Nguyên tác: Les Faux-Monnayeurs
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2020-11-20 22:15:04 +0700
Phần Thứ Nhất
Bernard tự nhủ:
- Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải.
Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.”
Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên.
- Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi.
Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi.
Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ.
- Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết.
Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại.
Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên.
Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác.
Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ.
Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói:
- Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì.
Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh:
- Tuyệt đối không thấy gì hết.
Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française.
Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn.
Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm.
Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói:
- Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết.
Và tên kia đáp trả lại chanh chua:
- Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt.
Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi:
- Bộ mày thích những bài của Maurras sao?
Và tên thứ nhất đáp:
- Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí.
Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng:
- Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu?
Tên thứ nhất cãi lại:
- Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư?
- Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không?
- Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính.
- Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu?
- Phải, thằng Georges.
- Cậu và Georges không thôi?
- Ừ.
- Thằng nhỏ biết kín miệng không?
- Nếu cần. Tại sao thế?
- Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không?
Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo:
- Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa.
- Thế thì làm sao...
Olivier cười:
- Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ.
- Liệu bác gác cổng có để mình vào không?
- Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại.
Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên.
Lucien bảo:
- Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên.
- Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu.
Lucien hăng say nói tiếp:
- Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao?
Olivier phản đối hờ hững:
- Không, đừng thêm tượng vào, đừng thêm tượng vào.
Tiếp đó, dưới cái nhìn buồn bã của Lucien, Olivier sốt sắng lớn tiếng:
- Ờ, thành công được thì tuyệt đấy, cậu ạ.
* * *
(1) Charles Maurras (1868-1952) là nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình người Pháp. Ông là người sáng lập và nhà tư tưởng của tờ Action Française.
II
Trong thư từ của Poussin, tuyệt không có dấu vết một bổn phận nào của ông đối với cha mẹ. Sau đó không bao giờ ông ghi lại sự tiếc nuối sống xa cha mẹ. Tự ý bỏ đi sống ở La Mã, ông bỏ mất mọi ý muốn hồi hương, có thể nói mọi kỉ niệm luôn nữa.
PAUL DESJARDINS (Poussin)
Ông Profitendieu nóng lòng về nhà và nhận thấy ông bạn đồng nghiệp Molinier, hiện cùng sánh vai dọc đại lộ Saint-Germain, bước đi chậm quá. Ông Albéric Profitendieu vừa trải qua một ngày ở tòa án đặc biệt bề bộn: ông lấy làm lo lắng vì cảm thấy nằng nặng thế nào bên hông phải; ông mệt gan, gan của ông hơi dễ đau. Ông liên tưởng sẽ được tắm lát nữa, không có gì giúp ông nghỉ ngơi, rũ sạch âu lo trong ngày cho bằng tắm một trận tới nơi tới chốn; nghĩ trước tới tắm nên ông không dùng cữ chiều, cho rằng tắm, dù là nước ấm, với cái dạ dày trống rỗng mới thật là chu đáo. Đúng ra, đây có lẽ chỉ là một định kiến; nhưng định kiến là trụ cột của văn hóa.
Ông Oscar Molinier cố hết sức rảo bước theo ông Profitendieu, nhưng ông thấp người hơn nhiều và bắp thịt đùi kém nảy nở; hơn thế nữa, tim hơi bị màng mỡ dễ cho ông thở dốc. Ông Profitendieu, còn tráng kiện ở tuổi năm mươi, ngực thong dong và dáng đi nhanh nhẹn, có thể bước vượt bỏ ông bạn như không, nhưng ông là người rất giữ gìn thể thống; đồng nghiệp của ông cao niên hơn, kì cựu hơn trong nghề: ông phải kính trọng. Ông còn cần được người đời bỏ qua cho về khoản tài sản của ông, một tài sản kếch xù kể từ buổi cha mẹ vợ mất đi, trong khi đó của cải ông Molinier đều nằm trong lương bổng chủ tịch đoàn, lương bổng không đáng chi, và không tương xứng với địa vị cao cả mà ông chấp chưởng một cách quá uy thế nên khỏa lấp được sự kém cỏi của đồng lương. Ông Profitendieu sốt ruột mà dằn nén; ông quay nhìn ông Molinier và thấy ông này thấm chặm mồ hôi; rốt cục lại những điều ông Molinier nói khiến ông quan tâm vô cùng; nhưng quan điểm hai người không giống nhau và cuộc tranh luận bừng bốc lên.
Ông Molinier bảo:
- Anh cho dò xét trong nhà đi. Góp nhặt những lời tường trình của người gác cổng với con giúp việc giả mạo, thế là được. Nhưng anh hãy đề phòng, chỉ cần anh đẩy cuộc điều tra đi xa quá một chút là công chuyện nó vuột khỏi tay anh... Tôi muốn nói nó dễ bề lôi cuốn anh quá xa không như anh dự tưởng lúc ban đầu.
- Tính liệu như thế có dính líu gì tới luật pháp đâu.
- Nào, nào, anh với tôi, chúng mình đều rõ luật pháp phải như thế nào, và luật pháp nó như thế nào. Chúng ta chọn cái khả quan nhất mà làm, đồng ý; nhưng mà, dẫu làm hoàn hảo thế nào, chúng ta đi đến sự phiên phiến là cùng. Trường hợp làm anh bận tâm hôm nay lại là một trường hợp tế nhị đặc biệt: trong mười lăm tên bị cáo hoặc mai đây sẽ thành bị cáo do một tiếng nói của anh, hết chín tên là vị thành niên. Và có mấy đứa, anh biết đấy, là con cái những gia đình tăm tiếng. Cho nên trong lúc này tôi coi mọi cái trát tống giam nhỏ nhặt đều là vụng về lộ liễu. Báo chí của đảng phái sẽ nắm lấy nội vụ, thế là anh mở cửa cho đủ thứ tống tiền, bôi nhọ. Anh sẽ không làm gì nổi: dù anh thận trọng bao nhiêu, làm sao anh ngăn ngừa người ta nêu tên tuổi này tên tuổi kia... Tôi không có tư cách khuyên nhủ anh, và anh biết tôi muốn được anh khuyên nhủ hơn nhiều, anh là người mà tôi luôn luôn nhìn nhận và ngưỡng vọng cái cao kiến, minh mẫn, trực tính... Nhưng nếu ở địa vị anh, tôi sẽ hành động thế này: tôi tìm cách chấm dứt vụ xì căng đan ghê tởm này bằng cách tóm cổ bốn năm đứa chủ mưu... Phải, tôi biết chúng nó khó bắt, nhưng khổ nỗi, đó là nghề nghiệp chúng mình. Tôi sẽ ra lệnh niêm phong chỗ ở, niêm phong cái sân khấu những tấn tuồng kia đi, và dàn xếp sao để báo cho bọn con trời ấy biết, nhẹ nhàng, bí mật, và chỉ cốt sao ngăn ngừa tái phạm. À! Chẳng hạn như anh cứ cho bắt nhốt bọn phụ nữ; tôi sẵn sàng chấp thuận điều này; hình như ở đây mình phải đối phó với một vài thứ người ngợm hư hỏng không dò nổi và cần thanh trừng bọn đó trong xã hội. Tuy nhiên, một lần nữa, anh đừng bắt mấy thằng nhỏ; dọa cho chúng sợ là được rồi, kế đó chụp mũ chúng nó bằng cái nhãn hiệu “hành động không suy tính” và để cho chúng kinh ngạc một thời gian lâu vì chỉ bị một vố hết hồn không thôi. Anh nghĩ coi, ba đứa trong bọn chưa tới mười bốn tuổi và cha mẹ chúng chắc hẳn xem chúng như thiên thần trong trắng hồn nhiên. Nhưng, nói cho ngay, coi nào, nói giữa anh với tôi thôi, tuổi đó lẽ nào mình đã nghĩ tới đàn bà?
Ông đứng lại, hụt hơi vì nói thao thao hơn là vì đi, và sẵn nắm tay áo ông Profitendieu, buộc ông này dừng theo. Ông lại nói:
- Nói cách khác, ngày xưa nếu chúng mình có tư tưởng chuyện đó, thì nghĩa là tư tưởng một cách lí tưởng, bí nhiệm, sùng mộ, có thể nói như thế. Bọn nhỏ hôm nay, anh thấy chưa, chúng nó không còn lí tưởng... À, con cái anh thế nào? Cố nhiên, những điều này không phải tôi nói cho mấy đứa con anh. Tôi biết rằng với chúng nó, có anh coi ngó, sợ gì những sự lầm lỗi như thế kia.
Quả tình từ trước tới nay ông Profitendieu chỉ một nước tự hào vì con cái, nhưng không phải ông ảo tưởng: giáo dục có hay ho nhất đời đi nữa cũng không chế ngự những bản năng xấu; nhờ trời, lũ con ông không có bản năng xấu, có lẽ bọn con ông Molinier cũng thế; vì thế cả hai ông mặc nhiên khỏi lo những giao du xấu và đọc sách xấu. Nhưng cấm đoán những cái mình không ngăn ngừa nổi thì cấm đoán làm gì? Những cuốn sách cấm đọc, đứa trẻ đọc lén. Ông, đường lối của ông giản dị vô cùng: sách nào xấu, ông không cấm đọc; nhưng ông liệu thế nào cho bầy trẻ không ham đọc sách đó. Còn vấn đề bàn tới kia, ông sẽ suy nghĩ thêm và hứa, dù sao đi nữa, nếu có làm gì thì thông báo cho ông Molinier hay. Duy có việc kiểm soát kín đáo thì vẫn tiếp tục vì vụ tệ hại kéo dài đã ba tháng thì có thể cho nó kéo dài vài hôm hay vài tuần nữa vậy. Hơn nữa, vụ nghỉ hè sẽ lãnh phần phân tán bọn du đãng. Tạm biệt.
Bây giờ ông Profitendieu mới có thể bước vội.
Vừa về đến, ông đã chạy vào phòng tắm và mở mấy vòi nước trong bể. Antoine vốn mong ngóng ông chủ nãy giờ nên lại hóa ra giáp mặt ông nơi hành lang.
Lão bộc trung thành này ở trong gia đình mười lăm năm nay; lão đã chứng kiến bọn nhỏ lớn lên. Lão thấy được lắm chuyện; hồ nghi lắm chuyện khác, nhưng làm mặt không để ý những gì người ta muốn giấu giếm lão. Bernard không khỏi có thiện cảm với Antoine. Hắn không muốn ra đi mà không nói lời từ biệt lão. Và có thể rằng vì giận gia đình, hắn thích thổ lộ cho người giúp việc hèn mọn sự ra đi của hắn mà những người thân cận lại không hay; nhưng phải nói rằng khi Bernard phân phô thì không có ai ở nhà. Vả lại, Bernard khó lòng từ biệt mà người nhà khỏi kiếm cách níu giữ hắn lại. Hắn ngại giải thích. Với Antoine thì hắn có thể nói vỏn vẹn: “Tôi đi đây”. Nhưng vừa nói hắn vừa chia tay một cách trịnh trọng đến nỗi lão bộc kinh ngạc.
- Cậu không về xơi cơm sao?
- Về ngủ cũng không, bộc ạ.
Và vì Antonie ngơ ngác không biết phải hiểu như thế nào, không biết có nên gặng hỏi không, Bernard lặp lại đầy dụng ý hơn: “Tôi đi đây”, rồi nói thêm:
- Tôi có để lại lá thư trên bàn của... - hắn không thể quyết định nói: “của bố” nên sửa lại - ở trên bàn phòng làm việc. Chào bộc nhé.
Bắt tay Antoine, hắn xúc động như thể đang cùng một lúc giã từ quá khứ; hắn lặp lại lời chào thật nhanh, rồi bỏ đi, không để cho tiếng nấc lớn kịp dâng lên cổ họng vỡ òa ra.
Antoine kinh nghi không hiểu để cho hắn ra đi thế kia chẳng phải là một trọng trách hay sao - nhưng làm sao cầm giữ hắn lại được?
Dù sự ra đi của Bernard đối với mọi người trong gia đình là một biến cố bất ngờ, quái gở - Antoine vẫn cảm thấy thế - nhưng vai trò lão bộc vẹn toàn của lão là không lộ vẻ kinh ngạc. Lão không cần biết rằng ông Profitendieu chẳng hay. Có lẽ lão chỉ có thể hỏi hắn: “Ông lớn có biết cậu đi không?”; nhưng như vậy lão mất hết lợi thế và chẳng thích thú gì. Nếu lão có nóng lòng trông chờ ông chủ là để rủ rỉ vào tai ông bằng giọng bình thường, kính nhường và giống như một lời thông báo đơn giản Bernard nhờ lão chuyển lại, rủ rỉ câu nói mà lão đã ngâm nga soạn sửa:
- Thưa trước khi đi, cậu Bernard có để lại một lá thư cho ông lớn trong phòng làm việc.
Câu quá giản dị dễ trôi qua không được chú ý; lão hoài công tìm kiếm một điều gì đó lớn lao hơn và tự nhiên, mà vẫn không tìm thấy được gì. Nhưng vì chưa hề xảy ra chuyện Bernard vắng nhà, nên ông Profitendieu mà Antoine quan sát qua khóe mắt, không sao nén nổi giật mình:
- Sao? Trước khi...
Ông trấn tĩnh lại ngay, ông không nên để lộ sự kinh ngạc trước mắt một kẻ bề dưới; ý nghĩ mình là kẻ bề trên không rời ông phân li. Ông dứt lời bằng một giọng thật bình thản, giọng chủ nhân thật sự:
- Được rồi.
Và trong khi đi vào phòng:
- Bộc bảo thư để đâu?
- Thưa, ở trên bàn làm việc của ông lớn.
Ông Profitendieu, vừa vào phòng, quả nhiên trông thấy một bao thư đặt lồ lộ trước mặt chiếc ghế phô tơi, nơi ông quen ngồi viết; nhưng Antoine đâu đã dời gót nhanh thế, và ông Profitendieu đọc chưa được hai dòng thư thì đã nghe gõ cửa.
- Tôi quên thưa với ông lớn là có hai người đang chờ ở phòng khách nhỏ.
- Người nào thế?
- Thưa tôi không rõ.
- Họ đi với nhau?
- Hình như không ạ.
- Họ muốn gì ở tôi?
- Thưa không rõ. Họ mong yết kiến ông lớn.
Ông Profitendieu cảm thấy mất kiên nhẫn.
- Tôi đã bảo và nhắc đi nhắc lại là tôi không muốn ai đến đây quấy rầy tôi - nhất là giờ này; tôi có ngày giờ tiếp khách tòa... Tại sao bộc đưa họ vào?
- Cả hai người đều bảo có việc cần kíp trình bày với ông lớn.
- Họ đến lâu chưa?
- Gần một tiếng đồng hồ rồi ạ.
Ông Profitendieu đi vài bước trong phòng và quệt tay lên trán; tay kia ông cầm lá thư của Bernard. Antoine đứng trước cửa, đường hoàng, không lộ vẻ gì hết. Cuối cùng lão thích thú thấy ông dự thẩm mất bình tĩnh và lần đầu tiên trong đời nghe ông giậm chân quát tháo:
- Để tôi yên coi nào! Để tôi yên! Bảo họ tôi bận. Bảo hộ hôm khác đến.
Antoine vừa ra khỏi là ông Profitendieu chạy ra cửa:
- Antoine! Antoine!... Khóa nước trong bể lại luôn.
Thế mà định tắm đấy! Ông tiến tới bên cửa sổ và đọc:
Thưa ông,
Chiều hôm nay sau khi tình cờ phát giác được, tôi đã hiểu ra rằng tôi có bổn phận không còn coi ông như cha, và đó là điều nhẹ nhõm vô cùng đối với tôi. Tự cảm thấy quá ít yêu ông, lâu nay tôi ngỡ mình là thằng con lạc giống; thà biết chưa từng là con ông. Có lẽ ông mong mỏi tôi phải biết ơn ông vì đã được ông đối xử như con, nhưng trước hết tôi luôn luôn cảm thấy giữa các con ông và tôi một sự cách biệt trong lối đối xử, và về khoản này, tất cả những gì ông làm, tôi hiểu ông cũng khá nên tôi biết rằng sở dĩ thế chính là vì ông sợ xì căng đan, chính là để che đậy một tình cảnh không lấy chi làm thơm danh cho ông lắm - và sau hết là vì ông không thể làm sao khác. Thà ra đi không nhìn lại mẹ tôi, vì vĩnh biệt sợ tôi mềm lòng chăng và cũng vì trước mặt tôi, mẹ có thể tự cảm thấy lâm vào cảnh ngộ lỡ làng - điều này gây khó nghĩ cho tôi. Tôi không chắc tình của mẹ đối với tôi đã nồng nàn đến độ, bởi tôi thường hay ở nội trú, mẹ ít có thì giờ biết đến tôi, và bởi hình ảnh tôi không ngớt nhắc nhở mẹ một cái gì đó trong đời mà người mong bôi xóa đi, nên chi tôi nghĩ rằng người sẽ thấy tôi ra đi mà nhẹ lòng vừa ý. Nếu ông có can đảm, xin hãy nói với người rằng tôi không giận người đã sinh tôi làm đứa con hoang, trái lại là khác, tôi thích thế này còn hơn là ông sinh ra tôi. (Tôi xin lỗi nói lên điều đó, tôi không định viết cho ông những lời sỉ nhục, nhưng những điều tôi nói lên đây sẽ giúp ông khinh rẻ tôi, và điều này sẽ làm ông thoải mái).
Nếu ông muốn tôi giữ im lặng về những lí do thầm kín khiến tôi bỏ nhà ra đi, tôi xin ông đừng tìm cách bắt tôi trở về. Quyết định xa ông của tôi rất quyết liệt. Tôi không biết sự nuôi dưỡng tôi cho tới ngày hôm nay bắt ông tốn kém là bao, tôi có thể cam thân sống bám vào ông chừng nào tôi còn mờ mịt, nhưng điều khỏi nói, từ nay về sau, tôi muốn không thụ nhận gì nữa của ông. Ý nghĩ nợ nần gì của ông, đối với tôi, đều khó chấp nhận, và thiết tưởng, nếu bắt đầu lại tất cả tôi thà chết đói hơn là ngồi chung bàn với ông. May hình như tôi nhớ có nghe nói rằng mẹ tôi, khi kết hôn với ông, là người giàu có hơn ông. Do đó tôi có quyền nghĩ rằng tôi sống là chỉ do mẹ tôi đài thọ. Tôi cảm ơn mẹ, miễn cho mẹ những khoản còn lại, và xin người quên tôi. Ông sẽ tìm cách giải thích sự ra đi của tôi với những ai lỡ ra lấy đó làm ngạc nhiên. Tôi cho phép ông tấn công tôi (nhưng tôi thừa biết ông sẽ không chờ tôi cho phép mới làm).
Tôi kí bằng cái tên họ buồn cười vốn của ông, tôi muốn có phép gì trả lại nó cho ông, tên mà tôi chưa kịp làm dơ.
BERNARD PROFITENDIEU
T.B: Tôi để lại ở nhà ông mọi vật dụng của tôi, chúng thuộc về Caloub thì có lẽ chính đáng hơn, mong như thế giùm ông.
Ông Profitendieu lảo đảo tìm tới chiếc ghế. Ông muốn nghĩ ngợi, nhưng ý nghĩ quay cuồng hỗn loạn trong đầu. Hơn nữa, ông cảm thấy đau nhéo nhè nhẹ ở bên phải, đấy, bên dưới sườn, cứ thế không hết được: gan quặn đấy. Có nước suối Vichy ở nhà hay không nữa chứ? Vợ ông về rồi thì đã may! Làm thế nào cho bà biết Bernard bỏ nhà đây? Nên đưa lá thư cho bà chăng? Lá thư bất công, bất công ghê gớm. Ông bất bình là phải nhất. Nỗi buồn của ông, ông muốn coi đó như là bất bình. Ông thở mạnh và theo mỗi lần thở ra bật lên tiếng “ôi trời!” nhanh và yếu như tiếng thở dài. Cơn đau nhói bên mình hòa lẫn với cơn buồn, biểu lộ và định vị cho nỗi buồn. Dễ thường ông mang nỗi buồn nơi lá gan. Ông buông mình xuống ghế và đọc lại lá thư của Bernard. Ông nhún vai héo hắt. Lá thư rõ độc địa đối với ông, nhưng ông cảm nhận ra trong đó nào giận hờn, nào thách thức, phách lối. Không đời nào có ai trong bầy con của ông, con chính thức, viết nổi như thế kia, chính ông cũng chịu thôi, ông thừa biết thế, bởi lẽ không có gì trong con người chúng nó mà ông khỏi nhận biết dư vang trong chính mình. Đã đành ông luôn luôn cho rằng mình phải nên chê bai những gì cảm thấy là mới mẻ, thô bạo, và bất trị trong con người Bernard; nhưng ông không còn tin như thế nữa, ông cảm thấy rõ rằng chính vì những cái đó mà ông yêu hắn như chưa từng yêu mấy đứa con khác.
Từ hồi nãy đã nghe tiếng Cécile ở phòng bên cạnh, nàng nghe hòa nhạc về, ngồi bên cây đàn dương cầm và đàn đi đàn lại không thôi một câu trong một đoản khúc đò đưa. Cuối cùng ông Albéric Profitendieu hết chịu nổi. Ông hé mở cửa phòng khách và, bằng một giọng than van, gần như van xin, vì cơn đau gan bắt đầu hành hạ ông khốn đốn (hơn nữa, ông luôn rụt rè phần nào đối với con gái):
- Cécile con à, chắc có nước suối Vichy ở nhà không con? Nếu không có, thì con sai đi kiếm. Với lại con yêu của bố ngừng đàn tí xíu nhé.
- Bố đau ư?
- Đâu có, đâu có. Nhưng bố cần suy nghĩ tí xíu từ giờ cho đến bữa ăn, tiếng đàn của con làm bố rối trí.
Và vì đau đớn làm cho ông dịu dàng, ông nói thêm âu yếm:
- Con chơi điệu gì đó hay lắm. Điệu gì thế?
Nhưng ông bước ra không kịp nghe trả lời. Tuy nhiên con gái ông vốn biết ông không hiểu gì âm nhạc và lẫn lộn bài ca Viens, Poupoule với hành khúc của Tannhäuser (hay chính cô nàng đặt điều nói thế), Cécile cũng chẳng có ý định trả lời cho ông. Nhưng kìa, ông đã mở cửa ra lại:
- Mẹ con chưa về sao?
- Thưa chưa ạ.
Vô lí thế. Bà sẽ về tới quá chậm không đủ thì giờ nói với bà trước bữa ăn. Bày đặt được điều gì đây để tạm thời giải thích sự vắng mặt của Bernard? Ông vẫn không thể nói lại sự thật, không thể phơi bày cho lũ con biết cái bí mật về vụ lạc lòng phút chốc của mẹ chúng. Chao ơi! Mọi sự đã được hoàn toàn tha thứ, lãng quên, tu chỉnh. Đứa con út chào đời đã thắt chặt sự dàn hòa giữa hai người. Thế mà bỗng đâu cái bóng ma phục thù kia đục từ quá khứ lên, cái tử thi kia mà sóng xô tấp vào...
Thôi chứ! Cái gì nữa đấy? Cửa phòng làm việc của ông mở ra không tiếng động; mau mau, ông chuồi lá thư vào túi áo trong, màn cửa nhấc lên thật khẽ. Thằng Caloub.
- Bố này, câu La-tinh này nghĩa là gì? Con không hiểu gì hết.
- Bố đã bảo con đừng có đi vào mà không gõ cửa. Với lại bố không muốn con vào quấy rầy bố mãi thế này. Con quen nhờ vả và nương tựa vào người khác thay vì đem sức mình ra. Hôm qua là bài toán hình học, hôm nay là một... câu La-tinh của ai đấy?
Caloub chìa cuốn vở:
- Họ không nói, nhưng mà, đây này, bố coi: bố thế nào cũng nhận ra. Họ đọc cho viết, nhưng chắc con viết sai. Con muốn biết con viết có đúng không đã...
Ông Profitendieu cầm lấy cuốn vở, nhưng ông đau quá lắm. Ông dịu dàng đẩy thằng bé ra:
- Lát nữa. Sắp sửa ăn rồi. Anh Charles về chưa?
- Anh xuống phòng làm việc rồi. (Luật sư Charles tiếp khách ở tầng trệt).
- Con đi nói với anh lên gặp bố. Nhanh lên.
Tiếng chuông reo! Đến bây giờ bà Profitendieu mới trở về, bà xin lỗi đã về muộn, bà hẳn đã đi thăm nhiều nơi. Bà ái ngại thấy chồng đau. Làm gì được giúp ông? Quả tình sắc diện của ông bệnh lắm. Ông sẽ không ăn được đâu. Ăn không có ông vậy. Nhưng sau bữa ăn bà sẽ cùng mấy đứa con lên gặp ông. - Còn Bernard? - Ừ nhỉ, thằng bạn của Bernard... bà biết cái thằng bày vẽ toán cho nó, chắc nó đến đây đem Bernard đi ăn rồi.
Profitendieu cảm thấy dễ chịu hơn. Lúc đầu ông sợ mình đau quá không mở miệng nổi. Mà lại cần giải thích sự khiếm diện của Bernard nữa. Bây giờ ông biết mình cần nên nói gì, dù có đau lòng. Ông cảm thấy mình vững tâm và quyết tâm. Mối lo sợ duy nhất của ông là vợ ông sẽ cắt ngang mà khóc lóc, la lối, sợ bà đâm quẩn trí...
Một giờ sau, bà bước vào với ba con, bà tới gần. Ông để bà ngồi sát cạnh ghế ông. Bằng giọng ra lệnh, ông nói nhỏ:
- Mẹ nó hãy cố ngồi yên, và đừng nói lời nào, nghe không? Sau đó mẹ nó và tôi sẽ chuyện trò với nhau.
Và trong khi nói, ông nắm bàn tay của bà trong hai tay mình.
- Nào, ngồi xuống, các con. Bố lúng túng thấy các con đứng trước mặt thế kia như khảo hạch. Bố có chuyện rất buồn phải nói với các con... Bernard đã từ biệt chúng ta và chúng ta không còn gặp lại Bernard... trong một thời gian. Hôm nay bố phải cho các con biết điều mà lúc đầu bố đã che giấu các con, vì bố thích được thấy các con yêu Bernard như anh em, vì mẹ và bố yêu Bernard như con. Nhưng Bernard không phải là con của bố mẹ... Một người cậu của Bernard, em của mẹ đẻ Bernard khi lâm chung gửi gắm Bernard cho nhà mình... người cậu đó đã đến hồi chiều xin lại Bernard.
Một bầu im lặng nặng nề tiếp theo mấy lời của ông và mọi người nghe tiếng Caloub thút thít. Ai nấy chờ đợi, nghĩ rằng ông sẽ nói thêm.
Nhưng ông khoát tay:
- Bây giờ các con hãy ra ngoài. Bố cần nói chuyện với mẹ.
Tất cả đi xong xuôi, ông Profitendieu ngồi hồi lâu không nói năng gì. Bàn tay bà để trong đôi tay ông như thể chết rồi. Bằng bàn tay kia, bà đưa khăn lên mắt. Bà chống khuỷu tay vào chiếc bàn lớn, và quay mặt khóc. Qua những tiếng khóc nấc lay động người bà, ông Profitendieu nghe bà thì thào:
- Ôi! Mình ác thế... Ôi! Mình đã đuổi nó đi.
Hồi nãy, ông định không đưa lá thư của Bernard cho bà, nhưng đứng trước lời buộc tội bất công thế kia, ông chìa lá thư:
- Này, mẹ nó đọc đi.
- Tôi không đủ sức.
- Mình phải đọc mới được.
Ông không còn nghĩ tới cơn đau. Ông đưa mắt theo dõi bà suốt lá thư, từng dòng một. Hồi nãy trong khi nói, ông khó lòng ngăn nổi nước mắt, bây giờ ngay lúc mối xúc động bỏ rơi ông, ông nhìn vợ. Bà nghĩ sao? Vẫn một giọng trần tình, qua những tiếng nức nở như cũ, bà tiếp tục thì thầm:
- Trời! Tại sao mình nói cho nó... Đáng lẽ mình không nên nói cho nó...
- Ô hay, mình thấy rõ ràng tôi có nói gì với nó đâu... Đọc thư kĩ xem.
- Tôi đã đọc kĩ... Nhưng thế thì làm sao nó khám phá ra? Ai nói với nó?
Trời! Thế nghĩa là bà vẫn khăng khăng! Vì thế mà âm sắc của bà thê lương! Tai ương này đáng lẽ thắt chặt hai người lại. Ôi thôi! Ông Profitendieu mơ hồ nhận thấy tư tưởng của hai người rẽ lối khác nhau. Và trong khi bà phàn nàn buộc tội, đòi hỏi, ông tìm cách hướng cái đầu óc khăng khăng kia về những tình cảm tín mộ hơn, ông nói:
- Hình phạt đấy.
Ông đứng lên, vì nhu cầu tự nhiên muốn chế phục; bây giờ ông ưỡn thẳng người, quên và không kể gì tới cơn đau đớn mình mẩy, và nghiêm nghị, âu yếm, thị oai, đặt tay lên vai Marguerite. Ông thừa biết rằng bà bao giờ cũng chỉ ăn năn một cách không toàn vẹn về câu chuyện mà ông luôn muốn coi như sự yếu lòng nhất thời; giờ đây ông muốn nói cho vợ rằng mối bi ai này đây, sự thử thách này đây có thể dùng vào việc chuộc lại lỗi lầm, nhưng ông loay hoay tìm kiếm một mẫu lời nói sao cho vừa ý mình mà lại có hi vọng được thông cảm. Một bên vai của Marguerite cưỡng lại cái ấn tay nhè nhẹ của ông. Marguerite dư biết rằng, bao giờ cũng vậy thế nào ông cũng xuất khẩu một lời giáo dục luân lí nào đó nhân những chuyện đời nhỏ nhặt nhất, chịu làm sao nổi; mọi sự đều được ông giải khai và diễn dịch theo giáo điều của ông. Ông cúi xuống bà. Ông rắp tâm nói thế này đây:
- Mình thấy chưa: tội lỗi không sinh được gì tốt đẹp. Mình hà tất che đậy lỡ lầm. Khổ! Tôi đã hết sức với nó, tôi đối với nó như đối với con đẻ. Bây giờ trời cho ta thấy là sai lạc nếu ta tưởng rằng...
Nhưng ngay từ câu đầu ông ngừng nói.
Và có lẽ bà hiểu mấy tiếng đầy ý nghĩa kia, có lẽ những tiếng ấy đã vào sâu trong tim bà, chẳng thế mà bà nức nở trở lại, còn dữ dội hơn trước, sau một hồi ngưng khóc; kế đó là gập người xuống như chực quỳ gối trước mặt ông, ông khom lưng nâng giữ vợ mình. Bà nói những gì qua nước mắt. Ông cúi sát môi vợ. Ông nghe:
- Mình thấy rõ... Mình thấy rõ... Trời! Tại sao mình lại tha thứ cho tôi? Trời! Đáng lẽ tôi không nên trở về.
Gần như ông bắt buộc phải đoán ra lời lẽ của vợ. Bà nín bặt liền đó. Không thể giãi bày nhiều hơn. Chẳng lẽ nói mình cảm thấy bị bó thân trong thứ tiết hạnh do ông đòi hỏi, chẳng lẽ nói mình chết ngạt, hay bảo mình đã ăn năn thì lỗi lầm gì nữa? Lỗi lầm đó giờ phút này bà lấy làm ân hận rồi. Ông thẳng người lên, bằng một giọng oai phong nghiêm nghị, nói:
- Mình ạ, tôi e rằng mình hơi cố chấp tôi hôm nay. Khuya rồi. Ta đi ngủ là hơn.
Ông đỡ bà đứng dậy, rồi đưa về phòng, hôn lên trán bà, kế đó quay vào phòng giấy và ngồi phịch xuống ghế. Lạ chưa, cơn đau gan đã lắng dịu, nhưng ông cảm thấy rời rã. Tay vẫn bưng lấy trán, ai oán quá, ông không khóc nổi. Ông không nghe tiếng gõ cửa, nhưng cửa xịch mở, ông ngước đầu lên: Charles, con trai ông.
- Con vào thăm hỏi bố.
Charles vào tới gần. Anh đã hiểu đầu đuôi. Anh muốn cho bố biết là anh đã hiểu. Anh mong bày tỏ lòng xót thương, yêu mến, mối tận tình với ông, thế nhưng, điều khó tin ở một luật sư: anh diễn đạt vụng về không ai bằng: hay có lẽ anh đâm ra vụng về hễ khi nào tình cảm anh thành khẩn. Anh ôm bố hôn. Cái cách anh lân la đặt tựa đầu lên vai cha rồi để yên đấy một lát tỏ cho ông biết anh đã hiểu. Anh đã hiểu quá rõ nên chi giờ đây, khẽ ngước đầu lên, anh cất tiếng hỏi, một cách vụng về, như mọi cái gì anh đã làm, nhưng lòng anh quá bấn loạn không hỏi không được:
- Thế Caloub?
Câu hỏi phi lí, vì Bernard càng khác mấy đứa con kia, thì nơi con người Caloub cái vẻ gia thống càng dễ nhận. Ông vỗ vai Charles:
- Không, không, con yên tâm. Bernard không thôi.
Nghe thế, Charles trịnh trọng bảo:
- Chúa đuổi thằng ăn bám...
Nhưng ông ngăn lại, ông đâu có cần ai nói thế với ông?
- Con đừng nói.
Cha con không còn gì để nói với nhau. Ta hãy để họ đó. Bây giờ là gần mười một giờ. Ta hãy để bà vợ ông Profitendieu ở lại trong phòng, ngồi trên chiếc ghế nhỏ ít tiện lợi. Bà không khóc, không nghĩ gì hết. Hơn thế nữa, bà muốn bỏ trốn đi, nhưng bà sẽ không trốn. Hồi ở với tình nhân, cha của Bernard, chúng ta không cần biết là ai, bà tự nhủ: mình làm gì rốt lại cũng không phải con đàn bà hiền lương. Bà sợ tự do, sợ tội ác, sợ thảnh thơi, nên mười hôm sau bà quay về nhà day dứt. Ngày xưa song thân bà bảo bà như thế này là phải lắm: con chẳng bao giờ biết con muốn gì. Ta hãy tạm biệt bà. Cécile đã ngủ rồi. Caloub nhìn ngó ngọn đèn sáp mà ngao ngán; đèn sẽ không còn đủ để cho phép hắn đọc hết cuốn truyện phiêu lưu giúp hắn nguôi quên sự bỏ nhà ra đi của Bernard. Tôi tò mò muốn biết Antoine kể lại được những gì cho chị bếp nghe, nhưng làm sao nghe được hết bây giờ. Đã đến giờ Bernard phải đi tìm gặp Olivier. Đêm nay hắn ăn ở đâu, hay hắn có ăn chăng, tôi không biết nữa. Hắn đi ngang qua trước buồng lão gác cổng không trở ngại, hắn nhón nhén lên cầu thang...
* * *
III
Sung túc và yên bình sinh loài bạc nhược; chính ngay điều vất vả mới là mẹ can đảm.
SHAKESPEARE
Olivier đã lên giường chờ mẹ đêm đêm vào tận giường hôn hai con nhỏ. Hắn có thể thay quần áo trở lại để tiếp Bernard, nhưng hắn chưa chắc Bernard có đến không, và sợ đánh thức thằng em Georges thường mau ngủ và dậy trễ; cũng có thể hắn không nhận ra điều gì bất thường.
Nghe một tiếng gì như tiếng cào cửa rụt rè, Olivier vọt ra khỏi giường, đút chân vội vào đôi giày nhẹ và chạy ra mở. Không cần phải bật đèn, ánh trăng đủ soi sáng gian phòng. Olivier đưa tay ôm chầm lấy Bernard.
- Chờ cậu gớm! Mình không thể tin cậu đến. Hai bác biết cậu không ngủ nhà đêm nay?
Bernard nhìn thẳng trước mặt, trong bóng tối. Hắn nhún vai.
- Cậu nghĩ rằng tôi phải xin phép, hả?
Giọng nói hắn lạnh lùng mai mỉa bắt Olivier lập tức cảm thấy cái vô lí của câu hỏi. Hắn vẫn chưa hiểu rằng Bernard đã ra đi “thật sự”, hắn tưởng Bernard chỉ định ngủ lang đêm nay thôi và không giải thích rõ cái hành vi đột ngột của mình. Hắn hỏi:
- Bernard định khi nào về?
- Không bao giờ!
Mọi sự tỏ rõ trong đầu óc Olivier. Hắn quyết tỏ ra mình theo kịp những cảnh huống và không để cho một cái gì đến làm giật mình, thế mà hắn cũng buột miệng:
- Cậu làm một việc tày trời.
Về phần Bernard, hù bạn một chút xíu không hại gì, nhất là hắn cảm nhận được vẻ khâm phục lóe ra trong lời buột miệng, nhưng hắn nhún vai lần nữa. Olivier nắm bàn tay Bernard, hắn nghiêm trọng lắm, hắn lo lắng hỏi:
- Nhưng mà... tại sao cậu bỏ đi?
- Ôi! Chuyện gia đình. Không nói cho cậu được.
Và để tránh vẻ quá trang nghiêm, hắn đùa nghịch dùng mũi giày hất rớt chiếc giày nhẹ lủng lẳng nơi chân Olivier, vì cả hai ngồi ở thành giường.
- Thế cậu đi đâu sống?
- Không biết.
- Và sống bằng cái gì?
- Để coi.
- Cậu có tiền không?
- Đủ ăn điểm tâm ngày mai.
- Rồi sau đó?
- Sau đó phải tìm cách. Mệt! Tìm khắc ra. Rồi cậu coi, mình sẽ kể lại cho cậu.
Olivier phục bạn sát đất. Hắn biết Bernard tính người nhất quyết, thế mà hắn bán tín bán nghi đến hồi sắp sửa cạn lương thực và quẫn bách, hắn không trở về sao? Bernard dám chắc với hắn: sẽ thử thách bất cứ điều gì chứ không trở về sống cạnh người nhà. Và vì hắn lặp lại nhiều lượt và mỗi lần mỗi thêm hung bạo: bất cứ điều gì - nên chi Olivier se sắt bất an. Hắn muốn nói mà không dám. Cuối cùng, hắn mở lời trong khi cúi đầu và nói bằng một giọng không tin tưởng:
- Bernard à... dù sao, cậu không có ý định...
Nhưng hắn ngừng nói. Thằng bạn hắn ngước mắt lên và, không cần nom rõ Olivier, nhận ra sự lúng túng của Olivier. Bernard hỏi:
- Ý định gì? Cậu muốn nói gì? Nói đi. Ý định ăn cắp phải không?
Olivier lắc đầu. Không, không phải điều đó. Olivier bỗng nhiên òa khóc, hắn lật bật ôm siết Bernard.
- Cậu hứa là đừng...
Bernard ôm lấy Olivier, rồi cười đẩy hắn ra, Bernard hiểu:
- Điều đó thì mình hứa. Không, mình không làm tên ma cô đâu.
Và tiếp:
- Thật ra ma cô thì tiện nhất đấy, nhỉ?
Nhưng Olivier cảm thấy yên tâm; hắn thừa biết câu cuối cùng nói ra chỉ làm ra vẻ vô liêm sỉ mà thôi.
- Thi cử của cậu?
- Phải, cái đó mới phiền. Dẫu sao mình không muốn để cho rớt. Mình tưởng đã chuẩn bị, đúng hơn cốt sao hôm đó đừng mệt trong người. Mình phải giải quyết sự việc thật nhặm lẹ. Hơi cầu may đấy, nhưng mà... mình sẽ qua khỏi, rồi cậu xem.
