Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:42:40 +0700
10 Cành Hoa Chuối Nước
C
ũng may! Sau khi tôi đưa cho Bảy Cảnh xem những bài soạn để dạy anh chị em B195, không bị Bảy Cảnh kết án về một sai lầm đường lối, chính sách nào. Tuy nhiên, ở những chi tiết lặt vặt thì Bảy Cảnh phê bình hàng chục điểm. Vậy cũng là may! Ngoài ra Bảy Cảnh còn chỉ thị, «lên lớp» tôi một số vấn đề khác về học và dạy thế nào cho đúng lập trường giai cấp.
Tôi như một cậu học trò nhỏ, chỉ biết vâng để hả dạ «người trên».
Buổi trưa, Bảy Cảnh đi rồi, sau giờ dạy theo lệ thường, tôi vác rựa lên vai mon men theo anh chị em ra rẫy.
Suốt mấy tháng nay gần như chúng tôi chỉ tập trung vào việc phá rừng, đốn cây, mở rộng thêm diện tích rẫy để trồng khoai mì theo lệnh Đảng uỷ U.50. Cây rừng ngã ngổn ngang nằm chồng lên nhau trơ cành dưới nắng.
Việc phá rừng làm rẫy, đầu tiên là đốn ngã những cây to bằng bắp vế trở lên. Kế đó là chờ cho nắng khô, châm lửa đốt. Lửa sẽ «dọn dẹp» cành lá trống trải. Chẳng những vậy tro của nó còn là thành phần rất tốt để bón đất thêm màu mỡ. Qua giai đoạn đó mới bước vào giai đoạn dọn dẹp, xới đất, trồng tỉa thật sự.
Cây đã khô rồi. Chiều nay chúng tôi bắt đầu châm lửa đốt. Để phòng việc cháy lan, chúng tôi phân chia mỗi người một góc giữ lửa. Không biết đêm nay chúng tôi được ngủ ở nhà hay ngủ tại đây? Lửa chưa tàn, không thể bỏ về nhà được. Mặt khác, canh lửa dưới gió chúng tôi còn đón bắt những con kỳ đà, rùa, và những thú nhỏ bị lửa đuổi, khói làm mờ mắt đâm đầu chạy ra.
Tôi đi dọc theo suối, vòng về hướng Đông. Những đám cháy nhỏ bùng lên ở phía Tây. Khói bốc cao, toả rộng cả một vùng trắng xóa. Tiếng nổ lốp bốp không ngừng. Dù vậy, nếu trời không nổi gió lớn, chắc gì ba tiếng đồng hồ nữa lửa đã đến đây. Và lửa chưa cháy đến thì thú rừng cũng chưa con nào rời chỗ núp.
Nghĩ vậy nên tôi ngồi dựa lưng vào gốc bằng lăng to, nhìn sang đám rẫy cũ trồng hoa màu bên kia suối. Nắng nổi sao, lấp loáng trên đám chuối nước trồng thành hàng. Những chiếc hoa chuối nước đỏ thẫm, lốm đốm trắng, vàng rực rỡ chen lẫn với nhau, đong đưa theo cơn gió nhẹ vờn qua.
Cái tên chuối nước, khi đến đây tôi mới được nghe. Và tôi cũng không ngờ loại cây đó có củ ăn được. Ở quê hương tôi, Mỹ Tho hay các tỉnh miền Trung Nam bộ người ta không gọi nó là cây chuối nước mà gọi là cây ngãi bông.
Mọi người không trồng nó để lấy củ, vì không ai nghĩ củ nó ăn được. Vì dù có biết chăng nữa, cũng không ai ăn. Không ai có đủ hứng thú để ăn chơi một thứ củ nhạt nhẽo, chả mùi vị gì, dòn dòn, ngây ngấy chẳng khác gì củ chuối trồng ăn trái.
Hai ba chục nhà, hoạ chăng có một nhà trồng chơi, hoặc theo các nền mộ, hoặc theo những bờ mương gần nhà, năm ba bụi làm cảnh, nhìn màu hoa sặc sỡ của nó cho vui mắt. Hiềm một nỗi nó chóng tàn. Nở buổi sáng, buổi chiều đã héo đi. Ở quê hương tôi thì vậy. Nhưng ở đây người ta gọi là chuối nước. Người ta trồng nó để lấy củ như trồng khoai môn.
Cả một vùng trời quang đãng với những chòm mây trắng trôi ngang trước mắt tôi, bên kia rẫy. Điểm vào đó những cây khô cháy xém từng mảng đen, lơ thơ, đứng cao vời vợi giữa rẫy y như những bộ xương khô, gầy, lêu nghêu ở cơ thể học viện dạo nào.
Tôi ngồi thơ thẩn một mình, nhớ Sài Gòn, nhớ Vĩnh Kim, nhớ những món quen thuộc cũ. Tiếng lửa cháy nổ lép bép, tiếng anh chị em gọi nhau ơi ới từ xa vọng lại tôi nghe như một điệu buồn, lạc lõng nao nao.
Chợt một làn gió nhẹ đi qua, tôi rùng mình, nổi ốc, nghe lạnh toàn thân. Và trong người thấy khó chịu lạ. Lại sốt rét đây rồi. Rõ ràng những triệu chứng báo trước của một cơn sốt rét sắp đến. Những triệu chứng này đối với tôi không còn lạ nữa, quen thuộc thường ngày.
Tôi quăng rựa, đi bẻ lá trải dưới gốc bằng lăng. Tôi lười không muốn đi vào nhà, chỉ muốn nằm ở đây. Hết cơn sốt thì vào, có muộn màng gì. Kinh nghiệm cho biết, bất quá chỉ ớn ớn sốt một lúc rồi thôi. Cơn sốt đầu tiên bao giờ cũng nặng, nhưng khi trở thành sốt rét kinh niên, trong cơ thể, trong máu lúc nào cũng dẫy đầy vi trùng Falciparum thì cơn sốt của nó chỉ là một trạng thái ớn ớn, lành lạnh, khó chịu một lúc, sau đó trở lại trạng thái bình thường. Nó không run động giường động chiếu, cũng không nóng như một lò lửa, đầu nhức như búa bổ, nằm liệt mê man. Sốt rét kinh niên nó thế đấy.
Tôi nằm xuống đống lá, gối đầu trên rễ cây bằng lăng, co người lại cho bớt lạnh. Và nhắm mắt lại, tôi đi vào giấc ngủ chập chờn. Tôi nằm không biết bao lâu, cho đến khi giật mình tỉnh dậy tôi nghe có tiếng chân người dẫm trên lá khô sột soạt từ xa đưa lại lẫn với tiếng gọi của Hiền:
- Anh Tư ơi! Anh Tư!... Anh Tư ơi! Anh đâu rồi?
Tôi phải cố gắng lắm mới đủ sức đáp cho Hiền nghe thấy:
- Hiền hả? Anh đây!
- Anh làm gì đó? Anh làm em kiếm thấy mồ. Chạy tới chạy lui nảy giờ, kêu hụt hơi mà không biết anh ở đâu.
Hiền vui vẻ bước đến. Tiếng nàng oang oang:
- Sướng cho anh chưa! Anh đi canh lửa mà kiếm chỗ nằm ngủ vầy, sướng chưa!..Ủa...
Hiền sà xuống, ngồi kế bên tôi đánh phịch một cái. Giọng nàng thấp, bối rối:
- Ủa? Anh sao vậy, anh Tư? Anh sốt mà!
Mắt tôi vẫn nhắm nghiền:
- Ừ! Sốt nhẹ thôi!
Một bàn tay mát rượi để lên trán tôi:
- Chết! Trán anh nóng quá nè. Anh sốt sao anh không ở nhà nghỉ, ra đây chi, khổ chưa!
Tôi nhếch miệng cười cho Hiền yên lòng:
- Chả sao, Hiền ạ! Sốt mãi nó cũng quen rồi! Anh nằm nghỉ một chút là bình thường ngay.
Mắt Hiền long lanh:
- Em mới gặp một ổ gà rừng, lượm được bảy trứng nè! Em đem về cho anh! Em tìm mãi... ai dè anh bị sốt nằm ở đây. Anh! Em dìu anh vào nhà nằm nghe anh! Em năn nỉ anh mà... Anh nghe em... Em lo lắm.
- Đỡ rồi, Hiền. Em đừng lo. Năm phút nữa là anh có thể đứng dậy, làm việc bình thường.
- Đừng! Anh đừng giấu em... em biết mà...
Tự dưng hai dòng nước mắt trong khóe trào ra. Tôi khóc. Nhưng tôi không đủ sức để hiểu vì sao tôi khóc nữa.
Hiền ôm lấy đầu tôi, áp má vào. Giọng nàng nghẹn ngào, thì thầm:
- Sao anh khóc? Anh buồn lắm phải không anh?
- Không! Anh không buồn gì đâu!
Hiền kéo khăn lau nước mắt cho tôi, âu yếm như người vợ trẻ:
- Tội nghiệp anh! Anh... anh gối đầu lên đây nè! Rễ cây đau đầu anh lắm nghe anh.
Tôi lặng lẽ để mặc Hiền nâng đầu tôi dậy, đặt lên đùi nàng. Hiền lấy chiếc khăn rằn quấn cổ, tháo ra, phủ kín từ ngực đến chân tôi. Tôi cảm động khôn cùng. Trong một phút cơn sốt dường như biến mất. Tôi nhắm mắt buông trôi...
Tôi nằm yên như thế rất lâu, chấp nhận và thụ hưởng những rung cảm kỳ diệu của tình yêu chợt đến bất ngờ. Nó hiện đến như một ánh chớp, đột ngột, tuyệt vời. Tôi thực không ngờ nó đến đột ngột như vậy. Cho nên bấy lâu nay tôi cố gắng áp chế lấy mình mỗi khi nó len lén hiện đến, gây những rung cảm ngây ngất giữa lòng tôi...
Bây giờ, tôi biết tôi ngã rồi. Không gượng lại được nữa. Ngã trong vòng tay êm ái, ngã lên chiếc nệm thần của tình yêu, bay bổng giữa khung trời rạng rỡ đầy hào quang chói lọi và những vì sao sáng của yêu thương.
Tôi vít chặt lấy đầu Hiền kéo xuống... làn môi nóng tan đi. Cả hai đều ngừng tiếng thở:
- Anh ơi, em đưa anh về nhé?
- Thôi, em! Anh hết sốt rồi. Hết lạnh rồi!
- Anh nghe lời em đi mà! Anh còn đang sốt, phải vào nhà nằm nghỉ. Nằm ngoài rừng thế này nguy hiểm lắm. Nếu anh mệnh hệ nào... em sống sao nổi. Đời chúng mình nhiều cay đắng, thua thiệt. Giờ em chỉ còn anh. Mình bám vào nhau, tựa vào nhau mà sống để vượt qua những ngày đen tối nhất của đời mình. Phải không anh?
- Ừ, anh nghe lời em. Nhưng chút nữa đã! Mắt anh còn hoa, chưa đi vững đâu.
Hiền thay đổi tư thế. Nàng xoay người ngã nằm song song với tôi. Nàng luồn tay làm gối. Đầu tôi trên tay nàng. Nàng ấp lấy tôi, chuyền hơi ấm cho tôi:
- Lâu nay, em thấy anh kỳ kỳ. Dường như hờ hững, lạnh lùng, lẩn tránh em. Sao vậy anh? Anh khinh em phải không?
- Em đừng nói khùng, Hiền. Lẩn tránh em, điều đó có nhưng anh lẩn tránh là vì anh thương em. Anh không nở, không muốn đưa em vào những đau khổ phiền muộn của đời anh. Anh sợ chuyện đó làm cho không những anh mà cả em nữa bị người ta trù, người ta nhận xét thế này thế nọ rồi không còn cơ hội nào tốt người ta dành cho mình để mình có thể sổ lồng.
- Còn em? Anh tưởng em vui lắm sao? Em đã đến cái độ liều như anh biết. Em thù hận mọi người, ghét hết mọi người. Nhiều đêm em thao thức khóc một mình. Em thấy bơ vơ, trơ trọi với cái thế giới mà em tưởng chừng có mỗi mình em.
- Cái khổ của mình là thế đấy Hiền ạ! Trót lỡ cắp sắp đến trường, trót lỡ đọc nhiều sách. Trót lỡ có một cái vốn con con. Cho nên vào đây, vào trong cái thế giới được mệnh danh là cách mạng này mình mới chịu đau khổ hơn ai hết.
Hiền bứt một cọng cỏ đưa lên miệng nhai nhai. Mắt nhìn không chớp vòm lá xanh của núi rừng phủ kín:
- Như anh, anh còn biết thế giới này nó ra sao. Anh đi vì bị bắt buộc, không thể làm khác hơn được. Không nói làm gì. Đàng này, em... thiệt khờ quá nên mắc lỡm. Cái sôi nổi vụng dại của tuổi học trò nó hại em...
- Thôi em, bỏ những chuyện đó đi. Ngần ấy cũng đủ rồi. Có nói cho lắm, than phiền trách móc gì cũng chuyện đã rồi. Tương lai mới là chuyện đáng nói, đáng lo.
Hiên như nói trong mơ:
- Nhưng làm sao bây giờ? Mình đâu làm gì được!
- Được chứ! Thoát ra khỏi thế giới này về Sài Gòn đâu phải chuyện khó. Chỉ sợ mình không quyết tâm. Không kiên nhẫn. Chứ nếu có quyết tâm, có kiên nhẫn thì thế nào cũng có cơ hội. Đâu phải mình bị nhốt ở đây suốt đời. Lo gì em!
Cơn sốt đã lui thật sự. Tôi không hiểu nó lui vì phép màu của tình yêu chợt đến hay vì cơ thể tôi đã quen với sốt như một trò đùa trong chốc lát.
Tôi ngồi lên. Lưng dựa vào gốc bằng lăng. Hàng hoa chuối nước nghiêng nghiêng cười chợt với gió chiều. Hiền tựa vào vai tôi. Tóc nàng vương lên má tôi. Một mùi thơm quyến rũ của da thịt thoáng qua, tôi nghe mình như bay bổng.
Và tình yêu đến với tôi hôm nay cũng là một chua xót nghẹn ngào. Yêu nhau trong hoàn cảnh này thì hạnh phúc nghe xa vời vợi, vượt khỏi tầm tay. Niềm vui lẫn với phiền muộn, sợ hãi, sum họp ám ảnh bởi chia ly. Nhiều... nhiều lắm.
Tự dưng tôi nhớ đến những chuyện tình buồn đã đọc qua trong văn chương sách vở. Tôi buột miệng hỏi Hiền:
- Em thấy hàng hoa chuối nước bên kia suối không Hiền?
