi chợ buổi sáng luôn.
Vào các buổi tối Chủ Nhật, Nusswan thường bày bàn chơi bài. Ba người lớn đánh bài rummy suốt mấy tiếng còn hai đứa trẻ ngồi xem. Có lúc Dina cho Xerxes và Zarir cầm bài giúp mình. Đến bảy giờ, hai chị em dọn bữa tối, còn Nusswan tiêu khiển bằng cách lấy quân bài xây nhà cùng bọn trẻ hoặc lướt qua số báo ngày Chủ Nhật một lần nữa.
Mỗi tuần, Dina đến căn hộ bỏ trống của mình một lần để lau chùi và quét dọn. Cô lặp lại chính xác trình tự công việc mình đã thiết lập khi Rustom còn sống. Dọn dẹp xong, cô pha trà uống. Trong khoảng không kín đáo của căn bếp tồi tàn, cô ngồi đó với tách trà, hồi tưởng lại những ngày xưa. Có lúc cô lặng lẽ khóc, và tách trà thường bị bỏ quên tới nguội ngắt. Cô thường chỉ uống được một nửa, còn lại đổ đi hết.
Sau vài tuần thực hiện nghi thức than khóc bí mật này, cô bắt đầu tự cho phép một phần trong thâm tâm mình vờ như mọi sự vẫn như thường, căn hộ vẫn có người ở, cuộc ly biệt chỉ là tạm thời. Xem ra làm thế cũng chẳng phương hại gì đến cô, và cảm giác giả bộ ấy thật dễ chịu.
Rồi đến một ngày nọ, khi trời chạng vạng ngả về chiều, ô tô ngoài đường đã lác đác lên đèn, cô bỗng bắt gặp chính mình đứng trên hiên nhà, trân mắt tìm bóng xe đạp của Rustom trở về. Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng cô. Cô tự nhủ, thế là quá đủ rồi. Ve vãn sự điên dại là một chuyện; nhưng khi sự điên dại bắt đầu đáp trả, đó là lúc nên dừng lại.
Cô bỏ hẳn thói quen dọn dẹp hàng tuần. Nếu cần phải ghé qua căn hộ, cô không đi một mình nữa, mà mang cả hai đứa trẻ theo. Xerxes và Zarir rất khoái được thám hiểm khoảng không gian không người ở ấy. Những căn phòng quen thuộc phút chốc bỗng trở nên xa lạ và kì bí, dẫu được kê đầy đồ đạc nhưng vẫn nhuốm một cảm giác trống vắng không thể cắt nghĩa nổi. Bầu không khí lặng tờ tựa như ở viện bảo tàng khiến chúng e dè. Chúng hò hét và chạy nhảy và luồn lách khắp cả căn nhà để xem mình có thể quét sạch hư vô khỏi nơi này không.
Một buổi chiều, khi tạt qua đây để lấy vài món đồ, Dina nhìn thấy một phong thư của chủ nhà. Bọn trẻ rủ nhau tổ chức một cuộc chạy đua xuyên quốc gia, Xerxes chịu trách nhiệm vạch lộ trình. “Ta sẽ xuất phát từ hiên nhà, rồi chạy vào bếp, sang nhà vệ sinh, sau đó quay trở lại, phải đi qua tất cả các phòng. Hiểu chưa, Zarir?”
“Rồi ạ!” Zarir đáp. Dina hô chuẩn bị, sẵn sàng, chạy. Đoạn cô ra mở các cửa sổ ở phòng ngoài và đọc lá thư. Thư viết rằng căn hộ nay không còn người ở, do đó chủ nhà xin thông báo quyền sử dụng nhà đã hết và chìa khóa phải được hoàn trả trong vòng ba mươi ngày.
Tối hôm đó, khi Dina mang lá thư về cho Nusswan xem, anh ta cáu tiết lắm. “Thằng cha chủ nhà khốn thật! Chú Rustom đã mất được tròn ba tháng đâu, thế mà con rắn độc ấy đã dám xông vào mổ người ta rồi! Đừng nghe hắn. Em phải giữ lấy căn hộ!”
“Vâng, em nghĩ tuần sau em sẽ quay lại đó sống.” cô đồng tình.
“Ý anh không phải như vậy. Em cứ việc ở lại đây một, hai năm, bao lâu tùy thích. Nhưng đừng bỏ quyền thuê nhà. Nghe anh nói này, chẳng bao lâu nữa có tìm đỏ mắt cũng chẳng kiếm nổi nhà ở cái thành phố này đâu. Một căn hộ cũ như căn của em sẽ là một mỏ vàng.”
“Phải đấy!” Ruby họa theo. “Chị nghe nói con trai ông Putli Maasi phải xùy ra những hai mươi ngàn rupi giành chỗ mới được thuê nhà đấy. Tiền thuê những năm ngàn một tháng. Mà căn hộ của cậu ấy còn nhỏ hơn căn của em.”
“Vâng,” Dina đáp. “Nhưng tiền thuê nhà…”
“Đừng lo, anh sẽ trả.” Nusswan nói. “Luật sư của anh sẽ lo trả lời lá thư này.”
Anh ta đã tính trước: Sớm muộn gì Dina cũng sẽ tái giá. Đến lúc đó, sẽ thật không may nếu hôn sự gặp trở ngại chỉ vì thiếu một căn nhà. Anh ta không hề muốn hai vợ chồng cô sống chung với mình. Làm thế chỉ tổ sinh cãi vã và xung đột mà thôi.
Vào ngày giỗ đầu Rustom, Nusswan xin nghỉ làm một buổi sáng. Từ ngày hôm trước, anh ta đã viết giấy gửi đến trường của Xerxes và nhà trẻ của Zarir, xin phép cho hai đứa trẻ được “nghỉ học để tham gia lễ cầu siêu cho người chú quá cố tại đền thờ lửa.” Dina rất lấy làm biết ơn vì sự có mặt của toàn thể gia đình anh trai.
“Thật không thể tưởng tượng nổi,” Nusswan xuýt xoa khi tất cả cùng trở về nhà. “Mới đó mà đã tròn một năm rồi. Thời gian trôi nhanh quá!”
Vài ngày sau đó, anh ta chính thức phát tín hiệu chấm dứt quãng thời gian thương tiếc người quá cố bằng việc mời vài người bạn đến chơi nhà.
Khách khứa được mời đến có cả Porus và Solly, hai trong số rất nhiều anh chàng độc thân đủ tiêu chuẩn mà Nusswan đã ra sức tiến cử với Dina từ vài năm trước. Cả hai đều chưa lập gia đình, và theo quan điểm của Nusswan, đều là những đám xứng đáng, nếu người ta chịu bỏ qua những khuyết điểm vặt vãnh như cái bụng đã hơi phinh phính và mái tóc bắt đầu điểm bạc.
Vốn tự hào về sự tinh tế của bản thân, anh ta gọi Dina ra và nói nhỏ: “Em à, cả Porus lẫn Solly đều sẽ vồ lấy cơ hội được trở thành chồng em. Công ty luật của Porus dạo này làm ăn phát đạt không thể tưởng nổi. Còn Solly thì đã chắc chân trong một hãng kế toán. Họ chẳng phiền gì chuyện em là gái góa đâu!”
“Hai anh ấy thật tử tế quá.”
Anh ta không thích cái giọng mỉa mai ấy tí nào. Nó gợi nhớ tới Dina của ngày xưa, đứa em gái cứng đầu, bất trị, khó dạy, mà anh ta cho rằng đã cải biến thành một người tử tế hơn. Nhưng anh ta cố nuốt giận và mềm mỏng tiếp lời:
“Dina à, anh cũng phải phục em đấy. Không ai có thể trách cứ rằng em đã thương tiếc một cách quá khích. Em đã tỏ ra rất đúng mực, rất hoàn hảo, trong suốt một năm vừa qua.”
“Em đâu có cố tỏ ra như vậy. Mà làm thế cũng chẳng khó khăn gì.”
“Anh biết, anh biết!” Anh ta vội vã nói chữa, hối hận vì mình đã dùng những từ ngữ như vậy. “Ý anh là, anh rất ngưỡng mộ phẩm hạnh của em. Nhưng vấn đề là, em vẫn còn rất trẻ. Chuyện đã qua được hơn một năm, em phải nghĩ cho tương lai của mình chứ!”
“Anh đừng lo, em hiểu sự quan tâm của anh mà.”
“Tốt, anh chỉ muốn nói có vậy. Thôi, đến giờ chơi bài rồi. Ruby!” Anh ta gọi với vào trong bếp. “Lên chơi bài rummy đi nào!” Nusswan chắc mẩm từ nay tình hình sẽ có tiến triển.
Trong những tuần tiếp theo đó, anh ta tiếp tục mời các anh bạn độc thân trong nhóm ứng viên ngày xưa đến chơi nhà. “Dina, ra đây em,” anh ta vồn vã. “Để anh giới thiệu em với…” Rồi vờ như mình mắc tật đãng trí, anh ta kêu lên: “Ấy, ấy, sao anh lại nói thế nhỉ? Đầu với chả óc! Em đã gặp anh Temton rồi còn gì. Thôi ta cứ giới thiệu lại lần nữa nhé!”
Tất cả những câu nói ấy được thốt ra bằng giọng điệu ngầm gợi ý rằng một mối quan hệ có ý nghĩa lớn lao đang vươn rễ, ngọn lửa lòng đã được nhen nhóm lại. Dina giận lắm, nhưng cô gắng hết sức để không cau mày khi rót trà hay mang bánh xăng-uých ra. Khi khách đã ra về, Nusswan không quên bồi thêm những lời bóng gió đầy sức nặng. Anh ta khen ngoại hình của người này, tán dương triển vọng sự nghiệp của người kia, hoặc nhắc nhỏm về món thừa kế sắp rơi vào tay một người khác nữa.