Cả hai lặng im chốc lát. Chiếc giày nhẹ thứ hai bị hất rớt. Bernard:
- Cậu cảm lạnh bây giờ. Ngủ lại đi.
- Không, cậu đi ngủ mới đúng chứ.
- Giỡn! Nhanh lên nào! - Và hắn ra sức bắt Olivier trở lại chiếc giường đã nhàu nhò.
- Nhưng còn cậu? Ngủ đâu?
- Bất cứ đâu. Ngủ dưới đất. Trong xó. Mình phải tập cho quen.
- Không, này. Mình muốn nói với cậu cái này, nhưng không cảm thấy cậu ở sát bên mình thì mình chẳng nói được. Cậu chui vào giường với mình.
Và sau một lát Bernard cởi bỏ áo quần xong xuôi rồi đến với hắn:
- Bernard biết không, cái mình nói với cậu lần trước ấy... Xong rồi. Đạt được mục tiêu.
Bernard hiểu lờ mờ. Hắn nằm sát người vào Olivier. Olivier nói tiếp:
- Nghĩa là lợm giọng được, cậu ạ. Gớm guốc... Xong xuôi, mình muốn nhổ, muốn mửa, muốn bứt da, muốn tự tử.
- Cậu nói quá đáng.
- Hoặc là muốn giết ả, con đó...
- Con nào đấy? Dù sao, cậu không làm ẩu đấy chứ?
- Không, ả là mèo thân thiết với Dhurmer, Dhurmer giới thiệu mình với cô ả. Cái lối nói chuyện của ả làm mình ê ẩm nhất. Nói không nghĩ. Mà lại đần độn thế! Những lúc đó mà không câm cái mồm lại thì mình không hiểu nổi. Muốn bưng mồm ả, muốn bóp cổ ả đi.
- Khổ thân! Nhưng cậu phải nghĩ rằng Dhurmer chỉ chịu tặng cậu một con nhỏ ngốc nghếch thôi chứ... Ít nhất nó cũng đẹp?
- Cậu tưởng mình nhìn mặt ả à?
- Cậu ngốc. Cậu đáng yêu. Thôi ngủ nào... Ít ra cậu đã hưởng...
- Cóc khô! Chính cái đó làm mình tởm nhất: dù sao mình cũng làm được... đúng như mình ao ước.
- Thế à! Hay đấy, bạn.
- Xin cậu. Nếu đó là tình yêu thì mình chán mứa lắm rồi.
- Cứ làm như bé bỏng ấy!
- Mong thấy cậu lâm sự.
- Mình à! Cậu biết không, mình không chạy theo. Mình đã nói với cậu: mình chờ chuyện lạ. Thế thôi, một cách dửng dưng, chuyện đó đối với mình không nói lên được gì. Dù sao, nếu mình...
- Nếu cậu sao...
- Nếu con đó... Thôi. Ngủ.
Và hắn quay lưng lại đột ngột, khẽ nhích ra khỏi thân hình có hơi nóng kia làm hắn lướng vướng. Nhưng lát sau Olivier đã hỏi:
- Này... cậu tin Barrès sẽ được đắc cử không?
- Chậc!... Chuyện mắc dịch!
- Thây kệ! Này... nghe cái này tí...
Hắn đè lên vai Bernard, Bernard quay lại.
- Anh chàng ta có bồ.
- Thằng Georges?
Thằng nhỏ vờ ngủ nhưng lắng nghe hết, dỏng tai trong tối, khi nghe tên mình, hắn nín thở.
- Điên à! Mình nói Vincent chứ! (Lớn tuổi hơn Olivier, Vincent vừa xong những năm y khoa đầu tiên).
- Anh có nói với cậu hả?
- Không. Anh không dè mình biết. Bố mẹ mình không hay biết gì hết.
- Nếu hay, hai bác có nói gì không?
- Không biết. Chắc có lẽ mẹ sẽ rầu rĩ. Bố sẽ yêu cầu anh cắt đứt hoặc là cưới.
- Đấy! Bọn thượng lưu lương thiện không hiểu rằng người ta có thể lương thiện theo một lối khác họ. Làm sao cậu biết?
- Đầu đuôi thế này: từ dạo sau này Vincent ra đi ban đêm khi bố mẹ mình đã ngủ đâu đấy rồi. Anh bước xuống thật khẽ, nhưng mình nhận ra bước chân anh ở ngoài đường. Tuần vừa rồi, thứ ba thì phải, đêm nực quá mình nằm không nổi. Mình đứng ở cửa sổ cho dễ thở hơn. Mình nghe cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại. Mình nhoài người ra, và khi Vincent đi ngang qua cây đèn, mình nhận ra anh. Lúc đó đã quá nửa đêm. Đó là lần đầu tiên. Mình muốn nói: Lần đầu tiên mình để ý thấy. Nhưng từ khi đã hay rồi, mình dò xét, ấy không chủ tâm đâu nhé... và hầu như mỗi đêm mình nghe anh ra đi. Anh có chìa khóa riêng và bố mẹ mình dọn dẹp phòng cũ của Georges với mình làm thành phòng thăm bệnh để sau này có bệnh nhân. Phòng của anh ở bên cạnh, bên trái phòng chứa đồ đạc, trong khi các phòng còn lại ở phía bên mặt. Anh có thể đi ra đi về khi nào tùy ý mà không ai hay biết. Thường thường mình không nghe anh về, nhưng tối hôm kia, thứ hai, mình không hiểu cái gì xui khiến, mình đang nghĩ tới dự tính ra báo của Dhurmer đấy chứ... Không ngủ được. Mình nghe tiếng nói trong cầu thang, mình cứ tưởng là Vincent.
- Lúc đó mấy giờ? - Bernard hỏi, không phải vì háo hức biết mà để tỏ ra quan tâm.
- Ba giờ sáng thì phải. Mình thức dậy và kê tai sát cửa. Vincent đang nói với một người đàn bà. Hay đúng hơn chỉ có cô nàng nói.
- Thế làm sao cậu biết đúng là anh Vincent? Bao nhiêu người thuê nhà đều đi ngang trước cửa phòng cậu kia mà.
- Quả như thế, đôi khi thật khó chịu: khuya chừng nào, họ leo lên lầu làm ồn chừng ấy, bất kể người ngủ... Thế thì chỉ có thể là Vincent; mình nghe cô nàng lặp lại tên Vincent. Cô nàng nói với anh... Ồ! Nói lại ngấy quá...
- Cứ nói coi.
- Cô nàng nói: “Vincent, anh ơi, mình ơi, đừng bỏ em!”
- Cô ta gọi thế nào?
- Cô này gọi anh Vincent bằng “vous”!
- Ừ. Kì cục nhỉ? Kể tiếp đi.
- “Anh không có quyền bỏ rơi em bây giờ. Anh muốn em ra làm sao đây? Anh muốn em đi đâu? Nói cho em một lời. Trời! Nói đi.” Rồi cô gọi lại tên Vincent và lặp lại: “Anh ơi, anh ơi”, bằng một giọng não nuột hơn, và nhỏ dần. Tiếp theo mình nghe một tiếng huỵch (hai người chắc hẳn ở nơi cầu thang), tiếng động như của vật gì ngã. Mình nghĩ là cô nàng quỳ gối xuống.
- Thế còn anh, anh không trả lời gì hết sao?
- Chắc anh bước lên mấy bực cấp cuối cùng: mình nghe cửa phòng đóng lại. Và sau đó cô nàng đứng nán một lúc lâu gần sát đây, gần như sát cửa của mình. Mình nghe cô khóc nức nở.
- Đáng lẽ cậu nên mở cửa ra cho cô.
- Dám đâu. Vincent sẽ nổi đóa lên nếu biết mình hay chuyện của anh. Với lại mình sợ cô ngượng bị bắt gặp đang khóc lóc. Biết nói gì với cô chứ.
Bernard đã quay mặt lại với Olivier.
- Ở địa vị cậu, mình mở cửa rồi đó.
- Nói gì! Cái gì mà bao giờ cậu chẳng dám. Hễ cái gì thoáng qua đầu là cậu làm.
- Cậu trách mình đó ư?
- Không, mình muốn như cậu.
- Cậu nom thấy cô nàng kia có thể là ai?
- Làm sao biết nổi? Thôi, ngủ ngon.
- Này... có chắc thằng Georges không nghe lỏm tụi mình?
Bernard rỉ tai Olivier. Cả hai nghe ngóng một lát. Olivier bình giọng nói theo:
- Không, nó ngủ; với lại nó chả hiểu gì đâu. Cậu biết hôm nọ nó hỏi bố gì không?... Tại sao bọn...
Lần này Georges không nín được nữa, hắn nhổm dậy trên giường và cắt ngang câu của thằng anh, quát:
- Anh ngốc, anh không thấy tôi cố ý sao?... Ừ đó, nãy giờ hai người nói gì tôi nghe hết, tưởng gì! Các người khỏi lo. Chuyện anh Vincent tôi biết lâu rồi. Nhưng bây giờ các anh gắng nói nhỏ lại, tôi buồn ngủ đây. Hay là nín đi.
Olivier quay mặt vào tường. Bernard không ngủ, ngắm nghía gian phòng. Ánh trăng làm cho phòng có vẻ lớn thêm. Thật ra, hắn biết gian phòng này qua loa. Ban ngày Olivier không có mặt ở đây, một đôi lần hắn tiếp Bernard đều ở phòng trên lầu. Ánh trăng bây giờ lần tới chân giường nơi Georges vừa thiếp ngủ; hắn nghe gần hết những điều anh hắn kể, hắn có lí do để mộng mị. Phía trên chiếc giường của Georges, ta nhận ra một tủ sách nhỏ có hai ngăn với sách học. Trên một chiếc bàn gần giường của Olivier, Bernard nhác thấy một cuốn sách lớn khổ hơn, hắn với tay cầm lấy sách để nhìn nhan đề: Tocqueville(2); nhưng khi hắn muốn đặt sách xuống bàn, cuốn sách sểnh và tiếng động đánh thức Olivier.
- Dạo này cậu đọc sách của Tocqueville à?
- Dubac cho mình mượn đó.
- Cậu thích không?
- Hơi nhạt. Nhưng có nhiều cái được lắm.
- Này. Mai cậu làm gì?
Ngày mai, thứ năm, học sinh được nghỉ. Bernard tính gặp lại Olivier thì phải. Hắn định không còn đặt chân đến trường nữa; hắn cho là không cần đến những giờ học cuối cùng và hắn soạn thi một mình.
Olivier bảo:
- Ngày mai, mười một giờ rưỡi mình ra ga Saint-Lazarre đón tàu từ Dieppe đến để gặp ông cậu Édouard ở Anh về. Buổi chiều, ba giờ, mình sẽ đi gặp Dhurmer ở viện Louvre. Thì giờ còn lại mình phải học.
- Cậu Édouard?
- Ừ, em cùng cha khác mẹ với mẹ mình. Cậu vắng nhà đã sáu tháng, còn mình biết cậu qua loa thôi, nhưng mình yêu cậu lắm. Cậu không biết mình đi đón và mình sợ nhận không ra. Cậu không giống ai trong gia đình hết, con người cậu hay lắm.
- Cậu ấy làm gì?
- Viết văn. Mình đọc gần hết sách của cậu, nhưng lâu nay cậu không xuất bản gì nữa.
- Tiểu thuyết?
- Ừ, những loại tiểu thuyết.
- Sao Olivier không hề đề cập với mình?
- Vì cậu sẽ đòi đọc, và nếu cậu không thích thì...
- Thì sao? Nói tiếp đi.
- Thì mình buồn. Đấy.
- Thế cái gì khiến cậu bảo là cậu Édouard hay lắm?
- Mình không biết nữa. Mình đã bảo mình hầu như không biết đến cậu. Đúng hơn, đó là một dự cảm. Mình cảm thấy cậu quan tâm đến nhiều thứ mà bố mẹ mình không quan tâm, và người ta có thể nói với cậu đủ chuyện. Ngày nọ, trước khi cậu ra đi không được bao lâu, cậu đã ăn tại nhà mình; đang khi trò chuyện với bố, mình cảm thấy cậu nhìn mình mãi và mình bắt đầu lúng túng, mình sắp sửa bỏ phòng đi ra - lúc bấy giờ ở phòng ăn, mọi người còn chần chừ sau khi dùng cà phê, nhưng cậu đã bắt đầu hỏi bố về mình, điều này làm mình lúng túng thêm và bố bỗng nhiên đứng lên đi lấy mấy câu thơ mình vừa làm xong, mấy câu thơ mà mình đã ngu xuẩn trưng ra với bố.
- Thơ của Olivier hả?
- Có chứ, cậu biết mà, bài thơ mà cậu cho là giống như bài Bao lơn(3) đấy. Mình biết nó chẳng có giá trị gì hay chẳng đáng bao nhiêu, bố đưa ra làm mình giận quá. Trong một lúc, giữa khi bố lục lạo mấy câu thơ, chỉ có cậu Édouard và mình trong phòng, và mình cảm thấy đỏ phừng cả mặt, mình không tìm được gì để nói năng với cậu nên nhìn lảng đi nơi khác, mà cậu cũng thế, cậu bắt đầu vấn thuốc hút: kế đó, có lẽ để cho mình thoải mái phần nào vì chắc chắn cậu thấy mình đỏ mặt, cậu đứng dậy quay nhìn ra cửa sổ. Cậu huýt gió khe khẽ. Thình lình cậu nói với mình: “Cậu lúng túng hơn con nhiều.” Nhưng mình tin cậu tử tế mà nói thế. Cuối cùng bố trở vào, bố đưa mấy câu thơ của mình cho cậu, cậu đọc. Mình cáu đến độ nếu cậu khen, chắc mình sẽ nói hỗn lại. Dĩ nhiên bố chờ đợi những lời đó - những lời khen - và vì cậu không nói năng gì, bố hỏi: “Thế nào? Cậu nghĩ sao?” Nhưng cậu đã cười bảo bố: “Khó bàn trước mặt anh”, thế là bố cũng cười bỏ đi ra. Và sau đó, khi chỉ có cậu và mình, cậu bảo mình rằng cậu thấy thơ mình dở lắm, nhưng mình vui lòng nghe cậu nói như thế; và cái làm mình vui lòng hơn nữa là, cậu vụt trỏ hai câu thơ, hai câu độc nhất mình khoái trong bài thơ, cậu nhoẻn miệng cười nhìn mình bảo: “Hay đấy.” Cậu mình như thế đó, không hay sao? Và giọng cậu nói với mình, Bernard phải biết! Muốn ôm cậu mà hôn. Rồi cậu bảo mình rằng cái sai lầm của mình là khởi đi từ một ý nghĩ, và mình để cho chữ nghĩa dẫn dắt không đúng mức. Thoạt tiên mình không hiểu rõ, nhưng mình chắc rằng bây giờ mình thấy cậu muốn nói gì rồi - và cậu có lí. Mình sẽ giải thích cho Bernard nghe lần khác.
- Bây giờ mình hiểu Olivier muốn có mặt lúc cậu Édouard đến.
- Đâu có! Mình kể cho Bernard nghe chuyện chẳng nhằm vào đâu, và không hiểu sao mình lại kể. Tụi mình đã bày tỏ cho nhau biết bao nhiêu chuyện khác nữa.
- Cậu bảo mười một giờ rưỡi phải không? Làm sao biết ông cậu đến chuyến tàu đó?
- Vì cậu có ghi trên tấm bưu ảnh gửi cho mẹ; vả lại mình có thử lại trên bảng chỉ dẫn.
- Olivier ăn trưa với cậu Édouard?
- Không! Mình phải về lại đây lúc mười hai giờ trưa. Mình chỉ đủ thì giờ bắt tay ông cậu; nhưng thế là đủ... À! Còn cái này nữa, không lại ngủ mất: bao giờ mình lại gặp lại Bernard?
- Chưa gặp lại trong vài hôm. Chưa giải quyết xong thì chưa gặp.
- Nhưng dù sao... mình giúp Bernard được gì chăng?
- Cậu giúp mình? Không. Như thế không chơi. Mình sẽ có vẻ như chơi lận. Thôi ngủ ngon.
* * *
(2) Alexis de Tocqueville (1805-1859) là nhà tư tưởng chính trị và nhà sử học người Pháp.
(3) Tác phẩm của nhà thơ Pháp Charles Baudelaire (1821-1867), được nhà soạn nhạc Claude Debussy phổ nhạc năm 1890.
IV
Cha tôi cục súc, nhưng mẹ tôi thông tuệ, theo phái tĩnh tu; người nhỏ nhắn, dịu hiền, bà thường bảo tôi: Con ơi, con sẽ bị đày đọa. Nhưng bà không lấy thế làm phiền não.
FONTENELLE
Không. Vincent Molinier mỗi đêm ra đi như thế kia không phải đến nhà tình nhân. Anh bước nhanh thật, nhưng ta hãy bén gót anh. Từ đầu đường Notre-Dame-des-Champs nơi anh ở, Vincent xuôi thẳng tới đường Saint Placide nối dài đường kia rồi tới đường Bạc, ở đây vài kẻ phong lưu còn qua lại muộn màng. Anh dừng bước ở đường Babylone trước một cánh cửa hông mở ra. Đây, anh đang đứng tại nhà bá tước Passavant. Giá anh không thường hay đến đây, anh đã không xồng xộc vào cái nơi kiêu sa này như thế. Người hầu mở cửa cho anh thừa biết những gì là rụt rè ẩn dưới cái vẻ mạnh dạn cố tạo ra kia. Vincent dụng tâm không đưa nón mình ra cho gã, từ xa anh đã ném nón vào ghế. Tuy nhiên Vincent đến đây chưa được bao lâu. Robert de Passavant, tới bây giờ tự xưng là bạn của Vincent, vốn là bạn của vô số người. Tôi không hiểu hai người quen biết nhau như thế nào. Có lẽ ở trường học, mặc dù Robert de Passavant nhiều tuổi hơn Vincent thấy rõ; họ không gặp nhau mấy năm, rồi gần đây, tái ngộ một đêm kia lúc Olivier bất ngờ cùng Vincent đi xem kịch; trong lúc nghỉ hát Passavant mời hai người ăn kem; đêm đó Passavant hay tin Vincent vừa xong thời gian ngoại trú, hãy còn phân vân không biết có nên sung vào nội trú hay không; nói cho ngay, ngành khoa học tự nhiên quyến rũ anh hơn là y khoa; nhưng nhu cầu mưu sinh... Tóm lại, Vincent đã vui vẻ nhận lời đề nghị có lợi cho anh của Robert ít lâu sau đó, là mỗi đêm đến săn sóc ông cha già của Robert, ông cụ này hãy còn bị chấn động mạnh sau một vụ giải phẫu khá trầm trọng. Công việc là thay băng, dò bệnh cho tinh tế, chích thuốc, sau hết là những gì đó không hiểu cần có bàn tay thành thạo. Ngờ đâu, ngoài ra, tử tước Robert có những lí do thầm kín để đến gần Vincent; và Vincent còn có những lí do khác để nhận lời. Lí do thầm kín của Robert, sau này chúng ta sẽ tìm cách khám phá; còn lí do của Vincent thì đây: bị thúc bách vì quá cần tiền. Một khi lòng ngay ngắn và giáo dục trong sạch sớm dạy cái ý nghĩa trách nhiệm, làm cho một người đàn bà mang bầu thì sao khỏi cảm thấy mình phần nào nợ nần đối với nàng, nhất là khi người đàn bà đó đã bỏ chồng để theo mình. Vincent lâu nay sống một đời khá đức độ. Cuộc phiêu lưu với Laura, đối với anh, tùy theo giờ khắc trong ngày, có vẻ hoặc là quái đản hoặc là rất tự nhiên. Thường thường chỉ cần cộng lại một số lượng những sự kiện nhỏ rất giản dị và rất tự nhiên, từng sự kiện riêng rời, là có một tổng kết quái đản. Vừa bước đi anh vừa lẩm nhẩm điều đó và không tìm ra lối thoát. Đã hẳn anh không hề nghĩ đến chuyện quyết tâm đèo bòng người đàn bà đó, không nghĩ đến chuyện cưới nàng sau khi nàng li dị hoặc là sống với nàng không hôn thú: thật buộc lòng anh phải tự thú rằng anh không cảm thấy yêu nàng cho lắm; nhưng anh biết nàng không có của cải gì ở Paris; anh đã gây khốn đốn cho nàng, ít nhất anh cũng đảm đương cho nàng sự cứu trợ buổi đầu thô thiển này mà anh tự cảm thấy khó chu toàn - ngày hôm nay còn kém ngày hôm qua, kém hơn những ngày gần đây. Bởi vì tuần vừa rồi anh còn có năm ngàn franc mà mẹ anh đã công khó nhẫn nại dành dụm để giúp cho giai đoạn đầu trong sự nghiệp của anh. Năm ngàn franc kia đúng ra có thể đủ cho tình nhân sinh nở, an dưỡng trong bệnh viện, săn sóc buổi đầu cho đứa bé. Thế thì anh đã nghe theo ngạ quỷ nào thế? - Số tiền, đã giao cho nàng trong tư tưởng, số tiền đó, anh hướng về nàng, dành phần cho nàng, và anh sẽ thấy mình mang trọng tội nếu trích một phần trong đó ra. Thế mà một tối kia ngạ quỷ nào rỉ tai anh rằng số tiền đó e chưa đủ? Không, không phải Robert de Passavant đâu. Robert không hề thốt một lời nào tương tự; thế nhưng lời đề nghị của Robert đem Vincent đến một sòng bạc rơi nhằm vào tối hôm đó. Và Vincent ưng thuận.
Sòng bạc này có điểm sau đây là hiểm độc: tất cả đều diễn ra giữa bọn người thượng lưu, bạn bè. Robert giới thiệu anh bạn Vincent với nhóm người này nhóm người kia. Vincent thiếu phòng bị không đủ sức chơi lớn đêm đầu tiên ấy. Anh giắt sẵn chẳng bao nhiêu tiền nhưng vẫn từ chối mấy tấm giấy bạc mà tử tước đề nghị chi trước cho anh. Ngờ đâu, vì anh thắng, anh mới tiếc rẻ đã không liều lĩnh hơn và anh hứa mai trở lại.
Robert bảo anh:
- Bây giờ mọi người ở đây quen anh, không cần tôi đi theo anh nữa.
Câu chuyện này diễn ra tại nhà của Pierre de Brouville mà người ta quen gọi bằng tên Pedro. Từ đêm đầu tiên ấy kể đi, Robert de Passavant để cho người bạn mới quen sử dụng chiếc xe hơi của mình. Khoảng mười một giờ, Vincent lần mò đến, trò chuyện mười lăm phút với Robert vừa phì phà xong điếu thuốc, rồi leo lên lầu nhất, và lân la bên cạnh cụ bá tước lâu hay mau còn tùy theo tính khí của ông cụ, tùy theo sự chịu khó của ông cụ và sự đòi hỏi của bệnh tình ông: sau đó chiếc xe hơi đưa anh đến đường Saint-Florentin, chỗ ở của Pedro, một giờ sau xe đến đây rước anh về và lại đưa anh, không phải về ngay nhà - chẳng là anh sợ người ta chú ý - mà về ngã tư gần nhất.
Đêm hôm kia, ngồi trên bực cấp cầu thang dẫn lên chỗ trú ngụ của gia đình Molinier, Laura Douviers đợi Vincent cho tới ba giờ, đến khi ấy Vincent mới trở về. Mà thật ra, đêm ấy, Vincent nào có đến Pedro. Anh còn gì nữa đâu mà thua chứ. Từ hai hôm nay, năm ngàn franc chẳng còn lấy một xu. Anh có báo cho Laura biết, anh có viết thư cho nàng hay rằng anh không làm gì được nữa cho nàng; anh khuyên Laura quay về với chồng hay cha nàng mà thú nhận tất cả. Nhưng đối với Laura, từ nay sự thú nhận có vẻ khó lòng, và thậm chí nghĩ tới việc thú nhận một cách bình thản nàng cũng không thể. Những lời lên giọng của người yêu chỉ dâng dậy trong lòng nàng mối bất bằng và mối bất bằng này có rời bỏ nàng là để du nàng vào tuyệt vọng mà thôi. Vincent gặp nàng lại nhằm đúng tình trạng này. Nàng muốn níu giữ anh; anh rứt tay nàng ra. Anh đã phải rắn rỏi, có thế thật, bởi anh là người có trái tim dễ xúc động; nhưng vốn ham lạc thú hơn là đa tình, anh đã dễ dàng buộc mình phải cứng rắn. Đối với những lời nàng van vỉ bùi ngùi, anh không trả lời; và đúng lúc Olivier nghe lỏm bấy nhiêu lời đem kể lại với Bernard sau đó, thì Laura, sau khi Vincent đã đóng sập cửa ngay mặt nàng, hãy còn nán lại, ngã quỵ xuống thềm, tức tưởi hồi lâu trong bóng tối.
Kể từ hôm ấy, hơn bốn mươi giờ đã trôi qua. Vincent, hôm qua, không đến với Robert de Passavant, ông cụ hình như bình phục; nhưng tối hôm nay một tấm điện tín mời gọi Vincent. Robert muốn gặp anh. Khi Vincent bước vào căn phòng mà Robert dùng làm phòng làm việc và phòng hút thuốc, nơi Robert thường có mặt và đổ công ra trang hoàng trưng bày theo ý thích, Robert đưa tay ra bắt, đưa tay một cách lơ lửng qua vai, không đứng lên.
Robert đang viết. Robert ngồi trước một bàn đầy sách. Trước mặt, chiếc cửa sổ sát mặt đất nhìn ra vườn mở rộng đón ánh nắng. Không quay lại, Robert nói:
- Anh biết tôi đang viết gì đây không?... Nhưng đừng có tiết lộ... nhé! Hứa đi nào... Một bài tuyên ngôn lần khai từ cho tạp chí của Dhurmer. Dĩ nhiên tôi không kí tên... nhất là vì trong đó tôi tự đề cao... Vả lại, bởi vì cuối cùng thế nào họ cũng khám phá ra chính tôi bảo trợ cho tạp chí, tôi thích họ đừng biết quá sớm rằng tôi có cộng tác. Im lặng nhé! Nhưng coi nào: anh chẳng bảo anh có người em viết văn là gì? Cậu ấy tên gì thế nhỉ?
- Olivier, - Vincent đáp
- Olivier, phải, tôi quên mất... Đứng làm gì thế? Anh ngồi xuống ghế kia. Không lạnh chứ? Muốn tôi đóng cửa sổ lại không?... Olivier làm thơ thì phải? Olivier phải đưa thơ cho tôi mới được. Dĩ nhiên tôi không hứa sẽ đăng... nhưng dẫu sao chắc không phải thơ dở. Em của anh có vẻ thông minh lắm. Lại nữa, tôi cảm thấy Olivier có theo dõi tin tức. Tôi muốn nói chuyện với Olivier. Anh hãy bảo Olivier đến gặp tôi. Nhé? Tôi tin tưởng nơi anh. Thuốc? - Và Robert đưa ra cái hộp thuốc bằng bạc.
- Xin anh.
- Bây giờ anh nghe tôi đây, tôi cần phải nói với anh thật đứng đắn. Tối hôm nọ anh hành động như trẻ con... mà tôi đây cũng thế. Tôi không nói là tôi đã làm chuyện không phải khi đem anh đến Pedro, nhưng tôi cảm thấy mình có trách nhiệm, phần nào, về khoản tiền anh thua. Tôi tự nhủ chính tôi làm cho anh mất tiền. Không biết có phải người ta gọi thế là ân hận không, nhưng nó khởi sự bắt tôi ngủ không xuống và ăn mất ngon, thật đấy! Và tôi tưởng tới người đàn bà tội tình mà anh có nói cho tôi nghe. Nhưng cái này là một chuyện khác, không đả động tới, nó thiêng liêng. Điều tôi muốn nói là tôi thích, tôi muốn, vâng, tôi muốn nhất định đưa cho anh số tiền tương đương với số tiền anh đã mất. Năm ngàn franc, nhỉ? Và tôi muốn anh sẽ đem ra liều thêm phen nữa. Số tiền kia, tôi nhắc lại, tôi xem như chính tôi làm cho anh mất, tôi xem như tôi mắc nợ anh, anh không phải cảm ơn. Anh sẽ trả lại tôi nếu anh được. Bằng không, mặc! Chúng mình sòng phẳng. Tối nay anh hãy tới Pedro lại, như thể không có chuyện gì. Xe hơi sẽ đưa anh đi, rồi xe sẽ trở lại đây đem tôi đến nhà cô Griffith, mãn cuộc tôi xin anh tìm gặp tôi tại nhà cô này. Được chứ? Xe sẽ quay lại rước anh tại Pedro.
Robert mở ngăn kéo, lấy ra năm tấm giấy bạc trao cho Vincent:
- Anh đi nhanh lên...
- Nhưng còn ông cụ...
- À! Quên nói với anh: ông cụ mất rồi, vừa mất độ...
Robert rút chiếc đồng hồ bỏ túi và la lên:
- Trời, khuya thế! Gần mười hai giờ... Đi nhanh lên... Ừ, vừa mất độ bốn tiếng đồng hồ.
Mấy lời thốt ra không vội vàng chút nào, mà trái lại hờ hững thế nào ấy.
- Thế anh không ở lại...
- Ở lại canh chừng ông cụ chứ gì? - Robert ngắt ngang. Không, thằng em tôi lo, nó ở trên ấy với vú già, nó hạp mạng với người quá cố hơn tôi...
Tiếp đó, vì Vincent vẫn không nhúc nhích, Robert nói luôn:
- Anh ạ, tôi không muốn mang vẻ cẩu trệ trước mặt anh, nhưng tôi gớm cho những tình cảm có sẵn. Tôi đã sẵn chứa trong lòng một tình phụ tử đúng kích tấc, nó bồng bềnh đôi chút trong buổi đầu nhưng tôi buộc lòng đi đến chỗ thu nhỏ nó lại. Ông cụ suốt đời không được gì cho tôi ngoài sự mua não chuốc phiền, trái ý, vướng víu. Nếu ông còn được chút tình nào thì chắc chắn tôi không phải là người được ông cho cảm thấy điều đó. Sự bồng bột đầu tiên của tôi đối với ông, thuở tôi chưa biết cầm lòng, chỉ đáng cho ông gắt gao lại với tôi, điều này dạy khôn cho tôi. Chính anh cũng chứng kiến đấy, khi anh săn sóc ông... Có bao giờ ông cảm ơn anh không nào? Anh có được ông ban cho cái quẳng mắt, cái thoáng cười nào không? Ông luôn luôn tưởng ông có quyền hưởng tất cả những thứ đó. Eo ôi! Người đời gọi thế là cá tính đấy. Tôi chắc ông đã làm khổ mẹ tôi nhiều, là người mà ông vẫn yêu, nếu quả có lần ông yêu thật sự. Tôi chắc ông đã làm khổ tất cả chung quanh ông, mọi người, mấy con chó, ngựa, bọn tình nhân; bạn bè thì không, vì ông không có người nào là bạn. Cái chết của ông làm ai nấy thở phào. Thiết tưởng ông là một người rất có giá trị “về phương diện nào đó”, như lời người đời; nhưng tôi chưa bao giờ khám phá ra nổi cái phương diện nào thế. Ông rất thông minh, điều này thì chắc chắn. Tựu trung, đối với ông, tôi vẫn có, vẫn giữ một niềm kính phục nào đó. Nhưng còn giở cái trò sụt sùi... chuyện vắt nước mắt tôi ra... không, tôi không nhỏ bé gì nữa. Thôi! Chuồn lẹ lên và một giờ sau đến gặp tôi tại nhà Lilian Griffith... Sao? Anh ngượng vì không có áo tuxedo? Rõ ngớ ngẩn! Sao thế chứ? Chỉ có hai đứa mình thôi mà. Thôi thế này, tôi hứa với anh chỉ mặc veston. Được nhé. Đốt một điếu trước khi đi nào. Với lại trả xe về nhanh cho tôi, xe sẽ rước anh lại sau.
Robert nhìn Vincent đi ra, nhún vai, rồi đi vào phòng mặc áo, chiếc áo đang ngửa mình chờ chực trên chiếc sô pha.
Trong một gian phòng lầu nhất, cụ bá tước nằm trên linh sàng. Người ta đã đặt chiếc thánh giá trên ngực cụ, nhưng quên không bắt cụ chắp hai tay. Bộ râu mọc mấy ngày làm dịu bớt góc cạnh của cái cằm cương nghị. Những nếp nhăn hằn ngang trán, dưới mái tóc màu tro hất ngược lên như bàn chải, trông có vẻ bớt sâu nét, và như dãn ra. Con mắt thụt vào vòm xương mí mắt với hàng lông mày rậm rì. Chính vì chúng ta không còn phải tái ngộ ông cụ nữa nên tôi ngắm nhìn ông lâu. Chiếc ghế bành đặt ở đầu giường. Séraphine, vú già, ngồi trong đó. Nhưng vú đã đứng lên. Vú đến gần chiếc bàn có ngọn đèn dầu kiểu xưa soi không đủ sáng căn phòng; cây đèn dầu được vặn lên. Cái chụp đèn thu ánh sáng vào cuốn sách thằng Gontran đang đọc...
- Cậu mệt rồi, cậu Gontran. Cậu nên đi ngủ.
Gontran ngước nhìn Séraphine, rất hiền hậu. Tóc hắn vàng hoe, hất ra ngoài trán, phấp phới hai bên thái dương. Hắn mười lăm tuổi. Khuôn mặt hắn gần như khuôn mặt đàn bà đang độ biểu lộ tình người và tình yêu mà thôi. Hắn nói:
- Còn vú thì sao? Chính vú mới nên đi ngủ, vú à. Đêm hôm qua vú đứng hầu suốt đêm.
- Ồ! Tôi đây thức quen rồi; vả lại ban ngày tôi có ngủ, còn cậu...
- Thôi, để mặc đấy. Tôi không mệt, và tôi thích ở đây nghĩ ngợi, đọc sách. Tôi hiểu bố tôi quá sơ sài; chắc tôi sẽ quên hẳn người nếu bây giờ không nhìn kĩ. Tôi sẽ thức cạnh người cho tới sáng. Này vú, vú ở với gia đình tôi được bao lâu rồi nhỉ?
- Tôi ở từ khi cậu ra đời một năm; và nay cậu gần mười sáu tuổi.
- Vú nhớ mẹ tôi rõ không?
- Tôi nhớ mẹ cậu không à? Hỏi lạ chưa! Khác nào câu hỏi tôi có nhớ tên tôi không. Dĩ nhiên tôi nhớ mẹ cậu.
- Tôi cũng có nhớ được chút ít, nhưng không rõ lắm... tôi mới năm tuổi thì mẹ mất... Này... bố trước kia có ngỏ lời gì nhiều với mẹ không?
- Cái đó tùy ngày. Cụ không bao giờ nhiều lời; và ai mở miệng ngỏ lời trước với cụ, cụ không thích lắm đâu. Dẫu sao dạo sau cụ nói năng nhiều hơn một chút. Mà thôi, tốt hơn đừng khơi kỉ niệm dậy nhiều quá và để Chúa từ tâm lo phần phán xét tất cả những cái đó.
- Vú thật lòng tin rằng Chúa sẽ từ tâm lo liệu những thứ đó?
- Không Chúa từ tâm thì cậu bảo ai vào đấy?
Gontran đặt môi lên bàn tay ửng đỏ của Séraphine.
- Vú biết vú nên làm gì không nào? Vú nên đi ngủ. Tôi hứa với vú sáng ra tôi thức vú dậy ngay; và lúc bấy giờ đến lượt tôi đi ngủ. Tôi yêu cầu vú đấy.
Séraphine vừa để hắn một mình thì Gontran đã quỳ gối xuống chân giường; hắn vùi trán vào mớ vải drap nhưng không sao khóc nổi; không có mạch nguồn nào dâng lòng hắn dậy. Đôi mắt vô vọng vẫn hoàn khô ráo. Thế là hắn đứng lên. Hắn nhìn khuôn mặt vô xúc cảm kia. Hắn muốn, trong giây lát thiêng liêng này đây, cảm nhận ra một cái gì đó tót vời và hiếm hoi, muốn lắng nghe một sự cảm thông của bên kia thế giới, phóng tư tưởng mình lên những vùng thinh khí siêu nhiên - ngờ đâu, tư tưởng hắn vẫn trì trệ sát đất. Hắn nhìn đôi bàn tay thất sắc của người chết, và tự hỏi những chiếc móng tay sẽ tiếp tục dài đến bao lâu. Hắn thấy hai bàn tay rời rẽ kia sao mà khó coi. Hắn muốn đem chúng lại gần nhau, gần sát lại, để cho chúng nắm lấy chiếc thánh giá. Ý kiến này hay đấy. Hắn nghĩ rằng Séraphine sẽ ngạc nhiên khi thấy người chết chắp tay, và chưa chi hắn đã lấy làm thú vị trước sự ngạc nhiên của vú; sau đó, ngay liền sau đó, hắn khinh bỉ mình đã vội lấy thế làm thú vị. Thế mà hắn vẫn cúi người xuống giường. Hắn nắm lấy cánh tay ở xa nhất của người chết. Cánh tay đã cứng đơ và không chịu nhượng bộ. Gontran muốn nắn cho tay cong lại, nhưng hắn khiến cho thi hài nhúc nhích theo. Hắn nắm lấy tay kia trông có vẻ mềm hơn. Gontran đưa bàn tay gần đến chỗ nó nên ở; hắn lấy cây thánh giá, cố chuồi cho lọt cứng vào giữa ngón tay cái và mấy ngón tay kia; nhưng sự đụng chạm vào da thịt lạnh ngắt khiến hắn bủn rủn. Hắn chắc mình nguy đến nơi mất. Hắn muốn gọi Séraphine vào lại. Hắn buông thả hết - cây thánh giá nghiêng ngửa trên tấm drap nhàu nhò, cánh tay rơi xuống lại bất động ở chỗ cũ; và trong cảnh im lặng âm khí mênh mông, hắn bỗng nghe một tiếng “Quái” thảng thốt làm hắn toàn thân nổi gai ốc, như thể có một người nào khác... Hắn quay lại, nhưng không: chỉ có hắn. Thế nghĩa là tiếng rủa vang dội kia do hắn mà ra, ra từ tâm khảm của hắn vốn chưa hề biết rủa. Tiếp đó, hắn quay lại ngồi xuống và cắm đầu đọc.
* * *
V
Tâm hồn ấy, thể xác ấy chẳng bao giờ có cái gì châm thủng nổi.
SAINTE-BEUVE
Lilian nhổm dậy đưa đầu ngón tay chạm vào mái tóc màu hạt dẻ của Robert:
- Anh bắt đầu hốc hác rồi đấy, anh ạ. Thận trọng chứ: anh mới ba mươi tuổi là nhiều kia mà. Xói đầu thì hư lắm. Anh nghiêm trọng hóa cuộc đời quá đáng.
Robert ngước mắt lên và mỉm cười nhìn nàng:
- Cam đoan gần em thì không.
- Anh có bảo Vincent đến gặp chúng mình chứ?
- Có, vì em yêu cầu anh.
- Thế... anh có cho nó mượn tiền?
- Năm ngàn franc, anh nói với em rồi mà... Nó sẽ thua nốt đàng Pedro.
- Sao muốn cho nó thua?
- Chứ gì nữa! Anh mục kích đêm đầu tiên. Nó chơi hỏng bét.