- Thấy! Sao anh?
- Hoa đẹp chứ?
- Đẹp ghê! Đẹp nhưng không hương. Giống hoa Glaïeul nhưng nó to gấp mười lần.
- Không! Khác! Glaïeul chỉ tuyền một màu. Đàng này nó đỏ thẫm, điểm đốm vàng rồi những vệt trắng. Cây chuối nước đã dòn hoa nó càng dòn hơn, dễ vỡ hơn. Đẹp thật nhưng chóng tàn lắm, nở hôm trước hôm sau héo rủ rồi!
- Tiếc ghê, hén anh!
- Em còn nhớ bài thơ «Hai sắc hoa ti-gôn» của T.T.Kh không?
Hiền đột ngột nhổm dậy như bị điện giật, quay mặt lại nhìn vào mắt tôi. Đôi mắt xoe tròn:
- Ơ!.. Anh?
Tôi kéo nàng ngã về tư thế cũ:
- Gì mà em ngạc nhiên vậy? Anh hỏi em có nhớ bài thơ «Hai sắc hoa ti-gôn» của T.T.KH không mà!
- Sao mà không nhớ! Tại sao anh hỏi?
- Anh thấy hàng hoa chuối nước...
- Ơ! Anh! Chuyện của chúng mình hoàn toàn khác hẳn chuyện của tác giả «Hai sắc hoa ti-gôn». Mình chả sum họp, chả nắm trong tay hạnh phúc đây sao? Em đang nằm trong lòng anh đây mà! Làm gì giống được? Anh nói vậy em chẳng chịu đâu. Em khóc cho coi. Em đền anh đó.
Tôi không thể nào nén nỗi chút ngậm ngùi:
- Dĩ nhiên là khác, hoàn toàn khác nhưng... em nên nhìn vào thực tại hoàn cảnh của chúng mình. Liệu mình còn sum họp mãi, không đau thương...
Hiền lặng yên, không trả lời. Nàng bóp mạnh lấy tay tôi. Tôi hiểu lắm. Yêu nhau ư? Tôi thì không đáng kể, bởi tôi là con trai, tôi quen chịu đựng như khối thép đã trui qua nhiều lửa. Còn Hiền, Hiền sẽ phải khổ nhiều, vất vả nhiều.
Như nàng đã nói, nàng đã chịu nhiều thua thiệt, hối tiếc, bơ vơ, giờ đây bước thêm vào con đường tình ái nàng sẽ còn thua thiệt nhiều hơn nữa. Nàng sẽ hối tiếc đến mức tận cùng, chơi vơi trong bể thẳm cô đơn với muôn nghìn vạn ức từng cay đắng.
Thế giới này, khung trời này đâu phải thế giới của tình ái, khung trời của yêu thương. Khoan nói đến yêu thương, sanh mạng của chúng tôi đang nằm trong bàn tay to lớn của người ta mà. Người ta muốn bóp méo vo tròn thế nào chả được. Quyền yêu thương đâu phải do Hiền, do tôi. Đang sum họp đó, bỗng chốc chia ly đó, có khó chi đâu?
Hậu quả của nó là một cái gì hãi hùng... Tôi thương Hiền quá. Thân hình mảnh mai của Hiền, trái tim nhỏ bé của Hiền, chịu sao nổi những phũ phàng của định mệnh? Đôi mắt nhung kia, đôi môi bé nhỏ hồng hồng chín mọng kia, gương mặt trái xoan đẹp một cách kiêu kỳ kia, làn tóc mây hoe vàng vì nắng gió của núi rừng kia, vốn nhiều đau khổ rồi... Tôi, thấy tim tôi đau buốt.
Tôi thì thầm:
- Hiền ơi!
- Dạ!
Tiếng nàng nhẹ như hơi gió thoảng. Đồng thời trên lưng bàn tay tôi một giọt nước mắt nóng hổi của nàng vừa rơi.
- Sao em khóc? Tôi lo lắng hỏi.
Giọng nói của nàng xa xăm như từ một nơi nào vọng lại:
- Không! Đâu có gì, anh!
- Đừng giấu anh. Tay anh còn ướt nước mắt em nè!
- Không.
Như em thấy đó yêu là phiền muộn, là đau khổ đến cho em. Anh là con trai. Anh đã từng chịu cay đắng, phũ phàng, quen rồi! Còn em, anh chỉ lo cho em. Em biết ước nguyện của mình là một việc. Tâm tình mình là một việc. Còn kết quả của nó là một việc khác. Mình đâu có chút quyền gì, dù đó chỉ là chuyện cá nhân mình, riêng tư của mình. Phải không em?
Hiền đưa tay bịt lấy miệng tôi, không trả lời. Tôi gỡ tay nàng ra:
- Biết đâu ngày mai, ngày mốt, người ta thuyên chuyển đưa anh đi đến một nơi xa xôi nào đó. Em cũng vậy. Mình làm sao cưỡng lại được? Rồi, có một cơ hội bất ngờ nào đó, anh trốn thoát khỏi nơi đây. Chừng nào cơ hội đó đến, đâu làm sao mình biết được. Cũng có thể là một ngày gần đây. Cũng có thể là không bao giờ có. Biết đâu anh gặp tai nạn, hay em chẳng hạn. Một trong hai đứa, có đứa không còn sống. Em thấy nó đau đớn, khổ sở đến ngần nào? Em sợ sự thật sao? Em sợ nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cái gì phải đến sẽ đến. Trong hoàn cảnh như vậy, em nghĩ anh còn lòng dạ nào... nở lòng nào đưa em vào sâu thêm trong cái khổ.
- Anh! Đừng anh! Anh đừng nói kỳ cục vậy!
- Anh xin chịu tội với em. Đấy! Đấy là nguyên cớ vì sao anh cố tình lẩn tránh em. Anh sợ tình yêu mà em mang tới cho anh. Mình khổ nhiều rồi mà, Hiền!
Đột nhiên Hiền cười:
- Anh bi quan quá. Em phê bình anh đó.
Tôi cũng mỉm cười:
- Anh nhận. Nhưng em nghĩ xem, anh không bi quan chút nào. Trái lại là đằng khác. Thương em, nghĩ đến em, buộc lòng anh phải nói cho em biết những gì xấu nhất có thể đến cho em. Chứ hy vọng, không tin tưởng ở ngày mai đẹp hơn, vui hơn thì làm gì còn sống đến hôm nay, Hiền?
- Em cũng suy nghĩ kỹ rồi! Em không hối tiếc gì hết khi yêu anh. Em cũng đâu phải là con người đầu hàng định mệnh một cách dễ dàng. Như anh, em cũng biết kiên nhẫn đợi chờ. Con đường tăm tối này đâu thể giữ nổi em. Mình giống nhau đó, anh. Em không bao giờ sợ mất anh, sợ anh bỏ em, sợ chúng mình xa cách, sợ những rắc rối, khó khăn do người ta gây ra cho mình. Em tin một cách chắc chắn rằng, dù có xấu đến thế nào đi nữa, cuối cùng mình cũng sum họp ở Sài Gòn. Mình sống với nhau hạnh phúc... Tất cả mọi cái xảy đến ở đây chỉ là tạm thời.
Tôi siết mạnh Hiền trong vòng tay:
- Đây là Đồng Nai Thượng, cách xa đồng bằng vời vợi ngàn trùng. Cái dịp may được đi đồng bằng, hy vọng thoát về Sài Gòn còn là một việc xa vời, chưa biết bao giờ mới đến.
- Nữa! Em nói thôi, mà!
- Anh nói không phải sao?
- Hông!
- Đâu phải mình muốn đi đâu thì đi. Mình hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyết định của người ta. Chung quanh mình còn có những sự kiểm soát gắt gao...
Hiền dẫy nẩy lên:
- Nữa! Nữa! Em nói thôi mà! Em hổng thèm sợ gì hết. Hổng thèm quan tâm gì hết. Em tin tuyệt đối vào niềm tin của em. Con người có số chứ anh! Nếu trời bắt mình như thế nào mình phải chịu thế ấy. Em biết trời thương tụi mình lắm.
- Em liều...
- Ừ, em liều đó!
- Từ nay, giữa hai đứa mình thì sao? Có nên tuyên bố cho tập thể biết? Chứ mình không giấu được ai đâu.
- Thì... thì... mình cứ tự nhiên như bình thường. Chừng nào B2 họ biết hãy hay.
- Nghĩa là mình sống như từ trước đến giờ?
- Không phải như vậy! Như vậy em không chịu đâu!
- Nghĩa là sao, anh chưa hiểu ý em?
Hiền quay lại nhìn tôi:
- Anh có khinh em không?
- Không! Em đừng nói khùng. Sao lại khinh. Đã khinh thì không yêu, mà yêu thì anh và em là một. Khinh em hoá ra anh khinh anh rồi.
- Em biết anh sẽ không khinh em cũng như không bao giờ hiểu lầm em trong quyết định này. Quyết định này em xem là một sáng kiến táo bạo hiện lên giữa đầu em kể từ hai tháng nay.
- Em nói anh nghe. Mình cứ nhùng nhằng... thế này mãi, chị em người ta gặp nó xấu hổ lắm.
Hiền đưa ngón tay trỏ vào mặt tôi, lêu lêu:
- Vậy là anh còn dở hơn em. Em yêu là em không sợ gì hết. Không việc gì phải dấu diếm ai hết.
Tôi chống chế:
- Không phải mình sợ họ biết, mà sợ chúng mình bị người ta đem ra kiểm thảo bắt phải xa nhau ngay.
- Để em trả lời câu hỏi anh đã. Em nói cái sáng kiến của em ra thì anh hiểu tại sao em không sợ và tìm thấy cách giải quyết ổn thoả ngay. Em nói cứ tự nhiên như bình thường nghĩa là không còn phải quan tâm gì hết. Còn hơn thế nữa. Em còn muốn... muốn em có thai với anh kia. Càng sớm chừng nào càng tốt chừng đó!
Tôi ngạc nhiên tột độ, nhìn Hiền trân trân buột miệng:
- Trời ơi! Em có điên không hả Hiền?
Hiền gọi tôi khe khẽ:
- Anh! Anh ngạc nhiên lắm sao? Anh cho là em điên sao?
- Trong hoàn cảnh khổ sở như thế này mà em mong có thai sớm? Lấy gì nuôi con? Rồi có con mong gì ai cho em đi đâu ra khỏi căn cứ để có dịp thoát về Sài Gòn. Và dù có dịp đi nữa, con cái thế kia làm sao em đi thoát được? Anh nói đúng chứ?
Hiền cười khúc khích:
- Anh của em nói chả đúng tí nào!
- Em nói lạ?
- Này nhé! Nếu anh bảo có con sớm thì em sẽ chật vật, khổ sở vì con nó thiếu thốn, khổ sở như em. Đói khát vân vân... Điều đó chỉ đúng một phần nhỏ xíu thôi! Còn anh bảo có con nó bận bịu đùm đề, không ai cho đi công tác xuống đồng bằng như đi tải gạo, thực phẩm chẳng hạn, không có dịp trốn về Sài Gòn là không đúng...
- Lạ thiệt em nói lạ lắm. Đấy là chưa kể mình còn bị cảnh cáo, bị này nọ...
Hiền ngắt lời tôi:
- Anh biết, ở Khu A này việc được nghỉ phép đi xuống đồng bằng để liên lạc gia đình là khó khăn. Có người đi bốn năm nay không hề được phép một lần nào. Nhưng cách đây ba tháng, ở C104 (một trăm linh tư) có chị Mai, vì có con nhỏ trở ngại công tác rất nhiều nên chuyện làm đơn xin Đảng uỷ U.50 đi xuống Hố Bò, liên lạc với gia đình để gởi con về nhà nuôi. Đảng uỷ chỉ cần biết đến công tác thuận lợi hay không thôi nên chấp nhận liền. Năm ngày sau chị Mai được phép. Rồi ba, bốn chị khác có con nhỏ thiếu tiền mua sữa, vải vóc cho nó, xin phép liên lạc gia đình để xin tiền mua sữa nuôi con. Ai cũng được chấp thuận hết!
- À... à...
- Như vậy, anh có cho em là khùng nữa hay thôi. Thực sự mà nói, nếu có lo là em lo cho anh kìa. Em đi rồi, anh còn ở lại người ta sẽ hành hạ anh. Em sợ... sợ mất anh.
- Em đừng bao giờ lo cho anh. Anh là con trai mà! Anh đủ sức chịu đựng, đủ khôn để xoay sở tình thế. Nhưng... em nè! Liệu em có chịu nổi lời ra tiếng vào, chịu nổi những cuộc kiểm thảo, nhục mạ công khai của thiên hạ, suốt nhiều ngày liền trước khi trốn thoát hay không?
- Được sống bên anh và con mãi mãi, ở gia đình ta, điều đó mới hệ trọng, mới là mục đích của em. Chịu đựng vài tháng, vài năm để hưởng sung sướng, hạnh phúc trọn đời, chuyện vặt vãnh ấy đáng gì anh! Nhưng anh trả lời cho em biết, anh có đồng ý với em rằng trong hoàn cảnh này, nếu anh thực sự yêu em, lo lắng cho em thì biện pháp đó là hay nhất hay không?
Tôi thấy thương Hiền quá. Tội cho nàng quá. Không còn biện pháp, không còn con đường nào khác giải thoát cho kiếp sống của mình nữa sao Hiền? Em không sợ thiệt thòi, đau khổ thêm, không sợ anh lợi dụng tình cảm, phản bội em sao? Em yêu anh, tin tuyệt đối vào anh đến thế à? Tôi lặng người đi vì cảm động, không thốt được tiếng trả lời.
Hiền nũng nịu lập lại câu hỏi:
- Anh có đồng ý với em đó là biện pháp duy nhất không anh? Sao anh không trả lời? Em hổng chịu đâu.
Tôi ngậm ngùi:
- Thân em, em còn không tiếc, thì anh còn biết nói sao giờ. Anh chỉ có thể nói với em câu này. Anh sợ, biết đâu vì một nguyên cớ nào đó làm mình vỡ mộng một cách đau đớn thì sao?
- Thì chết! Chết là cùng. Chết trong vòng tay của anh, trong tình thương yêu trọn vẹn là một diễm phúc quá lớn. Còn gì hơn nữa đâu anh?
° ° °
Một trận mưa như trút nước dài suốt mấy giờ liền làm đám cháy tắt hẳn. Công tác đốt rẫy của chúng tôi đành bỏ dở. Ít ra phải hai ngày sau, nếu trời không mưa, mới có thể tiếp tục lại. Nhưng mùa này là mùa mưa, mà mưa ở rừng núi, có lúc năm bảy ngày liền. Mưa sáng, mưa chiều, mưa tối. Trận này vừa ngưng, trận kia áp tới. Khi nắng cũng vậy. Đang mùa mưa đó, cả chục ngày liền không có lấy giọt mưa. Như mấy hôm nay, trời không chút mây đen, vậy mà chiều lại mưa như thác đổ.