Sau bốn tháng khách khứa đi về dập dìu mà Dina vẫn chưa bộc lộ một tín hiệu hợp tác nào, Nusswan bắt đầu mất kiên nhẫn. “Anh đã mềm mỏng, anh đã tử tế, anh đã cư xử hợp tình hợp lý. Nhưng em còn chờ gặp quý tử của ông hoàng bà chúa nào nữa đây? Anh giới thiệu người nào, em cũng quay ngoắt đi rồi bỏ ra chỗ khác. Em muốn cái gì đây?”
“Không gì cả.”
“Sao em có thể không muốn gì cả? Cả cuộc đời em sẽ chỉ là con số không mà thôi! Tỉnh táo lại đi em!”
“Em biết anh làm tất cả cũng vì em, nhưng em không có hứng.”
Câu trả lời ấy lại nhắc Nusswan nhớ về Dina của ngày xưa, đứa em gái nhỏ vô ơn. Anh ta ngờ rằng cô khinh thường mấy người bạn của mình. Mà toàn những người tử tế chứ có phải không đâu. Không sao, anh ta sẽ không để cô chọc giận mình.
“Tốt thôi. Anh nói rồi, anh là người biết lẽ phải trái. Nếu em không thích mấy người đó, không ai ép em làm gì. Tự em tìm lấy đi. Hoặc ta có thể thuê một người mai mối. Anh nghe nói bà Ginwalla có tiếng là làm mối mát tay đấy. Em nói xem, em thích kiểu người như thế nào?”
“Em không muốn tái giá sớm đến thế.”
“Sớm? Thế này mà em bảo là sớm ư? Em đã hai mươi sáu tuổi rồi. Em còn mong chờ điều gì nữa? Mong Rustom sống lại như một phép màu ư? Coi chừng đấy, kẻo em lại hóa điên như dì Bapsy thôi. Ít ra dì ấy còn có một lý do chính đáng, vì sau vụ nổ ở bến cảng, người ta chưa bao giờ tìm thấy thi thể của chồng dì ấy.”
“Sao anh lại nỡ nói những lời kinh khủng như vậy?” Dina quay đi, mặt không giấu nổi vẻ ghê tởm và rời khỏi phòng.
Khi vụ việc xảy ra, Dina vẫn còn rất bé, nhưng cô vẫn nhớ rõ ngày ấy. Đó là vào thời chiến, hai con tàu chở đạn dược của Anh bị nổ tung ngay sau khi cập cảng, giết chết hàng ngàn người trong một bán kính rất rộng quanh bến cảng. Tin đồn về bọn gián điệp của Đức Quốc Xã đã bắt đầu lan tràn từ khi những đợt cháy nổ còn chưa kết thúc. Các nhà chức trách nói rằng rất nhiều người chưa xác định được danh tính đã tan xác trong vụ nổ kinh hoàng, nhưng dì Bapsy không chịu chấp nhận cách giải thích này. Bà có cảm giác chồng mình vẫn còn sống, còn đang lang thang trong trạng thái ngơ ngẩn ở một nơi nào đó, và rồi sớm muộn gì người ta cũng tìm ra ông. Hoặc giả, dì Bapsy đồ rằng ông đã bị một gã đạo sĩ khốn nạn thôi miên hoặc bỏ bùa mê thuốc lú rồi bắt làm nô lệ. Dù thế nào, bà cũng tin rằng chồng mình sẽ sớm được tìm thấy. Mười bảy năm trời đã qua đi kể từ ngày tai họa kia ập đến, song niềm tin của bà vẫn không hề suy suyển. Cả ngày bà chỉ ngồi thao thao bất tuyệt với tấm ảnh của chồng, được đóng trong chiếc khung bạc nặng trịch đặt bên cạnh giường. Bà tường thuật tỉ mỉ cho chồng nghe mọi tin tức, mọi chuyện ngồi lê đôi mách trong ngày.
“Chính kiểu cư xử ức chế của em làm anh nghĩ đến dì Bapsy,” Nusswan đi theo Dina sang tận phòng bên. “Em thì có lý do gì cơ chứ? Em đã có mặt ở đám tang, đã nhìn thấy thi thể Rustom, đã nghe người ta cầu nguyện cho chú ấy. Chú ấy đã chết và đã rữa thịt mục xương được hơn một năm nay rồi.” Vừa nói dứt miệng, anh ta vội đưa mắt nhìn lên trời để cầu xin sự tha thứ cho những lời bất kính ấy.
“Em có biết mình may mắn thế nào vì được sống trong cộng đồng này không? Ở xứ của những kẻ mông muội, các góa phụ bị ruồng rẫy chẳng khác nào rác rưởi. Nếu em theo đạo Hindu, thì như tục lệ ngày xưa, em đã phải nhảy vào dàn hỏa thiêu mà chết theo chồng rồi đấy.”
“Em sẵn lòng lên Tháp Bình Yên cho lũ kền kền xé xác bất cứ lúc nào, nếu điều đó làm anh vui lòng.”
“Đồ đàn bà vô liêm sỉ! Sao em dám ăn nói như thế! Thật quá báng bổ! Anh muốn nhắc cho em nhớ, rằng hãy biết trân trọng hoàn cảnh của mình. Em vẫn còn có thể sống một cuộc đời viên mãn, vẫn có thể tái hôn, sinh con đẻ cái. Hay em muốn ăn bám anh suốt đời?”
Dina không nói gì. Nhưng đến ngày hôm sau, khi Nusswan còn đang ở sở, cô bắt đầu chuyển dần tư trang của mình về lại căn hộ của Rustom.
Ruby cố can ngăn em chồng, chị ta đi theo cô hết từ phòng nọ sang phòng kia, miệng không ngớt van vỉ: “Em còn lạ gì bản tính nóng nảy của anh ấy nữa. Anh ấy nói thế thôi, chứ trong bụng chẳng nghĩ ngợi gì đâu!”
“Anh ấy còn chưa nói hết những gì mình nghĩ trong bụng đâu!” Cô đáp, và tiếp tục gói ghém đồ đạc.
Tối hôm đó, Ruby vội đem chuyện kể lại với Nusswan. “Ha!” Anh ta cười khẩy, cố nói thật to để Dina nghe thấy. “Nếu nó muốn, cứ để cho nó đi. Để xem nó tự nuôi thân bằng cách nào!”
Sau bữa tối, khi mọi người vẫn còn ngồi quanh bàn, anh ta dặng hắng: “Với tư cách là chủ gia đình, anh có nghĩa vụ phải nói với em rằng anh rất không bằng lòng với những việc em đang làm. Em đang mắc một sai lầm rất lớn, rồi em sẽ phải hối hận đấy. Cuộc sống ngoài kia khắc nghiệt lắm, mà anh cũng không nài xin em ở lại đâu. Em luôn được chào đón ở đây, chỉ cần em biết điều hơn lẽ thiệt.” “Cảm ơn bài diễn văn của anh,” Dina nói.
“Ừ, cứ việc giễu cợt anh đi. Em đã quen làm thế cả đời rồi, cớ gì bây giờ lại thôi? Nhớ lấy, đây là quyết định của chính em, chẳng ai đuổi em đi cả. Sẽ chẳng có người họ hàng nào trách cứ gì anh được, anh đã làm tất cả mọi việc có thể để giúp em rồi. Và anh sẽ tiếp tục làm thế.”
Chẳng bao lâu sau, lũ trẻ đã hiểu ra rằng cô Dina sắp chuyển đi. Thoạt đầu đứa nào đứa nấy còn ngơ ngác, rồi chúng nổi giận. Xerxes giấu biến túi xách của cô đi và gào lên: “Không! Cô không được đi!” Khi cô dọa sẽ bỏ đi mà không thèm mang túi theo, thằng bé mới chịu đem chiếc túi ra, nước mắt nước mũi giàn giụa.
“Lúc nào các con cũng có thể đến chơi với cô.” Cô ôm hai đứa vào lòng và lau khô nước mắt, cố an ủi chúng. “Vào thứ Bảy và Chủ Nhật. Và cả trong các kì nghỉ nữa. Lúc đó sẽ vui lắm đấy!” Nghĩ đến viễn cảnh ấy, đứa nào cũng háo hức, song chúng vẫn thích cô ở đây luôn với mình hơn.
Ngay buổi sáng đầu tiên sau khi dọn về căn hộ của mình, Dina tới thăm chú Darab và thím Shirin của Rustom. “Darab! Mình xem ai tới kìa!” Thím Shirin reo lên hoan hỉ. “Dina thân yêu của chúng ta đấy! Vào đây con, vào đây!”
Chú Darab vội chạy ra, trên người vẫn bận nguyên bộ pyjama, và ôm chầm lấy Dina. Ông nói cả hai vợ chồng đã chờ ngày này từ lâu lắm rồi. “Con thứ lỗi cho bộ dạng của chú nhé!” Ông nói, đoạn ngồi xuống trước mặt cô và nở nụ cười rạng rỡ.
Lần nào Dina cũng không khỏi cảm động trước thái độ vui mừng của chú thím khi được gặp cô. Cô có cảm giác tình yêu thương của họ tưới tắm khắp cơ thể mình hệt như thứ gì đó có thể sờ mó được. Nó khiến cô nhớ đến lần cô được mẹ cho tắm sữa vào ngày sinh nhật, khi vẫn còn bé xíu. Lúc ấy, nửa cốc sữa ấm với vài cánh hồng thả trôi bồng bềnh từ từ đổ xuống mặt, xuống cổ, xuống ngực cô, chảy thành từng dòng trắng muốt trên làn da bánh mật của cô.
“Việc khó nhất,” cô kể, “là chia tay hai thằng bé. Con quấn chúng nó lắm.”
“Ừ, đối với bọn trẻ bao giờ cũng vậy,” thím Shirin gật gù. “Con ạ, Rustom đã kể cho chú thím nghe chuyện anh trai con đã đối xử với con tệ bạc thế nào trong những năm trước khi hai con lấy nhau.”