- Nó đã có thì giờ học hỏi... Anh muốn đánh cuộc đêm nay nó thắng không nào?
- Nếu em muốn.
- Hừ! Nhưng tôi xin anh chớ có nhận lời như nhận cực hình. Tôi thích người ta làm gì phải vui lòng mới được.
- Bớt giận nào. Đồng ý. Nếu nó thắng, nó sẽ trả tiền cho em. Còn nếu nó thua, em sẽ bù tiền cho anh. Được chưa?
Nàng nhấn chuông:
- Đem rượu tokay với ba cái cốc vào cho chúng tôi. - Sau đó nàng tiếp tục câu chuyện với Robert. - Và nếu nó về với năm ngàn franc thôi thì để cho nó, nhé? Nếu nó không ăn không thua...
- Không đời nào có chuyện. Lạ nhỉ, em quan tâm đến nó thế?
- Anh không thấy nó đáng quan tâm mới là chuyện lạ chứ.
- Em thấy nó đáng quan tâm là vì em yêu nó.
- Thưa đúng như thế ạ! Với anh thì nói thế không sao. Nhưng tôi quan tâm đến nó không phải vì thế. Trái lại: phàm kẻ nào hớp hồn tôi, tôi thường nguội lạnh.
Người giúp việc hiện ra, mang rượu và cốc trên khay.
- Chúng ta sẽ uống đánh cuộc đã, rồi sẽ uống với kẻ nào thắng.
Người giúp việc rót rượu và hai người nâng cốc. Robert lại nói:
- Anh thấy thằng Vincent của em nhạt phèo.
- Ối! Vincent “của tôi”!... Làm như không phải chính anh đem nó đến! Và xin anh đừng có bạ đâu cũng nhắc đi nhắc lại rằng anh chán nó, không người ta lại thêm chóng hiểu vì lẽ gì anh chơi với nó.
Robert khẽ xoay mình đặt môi lên bàn chân trần của Lilian, nàng vụt rút chân về và giấu dưới chiếc quạt. Robert buột miệng:
- Anh nên ngượng chăng?
- Với tôi anh bất tất phải thử. Không được đâu.
Nàng cạn li, sau đó:
- Anh muốn tôi nói chứ. Anh có đủ đức tính của một nhà văn: kiêu căng, giả dối, tham vọng, bất định, ích kỉ...
- Em quá khen.
- Phải, bấy nhiêu đó thật là thơ mộng. Nhưng anh sẽ không đời nào là một nhà tiểu thuyết có tài.
- Tại vì?...
- Tại vì anh không biết lắng nghe.
- Hình như anh lắng nghe em kĩ lắm mà.
- Xin anh! Nó không làm nhà văn mà còn biết nghe tôi hơn. Nhưng hễ khi nào chỉ có tôi với nó, thì chính tôi lại là người nghe.
- Nó mà biết nói với năng!
- Ấy là vì anh nói liên hồi. Tôi biết anh mà: anh đâu có để cho nó xen tiếng nào.
- Nó có khả năng nói được bao nhiêu thì anh đã biết trước rồi.
- Chắc không? Thế anh có biết rõ câu chuyện của nó với người đàn bà đó không?
- Ôi dào! Chuyện tình, theo chỗ anh biết, ở đời không có gì chán bằng!
- Tôi cũng rất thích khi nó nói về lịch sử tự nhiên.
- Lịch sử tự nhiên còn chán hơn chuyện tình nữa. Như thế nghĩa là nó có dạy cho em?
- Ước gì tôi có khả năng thuật lại những cái nó nói với tôi... hấp dẫn, anh ạ. Nó kể cho tôi khối chuyện về loài động vật ở bể. Tôi thì luôn luôn hiếu kì về mọi thứ ở bể. Anh biết, bây giờ ở Mỹ họ đóng những chiếc tàu với gương ở bên sườn để nhìn thấy chung quanh dưới đáy đại dương. Có vẻ kì thú đấy chứ. Thấy san hô còn sống, thấy những... gọi bằng gì nhỉ?... những san hô tảng, hải miên, rong rêu, cá mú. Vincent bảo có những giống cá hễ nước trở mặn hơn hay bớt mặn là chết, trái lại có những loại khác chịu nổi những cấp độ nước mặn khác nhau, và ở một bên những dòng nước, chỗ nước trở nên bớt mặn, để ăn những con cá kia khi chúng ngất ngư. Anh phải yêu cầu nó kể cho nghe... Cam đoan với anh là kì thú lắm. Khi nói, nó phi thường hẳn. Không còn nhận ra nó nữa. Nhưng anh đâu có biết gợi cho nó nói... Chẳng hạn khi nó kể lại câu chuyện của nó với Laura Douviers... Phải đấy, tên của người đàn bà... Anh biết nó quen với cô nàng thế nào không?
- Nó có nói với em?
- Với tôi, người ta nói hết. Anh dự biết mà, ông mãnh!
Và nàng vuốt ve khuôn mặt Robert bằng những chiếc lông từ cái quạt đã được xếp lại.
- Anh có ngờ nó đến thăm tôi mỗi ngày, kể từ đêm anh đưa nó đến tôi?
- Mỗi ngày! Không, quả tình anh không ngờ.
- Đến ngày thứ tư, nó hết nhịn nổi, nó kể hết. Nhưng sau đó mỗi ngày nó nói thêm một chi tiết nào đó.
- Thế mà em không chán! Đáng phục.
- Tôi đã bảo với anh là tôi yêu nó.
Và nàng kiểu cách cầm lấy tay Robert.
- Còn nó... nó yêu cô nàng kia không?
Lilian bật cười:
- Trước đây có. Ôi! Lúc đầu tôi phải làm ra vẻ cực kì quan tâm tới cô nàng. Phải khóc theo nó nữa đấy. Bây giờ hết rồi. Anh hãy nghe câu chuyện ban đầu như thế nào nhé: Vincent và Laura cả hai đều ở tại Pau, trong một bệnh viện tư, một nhà điều dưỡng, người ta đưa cả hai đến đây vì cho rằng cả hai bị lao phổi. Kì thật không đúng. Nhưng hai người ngỡ mình bệnh nặng. Họ chưa quen biết nhau. Gặp nhau lần đầu tiên, nằm gần nhau ngoài sân vườn, mỗi người nằm trên ghế dài, gần bọn bệnh nhân nằm suốt ngày ngoài trời để dưỡng sức. Vì tưởng bị nguy, họ tự nghĩ mình có làm gì cũng chẳng đi tới đâu. Nó luôn mồm nhắc nhở cho nàng rằng cả hai chỉ còn sống được một tháng nữa thôi; và bấy giờ là tiết xuân. Nàng ở đó một mình. Chồng nàng giữ một chức giáo sự khiêm tốn dạy Pháp văn ở Anh. Nàng đã để chồng ở lại bên Anh mà xuống Pau. Nàng lấy chồng được ba tháng. Anh chồng hẳn phải cóp nhặt lắm mới gửi nàng xuống tới đó. Chồng thư từ cho vợ hằng ngày. Nàng là con một gia đình rất danh giá, rất gia giáo, rất dè dặt, rất rụt rè. Thế mà ở Pau... Tôi không biết rõ Vincent tìm được lời gì nói với nàng mà đến ngày thứ ba nàng thú nhận với nó rằng, dù ngủ với chồng và trao thân cho chồng, nàng chẳng biết thích thú là gì.
- Thế còn nó, lúc bấy giờ nó nói sao?
- Nó cầm lấy tay nàng đang buông thõng bên chiếc ghế đài và đưa lên áp sát vào môi hồi lâu.
- Còn em, khi nó kể lại như thế, em nói gì?
- Tôi à! Thật quái gở... anh tưởng tượng lúc bấy giờ tôi cười phá lên như điên. Không nín được mà ngừng lại cũng không được... Vị tất điều nó nói bắt tôi cười; nhưng chính là bởi cái vẻ chăm chú và hoảng hốt của tôi mà tôi tưởng phải tạo ra để thúc đẩy nó tiếp tục. Tôi cứ sợ để lộ vẻ thích thú quá đáng. Nói cho ngay, câu chuyện thật tuyệt và thật thảm. Thổ lộ cho tôi, nó xúc động vô cùng! Nó chưa hề kể với ai. Cha mẹ nó cố nhiên không hay biết gì hết.
- Em mới chính là người nên viết tiểu thuyết.
- Phải đấy bạn, phiền nỗi giá tôi biết nên viết bằng thứ tiếng gì!... Có điều giữa tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi chưa bao giờ dứt khoát nổi. - Cuối cùng, đêm kế đó, nó đến gặp cô bạn mới ở trong phòng, tại đây nó dẫn giải cho nàng, và tôi nghĩ nó dạy cho nàng cừ khôi lắm. Nhưng, vì đinh ninh chỉ sống rất ít thời gian nữa thôi, hai người dĩ nhiên không phòng bị, và tất nhiên ít lâu sau, có tình yêu giúp sức, cả hai người bắt đầu bình phục rất khả quan. Khi nàng phát giác mình có thai, cả hai hoảng hốt. Chuyện xảy ra tháng vừa rồi. Trời bắt đầu nóng nực. Miền Pau đến mùa hè không cách gì chịu nổi. Hai người cùng trở lại Paris. Chồng nàng yên trí rằng nàng ở tại nhà bố mẹ hiện đang điều hành một trường nội trú cạnh vườn Luxembourg, nhưng nàng có dám gặp lại cha mẹ đâu. Ông bà thì tưởng nàng còn lưu lại Pau, nhưng chẳng bao lâu mọi sự bị phanh phui. Ban đầu Vincent thề thốt chẳng bỏ rơi nàng, nó bảo sẵn sàng đi với nàng tới cùng trời cuối đất, đi Mỹ, đi châu Đại Dương. Nhưng hai người cần phải có tiền. Chính lúc đó nó gặp anh và nó bắt đầu đánh bạc.
- Nó không kể gì với anh hết.
- Đừng bảo với nó là tôi có nói cho anh hay, nhớ đấy!...
Nàng ngừng lại, nghe ngóng:
- Tưởng nó chứ... Nó bảo tôi trong đoạn đường từ Pau đến Paris, nó đã tưởng nàng điên mất. Lúc ấy nàng mới chợt hiểu nàng vừa có thai. Nàng đứng đối diện nó trong toa tàu lửa chỉ có hai người với nhau thôi. Từ sáng đến đó nàng không ngỏ lời nào với nó, nó phải lo liệu mọi thứ cho chuyến đi, nàng phó cho ai làm gì thì làm, như thể không nhận thức được gì nữa. Nó nắm lấy hai bàn tay nàng, nhưng nàng nhìn sững trước mặt, hung dữ, như không trông thấy nó, và môi mấp máy. Nó cúi xuống nàng. Nàng lẩm bẩm: “Người tình! Người tình! Tôi có người tình”. Nàng lặp lại lời này một giọng; và vẫn một tiếng đó trở lại mãi, làm như nàng không biết đến tiếng nào khác... Thật đấy anh, khi nó kể cho tôi nghe, tôi hết muốn cười. Suốt đời tôi chưa hề nghe chuyện gì thê thiết hơn. Nhưng thế mà, nó càng nói, tôi hiểu rằng nó tách nó ra ngoài tất cả những chuyện đó. Có thể nói nó nhờ sự xúc cảm của tôi để làm tan loãng xúc cảm của nó.
- Anh không hiểu, bằng tiếng Nga hay tiếng Anh, em sẽ diễn tả như thế nào, chứ còn bằng tiếng Pháp, anh chứng thực em diễn tả hay lắm.
- Cảm ơn. Tôi biết. Sau đó nó nói sang lịch sử tự nhiên, và tôi gắng thuyết phục nó rằng nếu hi sinh nghề nghiệp cho tình yêu thì đó là chuyện quái gở.
- Nói cách khác, em khuyên hắn hi sinh tình yêu đi. Và em tình nguyện thế chân vào mối tình đó?
Lilian không trả lời.
- Lần này chắc đúng là nó, - Robert vừa tiếp lời vừa đứng lên -... mau mau một lời nữa trước khi nó vào. Ông bố anh vừa mới mất.
- Thế à? - Nàng chỉ nói có thế.
- Nếu trở thành bà bá tước Robert de Passavant, em nghĩ thế nào?
Thoạt nghe, Lilian ngửa mặt ra sau cười giòn giã.
- Kìa bạn... chẳng là tôi đinh ninh nhớ rõ mình có bỏ quên một tấm chồng ở Anh. Quái! Tôi chưa nói với anh à?
- Có lẽ chưa.
- Có một đức công hầu Griffith đâu đó thì phải.
Bá tước Passavant không bao giờ tin danh tước của chồng nàng là chân xác nên nở nụ cười. Nàng nói tiếp:
- Này anh. Phải chăng để lấp đầy đời sống của anh nên anh mới tưởng tượng cách đề nghị điều đó cùng tôi? Không, anh ạ, không. Chúng mình hãy giữ nguyên thế này. Bạn bè, nhé? - Và nàng đưa tay ra, Robert hôn lên đó.
Vincent vừa bước vào vừa nói oang oang:
- Ơ kìa, biết chắc mà. Ăn mặc chỉnh tề thế kia, con người không giữ lời.
Robert nói:
- Phải, anh đã hứa chỉ mặc veston để khỏi hổ cho veston của Vincent. Xin lỗi bạn, nhưng tôi sực nhớ đang thọ tang.
Vincent ngẩng cao đầu; con người anh tiết ra toàn hơi hám của đắc thắng, hân hoan. Nghe anh vào, Lilian chồm chồm. Nàng chăm chú nhìn anh một lát, rồi vui sướng lao người tới Robert, vừa đấm Robert thùm thụp vừa nhảy nhót, múa may và reo lên (Lilian làm tôi bực mình phần nào mỗi khi nàng trẻ con như thế này):
- Anh chàng thua cuộc rồi! Thua cuộc rồi!
- Cuộc gì? - Vincent hỏi.
- Robert cuộc anh thua lần này nữa đấy. Thế nào! Nói nhanh: ăn được bao nhiêu?
- Tôi là người tốt bụng và can đảm phi thường nên mới ngừng lại ngang năm chục ngàn và thôi chơi.
Lilian reo lên khoái trá:
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!
Rồi nàng nhảy tới bá vào cổ Vincent, Vincent cảm thấy trên toàn thân mình sự mềm mại của tấm thân hừng hực mùi đàn hương, và Lilian hôn lên trán, lên má, lên môi anh. Vincent loạng choạng lách mình ra. Anh rút từ trong túi một bó bạc. Anh đưa năm tấm cho Robert:
- Này, anh lấy lại số tiền anh cho tôi vay.
- Lần này anh mắc nợ cô Lilian.
Robert đưa mấy tờ bạc cho nàng, nàng ném lên đi văng. Lilian hổn hển. Nàng ra ngoài ban công để thở. Đây là giờ khắc khả nghi với đêm tàn và ngạ quỷ tính toán sổ sách. Ngoài kia, không nghe tiếng động nào. Vincent đã ngồi xuống đi văng, Lilian quay nhìn anh, và lần đầu tiên dùng giọng thân mật:
- Thế bây giờ anh sẽ làm gì đây?
Vincent bưng đầu trong tay và, như tức tưởi, nói:
- Tôi không biết nữa.
Lilian tiến lại gần và đặt tay lên trán anh, anh ngước nhìn, đôi mắt ráo hoảnh và nồng nhiệt.
- Trong khi chờ đợi, chúng mình sẽ uống mừng tay ba, - nàng nói và rót tokay đầy ba cốc.
Sau khi tất cả uống xong, nàng bỗng nói:
- Bây giờ mấy anh về. Khuya rồi, tôi chịu hết nổi.
Nàng đưa họ ra tới phòng xép, kế đó, khi Robert tiến lên trước, nàng chuồi vào tay Vincent một vật nhỏ bằng kim khí và nói thầm:
- Đi với y, mười lăm phút sau anh trở lại.
Trong phòng xép, người giúp việc đang ngủ gật gà, nàng nắm lấy tay lay gọi.
- Anh soi đường cho mấy ông xuống tới dưới.
Cầu thang tối om, nếu dùng điện thì có lẽ giản tiện hơn; nhưng Lilian cố ý cho người giúp việc luôn luôn để mắt vào bọn khách ra về.
Người giúp việc đốt mấy ngọn nến ở giàn đèn lớn, đưa bổng lên cao đàng trước mặt, tiến dẫn Robert và Vincent ở cầu thang. Chiếc xe hơi của Robert chờ chực trước cửa, cửa được người hầu việc đóng lại sau lưng họ.
Lúc Robert mở cửa xe và ra dấu mời lên, Vincent bảo:
- Chắc tôi về bộ thôi. Tôi cần bách bộ chút đỉnh để lấy lại quân bình.
- Anh không muốn tôi đưa về thật sao?
Thình lình Robert chụp lấy bàn tay trái của Vincent đang nắm chặt.
- Mở tay ra! Nào! Đưa coi có cái gì đấy?
Vincent khờ khạo sợ Robert ghen. Anh đỏ phừng mặt xòe mấy ngón tay ra. Chiếc chìa khóa nhỏ rơi xuống lề đường. Robert nhặt lên ngay, ngắm nghía; Robert cười trao trả lại.
- Hừ! - Robert thốt và nhún vai. Tiếp đó, chui vào xe, Robert ngả người về sau, hướng về Vincent đang khựng người. - Thứ năm đấy nhé. Anh hãy bảo cậu em là tôi chờ cậu từ bốn giờ chiều. - Và Robert đóng cửa xe lại nhanh không để cho Vincent kịp đáp lời.
Xe phóng đi. Vincent bước một đỗi trên bến tàu, đi qua sông Seine, lần tới mé Tuileries, phần lọt ra ngoài rào sắt, tiến đến gần một bể nước nhỏ, nhúng vào nước chiếc khăn tay rồi thấm chặm lên trán và hai bên thái dương, rồi thong thả trở lại nhà Lilian. Ta hãy để mặc anh giữa khi ngạ quỷ ranh mãnh nhìn anh đút êm chiếc khóa nhỏ vào ổ...
Đúng lúc đó là giờ mà Laura, tình nhân ngày hôm qua của anh, trong một gian phòng khách sạn buồn bã, sau khi khóc lóc rên xiết hồi lâu, sắp sửa ngủ thiếp. Trên boong tàu đưa chàng trai về Pháp, Édouard, trong lóe sáng đầu tiên của bình minh, đọc lại lá thư nhận được của nàng, lá thư than thân cầu cứu chàng. Bến bờ hiền hậu của quê hương đã lấp ló, nhưng, qua lớp sương mù, muốn nhận ra, phải có con mắt quen nhìn. Không một vẩn mây trên trời, từ đây ánh mắt của Thượng đế sẽ hàm tiếu. Riềm mi của chân trời ửng đỏ đã vén lên. Paris sẽ nóng nực lắm đây! Đã đến lúc ta tìm gặp lại Bernard. Đây, hắn thức giấc trên giường Olivier.
* * *
VI
Chúng ta một lũ con hoang;
Và người khả kính nhất
Đáng cho tôi gọi bằng cha
Sinh tôi ra ở đâu bao giờ không hiểu.
SHAKESPEARE
Bernard đã mơ một giấc mơ phi lí. Hắn không nhớ mình mơ thấy gì. Hắn không tìm cách nhớ lại giấc mơ, mà tìm cách ra khỏi giấc mơ. Hắn bước vào lại thế giới thực tại để cảm thấy thân hình của Olivier đè nặng bên mình. Thằng bạn hắn, trong khi ngủ chung, hay ít ra trong khi Bernard ngủ, đã ép lại gần, vả chăng chiếc giường hẹp không cho phép nằm rộng rãi, hắn trăn trở, bây giờ hắn nằm nghiêng và Bernard cảm thấy hơi thở nóng của bạn buồn buồn ở cổ. Bernard chỉ mặc một chiếc sơ mi ngắn; vắt ngang mình, một cánh tay của Olivier táy máy ép vào thịt da hắn. Trong một lát Bernard ngờ bạn mình không ngủ thật. Nhẹ nhàng, hắn lách mình ra. Không đánh thức Olivier, hắn dậy, mặc áo quần vào và nằm xuống giường lại. Hãy còn sớm quá chưa đi được. Bốn giờ. Đêm dễ thương mới bắt đầu nhạt bóng. Thêm một giờ nghỉ ngơi, lấy đà để can trường khởi sự một ngày. Nhưng hết ngủ nổi, Bernard ngắm nhìn khung cửa kính ửng màu xanh, mấy bức tường xám của căn phòng nhỏ, chiếc giường sắt, nơi Georges mơ màng trăn trở. Bernard thầm nhủ: “Lát nữa mình sẽ đi về định mệnh. Phiêu lưu! Tiếng mĩ miều thế! Là điều phải xảy đến. Bao nhiêu thứ lạ lùng đợi chờ ta. Không hiểu mấy đứa khác có giống mình không nhưng hễ thức dậy rồi, mình khinh bỉ những đứa nào còn ngủ. Olivier, cậu ạ, mình đi không được cậu chào từ giã. Hấp! Đứng dậy, hỡi Bernard anh hùng! Đến giờ rồi.”
Hắn chặm lên mặt một chéo khăn thấm nước, đội mũ, mang giày. Hắn mở cửa, không gây tiếng động. Ra ngoài!
A ha! Không khí chưa được hô hấp thanh khiết cho châu thân biết chừng nào! Bernard men theo rào sắt của vườn Luxembourg, hắn xuống đường Bonaparte, ra tới bến tàu, băng qua sông Seine. Hắn nhớ tới lề luật mới của đời sống mà hắn vừa mới tìm ra được công thức: “Nếu mày không làm thì ai làm cho? Nếu mày không làm tức khắc thì đợi đến bao giờ?” Hắn nghĩ: “Nhiều việc lớn phải làm”; hắn thấy hình như mình đang đi tới những việc lớn đó. “Nhiều việc lớn”, hắn bước đi thầm nhắc nhở. Hắn biết được những việc lớn gì cho cam!... Trong khi chờ đợi, hắn biết mình đói bụng: này đây hắn đang tới gần khu hàng quán. Hắn được mười bốn xu trong túi không thêm một đồng trinh nào. Hắn bước vào quán, lấy một chiếc bánh sừng bò và li cà phê sữa trên mặt quầy. Giá tiền: mười xu. Còn bốn xu, hắn ngang nhiên để lại hai xu trên quầy tiền, đưa hai xu còn lại cho một gã khất thực đang lục lạo thùng rác. Nhân đạo? Bất chấp? Quan hệ gì. Bây giờ hắn cảm thấy mình sướng như vua. Hắn không còn gì hết: tất cả là của hắn! “Ta trông chờ tất cả ở ơn trời.” hắn nghĩ. Quý hồ đến trưa ông trời chịu cung cấp một miếng bít tết hồng hào trước mặt ta, ta sẽ liên hiệp hết mình với trời (bởi tối hôm qua hắn không ăn). Mặt trời lên từ lâu. Bernard rẽ ra lại bến tàu. Hắn cảm thấy mình nhẹ nhàng; nếu chạy thì hắn tưởng như mình bay bổng. Trong não bộ, tư tưởng hắn nhảy bồng khoái hoạt. Hắn nghĩ: “Cái khó ở đời chính là coi nặng một điều gì lâu dài. Đấy, mẹ yêu người đàn ông mà ta đã gọi bằng bố - ta đã tin ở tình yêu đó mười lăm năm; hôm qua ta vẫn còn tin. Chính mẹ cũng cóc coi nặng cuộc tình của mẹ. Ta muốn biết xem ta có khinh mẹ hay yêu mến mẹ hơn, một khi đã sinh ra con hoang?... Mà thực ra ta cũng không quyết tâm muốn biết. Những tình cảm đối với những người sinh đẻ ra ta đều thuộc về những gì mà tốt hơn ta không nên cố cách tìm hiểu. Về phần người đàn ông bị tình gạt, giản dị lắm: ta nhớ rõ suốt đời ta ghét ông; hôm nay ta phải tự thú nhận rằng ta đâu có dụng tâm ghét - và ở đây ta ân hận có chừng đó. Thế mà nếu không cạy chiếc ngăn kéo kia, e suốt đời ta cứ tưởng ta mang những tình cảm trái đạo đối với một người cha. Vỡ lẽ mới nhẹ nhõm làm sao!... Kì thật, ta không chủ tâm cạy ngăn kéo; mở nó ra ta cũng không nghĩ tới... Và lại có những trường hợp giảm khinh: trước hết ta chán nản khủng khiếp ngày hôm ấy. Thêm vào đó, sự hiếu kì, sự hiếu kì định mệnh kia, nói theo Fénelon(4), chắc hẳn thừa hưởng của người cha đẻ của ta, bởi lẽ tuyệt không có dấu vết nào là hiếu kì trong dòng họ Profitendieu. Ta chưa từng gặp ai ít hiếu kì hơn đức ông chồng của mẹ ta, trừ bọn con cái của ông với mẹ. Chừng nào ăn tối xong xuôi, ta sẽ nghĩ thêm về họ... Giở lớp đá cẩm thạch của chiếc bàn và thấy chiếc ngăn kéo mở hé đâu có đồng nghĩa với sự cạy ổ khóa. Ta không phải là thằng chuyên bẻ khóa. Giở lớp đá cẩm thạch ở chiếc bàn lên là điều có thể xảy ra cho bất cứ kẻ nào. Thésée nhấc tảng đá, chắc hẳn thuở đó bằng tuổi ta. Cái làm trở ngại cho chiếc bàn thường ngày là cái đồng hồ quả lắc. Ta đã không nghĩ tới chuyện giở lớp đá cẩm thạch của chiếc bàn nếu ta không rắp ranh sửa đồng hồ... Đâu phải ai ai cũng có thể bắt gặp, tìm thấy ở dưới đó những khí giới hay những thư tình tội lỗi! Mà thôi! điều quan trọng là ta đã hay biết. Đâu phải ai cũng như Hamlet được thần linh chỉ điểm. Hamlet! Lạ nhỉ, quan điểm sao khác nhau thế, ấy là còn tùy theo mình đứng về phe thiện hay ác. Ta sẽ trở lại vấn đề chừng nào ăn tối xong... Ta đọc thư như thế là điều quấy chăng? Nếu là quấy... không phải đâu, thì ta đã bứt rứt. Và nếu ta không đọc, ta đã phải tiếp tục sống trong vô thức, gian dối và phục tùng. Ta hãy đi tìm chỗ thoáng. Nào, ra khơi! Ơi Bernard! Hỡi Bernard, tuổi xuân xanh này... như lời của Boussuet; hãy đặt xuân xanh nghỉ mình trên chiếc ghế băng này, Bernard. Sáng nay, sao trời đẹp thế! Có những hôm mặt trời quả như mơn trớn trần gian. Giá ta có cách gì thoát ra ngoài ta một thoáng, chắc chắn ta sẽ làm thơ.”
Nằm trên chiếc ghế băng, hắn thoát ra ngoài hắn trọn vẹn đến độ ngủ thiếp mất.
* * *
(4) François Félenon (1651-1715) là tổng giám mục, nhà thần học, nhà thơ và nhà văn người Pháp.
VII
Mặt trời đã lên cao, ánh nắng xuyên qua cửa sổ mở, mon men mơn trớn bàn chân trần của Vincent trên chiếc giường rộng nơi anh nghỉ mình bên cạnh Lilian. Không hay anh đã tỉnh ngủ, nàng nhướn người lên, nhìn anh và ngạc nhiên thấy dáng anh tư lự.
Griffith, người đàn bà quý phái, yêu Vincent có lẽ; đúng hơn nàng yêu ở anh sự thành công. Vincent người cao lớn, đẹp đẽ, gọn gàng, nhưng anh không biết cách đứng ngồi hay bỏ dậy. Nhất là nàng tán dương cái táo bạo, dũng khí của tư tưởng anh; hẳn nhiên anh là người có học nhiều, nhưng sao nàng vẫn thấy anh có vẻ không thông. Nàng đem cái bản năng của người tình, người mẹ rủ xuống anh chàng thanh niên lớn xác này mà bỏ công ra đào luyện. Nàng sẽ tác tạo thành tác phẩm của mình, bức tượng của mình. Nàng dạy cho anh săn sóc móng tay, dạy cho anh rẽ tóc về một bên mà lúc đầu anh hất ngược ra sau, và vầng trán anh, bị tóc lấp hết nửa, lộ ra nhợt nhạt hơn và cao hơn. Sau hết, nàng đã đem những chiếc cà vạt thích hợp thay thế cho mấy chiếc nơ khiêm tốn nhỏ bé may sẵn mà anh mang. Tất nhiên Griffith yêu Vincent, có điều nàng không chịu nổi anh lầm lì, hay là “ủ trệ” theo như lời nàng.
Trên vầng trán của Vincent, nàng dạo ngón tay nhẹ nhàng như để xóa một nếp nhăn chia đôi, nếp nhăn này phát sinh từ chân mày rồi ấn xuống hai vệt thẳng đứng và trông như thể vết đau thương. Nàng cúi xuống anh lẩm bẩm:
- Nếu anh buộc lòng đem đến đây cho tôi những tiếc nuối, lo lắng, ăn năn, thì khác nào anh không đến.
Vincent nhắm mắt lại như đứng trước một lần sáng quá chói chang. Mối hoan lạc trong ánh mắt của Lilian lóa mắt Vincent.
- Ở đây giống như ở niệm đường; cởi giày ra khi bước vào để khỏi dây bùn mang từ bên ngoài vào. Anh tưởng tôi không biết anh đang nghĩ gì ư?
Rồi khi Vincent muốn đặt tay lên trước miệng nàng, nàng vùng cưỡng lại:
- Đừng có thế, để tôi nói chuyện nghiêm trang với anh. Tôi đã suy nghĩ nhiều về điều hôm nọ anh ngỏ với tôi. Người ta luôn tưởng rằng bọn đàn bà không biết suy nghĩ, nhưng rồi anh sẽ thấy cái đó còn tùy thuộc hạng đàn bà... Anh có nói với tôi về kết quả của sự giao giống... và anh nói rằng người ta không thu hoạch được gì đáng kể bằng cách trộn giống, mà bằng tuyển giống... Đấy! Tôi nhớ kĩ bài học của anh đấy chứ?... Thế này nhé! Sáng nay, tôi tưởng anh đang ấp ủ một con quỷ, một thứ gì đó vô cùng lố lăng mà anh không bao giờ rứt ra nổi: một kết hợp giữa loại đàn bà hư đốn và thần thánh. Không phải sao?... Anh ghê tởm cho chính mình đã bỏ rơi Laura: tôi đọc điều này trong nếp nhăn trên trán anh. Nếu anh muốn quay về bên cô nàng cứ nói ngay và xa tôi; cầm bằng như tôi nhầm lẫn về trường hợp anh, và tôi sẽ để anh ra đi không ân hận. Còn nếu anh có ý định ở lại với tôi thì hãy từ bỏ cái bộ mặt đưa đám này đi. Anh làm tôi nhớ một số người Anh: tư tưởng họ càng khoáng đạt, họ lại càng bám vào đạo lí; thậm chí không có ai nghiệt ngã cho bằng một số người vô đạo trong bọn họ... Anh cho tôi là vô tâm? Anh nhầm: Tôi thừa hiểu anh thương hại cho Laura. Đã thế, anh đến đây làm gì?
Tiếp theo, vì Vincent quay mặt đi, nàng nói:
- Anh nghe đây: anh sẽ vào phòng tắm và cố làm sao rũ bỏ những tiếc nuối của anh trong nước tắm. Tôi bấm chuông gọi đồ ăn, nhé? Và khi anh ra lại, tôi sẽ giải thích cho anh điều này mà trông chừng anh không hiểu rõ.
Vincent đứng lên. Nàng nhổm dậy nói với theo:
- Đừng có mặc lại vội. Trong tủ, phía bên phải máy đun nước, anh sẽ tìm thấy áo choàng tắm, khăn choàng, pyjama... tùy anh chọn.
Vincent trở ra hai mươi phút sau, trùm mình bằng chiếc áo choàng djellanbah dài chấm gót bằng lụa màu xanh hồ trăn.
- Ấy khoan! Đợi tôi soạn sửa cho, - Lilian lớn tiếng reo. Nàng rút trong một chiếc hòm Á Đông ra hai chiếc khăn quàng cổ rộng màu hoa cà, lấy chiếc màu sẫm hơn thắt lưng cho Vincent, còn chiếc kia quấn vào đầu anh.
- Tư tưởng của tôi luôn luôn đi liền với màu sắc phục sức, - nàng mặc chiếc pyjama màu hung ánh bạc. - Tôi nhớ có một hôm hồi đó còn nhỏ tí, ở San Francisco, người ta muốn tôi mặc toàn đen, lấy cớ một bà dì của tôi mới chết, một bà dì già tôi chưa hề gặp mặt. Suốt cả ngày tôi khóc, buồn thôi là buồn, tưởng tượng mình lắm sầu khổ, tưởng tượng mình thương tiếc dì vô hạn... chỉ tại màu đen. Nếu bọn đàn ông ngày nay chững chạc hơn đàn bà, là vì đàn ông ăn mặc sẫm màu hơn. Cam đoan anh không còn những ý nghĩ giống như ban nãy. Anh ngồi xuống kia, cạnh giường và chừng nào anh uống xong ly vodka, tách trà, và ăn hai ba cái xăng-uých, tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện. Khi nào tôi có thể bắt đầu thì anh bảo tôi...
Nàng ngồi xuống, trên tấm thảm bên cạnh giường, ngồi lọt vào giữa hai chân của Vincent, co ro như thân thạch bia Ai Cập, cằm tì lên gối. Sau khi nàng cũng ăn uống xong xuôi, nàng vào chuyện:
- Anh biết không, ngày chiếc tàu La Bourgogne bị đắm, tôi có mặt ở trên đó. Tôi mười bảy tuổi, như thế để nói cho anh rõ tuổi tôi bây giờ. Tôi bơi lội rất giỏi; và để chứng tỏ cho anh thấy lòng tôi không quá khô khan, tôi sẽ xin nói cho anh biết rằng nếu ý nghĩ đầu tiên của tôi là cứu lấy mình thì ý nghĩ liền theo sau là cứu một người nào đó. Biết đâu cứu mình chẳng phải là ý nghĩ đầu tiên cũng nên. Hay đúng hơn, thiết tưởng tôi chẳng nghĩ tới nghĩ lui gì hết; thế mà không có cái gì làm tôi ghê tởm cho bằng bọn người trong những lúc tương tự chỉ nghĩ tới bản thân; không, có những người đáng ghê tởm hơn nữa: bọn đàn bà la ơi ới. Có một chiếc ca nô đầu tiên đến giải cứu, người ta chất đầy lên đó ưu tiên là đàn bà và trẻ con, và một số bọn đàn bà tru tréo đến muốn phát điên. Công cuộc vụng tổ chức quá khiến chiếc ca nô, thay vì nằm yên trên biển, chúi mũi xuống và hất tung tất cả bọn người ngay lúc chưa kịp ngập nước. Bấy nhiêu đó diễn ra trong ánh đuốc, đèn hiệu và đèn rọi. Anh không tưởng nổi thê thảm như thế nào. Sóng khá dữ, và tất cả những gì không ở trong vùng ánh sáng đều mất tăm ở bên kia ngọn nước trong đêm. Tôi chưa hề sống một đoạn đời nào khẩn trương hơn, nhưng tôi kiệt lực hết suy nghĩ tưởng chừng khác nào con chó cứu hộ khi nó nhảy xuống nước. Giờ tôi còn chẳng hiểu chuyện gì xảy ra lúc đó. Tôi chỉ biết rằng mình đã để ý thấy trong ca nô có một đứa con gái nhỏ năm sáu tuổi đáng yêu, và lập tức, khi thấy thuyền chòng chành, nghiễm nhiên nó là người mà tôi quyết tâm cứu mạng. Trước đó có mẹ nó, nhưng mẹ nó bơi không giỏi, vả lại bị lúng túng vì mặc juyp, luôn luôn gặp như thế trong những trường hợp đó. Phần tôi, như cái máy, tôi phải cởi bỏ đồ mặc trong người, người ta réo gọi tôi lên chiếc ca nô thứ hai. Tôi phải leo lên; sau, hình như từ chiếc ca nô đó, tôi đã nhảy xuống biển, tôi chỉ nhớ bơi khá lâu với đứa bé bá vào cổ tôi. Nó khiếp hãi và bóp nghẹt cổ tôi làm tôi hết thở nổi. May sao từ ca nô họ trông thấy chúng tôi và chờ chúng tôi, hay bơi về hướng chúng tôi gì đó. Nhưng tôi kể chuyện này cho anh không phải vì thế. Kỉ niệm lưu lại mãnh liệt hơn hết, kỉ niệm mà không đời nào có cái gì có thể tẩy xóa khỏi tim óc tôi, là đây: trong chiếc ca nô ấy, chúng tôi chất chồng lên nhau tầm bốn chục mạng sau khi đã vớt nhiều người bì bõm tuyệt vọng, như người ta đã vớt chính tôi. Nước lên gần sát mí thuyền. Tôi ở đàng sau và tôi ôm chặt đứa bé gái vừa cứu để truyền hơi ấm cho nó, và để đừng cho nó thấy cảnh tượng mà tôi đây không thể không thấy: hai gã thủy thủ, một người lăm lăm chiếc rìu và người kia một con dao làm bếp, và anh biết chúng nó làm gì không?... Chúng chặt ngón tay, cổ tay của mấy người dưới nước bám vào dây cố leo lên thuyền. Gã thủy thủ (gã kia thì da đen) quay lại nhìn tôi đang đánh răng cầm cập vào nhau vì lạnh, vì hãi hùng, vì rợn người: “Nếu lên thêm một người nữa thôi, chúng ta bỏ mạng hết thảy. Thuyền đầy nhóc”. Hắn nói thêm rằng trong vụ đắm tàu nào cũng buộc phải làm thế, nhưng dĩ nhiên người ta không nhắc tới. Bấy giờ tôi lịm người đi, đàng nào tôi cũng chẳng nhớ gì nữa, như thể bị ù tai khá lâu sau một tiếng vang dội kinh hồn quá đỗi. Và đến khi, trên chiếc tàu vô danh nào đó vớt chúng tôi, tôi hoàn hồn, tôi hiểu ra rằng tôi không còn và sẽ không bao giờ trở lại làm đứa con gái tình cảm xưa kia; tôi hiểu ra rằng tôi đã để một phần con người tôi chìm nghỉm theo chiếc La Bourgogne, rằng tôi sẽ chặt cụt ngón tay, cổ tay của một lũ tình cảm tế nhị để ngăn chúng leo lên đánh đắm tâm hồn tôi.
Nàng nhìn Vincent bằng khóe mắt, và ưỡn người ra sau:
- Đó là một thói quen phải tập.
Kế vì mái tóc để lơi bị xổ xuống phủ vai, nàng đứng lên, tiến lại chiếc gương soi, và vừa chỉnh tóc vừa nói:
- Lúc tôi rời Mỹ ít lâu sau đó, tôi như là bộ lông cừu vàng quý báu và tôi đang đi truy tầm kẻ chinh phục nó. Tôi có thể nhầm lẫn đôi khi, có thể nhầm lẫn... và có thể nhầm lẫn hôm nay là một, khi đem ra nói với anh như tôi hiện đang làm. Thế nhưng anh đừng có tưởng là anh đã chinh phục tôi vì tôi đã trao thân cho anh. Anh hãy tin chắc điều này: tôi thậm ghét bọn kém cỏi và chỉ có thể yêu kẻ đắc thắng. Nếu anh để bụng tới tôi, hãy xem như là để tôi giúp anh đắc thắng. Còn như nếu để anh thở than, để anh được an ủi vỗ về…, chi bằng nói ngay cho anh biết; không, Vincent ạ, tôi không đúng là người cho anh: đúng cho anh chính là Laura.