Chúng tôi đành chịu ướt loi ngoi kéo về nhà chờ đợi.
Buổi tối, sau khi ăn cơm xong về nhà, chỉ có tôi và Hai Minh. Tôi muốn nói cho Hai Minh nghe về tình yêu giữa tôi và Hiền. Trước sau gì, vài ba hôm nữa, mọi người sẽ biết hết. Thì, đường hoàng báo tin cho mọi người cho tập thể biết trước vẫn hơn. Nó vừa «quang minh chính đại» vừa thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức là trong vấn đề quan hệ nam nữ, phải công khai và báo cáo trước với tổ chức, với tập thể để tổ chức góp ý kiến xây dựng. Nếu không, đó là quan hệ nam nữ bất hợp pháp không đứng đắn, mang sắc thái tư tưởng dâm ô, phải đem ra kiểm thảo, cảnh cáo, có thái độ.
Vậy, cho Hai Minh biết trước là một chuyện rất cần thiết. Huống hồ, Hai Minh thuộc loại cán bộ... bất nguyên tắc, ngoại khổ, «chậm tiến bộ», đồng điệu với tôi. Báo cho y biết y còn giúp đỡ góp ý kiến và bênh vực được phần nào khi B2 hỏi đến.
Hai anh em ngồi đối diện nhau, nhấm nháp mấy cốc «nước sâm rừng». Tôi bắt đầu:
- Anh Hai! Tôi muốn nhờ anh giúp ý kiến một chuyện...
Cốc nước trên tay ngừng ngang miệng, Hai Minh giương mắt:
- Chuyện gì vậy, anh Tư?
- Anh thấy cô Hiền thế nào?
- Nghĩa là sao? Tôi không thấy gì cả!
- Nghĩa là nhận xét riêng của anh về Hiền đó!
Minh cười nụ. Đôi mắt Minh cũng cười làm tôi đỏ mặt.
- Hì hì! Vậy là anh Hùng ngã ngựa rồi!
Tôi cũng cười nụ cười thú nhận. Minh tiếp:
- Hiền đẹp, điều đó không ai phủ nhận được rồi. Như anh biết, chị ấy là hoa khôi của Khu A nhưng cũng kiêu lắm. Đó là ý kiến của mọi người. Dạo trước khi anh về đây, một lần chị ấy bị sốt rét ác tính, mấy chị em ở đây phải khiêng võng sang bệnh xá G3 điều trị. Lần đó có «mấy tay mùa thu» nhào vào tấn công...
- Mùa thu là sao anh?
- Đảng dùng danh từ «mùa thu», «mùa đông» để phân loại cán bộ tập kết, cán bộ tham gia kháng chiến 9 năm và cán cán bộ mới tham gia sau đình chiến. Cán bộ «mùa thu» là cán bộ tập kết. Cán bộ «mùa đông» là cán bộ tham gia sau này.
- Thì anh em người ta thấy người đẹp nhào vô tấn công là chuyện thường.
- Đâu có thường anh. Lần đó không biết chị ấy đấu lý nặng nhẹ, đốp chát sao mà sanh ra lớn chuyện. Chi bộ G3 đem ra kiểm thảo rồi báo cáo về B2. B2 cho tôi biết mấy nhận xét như mất lập trường giai cấp, tư tưởng lạc hậu, tác phong tiểu tư sản, cá tính tự cao tự đại, phát ngôn bừa bãi vô tổ chức. B2 chỉ thị cho tôi theo dõi giáo dục, uốn nắn lại.
- Tôi muốn biết nhận xét của anh kìa! Chứ nhận xét B2 thì cho tôi xin đi.
Minh nheo mắt hóm hỉnh:
- Làm gì nóng nảy vậy ông? Thong thả chứ. Bộ ông tính...
- Thôi mà! Anh phá tôi hoài! Anh nói nhận xét của anh đi.
- Tôi hả? Tôi không có nhận xét gì hết. Tôi không dựa vào lập trường, quan điểm cách mạng. Nếu thấy, tôi thấy chị Hiền đẹp và rất thông minh. Thông minh đến phát sợ kia. Có lẽ vì vậy, chị ấy hơi kiêu. Nhưng được cái là rất vui vẻ, thẳng thắn và tinh thần trách nhiệm cao.
Tôi ngập ngừng:
- Nếu... nếu chúng tôi... yêu thương nhau, lấy nhau thành vợ chồng anh thấy có trở ngại gì không? Xin anh cho những lời khuyên.
Lặng đi vài giây, Minh đắn đo từng lời:
- Anh biết vấn đề này không thuộc quyền của mình nữa rồi. Phải báo cáo, phải làm đơn xin phép Đảng Uỷ U.50. Cụ thể hơn là xin phép B2, B2 nghiên cứu trả lời sau. Vấn đề đó... găng lắm anh Tư. Với anh và chị Hiền thì tôi sợ...
- Tôi cũng linh cảm như vậy, cho nên mới hỏi ý kiến anh.
Minh để cốc xuống bàn. Tay xoay tròn cái cốc lăn chiêng:
- Thế hai anh chị đã nói chuyện, quyết định dứt khoát chưa?
- Rồi! Mới hồi chiều này!
- Anh định thế nào?
- Còn biết định thế nào, anh Hai! Trước tiên là báo cáo với anh và xin ý kiến của anh. Trăm sự nhờ anh.
Minh lắc đầu lia lịa và cười:
- Trăm sự nhờ tôi thì chết tôi rồi. Chết trăm! Báo cáo với B2 cũng khổ. Không báo cáo cũng khổ.
- Tôi thấy báo cáo với B2, xin phép làm lễ tuyên bố thì chắc chắn B2 sẽ không cho mà còn dùng biện pháp cách ly, chia cắt tụi này ra mỗi đứa một nơi. Hiện tại, U.50 đã cách ly hai vụ. Như Hiền nói thì chị Liên ở 104 và chị gì ở quân trang nữa đó. Phải không anh Hai?
- Chuyện đó ai ở Khu A này mà không biết!
Tôi cố cạy gỡ năn nỉ:
- Hay là cứ tạm thời để yên như vậy,, kéo dài được đến đâu hay đến đó. Được không anh Hai?
- Cũng... phải cho tập thể biết, rồi trước sau gì B2 cũng biết.
- Anh liệu thế này có được không anh? Với tập thể mình khoan loan báo tin vội. Đành rằng chị em họ biết hết nhưng nếu có ai hỏi anh, anh bảo đứng về mặt tổ chức, tôi có báo cáo với anh. Bây giờ hãy còn đang trong thời gian tìm hiểu chưa có quyết định chính thức của cấp trên.
- Chuyện này được thôi. Nhưng hai ông bà đặt tôi vào trong tình trạng trên đe dưới búa đấy! Mặt khác, không khéo hai ông bà bị cảnh cáo ghi lý lịch hết cả hai. Còn nêu điển hình cho cả Khu A học tập thì có nước độn thổ...
Tôi thở dài:
- Nếu có phải như vậy thì đành chịu chứ biết sao. Anh rõ lòng tôi đó. Tôi đâu có giấu giếm qua mặt anh, qua mặt tổ chức và tập thể. Chỉ tội B2 ngăn trở cấm đoán nên mới có cái chuyện phiền đến anh.
- Ý kiến của chị thế nào?
- Cũng giống như tôi!
Minh rót nước vào cốc ực một hơi, rồi dằng cốc xuống:
- Thôi! Nếu có phải bị khiển trách vì hai anh chị tôi cũng cam. Tụi mình cùng thuộc vào cái loại xấu số như nhau.
- Hai đứa tôi xin cảm ơn anh.
- Ối! Ơn gì anh Tư! Nghe anh nói ghê quá! Tưởng phải trèo đèo lội suối gì... Hì! Nhờ cách mạng người ta mới gặp mà yêu nhau. Nếu cảm ơn thì cảm ơn cách mạng, cảm ơn... hì hì. Khoái chớ anh Tư?
Mình cất tiếng cười vui vẻ:
- Hai người phải khai thiệt đầu đuôi cho tôi nghe, cái chuyện hai người nói chuyện với nhau ở ngoài rẫy như thế nào mới được.
- Xin thiếu nợ anh. Khó nói quá anh!
- Khó cũng phải nói. Có vậy tôi mới chịu làm quân sư dùm cho vụ này, là hôm nào tôi đến B2 dò hỏi Ba Biếu xem. Giả dụ như có một trường hợp tương tự như vậy xảy ra thì ý kiến B2 ra sao? Nếu thuận tiện sẽ làm báo cáo, làm đơn từ nộp xin theo thủ tục. Không thì đành phải chờ một thời gian, chừng nào thuận tiện hãy hay.
Tôi khẽ lắc đầu chán nản:
- Ở B2 họ nhìn tụi này với một con mắt khác, chụp cho nhiều thứ mũ. Dễ gì, anh Hai! Anh đi chỉ mất thời giờ lại cực thêm.
Minh không nói gì, đưa tay rót nước thêm vào cốc, trầm ngâm ngồi nhìn hơi khói nhẹ bay lên. Tôi cảm ơn Minh hết sức. Quả tình Minh đã vì cảm tình cá nhân, bỏ nguyên tắc tổ chức. Nếu Đảng Uỷ U.50 biết rõ hành động cố tình làm lơ nguyên tắc, che chở cho tôi và Hiền, Minh tất không làm sao tránh khỏi một cuộc kiểm thảo nặng nề, bị cảnh cáo dễ như chơi. Sau đó áp dụng kỷ luật Đảng. Không hiểu Minh còn chịu đựng những gì khác nữa...
Riêng tôi và Hiền, hai đứa trong tư thế chấp nhận và sẵn sàng chịu đựng mọi phản ứng xấu nhất mà Đảng uỷ Khu A, cụ thể là B2 sẽ dành cho mình.
Cái chuyện cảnh cáo ghi lý lịch tất nhiên rồi. Nhưng đối với chúng tôi có nghĩa gì khi mà mình không chấp nhận cái chính quyền hiện hữu là của mình. Cho đến những biện pháp như thuyên chuyển, cách ly hai đứa ra hai nơi, cấm thư từ liên lạc, cấm gặp nhau, tổ chức kiểm thảo, dùng mọi hình thức lăng nhục danh dự làm cho chúng tôi đau đớn về tinh thần v.v...
Dù sao, đối với tôi, tự ái và tự trọng của một người có học thức không cho phép tôi có thể dửng dưng, khinh thường được. Mặt khác, nó có tầm quan trọng đặc biệt, xóa bỏ những dịp thuận tiện, những thời cơ tốt mà tôi kiên nhẫn đợi chờ bấy lâu nay. Chính vì vậy, tôi rất cần đến sự giúp đỡ của Minh, sự thương mến chở che, cứu vớt được phần xấu nào hay phần ấy.
Có thể là tôi đã lợi dụng Minh, nhưng biết sao giờ? Tôi thương Minh nhưng tôi thương tôi hơn. Tôi thương Hiền hơn. Mâu thuẫn đó còn biết giải quyết bằng cách nào để không ai bị thiệt thòi? Thôi thì đành, Minh nhé! Trong cuộc đời, cao đẹp nhất là nghĩa cử hy sinh. Mình đâu phải sống cho mỗi một mình mình mà sống cho mọi người xung quanh, cho gia đình, cho bạn bè, xã hội, cho Tổ quốc và nhân loại. Hành động của Minh là một sự hy sinh rồi. Tôi cúi đầu kính trọng Minh với sự biết ơn, mong có ngày đền đáp. Minh ạ, tôi đâu dám lợi dụng tình anh, nhưng hoàn cảnh nó thế... tôi biết xấu hổ, tôi biết khinh, biết ghét mà!
Cho đến lúc leo lên võng nằm ngủ, tôi nằm trằn trọc mãi không sao chợp mắt được. Tôi nghĩ nhiều về Minh, áy náy không yên.
Rồi Hiền nữa. Sự liều lĩnh và táo bạo của Hiền. Vẫn biết đó là một cách hiệu nghiệm để thoát ly ra khỏi thế giới tủi cực, đau buồn này nhưng áp dụng phương cách đó thực không thường chút nào.
Trong đời người con gái, hôn nhân vô cùng trọng hệ, nếu dang dở một lần, ảnh hưởng nó sẽ mang lại biết bao nhiêu là cơ cực buồn đau. Trường hợp của nàng, dẫu rằng yêu đúng chỗ, chọn đúng người mà mình yêu nhưng nàng đâu có quyền yêu, quyền lấy, đâu có quyền bảo vệ tình yêu đó cho kỳ được, đâu có thực hiện được quyền tự do của mình. Tất cả thuộc về tổ chức, thuộc về Đảng uỷ Khu A. Trên phương diện tinh thần, lý thuyết, tất cả mọi sự ngăn cấm, mọi lời chỉ trích đều vô nghĩa nhưng thực tế nhất định không thể là vô nghĩa. Trong hoàn cảnh hiện tại nó là một sự liều mạng, thí thân.
Lúc chiều, khi hai đứa còn ngoài rẫy, tôi lập lại một lần nữa cho nàng biết rằng, bất trắc vẫn có thể xảy đến như Hiền có thai, sinh đẻ chỉ đơn độc mỗi một mình, không có tôi bên cạnh để chăm sóc, an ủi và rồi Hiền cũng không được phép liên lạc gia đình, không có cách nào vượt qua được bên kia bờ sông Bé chứ đừng nói đến đồng bằng nữa. Hoặc giả ý muốn được có thai của nàng không thành hoặc vì bệnh hoạn hay tai nạn gì đó, tôi có thể chết lắm, liệu chừng đó đời Hiền ra sao?
Hiền vẫn một mực chối phăng:
- Em chỉ quan tâm có mỗi một điều là anh có yêu em không? Thực tình sống chết có nhau hay không? Em có là vợ của anh mãi mãi hay không? Vậy thôi! Ngoài ra em chẳng cần quan tâm gì hết. Em đã quyết tâm rồi! Bằng mọi cách, em không thể đánh mất tự do và đánh mất anh. Không đạt được điều đó, em chết. Bất quá em như cành hoa chuối nước ngoài suối. Hôm trước nở, hôm sau tàn. Nở không ai biết. Tàn không ai hay. Có nghĩa gì đâu anh!
Trời ơi! Người ta yêu sao người ta sung sướng thế! Quên mất cả thời gian, quên mất cả loài người.