“Anh ấy không phải người xấu.” Dina chống chế. “Chỉ là anh ấy có cách nhìn nhận của riêng mình đối với mọi chuyện thôi.”
“Phải, tất nhiên rồi,” thím Shirin nói, bà cảm nhận được ngay sức nặng của tình ruột thịt. “Dù thế nào đi nữa, con có thể ở đây với chúng ta. Thấy con đến, chú thím mừng lắm.”
“Ôi,” Dina vội nói, sợ rằng mình sẽ gây thêm hiểu lầm cho chú thím. “Thực ra, con đã quyết định từ nay sẽ về sống ở căn hộ của anh Rustom. Con chỉ đến đây để nhờ chú thím tìm cho con ít công việc thôi.”
Nghe thấy thế, miệng chú Darab bắt đầu giật giật. Ông gắng gỏi nuốt trôi nỗi thất vọng đột nhiên dâng đầy họng mình, những tiếng lục bục khe khẽ do ông tạo ra phá vỡ bầu không khí câm lặng; trong khi thím Shirin mân mê vạt chiếc áo khoác nhẹ trong vô vọng. “Công việc,” bà lẩm bẩm ngây dại, đầu óc không nghĩ nổi chuyện gì nữa. “Con yêu… phải, công việc, con phải làm việc chứ. Việc gì nhỉ, Darab? Mình nghĩ xem, có việc gì cho cháu nó làm không?”
Dina chờ đợi câu trả lời của ông chú trong im lặng tội lỗi. Nhưng ông vẫn còn đang vật lộn với cục nghẹn trong miệng. “Mình đi thay quần áo đi!” Thím Shirin bèn quở. “Trưa trầy trưa trật ra rồi mà mình vẫn còn mặc nguyên bộ đồ ngủ thế ư?”
Ông ngoan ngoãn đứng dậy và đi vào nhà trong. Thím Shirin buông vạt áo ra, xoa hai tay lên mặt, và ngồi thẳng dậy. Khi chú Darab trở ra, bộ pyjama được thay bằng chiếc quần kaki và chiếc áo sơ mi rộng có túi ngực, bà đã kịp phác thảo những bước đầu của một giải pháp dành cho Dina.
“Nói thím nghe, con có biết khâu vá không?”
“Con có biết chút ít. Chị Ruby đã dạy con cách dùng máy khâu.”
“Tốt. Thế là có việc cho con rồi. Thím có một chiếc máy Singer còn rỗi, con lấy mà dùng. Máy hơi cũ, nhưng vẫn chạy tốt lắm.”
Suốt nhiều năm nay, thím Shirin vẫn kiếm thêm đồng ra đồng vào phụ cho khoản lương ông chồng nhận được từ Công ty vận tải quốc gia nhờ việc may vá cho vài gia đình. Bà may những món đồ đơn giản như pyjama, váy ngủ, quần áo trẻ con, ga trải giường, vỏ gối, khăn trải bàn. “Con có thể làm cùng thím,” bà nói. “Việc nhiều lắm, thím làm không xuể, tại mắt mũi thím giờ kém quá rồi. Ngày mai ta bắt đầu luôn nhé!”
Dina cầm túi lên và ôm lấy thím Shirin cùng chú Darab. Hai vợ chồng tiễn cô ra cửa trước. Bỗng một cơn chấn động ngoài phố kéo họ lên ban công. Một đoàn người biểu tình đông nghịt đang dồn dập đổ xuống đường.
Nhìn qua mấy tấm băng rôn, biểu ngữ, chú Darab nói: “Lại một vụ biểu tình ngớ ngẩn vì chuyện ngôn ngữ đây mà. Bọn điên cứ đòi chia đất nước theo biên giới ngôn ngữ!”
“Ai cũng muốn thay đổi cái nọ cái kia,” thím Shirin chắt lưỡi. “Sao người ta không chịu học cách bằng lòng với mọi sự như nó vốn có nhỉ? Thôi, ta vào nhà đi! Dina không về ngay được đâu. Giao thông tê liệt hết rồi còn gì.” Bà nói giọng hồ hởi, và sung sướng tận hưởng thêm hai tiếng nữa có Dina bên cạnh, cho tới khi đường phố trở lại bình thường.
Suốt mấy ngày tiếp đó, Dina được đưa đi khắp nơi để chào các khách hàng. Đến mỗi nhà, cô đứng lóng ngóng bên cạnh thím Shirin và nở nụ cười ngượng ngùng, cố gắng ghi nhớ hàng loạt những cái tên cùng các chỉ dẫn may mặc. Thím Shirin liên tục chuyển các đơn hàng mới sang cho cô.
Đến cuối tuần ấy, Dina bèn lên tiếng phản đối: “Con không thể nhận nhiều đơn hàng như thế được, con sẽ cướp hết nguồn thu của thím mất!”
“Con thân yêu, con chẳng cướp gì của thím hết. Lương hưu của chú Darab đủ cho cả hai chúng ta chi dùng. Đằng nào thím cũng định nghỉ may rồi mà. Việc nặng quá, thím không kham nổi. Đây, đừng quên mẫu may mới này nhé!”
Ngoài các đơn hàng, thím Shirin cũng cung cấp thêm những thông tin ngoài lề về các khách hàng để giúp Dina dễ bề làm ăn với họ. “Nhà Munshi là dễ chịu nhất, luôn luôn trả tiền đúng hạn. Cả nhà Parekh cũng vậy, có điều họ thường hay mặc cả mặc lẽ. Con phải kiên quyết vào, cứ nói thím đã đặt giá cứng rồi. Ai nữa nhỉ? Phải rồi, ông Savukshaw. Ông này phải cái tật rượu chè be bét lắm. Cứ đến cuối tháng là bà vợ khốn khổ lại chẳng còn đồng nào trong túi cả. Con nhớ bắt họ ứng tiền trước.”
Chuyện nhà Surtee lại khá kì khôi. Cứ khi nào hai vợ chồng có chuyện cãi lộn, bà vợ lại đình công không thèm nấu cơm tối nữa. Thay vào đó, bà ta lôi hết mấy bộ pyjama của ông chồng cất trong tủ ra và châm lửa đốt, rồi gom hết tro cùng vụn than lại đem dọn lên đĩa mời ông xơi khi ông đi làm về.
“Kết quả là,” thím Shirin nói, “con lại càng có nhiều việc để làm. Cứ chừng hai, ba tháng một lần, làm lành với nhau xong, bà Surtee sẽ đặt con một đơn hàng pyjama rất lớn. Nhưng con phải vờ như không có chuyện gì; nếu không, bà ta sẽ cạch mặt con ra ngay.”
Bộ sưu tập chân dung các gia đình của Dina dày lên thêm khi thím Shirin tiếp tục mô tả cho cô nghe về vợ chồng Davar và Kotwal, Mehta và Pavri, Vatcha và Seervai, và đưa họ vào danh sách khách hàng. “Phải nghe hết những chuyện tủn mủn này chắc con chán lắm,” bà nói. “Còn một điều nữa thôi, và cũng là điều quan trọng nhất: Đừng bao giờ lấy số đo đồ lót cho các khách nam. Cứ xin họ đồ mẫu để may theo. Nếu không được, con nhớ chỉ được đo cho họ khi có mặt một người khác: vợ hoặc mẹ hoặc em gái họ. Nếu không, trước khi con kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, họ đã kịp uốn éo, xoay xỏa và dí vào tay con cái của nợ mà con chẳng hề mong muốn rồi. Tin thím đi, hồi còn trẻ dại, thím đã gặp chuyện kinh tởm này một lần rồi.”
Lời khuyên sau chót này được đặt lên hàng đầu trong tâm trí Dina khi cô được đưa đến gặp Fredoon, một người đàn ông độc thân sống một mình. Thím Shirin cảnh báo cô không được đến nhà anh ta một mình. “Quả anh ta là người đường hoàng lịch thiệp thật đấy, nhưng miệng lưỡi thế gian độc địa lắm. Họ sẽ rêu rao rằng hẳn đang có chuyện mờ ám chi đây. Danh dự của con sẽ bị bôi nhọ mất!”
Dina không quan tâm đến miệng lưỡi thế gian và cũng không cảm thấy bất kì mối nguy hiểm nào từ phía Fredoon, mặc dù cô đã chuẩn bị sẵn tinh thần từ chối nếu anh ta có đề nghị cô lấy số đo đồ lót cho mình. Để dì Shirin an tâm, cô nói rằng lúc nào mình cũng đi cùng một người bạn. Nhưng cô không nói rằng người bạn đó chính là Fredoon. Vì anh đã sớm trở thành một người như vậy. Đơn hàng của anh ta chủ yếu bao gồm váy yếm, quần soóc và yếm dãi trẻ con; để giúp Dina, anh lấy quần áo làm quà tặng sinh nhật cho con cái của những người bạn bè và họ hàng thay vì những phong bì lèn đầy tiền.
Tình bạn của họ ngày càng khăng khít hơn. Dina thường đi theo anh ta đến cửa hàng vải để giúp anh chọn lựa chất liệu cho các món quà. Mua sắm xong, họ ghé vào cửa tiệm Bastani’s để uống trà và ăn bánh. Có khi, Fredoon mời cô về nhà mình để ăn tối, anh hay mua thịt cừu rán hoặc thịt lợn nấu cà ri trên đường về. Anh luôn khuyến khích cô thử may những mẫu váy trẻ em mới, thường ra sức bảo vệ quyền lợi cho cô trước các khách hàng, đòi họ phải trả công cao hơn.
Chỉ sau vài tháng, Dina đã thấy tự tin hơn hẳn về khả năng của mình. Công việc may vá khá dễ dàng, nhờ sự dạy dỗ của chị dâu cô. Nếu có chỗ nào khó, cô sẽ nhờ thím Shirin giúp. Những cuộc viếng thăm của cô khiến hai ông bà già vui lắm, cô thường xuyên lui tới, vờ như mình mắc míu chỗ này chỗ kia: cổ áo viền đăng ten, tay áo may liền, ly xếp.