Nàng nói những lời đó không quay mặt lại, vẫn tiếp tục chỉnh những món tóc rối, nhưng Vincent bắt gặp tia mắt nàng trong gương.
Vincent đứng lên và cởi bỏ kiểu phục sức Á Đông để mặc lại áo quần thành phố, anh nói:
- Cô cho phép đến tối nay tôi mới trả lời. Bây giờ tôi phải về vội trước khi Olivier ra đi, tôi có điều cần kíp nói với em tôi.
Anh nói lên điều này để chạy lỗi và để thêm màu mè cho sự bỏ ra về, nhưng khi anh tiến lại gần Lilian, nàng quay lại, tươi tỉnh và thật đẹp khiến anh lưỡng lự.
- Trừ phi tôi viết giấy để lại cho nó thấy vào bữa trưa, - anh nói tiếp.
- Hai người nói chuyện nhiều với nhau không?
- Hầu như không. Không, đêm nay có người mời, tôi phải chuyển cho nó.
- Robert mời... Oh! I see(5)... - nàng thốt lên và mỉm cười kì dị. - Chúng ta cũng cần bàn lại về Robert... Anh đi nhanh lên vậy. Nhưng nhớ sáu giờ trở lại vì đến bảy giờ xe của Robert chở chúng mình đi ăn ở Bois.
Vincent vừa bước đi vừa ngẫm nghĩ; anh cảm thấy rằng từ sự thỏa ước, có thể nảy sinh, cùng với niềm vui, một nỗi gì như vô vọng.
* * *
(5) À, tôi hiểu.
VIII
Phải chọn lựa: yêu đàn bà hoặc quen biết đàn bà; không có nửa vời.
CHAMFORT
Trong chuyến tàu suốt đi Paris, Édouard đọc cuốn sách của Robert de Passavant! Cây đánh đu - sách mới phát hành mà chàng vừa mua ở nhà ga Dieppe. Có thể cuốn sách đang đợi chàng ở Paris; nhưng Édouard nóng lòng muốn biết. Người ta bàn tán tới nó khắp nơi. Không bao giờ có cuốn sách nào của chàng được cái hân hạnh có mặt ở các tủ sách nhà ga. Người ta đã nói rõ cho chàng biết chỉ cần vận động thế nào đó là được đặt sách, nhưng chàng không quan thiết. Chàng nhắc nhủ thầm rằng mình lo toan làm gì cho lắm tới chuyện sách được trưng bày ở tủ sách nhà ga, nhưng chàng cần nhắc nhở lại với mình điều đó khi bắt gặp cuốn sách của Passavant. Tất cả những gì Passavant làm khiến chàng bất an: những bài báo, chẳng hạn, trong đó người ta đưa sách anh chàng lên mây. Phải, điều đó giống như một sự kiện cố tạo: mỗi một tờ báo trong số ba tờ chàng mua vừa mới khui ra là đều mang một bài tán thưởng Cây đánh đu. Tờ thứ tư đăng một lá thư của Passavant phản kích một bài báo hơi kém tán thưởng hơn những bài kia được in ra trước đó trong tờ báo; trong lá thư, Passavant biện hộ cho sách mình và phân giải cuốn sách. Lá thư khiến Édouard bực mình còn hơn những bài báo. Passavant tự cho là soi sáng công luận. Chưa bao giờ có cuốn sách nào của Édouard làm nổi dậy lắm bài báo đến thế, mà Édouard cũng chưa hề làm gì để lôi kéo về mình những hảo ân của bọn phê bình. Nếu như bọn người này làm mặt lạnh với chàng thì cũng chẳng sao. Nhưng khi đọc những bài về cuốn sách của đối thủ, chàng thấy cần phải lặp lại với mình rằng vẫn chẳng sao.
Không phải chàng ghét Passavant. Chàng có gặp y đôi lần và thấy y là người có tình. Huống chi y luôn tỏ ra rất khả ái đối với chàng. Nhưng những sách của Passavant, chàng không thích; đối với chàng, y là một tay tập thành hơn là nghệ sĩ. Nghĩ tới Passavant thế này đã đủ.
Édouard rút trong túi áo veston lá thư của Laura, lá thư này chàng đã đọc lại trên boong tàu; chàng đọc thêm lần nữa.
Thưa anh,
Lần cuối cùng em gặp anh - anh nhớ không đó là ngày hai tháng tư, giáp ngày em xuống miền Nam - anh đã bắt em hứa viết thư cho anh nếu em lâm vào trường hợp khó xử. Em giữ lời hứa. Ngoài anh ra em biết kêu gọi ai đây? Những người mà em muốn được nương nhờ lại chính là những người em muốn giấu giếm nỗi khổ của em. Thưa anh, em đang rơi vào thống khổ. Đời em từ buổi giã từ Félix như thế nào, có lẽ một ngày nào đó em sẽ kể cho anh. Félix đã tiễn em xuống tận Pau, rồi trở về Cambridge vì việc dạy học đòi hỏi. Ở Pau, em ra nông nổi, đơn chiếc và buông trôi, phó mặc cho thời kì dưỡng bệnh, cho tiết xuân... Em sẽ đánh bạo thú thật cùng anh những điều mà với Félix em không thể thổ lộ! Đã đến lúc em buộc lòng quay về với Félix. Bao nhiêu lá thư em viết cho Félix từ ít lâu nay đều dối trá và những thư em nhận được của Félix chỉ nói tới sự vui mừng của Félix biết em khỏe mạnh thêm. Sao em không đau dai đi? Sao em không chết mất dưới đó đi?... Anh ạ, em phải quy hàng thực tại hiển nhiên: em có thai, và đứa bé hoài thai không phải của Félix. Em xa Félix đã hơn ba tháng, dù sao ít ra em không bụng dạ nào trí trá với chồng. Em không dám về lại với chồng. Không thể. Em không đành lòng. Félix quá tốt bụng. Félix có thể sẽ tha thứ cho em nhưng em không xứng, em không muốn được Félix tha thứ. Em không dám về với mẹ cha, hai người vẫn tưởng em còn dưới Pau. Cha em, nếu người biết tin, người hiểu ra, người mắng nhiếc em. Người sẽ xua đuổi em. Làm sao đương đầu với đức hạnh của người, với sự kinh tởm của người cho điều xằng bậy, dối trá, tất cả những gì ô trọc? Em cũng sợ làm buồn lòng mẹ và em gái. Còn kẻ đã... nhưng em không muốn kết tội con người đó; lúc hứa giúp em, anh ấy ở trong cái thế làm nổi. Nhưng muốn giúp em hiệu lực hơn, khốn thay anh ấy quay ra đánh bạc. Anh ấy thua mất số tiền đáng lẽ dùng vào việc cấp dưỡng cho em, cho việc sinh nở. Anh ấy thua sạch. Lúc đầu em có ý nghĩ bỏ đi với anh ấy, bất cứ đi đâu, sống với anh ấy ít ra trong một thời gian, vì em không muốn bắt anh ấy lúng túng, cũng không muốn nặng gánh cho anh ấy; thế nào cuối cùng mình chẳng tìm cách tự lực sinh sống; nhưng mà ngay tức thời thì em không thể. Em thấy rõ rằng anh ấy đau khổ mà bỏ em và em thấy rõ rằng anh ấy không thể làm khác hơn, thành thử em không kết tội cho anh ấy, dẫu sao anh ấy cũng đã bỏ em. Em ở đây không tiền bạc. Em ở chịu, trong một khách sạn nhỏ, có điều không kéo dài thế mãi được. Em không biết sẽ ra sao đây: Ôi! Bao con đường kì tuyệt thế kia sao chỉ có thể dẫn mình tới vực sâu. Em viết thư này cho anh đến địa chỉ ở London mà anh đã cho em, bao giờ thư mới đến tay anh đây? Thế mà em đã hằng mong làm mẹ thế! Em chỉ một nước khóc trọn ngày. Anh hãy khuyên bảo em, em chỉ còn hi vọng nơi anh nữa thôi. Cứu em với, nếu có thể, bằng không... Ôi, những lúc khác em đã có can đảm hơn, chứ giờ đây đâu phải chỉ riêng mình em bỏ mạng. Giả như anh không đến, giả như anh viết cho em: “Anh không làm gì được”, em sẽ không trách anh lấy một lời. Gửi anh lời vĩnh biệt, em sẽ cố gắng đừng quá tiếc rẻ cuộc đời, nhưng em tin rằng anh chưa từng thấu hiểu cho rằng tình bạn của anh đối với em vẫn là cái gì đẹp nhất mà em được biết - anh chưa từng thấu hiểu cho rằng mối tình mà em gọi tên là tình bạn giữa em với anh mang một tên khác trong lòng em.
LAURA Félix DOUVIERS
T.B: Trước khi thả lá thư này vào thùng thư, em sẽ gặp lại con người đó lần cuối cùng. Em sẽ chờ đêm nay tại nhà anh ấy. Nếu anh nhận được thư này, tức là em đã... vĩnh biệt anh thật. Vĩnh biệt! Em không còn biết em viết gì.
Édouard nhận được lá thư trên đây ngay sáng hôm lên đường. Nghĩa là chàng quyết định khởi hành ngay sau khi tiếp nhận thư. Đàng nào chàng cũng không có ý định kéo dài lâu lắc chuỗi ngày ở Anh quốc. Tôi tuyệt nhiên không mạo muội ám chỉ rằng chàng sẽ khó thể trở về Paris đặc biệt để giải cứu Laura, tôi nói rằng chàng sung sướng trở về. Chàng mất tuyệt mọi lạc thú một cách khủng khiếp dạo sau này ở Anh quốc; về Paris, điều trước tiên chàng sẽ làm là tới một địa điểm ô trọc; và vì chàng không muốn đem theo tới đó những giấy tờ riêng tây, chàng với tay lên ngăn giá của phòng tàu lấy chiếc va li, mở ra đút lá thư của Laura vào.
Chỗ của lá thư ấy đâu phải nằm lọt giữa chiếc áo veston và chồng áo sơ mi, chàng đưa tay xuống dưới lớp áo xống, chạm vào một tập đóng bìa cứng đầy nét chữ của chàng hết nửa cuốn; chàng tìm tòi trong đó, ngay ở đầu cuốn tập, những mảnh giấy rời viết năm vừa rồi, chàng đọc lại; lá thư của Laura nép mình vào giữa những mảnh giấy này.
NHẬT KÍ Édouard
18 tháng 10 - Laura dường như không nghi ngờ mảy may về quyền năng của nàng; phần tôi, đã tháo gỡ được những bí mật của lòng mình, tôi biết rõ rằng mãi đến ngày nay, không có dòng chữ nào tôi viết ra mà nàng khỏi gián tiếp gợi nguồn cảm hứng cho tôi. Bên tôi, tôi cảm thấy nàng còn ngây thơ, và bao nhiêu khôn khéo trong lời lẽ của tôi giai do ở sự hằng tâm muốn chỉ bảo, thuyết phục, làm xiêu lòng nàng. Nghe thấy điều gì, tôi không khỏi liên tưởng ngay: Nàng sẽ nghĩ sao về nó? Tôi bỏ mặc mối xúc động của mình mà chỉ còn biết tới mối xúc động của nàng thôi. Đến nỗi tưởng chừng nếu nàng không có đó để nói rõ cùng tôi, e bản sắc của tôi tan nhòa ra chung quanh thành những đường nét quá mờ nhạt; quanh quẩn con người nàng, tôi mới tập trung và minh định được mình. Cớ sao mãi tới hôm nay, tôi lại có thể vọng tưởng uốn nắn nàng giống tôi? Trong khi, ngược lại, chính tôi mới là kẻ uốn mình theo nàng, mà tôi không để ý chứ! Hay là thật sự thế này: do một sự giao hưởng tinh kì của tình yêu, hai con người chúng tôi đã biến thể cho nhau. Vô hình vô ý, mỗi người trong hai kẻ yêu nhau tự uốn mình theo sự đòi hỏi của người kia, dụng công cho giống hệt thần tượng được chiêm ngưỡng trong lòng người kia... Kẻ nào yêu đúng nghĩa đều hết trung thực.
Nàng đã đánh tráo với tôi như thế. Ý tưởng của nàng bám sát tư tưởng của tôi khắp mọi nơi. Tôi khâm phục cái nhãn thức, tính hiếu kì, cái học thức của nàng và tôi không rõ có phải chỉ vì yêu tôi mà nàng quan tâm nhiệt tình thế kia, đến bao nhiêu thứ mà nàng bắt gặp tôi si mê. Bởi chưng nàng chẳng biết khám phá ra điều gì. Mỗi điều gì nàng hâm mộ, bây giờ tôi hiểu, đối với nàng nằm kề cận ý tưởng tôi; về việc này, có gì đáp đúng sự đòi hỏi thâm sâu của bản chất nàng đâu. “Ngày trước, em trang sức và làm đẹp chỉ để cho anh”, nàng sẽ bảo thế. Kì thật tôi lại đi mong mỏi rằng nàng làm thế kia là để cho nàng đấy thôi, rằng nàng nghe theo một nhu cầu thầm kín riêng của nàng. Nhưng bấy nhiêu thứ mà nàng thêm thắt cho mình để làm vừa lòng tôi sẽ không còn lại được tăm hơi, một tiếc nuối cũng không, ngay cả cái cảm giác thiếu vắng cũng không nốt. Đến một ngày nào đó con người thật tái hiện, thời gian chầm chậm rũ sạch những lớp áo vay mượn, và ví phỏng kẻ kia lại mê luyến những món trang sức ấy; nó sẽ chỉ còn ôm ấp vào lòng một món làm đẹp không hồn, một kỉ niệm... màu tang chế và thất vọng.
Hỡi ôi! Bao nhiêu nết đẹp, bao nhiêu nết vẹn toàn ta đã điểm tô cho nàng!
Đáng giận thay cái vấn đề trung thực kia! Trung thực! Hễ nói tới nó tôi chỉ nghĩ tới sự trung thực của nàng. Nếu nhìn lại tôi, tôi hết hiểu nghĩa danh từ đó. Tôi luôn luôn chỉ là con người mà tôi tưởng là thật - và điều này biến đổi không ngừng đến nỗi thường khi con người tôi buổi mai không nhận diện con người tôi buổi tối nếu tôi không chầu chực đấy để hợp giao chúng lại. Dễ thường không còn gì khác biệt tôi cho bằng chính tôi. Riêng trong cõi tịch mịch con người thật của tôi thỉnh thoảng mới hiện ra với tôi và tôi mới đạt tới một thứ liên tục căn bản nào đó; nhưng bấy giờ sự sống của tôi hình như chậm lại, đình chỉ và hình như tôi ngừng hiện hữu thật sự. Tim tôi đập chỉ vì thông cảm, tôi chỉ sống vì người khác; có thể nói, cứ bằng cách ủy quyền, bằng cách hôn phối, tôi mới cảm thấy mình chưa bao giờ sống mãnh liệt hơn là lúc tôi thoát ra ngoài chính mình để trở thành bất cứ ai.
Cái lực phản ngã phóng ngoại ấy đến độ làm tiêu tán trong tôi cái ý thức về sở hữu - và do đó, cái ý thức trách nhiệm. Một con người như thế đó đâu phải thuộc loại người làm chồng. Làm sao cho Laura hiểu?
26 tháng 10 - Đối với tôi, cái gì có hiện hữu chăng là hiện hữu đi liền với tính chất nên thơ (và tôi trao trả lại cho chữ đó cái nghĩa đầy đặn của nó) - bắt đầu bằng chính tôi. Có khi tôi mường tượng mình không hiện hữu thật sự, nhưng chỉ tưởng tượng rằng mình có mặt thôi. Điều mà tôi khó tin hơn cả lại chính là sự hiện thực của mình. Tôi không ngừng thoát ra ngoài tôi và khi nào tự ngắm mình hành động, tôi chẳng hiểu rõ rằng kẻ mà tôi đang trông thấy hành động lại chính là kẻ đang nhìn và đang nghi hoặc, và ngờ rằng nó lại có thể vừa là diễn viên vừa là kẻ ngắm nhìn.
Sự phân tích tâm lí đối với tôi mất hết cả ích lợi kể từ ngày tôi vỡ lẽ ra rằng ta cảm nhận đúng điều gì mà ta tưởng tượng cảm nhận. Từ đó đâm ra nghĩ rằng ta tưởng tượng cảm nhận điều mà ta cảm nhận thật... Tôi thấy rõ điều này với mối tình của tôi: giữa hai điều yêu Laura và tưởng tượng mình yêu - tưởng tượng yêu ít với yêu ít, hỏi ông thánh nào thấy sự cách biệt?... Trong địa hạt tình cảm, cái thật không phân với cái tưởng. Và nếu chỉ cần tưởng tượng yêu là yêu được, thì cũng thế, chỉ cần tự nhủ mình tưởng tượng yêu khi yêu là tức khắc yêu kém đi một chút, là tách khỏi cái mình yêu phần nào nữa đấy - hoặc tách bớt một vài mảnh vụn. Nhưng nói lên được điều này lẽ nào không cần phải bớt yêu rồi sao?
Bằng một lập luận tương tự, trong truyện của tôi, X sẽ cố gắng tách mình ra khỏi Z - và nhất là tách nàng ra khỏi mình.
28 tháng 10 - Người ta nói mãi tới sự kết tinh đột ngột của tình yêu. Sự giải tinh chầm chậm mà tôi không hề nghe nói tới là một hiện tượng tâm lí lưu ý tôi nhiều hơn. Tôi cho rằng người ta có thể quan sát nó trong một thời gian dài ngắn nào đó trong mọi trường hợp lấy nhau vì tình. Khỏi sợ cho Laura, cố nhiên, (và như thế càng hay), trường hợp nàng lấy Félix Douviers theo lời khuyên của lí trí, gia đình và chính tôi. Douviers là một giáo sư rất thanh lương, đầy tài cán và rất có khả năng trong lãnh vực của mình (tôi nhớ là anh được học sinh của anh trọng vọng) - ở anh, Laura sẽ khám phá, khi hữu sự, nhiều đức tính hơn là nàng hồ đồ tiên liệu, khi nàng đề cập đến anh, tôi còn nhận thấy rằng, trong lời khen, nàng không vượt quá ra ngoài thì phải. Douviers có giá trị hơn nàng tưởng.
Đề tài kì diệu cho tiểu thuyết: sau mười năm, hai mươi năm chung sống, sự giải tinh tiệm tiến của cả hai vợ chồng. Đang yêu và đang muốn được yêu, chàng không thể xuất hiện đúng con người thật của mình; vả chăng chàng không trông thấy đối phương - nhưng lại trông thấy ở đó một thần tượng mà chàng vẽ vời, thần thánh hóa, tạo ra.
Bởi thế tôi đã cảnh giác Laura để nàng đề phòng mình và đề phòng chính tôi. Tôi đã bỏ công thuyết phục rằng mối tình giữa nàng với tôi khó thể bảo đảm hạnh phúc bền bỉ cho cả hai. Mong nàng cũng đã xiêu lòng.
Édouard nhún vai, đóng cuốn nhật kí kèm với lá thư và đút tất cả vào va li. Chàng để luôn vào đó cái ví tiền sau khi trích ra một tấm trăm franc chắc hẳn đủ dùng cho tới lúc chàng sẽ đi nhận lại chiếc va li mà chàng định bụng gửi kho hàng chừng nào xuống. Phiền một nỗi là va li không có khóa; hay đúng hơn chàng không còn chìa để khóa. Chàng mất mãi những chìa khóa va li. Chậc! Bọn lao công kho hàng ban ngày bận bịu quá lắm, và có bao giờ chỉ có chúng nó mà thôi đâu. Chàng sẽ gửi va li khoảng bốn giờ, đem về nhà, rồi đi ủy lạo và giúp Laura; chàng sẽ gắng đưa nàng đi ăn tối.
Édouard gật gà; những ý tưởng của chàng vô tình theo một chiều khác. Chàng tự hỏi nếu chỉ đọc lá thư của Laura, chàng có thể đoán tóc nàng màu đen được chăng? Chàng thầm nhủ rằng bọn nhà văn vì mô tả nhân vật quá chính xác mà hóa ra ngăn trở hơn là giúp cho óc tưởng tượng và đáng lẽ phải để cho mỗi người đọc hình dung lấy từng nhân vật thế nào tùy ý. Chàng nghĩ tới cuốn tiểu thuyết đang soạn thảo ắt hẳn không giống một cái gì chàng đã viết ra từ trước đến nay. Chàng không dám chắc rằng Bọn làm bạc giả là một nhan đề hay. Chàng đã vụng suy khi tung nhan đề ra. Phi lí thay, cái thói vạch lưng những “soạn thảo”, để câu độc giả. Điều này không câu được ai và trói buộc mình... Chàng cũng không dám chắc rằng đề tài hay ho cho lắm. Chàng hằng tưởng tới nó và tưởng tới nó từ lâu, nhưng chưa viết một dòng nào. Dù sao, chàng ghi lại vào cuốn sổ tay những điểm và những điều suy nghĩ.
Chàng rút cuốn sổ đó ở va li ra. Rút cây bút máy ở túi ra. Hí hoáy: “Rũ sạch cho kì hết những yếu tố nào không đặc thuộc tiểu thuyết. Giống như trước đây, nhiếp ảnh cởi bỏ cho hội họa mối lo sợ phải giống nhau như khuôn đúc thế nào đó, thì người ghi âm thanh ngày mai đây chắc cũng sẽ bôi xóa thiên tiểu thuyết gồm những đối thoại ghi chép được, nhưng đoạn đối thoại mà nhà văn tả chân thường khi lấy làm đắc ý. Những ngoại biến, tai nạn, những chấn động ngoài da đều thuộc về điện ảnh; tiểu thuyết nên biết điều mà nhường lại. Đến như sự mô tả nhân vật đối với tôi hình như cũng không thuộc bộ môn đó một cách thuần túy. Thật thế, tôi thấy rằng tiểu thuyết thuần túy (và về nghệ thuật, cũng như về mọi thứ, chỉ có sự thuần túy mới đáng kể với tôi) như không cần đến mô tả nhân vật. Kịch cũng thế. Nhưng chớ có bảo rằng nhà soạn kịch không mô tả nhân vật vì đòi hỏi khán giả phải nhìn ngó nhân vật được đưa ra mười phần sống động trên sân khấu; bởi lẽ đã biết bao nhiêu lần chúng ta chẳng khó chịu khi đi xem kịch là gì, khó chịu vì diễn viên, và khổ tâm vì diễn viên trong không giống kẻ mà chúng ta có lẽ đã hình dung được rõ ràng nếu không có diễn viên. - Tiểu thuyết gia, nói chung, không tín nhiệm nơi óc tưởng tượng của độc giả một cách vừa đủ.”
Nhà ga nào vừa lướt qua như gió thoảng. Asnières. Chàng đút cuốn sổ tay vào lại va li. Nhưng sự tư tưởng tới Passavant hẳn nhiên khiến chàng không yên. Chàng rút sổ tay ra lại. Chàng viết thêm:
“Đối với Passavant, nghệ phẩm là một phương tiện hơn là mục đích. Những tín lí về nghệ thuật mà anh giãi bày được vững vàng mãnh liệt thế kia là nhờ chúng không thấm sâu, không có sự thúc bách của cá tính chỉ huy, chúng đáp ứng cho sự mách lối của giai đoạn, khẩu lệnh của những tín lí đó là: xu thời. Cây đánh đu. Cái gì nay mai sẽ xuất hiện như già cỗi nhất chính là cái thoạt tiên đã xuất hiện như tân kì nhất. Mỗi một sự chiều đãi, mỗi một sự ép uổng, là hứa hẹn một nếp nhăn. Mà Passavant được lòng bọn trẻ là nhờ chỗ đó. Passavant không thiết ngày mai. Anh hướng vào thế hệ hôm nay (điều này tất nhiên còn hơn là hướng vào thế hệ hôm qua) - nhưng vì anh chỉ hướng tới nó nên những gì anh viết ra dễ qua theo với nó. Anh biết thế và không tự hứa sự tồn tại; và đó chính là điều khiến anh tự biện hộ một cách cay cú, không những khi nào người ta đả kích anh, anh còn chống đối từng lời phẩm bình hạn chế. Còn như cảm thấy tác phẩm mình trường tại thì anh đã để cho tác phẩm tự biện hộ và không việc gì phải luôn luôn tìm cách giải minh nó. Tôi đang nói gì thế này? Anh đắc ý với những lời ngộ nhận, với những lệch lạc kia mà. Bấy nhiêu điều phải chiết giải cho những nhà phê bình mai hậu.”
Chàng coi đồng hồ. Mười một giờ ba mươi lăm. Lẽ ra đã đến rồi mới phải. Vạn nhất Olivier đợi chàng ở cửa tàu thì sao? Tuyệt nhiên chàng không trông mong gì điều đó. Nói chi xa, làm sao phỏng đoán Olivier có thể biết tới tấm thiệp chàng báo tin về cho bố mẹ hắn - và trên tấm thiệp chàng ghi rõ, một cách tình cờ, chểnh mảng, có vẻ đãng trí, ngày và giờ - như thể để đánh lừa hên xui, và bởi chàng khoái những điều lấp ló.
Tàu đỗ lại. Nhanh lên, một gã khuân vác nào đó! Không, va li chàng không đến nỗi nặng, và kho hàng không đến nỗi xa... Giả như hắn có đấy, liệu hai người biết nhận ra nhau giữa đám đông không đã? Gặp nhau quá ít thế kia. Miễn hắn không thay đổi quá lắm!... Kia! Trời đất! Hắn đấy sao?
* * *
IX
Nếu Édouard và Olivier tái ngộ mừng vui vồn vã hơn thì chúng ta đã không có gì để phàn nàn về những gì xảy ra kế đó; đàng này có một sự cân nhắc dị kì, người này cân nhắc uy tín mình trong tâm trí người kia làm cả hai khựng lại; đến nỗi người này tưởng chỉ có mình xúc động, hoàn toàn bị nỗi mừng vui của mình chi phối và như thể ngượng ngùng cảm thấy mình quá lộ liễu, chỉ lo làm thế nào đừng để lộ sự quá trớn mà thôi.
Thành thử Olivier, đã không góp vui với Édouard bằng cách bày tỏ nỗi hân hoan đến đón chàng, lại tưởng là nên nói rằng sáng nay mình có việc phải đi qua đây, làm như để chối việc đến đây. Thận trọng quá đáng, hắn khôn khéo nhủ lòng rằng e cậu Édouard cho sự có mặt của mình không thích đáng chăng. Mới thốt lời nói dối hắn đã đỏ mặt. Édouard bắt gặp vẻ đỏ mặt, và bởi vì lúc đầu chàng nồng nàn nắm lấy cánh tay Olivier, chàng, cũng vì thận trọng mà ngỡ rằng chính cử chỉ đó làm cho Olivier đỏ mặt.
Lúc đầu chàng nói:
- Cậu cố cho rằng cháu không đến, nhưng trong thâm tâm cậu chắc chắn thế nào cháu cũng đến.
Chàng có thể tưởng rằng Olivier bắt gặp vẻ tự đắc trong câu nói vừa rồi. Khi nghe hắn buông thõng: “Chính cháu có việc phải đi qua đây”, chàng thả tay Olivier ra, và cụt hứng ngay: Chàng đã muốn hỏi xem Olivier có hiểu rằng tấm thiệp gửi cho bố mẹ hắn kia, chàng dụng ý viết cho nó đấy; nhưng vừa định hỏi chàng đã ngần ngại. Olivier sợ bắt Édouard phát chán và sợ nói về mình gây hiểu nhầm nên câm miệng. Hắn nhìn Édouard và lấy làm lạ vì chàng máy môi, rồi hắn cúi mặt xuống ngay: Édouard vừa mong được nhìn có thể vừa sợ Olivier cho mình quá lớn tuổi. Chàng thiếu bình tĩnh vân vê một mẩu giấy trong tay. Đó là tấm phiếu người ta vừa giao cho chàng ở kho hàng, nhưng chàng không để ý.
“Nếu là phiếu hành lí,” Olivier nhủ thầm, trong khi nhìn chàng vò nhàu mẩu giấy thế kia rồi hờ hững ném đi, “cậu đâu có ném như thế.”
Và hắn ngoái lại giây lát để trông ra ngọn gió cuốn mẫu giấy lùi xa đàng sau hai người trên lề đường. Giá hắn nhìn lâu hơn, hắn đã được nom thấy một thanh niên nhặt lấy. Đó chính là Bernard đã theo dõi hai người từ khi họ ở nhà ga đi ra... Trong khi đó, Olivier khốn nỗi không tìm ra gì để nói với Édouard, và sự im lặng đối với hắn đâm ra không chịu nổi. Hắn lẩm nhẩm:
- Đi ngang qua trước trường Condorcet, mình sẽ nói với cậu: “Bây giờ cháu phải xin về, chào cậu”.
Rồi, tới trước trường, hắn lại khất cho tới góc đường Provence. Còn Édouard cũng thấy im lặng nặng nề, không thể đành lòng như thế. Chàng kéo người bạn đường vào một quán cà phê. May ra li rượu porto của nhà hàng giúp cho cả hai vượt qua sự lúng túng.
Hai người nâng cốc.
- Chúc đăng khoa, - Édouard mở lời, nâng cốc lên. - Bao giờ thi đây?
- Mười hôm nữa ạ.
- Cháu chuẩn bị rồi chứ?
Olivier nhún vai:
- Thưa, biết sao được. Chỉ cần hôm đó cụt hứng là xong toi.
Hắn không dám trả lời “Rồi”, sợ để quá lộ vẻ tự tin. Còn một điều nữa khiến hắn lúng túng, là hắn vừa thích vừa sợ xưng hô thân mật với Édouard; hắn đành gán cho mỗi câu của mình cách nói gián tiếp trong đó chữ “vous” vẫn bị loại trừ, thành thử Édouard cũng hỏng dịp yêu cầu hắn dùng “tu”, là điều hắn ưa thích; tuy nhiên, hắn nhớ rõ, hắn đã có dịp dùng cách xưng hô “tu” mấy hôm trước khi Édouard ra đi.
- Cháu học khá không?
- Thưa không tệ. Nhưng chưa hết sức.
- Những người giỏi luôn có cảm tưởng có thể làm hơn nữa, - Édouard nói kiểu cách.
Chàng buột miệng mà nói; nói xong, chàng thấy câu của mình lố bịch.
- Cháu vẫn làm thơ?
- Thưa, thỉnh thoảng... Cháu cần được chỉ dẫn nhiều...
Hắn ngước mắt nhìn Édouard; đúng ra, hắn muốn nói “được cậu chỉ dẫn”. Và ánh mắt, bổ túc cho lời, nói lên điều đó rõ rệt đến nỗi Édouard tưởng chừng hắn nói thế vì lịch sự hay vì cảm tình. Nhưng cái gì đã thúc bách chàng trả lời, mà lại trả lời đột ngột thế này:
- Ồ! Phải biết tự mình chỉ dẫn mình hoặc tìm kiếm chỉ dẫn ở bạn bè! Lời chỉ dẫn của người lớn không giá trị gì.
Olivier nghĩ thầm: “Mình đâu đã yêu cầu cậu chỉ dẫn, sao cậu phản đối?”
Người nào cũng dậm dật chỉ cho ra toàn một giọng ráo hoảnh, bó rọ; và người này cảm thấy sự lúng túng và rấm rứt của người kia thì ngỡ mình là cái mộc và là nguyên nhân của những điều ấy. Chuyện trò điệu này chẳng được gì tốt, nếu không có gì đến lay giật. Mà không có gì thật.
Sáng nay Olivier ngủ dậy khó ở trong người. Mối buồn khi tỉnh giấc không còn Bernard kề cạnh mình, đã để Bernard ra đi không từ giã, mối buồn đó, trong giây lát bị chi phối vì nỗi mừng vui tái ngộ Édouard, bây giờ dâng lên trong lòng hắn như một đợt sóng âm u, làn đắm chìm bao nhiêu ý tưởng. Hắn muốn đề cập tới Bernard, muốn thuật lại với Édouard tất cả và gì gì nữa, muốn cho cậu quan tâm tới bạn mình.
Khốn nỗi một nụ cười khẽ của Édouard cũng sẽ làm hắn đau lòng, và sự diễn tả có thể sẽ tiết lộ những tình cảm nồng nàn và rộn ràng đang rung động con người hắn, nếu không rơi vào chổ lộ vẻ thái quá. Hắn lặng câm, hắn cảm thấy nét mặt mình đanh lại, hắn ước ao lao vào đôi tay cậu mà khóc. Édouard hiểu lầm sự im lặng đó, hiểu lầm sự biểu lộ của bộ mặt rúm ró kia; chàng rộn rã quá nên không khỏi mất tất cả thoải mái của mình. Bất quá chàng chỉ đành lòng ngước nhìn Olivier, thằng con trai mà chàng muốn siết vào vòng tay và bồng bế như thằng bé và đến khi bắt tia mắt không hồn của hắn, chàng nghĩ: “Đúng rồi... Mình bắt nó chán... Mình bắt nó mệt, quẩn trí. Tội cho nó! Nó chỉ chờ ta nói một tiếng là đi về.” Và tiếng đó, không nén nổi, Édouard thốt ra, vì tội tình cho hắn:
- Bây giờ cháu nên về. Bố mẹ chờ cháu về ăn, chắc chắn như thế.
Olivier, cùng chung ý nghĩ, đến lượt hắn hiểu lầm. Hắn lật đật đứng lên, đưa tay ra bắt. Dù sao hắn muốn ngỏ lời với Édouard: “Bao giờ cháu gặp lại cậu? Bao giờ gặp nhau lần nữa?...” Édouard cũng chờ đợi câu nói đó. Nhưng không, chỉ một tiếng nhạt nhẽo:
- Chào cậu.
* * *
X
Mặt trời đánh thức Bernard dậy. Hắn rời chiếc ghế dài đứng lên, đầu đau như búa bổ. Vẻ hùng dũng bảnh bao của sáng ngày đã bỏ rơi hắn. Hắn cảm thấy trơ trọi gớm ghê và lòng đầy rẫy không hiểu một mùi vị gì mằn mặn mà hắn không chịu gọi tên là nỗi buồn, nhưng đang khiến hắn ứa nước mắt. Làm gì đây và đi đâu?... Nếu hắn mon men tới ga Saint-Lazare đúng vào giờ khắc mà hắn biết Olivier ắt phải đến đấy, đâu phải hắn có ý định rõ rệt gì, và không ngoài ý muốn gặp lại bạn mình. Hắn trách mình ra đi đột ngột hồi sáng: Olivier có thể lấy thế làm buồn lòng. Olivier chẳng phải là người hắn yêu quý nhất đời đó sao?... Khi bắt gặp bạn cặp kè Édouard, một cảm giác kì quái xui khiến hắn vừa theo dõi hai người, vừa tránh lộ diện. Hắn khổ tâm cảm thấy mình thừa thãi, thế mà hắn vẫn muốn chen vào giữa hai người. Hắn thấy Édouard có vẻ khả ái, cao lớn hơn Olivier ít thôi, dáng điệu kém trẻ trung hơn ít thôi. Hắn định bụng gạ chuyện với Édouard nên trông đợi Olivier chia tay chàng. Nhưng lấy cớ gì gạ chuyện?
Đúng lúc đó hắn trông thấy mẩu giấy nhỏ nhàu nhò vứt ra khỏi bàn tay lơ đễnh của Édouard. Nhặt lên xong rồi, thấy ra đó là cái phiếu gửi hành lí... được rồi, đúng là cái cớ hắn đang tìm kiếm còn gì!
Hắn thấy đôi bạn vào quán cà phê, hắn đứng khựng người một lát; kế đó, tiếp tục nói cho mình nghe:
- Một thằng nào bình thường thì đã hấp tấp đem trao trả mẩu giấy này cho đương sự rồi.
Con người bị phỉnh gạt, nản, nhạt và vô dụng?
Dễ bị đời thao túng thế!
Tôi có nghe người ta nói với Hamlet lời đó. Ơi Bernard, hỡi Bernard, ý tưởng nào thoáng qua đầu ngươi thế? Hôm qua ngươi đã lục lạo ngăn kéo. Hôm nay ngươi dấn thân vào nẻo nào đây? Hãy thận trọng đấy, em ạ... Hãy coi chừng mười hai giờ trưa, gã coi kho hàng, mà Édouard có việc chiếu cố, gã sắp sửa đi ăn và hãy coi chừng có người khác thay thế gã. Và ngươi đã chẳng hứa với bạn là dám làm mọi chuyện đó ư?
Song, hắn ngẫm nghĩ rằng quá hấp tấp e hỏng bét. Bị bắt chợt, gã coi hàng có thể coi sự hối hả là khả nghi; dò lại sổ sách của kho, một món hành lí nhập kho có mấy phút trước mười hai giờ mà đã xuất kho ngay sau đó, gã có thể coi như thế là ít tự nhiên. Sau hết, vạn nhất người qua đường hay kẻ thọc gậy bánh xe nào đó có nom thấy hắn nhặt mẩu giấy... Bernard đành xuôi bước trở lại xuống tới La Concorde, không vội vàng; vừa vặn bữa ăn của một kẻ nào khác. Người ta cũng thường làm như thế lắm chứ, gửi va li vào kho trong thời gian đi ăn và sau đó đến nhận lại. Hắn không còn cảm thấy choáng váng nữa. Khi ngang qua mặt tiền một quán ăn, hắn điềm nhiên lấy một cây tăm xỉa răng (tăm đặt thành từng cụm nhỏ trên các bàn), hắn sẽ gặm cây tăm này trước bàn giấy kho hàng, cho có vẻ đã no bụng. Mừng cho mình mặt mày sáng sủa, ăn mặc đẹp, tư cách lịch sự, nụ cười và ánh mắt thẳng thắn, tóm lại một cái gì đó trong bộ điệu làm người ta cảm nhận ra bọn người sống trong no ấm không cần gì hết, có đủ hết. Hiềm nỗi, nằm ngủ trên ghế băng, cái gì cũng rối rắm nhàu nhò.
Hắn lảo đảo một thoáng. khi gã nhân viên đòi hắn mười centime công trông coi. Hắn không còn một xu. Làm sao? Chiếc va li nằm đấy, trên bục. Thiếu vững vàng chút xíu là sẽ làm người ta động tâm, và thiếu tiền cũng thế. Nhưng ngạ quỷ sẽ không cho phép hắn sẩy chân, ngạ quỷ chuồi vào mấy ngón tay thấp thỏm của hắn đang lục lạo hết túi này đến túi kia, đang vờ vĩnh tìm kiếm vô vọng, một đồng bạc nhỏ mười xu không hiểu bỏ quên từ bao giờ, đấy, trong túi áo gi lê. Bernard đưa đồng tiền cho gã nhân viên. Hắn không để lộ chút gì là bối rối. Hắn đoạt lấy chiếc va li và, bằng một động tác đơn sơ và thuần lương, đút vào túi năm xu thối lại. Thoát! Hắn nóng bừng. Đi đâu bây giờ? Đôi chân hụt hẫng và chiếc va li xem chừng nặng. Làm gì với cái này đây?... Hắn chợt nghĩ ra mình không có chìa khóa. Không, không, không, hắn sẽ không cạy khóa, quái! Hắn đâu phải trộm cắp... Phải chi hắn biết có những gì trong đó thôi. Chiếc va li nặng trĩu cánh tay. Hắn mệt nhừ. Ngừng lại một lát, hắn đặt vật nặng xuống lề đường. Hắn cũng muốn trao trả lại, thật thế đấy; nhưng hắn muốn tra hỏi cái va li này đã. Hắn ấn vào ổ khóa cầu may. Kìa! Lạ lùng! Vỏ trai há miệng, để lấp ló hòn ngọc: một cái ví, để ló những tờ bạc. Bernard vồ lấy ngọc và khép ngay con trai lại.