Không còn biết gì đến hiện tại và tương lai. Người ta chắp cánh bay bổng lên chín từng trời hoan lạc, chìm trong thiên đường của ân ái và chỉ biết có hai kẻ đang yêu. Còn tôi, tôi cũng thèm yêu, khao khát yêu và được yêu, tôi cũng biết rung cảm, mơ đến những phút giây ái ân tuyệt trần với làn môi ngọt, với mùi da thịt đam mê, tại sao tôi cứ bứt rứt không yên, khốn khổ thế này? Thà không tim, không óc, không biết suy tư như con chó hoang ngoài lộ có phải sướng hơn không?
Yêu Hiền? Tôi yêu nàng lắm. Thèm nàng, tôi thèm lắm. Vậy mà tình yêu đến với tôi như một thống khổ, một sự dằn vặt không ngừng. Yêu, ai còn bảo là thiên đường hạnh phúc? Hiền ơi, em có biết thế không?
Nằm mãi không ngủ được, sực nhớ đến hai viên thuốc sốt rét Paludrine 0,10 Ngân đưa hồi chiều, chưa uống để ở góc bàn, tôi ngồi dậy, bật lửa đốt đèn, đi uống thuốc.
° ° °
Bữa ăn sáng xong, mọi người lục tục kéo nhau ra rẫy. Trời mưa, ướt lá, ướt rừng không đốt rẫy mới được thì lại ra rẫy cũ xới đất làm cỏ, đốn cây, sửa lại lớp rào ngăn thú rừng vào phá.
Như thường lệ, công việc buổi sáng của tôi là ở nhà soạn bài dạy văn hoá cho anh em trong đơn vị. Hiền cũng vậy. Nhưng hôm nay nhằm phiên trực nhật, làm thêm nhiệm vụ chị nuôi, nấu ăn, giờ này chắc còn đang lu bu dọn dẹp dưới bếp.
Tôi nằm trên võng một mình, nhìn chếch ra ngọn cây rừng. Ở rừng, sau một ngày mưa, sáng dậy bao giờ sương mù cũng dày hơn hôm qua. Sáng hôm nay yên tĩnh quá, vắng quá. Tiếng vượn hú xa xa, tiếng chim hồng hoàng «Khục Khoặc» trên ngọn dầu, không thấy đâu. Có lẽ sáng nay sương mù nhiều, chúng cũng chả buồn thức sớm ra khỏi tổ.
Nghe tiếng chân đi nhẹ trước sân. Tôi không cần nhìn ra cũng biết đó là Hiền. Vừa bước lên thềm, Hiền đã hỏi:
- Sáng nay anh khỏe không anh?
- Khoẻ như thường. -Tôi quay đầu cười trả lời với Hiền- Anh nói sốt rét đối với anh nhàm quá, không đáng kể nữa!
- Xí! Anh nói! Chết như chơi. Anh lơ là với nó có ngày nguy. Em hổng chịu đâu. Sáng nay anh uống thuốc chưa?
- Rồi!
- Ngân nó cho anh uống thuốc gì đó?
- Mình ở đây ngoài Paludrine ra còn có gì khác đâu?
- Có chứ! Có Chloroquine! Mà thứ đó độc lắm. Ngân mà cho anh uống Chloroquine em bẻ răng nó liền. Sao em ghét Chloroquine quá không biết!
Hiền bước tới kéo mí võng nilon ra, ngồi gọn vào lòng tôi. Dây dù cột võng căng thẳng, chuyển răng rắc. Nàng đưa tay rờ trán tôi:
- Trán anh mát như thường.
- Thì anh nói sốt rét chả ăn nhằm gì mà!
- Nữa! Kỳ hông!
- Vậy chớ hổng phải sao?
- Thôi đi, cho em nằm với!
- Cái võng nylon nhỏ thế này, hai đứa nằm sao được. Lọt dưới đất hết hai đứa cho coi.
Hiền cười khúc khích:
- Càng vui chớ sao!
Vậy là 2 đứa nằm gọn trong lòng võng chật cứng.
Tôi cười:
- Mình như vầy, có ai thấy mắc cỡ chết.
- Đi hết rồi! Thiên hạ đi hết rồi em mới lên đây. Đêm hồi hôm anh ngủ có ngon không?
- Không!
- Sao vậy? Nhớ em hả?
- Ừ!
- Hình như anh nói chuyện tụi mình cho anh Hai Minh biết rồi, phải không?
- Nói hồi tối hôm qua.
- Hèn chi, sáng nay xuống bếp, ảnh cứ nhìn em cười chúm chím hoài. Em hỏi ảnh cười gì, ảnh nói em đừng làm bộ giả mù sa mưa. Anh nói cho ảnh biết, ảnh có nói gì hông?
- Ảnh sẽ thông báo cho tập thể biết.
- Trời đất! Ảnh báo cáo cho B2 biết thì lôi thôi cho tụi mình!
- Không! Ảnh hổng có báo cáo cho B2 biết đâu.
- Sao anh biết!
- Ảnh nói.
- Còn thông báo cho tập thể biết thì thông báo như thế nào?
- Thì nói tụi mình đang tìm hiểu nhau để tiến tới xây dựng hôn nhân. Thời gian này chỉ là thời gian tìm hiểu. Sau đó nếu thấy hợp và quyết tâm lấy nhau, sẽ làm đơn xin phép Đảng uỷ.
Hiền cười lớn:
- Còn hợp với không hợp. Mình nói như vậy ai mà tin cho được. Thà cứ nói thẳng là tụi mình yêu nhau hổng được sao? Úp úp mở mở chi vậy?
- Đó là kế hoãn binh đó. Nếu B2 biết được chuyện tụi mình thì còn có đường tránh né, bào chữa cho mình cũng như cho anh Hai Minh.
- Nếu vậy sao không làm đơn xin phép làm lễ tuyên bố phứt cho rồi. Đường đường chính chính phải hay hơn không?
- Ai cho phép mình lấy nhau? Họ cách ly liền tức khắc thì có. Anh thuộc thành phần tiểu tư sản trí thức nè. Em thuộc thành phần tiểu tư sản học sinh. Thành phần của mình có được chấp thuận, ít ra cũng mất cả năm điều tra, nghiên cứu đủ thứ về công tác, về tư tưởng, về gia đình vân vân. Trong thời gian đó, họ sợ mình ăn ở với nhau có thai, đặt họ trước một tình trạng đã rồi, phải giải quyết, họ bắt buộc phải có biện pháp đối phó.
Hiền xì một tiếng:
- Xì! Tết Congo họ mới cản được mình. Chuyện riêng tư của mình, hạnh phúc của mình, họ hổng có quyền gì hết. Mình yêu nhau, thương nhau, đâu cần họ chấp nhận, cho phép mình mới là vợ chồng. Họ cho mình cũng là vợ chồng. Họ không cho mình cũng là vợ chồng. Mình mà về Sài Gòn rồi, giỏi thì họ theo cấm với không cấm đi. Quái hết sức. Vậy mà họ đề cao tự do luyến ái, nghe sao được.
- Từ do luyến ái là một việc. Còn đứng về phương diện tổ chức, chấp nhận là một việc khác. Họ có cái lý của họ. Có nguyên tắc, luật lệ của họ, mình phản đối để mà bị đứt đầu à?
Hiền nghếch đầu lên vai tôi:
- Rồi anh tính sao bây giờ?
- Tính gì?
- Anh kỳ hông! Tính chuyện tụi mình chứ tính gì!
- Mình đâu có tính gì được. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Bất kỳ lúc nào, ở đâu em cũng không được quên điều đó. Phải bình tĩnh, khôn khéo, kiên nhẫn. Phải biết chịu nhục, phải biết lòn trôn giữa chợ như Hàn Tín chớ em! Ngay thẳng, trực tính là một đức tính tốt nhưng không phải lúc nào dùng cũng tốt. Em hiểu chứ? Hiền!
- Dạ!
Tiếng dạ chứa đựng nhiều dỗi hờn.
- Em có nghe anh không?
- Anh là chồng em mà. Em đâu dám cãi anh.
- Vậy đủ rồi em. Mình cứ giữ nếp sống như bình thường. Trước mặt mọi người, trước sau gì vẫn vậy. Chỉ trừ khi nào có riêng hai đứa thì sao cũng được. Mình phải biết tuỳ thời. Miễn rằng giữa lòng mình... Kể từ hôm qua, hai đứa mình đã có trách nhiệm mới, ý nghĩa mới. Vậy là đủ. Mình sống với nhau cả đời đâu phải chỉ trong một giờ, một ngày, hoặc một năm. Chừng nào vợ chồng mình về đến Sài Gòn, chừng đó tha hồ. Em muốn gì anh cũng chiều em hết. Còn bây giờ, mọi việc để anh lo. Em phải tuyệt đối nghe theo, Hiền!
- Dạ!
Hiền không trả lời chỉ lắc đầu.
Sương mù tan dần. Sau cơn mưa lá rừng xanh mướt. Tôi giữ Hiền chặt trong vòng tay, đền nàng bằng một chiếc hôn dài. Và tôi đỡ nàng ngồi dậy:
- Thôi dậy em? Có anh chị em nào thấy họ cười chết!
Hiền ngồi dậy, hất mái tóc ra sau, chân buông thõng xuống đất, ngồi song song với tôi, nét phụng phịu không còn nữa:
- Chắc thế nào tối nay anh Hai Minh cũng cho họp toàn đơn vị.
- Chắc vậy.
- Ảnh mà tuyên bố chuyện tụi mình, bàn dân thiên hạ ngã ngửa ra. Đâu ai có ngờ.
Tôi tò mò hỏi:
- Lâu nay chị em họ có nói gì anh không?
Hiền cười:
- Họ nói anh là ông cụ non. Con người khô khan như đất ruộng mùa nắng. Dòm cái mặt thấy phát ghét.
- Chắc không?
- Chắc chớ sao hổng chắc?
Nói xong Hiền ngoẹo đầu ra cười:
- Nói vậy chớ hổng có đâu anh! Chị em họ chỉ nói anh nghiêm thôi và tội nghiệp anh, hồi nào tới giờ ở nhà sung sướng, không làm động tới cái móng tay bây giờ theo cách mạng, chịu gian khổ, đói khát, lao động, chẳng bao giờ nghe anh than hay tỏ ra chán nản. Họ nói anh mà ở Sài Gòn thì lên xe xuống ngựa, làm việc lương tháng mấy chục ngàn, sướng một cây. Dám từ bỏ cuộc sống đó vào đây, phục lắm.
Tôi mỉm cười. Mỉm cười vì tự ái được ve vuốt thoả mãn thì ít mà mỉm cười hả dạ vì những lời bình phẩm đó thế nào cũng lọt tới tai B2 và Đảng uỷ Khu A mới nhiều. Dư luận, nhận xét của tập thể bao giờ cũng «nặng ký» lắm. Dựa vào đó, cấp trên của tôi nhìn tôi với con mắt khác. Tín nhiệm tôi hơn. Sẵn sàng đề bạt tôi, cất nhắc tôi lên hàng ngũ cán bộ, giao những trọng trách mới. Dĩ nhiên sự thay đổi đó vô cùng thuận tiện cho tôi tìm một cơ hội thoát khỏi thế giới này.
Chắc chắn là Hiền cũng nghĩ như tôi nên nàng hôn nhẹ vào má tôi:
- Em mừng cho anh. Em cũng hãnh diện vì anh nữa. Thế là một ngày nào gần đây, Đảng uỷ Khu A cũng chấm dứt cuộc đày ải anh ở rừng Đồng Nai Thượng này. Hy vọng anh sắp thành rồi đó, anh! Chỉ có em...
Nàng ngập ngừng một lúc, với giọng bùi ngùi tiếc rẻ:
- Em không khôn bằng anh. Em không khéo bằng anh. Em thực thà quá. Franc quá! Không biết đóng kịch, che dấu tình cảm mình, chỉ biết sống cái nếp sống tự nhiên của một cô nữ sinh Marie Curie, nhiễm cái thói quen cởi mở tự do của những thiếu nữ Tây Phương. Nghĩ sao nói vậy. Buồn, vui, giận, hờn, bất mãn đều phản ứng ra mặt, nhanh như điện, cho nên....
Tôi an ủi nàng:
- Nhưng em đã làm điều gì quá đáng đâu. Anh chị em tập thể B195 vẫn quý mến em kia mà.
- Anh đừng nói nịnh em để em vui lòng. Em biết nhận xét mà.
Chợt tôi nghe có tiếng phi cơ khu trục từ hướng đông vọng tới. Tôi lôi Hiền ra khỏi sự phiền muộn:
- Kìa em! Khu trục kìa!
Hiền vẫn không quan tâm:
- Kệ nó anh! Hồi nào tới giờ, vùng này có bị oanh tạc đâu.
Tôi kéo nàng đứng dậy đi ra sân:
- Trước giờ chưa bị oanh tạc, bây giờ bị oanh tạc thì sao? Chủ quan thì chết đa!
Tuy miệng tôi nói vậy, nhưng trong đầu chủ quan chẳng kém gì Hiền. Giữa rừng sâu ở Đồng Nai Thượng, Quốc Gia làm gì ngờ đến có người ở? Mà có người ở chăng đi nữa, thì cũng tưởng là đồng bào Thượng chứ đâu cho là «VC». Cụ thể từ trước đến giờ, hàng ngày phi cơ đủ loại, bay ngang đây không thiếu, có lần nào chú ý đến đâu. Chẳng hề nghiêng cánh, chẳng hề đảo lấy một vòng. Núi rừng Đồng Nai Thượng vẫn an nhiên như bàn thạch. Chính vì vậy tất cả các đơn vị đóng vùng này, không nơi nào buồn nghĩ đến chuyện đào hầm trú ẩn tránh phi pháo.
Tiếng phi cơ rõ dần, nặng chịch như tiếng cối xay lúa. Quả là đông. Tiếng động cơ rền rĩ điếc tai thế này, ít ra cũng có đến ba chiếc khu trục bay thành đoàn là ít. Tôi và Hiền cùng ngước mặt nhìn lên những kẽ hở của vòm lá rừng dày đặc, theo hướng tiếng động cơ, hy vọng nhìn thấy một hình ảnh nào chăng? Nhưng chúng tôi chẳng nhìn thấy gì hết. Cây rừng dày quá. Cành lá, lớp lớp đan kín vào nhau.
Tiếng rền rĩ điếc tai đi qua đỉnh đầu tôi rồi đi xa dần. Nhưng không, đoàn khu trục vòng trở lại, xoay tròn quanh chỗ tôi và Hiền đứng. Bốn bên đều có tiếng động cơ khu trục. Đúng rồi, phi cơ dàn hàng một thành đội hình chiến đấu đây.