Quá trình may vá thường nhật thải ra rất nhiều vải vụn, thím Shirin bảo cô nên gom chúng lại. “Đừng bỏ phí thứ gì. Con hãy nhớ, cái gì cũng có chỗ dùng được. Mấy mảnh vụn này có thể hữu ích lắm đấy.” Bà nhanh nhẹn minh họa bằng cách may một miếng băng vệ sinh lổn nhổn.
“Quả là một ý tưởng hay!” Dina thốt lên. Túi tiền của cô cần viện đến mọi sự trợ giúp có thể. Lớp ruột bằng vải thấm hút không tốt bằng những loại băng vệ sinh cô từng mua, nhưng được cái có thể thay thường xuyên hơn vì chúng chẳng tốn đồng nào. Dẫu vậy, để phòng xa, cô luôn mặc một chiếc váy thật tối màu khi đến kì kinh.
Công việc khiến thời gian trôi qua rất nhanh trong căn nhà nhỏ. Khi đôi mắt và những ngón tay chìm đắm trong công việc may vá, cô dần dần thiết lập được ý thức rõ rệt đối với những tiếng động phát ra từ những căn hộ ở xung quanh mình. Cô gom góp những âm thanh, phân loại chúng, tái hiện chúng, và vẽ ra một bức tranh về đời sống của hàng xóm láng giềng, hệt như cách cô biến những số đo thành quần áo.
Chính sách đối đãi với hàng xóm của Rustom là tránh càng xa càng tốt. Anh thường nói, chỉ dăm câu chào hỏi xã giao là đủ, thân quá lại sinh ra đủ chuyện ngồi lê đôi mách thì phiền phức lắm. Song tiếng rửa xoong chảo, tiếng chuông cửa reo, tiếng mặc cả với người bán dạo, tiếng giặt ủi, tiếng quần áo bị đập, nhúng trong chậu nước xà phòng, tiếng vợ chồng cự cãi nhau, tiếng chủ nhà đôi co với người làm, dường như tất cả những âm thanh đó cũng giống một kiểu ngồi lê đôi mách. Và cô nhận ra rằng tiếng động phát ra từ chính căn hộ của mình cũng sẽ rót vào tai hàng xóm câu chuyện về cuộc sống của cô, nếu họ chịu lắng nghe. Chẳng có cái gì gọi là riêng tư tuyệt đối cả, cuộc sống là một tấn tuồng bất tận với những khán giả bất đắc dĩ.
Đôi khi, thú vui đi xem hòa nhạc miễn phí của ngày xưa vẫn khiến cô tiếc nhớ, nhưng cô lại ngại ngần không muốn quay lại với nó. Bất cứ thứ gì mang màu sắc của một sự bấu víu vào những ngày quá vãng đều khiến cô cảnh giác. Con đường dẫn đến tự chủ có khi nào đi qua quá khứ?
Dần dà, khi công việc may đo đã trở thành một thói quen dễ chịu đối với Dina, thím Shirin bắt đầu dạy cô đan áo len. “Thường không có mấy đơn đặt may đồ len,” bà nói, “nhưng vẫn có người đặt để mặc làm dáng, hoặc mua nhân dịp đi chơi núi vào ngày nghỉ.” Khi hai thím cháu học đến những kiểu mẫu phức tạp, thím Shirin cho cô xem cả bộ sưu tập sách mẫu thiết kế và kim đan của mình.
Cuối cùng, bà hướng dẫn Dina môn thêu thùa với một lời cảnh báo: “Khăn ăn và khăn phủ bàn trà thêu tay rất được chuộng, mà công xá cũng hời nữa. Nhưng làm việc này hại mắt ghê lắm. Đừng tham làm, kẻo đến sau bốn mươi tuổi con sẽ phải lãnh hậu quả đấy!”
Khi thím Shirin qua đời ba năm sau đó, rồi chú Darab cũng đi theo vợ sau vài tháng, Dina đã vững tin mình có thể tự xoay xở được. Cô cũng cảm thấy rất cô quạnh, như thể mình vừa mất đi những người cha mẹ thứ hai vậy.
Trái với khẳng định của Nusswan rằng không một ai có thể trách cứ anh ta về sự ra đi của Dina, họ hàng nhanh chóng chia thành hai phe. Một ít số còn lại, tự nhận là theo trường phái trung dung, cảm thấy hoàn toàn thoải mái dù đứng ở phía nào. Song ít nhất một nửa trong số đó hết sức ủng hộ Dina. Để bày tỏ thái độ đồng tình đối với tinh thần độc lập tự chủ của cô, họ hiến cho cô vô số ý tưởng kiếm tiền.
“Bánh quy bơ. Tiền bạc là ở đấy chứ đâu.”
“Sao cháu không mở một cái nhà trẻ tư? Bà mẹ nào cũng sẽ rất an tâm nếu được giao con cái mình vào tay cháu, thay vì phó thác cho người giúp việc.”
“Cứ chế nước hoa hồng mà bán, em sẽ không phải hối hận đâu. Người ta lại chả tranh nhau mua cả lít ấy à?“
Dina lắng nghe tất cả những ý kiến ấy với lòng biết ơn, đầu gật gù ra chiều thích thú trong khi những người họ hàng thao thao bất tuyệt về kế hoạch của mình. Cô dần trở thành dân chuyên về khoản gật đầu không đi kèm cam kết thực hiện. Khi đơn hàng may đo thưa thớt, cô lại làm bánh kem, bánh quy trứng, kẹo vasanu, bánh sữa chua theo yêu cầu của họ.
Rồi cô bạn Zenobia bỗng nảy ra sáng kiến mở dịch vụ cắt tóc tại nhà cho trẻ con. Zenobia đã thực hiện được ước mơ từ thời cắp sách: Hiện cô đã là thợ làm tóc chính ở Thẩm mĩ viện Venus. Sau khi cửa tiệm đóng cửa vào buổi tối, cô luyện tay nghề cho Dina trên một bộ tóc giả gắn vào chiếc sọ giả bằng thạch cao. Chiếc lược thường bị mắc giữa những lọn tóc rối của mớ bùi nhùi rẻ tiền.
“Đừng lo,” cô trấn an Dina. “Làm việc trên tóc thật dễ hơn nhiều.” Từ tiền lãi của cửa hàng, cô sắm một bộ kéo, tông đơ, chổi, lược, bột tan, và mút xốp. Sau đó họ lên danh sách những bạn bè và họ hàng có con nhỏ có thể lấy làm chuột bạch. Tên của Xerxes và Zarir bị loại bỏ; dù rằng Nusswan có thể sẽ hoan nghênh cơ hội tiết kiệm được vài đồng tiền cắt tóc, bởi Dina cảm thấy không thoải mái khi đứng trong nhà anh trai.
“Cứ bám theo đuôi bọn nó, từng đứa một, đến khi nào tỉa xong cả mớ bù xù trên đầu thì thôi!” Zenobia nói. “Vấn đề chỉ còn là thực hành nữa thôi.” Cô giám sát thành quả của mỗi lần cắt; và chẳng bao lâu sau, cô tuyên bố Dina đã học thành tài và đã sẵn sàng. Giờ Dina bắt đầu đi đến từng nhà.
Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày, liên doanh của hai người sụp đổ vì không có lấy một khách hàng nào. Cả cô lẫn Zenobia đều không nhớ ra rằng đa phần mọi người coi việc cắt tóc ngay trong tư gia của mình là điều xui xẻo khủng khiếp. Dina đem chuyện không may này thuật lại với bạn, kể rằng chỉ riêng ý nghĩ tóc rơi xuống sàn nhà cũng đủ khiến các khách hàng tiềm năng nhảy dựng lên như phải bỏng. “Cô ơi, cô không biết nghĩ hay sao? Gia đình tôi đã làm gì sai quấy với cô, để đến nỗi cô muốn mang vận xui đến nhà tôi thế?”
Vẫn có vài người muốn cô cắt tóc cho con mình. “Nhưng với điều kiện cô phải cắt ngoài đường.” Họ nói. Dina từ chối. Những việc cô sẵn sàng làm cũng có giới hạn của nó. Cô là một nhà tạo mẫu tóc cho trẻ em tại gia, không phải là tay hớt tóc dạo ngoài vỉa hè.
Sau vụ đó, cô không phải “treo tông đơ” vĩnh viễn. Con cái của các bạn bè cô vẫn có nhiều dịp được nhờ cậy tài của cô. Có vài đứa bé trai và bé gái, nhớ đến mấy lần bị lôi ra cắt tóc thí nghiệm, đều trốn biến đi khi dì Dina đến. Dần dần, khi tay nghề của cô khá lên, bọn trẻ cũng bớt sợ đi.
Trong khoảng thời gian này, cũng có những đận khốn khó khi cô không trả nổi tiền thuê nhà hay hóa đơn tiền điện. Hồi còn sống, thím Shirin và chú Darab thường đỡ đần cô bằng một khoản vay chừng bốn, năm mươi rupi. Giờ đây người duy nhất cô có thể trông vào là Nusswan.
“Tất nhiên là được, đó là nghĩa vụ của anh mà!” Anh ta nói với giọng đầy thiện chí. “Em nghĩ sáu mươi rupi đã đủ chưa?”
“Đủ rồi, cảm ơn anh. Tháng sau em sẽ trả.”
“Có vội gì đâu. Nói anh nghe xem, em đã tìm được đối tượng nào chưa?”
“Chưa ạ,” cô đáp, trong bụng tự hỏi không biết anh mình có nghi ngờ gì về Fredoon không. Phải chăng đã có ai đó nhìn thấy hai người đi với nhau và mách lại với Nusswan?