Và đây là lúc hắn hữu sự, nào! Một khách sạn. Tại đường Amsterdam, hắn có biết một khách sạn gần lắm. Hắn đói meo. Nhưng trước khi ngồi vào bàn, hắn muốn cất giấu chiếc va li. Người bồi phòng xách va li đưa hắn lên thang lầu. Ba tầng lầu, một dãy hành lang... một cánh cửa, hắn khóa trái cửa lại lấp kín kho tàng... hắn trở xuống lầu.
Ngồi đối diện miếng thịt bít tết, Bernard không dám rút cái ví tiền ra khỏi túi (Biết đâu có người dòm ngó?) nhưng bàn tay trái của hắn, ở tận cùng cái túi trong, âu yếm vân vê chiếc ví. Bernard tự nhủ:
- Làm sao cho Édouard hiểu rằng ta không phải là thằng trộm cắp mới khó chứ! Édouard là hạng người như thế nào đây? Chiếc va li có lẽ sẽ cho mình hay. Một con người đáng yêu, cầm chắc như thế. Nhưng thiếu gì bọn người đáng yêu không chịu hiểu một trận đùa. Nếu ông ta tưởng cái va li bị mất cắp, thì thấy lại va li chắc ông không lấy gì làm vừa ý. Thấy mình xách va li lại, ông sẽ cảm tạ mình, bằng không ông chỉ là một người thô lậu. Ta sẽ có cách làm cho ông quan tâm tới ta. Tráng miệng mau rồi trở lên xem xét tình hình. Trả tiền, và ta hãy để lại cho người bồi bàn một món tiền khiến gã cảm động.
Và lát sau, hắn vào lại trong phòng.
- Nào, va li, mày với ta!... Một bộ complet để thay, có lẽ đối với ta hơi rộng một chút thôi. Vải hợp nhãn và sành điệu. Áo xống, các món dùng vào việc vệ sinh cá nhân. Trả lại cho ông tất cả những món này ư, không chắc lắm. Nhưng có điều này chứng tỏ ta chẳng phải là thằng trộm cắp, là những tờ giấy này đây sẽ bắt ta quan tâm hơn nhiều. Ta hãy đọc cái này đã nhé.
Đây chính là cuốn tập trong đó Édouard đã nhét lá thư buồn của Laura. Chúng ta đã rõ mấy trang đầu; đây là đoạn tiếp theo:
* * *
XI
NHẬT KÍ Édouard
Ngày 1 tháng 11 - Cách đây mười lăm hôm... - tôi đã lỡ không ghi chép lại ngay. Không phải thiếu thì giờ, nhưng lòng tôi đầy ắp hình ảnh Laura - hay đúng hơn tôi không muốn tư tưởng mình nguôi quên nàng, vả lại tôi không thích ghi lại những điều tình cờ, giai đoạn, và lúc đó tôi thấy hình như những điều mình sắp sửa kể chưa thể có một sự liên tục, mà lại, như người ta bảo, chưa có gì quan trọng; ít ra, tôi không chịu công nhận sự thể và chính để chứng tỏ điều này với chính mình, có thể nói như thế, nên tôi mới nén lòng không đả động tới ở trong nhật kí của tôi; nhưng tôi cảm thấy rõ, chống chế làm gì vô ích, rằng khuôn mặt của Olivier bữa nay cuốn hút tâm tưởng của tôi, đưa tâm tưởng tôi sang chiều khác, và dù không để ý đến Olivier, tôi không sao tự mình giải thích rõ ràng, cũng không hiểu mình trọn vẹn.
Buổi sáng đó, tôi ở nhà Perrin về, tôi đến đây coi ngó công việc ấn loát cho cuốn sách cũ của tôi tái bản. Vì trời đẹp tôi thơ thẩn dọc bờ sông chờ giờ ăn trưa.
Gần tới trước nhà Vanier, tôi dừng lại cạnh một hàng bán sách tùy cơ. Tôi chẳng quan tâm đến sách bằng một cậu học sinh chừng mười ba tuổi đang lục lạo những ngăn sách lồng lộng giữa trời dưới con mắt điềm nhiên của người coi hàng ngồi trên chiếc ghế rơm trong cửa tiệm. Tôi vờ ngắm nghía quầy sách, nhưng chính tôi cũng coi ngó thằng bé qua khóe mắt. Hắn mặc một chiếc áo măng tô đã sờn xơ với đôi tay áo quá ngắn để ló tay áo veston ra ngoài. Chiếc túi lớn cạnh sườn, dù ta có cảm giác là rỗng không, vẫn há hốc; ở khóe túi, vải đã bị rách. Tôi nghĩ rằng chiếc áo choàng này hẳn đã phục dịch cho nhiều anh em, và anh em hắn với hắn quen thói nhét quá nhiều đồ vật trong túi. Tôi cũng nghĩ rằng mẹ hắn quá chểnh mảng, hoặc là quá bận rộn không vá víu cho. Nhưng lúc này đây, thằng bé khẽ quay người, tôi nom thấy chiếc túi kia đầy vết khâu mạng một cách thô sơ bằng sợi chỉ đen lớn, chắc chắn. Tức thì, tôi nghe văng vẳng những lời rầy rà của người mẹ: “Đừng có nhét một lúc hai cuốn sách vào túi, mày phá hỏng áo mất. Túi áo lại rách nữa rồi. Bận sau, tao báo trước tao không khâu lại đâu nhé. Nhìn xem mày có ra cái quái gì không!...” Bà mẹ khốn khổ của tôi nói với tôi cũng những lời như thế, và tôi cũng chẳng để tâm. Chiếc áo choàng không cài để lộ áo veston, và tia mắt của tôi chú ý đến một cái gì như huy chương nho nhỏ, một mẩu dải, hay đúng hơn một cánh hoa hồng nhỏ màu vàng hắn đeo ở khuy áo. Tôi ghi lại tất cả những điều này vì kỉ cương, và chính thật là vì ghi lại làm tôi chán ngắt.
Tới một lúc nào đó, người coi hàng bị gọi vào bên trong; y vào chỉ một lát rồi trở ra ngồi xuống ghế; nhưng giây lát đó đã đủ cho phép thằng bé đút nhẹ vào túi áo măng tô cuốn sách đang cầm trong tay; rồi, lập tức, hắn trở lại lục lạo các ngăn sách như không có gì xảy ra. Song hắn hồi hộp, ngước đầu lên, để ý tia mắt của tôi và hiểu ra rằng tôi đã trông thấy hắn. Ít ra, hắn nhủ thầm rằng tôi đã có thể trông thấy hắn; dáng chừng hắn không chắc chắn gì cho lắm, nhưng trong hồ nghi hắn mất hết tin tưởng, đỏ bừng mặt và bắt đầu giở ngón tiểu xảo cố tỏ ra mình tự nhiên lắm nhưng lại ghi dấu ngượng ngùng tột độ. Tôi nhìn hắn không ngớt. Hắn rút trong túi ra cuốn sách đánh cắp, đút vào lại, dời chân đi vài bước, rút từ trong áo veston cái ví nhỏ xơ rơ, hắn làm ra vẻ moi móc tiền trong đó mà hắn biết chắc là không có, hắn bĩu môi một cách có ý nghĩa, cái mím môi kệch cỡm, dĩ nhiên là hướng về tôi, ngụ ý: “Chậc! không có à?” kèm theo một tí phụ chú này nữa: “Lạ nhỉ, mình cứ tưởng có chứ”, mấy cái này hơi lố, hơi thô kệch, như tên diễn viên sợ không được người khác nghe ra. Rốt cục, có thể nói; dưới áp lực của tia mắt tôi, hắn lại tiến đến quầy sách, cuối cùng hắn rút cuốn sách ra khỏi túi và đột nhiên để sách vào lại chỗ trước kia. Sự thể được thi hành tự nhiên đến nỗi người coi sách không nhận ra được điều gì hết. Rồi thằng bé ngẩng đầu lên lần nữa, lần này mong được yên thân. Nhưng không, cái nhìn của tôi vẫn ở nguyên chỗ, như con mắt của Cain; tuy nhiên con mắt của riêng tôi cười thầm. Tôi muốn ngỏ lời với hắn, tôi chờ cho hắn rời mặt tiền quầy sách rồi sẽ xáp lại làm quen, nhưng hắn không nhúc nhích và vẫn đứng trước hàng sách, và tôi chợt hiểu hắn sẽ không nhúc nhích chừng nào tôi hãy còn nhìn chằm chằm hắn như thế này. Lúc bấy giờ, giống như người ta làm náo loạn để xúi con thú săn tưởng tượng dời đổi hang, tôi lùi xa vài bước như thể đã thấy đủ rồi. Hắn bỏ đi về phía hắn, nhưng hắn chưa kịp cao bay thì tôi đã bắt kịp hắn.
- Cuốn sách gì thế? - Tôi hỏi hắn đột ngột, nhưng vẫn hết sức nhã nhặn trong giọng nói và trên nét mặt.
Hắn nhìn ngay vào mặt tôi và tôi cảm thấy sự nghi ngờ của hắn tiêu tan. Có thể hắn không đẹp trai, nhưng ánh mắt của hắn mới xinh làm sao! Trong ánh mắt của hắn, tôi thấy đủ thứ tình cảm lao xao như đám rêu dưới lòng suối.
- Sách hướng dẫn du lịch Algerie. Nhưng sách đắt quá. Tôi không đủ tiền.
- Bao nhiêu?
- Hai franc rưỡi.
- Dẫu sao nếu cậu không trông thấy tôi nhìn cậu, cậu đã chuồn đi với cuốn sách trong túi rồi.
Thằng bé làm một động tác cãi lại và phản đối bằng một giọng rất thô kệch:
- Đâu có, có khi... ông cho tôi ăn cắp sao?...
Giọng hắn đượm vẻ tin tưởng muốn cho tôi hồ nghi điều mục kích. Tôi cảm thấy nếu dằng dai thì mình sẽ nao núng. Tôi rút trong túi ra ba đồng tiền:
- Này! Đi mua đi. Tôi chờ cậu.
Hai phút sau, hắn ở trong tiệm bước trở ra, giở từng trang cái món quà ưa thích. Tôi đón lấy cuốn sách trong tay hắn. Đây là cuốn hướng dẫn du lịch đã xưa của Joanne, năm 1871.
Tôi đưa trả sách lại cho hắn, bảo:
- Muốn làm gì với cái thứ này? Xưa quá. Dùng gì được nữa.
Hắn cãi là vẫn được, vả lại những cuốn hướng dẫn gần đây hơn bán quá đắt, và “với cái thứ này” mấy tấm bản đồ vẫn có thể giúp hắn. Tôi không tìm cách ghi nhận nguyên văn những lời của hắn vì những lời này, nếu mất đi cái giọng nói tỉnh lẻ đặc biệt, sẽ mất hết bản sắc, cái giọng nói đã làm tôi thích thú, nhất là vì câu kéo của hắn không phải là không đẹp.
Cần rút ngắn đoạn này nhiều. Sự chính xác đâu phải nhờ chi tiết của câu chuyện kể mà đạt được, nhưng chính thật là nhờ hai ba nét đặt đúng chỗ trong tưởng tượng của người đọc. Tôi vẫn tin rằng để cho thằng bé kể mọi chuyện e hay hơn; quan điểm của hắn ý vị hơn quan điểm của tôi. Thằng bé vừa lúng túng vừa tự hào vì mối quan tâm của tôi đối với hắn. Nhưng sự trầm trọng của tia mắt tôi làm lệch hướng của nó phần nào. Một nhân cách, quá non nớt và hãy còn vô tâm, thì thủ thế và lẩn trốn đàng sau một thái độ. Không có gì khó quan sát cho bằng những kẻ đang thời tượng hình. Ta buộc lòng trông thấy những kẻ này phiến diện, chỉ thấy họ theo chiều trắc diện thôi.
Thằng bé bỗng nhiên tuyên bố rằng “cái nó ưa thích nhất” là “địa lí’. Cái ưa thích này e che giấu bản năng lang bạt.
Tôi hỏi hắn.
- Bộ cậu muốn đi sang bên đó sao?
- Ồ! - Hắn vừa nói vừa khẽ nhún vai.
Tôi thoáng có ý nghĩ rằng hắn không được hạnh phúc bên cạnh những người thân thích. Tôi hỏi xem hắn có sống với bố mẹ không. - Có. Và hắn không thích bố mẹ hay sao. Hắn phản đối yếu ớt. Hắn có vẻ hơi e ngại thế nào đó vì hồi nãy đã để hình tướng quá lộ. Hắn nói thêm:
- Tại sao ông hỏi tôi vậy?
Tôi nói ngay
- Hỏi thế thôi.
Rồi tôi khều ngón tay vào mẩu dải vàng ở khuy áo hắn:
- Cái gì thế này?
- Cái dải, ông thấy rõ còn hỏi.
Những câu hỏi của tôi làm hắn bực mình rõ rệt. Hắn bỗng quay sang tôi, như thù nghịch, và bằng một giọng bỡn cợt xấc láo không ngờ nổi khiến tôi rời rã hẳn:
- Này... ông thường hay nhìn trộm bọn học sinh hả?
Rồi, trong khi tôi ú ớ lúng túng làm ra vẻ trả lời, hắn mở chiếc cặp học sinh đang kẹp dưới nách để đút món hàng vào. Trong đó có những cuốn sách học và mấy cuốn vở bọc đồng đều bằng giấy xanh. Tôi lấy một cuốn, đó là cuốn vở học sử. Thằng nhỏ đã viết lên đó tên hắn bằng chữ lớn nét. Tim tôi nhảy dội lên khi nhận ra tên thằng cháu tôi:
“GEORGES MOLINIER”
(Trái tim của Bernard cũng dội lên khi đọc mấy dòng chữ trên, và cả câu chuyện này bắt đầu bắt hắn chú tâm dữ dội.)
Trong Bọn làm bạc giả, kẻ sẽ đóng vai nhân vật của tôi, nếu vẫn liên lạc đẹp đẽ với bà chị của nó mà lại không biết gì đến con cái của bà thì sẽ khó được chấp nhận. Tôi vẫn luôn luôn khó lòng lấp liếm sự thật hơn hết mọi thứ. Ngay cả việc thay đổi màu tóc đối với tôi cũng có vẻ như gian lận, nó làm cho sự thật, đối với tôi, hóa ra bớt thật. Tất cả mọi cách ràng buộc nhau và tôi cảm thấy, giữa bao nhiêu sự kiện do cuộc đời cung cấp, những sự lệ thuộc tinh tế đến độ tôi luôn luôn tưởng chừng như ta không thể đổi thay dù chỉ một thành phần trong đó mà khỏi biến đổi toàn thể. Dù sao tôi không thể kể lể rằng người mẹ của thằng nhỏ kia chỉ là người chị cùng cha khác mẹ của tôi, sinh ra từ cuộc hôn phối đầu tiên của cha tôi, rằng tôi vẫn không viếng thăm chị tôi suốt thời gian cha mẹ tôi còn sống, rằng những công việc liên quan tới tài sản thừa kế đã buộc chúng tôi tiếp xúc với nhau... Tuy nhiên những điều ấy không nói không xong và tôi không thấy có thể bịa đặt ra chuyện gì khác hơn để tránh tiếng lắm lời. Tôi biết rằng chị tôi có ba đứa con trai; tôi chỉ biết có đứa lớn nhất, sinh viên y khoa, mà cũng chỉ gặp thấp thoáng, bởi lẽ nó vướng phải bệnh lao nên dở dang việc học và điều trị đâu ở dưới miền Nam. Hai đứa kia không bao giờ có nhà vào những giờ tôi đến thăm Pauline; thằng trước mặt tôi đó nhất định là thằng nhỏ nhất rồi. Tôi không để lộ vẻ gì là ngạc nhiên, nhưng rồi, chia tay thằng Georges đột ngột sau khi được biết rằng nó về nhà ăn trưa, tối nhảy thót lên taxi để tới đường Notre-Dame-des-Champs trước nó. Nghĩ rằng đến giờ này, Pauline sẽ cầm tôi lại ăn, quả nhiên như thế; sách của tôi, lấy ở nhà sách Perrin một cuốn và có thể làm quà tặng, sẽ dùng làm cái cớ cho cuộc thăm viếng trái giờ thế này.
Đây là lần đầu tiên tôi ăn tại nhà Pauline. Tôi đã nhầm khi nghi ngờ ông anh rể của tôi. Anh vị tất là một nhà hành pháp lỗi lạc, nhưng anh biết điều không đả động đến nghề mình, cũng như tôi không đả động đến nghiệp của tôi, khi chúng tôi ngồi với nhau, nhờ thế chúng tôi tâm đầu ý hiệp lắm.
Dĩ nhiên, sáng hôm đó khi tôi đến, tôi không hở môi về câu chuyện gặp gỡ của tôi vừa qua. Khi Pauline ân cần mời tôi ở lại dùng bữa, tôi nói:
- Hi vọng nhờ thế này em làm quen mấy cháu. Bởi vì chị biết, có hai cháu em chưa làm quen.
Pauline bảo:
- Olivier về hơi muộn, vì nó bận tập dượt, mình sẽ ăn trước. Còn Georges, chị vừa nghe nó về tới. Để chị gọi nó. - Rồi chị chạy ra cửa phòng kế cạnh. - Georges! Ra chào cậu đi con.
Thằng nhỏ lại gần, đưa tay cho tôi bắt; tôi hôn bàn tay nó.... Tôi thầm phục cho cái sức vờ vĩnh của bọn trẻ con: nó không để lộ vẻ giật mình gì hết, cứ tưởng như nó không nhận ra tôi. Có điều mặt nó đỏ phừng, nhưng mẹ nó có thể cho là vì rụt rè. Tôi nghĩ rằng chắc nó lúng túng vì gặp lại anh chàng thám tử hồi nãy, vì gần như liền sau đó nó bỏ đi và trở vào phòng bên cạnh; gian phòng này, tôi hiểu, dùng làm phòng học bọn nhỏ, giữa những bữa ăn. Song, phút chốc sau đó, nó xuất hiện trở lại khi bố nó bước vào phòng khách, và nhân lúc mọi người sửa soạn sang phòng ăn, nó đến bên tôi và, không để cho bố mẹ thấy, nó nắm lấy bàn tay tôi. Ban đầu tôi tưởng là một lối tỏ tình thân thiện, tôi lấy làm thú vị; nhưng không phải: nó mở bàn tay tôi ra để bàn tay tôi ôm bọc lấy bàn tay nó, dúi một mẩu giấy mà chắc hẳn nó vừa viết xong, rồi sập mấy ngón tay tôi xuống, siết lại thật mạnh. Lẽ dĩ nhiên tôi phụ họa theo trò chơi, tôi cất mẩu giấy vào túi, sau bữa ăn tôi mới có thể lôi ra. Tôi đọc thấy như sau:
“Nếu cậu kể lại cho bố mẹ nghe chuyện cuốn sách, cháu sẽ (nó gạch bỏ chữ: ghét cậu) nói cậu có xúi cháu nhiều điều.
Và dưới đó:
“Cháu bãi học mỗi ngày lúc 10 giờ.”
Hôm qua nửa chừng X. đến chơi. Câu chuyện của X. đưa tôi vào một trạng thái khó chịu.
Suy nghĩ lung về những điều X. nói. Anh chàng chẳng biết gì về đời tôi, nhưng tôi vẫn trình bày lâu lắc cùng X. cái dàn truyện Bọn làm bạc giả. Lời chỉ dẫn của X. đối với tôi luôn luôn hữu ích, bởi lẽ X. đặt mình ở một quan điểm khác tôi. Anh chàng sợ tôi dốc sức vào cái giả tạo và sợ tôi thả mồi bắt bóng về cái đề tài trong óc tôi. Điều khiến tôi lo ngại là cảm thấy đời sống (đời sống tôi) trong đó tách lìa tác phẩm, tác phẩm tách lìa đời tôi. Nhưng điều này, làm sao tôi ngỏ cùng X. được. Từ trước đến nay, những điều tôi chuộng, những cảm nghĩ, những kinh nghiệm bản thân tiếp dưỡng cho mọi sáng tác của tôi một cách hợp tình; bên trong những câu xây dựng thành công hơn hết, tôi vẫn còn cảm thấy tiếng bập bùng của trái tim tôi nữa đấy. Từ nay, giữa điều nghĩ và điều cảm của tôi, mối dây đã đứt đoạn. Và hôm nay tôi kinh nghi không hiểu có phải chính sự ngăn chận tiếng nói của con tim lại chẳng đẩy đưa tác phẩm tôi vào chỗ trừu tượng và giả tạo. Suy nghĩ về điều đó, cái nghĩa lí trong truyện về thần Apollon và nàng Daphné bỗng hiện ra với tôi: hạnh phúc, tôi nghĩ thế, kẻ nào chỉ trong một cái siết tay có thể nắm vòng hoa đắc thắng và luôn cả đối tượng tình yêu của hắn.
Tôi đã tường thuật quá dông dài câu chuyện tôi gặp Georges đến nỗi tôi phải dừng ngang ở đoạn Olivier nhảy vào sân khấu. Tôi đã mở đầu câu chuyện kể này là chỉ để nói về Olivier, thế mà tôi chỉ biết nói về Georges. Nhưng, lúc đề cập tới Olivier, tôi hiểu rằng sở dĩ tôi chậm nói là vì muốn tách biệt cái lúc đó ra. Ngay khi thấy Olivier, hôm đầu tiên đó, ngay khi nó ngồi ở bàn ăn gia đình, ngay cái nhìn đầu tiên của tôi, hay đúng hơn ngay cái nhìn đầu tiên của nó, tôi cảm thấy cái nhìn đó xâm chiếm lấy tôi và tôi không còn chủ định đời mình.
Pauline nài nỉ tôi đến chơi thường xuyên hơn. Chị khẩn khoản yêu cầu tôi chăm sóc mấy đứa con chị đôi chút. Chị bắt tôi hiểu rằng bố chúng nó vụng hiểu con cái. Càng nói chuyện tôi thấy chị càng khả ái. Tôi chẳng rõ làm sao tôi lại có thể bẵng lui tới với chị quá lâu như thế này. Bạn nhỏ được giáo dục trong Công giáo; nhưng chị vẫn còn nhớ mình đã được giáo dục theo đạo Tin Lành trước kia, và mặc dù chị đã từ giã ngôi nhà của người cha chúng tôi vào lúc mẹ tôi đặt chân vào, tôi khám phá ra giữa chị và tôi nhiều nét tương đồng. Chị đã gửi mấy đứa con vào trường nội trú của cha mẹ Laura, nơi đây chính tôi đã cư ngụ một thời gian thật dài. Trường Azaïs, tuy nhiên, tự hào không nhiễm màu sắc tôn giáo đặc biệt (thuở có tôi, người ta bắt gặp cả đến bọn người Thổ), dù rằng cụ Azaïs, bạn ngày xưa của cha tôi, người sáng lập và nay còn điều hành cơ sở, khởi đầu làm cố đạo.
Pauline nhận được tin tức khả quan từ dưỡng trí viện, nơi đây Vincent khỏi bệnh xong. Chị kể chuyện về tôi với Vincent trong thư, chị bảo thế, và muốn tôi hiểu Vincent hơn, bởi tôi mới gặp Vincent thoáng qua. Chị đặt nhiều hi vọng lớn lao ở đứa con trai đầu, cả nhà cố chắt bóp để cho Vincent lập thân nay mai, để cho Vincent có chỗ ở biệt lập mà tiếp bệnh nhân. Trong lúc chờ đợi, chị tìm được cách dành riêng cho Vincent một phần chỗ ở nhỏ của gia đình, bằng cách đưa Olivier và Georges xuống một phòng tách riêng, không ai ở, phía dưới chỗ ở của gia đình, vấn đề lớn là biết Vincent có vì lí do sức khỏe mà sẽ phải thôi ở nội trú hay không.
Thật ra, Vincent không bắt tôi quan tâm gì cho lắm và nếu tôi có đem chuyện nó ra nói nhiều với mẹ nó là vì chiều lòng mẹ nó, và để ngay sau đó rộng đường đèo bòng chuyện của Olivier dài dòng hơn. Về phần Georges, nó làm mặt lạnh, trả lời qua loa khi tôi hỏi và mỗi khi đụng đầu tôi, nó ném lên người tôi một ánh mắt đa nghi khó tả. Dường như nó giận tôi đã không đến cổng trường đón đợi nó - hoặc là nó giận cho mình đã đưa lời mở ngỏ trước.
Tôi cũng chẳng gặp Olivier nhiều hơn. Cứ đến nhà bà chị, tôi biết nó học ở trong phòng mà không dám vào tìm gặp nó; tình cờ gặp nó thì tôi lại vụng về lúng túng không tìm được gì nói với nó, và điều này khiến tôi khổ tâm để rồi thà đến thăm mẹ nó vào những giờ tôi biết nó không có ở nhà.
* * *
XII
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
2 tháng 11 - Nói chuyện lâu với Douviers, chúng tôi cùng ra khỏi nhà cha mẹ của Laura, và Douviers đưa tôi đến tận Odéon băng qua vườn Luxembourg. Douviers soạn luận án tiến sĩ về Wordsworth(6), nhưng bằng vào một ít lời lẽ nói với tôi, tôi cảm thấy rõ là Douviers không nắm được những nét đặc sắc nhất của thơ Wordsworth. Nếu chọn Tennyson(7) thì tốt hơn. Nơi con người của Douviers, tôi cảm thấy có một cái gì chưa đủ, trừu tượng và dễ bị phỉnh gạt thế nào không hiểu. Người và vật hiện ra thế nào, Douviers cho là y thế đó; sở dĩ thế có lẽ vì anh chàng hễ có gì là để lộ ra cái đó.
- Tôi biết, - Douviers bảo tôi, - anh là người bạn thân nhất của Laura. Có lẽ tôi phải ganh tị với anh một phần nào. Tôi không thể như thế. Trái lại, bao nhiêu điều nàng nói với tôi về anh giúp tôi hiểu nàng hơn, và đồng thời khiến cho tôi mong làm bạn với anh. Hôm nọ tôi có hỏi Laura tôi cưới nàng anh có bất bình lắm không. Nàng trả lời rằng trái lại anh đã khuyên bảo nàng. - (Tôi tin chắc Douviers phát biểu lời này một cách thô kệch như thế). - Tôi mong muốn cảm ơn anh... và mong anh đừng xem là lố bịch, bởi tôi rất thành tâm, - Douviers nói tiếp vừa gượng cười, nhưng giọng nói rung động và mắt rớm lệ.
Tôi không biết trả lời sao, vì tôi cảm thấy mình chẳng xúc động vừa phải chút nào, và hoàn toàn không đủ sức trải lòng đền tạ. Chắc hẳn tôi lộ vẻ cộc lốc phần nào đối với Douviers, nhưng anh chàng bắt tôi bực mình. Dù vậy tôi vẫn cố sức bắt tay một cách nồng nàn nhất. Những cảnh tượng một kẻ dâng tặng tâm tình một cách quá hơn mức đòi hỏi bao giờ cũng nặng nề. E anh chàng ngỡ đã ép uổng cảm tình của tôi. Nếu tinh ý hơn thì anh đã cảm thấy thiệt thòi, nhưng chưa chi đã thấy anh khích động vì chính cử chỉ của mình, cử chỉ mà anh tưởng như thoáng thấy phản ảnh trong tim tôi. Bởi tôi chẳng nói năng, và chừng như lúng túng vì sự im lặng của tôi, Douviers tiếp lời ngay:
- Tôi trông mong nếp sống ở Cambridge khiến nàng ngỡ ngàng để ngăn ngừa nàng có những so sánh bất lợi cho tôi.
Douviers nói thế là nghĩa làm sao? Tôi cố đừng hiểu. Có lẽ anh trông chờ một sự phản đối, nhưng phản đối thì chỉ làm chúng tôi dính vào nhau hơn thêm. Anh thuộc hạng người e dè không chịu đựng nổi những quãng im lặng và tưởng cần phải vẽ vời bằng một sự rào đón quá đáng, anh thuộc hạng người thêm thắt sau đó: “Tôi vẫn thẳng thắn với anh đấy”. Quái, điều quan trọng đâu phải thẳng thắn mà là cho phép kẻ kia thẳng thắn chứ. Đáng lẽ anh phải nhận thấy rằng chính sự thẳng thắn của anh cản ngăn sự thẳng thắn của tôi.
Nhưng dẫu tôi không thành bạn anh chàng được, tôi tưởng ít ra anh sẽ làm người chồng rất tốt cho Laura: bởi vì, nói cho ngay, chính tôi đưa ra ở đây phần nhiều những ưu điểm của anh mà chê bai. Sau đó, chúng tôi nói chuyện Cambridge, tôi hứa sẽ qua Cambridge thăm hai vợ chồng.
Laura đã đề cập chuyện tôi với anh, nhu cầu gì nghịch đời thế?
Đáng khâm phục cái khuynh hướng tận tâm tận tụy nơi người đàn bà. Người yêu, đối với người đàn bà, thường khi chỉ là cái mấu để móc tình vào đó. Laura tính liệu sự điền chỗ một cách dễ dàng thật tình thế! Tôi hiểu nàng lấy Douviers; tôi là một trong những người đầu tiên khuyên nàng điều ấy. Nhưng tôi cũng có quyền phiền muộn một phần. Ba ngày nữa là đám cưới.
Vài bài báo về cuốn truyện của tôi. Những ưu điểm mà người ta vui lòng ghi nhận cho tôi chính là những ưu điểm mà tôi lấy làm ghê sợ... Cho tái bản mấy thứ già cỗi ấy là hợp tình hợp lí chăng? Những thứ ấy chẳng còn mảy may đáp lại những điều tôi yêu thích hiện giờ. Mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra. Nhưng thật ra tôi có vẻ gì là đã đổi thay đâu. Vẫn biết, mãi đến hiện giờ, tôi ý thức con người tôi; từ trước đến giờ, tôi không biết tôi là ai. Phải chăng tôi luôn luôn cần một kẻ khác làm công việc mở mắt cho tôi! Cuốn truyện được kết tinh theo ý của Laura, bởi thế tôi không muốn nhận diện mình trong ấy nữa.
Sự linh mẫn tạo bằng cảm thông cho phép đi trước thời gian, sự linh mẫn ấy, con người không hưởng dụng được sao? Đâu là những vấn đề ngày mai kia khiến những kẻ đến sau lo lắng? Chính thật tôi muốn viết cho những người ấy. Cung cấp chất dưỡng sinh cho những tính hiếu kì chưa hiển lộ, thỏa mãn những đòi hỏi chưa định tính, sao cho kẻ, hôm nay chỉ là đứa trẻ, ngày mai trên lối đi của nó, bất đồ gặp tôi.
Tôi kì vọng cảm nhận trong con người của Olivier bao nhiêu là tính hiếu kì, bao nhiêu là sự không thỏa nguyện nóng lòng về quá khứ...
Đôi khi tôi thấy hình như chỉ có thi ca làm hắn bận tâm. Và tôi cảm thấy, khi đọc lại các thi sĩ qua hắn, loại thi sĩ xuôi theo cảm quan nghệ thuật hiếm hoi hơn loại thi sĩ để cho tim hay óc dẫn dắt mình. Điều quái gở là khi Oscar Molinier đưa thơ Olivier cho tôi, tôi khuyên Olivier làm thế nào để cho chữ nghĩa dẫn dắt mình hơn là chế phục chữ nghĩa. Và bây giờ đây, hình như chính hắn dạy ngược trở lại cho tôi điều đó.
Bao nhiêu điều tôi đã viết ra trước đây nay đối với tôi có vẻ thuận lí một cách chán phèo lố bịch thế!
Ngày 5 tháng 11 - Hôn lễ cử hành. Trong ngôi nhà thờ nhỏ ở đường Madame, nơi đây đã lâu tôi không trở lại. Gia đình Vedel - Azaïs đông đủ: ông ngoại, cha và mẹ của Laura, chị, em gái và em trai, thêm một số cô dì và anh em trong họ. Gia đình Douviers, đại diện là ba người cô mặc đại tang chắc hẳn sẽ thành các bà sơ nếu theo Công giáo nhưng hiện giờ theo lời người ta thì đang sống với nhau và Douviers sống với ba người cô từ khi cha mẹ mất. Trên tòa cao là bọn học sinh của Azaïs. Còn lại là một số người khác, bạn bè của gia đình, đầy cả gian phòng trong đó có tôi lui về phía sau; cách tôi không xa, tôi nom thấy bà chị mình với Olivier; chắc hẳn Georges ở trong phòng hội với bọn bạn cùng lứa. Ông cụ La Pérouse ngồi đàn harmonium; khuôn mặt ông già đi, đẹp hơn, quý phái hơn bao giờ hết, nhưng mắt thì không còn cái ánh lửa kì lạ đã truyền nhiệt tình cho tôi như thuở ông dạy dương cầm. Ông bắt gặp ánh mắt của tôi và trong nụ cười ông gửi gắm cho tôi, tôi cảm thấy một nỗi buồn đến độ tôi tự nhủ ra ngoài kia sẽ gặp ông. Mấy người dịch sang và cạnh Pauline có một chỗ ngồi trống. Lập tức Olivier ra dấu cho tôi, khẽ đẩy mẹ để tôi có thể ngồi cạnh nó; kế đó nó cầm lấy bàn tay tôi và giữ lấy bàn tay tôi trong tay nó hồi lâu. Lần này là lần đầu tiên nó hành động thân mật thế này đối với tôi. Nó nhắm mắt lại hầu suốt thời gian mục sư diễn giảng, điều này cho phép tôi ngắm nghía nó được lâu; nó trông giống như tên mục đồng ngủ quên nơi một bức thạch bản chạm nổi ở một viện bảo tàng ở Naples mà tôi có được tấm hình chụp để ở bàn viết. Nếu ngón tay nó không động khẽ thì tôi đã tưởng nó ngủ thật; bàn tay nó thấp thỏm trong tay tôi như con chim.
Vị mục sư tự cho có bổn phận kể lại tiểu sử của mọi người trong gia đình Azaïs, khởi đầu bằng tiểu sử của người ông, bạn cùng lớp xưa kia với mục sư ở Strasbourg trước đại chiến, sau đó là sinh viên cùng lớp ở phân khoa thần học. Tôi ngại ông sẽ không sao nói cho trôi xuôi một câu khúc mắc giải thích rằng Azaïs, bạn ông, đảm đương điều hành trường và dốc lòng vào việc giáo dục thiếu niên, nên chi, có thể nói, không xa rời đạo sống mục sư. Sau đó là thế hệ khác kế vị. Cũng với tính cách xây dựng, mục sư đề cập đến gia đình Douviers, ông tỏ ra chẳng biết gì nhiều về gia đình này. Những hảo ý đắp điếm cho những sơ hở của ngôn từ và người ta nghe ra nhiều phần tử trong cử tọa sụt sùi. Tôi muốn biết Olivier nghĩ sao, tôi ngẫm rằng nó được giáo huấn theo Công giáo thì lễ nghi Tin Lành chắc là mới lạ đối với nó và có thể đây là lần đầu tiên nó bước vào thánh thất này. Cái năng khiếu dị kì đổi lốt bản ngã vốn cho phép tôi cảm nhận xúc cảm của người như xúc cảm của mình nay gần như buộc tôi lãnh trọn những cảm nghĩ của Olivier, những cảm nghĩ mà tôi tưởng tượng nó phải có; và mặc dù nó nhắm mắt, hoặc là có lẽ chính vì nó nhắm mắt, tôi tưởng chừng không thấy giùm cho nó, lần đầu tiên mấy bức tường trống trơn này đây, cái ánh sáng trừu tượng và nhợt nhạt đang tẩm vào cử tọa, sự tách biệt dữ dội của giảng đàn trên lớp tường trắng cuối phòng, sự thẳng tắp của đường nét, cái cứng ngắc của hàng cột chống đỡ các tòa cao, ngay cả cái tinh thần của lối kiến trúc góc cạnh và bạc màu với cái vẻ thiếu mĩ thuật khó coi, cái vẻ dứt khoát và tỉ mỉ lần đầu tiên lộ ra với tôi. Bởi không hề cảm thấy bấy nhiêu thứ đó trước đây, chắc hẳn tôi đã quen nhìn từ dạo bé mất rồi... Thốt nhiên tôi hồi niệm thời vỡ lòng đạo giáo cùng những nhiệt tình đầu tiên; về Laura cùng trường Chúa nhật(8), nơi chúng tôi tìm gặp lại nhau, cả hai đều là giảng viên, đầy hăng say và chưa phân định rõ, giữa cái nhiệt huyết thiêu hóa mọi thứ vẩn đục trong người chúng tôi, cái gì là cái thuộc về kẻ kia và cái gì thuộc quyền Thượng đế. Và thoáng chốc tôi đâm ra buồn lòng vì Olivier không hay biết gì về sự thanh dục sơ khai đó, chính cái tâm trạng này liều lĩnh ném tâm hồn lên cao khỏi những lớp vỏ hình tướng, tôi buồn lòng vì Olivier không được những kỉ niệm như tôi; nhưng mà, cảm thấy nó xa lạ với mọi điều cũng giúp cho chính tôi thoát mình ra ngoài mọi điều ấy. Say sưa tôi bóp lấy bàn tay nó vẫn buông thả trong bàn tay tôi, nhưng đến đây nó bỗng rút tay về. Nó mở choàng mắt ra nhìn tôi, rồi, bằng một nụ cười tinh quái thật trẻ con bị khỏa lấp phần nào vì vầng trán nghiêm nghị khác thường của nó, nó rỉ tai, nghiêng mình qua tôi - đúng lúc mục sư, muốn nhắc nhở những bổn phận của tín đồ, nói thao thao những lời khuyên, lời răn và nghiêm huấn cho cô dâu chú rể:
- Cháu cóc cần, cháu theo Công giáo.
Mọi thứ trong con người Olivier thu hút tôi và đối với tôi vẫn còn huyền bí.
Ở cửa phòng để đồ thờ, tôi đã gặp lại ông La Pérouse. Ông bảo tôi, hơi buồn bã, nhưng bằng một giọng không chút trách móc:
- Anh quên tôi ít nhiều, chắc thế.
Tôi viện cớ bận việc, không biết việc gì, để xin lỗi quá lâu không gặp ông; hẹn ngày mốt đến thăm ông. Tôi tìm cách kéo lão đến gia đình Azaïs, chính tôi được mời dự tiệc trà do gia đình khoản đãi sau buổi lễ; nhưng lão bảo tôi cảm thấy quá chán và sợ gặp quá nhiều người phải hầu chuyện mà lão không thể hầu chuyện.
Pauline kéo Georges theo, để tôi ở lại với Olivier và cười bảo tôi:
- Giao nó cho cậu đấy.
Câu nói có vẻ làm Olivier hơi cau mặt, nó nhìn đi chỗ khác. Nó lôi tôi ra ngoài đường:
- Cháu đâu có biết cậu thân với gia đình Azaïs thế?
Tôi khiến nó ngạc nhiên vô cùng khi nói cho nó hay rằng tôi đã ở nội trú hai năm tại đó.
- Tại sao cậu thích thế hơn là thu xếp để sống độc lập... - ở một nơi khác?