Tôi dáo dác nhìn quanh. Hồi hộp cực độ. Tôi nắm tay Hiền, hét lên:
- Nó sắp bỏ bom rồi, chạy Hiền!
Mặt Hiền xanh ngắt như tàu lá, hốt hoảng:
- Chết! Chạy đâu giờ anh? Làm sao?
Quanh đây không nơi nào có hầm trú ẩn. Cũng không có một cái hố, một địa thế nào thấp hơn mặt đất. Tôi sực nhớ đến cái lò Hoàng Cầm ở nhà bếp. Lò đào sâu dưới đất. Khoảng trống xê dịch trước miệng lò thấp hơn mặt đất ít ra cũng đến tám tấc tây.
Tôi nắm tay Hiền lôi xềnh xệch chạy phóng mạng xuống nhà bếp. Hiền xuýt té sấp mấy lần, may tôi đỡ kịp. Hai đứa vừa nhảy xuống lò Hoàng Cầm thì tiếng rít rợn người, đinh tai nhức óc của chiếc khu trục bổ nhào xuống cũng vừa vượt qua trên đầu tôi.
Oành! Oành! Hai tiếng nổ liền nhau long trời lở đất. Đất đội lên, rung rinh. Mái nhà như chao đi, run rẩy. Mấy nắp son nhôm chạm nhau khua leng keng. Hiền ôm cứng lấy tôi run lên:
- Làm sao... anh? Làm... sao giờ anh?
Tôi điếng người. Còn biết phải làm sao giờ! May có cái lò Hoàng Cầm để núp, nếu không, nằm khơi trên mặt đất cũng phải chịu chứ biết sao. Lại chiếc khu trục kế tiếp bổ nhào, rền rĩ rít ngang qua đầu tôi. Ngồi nép vào thành đất ở góc lò, tôi ôm chặt lấy Hiền, lấy tay xoa xoa trên lưng nàng để nàng đỡ sợ.
Lại oành! oành! Hai tiếng bom nổ điếc tai kế tiếp. Đất rung chuyển lắc lư như đưa võng. Tôi lắng tai nghe. Không nghe tiếng đất rơi, tiếng miểng bom bay rào rào trên lá, nhất là mùi khói thuốc nổ, tôi vững dạ nhiều. Cơn hồi hộp sợ hãi qua nhanh.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi từng bị phi cơ khu trục dội bom nhiều lần. Kinh nghiệm cho tôi biết, không có tiếng đất rơi lộp độp, không nghe miểng đi rào rào trên lá cây, không nghe mùi khói thuốc nổ, như vậy nơi bom nổ cách đây ít ra cũng ngoài ba trăm thước đường bán kính. Tôi trấn an Hiền:
- Đừng sợ, Hiền! Xa! Bom bỏ ở xa!
Hiền vẫn xanh ngắt, miệng cố nở cười méo xệch:
- Xa... hả anh?
- Ừ! Xa. Mình đây không ăn thua gì đâu.
- Nó liệng bom ở đâu vậy anh?
Lại tiếng phi cơ bổ nhào rít qua đầu. Tôi lắng nghe và tính toán. Bom lại nổ điếc tai. Tôi trả lời Hiền:
- Ngoài rẫy! Rẫy mình bị oanh tạc rồi. Chà! Không biết anh chị em mình ngoài ấy có sao không?
Hiền chắc lưỡi lo âu. Nhưng mặt Hiền cũng hồng lại dần. Tim nàng vẫn đập mạnh. Ngực nàng sát vào ngực tôi ấm áp, mềm mại. Tiếng đập của trái tim nàng dội rõ mồn một lên da thịt tôi. Hai đứa nhìn nhau... Một cảm giác mới, nóng bừng, nhen lên sau cơn sợ hãi. Môi lại tìm môi. Tình yêu là thế đấy. Bấy giờ, hai đứa quên cả tiếng bom đang rung chuyển đất trời và bóng dáng của tử thần lẩn quất quanh đây.
Hơn hai mươi phút sau, đoàn khu trục kéo nhau đi hết, trả lại sự yên lặng bình thản về cho núi rừng. Ném bom xong, hết bom lại bắn. Bắn đã vài loạt rồi thôi. Sự có mặt của chiến tranh ở rừng núi, chỉ ngần ấy thì chưa có nghĩa gì. Tôi dìu Hiền đứng dậy. Quần áo hai đứa mốc thích, dính đất lấm mem. Tự dưng hai đứa nhìn mặt nhau, phá ra cười, phủi đất cho nhau.
Tôi trở lên nhà gặp Minh vừa về tới. Đầu cổ ướt loi ngoi. Minh nghe răng ra cười:
- Chút nữa qua phần rồi, anh Tư!
Tôi lo lắng:
- Anh chị em mình có ai sao không?
- Không sao! Hết hồn, hú vía thôi. Rẫy mình tan hoang hết rồi. Đéo quả! Mấy thằng phi công nó tưởng mình trốn ở giữa rẫy sao không biết, hết chiếc này tới chiếc khác nhè giữa rẫy mà liệng tơi bời. Tôi thấy ba chiếc khu trục nó vòng trở lại, biết không êm rồi, hét anh chị em mình nhào xuống suối núp hết...
Minh lại nhướng mắt, nhe răng cười:
- Vậy mà có một trái bom rớt cách suối chỗ tôi nằm chừng năm thước làm tôi tá hoả tam tinh, nhào ngửa. Đất phủ đầy đầu.
Anh chị em lục tục kéo về đầy đủ. Tiếng cười nói vang vang. Kể chuyện trốn bom của mình.
Vừa thay quần áo, Minh vừa nói với tôi.
- Vầy là mình phải mở chiến dịch đào công sự chống phi pháo rồi đây!
- Thiệt, không có công sự ớn quá chừng!
- Hồi nãy ở nhà anh làm sao?
- Chạy xuống bếp, nhảy xuống lò Hoàng Cầm.
- Còn chị Hiền?
- Cũng vậy!
- Chà, trốn máy bay như vậy, mỗi ngày trông cho máy bay nó đến vài chục lần. Anh có trông không?
Tôi cười. Anh chàng bữa nay bắt đầu châm chọc tôi rồi đây.
Buổi chiều, sau giờ học văn hoá, chúng tôi không ra rẫy mà xúm nhau đào công sự. Tổ nào đào cho tổ nấy. Nhà nào, đào ở nhà đó. Ngày mai còn phải đào thêm mấy công sự khác quanh nhà ăn, để phòng khi phi cơ đến lúc đang ăn hay đang học, hoặc hội họp. Vì đối với chúng tôi, nhà ăn còn là nơi tập trung hội họp, học hành, liên hoan v.v... Nhà ăn có bàn, có băng ngồi, lại rộng. Còn những nhà khác chỉ là nhà để ngủ.
° ° °
Một buổi trưa thượng tuần tháng 11 năm 1963, Tám chi từ Ban Chính trị đến công tác ở C110 - xưởng quân khí Khu A - sẵn dịp đến thẳng B195 thăm chúng tôi. Tám Chi cho biết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô đình Nhu chết rồi. Quân đội nổi dậy đảo chánh, tấn công vào Dinh Gia Long đêm 31 tháng 10 vừa qua.
Anh em Diệm Nhu trốn thoát chạy vào trú ở nhà thờ cha Tam, cuối đường Đồng Khánh Chợ Lớn. Nhưng 8 giờ sáng 1-11 bị phát giác bị giết chết ở đây.
Tôi chăm chú lắng tai nghe Tám Chi kể lại những chi tiết mà Chi được nghe qua Đài phát thanh Sài Gòn và BBC. Vậy là triều đại nhà Ngô với chính sách gia đình trị ác nghiệt, độc tài sụp đổ tan hoang.
Đối với tôi, cũng như nhiều người khác, cái chết của anh em Diệm chỉ là chuyện tất nhiên. Mọi người dân Sài Gòn đều cảm thấy trước ngày đó. Tưởng đến hôm nay đã may mắn cho anh em Diệm lắm rồi.
Tám Chi hỏi tôi về đời sống của anh em Diệ. Nhất là những huyền thoại Trần Lệ Xuân. Thành thực mà nói, chuyện của anh em Diệm, huyền thoại Trần Lệ Xuân tôi được nghe kể đầy tai nhưng kể cho Tám Chi, cho các «nhân vật» ở B2 nghe, tôi không thấy có một chút hào hứng nào. Huống hồ, tôi còn đang hoài nghi, phân vân về việc Tám Chi đến thăm B195 nhân dịp đi công tác ở C110.
Dân B2 là «dân chính trị» có nhiệm vụ quản lý cán bộ, chiến sĩ và lãnh đạo tư tưởng, công tác nội bộ, tình cảm đâu để đi thăm bất cứ ai? Vậy thì Tám Chi đến đây làm gì? Chuyện tôi và Hiền đã lọt đến tai B2 rồi ư?
Cho nên mặc Tám Chi hỏi điều này đến điều kia về gia đình Diệm, tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện, viện cớ trước kia tôi đã kể cho Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tám Chi nghe rồi.
Tám Chi cho biết thêm, nhóm tướng lãnh chủ trương lật đổ Diệm lần này là do Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tướng Trần Văn Đôn chủ xướng. Vì vậy, chính quyền mới của Sài Gòn, Trung Tướng Dương Văn Minh được bầu thay Diệm vào chức vị lãnh đạo. Đột nhiên Tám Chi cười có vẻ khoái trá lắm, bảo Trung Tướng Dương Văn Minh là bạn học cũ của mình trong những năm trước 1945 tại trường Cô-le Mỹ Tho (College de Mỹ Tho). Hơn thế nữa, còn ở chung nhau trong một đội bóng tròn. Quê của Tám Chi ở Gò Công. Quê của Trung Tướng Dương Văn Minh ở Mỹ Tho. Trong những năm học ở Cô-le Mỹ Tho, Tám Chi và bạn bè gọi Trung tướng Dương Văn Minh là Minh đen. Pháp chiếm trở lại Sài Gòn, gặp nhau trong kháng chiến không hiểu vì lý do gì Tướng Minh trở về Sài Gòn. Cho đến hôm nay trở thành Trung tướng của quân đội Quốc Gia, phản động chống lại Cách mạng
Tôi ngạc nhiên, ngồi nghe Tám Chi thao thao bất tuyệt. Quả y biết nhiều về Tướng Dương Văn Minh. Còn tôi thì chẳng biết gì ráo về đời tư, gia đình của Tướng Minh. Ngoại trừ một lần vào năm 1955, lúc tôi còn ở trọ học nhà bà Cò-mi Sách. Nhân đọc báo thấy Tướng Minh dạo đó vừa mới được thăng Đại Tá làm tư lệnh chiến dịch Hoàng Diệu, bà Cò-mi Sách khoe là mười sáu năm về trước Tướng Minh yêu bà ta, đến gia đình hỏi bà ta làm vợ nhưng bà ta chê không có tương lai nên không chịu. Đâu ngờ Tướng Minh bây giờ lên quá, nổi quá.
Tôi là người ngoại cuộc, không biết Đại tá Dương văn Minh đã đành, lại còn không biết chút nào về dĩ vãng và gia đình bà ta. Tôi chỉ biết nghe như một nhân chứng bất đắc dĩ.
Tôi nghĩ bụng, thằng cha này mới ở Miền Bắc về, lại ở trong rừng sâu thế này, ai nói cho y biết những chuyện trên đây?
Buổi chiều, sau khi Tám Chi đi rồi tôi vẫn còn phân vân mãi không hiểu y đến B195 với mục đích gì? Tôi phập phồng không yên. Mãi đến bữa ăn chiều, Hai Minh tuyên bố cho tập thể biết bắt đầu từ ngày mai học chỉnh huấn ba ngày. Tài liệu Tám Chi vừa mang đến kèm theo với chỉ thị của Đảng uỷ U.50. Theo lệnh trên, chúng tôi phải kéo sang Bệnh Xá G3 phối hợp với họ học chung, nhưng nhờ Hai Minh kỳ kèo mãi, bàn tới bàn lui mới được chấp nhận ở lại nhà học riêng.
Chừng đó tôi mới rõ ra rằng Tám Chi đến đây vì vấn đề chỉnh huấn chung cho Khu A chứ không phải vì chuyện tôi và Hiền. B2 chưa biết gì cả.
... Không biết nhờ một phép lạ nào mà suốt cả một thời gian dài, từ đó cho đến tháng 8 năm 1964. B2 không hay biết gì, hoặc biết mà không có một phản ứng nào đối với «tình yêu bất hợp pháp» của chúng tôi.
Hay người ta đã quên mất chúng tôi? Cũng như cái đơn vị B195 ở tận mãi mạn Đồng Nai Thượng đèo heo hút gió, là một thứ trại cải tạo lao động hạng bét, chẳng cần quan tâm đến nó làm gì? Suốt trong chín tháng được phép ngầm và che chở của Hai Minh, với một tập thể nhiều thông cảm, mến thương, tôi và Hiền sống không khác một đôi vợ chồng thực thụ.
Điều Hiền mong muốn, ước ao vẫn chưa xảy ra. Lạ thật. Trò đời nó thế. Lén lút «ăn vụng», giấu giếm phập phồng thì bụng nó cứ to ra, còn muốn cho nó to một cách công khai, nó vẫn không nhúc nhích.
Một chiều tháng 8 năm 1964, một Cảnh vệ B2 đến B195 trao cho Hai Minh một thư gấp. Đó là thư báo của B2, kèm theo quyết định thuyên chuyển Hiền về đoàn Văn công II Quân Giải Phóng của Cục Chính Trị E.
Theo lời anh Cảnh vệ cho biết, đoàn này sắp sửa thành lập, với cái tên Đoàn Văn công II Quân Giải Phóng. Đoàn I lập từ năm 1962 ở Khu B, do anh chàng nhạc sĩ Xuân Hồng, tức Ba Một nguyên trưởng trạm đường dây B40 của R điều khiển.
Lần này, đoàn II tiếp tục thành lập, quân số hầu hết chọn lấy ở Khu A. Hiện tại, một cán bộ chính trị của B2 tên Phương Nam được U.50 chỉ định làm chính trị viên của Đoàn đang lo tập trung quân số, chờ cho đầy đủ sẽ dẫn hết về Khu B (biên giới Việt-Miên ở Tây Ninh) để học tập chuyên môn, kỹ thuật v.v... bổ sung phương tiện, nhạc cụ, nhạc công v.v...
Những nhân viên trong đoàn, ở buổi đầu, không đòi hỏi phải có khiếu, có khả năng văn nghệ, ca hát hay một căn bản vốn liếng nào.
Về Khu B sẽ cho học, đào tạo thành những ca sĩ, vũ công, tài tử sau. Chương trình học, 6 tháng, quá đủ rồi.