Trong vòng hai năm kể từ ngày thím Shirin mất, người đàn ông độc thân nọ đã thay đổi vị thế từ bạn trở thành tình nhân. Mặc dù Dina vẫn khó mà cảm thấy hào hứng cho nổi trước ý tưởng về một đám cưới, song cô rất vui vì có Fredoon bầu bạn cùng, vì anh ta hoàn toàn bằng lòng với việc được ở bên cô mà không có cảm giác cần phải nghĩ ra những chuyện thú vị để nói với nhau hoặc phải tham gia vào những hoạt động xã hội thường thấy ở các cặp yêu nhau. Dù là ngồi chơi trong căn hộ của anh ta hay đi dạo ngoài công viên, cả hai đều thấy vui sướng như nhau.
Nhưng khi họ dấn bước vào khu vườn riêng kín của ái ân, mối quan hệ bỗng trở nên khúc khuỷu. Có một số chuyện cô không thể nào ép mình làm nổi. Chiếc giường, bất cứ chiếc giường nào, đều nằm ngoài giới hạn, nó quá thiêng liêng và chỉ dành cho những cặp đã nên vợ nên chồng. Vì vậy họ đành dùng ghế tựa. Rồi đến một ngày nọ, khi cô giạng một chân ra để kẹp Fredoon vào, hành động ấy đột nhiên làm sống lại hình ảnh Rustom vòng chân qua để nhảy lên xe đạp. Thế là ghế tựa, cũng như giường, không thể được trọng dụng nữa.
“Trời đất ơi!” Fredoon khẽ rên lên. Đoạn anh ta mặc quần lại và đi pha trà.
Vài ngày sau, anh thuyết phục Dina thử tư thế đứng, Dina không phản đối. Anh bắt đầu giản tiện các thủ tục hết mức có thể. Anh tìm một chiếc bệ thấp để cô đứng lên; nhờ thế chiều cao của hai người trở nên tương xứng hơn khi họ ôm nhau. Sau đó anh mua một chiếc ghế đẩu, lấy vài số đo cá nhân, và cưa đi đúng năm phân rưỡi chân ghế, chỉnh xuống kích cỡ phù hợp để cô có thể đặt một chân lên đó. Có lúc cô giơ chân trái lên, lúc lại giơ chân phải. Anh ta kê những món phụ trợ này sát tường và dòng dây từ trên trần xuống để treo toòng teng mấy chiếc gối ở một độ cao vừa phải để cô tựa đầu, lưng, và hông.
“Thế này có thoải mái không?” Anh dịu dàng hỏi, cô gật đầu.
Nhưng cảm giác thỏa mãn tột bậc mà chiếc giường mang lại chỉ có thể được mô phỏng phần nào. Thứ lẽ ra chỉ là món ăn đổi bữa để điểm thêm vào thực đơn hàng ngày giờ đã trở thành món chính, khiến vị giác thường rơi vào trạng thái hoang mang hoặc bất toại.
Bức tường đối diện trong căn phòng của Fredoon có một ô cửa sổ nhỏ. Bên ngoài là cột đèn đường. Có một bận, vào lúc nhập nhoạng tối, khi đôi bên đang bị khóa chặt với nhau trong cuộc làm tình theo chiều thẳng đứng, trời bắt đầu đổ mưa. Mùi hương vườn tược ẩm ướt tràn vào qua cửa sổ. Qua đôi mắt lim dim, Dina thấy bụi mưa bay bay quanh ngọn đèn đường như một lớp sương. Thỉnh thoảng, một bàn tay, khuỷu tay, hoặc bờ vai trượt ra ngoài gối, quệt lên bức tường trần trụi, chất xi măng mát lạnh đến tê mê trên da thịt nóng hổi của hai người.
“Ư ư…” Cô khẽ rên lên, khoan khoái tận hưởng bằng mọi giác quan. Fredoon sung sướng lắm. Mưa càng lúc càng nặng hạt. Cô thấy những tia mưa xiên chênh chếch qua cột đèn đường.
Cô nhìn lom lom một lúc, rồi toàn thân bỗng cứng đờ. “Dừng lại đi anh,” cô thì thầm, nhưng anh ta vẫn không ngừng thúc tới.
“Dừng lại, em bảo mà! Xin anh, Fredoon, dừng lại đi!”
“Sao thế em?” Anh ta van vỉ. “Sao thế? Có chuyện gì à?”
Cô co rúm lại. “Cơn mưa…”
“Mưa à? Nếu em muốn, anh sẽ đóng cửa sổ lại.”
Cô lắc đầu. “Em xin lỗi, lại có thứ làm em nhớ tới Rustom.”
Anh ta đưa hai bàn tay áp lên mặt cô, nhưng cô vội gạt ra. Cô trườn khỏi vòng tay anh và trôi vào kí ức về buổi đêm xa xôi hôm nào: Cô khoác trên mình chiếc áo mưa của Rustom; chiếc ô nát tướp vì bão giằng xé. Và sau buổi hòa nhạc, dưới nhà chờ xe buýt, họ đã nắm tay nhau lần đầu tiên, lòng bàn tay ướt đẫm vì cơn mưa mau hạt.
Nhớ đến sự thuần khiết của khoảnh khắc ấy, Dina càng thấy hiện thực sao quá trái ngược. Việc cô và Fredoon đang làm trong căn phòng này chẳng khác nào một thứ thủ tục bùng nhùng, nhớp nhúa, khiến cô chìm ngập trong cảm giác hổ thẹn và ghê tởm. Cô rùng mình.
Fredoon lặng lẽ lấy áo ngực và quần lót đưa cho Dina. Cô rùn người, nép sâu vào bức tường lót gối trong khi mặc, cố tách xa khỏi anh. Còn anh xỏ quần vào và đi pha trà.
Sau đó, anh ta ra sức pha trò để giúp cô vui lên. “Trong mấy bộ phim vớ vẩn, cơn mưa luôn làm nhân vật nam chính và nữ chính xích lại gần nhau hơn kia mà,” anh ta than thở. “Nhưng từ rày về sau, nó lại thành vận xui của đời anh rồi.” Thấy cô mỉm cười, anh ta thêm vững dạ. “Em đừng lo, anh sẽ dỡ mớ này ra và thiết kế một hệ thống khác cho hai ta.”
Fredoon không bỏ cuộc. Song bất chấp mọi nỗ lực sáng tạo và công cuộc bí mật tra cứu đủ loại sách vở về tình dục, quá khứ vẫn không thể bị cách ly hoàn toàn. Anh ta nhận ra rằng, đó là một vật thể trơn chuội, thường lẻn vào thực tại trong những thời điểm không ngờ tới nhất, có khả năng len lách qua mọi tấm lưới phòng ngự bền chắc nhất.
Song anh ta không bao giờ phàn nàn lấy nửa câu, Dina rất thích anh ta ở điểm này. Cô quyết tâm giữ bí mật về anh ta trước Nusswan, càng lâu càng tốt.
“Vẫn chưa kiếm được mối nào à?” Nusswan hỏi, tay giở ví đếm tiền. “Nên nhớ, em đã ba chục tuổi đầu rồi đấy. Để quá đi thì chẳng còn sinh nở gì được đâu. Anh vẫn có thể kiếm được cho em một tấm chồng tử tế. Em cứ phải đầu tắt mặt tối mãi thế làm gì?”
Cô bỏ sáu mươi rupi vào túi và để mặc ông anh muốn nói gì tùy thích. Coi như đó là món lãi anh ta thu được từ khoản cho vay của mình, cô thầm nghĩ một cách rất triết lý như thế – hơi đắt, nhưng đó là loại tiền tệ duy nhất cô có khả năng trả và được anh ta chấp nhận.
Chiếc đàn vi-ô-lông đã nằm yên trên nóc tủ suốt năm năm trời. Trong những dịp dọn dẹp diễn ra nửa năm một lần, khi Dina buộc một tấm vải trắng lên đầu và quét tường cùng trần nhà bằng chiếc chổi cán dài, cô chỉ phất qua nóc tủ mà không hề dịch chuyển chiếc hộp đen.
Trong sáu năm tiếp theo, cô tiếp tục áp dụng chiến lược cũ đối với cây đàn vi-ô-lông, tức là hầu như không thừa nhận sự tồn tại của nó. Nay đã là ngày giỗ thứ mười hai của chồng. Cô quyết định, đã đến lúc bán cây đàn đi. Tốt hơn hết nên để ai đó sử dụng nó, lấy nó tấu nhạc, thay vì để mặc nó bám bụi như thế. Cô bắc ghế đứng lên và nhấc hộp đàn xuống. Khi được ngón tay cô gạt lên, những chiếc khóa kim loại han gỉ kêu ken két. Cô mở nắp hộp ra, kinh ngạc.
Phần hộp đàn xung quanh lỗ f đã vỡ nát. Bốn sợi dây buông chùng ẻo lả giữa chốt mắc và núm lên dây, lớp nỉ lót hộp rách tướp vì bị lũ côn trùng háu đói gặm nham nhở. Những vụn vải đỏ tía bám vào tay cô. Ruột cô bỗng cồn lên. Tay run run, cô nhấc chiếc vĩ ra khỏi rãnh gài trên nắp hộp. Túm lông đuôi ngựa phất phơ bám vào một đầu vĩ, nom hệt như một cái đuôi ngựa mỏng quẹt; cả túm còn chưa tới chục sợi lông lành lặn. Cô bỏ tất cả trở lại hộp và quyết định mang nó tới cửa hiệu L. M. Furtado & Co.
Trên đường đi, cô phải trú tạm trong một thư viện để tránh đợt càn quét chóng vánh của đoàn người biểu tình. Họ đập phá cửa sổ các cửa hiệu, gào thét những khẩu hiệu phản đối cơn lũ người Nam Ấn đang đổ về thành phố, cướp đi công ăn việc làm của mình. Xe cảnh sát trờ tới, đám người biểu tình kết thúc công việc rồi ai về nhà nấy. Dina chờ thêm vài phút nữa mới dám rời khỏi thư viện.