- Cậu thấy sống thế cũng tiện, - Tôi trả lời mơ hồ, không thể cho nó biết rằng hồi đó Laura chiếm trọn ý nghĩ tôi và ước chừng tôi có thể chấp nhận những lối sống tệ hại hơn để được sống cạnh nàng.
- Cậu không khó thở trong không khí cái nhà hộp đó sao?
Kế đó, không thấy tôi trả lời gì, nó nói:
- Không hiểu sao chính cháu cũng chịu nổi nơi đó, chịu sống ở đó. Nhưng bán trú thôi. Thế cũng quá lắm rồi.
Tôi buộc lòng giải thích mối tình bạn giữa giám đốc của “cái nhà hộp” ấy và ông ngoại của nó, mẹ nó mãi về sau sực nhớ mới chọn chỗ đó. Nó nói tiếp:
- Dù sao, cháu thiếu những điểm tựa để so sánh; và có lẽ tất cả mấy cái đó đều giống nhau hết; theo lời người ta cho cháu biết, e cháu lại dám tin rằng đa số nơi khác còn tệ hơn nữa đấy. Dù sao, thoát ra khỏi đó là cháu chịu rồi. Lẽ ra không vào đó làm gì, nếu không phải vớt vát lại thời gian bị bệnh. Và từ lâu, có tới lại là chỉ vì tình bạn giữa cháu và Armand.
Bấy giờ tôi mới hay đứa em trai của Laura kia là bạn cùng lớp với nó. Tôi nói với Olivier rằng tôi gần như không biết Armand.
- Thông minh nhất và đáng để ý nhất của gia đình đấy.
- Nghĩa là đứa được cháu để ý nhất chứ gì?
- Không, không phải thế; cháu cam đoan với cậu rằng nó lạ lắm, Nếu cậu muốn, mình đến chuyện trò một chút với nó trong phòng riêng của nó nhé. Mong nó có can đảm nói năng trước mặt cậu.
Chúng tôi đi đến kí túc xá.
Gia đình Vedel - Azaïs đã thay thế bữa tiệc cưới theo truyền thống bằng một bữa tiệc trà đơn giản ít tốn kém. Phòng tiếp khách và phòng giấy của mục sư Vedel mở cửa đón tân khách đông đảo. Chỉ một ít người thân thích là được vào phòng khách đặc biệt và nhỏ hẹp của bà mục sư; nhưng, để tránh sự ùa vào, người ta bít cái cửa giữa phòng tiếp chuyện và phòng khách, nên chỉ khi người ta hỏi Armand làm thế nào gặp mẹ nó thì nó đáp:
- Đi ngả lò sưởi.
Người và người. Nóng chết được. Ngoài một ít “phần tử trong giáo giới”, đồng nghiệp của Douviers, đám khách hầu hết là người Tin Lành. Mùi cố chấp thật đặc biệt. Hôi hám cũng nặng mùi như thế này, và có lẽ còn ngột ngạt hơn, trong những buổi họp Công giáo hay giữa người Do Thái, ngay khi họ cởi mở với nhau; nhưng người ta rất thường bắt gặp giữa bọn người Công giáo một sự tự cao, giữa bọn Do Thái một sự tự ti, điều mà tôi thấy hình như rất hiếm khi bọn Tin Lành lại bưng bít; đó là một sự kiện. Và như tôi đây làm gì nhận ra được cái đặc sắc của bầu không khí này nếu tôi trầm mình hồi lâu trong đó. Một cái gì xa lạ không gột xóa, một cái gì có vẻ xa cách và khờ khạo không hiểu nổi.
Ở cuối phòng, một cái bàn dựng ra thay cho tủ; Rachel và Sarah, chị và em gái của Laura, được mấy cô bạn tới tuổi cập kê phụ lực, đang dọn trà...
Laura, khi thấy tôi, lôi tôi vào văn phòng của thân phụ nàng, nơi đây một đoàn người đã bắt đầu nhóm họp. Lần vào một khuôn cửa sổ, chúng tôi có thể chuyện trò không ai nghe thấy. Trên khung cửa, ngày xưa chúng tôi khắc hai tên vào đó. Nàng bảo:
- Anh tới coi. Tên mình vẫn còn. Hẳn không có ai để ý. Hồi đó anh mấy tuổi nhỉ?
Phía trên hai chữ tên, chúng tôi có ghi ngày. Tôi tính ra:
- Hăm tám.
- Còn em mười sáu. Đã mười năm.
Thật không phải lúc để quậy lên bao kỉ niệm; tôi cố đẩy đưa những câu chuyện trò ra khỏi vùng kỉ niệm; trong khi nàng ưu ái một mực đưa tôi trở về lại đó; tiếp theo, như thể sợ mủi lòng, nàng hỏi xem tôi còn nhớ Strouvilhou không.
Strouvilhou là một học viên nội trú vô tổ chức, dạo đó hắn làm cho cha mẹ của Laura điên đầu lắm. Coi như hắn theo học, nhưng đến khi người ta hỏi hắn theo học môn nào, hoặc chuẩn bị thi cái gì, hắn đáp một cách hờ hững:
- Còn tùy.
Lúc đầu người ta làm ra vẻ coi những lối lấc cấc của hắn như những trò bỡn cợt, như thể nhằm làm cùn mòn cái sắc mắc đi, và chính hắn cũng cười ồ lên sau đó; những nụ cười ấy thoáng chốc trở nên phúng thích hơn, trong khi đó những lượt lọt ra ngoài của hắn càng có vẻ châm chọc, và tôi không rõ làm thế nào và tại sao mục sư dung dưỡng một tên trú ngụ như thế, nếu không phải vì những lí do tài chính, và vì đối với Strouvilhou mục sư vẫn giữ một thứ thiện cảm xen lẫn thương hại thế nào đó, và có lẽ một hi vọng mơ hồ sẽ thuyết giáo được hắn, tôi muốn nói: sẽ thuyết hắn theo đạo. Và tôi cũng chẳng hiểu gì hơn tại sao Strouvilhou tiếp tục lưu lại trường nội trú, trong khi có thể đi nơi khác; bởi hắn đâu có vẻ bị ràng buộc như tôi vì một lí do tình cảm, nhưng rất có thể vì hắn thích thú rõ rệt được quần thảo với vị mục sư tội tình kia mãi biện hộ vụng về cho mình và luôn luôn dành cho hắn vai trò dễ coi.
- Anh có nhớ hôm hắn hỏi bố em có mặc veston trong khi giảng lễ?
- Phải rồi! Hắn hỏi nhỏ nhẹ, khổ cho ông tuyệt không thấy gì là tinh quái. Lúc ấy đang ngồi ở bàn ăn; giờ đây anh hình dung rõ tất...
- Mà bố thì lại ngây ngô trả lời hắn là veston chẳng cồm cộm gì mấy, không mặc thì sợ cảm hàn.
- Lúc bấy giờ hắn ra vẻ ái ngại chứ! Rồi cuối cùng phải thúc đẩy hắn nhìn nhận rằng “quan hệ gì mấy, dĩ nhiên”, nhưng đến khi bố khoa tay làm lộ tay áo veston ở bên dưới thì lại tạo một hậu quả ngỡ ngàng cho một vài con chiên.
- Sau đó, báo hại ông đọc hết bài giảng khoanh tay bó sát người làm hỏng mất bao nhiêu tác dụng hùng biện của ông.
- Chủ nhật kế đó, ông ra về bị cảm nặng, bởi đã bỏ veston. À! Thêm cái buổi thảo luận về cây vả cằn cỗi trong Phúc Âm với những cây không kết trái... “Con đây không phải là cây có trái. Cây có bóng râm, thưa cha, con có bóng râm: con phủ bóng râm cho cha.”
- Vẫn là nói ra ở bàn ăn.
- Đã hẳn, bao giờ cũng chỉ thấy hắn ở bàn ăn.
- Mà nói giọng dắm dẳn thế. Lúc bấy giờ ông ngoại em đuổi hắn đi. Anh nhớ ông ngoại vụt đứng dậy, thường ngày ông một mực cúi xuống đĩa ăn, ông dang thẳng tay: “Anh đi ra!”
- Ông sừng sững trông dễ sợ, ông nổi giận. Anh tin chắc Strouvilhou sợ.
- Hắn vứt khăn lên bàn và cút mất. Hắn bỏ đi không thanh toán tiền bạc cho gia đình, và từ đó không hề gặp lại hắn.
- Cũng muốn biết xem hắn ra cái gì rồi.
Laura nói tiếp, thoáng rầu rĩ:
- Tội cho ông ngoại, hôm đó em thấy ông phi thường. Anh biết, ông yêu anh lắm. Anh phải lên gặp lại ông lát nữa trên phòng. Em chắc chắn anh sẽ làm ông đẹp lòng lắm.
Tôi ghi lại tất cả ngày liền, tôi cảm thấy rằng sau đó thật khó tìm lại cái giọng đối thoại chính xác. Nhưng kể từ lúc đó tôi bắt đầu lắng nghe Laura một cách đãng trí hơn. Tôi vừa thoáng thấy Olivier, phải, cách tôi khá xa, mà tôi đã mất hút từ khi Laura kéo tôi vào phòng phụ thân của nàng. Olivier mắt long lanh và nét mặt linh động một cách khác lạ. Về sau tôi mới biết Sarah nghịch ngợm cho nó uống sáu cốc champagne liên tiếp. Armand đi cùng với nó, và cả hai, băng qua các đám đông, đuổi theo Sarah và một thiếu nữ người Anh trạc tuổi với Sarah, lưu trú đã hơn năm tại gia đình Azaïs. Cuối cùng Sarah và cô bạn ra khỏi phòng và, xuyên qua cánh cửa mở, tôi thấy hai cậu lao người theo ở cầu thang. Đến lượt tôi, tôi định đi ra theo lệnh truyền của Laura, nhưng Laura đã nhích người sang tôi.
- Này anh, em muốn nói điều này nữa... - và giọng nàng bỗng trở nên thật trang trọng. - Có lẽ anh và em sẽ lâu không gặp lại. Em mong anh nói cho em hay... Em mong được biết em còn có thể trông cậy ở anh... như một người bạn được không?
Chưa bao giờ tôi muốn hôn nàng như lúc đó; nhưng tôi cầm lòng hôn lấy tay nàng một cách âu yếm và nồng nàn, trong khi khẽ bảo:
- Dù thế nào đi nữa.
Và để che giấu mấy giọt nước mắt mà tôi cảm thấy đang dâng lên mắt mình, tôi thoát nhanh đi tìm Olivier.
Nó ngấp nghé đợi tôi ra, ngồi cạnh Armand trên bực cầu thang. Chắc chắn nó hơi say. Nó đứng dậy lên, níu kéo tay tôi, bảo:
- Đến đây, cậu. Mình vào phòng Sarah hút điếu thuốc, Sarah đang chờ.
- Lát nữa. Cậu phải lên thăm ông cụ Azaïs đã. Nhưng làm sao tìm cho ra phòng nào đây.
Armand bật giọng:
- Trời đất, anh biết rõ mà, phòng của Laura hồi trước đó. Vì là một trong những phòng tốt hơn cả nên họ cho Laura ngủ đó, nhưng bởi trả tiền không đủ, Laura ở chung phòng với Sarah. Họ kê hai cái giường cho có hình thức, nhưng vô ích...
Olivier vừa cười phá lên vùa thúc tay vào bạn:
- Cậu đừng nghe hắn. Hắn say đấy.
Armand lại nói:
- Tao khuyên mày nói đi mà. Thế nào, anh đến thế? Bọn này chờ.
Tôi hứa sẽ lên theo.
Từ khi để tóc dựng, cụ Azaïs trông không còn giống Walt Whitman(9) tí nào nữa. Cụ để lại cho gia đình người con rể tầng lầu thứ nhất và thứ nhì của tòa nhà. Từ cửa sổ bàn làm việc của cụ (với đồ nội thất bằng gỗ hồng đào bọc vải da reps và nhồi lông ngựa), cụ nhìn toàn cảnh sân và kiểm soát sự đi lại của học sinh.
- Anh thấy người ta yêu chiều tôi thế đấy, - vừa nói ông cụ vừa trỏ một bó hoa cúc trên bàn do mẹ một đứa học sinh vốn là bạn lâu năm của gia đình vừa để lại. Không khí gian phòng nghiêm hàn đến độ tưởng chừng những cánh hoa phải tàn héo ngay. - Tôi lánh xa đô hội một lúc đã. Tôi già rồi và sự huyên náo trò chuyện làm tôi mệt. Nhưng hoa này sẽ làm bạn với tôi. Hoa chuyện trò theo cách của hoa và chúng nó biết cách kể lể danh Chúa hơn là người (hay hao hao một điệu nói như thế).
Con người phẩm cách này làm sao tưởng tượng ra nổi rằng mình làm lũ học sinh ngấy đến bực nào bằng những lời lẽ kiểu đó, những lời của ông thì chân thật đến độ làm nhụt mất lời mai mỉa. Những tâm hồn đơn giản như ông cụ Azaïs quả là những tâm hồn tôi hiểu khó khăn hơn cả. Ngay khi ta bớt đơn giản một tí mà đứng trước những tâm hồn đơn giản là ta bị trói vào một thứ hài kịch, ta chẳng lương thiện gì mấy, nhưng làm sao bây giờ? Không thể bàn bạc, không thể sửa sai, chỉ có nước chấp nhận. Azaïs ban bố sự giả dối chung quanh mình, dù người ta chia sớt sự tin tưởng của cụ không bao nhiêu. Buổi đầu lui tới gia đình, tôi lấy làm chướng mắt thấy bọn cháu nói dối với ông cụ. Tôi phải tùy tục.
Mục sư Prosper Vedel thì quá bận rộn; bà vợ, hơi khờ khạo, hụp lặn trong cơn mơ tôn giáo thẩn thơ làm mất hết cái cảm quan thực tế; ông ngoại đích thân ra tay vừa giảng đạo vừa dạy học cho bọn nhỏ. Mỗi tháng một lần, thuở còn ở đó, tôi dự nghe lời giảng giải sóng gió mà cuối cùng là những lời thổ lộ bi thiết.
- Từ nay cái gì cũng nói ra hết cho nhau nghe. Mình bước vào một thế hệ mới làm bằng ngay thẳng và thành thật. (Ông cụ thích dùng nhiều danh từ nói lên cùng một nghĩa - cái hủ tục cụ còn giữ lại từ thuở trước làm mục sư). Đừng có hậu ý, những ý nghĩ dở hơi núp sau gáy mình đấy. Sẽ nhìn nhau ngay mặt và mắt trong mắt. Phải thế không nào? Giao hẹn rồi đấy.
Về sau là sự sa lầy sâu hơn tí nữa, cụ thì sa vào sự ngờ nghệch, còn con cái thì vào sự dối trá.
Những lời ấy đặc biệt nhắm vào một đứa em trai của Laura, nhỏ hơn nàng một tuổi, đang bị nhựa sống dằn vặt và đang ướm thử ái tình. (Hắn đi doanh thương tận những thuộc địa và tôi bẵng không gặp lại). Hồi trước có một đêm khi nghe ông cụ lặp lại câu nói vừa rồi, tôi mới vào phòng tìm hắn, tôi cố cho hắn hiểu rằng ông cụ đòi hỏi cháu mình phải thành thật nhưng sự độc đoán của cụ khiến cho hắn không thành thật nổi. Thế là cụ Azaïs giận dữ đến nơi, cụ la lối bằng một giọng không cho cãi lại:
- Nó chỉ có việc vô công ngồi rồi là khỏi phải thú nhận, lấy đâu mà xấu hổ.
Dù sao cụ là một người tốt, không những thế còn là một mẫu mực về đạo hạnh và như người ta gọi đấy: một tấm lòng vàng; tiếc rằng những lời bình của cụ thì ấu trĩ. Cụ mến yêu tôi lắm chẳng qua là vì cụ không hề biết tôi có tình nhân. Cụ không giấu giếm rằng trước đây cụ ước ao thấy tôi kết hôn với Laura, và lặp lại nhiều lần với tôi: “Con ấy chọn gì chọn lạ”, kế đó cụ nói thêm: “Mà thôi, chắc anh chàng cũng hiền lương... Anh thấy thế nào?”
Tôi nói:
- Thưa đúng như thế.
Một tâm hồn, chừng đã đi sâu vào sự sùng mộ tôn giáo, đánh mất cái ý nghĩa, mùi vị, sự cần thiết, thích muốn điều thực tế. Tôi quan sát thấy cũng tương tự như thế nơi con người của Vedel, dù tôi nói chuyện với ông Vedel chỉ được ít. Sự chói lóa của đức tin làm họ mờ mắt về thế giới chung quanh, và về chính bản thân. Đối với tôi không có gì phải bận tâm mà cũng chẳng cần phải nhìn vào cho rõ, tôi sững sờ trước sự dối trá thô lậu mà một kẻ sùng đạo vẫn có thể bằng lòng ẩn mình trong đó.
Tôi muốn gợi cho cụ Azaïs nói về Olivier. Nhưng cụ quan tâm đến thằng Georges hơn hết. Ông cụ mở đầu:
- Đừng cho hắn phát giác anh biết những việc tôi sắp sửa nói ra với anh đây; dù đây là những điều đề cao hắn... Anh thử tưởng tượng thằng cháu của anh cùng với vài đứa bạn đã lập thành một cái hội nhỏ gì đó, một liên minh hỗ tranh; chúng nó chỉ thu nhận những đứa nào xét ra xứng đáng và chứng tỏ có đức độ; một thứ Danh dự Hội tinh thiếu nhi. Anh không thấy đáng yêu sao? Mỗi đứa mang ở khuy áo một mẩu dải - ít lộ ra ngoài thật nhưng tôi vẫn để ý thấy. Tôi cho gọi thằng bé vào bàn giấy, và khi hỏi nó giải thích cái huy hiệu, nó thoạt tiên lúng túng. Thằng nhỏ ngỡ là sẽ bị quở trách. Sau đó, đỏ mặt và hết sức bối rối, nó thuật lại sự thành lập của cái nhóm nho nhỏ ấy. Anh thấy, những cái đó, cười làm sao được, dễ tổn thương tới những tình cảm vô cùng tế nhị... Tôi hỏi nó tại sao nó với bạn bè không làm công khai, giữa thanh thiên bạch nhật? Tôi nói với nó nếu làm công khai thì đã có thể có một khí thế truyền bá, dẫn dụ đáng kể biết mấy, chúng nó đã đóng một vai trò đẹp đẽ biết bao nhiêu... Nhưng cái tuổi ấy lại thích bí mật... Muốn nó tin tưởng, đến lượt tôi bảo nó rằng, thời đại của tôi, nghĩa là hồi tôi bằng tuổi nó, tôi cũng gia nhập một hội như thế, hội viên mang cái tên đẹp đẽ là “hiệp sĩ hành đạo”; mỗi một người trong chúng tôi nhận lãnh của chủ tịch hội một cuốn sổ tay trong đó mình ghi chép những cơn yếu lòng, những khiếm khuyết, tuyệt đối thành thật. Nó nhoẻn miệng cười và tôi thấy rõ câu chuyện sổ tay gợi ý cho nó; tôi không nói thêm vào, nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu rồi đây nó đề ra hệ thống sổ tay cho bạn bè đua tranh. Anh thấy, với bọn trẻ, phải biết cách, và muốn thế thì trước tiên phải tỏ với chúng là mình thông cảm với chúng. Tôi hứa với nó không hé răng cho cha mẹ nó biết những cái đó, nhưng vẫn khích nó ngỏ cho mẹ nó hay, bà sẽ sung sướng lắm. Nhưng hình như chúng đã hứa danh dự với nhau không tiết lộ. Cứ nằng nặc thì mình đâm ra vụng mất. Nhưng trước khi chia tay, tôi với nó cùng cầu nguyện Chúa ban phước lành cho hội.
Khổ thân ông cụ Azaïs! Tôi tin chắc thằng nhỏ đã phỉnh gạt cụ và trong câu chuyện không có tiếng nào đúng sự thật. Nhưng Georges nó trả lời khác làm sao được?... Sẽ cố đưa tự sự ra ánh sáng.
Lúc đầu tôi nhận không ra phòng nào là phòng của Laura. Gian phòng được phủ nệm lại; không khí thay đổi hẳn. Sarah cũng thế, tôi nhận không ra. Thế mà tôi vẫn tưởng biết rõ cô nàng. Sarah tỏ ra luôn luôn tin cậy tôi. Lúc nào đối với cô nàng tôi cũng là kẻ được người ta nói mọi điều. Nhưng bao nhiêu ngày tháng dằng dặc tôi không trở về gia đình Vedel. Chiếc áo của Sarah để trần cánh tay và cổ. Cô nàng có vẻ lớn, dạn dĩ ra. Sarah ngồi xuống một trong hai cái giường, cạnh Olivier, gần sát, Olivier nằm duỗi dài tự nhiên và ngủ thì phải. Hẳn nhiên nó say; và hẳn nhiên thấy nó thế tôi buồn lòng, nhưng tôi thấy nó đẹp hơn bao giờ hết. Không nhiều thì ít, cả bọn bốn người đều say. Cô bé người Anh cười như nắc nẻ, cái cười sâu sắc khó nghe, sau những lời vô nghĩa lí của Armand. Armand nói bất kể, được kích thích, được khích lệ vì cái cười kia rồi cùng với nụ cười đua nhau làm trò ngốc nghếch sàm sỡ; nó đưa điếu thuốc vào má đỏ ửng của chị nó và của Olivier, cũng rực đỏ, vờ như để châm, hoặc là vờ làm như phỏng tay bằng một cử chỉ trâng tráo khi nó xáp lại gần và cố chạm hai trán vào nhau. Olivier và Sarah cũng hùa theo cái trò đó và tôi lấy làm nhọc lòng.
Olivier vẫn làm ra vẻ ngủ khi Armand thình lình hỏi tôi nghĩ gì về Douviers. Tôi ngồi trong chiếc ghế dựa thấp, cảm thấy hay hay kích thích, vừa cảm thấy chướng mắt vì cơn lảo đảo và vẻ tự nhiên của cả bọn; nói tóm lại, vẫn thích vì được mời đến, trong khi đúng ra đâu phải chỗ cho tôi gần bọn chúng.
- Các cô hiện có mặt ở đây... - Armand nói tiếp, vì tôi không tìm ra điều gì trả lời và đành cười chiều lòng để hòa hợp. Nói đến đó, cô nàng người Anh muốn ngăn nó nói và đuổi theo nó để đưa tay bịt mồm nó lại; hắn vùng thoát ra và la lớn. - Mấy cô này bất bình vì nghĩ đến chuyện Laura sẽ phải ngủ với thằng cha đó.
Cô nàng thả nó ra và, bằng một điệu hung dữ giả tạo:
- Đừng! Đừng nên tin lời nó. Bịa đấy.
Armand nói tiếp, bình tĩnh hơn:
- Tôi cố cho họ hiểu là, với hai chục ngàn franc tiền hồi môn, mong gì hơn nổi chứ, và, với tư cách người Công giáo chân chính, cái cần nhất cho Laura là những đức tính của linh hồn, y như lời ông bố mục sư của bọn này. Thật đấy, mấy cô bé ạ. Với lại, làm sao kiểm kê dân số đây, nếu cứ phải bắt ở độc thân tất cả đàn ông nào không phải là Adonis... hay không phải là Olivier, nói thế là để đưa chúng ta về lại thời buổi gần đây hơn.
- Thằng thối thế! - Sarah lẩm bẩm. - Anh đừng nghe nó; nó nói mà không biết mình nói gì đâu.
- Tôi nói sự thật.
Tôi chưa hề nghe Armand nói như vừa rồi; tôi đã tin và hãy còn tin nó bản chất tinh tế và bén nhạy; sự sàm sỡ của nó có vẻ hoàn toàn gượng gạo, một phần vì say và nhất là cần làm trò cho cô nàng người Anh. Cô này, xinh đẹp thì không thể chối cãi, hẳn phải ngốc lắm mới thích nổi những cái không đáng thế kia; Olivier tìm được một thứ nghĩa lí nào trong đó không?... Tôi dặn lòng, ngay khi một mình với Olivier, sẽ không giấu sự lợm giọng của tôi cho nó biết.
Armand bỗng quay sang tôi, nói tiếp:
- Nhưng còn anh, là người không kể tiền bạc và cũng đủ tiền để mua cho mình những tình cảm cao thượng, anh bằng lòng nói cho chúng tôi tại sao anh không cưới chị Laura? Trong khi anh yêu chị, hình như thế, và, điều này ai nấy đều biết, chị vàng võ theo anh?
Olivier mãi đến giờ vờ ngủ, choàng mở mắt ra, ánh mắt tôi và nó giao nhau và dĩ nhiên nếu tôi không đỏ mặt là nhờ bọn kia không có đứa nào quan sát tôi.
- Armand à, chịu mày không nổi đấy, - Sarah nói, như để cho tôi dễ thở, vì tôi không tìm được gì đối đáp lại.
Kế đó, lúc đầu còn ngồi trên giường, bây giờ Sarah nằm dài ra sát cạnh Olivier, làm thế nào mà đầu hai người chạm vào nhau. Lập tức Armand vọt dậy, vồ lấy tấm bình phong xếp để gần chân giường đã dựng vào tường rồi, hắn như thằng hề, căng bình phong ra để che hai người lại, sau đó vẫn làm hề, nghiêng mình về phía tôi nhưng nói lớn:
- Chắc anh không biết chị tôi là con đĩ?
Quá quắt. Tôi đứng lên; tôi đẩy tấm bình phong, Olivier và Sarah bật dậy ngay. Sarah tóc bù rối. Olivier đứng lên, lại chỗ rửa mặt và khỏa nước lên mặt. Sarah níu lấy tay tôi bảo:
- Anh đến đây. Em muốn chỉ cho anh cái này.
Sarah mở cửa phòng và kéo tôi ra đầu cầu thang.
- Em nghĩ rằng cái này dễ lưu ý một người viết tiểu thuyết. Đây là cuốn sổ tay em tình cờ tìm thấy, cuốn nhật kí tâm tình của bố, không hiểu làm thế nào ông lại để rơi rớt thế này. Ai cũng có thể đọc. Em vớ lấy ngăn nó lọt vào tay Armand. Anh đừng nói cho nó. Không dài gì lắm. Anh có thể đọc trong mười phút rồi trước khi về trả lại cho em.
Tôi nhìn ngay vào mặt Sarah, bảo:
- Nhưng thế này thì tọc mạch quá.
Sarah nhún vai:
- Ồ, anh tin vậy thì anh sẽ thất vọng lắm đấy. Chỉ được một khoảng đáng coi thôi... và thế này này. Khoan: em chỉ cho anh.
Sarah rút trong chẽn áo ra một cuốn nhật kí rất nhỏ, viết đã bốn năm, cô nàng lật từng tờ trong một lát, rồi cứ để mở đưa cho tôi mà chỉ vào một đoạn.
- Anh đọc nhanh nhé.
Thoạt tiên tôi thấy, phía dưới dòng đề ngày, và giữa dấu ngoặc kép, câu trích dẫn Thánh kinh:
“Kẻ nào thủ tín trong việc nhỏ cũng sẽ thủ tín trong việc lớn”, kế đó: “Tại sao khất mãi đến ngày mai quyết định muốn bỏ thuốc? Là chỉ để khỏi làm buồn lòng Mélanie (là bà vợ). Lạy Chúa, hãy cho con sức lực rũ bỏ cái ách nô lệ xấu hổ này.” (Tôi tin mình ghi đúng).
Sau đó là ghi chú những việc phấn đấu, van xin, cầu nguyện, nỗ lực, chắc chắn là vô hiệu, bởi lẽ ghi lại mãi ngày trước ngày sau. Lật một trang nữa và, bất ngờ, một vấn đề khác.
- Khá cảm động, nhỉ? - Sarah thốt lên, kèm theo một tí bĩu môi mai mỉa, sau khi tôi đã đọc xong.
Tôi nói với Sarah, không nín nổi, tuy vẫn trách mình đã nói ra:
- Lạ lùng hơn Sarah tưởng đấy. Em thử tưởng tượng cách đây chưa được mười hôm, anh hỏi bố em có bao giờ thử thôi hút thuốc chưa. Anh tự thấy mình thả lỏng hút quá nhiều, với lại... Mà thôi, em biết ông trả lời anh thế nào không? Trước hết ông bảo ông nghĩ rằng người đời ngoa ngôn về những hậu quả tai hại của thuốc lá, rằng phần ông không hề cảm nhận thấy thế ở trong người; và bởi vì anh cố nói vào, cuối cùng ông bảo: “Có, tôi có quyết định hai ba lượt ngưng hút một thời gian thật.” “Được chứ?” Ông đáp lại như máy: “Thì tất nhiên, tôi đã quyết mà.”
Vì không muốn để lộ ra trước mặt Sarah những điều mà tôi ngờ vực là còn gian dối ở bên trong nên tôi thêm vào:
- Thế thì kì diệu thật. Dù sao, có thể bố không nhớ ra.
Sarah lại nói:
- Có lẽ hay thật, điều đó chứng tỏ rằng chữ “hút thuốc” được đặt vào đây để thay cho chữ khác.
Cô nàng Sarah mà thốt những lời ấy thật sao? Tôi bàng hoàng. Tôi nhìn Sarah, như không dám hiểu... Lúc đó, Olivier ra khỏi phòng. Nó đã chải lại tóc, sửa lại áo xống và ra vẻ trầm tĩnh hơn.
Trước mặt Sarah, nó điềm nhiên nói:
- Mình đi, cậu. Trưa rồi.
Chúng tôi đi xuống, và khi ra đường, Olivier bảo tôi:
- Cháu sợ cậu hiểu nhầm. Cậu có thể tưởng cháu yêu Sarah. Có đâu... Nhưng cũng không ghét... Có điều cháu không yêu.
Tôi nắm lấy cánh tay Olivier, cầm siết lại không nói, Olivier nói thêm:
- Cậu cũng đừng nên xét đoán Armand theo những lời gì đó hắn có thể nói với cậu bữa nay. Hắn đóng trò đấy... đóng trò bất đắc dĩ. Bên trong hắn khác lắm... Cháu không thể giải thích cho cậu. Hắn cần hủy hoại thế nào đó mọi cái gì hắn coi trọng nhất. Tính hắn như thế này mới đây thôi. Cháu tin hắn khổ tâm lắm nhưng chính để che đậy khổ tâm mà bất kể. Hắn ngang nhiên lắm. Cha mẹ hắn tuyệt nhiên không hiểu hắn. Các người muốn hắn làm mục sư.
Dẫn từ cho một chương Bọn làm bạc giả:
“Gia đình... cái xà lim của xã hội.”
PAUL BOURGET (không rõ)
Tiêu đề cho chương truyện: CHẾ ĐỘ XÀ LIM
Hẳn nhiên chẳng có ngục tù nào (ngục tù tinh thần) mà một trí óc vững mạnh lại không đào thoát; và chẳng có cái gì xui khiến chống đối mà cuối cùng không nguy hiểm - dù rằng sự chống đối có thể làm sai trật cá tính (nó xếp nếp, làm quặt quẹo hay làm lồng lộn cá tính và bày vẽ một hạ kế); và đứa bé nào không nhượng bộ ảnh hưởng gia đình, tiêu hao mất cái tinh khôi của ý chí mình vào việc thoát li ảnh hưởng ấy. Nhưng có điều này nữa, sự giáo dục nghịch ý với đứa trẻ, trong khi vướng chân nó, lại làm cho nó thêm mạnh. Bọn nạn nhân thảm thương nhất là bọn được nuông chiều. Muốn ghét cái chiều lòng mình, há không cần sức mạnh cá tính ư? Biết bao nhiêu bậc cha mẹ (nhất là mẹ) tôi được mục kích, họ lấy làm thích thú nhìn nhận nơi con cái, khuyến khích nơi con cái những kiêng kị ngu xuẩn nhất, những định kiến sai lầm hơn cả, những sự tối dạ, nhiều điều ghét của chúng... Ở bàn ăn: “Thôi con bỏ lại đó, đồ mỡ đấy, con thấy rõ mà. Bóc lớp da ra. Chưa đủ chín...” Đi chơi ngoài, buổi tối: “Kìa! Con dơi... Mau che mặt lại con, nó bay vào tóc bây giờ.” Vân vân... Với các bậc này, bọ hung thì cắn, châu chấu thì chích, trùn đất thì sinh mụn. Những phi lí cỡ đó trong mọi địa hạt, tinh thần, luân lí, v.v.
Trong chuyến xe lửa nội vi thành phố đưa tôi từ Auteuil về hôm kia, tôi nghe một bà mẹ trẻ rỉ tai cho đứa con gái nhỏ mười tuổi mà bà đang nựng nịu:
- Con với mẹ, mẹ với con; những người khác, mình cóc cần.
(Ô hô! Vẫn biết đó là người bình dân; nhưng bình dân cũng có quyền bắt mình bất bình chứ. Người chồng, trong góc toa tàu, đọc báo, lặng lẽ, nhẫn nhịn, có lẽ thứ bị cắm sừng cũng không đáng).
Thử tưởng tượng độc dược nào âm hiểm hơn?
Tương lai gửi vào lũ con hoang. - “Con của thiên nhiên!” trong tiếng đó có một ý nghĩa gì ghê thế! Chỉ có đứa con hoang là hưởng được thiên nhiên!
Vị gia đình... ít gớm ghiếc hơn vị kỉ một chút thôi.
Ngày 6 tháng 11 - Tôi chưa hề bịa đặt được gì. Nhưng tôi đứng trước thực tại như họa sĩ đương đầu người mẫu, họa sĩ bảo y: cho tôi động tác này; giữ cho tôi vẻ mặt đó, tôi thấy nó vừa ý tôi. Những kiểu mẫu mà xã hội cung ứng cho tôi, giá tôi thấy rõ động cơ của chúng, tôi có thể điều động chúng theo ý mình; hoặc ít ra, họ đã bất quyết, tôi có thể đề nghị những vấn đề nào đó cho chúng giải quyết theo cách của chúng, làm thế nào để sự phản ứng của chúng bổ ích cho tôi. Chính vì là người viết tiểu thuyết mà tôi bị dằn vặt vì cái nhu cầu can thiệp vào định mệnh của chúng, điều hành định mệnh của chúng. Nếu tưởng tượng dồi dào hơn, tôi sẽ vẽ vời những điều gay cấn; tôi khêu dậy những điều này, quan sát các diễn viên, rồi họ mớm gì tôi viết cái đó.
Ngày 7 tháng 11 - Những cái tôi viết hôm qua, chẳng có cái gì đúng. Còn lại điều này: thực tại bắt tôi lưu ý như một vật liệu uốn nắn được; và tôi để mắt rất nhiều tới những cái khả hữu, hơn là những cái đã có. Tôi nghiêng mình choáng váng trên những điều khả dĩ của mỗi hữu thể và thương tiếc những gì bị cái mũ mĩ tục làm mòn mỏi.
Bernard phải ngừng đọc một lát. Mắt hắn lòa. Hắn hụt hơi, làm như hắn đã quên thở suốt thời gian hắn đọc, bởi sự chăm chú của hắn quá mãnh liệt. Hắn mở cửa sổ và hít đầy phổi, trước khi chúi mũi trở lại.
Tình bạn của hắn đối với Olivier dĩ nhiên là một trong những tình bạn mãnh liệt nhất; hắn không có bạn nào thân hơn và không yêu ai trên đời này bằng, bởi không được yêu cha mẹ; thế mà tạm thời lòng nó vướng vào việc này một cách gần như thái quá; nhưng Olivier và hắn hiểu tình bạn không hoàn toàn giống nhau. Bernard càng đọc lâu càng lấy làm lạ mãi thêm, khâm phục mãi thêm, nhưng khẽ đau lòng, người bạn của hắn kia mà hắn tưởng mình hiểu rõ lại tỏ ra có thể bách biến đến thế. Trước đây Olivier tuyệt không nói gì với hắn về tất cả những chuyện do nhật kí tường thuật. Về Armand và Sarah, hắn hầu như không dè có hai cái tên này. Olivier tỏ ra khác bọn kia thế, tỏ ra khác hơn Bernard hình dung!... Bernard dễ thường nhận ra thằng bạn hắn được chăng, trong gian phòng của Sarah kia, trên chiếc giường ấy? Xen lẫn vào tính hiếu kì vô hạn thúc bách hắn đọc là một sự khó chịu lù mù: ghét hay giận. Một tí giận hờn mà hắn cảm nhận ra hồi nãy khi thấy Olivier bám vào cánh tay Édouard: giận mình không dự vào. Cái giận này có thể đưa đẩy xa, và xúi làm nhiều chuyện quấy, giống như mọi cơn giận vậy.
Cho qua. Tất cả những điều nói trên đây chỉ là để đưa một thoáng không khí len vào giữa những trang nhật kí. Bây giờ Bernard đã hô hấp đầy đủ, ta hãy giở lại. Đây, hắn đang cắm cúi vào cuốn tập.
* * *
(6) William Wordsworth (1770–1850) là nhà thơ lãng mạn người Anh.
(7) Alfred Tennyson (1809–1892) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của vương quốc Anh.
(8) Trường Chúa nhật là tên gọi các loại hình giáo dục tôn giáo tổ chức vào ngày chủ nhật bởi các cộng đồng Cơ Đốc giáo, phổ biến vào thế kỉ 18, 19.
(9) Walt Whitman (1819-1892) là nhà thơ, nhà báo, người Mỹ, tác giả tập thơ nổi tiếng Lá cỏ.
XIII
Lớp già được việc gì bao nhiêu.
VAUVENARGUES
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
Ngày 8 tháng 11 - Ông bà già La Pérouse lại dời chỗ ở. Nhà mới của họ, mà tôi chưa biết, nằm thụt xuống dưới đường, trong cái phần nhỏ lõm vào ở trước chỗ tiếp giáp đại lộ Haussmann và ngoại ô Saint-Honorée. Tôi bấm chuông. Ông La Pérouse ra mở cửa. Ông đang mặc sơ mi và đội trên đầu một thứ mũ vải trắng ngả vàng, mãi sau tôi nhận ra đó là chiếc bít tất cũ (chắc là của bà vợ) mà phần bàn chân túm lại phủ lên má, bồng bềnh như cái núm tua ở chiếc mũ pháp quan. Ông cầm ở tay cái gắp than uốn cong. Hiển nhiên tôi bắt chợt ông đang bận chữa lò sưởi, và vì ông hình như lúng túng nên tôi buột miệng:
- Hay lát nữa tôi quay lại?
- Không, không!... Anh vào đây. - Và ông đẩy tôi vào một gian phòng hẹp hình bầu dục có hai cửa sổ mở ra đường, đúng ngang tầm đèn đường.
- Tôi đang chờ một nữ sinh đúng giờ này, nhưng nó có đánh điện bảo không đến. Gặp anh, tôi mừng lắm.
Ông đặt cái gắp than lên chiếc ghế đẩu, và, như để xin lỗi về cách ăn mặc:
- Người giúp việc cho vợ tôi để lò tắt ngấm, thị đến buổi sáng thôi, tôi phải dọn cho sạch...
- Thầy để tôi giúp thầy nhóm lửa lại?
- Không, đừng... Vấy vào người... Nhưng anh cho phép tôi đi mặc cái áo.
Ông bước đi nhún nhảy lúp xúp, rồi trở vào lại gần như liền sau đó, quàng chiếc veston mỏng bằng vải alpaga, nút đứt, tay áo thủng, mòn đến nỗi đem nó đi cho kẻ khó cũng không dám. Chúng tôi ngồi xuống.
- Anh thấy tôi đổi khác, phải không?