Đoàn Văn công II, nhân viên, cán bộ đã tập trung đầy đủ, chờ Hiền đến nữa là khởi sự lên đường về Khu B. Hiền được chỉ định vào Đoàn Văn công chỉ vì Hiền đẹp - điều kiện quyết định lớn nhất làm tiêu chuẩn chọn lựa do Đảng uỷ đề ra. Làm Văn công phải đẹp, phải quyến rũ mới động viên tình cảm, mới thu hút được người xem chứ. Cái đẹp Đảng không đào tạo được chứ những cái khác như tư tưởng lập trường, khả năng trình diễn, căn bản kỹ thuật, chỉ cần học tập là xong ngay, Đảng bảo vậy.
Đọc xong thư và quyết định thuyên chuyển của Đảng uỷ U.50, Hai Minh đưa mắt nhìn tôi như hỏi ý kiến. Tôi lặng lờ, ngây người ra một lúc lâu.
Từ trước, tôi và Hiền hai đứa đều chuẩn bị tình cảm để chịu đựng. Hai đứa trong trạng thái đợi chờ, thế mà giờ đây khi có quyết định thuyên chuyển, tôi không sao khỏi tâm trạng bối rối bâng khuâng, xao xuyến cực độ. Chúng tôi đã đến lúc phải xa nhau rồi ư? Đột ngột thế sao?
Tôi nuốt ực nước miếng qua cổ họng:
- Vậy là Hiền đi?
- Thì đi chớ sao! Quyết định trước mắt nè!
- Ngày mai lên đường hả anh Hai?
- Chắc vậy rồi! Đồng chí Cảnh vệ B2 ngày mai về sẽ dẫn chị Hiền đi theo. Ở B2 người ta đang chờ. Làm sao được!
Ừ, thì làm sao được! Tôi ngớ ngẩn thực. Lệnh là lệnh. Lệnh phải được chấp hành đúng, tuyệt đối. Kỷ luật thép mà! Tôi được tin còn bối rối thế này, không biết chút nữa đây khi đưa quyết định đến tay Hiền, nàng còn bối rối đến chừng nào nữa?
Không kiên nhẫn hơn được, tôi cầm lấy giấy quyết định bằng tờ pelure mỏng cắt đôi, với mấy hàng chữ đánh máy đơn giản, không đóng dấu đỏ chỉ có chữ ký tên trơn: Hai Cà. Tôi nói với Hai Minh:
- Tôi mang quyết định này đến cho Hiền nghe anh Hai?
Minh mỉm cười, thông cảm gật đầu. Tôi bước ra sân, bỗng Hai Minh gọi lại:
- Anh Tư! Khoan đã anh Tư. Tôi hội ý với anh một chút.
Tôi quay vào nhà, chờ đợi. Hai Minh nhíu mày có vẻ suy nghĩ lắm:
- Tôi thông cảm hai anh chị lắm. Kể ra chị Hiền đi, vấn đề học văn hoá của B195 mình cũng thiệt thòi một phần nào. Sống chung với nhau lâu, giờ ra đi tình cảm cũng bị sứt mẻ. Buồn chớ! Mà đi đột ngột như vầy làm sao tổ chức một bữa liên hoan chia tay... cho kịp.
Tôi bứt rứt, bồn chồn trong trạng thái muốn đi gặp Hiền ngay nên không nói gì. Minh nói tiếp:
- Thôi thì... chịu vậy. Hai anh chị chắc có nhiều vấn đề cần giải quyết với nhau. Tâm sự với nhau trước giờ chia tay. Tối nay, tụi tôi tản cư xuống nhà bếp ngủ. Nhường hai anh chị căn nhà này... để anh chị tự do tâm sự.
Nét mặt Minh nghiêm trang, thành khẩn. Tôi cảm động khôn cùng và thấy thương Minh, phục Minh hết sức. Nhưng điều ấy bất tiện, không tiện chút nào. Tôi nói:
- Xin cảm ơn anh Hai có lòng nghĩ tới tụi tôi. Anh đã giúp đỡ, che chở cho tụi này suốt gần năm nay rồi. Bây giờ... bây giờ tụi tôi chỉ xin anh để tụi tôi ra cái chòi ngoài rẫy được rồi.
- Trời đất! Ngoài đó lạnh tanh, xa thấy mồ!
- Được anh! Xa gì! Đi năm phút tới rồi.
Minh chép miệng nhìn ra sân. Rừng trước mặt đứng im không gió.
Tôi hỏi:
- Còn chi nữa không anh?
- Thôi! Anh đi cho chị Hiền hay đi.
Tôi đi về phía trại nữ, nhà Hiền ở. Không gặp Hiền. Sang hai nhà khác bên cạnh cũng không thấy. Hiền đâu. Chỉ có cậu Cảnh vệ B2 và hai cậu thanh niên cùng nhà với tôi đang xun xoe bên chị em, tán vung vít. Tôi quay xuống bếp. Bếp vắng hoe. Nghe tiếng nước khua lõm bõm dưới suối, tôi đi thẳng đến. Thì ra Hiền vừa tắm xong đang giặt đồ.
Thấy tôi, Hiền cười toe:
- Chỗ người ta tắm anh đi đâu vậy? Em bắt đền đa!
- Anh đi tìm em nãy giờ.
- Có chuyện gì không anh? Nhớ hả?
Tôi chìa tờ giấy quyết định bằng pelure mỏng:
- Ở đó mà đùa anh. Có giấy quyết định thuyên chuyển của Đảng uỷ U.50 đưa em về Đoàn Văn công II của Cục Chính Trị nè. Ngày mai phải theo cậu Cảnh vệ B2 đến trình diện tại B2.
Lặng người đi một thoáng, Hiền xoe tròn mắt:
- Thiệt hả anh?
- Quyết định bằng giấy trắng mực đen nè.
Hiền vung tay vẫy nước, giật lấy giấy quyết định trên tay tôi, chăm chú đọc. Nàng đọc đi đọc lại nhiều lần. Sau cùng nàng nhét mảnh giấy vào túi áo bà ba, cười nụ, tỉnh bơ như không:
- Vậy là hay! Hay quá!
Tôi ngạc nhiên hết sức. Lạ thực. Nàng không chút băn khoăn, bối rối lại còn vui vẻ là đằng khác trước quyết định chia ly hai đứa hai nơi này. Nàng loạn trí chăng? Tôi không ngăn được câu nói dỗi hờn:
- Em vui lắm sao Hiền? Em sung sướng lắm hả?
- Ơ! Anh kỳ thấy mồ. Vậy mà cũng hờn em được. Anh không yêu Hiền sao anh? Hiền là vợ anh mà.
Tôi lại càng không hiểu, muốn nổi khùng lên:
- Vợ anh mà vậy sao?
Hai dòng nước mắt trên mi Hiền rơi xuống đột ngột. Nàng cúi đầu xuống, không nói gì, giặt vội bộ bà ba đen cho chóng xong. Nàng vắt ráo nước bộ đồ, đứng dậy nhìn tôi. Hai dòng nước mắt vẫn rưng rưng nhưng môi nàng lại nở nụ cười dễ thương làm sao:
- Anh buồn em, giận em hả? Vợ anh mà anh không hiểu sao anh?
Tôi không tài nào giận được nàng, thương nàng lắm, nhưng không sao không lấy làm lạ thái độ kia. Thái độ dửng dưng, hờ hững, vui là đằng khác khi được biết người ta bắt mình phải chia ly, xa cách người yêu. Tại sao nàng không băn khoăn, bối rối, hoảng hốt như tôi? Cảm tình của giới nữ phải bén nhạy, phản ứng mạnh hơn giới nam chứ! Lạ lắm! Tôi hỏi nàng:
- Chia ly vui lắm sao em?
Hiền nắm lấy tay tôi và đẩy nhẹ về phía trước.
- Lên anh! Đi lên, em phơi đồ xong rồi em sẽ nói anh nghe.
Tôi đưa tay nhìn đồng hồ. Bây giờ đã 3 giờ 10 phút chiều. Ừ, chiều nay, chiều chủ nhật, nhằm ngày nghỉ. Tôi quên mất.
- Em phơi đồ xong thì đi ra rẫy. Anh chờ ở đầu đường.
Nói xong tôi vượt lên trước, đến đầu lối mòn.
Tôi chờ nàng ở đó. Hai con sóc đất đuổi nhau kêu chí choé quanh mấy bãi lồ ô trước mặt. Cảnh vật chung quanh vẫn bình thường như mọi ngày. Tôi lặng lẽ đứng nhìn mà đầu óc để đâu đâu.
Hiền đến. Nàng hiện ra với khuôn mặt dịu dàng rạng rỡ, đẹp làm sao. Tóc nàng quấn lên cao vừa rồi vừa gọn như những cô gái Bắc, phơi cổ tròn trĩnh trắng ngần. Trên tay, nàng cầm một chùm trái trường mơn mởn chín mọng.
Trái trường là một loại trái rừng, màu sắc, hình dáng giống như những trái dâu ta. Nhưng hột, cơm nó bên trong lại giống trái nhãn. Vị nó chua chua ngon ngọt. Mùa này là mùa mưa cũng là trái trường chín rộ ở đây.
Tôi nhìn Hiền mà nghe lòng mình nao nao, ấm áp một cách dị thường. Khuôn mặt kia, dáng dấp kia, da thịt nõn nà rung động kia, chả trách sao người ta lại chọn nàng đưa vào đoàn Văn công. Con người đó, xuất hiện trước khán giả chưa cần làm một cử động nào, chưa cần ca hát, múa may, chưa cần mỉm cười nhìn ngang liếc dọc cũng quá đủ để động viên tình cảm, động viên tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ hả hê rồi.
Vậy mà lâu nay, nàng thuộc về tôi, của riêng tôi, trong vòng tay của tôi, tôi đã quên phăng đi điều đó. Hạnh phúc của lứa đôi, những đụng chạm bay bổng tuyệt vời của thiên đường ân ái, tôi còn có thể nhớ được gì?
Bây giờ, nàng đó. Giờ phút tôi ngắm để «thấy» được sự hiện hữu của người tôi yêu, lại là những giờ phút sắp sửa chia ly, giờ phút hội ngộ sau cùng.
Tôi dang tay ra. Nàng ngã vào lòng tôi và tôi cúi xuống với tâm trạng bồn chồn hốt hoảng. Rất lâu, tôi buông Hiền ra. Và hai đứa dìu nhau sóng đôi, bước chậm về phía rẫy.
Nàng ngắt đưa tôi một chùm nhỏ trái trường.
- Trường nè anh! Anh ăn đi ngon lắm. Anh Cảnh vệ B2 vừa mới đi leo bẻ về đãi chị em.
Tôi cười. Sức hấp dẫn trai gái mạnh thiệt. Cây trường cao vút, vì bản năng sinh tồn nó cũng vượt đua theo cây rừng để thở, để nhận ánh nắng mặt trời. Nó cao hai ba mươi thước là thường.
Có nơi còn cao hơn. Nào ai có gan leo những cây trường suông đuột cao mấy chục thước để bẻ trái ăn bao giờ? Thường thường muốn ăn trái rừng ta chỉ có mỗi một biện pháp duy nhất là vác cưa, vác rựa ra đốn. Đàng này muốn được sự chú ý của chị em, muốn tạo được chút cảm tình nào đó, cái anh hùng rơm của cậu Cảnh vệ B2 nổi dậy.
Cậu ta a thần phù nổi hứng, leo một mạch bất kể hiểm nguy, sống chết để làm vừa lòng chị em. Chịu! Đầu hàng cậu ta.
Tôi lột vỏ một trái, đưa lên miệng. Nước miếng trong miệng tôi ứ đầy, phải nuốt đi. Hiền vừa cắn một trái trường vừa chép miệng hỏi:
- Sao hồi nãy anh gắt gỏng với em vậy? Bộ anh hổng thương em hả?
- Bậy! Anh mà không thương em thì còn trời đất nào nữa. Anh thương em gấp bội em thương anh mà!
- Vậy sao anh nỡ gắt gỏng với em?
- Tại em kỳ cục.
- Anh nói xấu em. Em có kỳ cục gì đâu?
- Không hả? Có ai nhận được quyết định thuyên chuyển đột ngột, xa người yêu, mà thản nhiên như em không? Chẳng những thản nhiên mà còn có vẻ vui sướng nữa. Vậy bảo sao anh không tức, không gắt gỏng được!
Hiền âu yếm nhìn tôi, cười ngặt ngoẹo:
- Đáng lẽ anh phải mừng cho em chứ!
- Sao? Sao? Em nói sao
- Em nói đáng lẽ anh phải mừng cho em chứ! Em nói không phải, không đúng sao? Hơn năm trời nay, hai đứa mình chờ mãi một cơ hội rời khỏi nơi này.
Tôi chợt hiểu. Rõ ràng là tôi ngốc và vô lý tức giận nàng. Tình yêu thương, hạnh phúc lứa đôi đã làm tôi mờ mắt, mụ người đi. Tôi đã hết sức thiển cận, chỉ thấy niềm vui nhỏ trước mắt, quên phứt mục tiêu xa và suốt cả quãng đời còn lại. Tệ thật. Tôi thấy mình tệ hơn Hiền nhiều, thua Hiền nhiều. Tôi ngượng ngập vì xấu hổ:
- Anh xin lỗi em. Anh hiểu em rồi. Anh vô lý quá.
Hiền cười khúc khích:
- Đó, anh thấy chưa! Anh dở quá hè.
Tôi cúi đầu thú nhận.
Ra đến rẫy, tôi dẫn Hiền tạt qua cái chòi con mà chúng tôi vừa cất cách đây sáu tháng dùng làm chỗ trú mưa và ngủ đêm canh rẫy sợ heo rừng, nai vào phá ban đêm khi mùa bắp vừa ra trái. Cái chòi lụp xụp lợp bằng lá may chen vào giữa đám tre rừng kín mít. Đêm nay chòi này là thế giới riêng của tôi và Hiền.
Tôi nói với Hiền:
- Tối nay hai đứa mình ra ngủ ở đây đó em.
- Anh cho anh Hai Minh biết rồi hả?
- Ừ! Ảnh bảo ảnh nhường cho tụi mình cái nhà trong đó ảnh với hai cậu kia tản cư xuống bếp nhưng anh không chịu. Anh bảo hai đứa mình sẽ ra đây.
- Anh Hai Minh tốt thiệt. Ảnh tốt với tụi mình quá. Em ở đây gần hai năm rồi mà chịu, không sao hiểu được ảnh nghĩ gì về tương lai của ảnh.
- Kể ra cũng là một con người đặc biệt. Ngoại khổ, không giống ai. Một thứ đảng viên phi Đảng.