Ở cửa hiệu L. M. Furtado &Co., ông Mascarenhas đang đôn đốc người làm dọn dẹp ô cửa sổ ốp kính lớn, những mảnh vỡ vung vãi quanh hai cây ghi-ta, một chiếc đàn banjo, mấy cái trống bongo cùng mớ giấy ghi những bài hát mới nhất của Cliff Richard. Thấy Dina bước vào cùng chiếc đàn vi-ô-lông, ông Mascarenhas vội quay trở lại quầy.
“Đúng là tai bay vạ gió!” Cô nói, tay chỉ vào ô cửa sổ.
“Làm ăn thời nay nhọc nhằn thế đấy!” Ông tặc lưỡi, đoạn mở chiếc hộp cô vừa đặt xuống trước mặt mình. Những gì chứa bên trong khiến ông câm lặng. “Sao lại ra nông nỗi này?” Ông không nhận ra Dina, vì cũng đã lâu lắm rồi kể từ ngày Rustom giới thiệu cô với ông, nhân dịp hai vợ chồng đến đây mua một sợi dây Mi. “Không ai chơi nó ư?”
“Cũng mấy năm nay rồi.”
Ông Mascarenhas gãi gãi tai phải, đôi mày cau lại dữ dội quanh chiếc gọng đen sì dày cộp của cặp kính mắt. “Đàn vi-ô-lông, phàm những lúc cất đi không chơi nữa, thì dây phải được buông lỏng, vĩ cũng phải nới ra.” Ông nói giọng gay gắt. “Đến con người khi về nhà nghỉ ngơi cũng phải nới thắt lưng ra mà thở nữa là!”
Dina gật đầu, hổ thẹn không để đâu cho hết. “Cây đàn này còn sửa được không ạ?”
“Cái gì cũng có thể sửa được tất. Vấn đề là, sửa xong rồi thì tiếng đàn sẽ thế nào?”
“Sẽ thế nào?”
“Kinh lắm. Như tiếng mèo cắn nhau. Nhưng vẫn có thể thay lượt nỉ mới cho chiếc hộp. Hộp này là loại cứng cáp, tốt đấy.”
Cô bán chiếc hộp cho ông Mascarenhas với giá năm mươi rupi và để cây đàn lại. Ông ta nói, có khi một tay mới tập tọng chơi sẽ mua lại món đồ sau khi đã sửa với giá rẻ mạt. “Người mới học chơi thì cũng chỉ biết cò cưa kéo cửi thôi, dùng đàn nào chả vậy! Nếu bán đi được, tôi sẽ trả cô thêm năm mươi rupi nữa.”
Cô thấy nhẹ lòng khi nghĩ đến viễn cảnh một thanh niên trẻ trung đầy nhiệt huyết sẽ mua nó về. Chắc Rustom sẽ hài lòng lắm, nếu biết cây đàn của anh vẫn được tiếp tục sự nghiệp tra tấn nhân loại.
Lắm lúc, mặc cảm tội lỗi của Dina đối với cây đàn vi-ô-lông vẫn quay về dằn vặt cô. Mình ngu quá, cô thầm trách, sao lại để mặc nó trên nóc tủ suốt mười hai năm cơ chứ, hỏng hết cả đàn. Chí ít cô cũng có thể đem cho Xerxes và Zarir, rồi khuyến khích chúng thử học chơi xem sao.
Rồi đến một buổi sáng nọ, có người tìm đến, báo rằng có món đồ gửi cho cô Dalal.
“Chính là tôi đây.” Cô nói.
Cậu thanh niên, bận một chiếc quần bó rất hợp mốt cùng chiếc áo sơ mi màu vàng tươi để mở ba khuy trên cùng, quay ra xe tải để bê món đồ vào. Dina tự hỏi không biết đó có phải chiếc đàn vi-ô-lông không. Đã sáu tháng trôi qua kể từ ngày cô mang nó tới cửa hiệu L. M. Furtado & Co. Có lẽ ông Mascarenhas phải gửi trả vì cây đàn hỏng nặng quá, không chữa nổi.
Chàng trai lại xuất hiện trên ngưỡng cửa, kéo theo chiếc xe đạp tàn tạ của Rustom. “Đồn cảnh sát gửi cho cô đấy ạ!” Anh ta nói.
Cậu ta chưa kịp bảo cô kí vào biên lai nhận hàng, thì bàn tay cô đã từ từ trượt dọc xuống rầm cửa, cả thân hình nhẹ nhàng ngã ra đất. Cô đã ngất xỉu.
“Cô ơi!” Cậu trai đưa hàng kêu lên hoảng hốt. “Tôi gọi xe cấp cứu nhé? Cô có sao không?” Cậu ta cầm chiếc bảng kẹp biên lai quạt lấy quạt để vào mặt cô, hết phẩy hướng này lại xoay hướng khác, hi vọng những luồng gió đó có thể mang không khí trở về mũi cô.
Cô khẽ rùng mình, cậu trai càng ra sức quạt. Vững dạ vì nạn nhân có chút chuyển biến, cậu ta cầm cổ tay cô lên như để bắt mạch. Thật ra cậu chàng chẳng biết đích xác phải làm gì với cái cổ tay, nhưng cậu đã thấy thao tác này được thực hiện vài lần trong một bộ phim có nhân vật nam chính là một bác sĩ, còn nữ chính là cô y tá phong nhũ phì đồn luôn theo sát anh ta.
Dina lại rùng mình. Chàng trai đưa hàng buông cổ tay cô ra, sung sướng trước thắng lợi y học đầu tiên của bản thân. “Cô ơi! Có chuyện gì vậy? Để tôi gọi người đến nhé!”
Cô lắc đầu. “Tại nóng quá thôi… tôi không sao rồi.” Chiếc khung xe và ghi đông móp méo lập tức đập vào mắt cô.
Trong giây lát, cô bỗng tự hỏi tại sao cảnh sát lại sơn xe màu nâu đỏ, trước kia xe màu đen cơ mà.
Rồi cơn choáng váng cũng qua đi, đầu óc Dina dần tỉnh táo trở lại. “Xe gỉ hết cả rồi!” Cô kêu lên.
“Gỉ sạch!” Cậu trai gật đầu, đoạn lật chiếc thẻ ghi số hiệu và ngày tháng lên xem. “Thảo nào. Mười hai năm nằm trong phòng vật chứng, cửa sổ thì vỡ, trần thì dột. Dầu dãi suốt mười hai mùa mưa thì đến xương người cũng phải mục ấy chứ!”
Cơn náo động trong lòng khiến Dina nổi đóa với chàng trai nọ. “Các anh bảo quản vật chứng kiểu gì đấy? Nếu họ bắt được thủ phạm thật thì biết luận tội hắn trước tòa thế nào trong khi vật chứng đã hư hỏng đến mức này?”
“Tôi cũng đồng ý với cô. Nhưng cả tòa nhà đều bị dột. Đừng nói vật chứng, đến người còn ướt nữa là. Cả những hồ sơ quan trọng nữa, mực trôi hết. Chỉ mấy sếp lớn mới được ưu tiên phòng ốc khô ráo thôi.”
Lời phân trần của cậu trai phần nào xoa dịu được Dina. Cậu ta bèn dấn tới: “Cô biết không, có đận chúng tôi cất một bao bột mì vào kho. Có kẻ đã giết người chủ để cướp bao bột. Trên vỏ bao hẵng còn dính máu. Đến lúc vụ việc được đưa ra tòa, lũ chuột đã cắn thủng túi và chén gần hết số bột bên trong. Quan tòa đành phải giải tán vụ xét xử vì không đủ chứng cứ.” Kể xong, cậu ta ngập ngừng cười ồ lên, hi vọng cô sẽ thấy câu chuyện là hài hước.
“Thế mà cậu còn đùa được ư?” Dina giận dữ quát lên. “Tên giết người lại nhởn nhơ thoát tội. Công lý ở đâu, luật pháp ở đâu?”
“Đúng, đúng, thật kinh khủng!” Cậu ta đồng tình, rồi đưa cô tờ biên lai để kí. Xong xuôi, cậu ta cảm ơn cô và ra về.
Cô đọc bản sao tờ biên lai. Trên đó ghi rằng hồ sơ vụ việc đã được đóng lại và tài sản được hoàn trả lại người thân cận nhất của nạn nhân.
Dina không phải người mê tín. Song sự kiện chiếc xe đạp tái xuất hiện, liền sau vụ số phận của cây đàn vi-ô-lông, vượt quá sức chịu đựng của cô. Cô kết luận rằng trong đó ẩn chứa một thông điệp dành cho mình. Cô hoàn tất đơn hàng cuối cùng của Fredoon, một chiếc váy dự tiệc cho cô cháu gái, mang nó tới tận nhà, bắt tay anh, và nói cô không thể tiếp tục quan hệ với anh thêm nữa, vì cô sắp bỏ nghề may để đi lấy chồng.
Kể từ ngày đó, Dina không gặp lại Fredoon lần nào. Thậm chí để tránh chạm mặt anh ta, cô còn bỏ cả mấy mối khách trong cùng tòa nhà anh sống. Nguồn việc từ những khách hàng còn lại cũng đủ để nuôi sống cô.
Năm năm tròn trôi qua trong cảnh này. Và rồi, rất đúng ngày đúng giờ, lời tiên đoán của thím Shirin trở thành hiện thực. Sang tuổi bốn mươi hai, đôi mắt Dina bắt đầu trở chứng. Chỉ trong mười hai tháng, cô đã phải thay kính hai lần. Cặp mắt kính cô dùng giờ đã khá dày.
“Đừng hành mắt nữa, kẻo mù đấy!” Ông bác sĩ gắt lên. Đó là một người đàn ông nhỏ thó gầy gò. Ông có thói quen rất tức cười là hay giơ ngón tay chỉ trỏ tứ phía những lúc cần kiểm tra thị lực ngoại biên. Dina thấy giống hệt bọn trẻ con đuổi bắt bướm.