Tôi muốn chối, nhưng không tìm ra gì để nói, động lòng vì vẻ bại hoại của khuôn mặt mà trước đây tôi đã làm quen và trước đây quá rạng rỡ. Ông nói tiếp:
- Phải, dạo này tôi già đi nhiều. Tôi bắt đầu mất bớt trí nhớ. Khi nào đàn lại một tấu khúc của Bach, tôi phải nhờ đến tập nhạc...
- Những cái còn lại của thầy cũng đã đủ cho bao nhiêu bọn trẻ.
Ông hất hàm tiếp lời:
- Ối dào! Đâu phải trí nhớ kém mà thôi đâu. Đấy: khi đi bộ, vẫn tưởng mình bước còn khá nhanh, nào ngờ ra đường bây giờ ai cũng vượt qua mặt tôi.
Tôi nói:
- Thưa, đó là vì ngày nay người ta bước nhanh hơn nhiều.
- Thảo nào, nhỉ?... Bài học tôi ra cũng thế đấy; bọn học trò cho rằng cách dạy của tôi bắt chúng nó tiến chậm, chúng muốn đi nhanh hơn tôi. Chúng nó bỏ rơi tôi... Ngày nay, ai nấy đều hối hả.
Ông nói thêm thật nhỏ, tôi nghe thoang thoáng:
- Tôi gần mất sạch học trò.
Tôi cảm thấy nơi ông một nỗi cùng quẫn làm tôi chẳng dám hỏi han.
Ông lại nói:
- Nhà tôi không muốn hiểu cho điều đó. Bà bảo tôi không dàn xếp đúng đắn, bảo tôi vô kế khả thi để lưu giữ học sinh và lại càng vô kế khả thi để thu học trò mới.
Tôi vụng về hỏi:
- Còn cô học trò thầy đang chờ đấy...
- Phải! Được đứa đó tôi chuẩn bị cho nó vào Nhạc viện. Nó đến đây học tập mỗi ngày.
- Thế nghĩa là cô ta không mất tiền với thầy.
- Vợ tôi trách móc tôi khá đến! Bà có hiểu đâu rằng chỉ có những bài học như thế mới lợi ích cho tôi, phải, những bài mà tôi thích thú thật sự để... cho không. Dạo sau này tôi suy nghĩ lung. À... có điều này tôi muốn hỏi anh: tại sao sách vở ít khi đả động tới bọn người già?... Tôi nghĩ, giai do bọn già không còn khả năng viết sách và, khi người ta còn trẻ, người ta không bận tâm đến bọn già. Một ông già chẳng đáng gì cho ai... Tuy nhiên nói về bọn già cũng có nhiều cái ngộ lắm. Đấy: có một số hành vi trong cuộc đời đã qua của tôi mà tôi mới bắt đầu hiểu. Phải, tôi mới bắt đầu hiểu rằng những hành vi kia tuyệt nhiên không mang cái ý nghĩa mà xưa kia tôi đã tưởng, trong khi tôi thực hiện... Chỉ bây giờ tôi mới hiểu rằng suốt cả đời tôi bị phỉnh. Vợ tôi gạt tôi, con tôi gạt tôi, mọi người gạt tôi, Chúa nhân từ gạt tôi...
Chiều hôm ngả bóng. Tôi đã hầu như không còn phân biệt những nét mặt của vị thầy già của tôi; nhưng bỗng đâu lóe lên ánh ngọn đèn đường ở gần để lộ cho tôi thấy một bên má của ông sáng lên những giọt nước mắt. Thoạt nhìn tôi lo sợ vì một vết quái gở ở bên thái dương của ông, như một hõm trũng, như một cái lỗ; nhưng, sau một cử động nhỏ của ông, cái vết di động và tôi hiểu đó chỉ là cái bóng đổ do một mẫu hoa nơi chấn song. Tôi đặt tay lên cánh tay gầy của ông, ông rùng mình. Tôi nói:
- Thầy nhuốm lạnh bây giờ. Thầy không muốn nhóm lửa thật sao?... Mình nhóm lửa đi.
- Không... Phải chịu khổ.
- Sao! Khổ hạnh hả, thầy?
- Phần nào. Chính vì tôi nhạy lạnh ở cổ mà tôi không bao giờ muốn quàng khăn. Tôi luôn luôn phấn đấu với mình.
- Chiến thắng được thì tốt rồi, nhưng nếu thể xác quỵ ngã thì...
Ông cầm lấy tay tôi, và bằng một giọng nghiêm trọng, như thể ông tiết lộ một bí mật của tôi:
- Thì lúc bấy giờ mới là thắng thật sự.
Ông buông tay tôi ra, nói thêm:
- Tôi vẫn sợ anh bỏ đi không đến thăm tôi.
Tôi hỏi:
- Đi đâu ạ?
- Tôi biết đâu. Anh hay lãng du thế kia. Có điều tôi đã định nói với anh... Tôi, tôi cũng muốn ra đi, không lâu nữa đâu.
- Sao! Thầy có định đi xa?
Tôi hỏi vụng về, và làm ra vẻ không hiểu ông, mặc dù giọng ông mang vẻ trầm trọng, huyền hoặc và thiêng liêng. Ông gật đầu:
- Anh thừa hiểu tôi muốn nói gì... Thật đấy. Thật đấy, tôi biết là sẽ tới lúc. Tôi bắt đầu làm ra tiền ít hơn tiền người ta tốn cho tôi; và điều này, tôi không chịu được. Có một điểm nào đó mà tôi hứa với mình chớ vượt qua.
Ông nói bằng một giọng hơi bốc làm tôi e ngại:
- Anh cũng cho điều đó bậy hay sao? Tôi chưa hề hiểu nổi tại sao tôn giáo ngăn cấm ta điều đó. Tôi đã suy nghĩ nhiều dạo sau này. Hồi trẻ, tôi sống thật khắc khổ; tôi khen cho mình có cá tính mạnh mỗi khi từ khước một lời yêu cầu. Tôi không hiểu rằng tưởng giải thoát, hóa ra càng trở nên nô lệ tính kiêu căng của mình. Mỗi một lúc tự thắng, ấy là khóa thêm một vòng vào cánh cửa nhà tù giam hãm mình. Đó là điều mà hồi nãy tôi muốn nói đấy, khi tôi bảo với anh là Chúa đã gạt tôi. Chúa đã khiến tôi coi tính kiêu căng của mình như đức tính. Chúa đùa bỡn tôi. Chúa lấy thế làm thú. Giỡn mình như mèo vờn chuột. Gửi gắm cho mình những cám dỗ mà Người biết rằng mình không chống chọi lại nổi; nhưng hễ mình chống chọi, Chúa lại trả thù hơn thế nữa. Tại sao trù chúng ta như thế? Và tại sao... Nhưng những vấn đề người già, tôi làm anh chán tai mất thôi.
Ông bưng đầu trong hai tay, như cách đứa trẻ hờn dỗi, và im lặng hồi lâu làm tôi ngờ ngợ rằng ông quên sự có mặt của tôi. Im lìm trước mặt ông, tôi ngại làm xao xuyến dòng trầm tư của ông. Mặc dù tiếng động gần kề từ ngoài đường, sự yên tĩnh của căn phòng nhỏ trông có vẻ phi thường, và dù ánh đèn đường chiếu rọi chúng tôi một cách kì quái từ dưới lên trên như đèn rầm sân khấu, chung quanh chúng tôi như dừng khựng lại, khác nào, gặp tiết trời lạnh cóng, con nước đứng yên, đứng yên tận lòng tôi. Cuối cùng, muốn khua động cơn khắc khoải, tôi hô hấp ồn ào và, nghĩ tới chuyện ra về, sẵn sàng cáo từ, tôi lên tiếng hỏi, vì lịch sự, và để phá tan sự huyễn hoặc:
- Thưa, bà ở nhà bình thường?
Ông cụ như tỉnh giấc. Thoạt tiên ông nhắc lại câu hỏi:
- Vợ tôi à...
Tưởng chừng những thanh âm này đối với ông đã mất hết ý nghĩa; kế đó, đột ngột, nghiêng mình sang tôi:
- Vợ tôi trải qua một cơn khủng khiếp... và khiến tôi khổ lắm.
- Cơn gì ạ?... - Tôi hỏi.
Ông nhún vai tự nhiên:
- Ồ! Chẳng có gì. Bà phát điên thật sự. Hết xoay xở.
Từ lâu tôi đã ngờ sự rời rã sâu đậm của gia đình ông cụ, nhưng tôi hết hi vọng được giải thích gì rõ hơn. Tôi mủi lòng hỏi:
- Khổ thân. Thưa... lâu mau rồi ạ?
Ông ngẫm nghĩ một lát, làm như không hiểu rõ câu hỏi của tôi:
- Ồ! Lâu lắm rồi... từ lúc tôi làm quen với bà.
Nhưng ông nói vớt gần liền ngay đó:
- Không, thật ra từ khi dạy thằng con tôi, sự thể mới hư hỏng.
Tôi phác một cử chỉ ngạc nhiên, bởi lẽ tôi đinh ninh gia đình ông không có con cái. Ông ngước đầu lên ra khỏi hai tay, bằng một giọng trầm tĩnh hơn:
- Tôi chưa hề nói chuyện với anh về đứa con tôi?... Đây, tôi muốn nói tường tận cho anh nghe. Bữa nay anh thấu rõ hết mới được. Những gì tôi sắp sửa kể lể với anh, tôi không thể ngỏ với ai... Phải, đúng từ khi dạy thằng con tôi; đã lâu rồi, anh thấy đấy. Buổi đầu chung sống của chúng tôi thì thi vị. Tôi là người rất trong trắng khi tôi cưới vợ. Tôi yêu vợ hồn nhiên... đúng thế, chữ hồn nhiên là đúng hơn cả, và tôi không chịu nhận ra một khuyết điểm nào hết ở vợ mình. Nhưng tư tưởng của chúng tôi không giống nhau về cách giáo dục con cái. Mỗi lần tôi muốn khiển trách thằng con, vợ tôi về phe nó chống lại tôi; cứ nghe bà thì việc gì cũng nên bỏ qua cho nó... Mới hai mươi tuổi đầu, nó đã kẹp tình nhân. Lại là học trò tôi, một thiếu nữ Nga, rất giỏi nhạc, tôi quyến luyến lắm. Vợ tôi rõ sự tình, nhưng với tôi, ai nấy đều giấu giếm mọi chuyện, bao giờ cũng như bao giờ. Và dĩ nhiên, tôi làm sao phát giác cô nàng có thai. Phải, thế đấy, tôi không dè gì hết. Một hôm nọ, người ta cho tôi hay là cô học trò ê mình, phải một thời gian không đến được. Lúc tôi ngỏ lời đi thăm cô nàng, người ta bảo cô ta đổi chỗ ở, cô ta đi xa... Mãi lâu về sau tôi mới được tin cô đã đi Ba Lan để sinh. Con tôi bỏ đi theo... Chúng nó sống nhiều năm với nhau nhưng con tôi chết trước khi cưới xin.
- Thế... cô ta, thầy có gặp lại?
Tưởng chừng ông đang húc nhằm một vật cản.
- Tôi không thể tha thứ cho con đó đã lừa gạt tôi. Vợ tôi vẫn thư từ với nó. Lúc tôi hay nó túng bấn, tôi có gửi tiền... vì đứa con nhỏ. Nhưng điều này thì vợ tôi không hay biết gì. Nó, con ấy, không biết là tiền kia do tôi mà có.
- Còn cháu thầy?...
Một nụ cười lạ lùng thoáng qua trên mặt, ông đứng lên.
- Anh chờ một lát, tôi sẽ đưa hình nó cho anh xem.
Và ông lại chạy lúp xúp ra, đầu chúi về trước. Vào lại, mấy ngón tay ông run run tìm kiếm tấm hình trong một chiếc ví lớn. Ông đưa tấm hình, nghiêng người xuống tôi, và trầm giọng:
- Tôi lấy của vợ tôi mà bà không ngờ. Bà tưởng mất.
- Nó mấy tuổi? - Tôi hỏi.
- Mười ba. Có vẻ nhiều tuổi hơn, nhỉ? Nó mảnh người lắm.
Mắt ông lại đẫm ướt; ông chìa tay với tấm hình, như muốn thu hồi gấp. Tôi khom lưng tới phía ánh đèn đường không đủ sáng, tôi thấy đứa bé hình như giống ông, tôi nhận ra cái trán cao vồ, cặp mắt mơ màng của ông cụ La Pérouse. Tôi nói lên điều đó, nghĩ là làm vừa lòng ông, ông cãi:
- Không, không phải, nó giống ông anh tôi, một người anh mà tôi đã mất...
Đứa bé phục sức kì dị bằng một tấm áo blouse kiểu Nga có thêu.
- Thưa, nó sống ở đâu?
- Anh bảo làm sao tôi biết được? - Ông cụ lên giọng trong một nỗi như là tuyệt vọng. - Tôi nói với anh là người ta giấu giếm tôi đủ điều mà.
Ông đã lấy lại tấm hình, và sau một lúc ngắm nghía, đút vào lại trong ví, chuồi vào túi.
- Hồi mẹ nó đến Paris, mẹ nó chỉ thăm vợ tôi, nếu tôi có hỏi bà thì bà đáp: “Ông cứ hỏi ả.” Bà nói thế chứ trong thâm tâm bà sẽ buồn lòng nếu tôi gặp nó. Bà luôn luôn ganh cạnh. Tất cả những gì kết liên với tôi, bà luôn muốn tranh cất của tôi... Thằng bé Boris học ở Ba Lan, trong một trường ở Varsovie, chắc thế. Nhưng nó thường hay đi đây đi đó với mẹ nó.
Tiếp theo, trong một cơn xúc động cao độ:
- Này! Anh có tin rằng người ta có thể yêu một đứa bé không hề gặp không?... Đấy! thằng nhỏ ấy nay là của quý nhất của tôi trên đời... Thế mà nó hay biết gì đâu!
Cơn tức tưởi phát thành tiếng lớn cắt quãng lời ông nói. Ông rời ghế đứng lên và buông mình, chẳng khác nào ngã xuống, vào tay tôi. Ước chừng làm được cái gì thì tôi đã làm cho nguội bớt cơn thống khổ của ông, nhưng nào tôi làm được gì chứ? Tôi đứng lên, bởi tôi cảm thấy tấm thân gầy guộc của ông vuột xuống và cơ hồ ông sắp quỳ gối. Tôi đỡ lấy ông, ghì lấy ông, vỗ về ông như vỗ về đứa bé. Ông đã trấn tĩnh. Bà vợ ông lên tiếng gọi ông trong phòng bên.
- Bà vào bây giờ đấy... Anh không chủ tâm gặp bà chứ gì?... Hà huống bà đã lãng tai hoàn toàn mất rồi. Anh đi nhanh lên.
Và khi ông đưa tôi ra đầu cầu thang:
- Đừng để quá lâu không đến nhé (trong giọng ông có chiều khẩn khoản). Chào anh, chào anh.
Ngày 9 tháng 11 - Một thứ gì như là chất bi kịch, từ trước tới giờ hầu như thiếu vắng cho văn chương, hình như thế. Tiểu thuyết chuyên chú tới những oan trái của số phận, cái rủi cái may, những liên hệ xã hội, sự xung đột giữa những đam mê, tính khí, nhưng tuyệt không lí tới chính cái tinh thể của con người.
Đem thảm kịch đặt lên bình diện đạo lí, đó vẫn là nỗ lực của Công giáo. Nhưng, nói thật, không có tiểu thuyết Công giáo. Có những cuốn tự đề ra những cùng đích xây dựng, nhưng điều này chẳng dính dự gì đến điều tôi muốn nói. Chất bi kịch đạo lí chẳng hạn đã làm cho câu Thánh kinh này trở thành quyết liệt: “Nếu muối mất đi cái vị của nó, ta sẽ lấy gì phục hồi cái vị đó cho muối?” Chính cái chất bi kịch đó mới là hệ trọng đối với tôi.
Ngày 10 tháng 11 - Olivier sắp sửa đi thi. Pauline muốn rằng sau đó nó trình diện vào trường Normale. Con đường sự nghiệp của nó đã vạch rõ... Như nó không cha mẹ, không nơi nương tựa, tôi đã lấy nó làm thư kí. Nhưng nó không thắc mắc về tôi, cũng không nhận thấy mối quan tâm của tôi đối với nó nữa là khác; và nếu cho nó biết thế, chắc tôi sẽ khiến nó ngượng nghịu. Chính để nó khỏi ngượng mà trước mặt nó, tôi cố tạo một vẻ hững hờ, một vẻ cách biệt buồn cười. Chỉ khi nào nó không trông thấy tôi, tôi mới tha hồ nhìn ngắm nó. Có khi tôi đi theo nó ở ngoài đường mà nó không hay. Hôm qua, đấy, tôi đi sau nó; nó bỗng quay gót và tôi không có thì giờ lẩn trốn. Tôi hỏi nó:
- Đi đâu vội thế?
- Không đi đâu hết ạ. Khi không có việc gì thì cháu mới có vẻ vội vã thế.
Chúng tôi đi với nhau mấy bước, nhưng chẳng tìm được gì nói với nhau. Hẳn nhiên nó mất hứng thú vì đã bị bắt gặp.
Ngày 12 tháng 11 - Nó có cha mẹ, anh em, bạn bè... Tôi nhắc nhở tôi điều đó suốt ngày, và tôi ở chốn này làm gì. Những gì nó thiếu thốn, có lẽ tôi có thể bù đắp cho, đàng này nó chẳng thiếu gì. Nó không cần gì hết, và nếu tính tình dễ mến của nó làm tôi cao hứng, thì chẳng có cái gì trong sự dễ mến ấy cho phép tôi lầm lỡ... A! Câu phi lí, tôi vô tình viết ra. Và qua đó bộc lộ tâm trạng trùng phức của tôi... Tôi xuống tàu đi London ngày mai. Đột ngột quyết định ra đi. Đã đến lúc.
Đi vì quá muốn ở lại!... Một sự thích muốn điều khó khăn thế nào đó, và sự ghê sợ điều chiều lòng (tôi muốn nói chiều lòng mình), đây có lẽ là cái khó lòng tẩy gột hơn hết trong nếp giáo dục khắc khổ khởi thủy của tôi.
Mua ngày hôm qua tại tiệm Smith, cuốn vở sẽ tiếp theo cuốn này chưa chi đã sặc mùi Anh quốc, và tôi hết muốn viết gì nữa. Cuốn tập mới...
Ôi! Ước gì ta có thể đừng bắt ta đi!
* * *
XIV
Có khi xảy ra những tai biến trong đời mà ta, muốn thanh thoát, cần phải điên một tí.
LA ROCHEFOUCAULD
Bernard chấm dứt việc đọc của mình bằng lá thư của Laura, được kẹp vào trong nhật kí của Édouard. Hắn bàng hoàng: làm sao hắn ngờ được rằng người đàn bà kêu ca thống thiết ở đây lại là cô nàng khổ vì yêu mà Olivier nói tới hôm qua, người tình bị Vincent Molinier ruồng bỏ. Và bỗng chốc, sự việc lộ cho Bernard thấy rằng nhờ câu chuyện ẩn tình do bạn và cuốn nhật kí thuật lại, hắn hiện là người duy nhất biết luôn cả bề mặt trái của tấn tuồng éo le. Đó là một ưu thế mà hắn sẽ không bảo toàn được lâu, cần phải thao diễn mau lẹ và chặt chẽ. Lập trường hắn tức thì được quyết định: vẫn không quên mảy may những gì đã đọc lúc đầu, Bernard giờ chỉ lưu ý tới Laura.
“Hồi sáng, ta thấy chưa nhất định phải làm gì, bây giờ không nghi ngờ gì nữa,” - hắn vừa nhủ thầm vừa lao mình ra khỏi phòng. “Giống như lời người ấy bảo, mệnh lệnh tối cao là: cứu Laura. Bổn phận của ta có thể không phải là chiếm đoạt chiếc va li, nhưng, trót lấy rồi, hiển nhiên ta đã tiếp thu từ trong chiếc va li một ý nghĩ mãnh liệt về bổn phận. Điều quan trọng là bắt chợt Laura trước khi Édouard gặp lại nàng, và tự giới thiệu với nàng, và tự nguyện cách thế nào đó đừng để cho nàng tưởng ta là một tên vô lại là được. Kì dư sẽ êm xuôi. Giờ đây, trong ví, ta có đủ để an ủi nỗi vô phúc một cách cũng đẹp như một chàng Édouard hào hoa nhất và đãi lòng nhất. Điều duy nhất khiến ta bối rối là cái cách thức. Bởi lẽ, vốn dòng họ Vedel, và dù có thai bất chấp pháp lí, Laura chắc hẳn là một người tế nhị. Ta tưởng tượng nàng thuộc hạng đàn bà cự tuyệt, đem lòng khinh miệt ra nhổ vào mặt ta và xé vụn những tấm giấy bạc ta đưa, dù ta đưa với hảo ý nhưng vì để trong một chiếc phong bì khiếm cách. Làm thế nào trao bạc cho nàng? Làm thế nào tự tiến dẫn? Khó là chỗ đó. Một khi ta đi ra ngoài vòng hợp pháp và ra ngoài những đường lối thông thường, sa lầy! Để dẫn dắt mình vào cõi éo le bố trí đến thế kia, hiển nhiên ta hơi trẻ tuổi. Nhưng cần gì! Chính cái trẻ tuổi mới là cái sẽ giúp ta. Hãy bày đặt ra một lời thú non nớt, một câu chuyện khiến ta thành kẻ đáng thương, và khiến nàng để ý đến ta. Phiền một nỗi là sự việc này chắc hẳn sẽ giúp cho Édouard luôn thể, và cũng sự việc này hẳn không mâu thuẫn với lòng ta chút nào. Chậc! Sẽ tìm ra cách mà. Trông cậy vào cảm hứng lúc ấy.”
Hắn đi tới đường Beaune, địa chỉ do Laura cho. Khách sạn loại khiêm tốn nhất, được một cái là sạch sẽ và bề ngoài thanh nhã. Theo lời chỉ dẫn của người gác cổng, hắn leo lên ba tầng lầu. Trước cửa số 16, hắn dừng lại, muốn sửa soạn sự ra mắt của mình, muốn tìm lời, nhưng không xong lúc bấy giờ, vụt làm mạnh dạn, hắn gõ cửa. Một giọng nói cất lên, dịu dàng như giọng người chị, và như có thoáng chút ngại ngùng:
- Mời vào.
Laura phục sức rất giản dị, toàn đen; tưởng chừng nàng phục tang. Từ mấy ngày nay ở Paris, nàng mơ hồ chờ đợi một cái gì, hay một người nào đó đến đưa nàng ra khỏi ngõ cụt. Nàng đã đi lầm đường, điều hiển nhiên, nàng cảm thấy mình rẽ lỗi. Nàng có cái thói quen buồn bã là trông chờ biến cố hơn là ở chính mình. Không phải nàng không có ưu điểm, nhưng cảm thấy mình kiệt sức, bị bỏ rơi. Khi Bernard vào, nàng đưa tay lên mặt, như cử chỉ để ngăn một tiếng kêu hay để che mắt ngăn ánh sáng quá dữ dội. Nàng đứng thẳng người, lùi một bước chân và đứng sát cửa sổ, nàng túm lấy tấm màn cửa bằng tay kia.
Bernard chờ nàng hỏi han, nhưng nàng lặng thinh, chờ hắn lên tiếng. Hắn nhìn nàng, gượng cười không được, tim hắn hồi hộp. Cuối cùng hắn nói:
- Thưa cô, xin lỗi đến quấy rầy cô. Tôi biết cô có quen ông Édouard, ông đã đến Paris sáng ngày hôm nay. Tôi có việc khẩn cấp phải chuyển đạt đến ông, tôi nghĩ rằng cô có thể cho tôi địa chỉ của ông, và... tôi xin lỗi đã đường đột đến yêu cầu cô như thế này.
Nếu Benard lớn tuổi hơn, chắc Laura kinh hãi lắm. Nhưng đây hắn còn là thiếu niên, mắt chính trực, vầng trán sáng sủa, cử chỉ ngại ngùng, giọng nói thiếu tin tưởng đến nỗi đứng trước mặt hắn nỗi e ngại đã nhường chỗ cho tính hiếu kì, sự quan tâm và mối thiện cảm dậy dàng khó ngăn vì một kẻ hồn nhiên và rất đẹp trai. Giọng nói của Bernard, trong khi hắn lên tiếng, lấy lại được một chút tin tưởng. Laura nói:
- Nhưng tôi đâu có biết địa chỉ của Édouard. Nếu ông ấy ở Paris, tôi hi vọng ông sẽ đến thăm tôi không lâu đâu. Anh là ai, nói cho tôi biết. Tôi sẽ nói với Édouard.
“Giờ là lúc phải liều đủ thứ,” Bernard thầm nghĩ. Một cái gì điên cuồng diễn ra trước mắt hắn. Hắn nhìn ngay mặt Laura:
- Tôi là ai?... Bạn của Olivier Molinier...
Hắn ngập ngừng, hãy còn hồ nghi; nhưng khi thấy nàng thất sắc khi nghe tên ấy, hắn đánh bạo:
- Olivier, em của Vincent, gã người yêu đã bỏ rơi cô một cách hèn hạ...
Hắn buộc lòng dừng lại: Laura lảo đảo. Đôi tay nàng với ra đàng sau tìm điểm tựa. Nhưng cái làm Bernard rối loạn hơn hết, chính là tiếng thở than mà nàng buột miệng, một thứ than van ít có vẻ người, giống như tiếng than của con thú săn thọ thương thì đúng hơn (và đột nhiên kẻ đi săn ôm nhục cảm thấy mình là đao phủ), tiếng kêu kì quái, khác hẳn những gì Bernard có thể chờ đợi, đến nỗi hắn rùng mình. Hắn bỗng hiểu ra rằng đây mới là cuộc đời thực tế, cái đau khổ thực sự, và bao nhiêu điều hắn cảm nhận từ trước đến nay chỉ là phô trương và trò đùa. Cơn xúc động dâng dậy trong lòng hắn, xúc động quá mới lạ không dằn nổi, ngập tràn cổ họng... Sao thế này? Hắn đang thổn thức đấy ư? Có thể nào? Hắn, Bernard!... Hắn nhoài người tới đỡ lấy nàng, quỳ trước mặt nàng, và lẩm bẩm qua từng tràng khóc nấc:
- Trời! Tôi xin lỗi... Xin lỗi, tôi đã gây tổn thương cho cô... Tôi biết cô không còn của cải, và... tôi mong muốn giúp cô.
Nhưng Laura, hổn hển, cảm thấy mình đuối sức. Nàng đưa mắt tìm chỗ ngồi. Bernard đang chú mục đến nàng nên đã hiểu ánh mắt của nàng. Hắn vọt tới chiếc ghế bành nho nhỏ ở chân giường bằng một động tác nhặm lẹ, hắn đưa chiếc ghế đến gần nàng, nàng nặng nề buông mình xuống.
Đến đây xen vào một biến cố kệch cỡm mà tôi ngần ngại thuật lại; nhưng chính nó, quyết định cho mối kết giao giữa Bernard và Laura, bỗng nhiên kéo hai người ra khỏi vòng bối rối. Vậy, tôi sẽ không tìm cách làm đẹp cho cái màn này làm gì:
Với cái giá ở trọ mà Laura trang trải (tôi muốn nói: với cái giá mà chủ khách sạn đòi hỏi ở nàng), ta không thể trông mong bàn ghế trong phòng phải hoàn hảo, nhưng ta có quyền hi vọng chúng chắc chắn chứ. Vậy mà, chiếc ghế bành nho nhỏ mà Bernard đẩy tới cho Laura nó hơi khập khiễng, nghĩa là nó rất có khuynh hướng gập một chân lại, như con chim co chân dưới cánh, cái này đối với chim là việc tự nhiên nhưng đối với ghế thì nghịch đời và đáng tiếc; thế nên chiếc ghế này đã khéo giấu giếm vết tật bên dưới một lớp vải tua dày dặn. Laura quen với chiếc ghế của mình và biết rằng chỉ nên đặt tay tới nó vô cùng thận trọng, thế mà nàng không còn nghĩ tới gì nữa, trong cơn rối loạn, và chỉ sực nhớ ra khi cảm thấy chiếc ghế đong đưa bên dưới. Nàng bỗng kêu lên một tiếng khẽ, hoàn toàn khác với tiếng than dài ban nãy, tràn người sang một bên và sau đó thấy mình ngồi phịch xuống sàn, lọt giữa hai cánh tay sốt sắng của Bernard. Ngượng nhưng vẫn thấy ngộ, hắn buộc lòng quỳ một chân xuống. Thế là mặt Laura kề mặt hắn, hắn nhìn thấy nàng ửng đỏ. Nàng gượng đứng lên. Hắn đỡ nàng.
- Có đau không?
- Không, cảm ơn, nhờ anh đấy. Cái ghế bành này kì lắm; nó được sửa lại một lần rồi đấy chứ... Có lẽ nếu đặt cái chân lại cho ngay ngắn, nó sẽ đứng vững.
- Để tôi thu xếp cho, - Bernard bảo. - Đấy!... Cô muốn thử? - Hắn sửa lời lại ngay sau đó. - Hay cô cho phép... Kĩ hơn thì để tôi thử trước. Cô thấy bây giờ nó vững lắm rồi. Lay chân của nó được này. - Hắn vừa cười vừa làm ngay, kế đó, đứng lên. - Cô ngồi xuống lại; và nếu cô cho phép tôi ở lại thêm lát nữa, tôi sẽ kiếm chiếc ghế dựa. Tôi ngồi một bên và nhất định không để cho cô ngã; cô đừng sợ... Tôi muốn làm một cái gì khác cho cô.
Trong lời lẽ hắn có lắm nhiệt tình, cung cách hắn dè dặt, cử chỉ lắm duyên dáng, làm Laura không thể ngăn mình nhoẻn miệng cười.
- Anh chưa nói tên anh.
- Bernard.
- Vâng, nhưng còn họ của gia đình?
- Tôi không có gia đình.
- Thì tên cha mẹ vậy.
- Tôi không có cha mẹ, nghĩa là: tôi là đứa đúng như cô đang chực nghe: một đứa con rơi.
Nụ cười vụt biến trên nét mặt Laura; nàng bị khích động bởi cố xâm nhập vào vùng thâm sâu của đời hắn và cố cưỡng bức bí ẩn của hắn:
- Kìa, nhưng làm sao anh biết?... Ai bảo anh?... Anh không có quyền biết...
Bernard được thể, bây giờ nói lớn và bạo:
- Tôi biết những điều mà Olivier bạn tôi biết và luôn cả những gì ông Édouard bạn cô biết. Nhưng mỗi người kia họ mới biết một nửa ân tình của cô thôi. Tôi là kẻ duy nhất, với cô nữa, biết trọn vẹn... Cô thấy rõ là tôi trở thành bạn của cô mới phải, - hắn nói thêm, dịu giọng hơn.
Laura trầm giọng buồn buồn:
- Đàn ông không kín đáo gì cả thế! Nhưng mà... nếu anh không gặp Édouard, Édouard đã không thể nói với anh. Anh ấy cũng thư từ cho anh chứ gì?... Có phải anh ấy phái anh đến?...
Bernard cụt hứng; hắn phát biểu quá vội, phần nào chiều theo lòng ham thích khoa ngôn. Hắn lắc đầu. Khuôn mặt Laura mỗi lúc mỗi sa sầm. Đến đây, nghe có tiếng gõ cửa.
Dù muốn dù không, sự động tâm đồng tình của hai người tạo thành một mối dây buộc họ với nhau. Bernard cảm thấy mình bị rơi vào bẫy; Laura giận mình bị người ta bắt gặp có bạn. Cả hai nhìn nhau như hai kẻ đồng lõa. Tiếng gõ cửa thêm lần nữa. Cả hai đồng thanh:
- Mời vào.
Édouard lắng tai ở đàng sau cửa đã được một lúc, kinh ngạc nghe ra những giọng người trong phòng Laura. Mấy câu sau cùng của Bernard hữu ích cho chàng. Ý nghĩa của mấy lời ấy không nghi ngờ vào đâu được, Édouard không nghi ngờ vào đâu được rằng kẻ đang nói đó là kẻ đã đoạt chiếc va li của mình. Tức khắc, lòng đã quyết. Bởi Édouard thuộc bọn người trong cái nhịp đều đều của thói quen thì lờ đờ nhưng đứng trước cái bất ngờ là tức khắc những năng khiếu chồm dậy và tận triển. Thế là chàng mở cửa, nhưng đứng lại ở ngưỡng cửa, mỉm cười và hết nhìn Bernard đến nhìn Laura, cả hai đã đứng lên từ hồi nào.
- Xin phép Laura, - chàng lên tiếng, kèm theo một động tác để khất lại lát nữa những giãi bày. - Tôi có vài lời nói với anh đây trước đã, nếu anh bằng lòng ra ngoài hành lang một lát.
Nụ cười thoắt trở nên hóm hỉnh hơn ngay khi Bernard nối gót theo chàng.
- Tôi đã nghĩ thế nào cũng tìm thấy anh ở đây.
Bernard hiểu mình hết thời. Chỉ còn cách làm bạo nữa thôi; nghĩ là làm, và Bernard ngả bài:
- Tôi đã hi vọng gặp ông ở đây.
- Trước hết, và nếu anh chưa kịp làm (bởi tôi muốn tin rằng anh đến với mục đích này), thì anh hãy xuống nhà và thanh toán số tiền giùm bà Douviers ở bàn giấy, với số tiền anh đã được trong va li của tôi và chắc anh có trong người. Mười phút sau anh hẵng lên lại.
Bấy nhiêu lời được nói một cách khá trang trọng, nhưng bằng một giọng không có gì là thị uy. Trong khi đó Bernard lấy lại tinh thần.
- Tôi đến vì mục đích đó thật. Ông không nhầm. Và tôi bắt đầu tin rằng tôi cũng không nhầm.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là ông đúng là người tôi ước mong.
Édouard cố tình vận dụng một vẻ nghiêm nghị nhưng không được. Chàng cao hứng quá. Chàng phát một điệu chào giễu cợt:
- Cảm ơn anh. Anh cảm ơn tôi hay không thì còn phải xét lại. Bởi anh đã đến đây, tôi nghĩ anh có đọc những giấy tờ của tôi?
Bernard, không nao núng, đương cự lại cái nhìn của Édouard, đến lượt hắn mỉm cười gan dạ, thích chí, ngang nhiên, và hắn nghiêng mình.
- Ông đừng ngờ vực. Tôi đến đây là hợp ý ông.
Rồi, như ông thần gió, hắn phóng xuống cầu thang.
Khi Édouard vào lại trong phòng. Laura nức nở. Chàng lại gần. Laura tựa trán lên vai chàng. Sự biểu lộ cảm xúc khó lòng cho chàng, Édouard dường như không kham nổi. Chàng vô tình vỗ nhẹ lên lưng nàng, như người ta vỗ lên lưng đứa trẻ đang ho. Chàng bảo:
- Khổ thân Laura; nào, nào... hãy biết điều chứ lại.
- Đừng anh! Để em khóc một lát sẽ đỡ cho em.
- Nhưng cần phải biết em giờ sẽ xử trí ra sao.
- Nhưng anh muốn em xử trí sao chứ? Anh muốn em đi đâu? Anh muốn em thổ lộ với ai?
- Với bố mẹ...
- Nhưng anh biết tính bố mẹ em mà... Khác nào đẩy các người vào tuyệt vọng. Bố mẹ đã làm đủ điều cho em hạnh phúc.
- Douviers?
- Không bao giờ em dám gặp lại anh ấy đâu. Anh ấy quá tốt bụng. Đừng tưởng em không yêu anh ấy. Giá anh biết cho... Giá anh biết cho... Trời! Anh không khinh em quá chứ, anh nói đi.
- Trái lại là khác, Laura ạ, trái lại. Làm sao Laura tưởng như thế kia được chứ?
Và chàng lại vỗ nhẹ vào lưng người đàn bà.
- Thật tình, gần anh, em không tủi hổ nữa.
- Em ở đây đã bao nhiêu hôm?
- Em không biết nữa. Chỉ sống để chờ anh. Có lúc em kiệt sức. Em giờ đây như không thể ở thêm một ngày nào ở đây nữa.
Và nàng tức tưởi dồn dập thêm, gần như la lối, nhưng bằng một giọng hoàn toàn uất nghẹn.
- Anh đem em đi. Đem em đi.
Édouard mỗi lúc một thêm khó xử.
- Laura, em nghe anh... Bình tĩnh lại. Nó... người... anh không biết nó tên gì nữa.
- Bernard, - Laura đáp nhỏ.
- Bernard sẽ trở lên trong giây lát. Nào, em đứng lên. Đừng để nó trông thấy em thế này. Can đảm lên. Mình sẽ xoay xở một cách nào đó, anh hứa với Laura như thế. Nào! Lau mắt đi. Khóc chẳng thêm được gì. Nhìn trong gương xem. Em phừng cả mặt. Phả tí nước lên mặt đi. Hễ thấy Laura khóc, anh không nghĩ ra được gì hết... Đấy! Nó đấ, anh nghe ra nó.
Édouard hướng ra cửa và mở cho Bernard vào, và trong khi Laura quay lưng lại trước bàn trang điểm, bận bịu để xoa dịu nét mày, nói:
- Và bây giờ, xin hỏi anh khi nào tôi thu hồi lại được hành lí của tôi?
Édouard vừa nói vừa nhìn ngay mặt Bernard, kèm theo trên môi nếp hóm hỉnh vui vẻ cố hữu.
- Thưa ông, ông muốn sớm chừng nào tùy ông; nhưng tôi cần thú thật rằng những món hành lí thất lạc của ông quả nhiên hữu dụng cho tôi nhiều hơn ông. Nếu ông biết chuyện của tôi thì ông đủ hiểu, chắc chắn thế. Ông biết cho tôi thế này thôi, là từ sáng nay, tôi không nơi nương tựa, không nhà, không gia đình, và chực nhảy xuống nước nếu không gặp ông. Tôi đã đi theo ông lúc sáng nay hồi lâu, khi ông nói chuyện với Olivier bạn tôi. Hắn có nói với tôi thật nhiều về ông! Tôi những muốn làm quen với ông. Tìm một lối gián tiếp, một phương cách... Khi ông ném mẫu phiếu gửi hàng, tôi mừng cho số tôi. Xin ông! Ông đừng cho tôi là thằng ăn cắp. Nếu tôi có lấy va li của ông, là cốt để bắt liên lạc.
Bernard như tuôn ra một thôi bấy nhiêu lời lẽ. Một mối nhiệt thành phi thường phấn khích tràng ngôn ngữ và nét mặt hắn; có thể nói đó là bầu hảo tâm. Bằng theo nụ cười của Édouard thì có lẽ Édouard nhận thấy thiếu niên này khả ái.
- Và bây giờ...? - Chàng hỏi.
Bernard hiểu mình đắc thế:
- Và bây giờ, ông không cần một tên thư kí sao? Tôi không tin tôi sẽ làm ăn cẩu thả, trong khi được vui thú thế kia.
Lần này Édouard phì cười. Laura nhìn hai người, lí thú.
- Thôi được!... Để xem, rồi sẽ nghĩ lại. Ngày mai anh hãy đến gặp tôi, giờ này, ngay tại đây, nếu bà Douviers cho phép... vì tôi cũng có nhiều việc phải quyết định với bà. Anh ở khách sạn chứ? Không! Anh ở đâu tôi không cố tình muốn biết. Chẳng quan hệ gì mấy. Mai nhé.