- Ở ngoài này hai đứa vắng quá. Rủi có cọp thì sao?
Tôi cười:
- Ở đâu chứ vùng này cọp dẫy đầy. Nhưng mấy năm nay em có nghe cọp có vật ai, ăn thịt ai đâu. Nó dữ, nguy hiểm, được cái nó sợ người. Nó gặp người là nó chạy. Nếu không cả B195 mình cũng chẳng còn ai. Không đáng sợ lắm.
Hiền đột nhiên bấm mạnh vào tay tôi:
- Ờ, anh! Ở vùng này có dã nhân đó anh!
- Ai nói vậy?
- Mấy anh giao liên trạm giao liên A1 ở Suối Đá nói chớ ai.
Mới hôm qua, chị Đô... chắc anh không biết chị Đô. Chị Đô giao liên dẫn khách từ sông Đồng Nai về Suối Đá đi ngang đây hàng ngày đó.
- Anh có nghe nói đến tên nhưng chưa biết mặt.
- Chị Đô hôm qua gặp tụi em ngoài suối, kể cho tụi em nghe. Cách đây bốn ngày, một anh em của A1 sáng ra vác cây súng trường Nga đi săn giộc. Anh ta đi ngược theo suối về hướng mình nè, cách A1 chừng hai mươi phút, tới một cái đồi nhỏ anh ta nghe tiếng bẻ măng. Nhìn lên đồi, sau mấy đám lồ ô anh ta thấy có một người lớn và một đứa nhỏ lom khom bên một bụi lồ ồ. Anh ta tưởng đó là mấy người đồng bào Thượng nên không quan tâm lắm. Sẵn mỏi chân, anh ta ngồi trên một mỏm đá dựa bờ suối, vấn thuốc hút. Chợt nghe tiếng chân lạo xạo đạp trên lá khô đi xuống, anh ta nhìn lên thì thấy một con vật lông lá xồm xoàm, giống y như người ta, mà cao lớn lắm, tay thiệt dài, đen thui. Một tay cầm mụt măng lồ ô vừa đi vừa đưa lên miệng xước vỏ, một tay vịn theo mấy cây lồ ô đi lần xuống suối. Anh ta hết hồn hết vía, hoảng hốt chụp súng đứng dậy vì con dã nhân đó cách anh ta chừng hơn mười thước. Nó cũng vừa thấy anh ta. Anh ta cũng vừa thấy nó. Hình như nó cũng sợ, nó đứng lại nhăn răng ra. Anh ta điếng người, mất hết bình tĩnh bóp cò nổ một phát rồi quăng súng, bất kể sống chết nhào xuống suối, co giò chạy thục mạng về A1. Ngày sau dẫn ba bốn anh em nữa, súng ống đầy đủ trở lại chỗ cũ kiếm súng mà anh ta hãy còn run.
Nghe Hiền thuật lại, tôi cũng nghe lạnh sống lưng. Ở đâu không biết, chứ rừng sâu Đồng Nai Thượng có thể có lắm. Rừng rậm hoang vu có từ hàng nghìn năm nay thì chẳng những dã nhân mà những loại dã thú khác, thứ nào cũng có thể có. Ngay cách đây hơn sáu tháng, bên kia sông Đồng Nai, anh em bên T6 (khu 6) chẳng bắn được con tê giác là gì. Rhinoceros vốn là một con thú chỉ có ở rừng Phi Châu, đâu ai ngờ nó có ở Việt Nam, vậy mà còn có được, huống gì loại dã nhân, loại khỉ người khổng lồ. Sừng con tê giác anh em T6 gửi xuống Sài Gòn bán tự túc được hơn ba chục ngàn. Tiệm thuốc Bắc Ba Tàu Chợ Lớn mua. Còn da, phơi khô cắt chia mỗi người một miếng bằng bốn ngón tay dùng để dành làm thuốc. Chính tôi, thấy của lạ và nghe nói công hiệu trị bá chứng của nó, tôi phải nài nỉ nhờ Hai Minh đi xin về được một miếng, đang cất trong bồng kia.
Dù vậy, tôi cũng bán tín bán nghi, không hiểu anh giao liên A1 kia có thổi phồng câu chuyện để hù anh em khác chăng? Tôi hỏi Hiền:
- Em có nghe chị Đô nói bắn được con dã nhân hay có dấu vết nào đáng tin không?
- Không! Phát súng bắn hoảng đó đâu có trúng gì. Con dã nhân chạy mất. Theo lời chị Đô kể lại thì hôm sau, mấy anh em đó lên đồi thấy mấy cây lồ ô bằng đầu gối bị bẻ gãy. Dấu còn mới xanh. Như vậy là có dã nhân thiệt, vì nó khổng lồ, mạnh chẳng thua gì Hercule mới bẻ nổi mấy cây lồ ô đó để dọn đường bẻ mấy mụt măng. Ghê thật!
Có thể lắm. Nhưng biết làm sao giờ. Sợ thì sợ, chúng tôi vẫn cứ phải trấn đóng ở vùng này. Và đêm nay tôi và Hiền ngoài cái chòi này ra đâu còn chỗ nào tự do trò chuyện tốt hơn, thuận tiện hơn?
Tôi dẫn Hiền ra ngồi ở gốc bằng lăng ngày chúng tôi mới yêu nhau. Và cũng chính nơi đó, sau này, tôi đã đưa nàng vào những giây phút đầu tiên của cuộc đời đàn bà, người vợ mới cưới.
Hàng chuối nước nay đã già, trụi lá, trơ lại những cây èo uột, khẳng khiu với những cành hoa rủ. Tôi ngồi xuống nệm lá khô, tựa lưng vào thân cây, nhìn sang bên kia suối. Hình ảnh của ngày nào tôi bị sốt rét nằm ở đây và tình yêu Hiền đến với tôi hiện lên trong đầu tôi rõ mồn một. Ôi, kỷ niệm tuyệt vời.
Tôi nhắc lại với Hiền:
- Em còn nhớ, ngày đầu tiên mình yêu nhau không? Cái hôm đốt rẫy, anh bị sốt rét nằm ở đây, rồi em đến đó!
- Nhớ chứ!
- Rồi những ngày sau đó, cái nệm lá khô này là giường hợp cẩn của chúng mình. Anh đã...
- Thôi đi mà!- Hiền bịt miệng tôi- Quỷ nè! Còn nói nữa! Làm người ta mắc cỡ muốn chết!
- Ấy vậy mà hơn một năm rồi. Nhanh thật. Một năm nhanh như một tuần.
- Em thì vẫn thấy nó dài lê thê. Những lúc gần bên anh nguôi đi đôi chút. Buông ra rồi em lại thấy ngày sao dài kinh khủng, đầy những bực dọc, lo âu. Anh xem cây cỏ còn già, huống gì người. Nhất là những người đáng thương như chúng mình.
Hiền đưa tay chỉ về bên kia suối:
- Anh xem, năm ngoái hàng chuối nước còn non. Cây mập ú nu, ú nần, lá xanh mướt, hoa trổ đều, đẹp rực rỡ bao nhiêu. Giờ nó đã già cỗi. Những bông hoa trổ muộn như không nở nổi, rũ ra. Có lẽ như anh nói mà đúng. Em ngỡ em như cành hoa chuối nước trổ bên kia.
Rõ ràng ý chí của Hiền mạnh hơn tôi nhiều. Xét trên phương diện nào đó, quả tôi kém nàng xa. Khi lòng đã quyết thì nhớ mãi, không phút giây nào xao lãng, nguôi ngoai. Còn tôi, tình yêu của Hiền đem đến cho tôi quên đi nhiều thứ, trở thành cầu an hưởng lạc, quên mất những lời thách thức và số phận mình. Hèn! Con trai như vậy là hèn. Tôi xấu hổ với Hiền và thầm mắng mình như vậy.
Tôi chép miệng:
- Vậy là mai em đi rồi. Không biết đến chừng nào..
Hiền ngắt ngang câu nói:
- Anh, nè!
Rồi nàng cười thật tươi, mắt long lanh, âu yếm nhìn tôi:
- Lâu nay anh thường băn khoăn, lo sợ cho em, chỉ cần mong sao cho em có dịp thoát khỏi nơi đây. Bây giờ dịp này đến rồi đó. Anh cười với em một cái thật tươi đi.
Tôi cười, gắng gượng mà cười. Hiền nói tiếp:
- Em đi chuyến này, có nghĩa là em về luôn Sài Gòn đó. Em về trước. Em sẽ đi học lại để chờ anh. Rồi một ngày nào đó có dịp anh lại về. Chúng mình sẽ làm đám cưới muộn ra mắt bà con họ hàng. Từ đó vợ chồng mình hoàn toàn hạnh phúc, sum họp với nhau cho đến tóc bạc răng long. Phải không anh?
-...
- Tương lai mình rạng rỡ biết bao nhiêu! Em sẽ sinh cho anh một đàn con thật mũm mĩm, dễ thương. Hàng ngày, cha con dẫn nhau đi dạo phố phường. Vui biết bao nhiêu, hén anh? Nhưng mà... nhưng mà... em về trước một mình, em nhớ thương anh, chắc em cũng chẳng học hành gì nổi. Hồn em, anh bắt mất, anh giữ lại ở đây nè.
- Còn anh? Hồn anh nó có ở đây đâu.
- Nhưng nay mai rồi anh cũng có dịp thoát về với em mà. Em tin chắc không lâu đâu. Mình chỉ xa nhau có một thời gian ngắn thôi.
- Chắc gì...
- Sao không chắc? Phải chắc mới được. Đức tin của em mạnh lắm.
- Tin là một chuyện, hy vọng là một chuyện, còn thực tế lại là một chuyện khác.
- Anh nói! Có tin, có hy vọng mình mới phấn đấu, mới sống được chứ anh. Anh đã chẳng dạy em như vậy hay sao? Trước kia anh an ủi em khuyến khích em, dạy em tin tưởng, lạc quan, phải biết hy vọng, giờ anh lại... Ế lêu lêu! Anh xấu lắm.
Nàng phá lên cười làm tôi phải bật cười theo:
- Em nói phải chứ? - Hiền hỏi.
- Ừ, phải!
- Thôi hén! Bỏ chuyện đó đi? Nghe em tính nè!
- Tính gì?
- Mai em về B2 nhập vào Đoàn Văn công. Trễ lắm là ba hôm sau, em theo Đoàn Văn công về bên Khu B. Chắc chắn trăm phần trăm là phải đi qua hai con lộ chiến lược.
- Đúng. Đường 16 và đường 13. Đường 16 là đường Bình Dương đi Phước Thành, Đồng Xoài, Phước Long. Đường 13 là đường Bình Dương đi Bình Long, Lộc Ninh, Hớn Quản sang Lào.
- Đó! Em còn biết đường dây giao liên qua lộ còn phải đi ngang qua ấp chiến lược và Khu Dinh Điền. Nếu qua lộ ban ngày em sẽ cố đi thụt lại phía sau. Trong khi mọi người hối hả chạy qua lộ em sẽ núp lại một chỗ nào đó trông chừng nào biết chắc chắn không còn ai tìm kiếm nữa thì em men ra đường, đi xuôi theo lộ chừng vài cây số ở đó chờ xe đò đón về Sài Gòn.
- Nếu qua lộ ban đêm?
- Dễ ợt hè! Dễ hơn ban ngày nhiều lắm. Em cũng đi sau, tạt qua bên đường núp lại. Hay lúc ngang ấp chiến lược, em làm bộ sứt quai dép đi sau rồi lủi vào xóm nhà của đồng bào. Qua bữa sau em ngụy trang thành đồng bào địa phương ra đường đón xe.
- Tuy vậy, dù ngày hay đêm gì cũng không dễ như em tưởng. Em phải bình tĩnh, sáng suốt, biết tuỳ cơ ứng biến mới được. Như em đã thấy, cách thức đi đường, Cảnh vệ đường dây bao giờ họ cũng chia làm ba tổ. Tổ bám đường, gác đường, tổ theo khách và tổ sau cùng đi đoạn hậu để kiểm soát. Em mà có cử chỉ gì bất thường họ sẽ để ý ngay. Họ sẽ theo dõi, kèm sát một bên, vô phương cạy gỡ gì được.
- Em biết chứ! Nhưng anh tin em đi! Em đủ khôn ngoan để lừa họ, qua mặt họ.
- Ví dụ?
- Ví dụ như em vờ trặc chân, đi lẹ không được, nhường họ lên trước, em theo đuôi phía sau. Em nhờ họ mang dùm cái bồng quần áo, đồ đạc để họ tin.
- Họ không chịu qua mặt, cứ bắt em đi trước thì sao?
- Lo gì anh. Lúc tới trạm, sửa soạn qua đường, «ngoại giao» trước em, «ga-lăng» họ, họ híp mắt ra rồi. Họ híp mắt họ mới hổng thấy đường, hổng để ý...
Đàn bà con gái, sử dụng tới vũ khí đặc biệt của họ thì nguy hiểm thật. Đàn ông con trai vẫn biết vậy mà cứ mắc móp họ như thường.
Hiền để tay lên ngực tôi:
- Anh cho phép em làm vậy hén? Hổng được ghen à!
- Ghen chó gì được mà ghen.
- Vậy thưởng em đi!
- Ừ!
Và tôi cúi xuống...
Đến giờ ăn chiều, tôi và Hiền lại dìu nhau về. Anh chị em 195 chưa ai hay tin Hiền được thuyên chuyển công tác, ngoại trừ Hai Minh, tôi và Hiền. Anh Cảnh vệ B2 mang thư quyết định, cũng chưa biết sự kiện trên, nếu biết, anh ta đã ba hoa thiên địa với chị em lúc mới đến rồi. Đàng này anh ta làm thinh tức B2 chả nói gì cho anh ta biết, anh ta chỉ có bổn phận mạng thư đi và chờ trả lời thôi.
Đường ra rẫy phải đi ngang nhà tôi ở nên tôi và Hiền vừa về đến sân gặp Minh vừa xách ca muỗng từ thềm bước ra. Minh cười nói oang oang:
- Chà! Tôi tưởng người ta mải mê tâm sự không cần ăn cơm chớ!
Hiền dí dỏm:
- Đói chết anh Hai. Đói nó gầy ra hết đẹp làm sao người ta cho mình ca hát.
- Ờ, nè chị! Làm gì ăn cơm rồi chị cũng phải viết cho tôi một bản tự kiểm.
- Ủa...
- Ủa gì! Nguyên tắc nhà nước như vậy mà! Mỗi khi được thuyên chuyển đến đơn vị mới phải mang theo đầy đủ hồ sơ cá nhân từ đơn vị cũ đến chớ! Một bản lý lịch có nhận xét của thủ trưởng đơn vị nè. Một bản tự kiểm viết tay, có ghi lời phê, nhận xét của tập thể và đề nghị của thủ trưởng nè. Sau cùng mới là quyết định thuyên chuyển. Thiếu những cái đó, đơn vị mới ai chịu nhận?