Thái độ cộc lốc bất thường của ông khiến cô phẫn nộ, và cũng lờ mờ sợ hãi. Cô không biết mình sẽ làm gì nếu không thêu thùa may vá được nữa.
Song số phận, với lộ trình của riêng nó, đã có sẵn giải pháp. Cô bạn Zenobia nói mình có biết bà giám đốc xuất khẩu của một công ty dệt may lớn. “Bà Gupta là khách quen của mình. Mình cũng hay giúp đỡ bà ta, thế nào bà ta cũng kiếm được cho cậu vài công việc nhẹ nhàng.”
Vào một buổi chiều trong tuần đó, tại Thẩm mĩ viện Venus, giữa tập hợp những mùi hương không lấy gì làm hòa thuận với nhau của hy-đrô pe-rô-xít và mấy thứ hóa chất làm đẹp khác, Dina ngồi chờ gặp bà Gupta, khi ấy đang ngồi yên vị dưới chiếc lồng sấy. “Cố chờ vài phút nữa thôi.” Zenobia thì thầm. “Mình vừa uốn cho bà ta một mái tóc bồng đẹp kinh khủng, chắc chắn bà ấy sẽ sướng lắm.”
Ngồi trên một chiếc ghế ngoài sảnh chờ, Dina ngắm Zenobia biến hóa mái tóc của bà giám đốc xuất khẩu lành nghề không thua gì một kiến trúc sư, thậm chí một nhà điêu khắc, và tạo ra hẳn một đại công trình. Trong khi công cuộc xây dựng được tiến hành, Dina nhìn xiên qua gương, tự mường tượng khối kết cấu ấy nom sẽ ra sao khi được đặt lên đầu mình.
Chẳng mấy chốc, giàn giáo kẹp tóc và lô cuốn được gỡ xuống một cách thận trọng, và kiểu tóc đã hoàn thiện. Hai người phụ nữ dắt nhau ra sảnh chờ. Mặt bà Gupta tươi như hoa.
“Đẹp quá!” Dina tự thấy cần phải khen một câu, sau khi màn chào hỏi đã xong xuôi.
“Ôi, cảm ơn cô,” bà giám đốc kêu lên. “Đều là nhờ công Zenobia cả, cô ấy mới thật tài năng. Tôi chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào thôi.”
Cả ba cùng cười, còn Zenobia khăng khăng kêu rằng mình chẳng có tài cán chi cả. “Do khuôn mặt chị Gupta thôi! Ấy, cứ nhìn đôi xương gò má, rồi những đường nét thanh tú mà xem, phải có mấy thứ đó thì kết quả mới tuyệt vời đến thế chứ!”
“Thôi, thôi! Em làm chị đỏ cả mặt rồi đây này!” Bà Gupta ré lên.
Mở đầu bằng hiệu quả thần kì của dầu gội và gôm xịt nhập khẩu, Zenobia lái dần cuộc trò chuyện sang ngành dệt may, lành nghề không thua gì cách cô quấn tóc. Bà Gupta rất lấy làm hãnh diện được kể lể về những thành tựu mình đạt được ở Công ty xuất khẩu Au Revoir.
“Chỉ trong một năm, chị đã giúp tăng doanh số lên gấp đôi,” bà kể. “Cả những thương hiệu uy tín trên khắp thế giới đều muốn đặt hàng chỗ chị.” Công ty của bà – bà luôn dùng sở hữu cách kiểu đó khi nói – đã bắt đầu cung cấp quần áo nữ cho các cửa tiệm ở Mỹ và Châu Âu. Công đoạn may ráp được thực hiện trong nước theo các chỉ dẫn nước ngoài, và được chia thành lô để thuê các xưởng may bên ngoài thực hiện.
“Làm kiểu này kinh tế hơn nhiều. Chứ mở hẳn nhà máy thì chỉ gặp một trận bãi công là đủ chết. Tránh voi chả xấu mặt nào, dây dưa với mấy thằng đầu gấu bên nghiệp đoàn làm gì cho khổ ra? Nhất là trong giai đoạn này, đất nước đang nhộn nhạo quá. Mấy ông lãnh đạo kiểu Jay Prakash Narayan chỉ xui dân làm loạn là giỏi. Đẻ ra biết bao nhiêu là rắc rối. Lão cứ tưởng mình là Mahatma Gandhi đệ nhị chắc?”
Nhờ Zenobia khéo tiến cử, bà Gupta đồng ý rằng Dina rất thích hợp để làm công việc này. “Đúng, em có thể thuê thợ về làm và giám sát họ, dễ không ấy mà. Chẳng việc gì phải cố quá mà nhọc thân.”
“Nhưng em chưa may mấy loại quần áo phức tạp hay những kiểu mốt mới bao giờ,” Dina thú thực, Zenobia lập tức nhăn mặt lườm bạn. “Em toàn may mấy món đơn giản thôi. Như váy trẻ con, đồng phục học sinh, pyjama.”
“Công việc này cũng đơn giản lắm,” bà Gupta trấn an. “Chỉ cần may theo mẫu in trên giấy thôi, dễ như ăn kẹo ấy mà.”
“Đúng đấy,” Zenobia xen vào, bực bội vì thái độ ngập ngừng của Dina. “Mà có phải bỏ thêm vốn liếng gì đâu, hai thợ may ngồi làm luôn ở căn phòng phía trong nhà cậu là vừa xinh.”
“Còn chủ nhà thì sao?” Dina phân vân. “Nếu biết mình mở xưởng ngay trong căn hộ, thế nào ông ấy cũng làm ầm lên.”
“Ông ấy cần gì phải biết,” Zenobia đáp gọn ơ. “Cứ lẳng lặng mà làm, đừng nói gì với hàng xóm láng giềng hay bất cứ ai khác.”
Thợ may sẽ phải tự mang máy đến, bà Gupta nói lệ thường phải thế. Và trả công theo sản phẩm sẽ hay hơn, vì nó tạo ra động lực kích thích người thợ; còn trả lương theo ngày chỉ tổ khuyến khích họ chây ì, ăn bớt thời giờ. “Phải luôn nhớ một điều,” bà nhấn mạnh. “Em là bà chủ, em phải quy định rõ luật lệ. Đừng bao giờ để mất quyền kiểm soát. Bọn thợ may suy nghĩ kì khôi lắm, chỉ làm việc với mấy cây kim bé tí thôi mà họ vênh váo như thể tay mang đại đao không bằng.” Dina xiêu lòng, và bắt tay vào tìm kiếm hai người thợ may, lùng sục khắp các hang cùng ngõ hẻm giữa lòng thành phố bẩn thỉu. Ngày nối ngày, cô bước vào những tòa nhà, cửa hiệu tồi tàn xập xệ, chông chênh như được dựng bằng những lá bài nhàu nát. Cô gặp đủ loại thợ may–người bó gối trên những gác xép chật hẹp, kẻ còng lưng trong mấy căn hộ chuồng cọp nom như những hang động ngầm dưới lòng đất, hoặc cắm cúi làm việc trong một ô nhỏ hôi hám có vách ngăn, hoặc ngồi bắt chân chữ ngũ ở ngay một góc phố–mỗi người đều đảm nhận một loại công việc, từ may ga bọc đệm đến lễ phục cho đám cưới.
Những người hăng hái muốn làm cho cô lại không đáp ứng nổi yêu cầu của công việc may xuất khẩu. Cô đã được tận mắt xem xét sản phẩm may của họ: cổ áo xộc xệch, diềm may không đều, tay áo cái dài cái ngắn. Những người lành nghề lại đòi mang hàng về nhà may. Song bà Gupta có đưa ra một điều kiện rất nghiêm ngặt: Quá trình may ráp phải được thực hiện dưới sự giám sát của người nhận hợp đồng thuê ngoài, vì các mẫu may của công ty Au Revoir là tối mật.
Cuối cùng, Dina đành ghi địa chỉ của mình lên những mẩu giấy nhỏ và để lại các cửa hàng hội đủ tiêu chuẩn về chất lượng. “Nếu anh chị biết người nào cũng thạo nghề như mình, lại đang cần việc, xin hãy giới thiệu đến chỗ tôi,” cô nói. Rất nhiều chủ tiệm vứt ngay tờ giấy khi cô vừa rời cửa hàng. Vài người khác lại cuộn chặt nó thành một que con con để ngoáy lỗ tai trước khi đem bỏ đi.
Trong khi đó, Zenobia đã lại nghĩ ra một phương án khác cho Dina: kiếm một người ở cùng. Chỉ cần sắp xếp một vài tiện nghi tối thiểu như giường, tủ, chỗ vệ sinh; còn về khoản ăn uống thì nấu nhiều thêm một chút so với khẩu phần hàng ngày là đủ.
“Ý cậu là khách ở trọ ấy hả?” Dina kêu lên. “Không đời nào! Cho thuê trọ rắc rối lắm. Mình vẫn còn nhớ vụ ở Firozsha Baag. Khổ thân mấy ông bà chủ nhà!”
“Cậu chỉ lo hão! Bọn mình có cho mấy tên lưu manh hay bọn dở hơi vào trọ đâu! Cứ nghĩ mà xem, mỗi tháng cậu sẽ thu được một khoản cứng đấy!”
“Thôi, cho mình xin, mình không dám liều đâu. Mình nghe nói đã có nhiều ông bà già và phụ nữ độc thân bị quấy rối lắm rồi.”
Nhưng khi món tiền tiết kiệm còm cõi teo tóp dần, Dina đành nhượng bộ. Zenobia quả quyết với cô rằng họ sẽ chỉ nhận những người đáng tin cậy, tốt nhất là ai đó đã có nhà ở nơi khác, nhưng bận công chuyện phải lên thành phố sống một thời gian. “Cậu lo tìm thợ may đi,” cô nói. “Mình sẽ tìm khách trọ.”
Thế là Dina tiếp tục đi rải tên và địa chỉ của mình ở khắp các tiệm may. Cô đi xa hơn, bắt tàu hỏa ra tận những vùng ngoại ô phía bắc, đến những khu vực của thành phố mà cô chưa từng nhìn thấy bao giờ trong suốt bốn mươi hai năm cuộc đời mình. Hành trình của cô thường xuyên bị gián đoạn bởi những lúc giao thông tê liệt vì các cuộc tuần hành và biểu tình chống chính phủ. Thỉnh thoảng, ngồi trên tầng hai của chiếc xe buýt, cô có cơ hội ngắm toàn cảnh đám đông hỗn độn bên dưới. Những băng rôn và khẩu hiệu ghi đầy các dòng chữ buộc tội thủ tướng lãnh đạo kém và tham nhũng, đòi bà phải từ chức, thể theo phán quyết của tòa án rằng bà đã gian lận trong cuộc bầu cử.
Nếu thủ tướng chịu từ nhiệm thì sao, thế thì ích gì? Dina thầm nghĩ.
Một tối nọ, trong khi con tàu dừng bánh để chờ đèn tín hiệu, cô đưa mắt nhìn ra ngoài hàng rào đường sắt. Ở đó, một dòng nước đen ngòm đang trào lên từ một ống cống ngầm. Mấy người đàn ông ra sức kéo một sợi dây mất hút dưới lòng đất. Tay người nào người nấy lấm bê bết đến tận khuỷu, nước bùn đen kịt nhỏ xuống tong tỏng từ bàn tay họ và cả sợi dây. Trong khu nhà ổ chuột sau lưng họ, ánh lửa của những bếp nấu ăn ngoài trời sáng lập lòe, khói vẩn đen trời. Những người thợ đang cố thông tắc cho ống cống tràn.
Rồi một thằng bé trồi lên khỏi mặt đất, hai tay bám chặt đầu sợi dây. Từ đầu đến chân nó nhúng đẫm trong bùn cống nhầy nhụa, và khi đứng thẳng lên, toàn thân nó lấp lánh rực rỡ dưới ánh mặt trời, một vẻ đẹp rùng rợn. Được hồ cứng bởi nước phân rác, mái tóc thằng bé dựng ngược trên đầu, nom hệt như một chiếc vương miện lửa đen đặc. Sau lưng nó, làn khói cuồn cuộn bốc lên trời cao, hoàn chỉnh bức tranh tăm tối.
Dina nhìn đăm đăm, rùng mình, điếng lặng trước sự xuất hiện của thằng bé. Cô bịt mũi để khỏi ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc cho đến khi tàu chạy xa hẳn khu vực này. Song hình ảnh về thế giới dưới lòng đất vẫn còn ám ảnh cô suốt ngày hôm đó, và nhiều ngày sau.
Những chuyến đi dài mệt mỏi, những quang cảnh tiêu điều khiến Dina kiệt quệ. Tinh thần cô trở nên rệu rã hơn bao giờ hết. Chỉ cần nhìn mắt cô, Zenobia cũng đủ hiểu. “Làm sao mà mặt mũi ủ ê thế kia?” Cô nói, đoạn đưa tay véo đùa má bạn.
“Tớ mệt mỏi lắm rồi. Tớ không cố được nữa đâu.”
“Cậu không được bỏ cuộc. Đây này, rất nhiều người đã liên hệ với mình để xin thuê trọ. Trong đó có cả con trai của Aban Kohlah nữa đấy. Cậu còn nhớ cô ấy không? Hồi xưa cô ấy học cùng trường với bọn mình mà. Cô ấy viết thư cho tớ, bảo là thằng bé Maneck ghét ở kí túc xá lắm, nó đang đòi chuyển ra ngoài. Mình muốn chắc chắn rằng chúng ta kiếm được người tốt.”
Dina không bỏ chữ nào vào tai, lại nói tiếp: “Mua bao nhiêu vé tàu như thế chỉ tốn tiền.” Cô chỉ mong bạn đồng ý cho mình chấm dứt những hành trình giày vò tâm hồn kia.
“Nhưng thử nghĩ mà xem, đến khi tìm được hai thợ may rồi, cuộc sống của cậu sẽ dễ thở hơn biết bao nhiêu! Chẳng lẽ cậu muốn từ bỏ tự do để về sống cùng Nusswan hay sao?”
“Thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa!” Viễn cảnh đó thuyết phục cô tiếp tục để lại địa chỉ của mình ở những tiệm may khác. Cô thấy mình giống hệt mấy đứa trẻ trong một câu chuyện cổ tích mà cô đã quên mất tên, miệt mài rắc vụn bánh mì trên đường mình đi qua với hi vọng sẽ có người đến cứu. Song lũ chim đã chén sạch chỗ bánh mì. Cô tự hỏi, liệu mình có được cứu không, hay vệt chỉ đường bằng giấy của cô lại bị xơi tái bởi những cơn gió, bởi dòng nước cống đen ngòm, bởi đội quân đồng nát đói khát đang càn quét khắp các đường phố với những chiếc bao tải trên tay?
Mệt mỏi và chán nản, cô rẽ vào một con ngõ nhỏ. Giữa ngõ là một rãnh chứa nước thải. Cuộng và lá rau, đầu lọc thuốc lá, vỏ trứng nổi bập bềnh trên mặt nước. Đi xa hơn một chút, con ngõ thắt nút cổ chai và hầu như biến thành một con lạch. Mấy đứa trẻ đang chơi trò thả thuyền giấy trên rãnh. Chúng nô nức đuổi theo những con thuyền trôi xuôi dòng nước lờ đờ. Mấy tấm ván được bắc ngang rãnh, tạo thành lối vào các cửa hiệu và ngôi nhà. Mỗi khi một con thuyền mất hút dưới một tấm ván rồi trồi ra bình yên vô sự ở đầu bên kia, bọn trẻ lại vỗ tay rầm rĩ.
Dina bỗng nghe thấy tiếng lạch xạch quen thuộc của máy khâu vọng ra từ cửa một ngôi nhà. Đây sẽ là tiệm may cuối cùng của ngày hôm nay, cô tự nhủ, chân hăng hái bước lên ván, sau đó cô sẽ về nhà.
Đi được nửa đường, bàn chân cô giẫm trúng một khoảng ván mục. Một tiếng thét ngắn ngủi bật ra khỏi miệng cô, cô lấy lại được thăng bằng, song một chiếc giày đã rơi mất. Mấy đứa trẻ lập tức lội xuống rãnh, mồm hò hét, tay sục xuống dòng nước đen kịt, tranh nhau mò chiếc giày.
Cuối cùng cô cũng bước xuống trước cửa tiệm may và lấy lại được chiếc giày ướt sũng. Cô cho thằng bé con đang cười toe toét một đồng hai nhăm xu. Tiếng máy khâu đã dừng bặt, còn người vận hành nó đang đứng trên bậu cửa. Chính những tiếng ồn ào đã kéo ông ta ra đây.
Ông ta quát: “Ranh con, chúng bay lại bày trò gì đấy?”
“Chúng đang giúp tôi đấy chứ!” Dina vội phân bua. “Tôi đang vào cửa hiệu của ông thì bị rơi mất chiếc giày.”
“Ô,” ông ta lầm bầm, có vẻ hơi chưng hửng. “Cái chính là, bọn này hay bày trò nghịch ngợm lắm cơ!” Rồi sực nhận ra một khách hàng tiềm năng đang đứng trước mặt, ông ta vội đổi giọng: “Mời cô vào, xin mời.”
Đề nghị tìm thợ may của cô mau chóng làm ông ta cụt hứng. Ông ta đáp lại bằng giọng thờ ơ: “Rồi, để tôi thử tìm xem,” và quay sang mân mê chiếc thước dây trong khi cô viết tên và địa chỉ của mình vào một tờ giấy.
Đột nhiên, mặt ông ta tươi rói. “Cái chính là, cô đến đúng chỗ rồi đấy! Tôi có hai thợ may rất giỏi. Ngày mai tôi sẽ bảo họ đến chỗ cô.”
“Thật ư?” Cô hỏi lại, trong bụng chưa hết nghi ngờ vì sự thay đổi thái độ đột ngột này.
“Thật chứ lị, hai thợ giỏi luôn, nếu không thì tên tôi chẳng phải Nawaz nữa. Cái chính là, họ không có cửa hiệu riêng, cứ phải đi làm thuê khắp nơi. Nhưng đều là dân thạo việc cả. Thế nào cô cũng hài lòng.”
“Được, vậy ngày mai tôi sẽ gặp họ.” Cô ra về, không hề nuôi chút kì vọng nào. Cô đã nhận được không ít lời hứa hão trong mấy tuần vừa qua.
Về đến nhà, cô rửa chân và giặt sạch đôi giày, không khỏi phát ốm khi nghĩ đến con ngõ nhỏ có mấy đứa trẻ chơi trò thả thuyền giấy. Ông thợ may kia cứ việc hứa hẹn, Zenobia cứ việc quả quyết rằng khách trọ sắp đến, rằng con trai của người bạn học cùng trường với họ hồi xưa, Maneck Kohlah, có thể sẽ ghé qua bất kì lúc nào để xem xét phòng ốc; hi vọng của cô sẽ chẳng vì thế mà được nhen lên.
Và vì vậy, vào buổi sáng hôm sau, khi chuông cửa reo, Dina đã chào đón bước ngoặt của đời mình bằng đôi tay rộng mở. Người khách trọ đã đứng kia, ngay trước cửa nhà cô, cùng thành quả từ mảnh giấy để lại ngày hôm qua: hai người thợ may tên Ishvar và Omprakash Darji.
Nói như cách của Zenobia là, bộ ba bù xù đã mò đến cùng một lúc.
Cân Bằng Mong Manh Cân Bằng Mong Manh - Rohinton Mistry Cân Bằng Mong Manh