- Tôi chỉ mới có quyết định không hè, anh Hai!
- Vậy chị phải viết bản tự kiểm. Lý lịch của chị thì chốc nữa tôi sẽ trao lại cho chị giữ. Đáng lẽ, theo nguyên tắc thì tôi không có quyền đưa lý lịch cho chị xem mà phải bỏ vào bao thư, trao cho anh Cảnh vệ B2 mang về B2 đưa cho Đảng Uỷ. Có vậy mới giữ được bí mật. Nhưng... mình ở đây, cần gì. Tôi sẽ ghi nhận xét tốt cho.
- Xin cảm ơn anh Hai!
- Còn giấy giới thiệu Đảng, Đoàn thì chị không phải Đảng viên, cũng không đoàn viên thì coi như không thành vấn đề.
- Viết bản tự kiểm như thế nào, anh Hai? Tôi chưa biết, cũng chưa viết lần nào. Đâu, cách thức ra sao?
Minh cười:
- Vậy là chị «dở trăm»! «Dở ngàn» chứ không phải «dở trăm» là đằng khác. Chiến sĩ cách mạng mà không biết viết bản tự kiểm!
Hiền nguýt dài:
- Vậy chớ anh có dạy lần nào đâu?
- Nói chơi với chị chứ dễ ợt hè! Bản tự kiểm tức là tự kiểm thảo đó. Tự mình kiểm thảo, nhận xét phân tích lấy những ưu khuyết của mình dựa vào sáu điểm. Chị nhớ cho kỹ nhé! Một là tư tưởng. Tư tưởng có an tâm công tác hay không? Có giao động diễn biến như thế nào thì ghi ra.
Hai là đoàn kết. Xem coi trong thời gian qua mình có hoà mình với tập thể không? Có đụng chạm mất đoàn kết với ai không? Tập thể có cảm tình với mình không? Cá tính của mình ưu khuyết ra sao? Ba là công tác. Tự mình nhận xét xem tinh thần công tác của mình như thế nào. Tích cực hay lười biếng? Kết quả công tác thời gian qua? Có ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh, có xung phong gương mẫu? v.v...
Ngưng một chút lấy giọng. Minh tiếp:
- Bốn là kỷ luật. Ở phần này tự xét xem mình có tinh thần kỷ luật không? Có chấp hành tốt nội quy kỷ luật, lệnh của trên đề ra? Đã bị khiển trách, khen thưởng ra sao? Năm là tiết kiệm. Tự mình nhận xét phê phán lấy mình có tinh thần tiết kiệm của công, bảo vệ tài sản của Đảng hay chểnh mảng, lãng phí. Ưu khuyết về mặt này như thế nào. Sáu là học tập. Xem mình có tinh thần học tập, tinh thần cầu tiến không? Siêng hay lười. Học thì có ba cái: học văn hoá, học chính trị, học chuyên môn kinh nghiệm. Mình có đẻ ra đường sáng kiến nào hay ho không? Đó, đại khái là vậy.
Hiền lè lưỡi:
- Anh nói gì dài quá tôi quên hết rồi.
- Nữa! Gì mà quên. Chị cứ nhớ 6 điểm vầy là ăn tiền. «Tư, đoàn, công, kỷ, tiết, học» Tư là tư tưởng, Đoàn là đoàn kết, Công là công tác, Kỷ là kỷ luật, Tiết là tiết kiệm, Học là học tập.
Hiền lẩm bẩm lập lại:
- Tư, đoàn, công, kỷ, tiết, học. Rồi, nhớ rồi anh.
- Viết xong chị phải ký tên ở dưới nghe.
- Ủa phải ký tên nữa sao?
- Ký chớ! Ký tên để người ta mới chấp nhận là do chị tự tay viết ra chớ. Còn vào đầu chị phải viết tựa là Bản Tự kiểm rồi đề ngày tháng ở trên xuống hàng phải viết tên họ rồi... này! Đại khái như sau: «Tôi tên là Nguyễn thị B. cấp bậc: chiến sĩ, chức vụ: chiến sĩ thuộc A1, B195, U.50, trong thời gian công tác tại đơn vị B195 từ ngày, tháng, năm 1962 đến ngày tháng, năm 1964 xin tự kiểm như sau » Một, Tư Tưởng, vân vân. Hai: Đoàn kết, vân vân. Vậy đó!
Hiền lắc đầu:
- Rắc rối quá. Nghe anh nói sơ qua cũng đủ nhức đầu rồi!
Tôi cũng nghe nhức đầu như Hiền. Cái trò tự kiểm này quả là một hình thức kiểm soát quá chặt chẽ. Chặt chẽ đến đáng sợ. Người ta muốn hiểu, muốn biết chi li từng tí, từ tư tưởng, hành động, việc làm, cá tính của từng cá nhân.
Minh lại cười:
- Vậy mà chị cho là nhức đầu sao? Đáng lẽ, đúng theo thủ tục, chị viết bản tự kiểm xong rồi chị phải đem ra đọc từng điểm trước một buổi họp toàn đơn vị cho tập thể nghe. Kế đó tập thể xúm lại nhận xét, phê bình từng điểm, góp ý kiến thêm cho đầy đủ. Một mặt, giúp đỡ sự thiếu sót của chị. Một mặt kiểm tra lại những điều chị viết có thành khẩn, có đúng không. Tôi phải tóm tắt những ý kiến của tập thể ghi thêm phía dưới bản tự kiểm cùng ghi nhận xét của Đảng, của đơn vị. Chớ đâu phải chị viết xong là xong đâu. Nhưng trường hợp đặc biệt, làm cái trò đó thêm cực chớ... chẳng ra làm sao.
Tôi muốn dành thì giờ đó để anh chị được tâm tình với nhau cho thỏa mãn trước khi chia tay. Thông cảm mà!
Hiền thở dài sườn sượt:
- May nhờ anh thông cảm cho chớ bắt Hiền làm đúng theo thủ tục anh nói mất ít lắm cũng hai ký lô thịt.
- Cái kiểu tự kiểm chung chung vầy còn đỡ đó chị. Chứ còn kiểu làm bản tự kiểm đặc biệt khi gặp phải một khuyết điểm hệ trọng nào, cái đó mới đáng sợ. Vừa tự phê, vừa phân tách nguyên nhân, ảnh hưởng, vừa nhận xét, vừa phản tĩnh, thành khẩn ăn năn thì chị xem, tay nào vô phúc bị bắt làm bản tự kiểm có nước khóc luôn.
Nghe Minh giải thích, tôi chợt nhớ đến Duyên ở bệnh viện G2, ngày tôi mới từ đồng bằng lên đến B2, bị sốt rét đưa đi điều trị tại đây. Duyên làm vỡ cái ống nhiệt kế. Đúng ra Duyên không làm vỡ mà do bệnh nhân làm vỡ, nhưng trách nhiệm Duyên phải bồi thường ống nhiệt kế, còn phải làm bản tự kiểm.
Như vậy, cái kiểu bản tự kiểm đặc biệt mà Minh vừa nói là kiểu bản tự kiểm Duyên đã làm.
Tiếng cười của anh chị em dưới nhà ăn vọng đến vui vẻ làm sao. Tôi nhắc Minh:
- Thôi, mình đi ăn anh Hai!
- Ừ! Đi! Chị Hiền nhớ dùm nhé! Nhớ viết bản tự kiểm. Kệ! Chị viết đại khái, tóm tắt cũng được. Nếu không có, không những chị bị cạo mà tôi còn bị cạo sát da hơn.
° ° °
Trời hửng sáng. Chim hoành hoạch mồng bắt đầu hót những tiếng rời rạc đầu tiên trên ngọn bằng lăng bên kia suối.
Tôi thảng thốt, buột miệng:
- Trời sáng rồi, em!
Hiền vẫn ôm chặt lấy tôi, không nhúc nhích. Thỉnh thoảng từng giọt sương đêm đọng trên lá lồ ô rơi, độp xuống nóc chòi, dội rõ mồn một trong không gian im vắng. Da thịt nàng nóng hổi, ấm áp chuyền sang tôi. Từng tiếng tim đập nhẹ, từng hơi thở mơn man nghe thơm như mùi hoa dạ lý dường ve vuốt cuốn chặt lấy tôi trong những phút chơi vơi, sau cùng của một đêm hạnh phúc chập chờn ngắn ngủi.
Người ta thường nhắc đến câu: «Có thức đêm mới biết đêm dài.» Sai rồi. Không đúng nữa rồi! Hai đứa tôi thức trắng đêm nay, sao trời mau sáng thế? Tôi vẫn tỉnh như sáo sậu dù mắt có hơi hoa đôi chút. Đêm nay ngắn quá mà!
Tôi bàng hoàng, thì thầm vào tai Hiền, lặp lại:
- Trời sáng rồi em!
Tiếng nàng nghe như trong mơ:
- Sáng rồi sao?
- Nhanh thật! Vậy là chúng mình sắp xa nhau rồi.
- Đừng nói, anh! Anh ôm chặt lấy em đi!
Trời sáng dần. Nắm trong chòi nhìn qua kẽ lá lồ ô rậm rạp tôi nhìn thấy màn sương mù trắng đã che lấp rẫy hoa màu. Gió sáng bắt đầu khua xào xạc trên ngọn lồ ô. Tiếng nước rơi lộp độp mau hơn như một trận mưa rào đi qua. Tôi giở mí tắm đắp bằng nỉ mỏng. Ngoài trời nghe lạnh.
Không thể dần dà được nữa, hai đứa hôn nhau một chiếc hôn thật dài rồi buông nhau ra, lồm cồm ngồi dậy. Tấm nylon cao su mỏng trải trên nền đất làm chiếu, nhăn nhíu gom vào giữa.
Tôi và Hiền, hai đứa lo thu dọn đồ đạc để vào nhà. Lặng thinh và buồn nản.
Chợt Hiền hỏi tôi:
- Nếu em chết thì sao, anh?
Tôi ngạc nhiên, nhìn sững nàng. Hiền cũng nhìn tôi với nụ cười buồn, gắng gượng trên môi:
- Sao bỗng nhiên em thấy trong đầu em nó kỳ kỳ, lo lo. Em nghĩ tới một cái gì bi quan, chết chóc. Cái cảm giác đó lạ lắm...
- Bậy! Em đừng nghĩ bậy...
- Không, em đâu có nghĩ gì. Tự nhiên em rùng mình một cái rồi cái cảm giác đó nó xuất hiện. Lạ hết sức. Nó bàng hoàng, ngây ngây làm sao ấy!
- Có lẽ mình bị ám ảnh vì chuyện chia ly, chuyện hạnh phúc lứa đôi và nhất là sau nhiều ngày tháng bị chôn chặt ở bên bờ Đồng Nai Thượng này. Tuy vậy chứ, khó chết lắm em. Trời vẫn thương tụi mình mà!
Tôi dẫn Hiền ra khỏi chòi. Hai đứa đi sóng đôi theo đường mòn vào nhà. Qua một đêm không ngủ, người ta nghe nhẹ nhõm, đầu trống rỗng và bước chân như xiên vẹo khập khiễng. Ánh sáng của buổi bình minh trở nên chói chang, cay mắt.
Tôi nhắc Hiền:
- Chuyến này em đi, xem như là gặp được cơ hội tốt, đáng giá ngàn vàng nhưng em nhớ đừng liều lĩnh em nhé! Phải cân nhắc tình hình, suy tính cho cẩn thận. Em về đến Sài Gòn rồi em nhớ đến nhà anh báo tin cho Cúc, Dũng nó biết. Nếu má có lên chơi, em nhớ chăm sóc thay anh, và nói cho ba má yên lòng. Ba má với mấy em sẽ vui mừng, sung sướng khi biết chúng mình nên vợ chồng, thương yêu nhau.
Tôi chỉ nói được vậy, rồi thôi. Cái giờ phút chia tay gần kề, nhất là sau một đêm thức trắng, những câu nói dự định những ý nghĩ tràn ngập ở buổi chiều hôm qua bỗng nhiên bay đi đâu mất sạch. Sự sáng suốt thường ngày cũng không còn.
Ăn sáng xong, anh chị em đi ra rẫy cả. Hai Minh đưa cho Hiền bản lý lịch cũng như trả lại Hiền bản tự kiểm có nhận xét phía dưới. Hai Minh cùng theo tôi đưa Hiền và anh Cảnh vệ B2 lội qua suối. Suốt trên quãng đường đưa tiễn, không ai nói với ai được câu nào.
Đến đường lớn, tất cả đều dừng chân lại. Hiền chia tay ra bắt tay Hai Minh. Có lẽ là cái bắt tay đầu tiên của nàng tại chiến khu này:
- Cảm ơn anh Hai nhiều lắm. Chúc anh Hai ở lại mạnh. Trong thời gian qua, nếu Hiền có lầm lỗi gì với anh Hai, xin anh Hai tha thứ cho. Lần đi này chắc là vĩnh biệt, không chắc có còn gặp lại anh Hai và anh chị em B195 mình...
Hiền vừa nói vừa rưng rưng nước mắt, Minh cố cười to, cố tự nhiên trong khi xúc động vờn lên đôi mi ươn ướt:
- Bậy chị! Tạm biệt thôi chớ! Thế nào chị cũng còn trở lại Khu A này ca hát cho tụi tôi nghe nữa chớ. Phải không chị? Tôi cũng xin chúc chị thượng lộ bình an và...
Minh ngập ngừng rồi ngưng hẳn. Minh cười lớn:
- Chúc chị được gặp nhiều may mắn.
Tôi bàng hoàng, xúc động đứng trơ người ra. Hiền quay sang tôi. Hai hàng nước mắt chảy dài, tuôn xuống khoé miệng. Mặt nàng bỗng xanh xao hẳn ra. Đôi mắt thẫn thờ, sâu thẳm, dại đi. Môi nàng mấp máy nhưng không thốt được lời nào.
Nếu không giữ kịp và không nhớ ra rằng bên mình còn có anh Cảnh vệ B2, còn có Hai Minh thì tôi đã ôm chầm lấy Hiền. Tôi thấy đầu óc quay cuồng. Không đứng vững. Hình ảnh của Hiền của bị nhoà đi vì nước mắt. Tôi bối rối, lắp bắp:
- Em... đi!
Tôi chỉ nói được vậy. Hiền quay mặt cúi đầu thất thểu bước đi. Bóng nàng nhoè ra, lớn hẳn lên với chiếc bồng xám trên lưng giữa màu đục nhờ của khu rừng không chút nắng.