Chàng đưa tay ra bắt. Bernard nói:
- Thưa ông, trước khi bỏ đi, có lẽ ông cho phép tôi nhắc nhở một điều, là, ở vùng ngoại ô Saint-Honoré, có một ông cụ đáng thương, giáo sư dương cầm, phải, tên là La Pérouse, nếu ông đến thăm, chắc ông cụ sẽ thích lắm.
- Được lắm đây, mới tập sự đã được thế thì không tệ, anh hiểu một cách đúng mức phận sự nay mai của mình.
- Thế... Ông chịu thật rồi sao?
- Mai mình nói lại. Chào anh.
Édouard, sau khi lần lữa bên Laura, chàng đến với gia đình Molinier. Chàng mong gặp lại Olivier, muốn nói với Olivier về Bernard. Chàng chỉ gặp Pauline, dù đã kéo dài vô vọng cuộc viếng thăm.
Olivier, cũng chiều hôm đó, được lời mời khẩn khoản mà người anh vừa chuyển lại, hắn tới nhà tác giả cuốn Cây đánh đu, bá tước Passavant.
* * *
XV
- Tôi sợ người anh của anh không thi hành điều tôi nhờ nữa chứ, - Robert de Passavant nói khi thấy Olivier bước vào.
- Tôi đến chậm?
Olivier hỏi, rụt rè tiến lại như nhón chân. Hắn giữ chiếc mũ trên tay, Robert đỡ lấy:
- Hẵng để đấy. Hãy thư thả. Đấy: ngồi trong chiếc ghế kia chắc không đến nỗi nào. Theo đồng hồ thì chẳng chậm gì, nhưng lòng ước ao gặp anh thì đi trước đồng hồ. Anh hút thuốc?
- Cảm ơn, - Olivier vừa nói vừa đẩy lui hộp thuốc mà bá tước Passavant chìa tới cho hắn. Hắn từ chối vì rụt rè, dù rất thích nếm thử những điếu thuốc thơm thanh lịch, thuốc Nga có lẽ, mà hắn nom thấy sắp lớp trong hộp.
- Phải, anh đến được tôi mừng. Sợ anh bị chi phối vì soạn thi. Bao giờ thi?
- Mười ngày nữa thi viết. Nhưng tôi không học nhiều nữa. Tôi tin cũng đã chuẩn bị và sợ nhất là bị mệt khi đi thi.
- Nhưng ngay từ bây giờ anh không chịu lo nghĩ việc khác?
- Đâu có... miễn đừng trói buộc quá.
- Tôi sẽ nói cho anh hay tại sao tôi yêu cầu anh đến. Trước hết là thích gặp lại anh. Trước đây chúng mình có nói dở một câu chuyện, đêm hôm ấy, ở nhà trong của sân khấu, trong thời gian nghỉ kịch... Những điều anh nói với tôi khiến tôi quan tâm lắm. Chắc anh không nhớ?
- Có ạ, có ạ, - Olivier đáp, vẫn tin rằng mình đã nói ra toàn điều vô bổ.
- Nhưng hôm nay, tôi có điều chính xác để ngỏ với anh, Chắc anh có quen một đứa Do Thái tên Dhurmer? Bạn anh, không phải sao?
- Tôi chia tay nó tức thì.
- À! Các anh hay đi lại với nhau?
- Vâng, hồi nãy chúng tôi phải gặp nhau ở bảo tàng viện Louvre để bàn về một tập san mà nó phải làm chủ nhiệm.
Robert phá lên cười lớn tiếng và gượng.
- Trời! Trời! Trời! Chủ nhiệm... Bạo thế! Nhanh nhỉ... Nó nói với anh như thế thật sao?
- Đã từ lâu nó bàn bạc với tôi.
- Phải, tôi có nghe tới điều đó cũng khá lâu. Hôm nọ, tôi tình cờ hỏi nó có chịu đọc bản thảo với tôi chăng, nó đặt danh xưng ngay: chủ bút, tôi để cho nó nói, và ngay liền đó là... Cách của nó thế, anh không thấy sao? Mẫu người sao mà lạ! Nó cần được sửa lưng một tí... Anh không hút thật ư?
- Cũng có ạ, - Olivier đáp, lần này nhận. - Cảm ơn.
- Anh cho phép tôi nói, Olivier nhé... Anh bằng lòng để tôi gọi anh bằng Olivier? Dù sao tôi không thể đối xử với anh một cách xa lạ; anh quá trẻ, mà cũng không thể khách sáo gọi anh bằng họ của anh vì tôi quá thân với Vincent, anh của anh. Thế thì, Olivier nhé, tôi xin phép nói với anh rằng tôi tin tưởng ở nhận thức của anh rất nhiều, hơn là nhận thức của Sidi Dhurmer. Có thể nào anh chịu nhận đảm trách phần chủ nhiệm ấy không? Dưới sự xem chừng của tôi phần nào, dĩ nhiên, ít ra là trong buổi đầu. Nhưng tôi muốn tên tôi không chường ở bìa thì hơn. Sau này tôi sẽ giải thích cho anh vì sao... Có lẽ anh nên uống một ly porto, nhé? Tôi có thứ hảo hạng.
Robert với lên chiếc tủ loại nhỏ vừa tầm tay, lấy một chai và đổ đầy hai ly.
- Đấy, thế nào?
- Ngon thật.
- Tôi có hỏi chuyện rượu đâu, - Robert cười cải chính, - chuyện tôi vừa nói chứ.
Olivier vờ không hiểu. Hắn sợ nhận lời quá vội và để lộ sự hân hoan của mình quá đáng. Hắn thoáng đỏ mặt và ấp úng lúng túng:
- Thi cử không cho...
- Anh mới bảo tôi thi chẳng làm bận anh lắm mà, - Robert ngắt lời. - Vả lại tập san đâu có ra mắt ngay. Tôi còn tự hỏi xem đợi khai giảng rồi tung ra thì hơn chăng. Nhưng dù sao anh cần dự cảm trước đã. Phải cầm cự nhiều số chuẩn bị chu đáo trước tháng mười và mình cần gặp nhau nhiều trong mùa hè này để thảo luận. Anh định làm gì trong vụ hè?
- Ô! Tôi không biết. Bố mẹ tôi chắc là lên vùng Normandie, như các vụ hè khác.
- Thế anh phải đi theo?... Anh bằng lòng để bố mẹ thả lỏng một thời gian?
- Mẹ tôi không để cho đâu.
- Tối nay tôi phải ăn với anh của anh; cho phép tôi đem chuyện này ra nói nhé?
- Anh Vincent sẽ không cùng đi với gia đình.
Nhận thấy câu vừa rồi không ăn nhập với câu hỏi, hắn tiếp lời:
- Không được đâu.
- Nhưng nếu mình tìm lí do chính đáng để đưa ra cho bà ở nhà?
Olivier không đáp. Hắn yêu mến mẹ và cái giọng coi thường của Robert khi nói tới mẹ hắn làm hắn phật lòng. Robert hiểu mình đã đi hơi quá vội.
- Thế nào, thích rượu porto của tôi chứ, - Robert nói như đánh trống lảng. - Ly nữa nhé?
- Không ạ, không ạ, cảm ơn... Nhưng rượu ngon.
- Quả tình, tối hôm ấy, tôi đã giật mình vì lời nhận xét chín chắn và vững vàng của anh. Anh không có ý định đi về phê bình?
- Không ạ.
- Thơ?... Tôi biết anh làm thơ.
Olivier đỏ mặt lần nữa.
- Phải, người anh của anh tiết lộ. Và chắc anh quen biết những bạn trẻ khác sẵn sàng cộng tác... Phải thế nào cho tập san đó trở thành cái nền kết nạp tuổi trẻ. Sinh cơ của nó đấy. Tôi mong anh giúp tôi thảo một bản loại như thông bạch tuyên ngôn, nó sẽ nêu lên, dù không rõ lắm, những khuynh hướng mới. Mình sẽ nói lại. Phải chọn hai hay ba hình dung từ, đừng bịa chữ mới, lựa chữ cũ đã quen dùng nhưng mang cho chúng nghĩa hoàn toàn mới và buộc người ta theo. Sau Flaubert thì có tiếng “đông đảo và nhịp nhàng”, sau Leconte de Lisle: “thiêng liêng và tối hậu”... À, anh nghĩ sao về chữ này: “sinh động”. Hả? “Vô thức và sinh động”... “Sơ đẳng, hùng mạnh và sinh động”?
- Tôi tin mình có thể tìm được hay hơn, - Olivier làm bạo nói, hắn cười cười không ra vẻ hưởng ứng lắm.
- Nào, thêm ly porto này...
- Xin đừng đầy lắm.
- Anh thấy, khuyết điểm lớn của trường phái tượng trưng là chỉ mang lại một thẩm mĩ; mọi trường phái lớn đều mang lại, kèm theo một kiểu thức mới, những bài bản mới, một cách thức mới để nhìn, để nhận thức tình yêu, để ăn ở với đời. Còn kẻ theo phái tượng trưng thì giản dị lắm; hắn chẳng ăn ở gì với đời, hắn chẳng tìm hiểu đời, hắn chối đời, ngoảnh mặt làm ngơ. Phi lí, anh không thấy sao? Những bọn người không thích muốn, và cũng không vồ vập. Đâu như bọn mình... phỏng?
Olivier đã hết ly rượu thứ nhì và điếu thuốc thứ nhì. Hắn lim dim mắt, ngồi chuồi ra trong chiếc ghế bành dễ chịu, và, không lên tiếng, khẽ gật gật đầu phụ họa. Đến đây, có tiếng chuông và gần liền ngay đó một người giúp việc đi vào, đưa cho Robert tấm danh thiếp. Robert cầm lấy, để mắt vào và đặt tấm thiếp lên bàn giấy gần mình.
- Được rồi. Phiền người ta chờ một lát.
Người giúp việc ra.
- Thế này nhé, Olivier, tôi mến anh vô cùng và tôi tin mình thông cảm nhau dễ dàng lắm. Nhưng bây giờ đây có một người tôi nhất thiết phải tiếp và người ta đòi gặp riêng tôi.
Olivier đứng lên.
- Nếu anh cho phép, tôi sẽ đưa anh ra qua ngõ vườn... À! Nhân thể: anh vui lòng nhận cuốn truyện mới của tôi? Tôi có đây vừa vặn một bản trên giấy Hòa Lan...
- Tôi không có ý chờ nhận sách từ tay ông thì mới đọc, - Olivier nói, hắn vốn không thích cuốn truyện của Passavant lắm, và cố tránh né sao cho khỏi bốc thơm mà vẫn giữ vẻ nhã nhặn.
Passavant phải chăng bắt chợt trong lối nói kia một thoáng khinh khỉnh nhẹ nhàng? Passavant vọt miệng:
- Ồ! Anh cố tình nói tới truyện này làm gì. Nếu anh bảo là thích, tôi buộc lòng ngờ vực hoặc là sự sành điệu hoặc là sự chân thật của anh. Không, hơn ai hết, tôi biết truyện của tôi khiếm khuyết những gì. Tôi viết quá nhanh. Thật sự, suốt thời gian viết, tôi nghĩ tới cuốn tiếp theo. Đấy! Có xem nặng thì tôi xem nặng cuốn này đây. Tôi xem nặng thật đấy. Rồi anh thấy, rồi anh thấy... Tôi xin lỗi, nhưng bây giờ thế nào anh cũng phải để cho tôi một mình... trừ phi... Mà thôi, mà thôi, mình chưa biết nhau bao nhiêu, với lại bố mẹ anh chắc chờ anh về ăn. Thôi, chào anh. Hẹn chóng gặp lại... Tôi viết tên anh vào sách đây, xin phép anh.
Passavant đứng dậy đến bàn. Trong lúc Passavant khom lưng viết, Olivier nhích tới một bước và nhìn xéo tấm danh thiếp mà người giúp việc vừa đem vào:
VICTOR STROUVILHOU
Cái tên không nói lên được điều gì với hắn.
Passavant đưa cho Olivier cuốn Cây đánh đu, và vì Olivier chực đọc lời đề tặng:
- Lát nữa hãy xem, - Passavant vừa nói vừa chuồi cuốn sách vào nách cho hắn.
Ra ngoài đường Olivier mới hay về câu đề từ viết tay, câu này được trích ngay từ truyện ra và đã trang trí cho truyện, nay bá tước Passavant viết ra thay lời đề tặng:
Orlando, xin bước thêm vài bước. Tôi chưa dám chắc hoàn toàn hiểu anh”.
Bên dưới có viết thêm:
“Tặng OLIVIER MOLINIER,
người bạn trời định.
BÁ TƯỚC ROBERT DE PASSAVANT”.
Lời đề hàm hỗn bắt Olivier nghĩ ngợi, nhưng dù sao hắn hoàn toàn tự do diễn dịch theo ý mình.
Olivier về nhà khi Édouard vừa ra khỏi, sau khi chờ hắn đã nản.
* * *
XVI
Cái học thực nghiệm của Vincent ngăn cấm anh tin ở điều siêu nhiên, chính điểm này giúp cho ngạ quỷ nhiều lợi điểm lớn. Quỷ không tấn công Vincent ngay trước mặt, quỷ bổ vào người anh một cách giảo quyệt và chớp nhoáng. Một trong những xảo thủ của nó là đánh tráo sự thất bại của ta thành đắc thắng. Và cái đã sắp xếp cho Vincent xét thấy lối đối xử của mình với Laura là một sự tự chủ bản năng tình cảm, chính là vì anh, vốn thiện tâm, đã phải tự bức bách, rắn lòng, để tỏ ra mình cứng cỏi đối với nàng.
Xét kĩ diễn biến tính khí của Vincent trong tấn tuồng, tôi phân biệt nhiều giai đoạn mà tôi muốn nêu ra, hầu giúp lòng cảm hóa của người đọc:
1. Thời kì có lí do tốt. Liêm chính. Ý thức về nhu cầu tu chỉnh lỗi lầm phạm phải. Đặc biệt: bổn phận thuộc phạm vi luân lí là dành cho Laura số tiền mà cha mẹ đã khổ nhọc dành dụm nhằm chu cấp cho phí khoản đầu tiên trên đường sự nghiệp của anh. Không phải là xả thân đó sao? Cái lí đó không trang nhã, không độ lượng, nhân ái hay sao?
2. Thời kì băn khoăn. Ưu tư. Nghi ngại về món tiền dành sẵn có đủ không, nghĩa là nao núng đến nơi, chứ còn gì nữa, giữa lúc đó thì ngạ quỷ nhử trước mắt Vincent sự cầu may thổi số tiền cho thêm to.
3. Nhất tâm và hùng tâm. Sau khi thua mất số tiền, cảm thấy mình cần phải “vượt nghịch cảnh”. Chính cái “hùng tâm” kia mới cho phép anh thú nhận với Laura mình thua bạc, và chính cái hùng tâm kia nhân thể mới cho phép anh đoạn tuyệt với nàng.
4. Từ khước lí do tốt, coi nó như bịp bợm, dưới ánh sáng của một luân lí mới mà Vincent thấy mình cần phát minh để xác chứng cho cách xử sự của mình, bởi lẽ anh còn là một con người của luân lí, và ngạ quỷ chỉ thắng được anh bằng cách cung cấp những lí do để anh thừa nhận mình. Lí thuyết về ý nghĩa nội tại, về sự sống trọn vẹn một khoản thời gian, về nỗi hoan lạc vô căn, cấp kì và vô cớ.
5. Sự choáng váng của kẻ thắng. Không cần dè dặt. Quyền uy tối thượng.
Từ đó, quỷ đã thắng trận.
Từ đó, kẻ tưởng mình được tự do nhất chỉ còn là một vật dụng để nó sai sử. Thì đấy, quỷ không chịu ngừng tay, khiến Vincent giao nộp đứa em cho Passavant, cũng là một phường quỷ.
Vincent không phải là người xấu, mặc lòng. Bấy nhiêu điều, dù anh có được điều gì, vẫn làm anh bất mãn, khó chịu. Vài lời nói thêm:
Được gọi bằng “sự khoái của lạ” có lẽ là mọi tạp sắc của Ảo tưởng, đứng trước đó lòng ta bỡ ngỡ, nó khiến lòng ta mất điểm tựa. Đôi khi có đức độ nào đó đương cự lại, nhưng ngạ quỷ đánh cho đức độ lạc hướng trước khi đánh ngã. Có thể, nếu ở vào nơi khác, không xa cha mẹ, không xa kỉ niệm của quá khứ, không xa những gì cầm giữ họ trong mối tương quan hậu quả, Laura đã không yếu lòng trước mặt Vincent, mà Vincent cũng đã không toan tính dỗ ngọt nàng. Chắc hẳn đối với họ động tác yêu đương kia, ở nơi xa ấy, có lưu vết đâu mà kể... Còn nhiều điều để nói, nhưng Vincent đủ lời giải thích rõ hơn cho ta về vụ đó rồi.
Cạnh Lilian Griffith cũng thế, Vincent cảm thấy mình lạc hướng. Cùng đêm ấy, anh bảo:
- Đừng chế giễu tôi, Lilian. Tôi biết cô sẽ không hiểu tôi, thế mà tôi vẫn cần nói với cô, làm như cô tất phải hiểu tôi, bởi lẽ từ giờ trở đi, tôi không thể trục xuất cô khỏi tâm trí tôi.
Ngồi duỗi chân dưới chân Lilian đang nằm dài trên đi văng thấp, anh âu yếm dựa đầu lên chân của tình nhân để nàng âu yếm vuốt ve.
- Hồi sáng, điều khiến tôi lo lắng... phải, có lẽ là sự sợ hãi. Cô làm vẻ nghiêm một lát được chăng? Quên một lát được chăng để hiểu tôi, không phải quên điều cô tin tưởng, cô mà tin tưởng gì, nhưng chính là quên rằng cô không tin tưởng gì! Tôi cũng thế, tôi tin tưởng gì đâu, cô thừa biết; tôi tin rằng tôi hết tin tưởng gì, hết tin tưởng gì ngoài chúng ta, cô, tôi, và những gì tôi có thể hiện ra đối với cô, những gì mà, nhờ cô, tôi sẽ thể hiện.
- Bảy giờ Robert đến, - Lilian cắt ngang. - Không phải để hối thúc anh, nhưng nếu anh không tiến cho nhanh hơn, Robert sẽ cắt đứt câu chuyện của mình nhằm lúc anh bắt đầu trở nên nói hay. Vì tôi đoán anh đâu có thích tiếp tục nói trước mặt Robert. Ngộ nhỉ, anh tưởng hôm nay phải thận trọng ghê thế sao? Như người mù trước khi đặt chân xuống chỗ nào, gõ gậy vào chỗ đó trước đã. Anh thấy, tôi vẫn giữ vẻ nghiêm đấy chứ. Sao anh không tin tưởng?
Vincent lại nói:
- Từ khi biết cô, tôi tin tưởng phi thường. Cảm thấy mình nhiều năng lực; với lại, cô thấy, tôi thành công mọi cái. Nhưng chính điều này làm tôi sợ. Không, cô đừng nói... Suốt ngày tôi tưởng tới câu chuyện cô kể hồi sáng về chiếc tàu La Bourgogne bị đắm, với những bàn tay người ta chặt đứt của bọn người muốn leo lên thuyền. Tôi có cảm tưởng một cái gì đó muốn leo lên thuyền tôi, nói thế để cô hiểu tôi sử dụng hình ảnh của cô, một cái gì đó mà tôi muốn cản ngăn lên thuyền...
- Nghĩa là anh muốn tôi giúp anh trấn nước cái gì đó chứ gì, hèn thế!...
Vincent không nhìn nàng nói tiếp:
- Một cái gì đó mà tôi xua đuổi, mà tôi nghe ra nói… Giọng nói mà cô chưa bao giờ nghe, tôi nghe ra trong tuổi nhỏ...
- Thế giọng đó nói cái gì? Anh đâu dám lặp lại. Tôi còn là gì. Cam đoan chắc có điệu dạy đời ở bên trong. Phải không?
- Lilian hãy hiểu cho tôi: phương cách duy nhất đối với tôi để thoát khỏi những ý nghĩ ấy, là thổ lộ cho cô. Nếu cô giễu cợt, tôi sẽ giữ lấy cho riêng tôi vậy, rồi chúng sẽ thuộc tôi.
Nàng nén lòng bảo:
- Nói đi vậy.
Kế đó, vì Vincent nín thinh và vùi đầu một cách bé bỏng vào váy nàng, nàng giục:
- Nào! Chờ gì nữa?
Nàng nắm lấy tóc Vincent và buộc anh ngẩng mặt lên:
- Quái! Anh làm thật chuyện đấy sao? Mặt mày tái xanh cả này. Ấy, muốn làm trẻ con thì không xong đâu nhé. Phải biết mình muốn gì chứ. Với lại, anh biết: tôi không thích ai gian lận. Chừng nào anh tìm cách cho leo lên thuyền anh, một cách âm thầm, những ai vô phận sự, là anh gian lận. Tôi muốn chơi với anh lắm chứ, nhưng chơi ngay thẳng; và tôi báo cho anh điều này: sở dĩ như thế là để giúp anh thành công. Tôi tin rằng anh có thể thành người quan trọng, đáng kể, tôi nhận anh thông minh vô cùng và hùng tâm vô cùng. Tôi muốn giúp anh. Đã khá nhiều đàn bà làm hỏng sự nghiệp bọn đàn ông mà họ mê say; tôi, tôi muốn ngược lại. Anh có nói với tôi anh thích bỏ y khoa theo công cuộc nghiên cứu khoa học tự nhiên, anh ân hận không đủ tiền... trước hết, anh vừa đánh bạc được năm chục ngàn quan. Khá rồi. Nhưng anh, anh hãy hứa bỏ chơi. Tôi sẽ ứng cho anh đủ số tiền cần thiết, với điều kiện là nếu có người bảo rằng anh được cấp dưỡng, anh phải đủ sức nhún vai.
Vincent đứng lên. Anh đến bên cửa sổ. Lilian nói thêm:
- Trước hết, và để dứt khoát với Laura, tôi nhận thấy gửi số tiền năm ngàn franc mà anh hứa hẹn là một việc làm được lắm. Giờ anh sẵn tiền, sao không giữ lời? Có phải để cần cảm thấy mình có lỗi đối với nàng nhiều hơn nữa? Tôi không thích như thế tí nào. Tôi ghê cho những trò bỉ tiện. Anh không biết chặt tay cho gọn ghẽ. Xong xuôi, chúng mình sẽ nghỉ hè ở nơi nào thuận lợi hơn cả cho công việc của anh. Anh có nêu tên Roscoff, tôi thì thích Monaco hơn, vì tôi quen hoàng thân ở đó, ông có thể đưa chúng ta đi tàu và tìm việc cho anh ở viện của ông.
Vincent im lặng. Anh không buồn nói cho Lilian hay, và mãi sau này mới kể lại, rằng trước khi đến tìm gặp nàng, anh đã tạt qua khách sạn, nơi đây Laura đã chờ anh vô vọng đến thế nào. Mãi lo sao cảm thấy mình cuối cùng trút sạch nợ, Vincent đã chuồi vào phong thư mấy tấm giấy bạc mà nàng đã dài cổ ngóng trông. Anh đã ủy thác phong thư cho một thằng bé con, rồi đứng dưới phòng chứa đồ đạc chờ xem thằng bé đã tự tay chuyển giao chắc chắn chưa. Sau đó chẳng mấy chốc, thằng bé trở xuống, hoàn trả phong thư kèm theo nét chữ của Laura viết xéo ngang trên đó: “Quá chậm.”
Lilian bấm chuông, gọi lấy áo khoác. Khi người đàn bà giúp việc đi ra rồi:
- À! Tôi muốn cho anh hay trước khi anh chàng kia đến: nếu Robert đề nghị anh đầu tư số năm chục ngàn franc, anh hãy đề phòng. Y giàu lắm nhưng luôn luôn cần tiền. Nhìn coi: hình như nghe còi xe. Y đến sớm nửa tiếng, nhưng càng hay... Về những điều chúng mình nói...
Robert bước vào:
- Anh đến trước giờ, vì anh nghĩ rằng đi ăn ở Versailles kể cũng thú. Được chứ?
Lilian đáp:
- Không, em ngán tiệm Réservoirs. Đến Rambouillet được hơn, đủ thì giờ mà. Ở đấy ăn kém hơn, nhưng chuyện trò dễ chịu hơn. Em muốn Vincent kể cho anh nghe những câu chuyện về loài cá. Vincent biết lắm chuyện kì lạ. Chẳng biết có thật hay không, nhưng thú vị hơn những tiểu thuyết hay nhất trên đời.
- Người viết tiểu thuyết chắc không nghĩ thế. - Vincent nói.
Robert de Passavant cầm trên tay tờ báo buổi tối:
- Brugnard vừa được thăng chủ sự ở tòa án, em biết chưa? Bắt bố anh Vincent gắn huy chương là đúng lúc. - Robert quay lại nói với Vincent.
Thấy Vincent nhún vai, Robert lại nói:
- Vincent này, xin thưa với anh rằng nếu anh không yêu cầu bố anh làm cái việc nho nhỏ ấy thì anh sẽ làm ông giận, nhưng ông sẽ sung sướng không nhận lời.
- Ông yêu cầu bố tôi gắn cho ông trước đi đã, - Vincent quật lại.
Robert làm vẻ mím môi gượng gạo:
- Đừng, cái làm dáng của tôi là ở chỗ không ngượng, ngượng vì huy chương cũng không nốt.
Đoạn, quay sang Lilian:
- Đời thuở này, em biết, hiếm thấy ai tới bốn mươi tuổi mà tránh khỏi đậu mùa cũng như tránh khỏi huy chương!
Lilian nhún vai mỉm cười:
- Tìm được một lời mà phải già theo nó, anh cũng bằng lòng!... Nói nghe coi: trong cuốn truyện nay mai của anh có câu đó chứ? Mới mẻ đấy... Mấy người cứ đi xuống; tôi quàng chiếc áo rồi theo sau.
- Tôi cứ ngỡ ông muốn gặp lại ông đó chứ? - Vincent hỏi Robert ở cầu thang.
- Ai? Brugnard?
- Ông cho là ông ấy quá tệ...
Robert thong thả trả lời, dừng ở bực cấp và cầm giữ Vincent đang bước nửa chừng vì y nom thấy Lilian trờ tới và mong cho nàng nghe:
- Này anh, anh biết giùm cho tôi rằng bạn bè của tôi, chơi với nhau hơi lâu, chẳng có đứa nào khỏi bắt tôi nhìn nhận rõ là phường ngu ngốc. Tôi công nhận Brugnard là kẻ đã cầm cự lâu dài hơn nhiều tên khác.
- Hơn tôi có lẽ? - Vincent tiếp lời.
- Đàng nào cũng không ngăn cấm tôi vẫn là bạn chí thành nhất với anh, anh thấy rõ đấy chứ.
Lilian bắt kịp hai người, nói:
- Và chính đó là điều ở Paris người ta gọi là trí thức đấy. Robert, hãy thận trọng: không có gì tàn tạ nhanh cho bằng!
- Yên trí mà, em! Lời nói đem in ra thì mới tàn tạ chứ!
Bọn người ngồi yên chỗ trong xe, chiếc xe phóng đi. Bởi câu chuyện tiếp diễn một cách cực kì trí thức nên không cần đem ra thuật ở đây. Họ ngồi vào bàn trên sân thượng một khách sạn, trước mặt một khuôn viên mà bóng đêm buông xuống đổ đầy một màu tối. Nhờ có đêm, lời lẽ dần dần trĩu xuống, được Lilian và Robert khích lệ, cuối cùng chỉ có Vincent nói mà thôi.
* * *
XVII
Robert có nói:
- Nếu tôi ít quan tâm đến con người thì tôi sẽ quan tâm đến loài vật nhiều hơn.
Vincent mới đáp:
- Có lẽ ông tin con người khác hẳn loài vật. Trong ngành động vật học không có khám phá lớn nào khỏi gây ảnh hưởng cho kiến thức con người. Mọi cái đó gần gũi nhau và đứng vững, và tôi tưởng một người viết tiểu thuyết vốn tự hào là nhà tâm lí nếu làm ngơ trước cảnh tượng thiên nhiên, mù tịt về những định luật thiên nhiên thì không khỏi thua thiệt bao giờ. Trong cuốn Nhật kí của anh em Goncourt mà ông có cho tôi đọc đấy, tôi để mắt nhằm đoạn thuật lại buổi viếng thăm phòng triển lãm lịch sử tự nhiên tại Vườn Bách Thảo, trong đoạn đó hai tác giả khả ái than thở cho cái óc tượng tượng nghèo nàn của thiên nhiên, hay của Thượng đế thì cũng thế. Qua lời báng bổ thảm thương đó hiển lộ cái ngốc nghếch và không hiểu biết của trí óc nhỏ bé của họ. Thiên hình vạn trạng mới phải chứ! Tưởng chừng như thiên nhiên lần lượt thử thách đủ cách để sống để động, tận dụng những khả tính của vật chất, của luật tắc vật chất. Sự bỏ cuộc lần hồi của một số công tác xét ra trái lẽ và không được đẹp đẽ trong môn cổ sinh vật học cho ta một bài học như thế nào thì biết! Sự trường tồn của một số hình thái đã loại bớt được nhiều thứ! Chiêm ngưỡng những hình thái này ta mới vỡ lẽ về sự phế bỏ những hình thái nọ. Ngay môn thực vật học cũng dạy được ta. Khi ta xem xét một nhánh cây, ta nhận thấy mỗi nách lá ấp ủ một chồi non khả dĩ sinh sôi năm tới. Khi quan sát thấy giữa ngần ấy chồi non, không có hai chồi được nảy lộc, ép buộc những chồi khác tàn phế để chúng tăng trưởng, ta không khỏi nghĩ ngợi rằng đối với con người cũng thế thôi. Những chồi này nảy lộc một cách tự nhiên vẫn là những chồi ở mút - nghĩa là: những chồi xa thân mẹ hơn cả. Duy có sự cắt xén, hay uốn cành cho cây bớt mạnh mà thêm trái, trong khi dồn ún nhựa cây, buộc nhựa cây dồn sức cho những mầm gần thân cây, bằng không những mầm này sẽ ngủ vùi. Và cứ thế ta đơm trái cho những giống loại ù lì nhất, những loại này, nếu cứ để chúng mặc tình ngang dọc, có lẽ chỉ sinh sản ra lá không thôi. Đấy! Một vườn cây ăn trái, một khuôn viên là một trường học tốt cho ta biết mấy! Và lắm khi biến kẻ làm vườn thành một nhà tâm lí giỏi! Lắm khi ta học được nhiều điều, miễn là biết quan sát, bên trong khoảng sân nuôi gia súc, một cái cũi chó, chậu cá, chỗ nuôi thỏ hay chuồng bò, hơn là trong sách vở, và tin tôi đi, hơn cả trong xã hội loài người với đủ thứ pha chế không nhiều thì ít.
Tiếp theo, Vincent đề cập đến sự chọn giống. Anh trình bày phương pháp thông dụng của bọn sở hữu chủ để được những giống nào tốt nhất, sự chọn mẫu giống mạnh hơn cả, và sự thí nghiệm nghịch đời của một kẻ làm vườn táo bạo nọ, vì ghét theo lối thông dụng, có thể nói: vì thách thức, y tính liệu tuyển chọn, ngược lại, những mẫu yếu ớt nhất, - kèm theo đó là y thâu lượm những hoa màu vô song.
Robert thoạt tiên chỉ nghe hờ hững như một kẻ chỉ chờ nghe điều chán chường, bây giờ hết tìm cách ngắt ngang. Sự chăm chú của y làm Lilian hả dạ, như một lời khen tặng trao gửi người tình của nàng. Nàng bảo Vincent:
- Anh nên nói cái chuyện anh kể hôm nọ về loài cá và cá thích nghi cách thế nào với độ mặn của nước biển... Đúng như thế chứ?
- Ngoại trừ vài vùng, - Vincent lại lên tiếng, - cái độ mặn ấy gần như không biến đổi; và sinh vật ở biển thói thường chỉ chịu đựng nổi những thay đổi nhỏ về mật độ. Tuy nhiên những vùng tôi nói không phải là không có người ở; đó là những vùng hứng chịu sự bốc hơi nặng nề làm rút bớt lượng nước so với lượng muối, hoặc giả trái lại những vùng có nước ngọt chảy vào làm loãng chất muối và có thể nói là rút muối của biển - những vùng lân cận cửa sông lớn, hoặc lân cận những những con nước khổng lồ như con nước Guly Stream. Trong những vùng này, những sinh vật gọi là stenohalin sống lờ đờ cho đến rục chết; và vì chúng bấy giờ vô phương tự vệ chống lại loại sinh vật có tên là euryhalin, khó tránh khỏi làm mồi cho bọn này, nên chi bọn euryhalin thích sống ở mép những con nước lớn, nơi mật độ nước thay đổi, cũng là nơi bọn stenohalin đến ngắc ngoải. Anh hiểu rồi chứ gì, bọn steno chỉ chịu đựng nổi cái độ mặn bất biến. Còn bọn eury...
- Là bọn bị rút chất mặn, - Robert cắt ngang, y thu lượm mọi ý tưởng cho mình và trong một luận thuyết nào y cũng đếm xỉa đến điều thủ đắc.
- Phần đông bọn chúng hung tợn, - Vincent nghiêm trọng nói thêm.
- Em đã bảo đáng giá như tiểu thuyết mà lại, - Lilian cao hứng reo.
Vincent, như được cải lốt, vẫn dửng dưng trước sự thành công. Anh nghiêm trọng phi thường và nói tiếp, trầm trọng hơn, như nói cho mình nghe:
- Cái khám phá kinh dị nhất thời buổi gần đây, ít ra cái khám phá đã dạy cho tôi nhiều điều hơn cả, là những cái máy phản xạ ảnh hưởng tới sinh vật dưới bể sâu.
- Hay đấy! Kể nghe đi, - Lilian nói, nàng để quên cho điếu thuốc tắt ngấm và nước đá vừa được bồi tiếp cũng tan chảy.
- Ánh sáng ban ngày hẳn ta đều biết, không lọt được sâu xuống biển. Phần dưới sâu thì tối tăm... là những hố thăm thẳm mà từ lâu người ta tưởng không có sinh vật; kế đó những công cuộc đào vét thăm dò đã đem lại từ những cõi âm hồn đó vô số sinh vật dị thù. Những sinh vật này không có thị giác, người ta nghĩ thế. Cần gì phải thấy, trong bóng tối? Nghiễm nhiên chúng không có mắt, không thể, không nên có mắt. Người ta vẫn tra xét xem, và người ta hãi hùng nhận thấy một số có mắt; không phải kiểm kê, chúng hầu hết đều có mắt, có khi thêm vào đó là những râu vòi nhạy cảm diệu kì. Vẫn hồ nghi, người ta trầm trồ kinh mang: có trông thấy gì đâu mà có mắt? Mắt nhạy cảm, nhưng nhạy cảm về phương diện gì?... Và đây là điều cuối cùng người ta khám phá ra, là mỗi sinh vật đó, thoạt tiên người ta đinh ninh là mù mịt, lại phát ra và phóng ra đàng trước mặt, chung quanh, một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con rọi, chiếu, tỏa hào quang. Về đêm, sau khi vớt chúng từ vực sâu, người ta đổ chúng ra trên boong tàu, bóng đêm bị sáng lóa hoàn toàn. Thôi thì từng đốm lửa linh động, lung linh, tạp sắc, những ngọn đèn xoay xoay, những ánh nhấp nháy của tinh tú, ngọc thạch, bọn người được mục kích bảo rằng chúng rực rỡ không có gì sánh nổi.
- Về đi thôi, tôi lạnh, - tiếng Lilian bất thần cất lên.
Lilian cô nương ngồi cạnh tài xế, phần nào được khuất nhờ tấm kính chắn gió. Đàng sau chiếc xe trần, hai người đàn ông tiếp tục chuyện trò. Gần suốt bữa ăn, Robert đã im lặng nghe Vincent nói thao thao, bây giờ đến lượt y.
- Thứ cá như chúng mình, Vincent ạ, thì ngắc ngoải trong nước lặng yên. - Robert mở lời kèm theo một cái đập tay lên vai bạn. Với Vincent, y cho phép mình thân mật phần nào nhưng sẽ không chịu Vincent đối lại với mình như thế, nhưng Vincent đâu có khuynh hướng đó. - Tôi thấy anh làm người ta choáng váng, anh biết không? Anh làm nhà thuyết giảng thì phải biết! Thật đấy, anh nên bỏ y khoa. Anh mà kê toa nào là thuốc nhuận trường nào là bầu bạn với bệnh nhân thì thật tình tôi hình dung không ra. Một ghế giảng viên về sinh học đối chiếu hay một cái gì đại loại thế, đối với anh, như thế mới đúng...
- Tôi có nghĩ tới, - Vincent nói.
- Lẽ ra Lilian có khả năng cho anh như nguyện, bằng cách khiến cho hoàng thân Monaco, bạn đồng hội đồng thuyền thì phải, lưu tâm tới công trình của anh... Tôi phải nói cho Lilian mới được.
- Lilian có đề cập chuyện đó với tôi.
- Thật sao, thế nghĩa là nhất định vô phương giúp anh? - Robert làm ra vẻ phật lòng. - Tôi đây lại chính là kẻ có việc nhờ anh giúp.
- Đến lượt ông chịu ơn tôi vậy. Ông cho tôi là kẻ mau quên?
- Bậy nào! Anh vẫn nghĩ tới năm ngàn franc? Anh đã trả cho tôi rồi mà lại! Anh không nợ tôi gì nữa hết... có chăng, một chút tình bạn thôi.
Robert nói thêm lời sau bằng một giọng hầu như thắm đượm, bàn tay đặt lên tay Vincent:
- Tình bạn, tôi kêu gọi tình bạn.
- Tôi nghe đây, - Vincent nói theo.
Nhưng liền đó Passavant lớn tiếng, bây giờ y đổ sự nôn nóng vốn của y lên đầu bạn:
- Vội thế! Tôi nghĩ từ đây đến Paris mình đủ thì giờ mà.
Passavant là người đặc biệt khéo léo khoác lên người khác những tình ý của mình cùng những gì y không muốn nhận. Kế đó, như thể bỏ rơi câu chuyện, giống như bọn câu cá hương vì sợ làm kinh động cá, quẳng mồi thật xa rồi mới từ từ kéo lại gần:
- Tiện đây, cảm ơn anh đã cho người em đến tôi. Tôi cứ sợ anh quên nữa chứ.
Vincent phác một động tác. Robert tiếp lời:
- Anh có gặp lại nó từ bữa đó không?... Không có thì giờ chắc?... Nếu thế mà anh chưa hỏi tôi tin tức gì về buổi chuyện trò đó thì lạ thật. Nói cho cùng, anh không để ý. Anh hoàn toàn vô tâm đối với em anh. Olivier nghĩ gì, cảm gì, làm cái gì, muốn là cái gì, anh chẳng hề lí tới.
- Anh trách móc tôi?
- Cho là trách móc đi vậy. Tôi không thông cảm, không chấp nhận sự lạnh nhạt của anh. Hồi anh bị bệnh ở Pau thì còn được, nghĩ tới bản thân mà thôi là phải, sự vị kỉ góp phần chữa trị. Chứ còn bây giờ... Quái! Anh có bên cạnh một bản chất trẻ trung xúc cảm là thế, một bộ óc thông minh dậy dàng, đầy hứa hẹn chỉ chờ đợi một lời khuyên, một sự nâng đỡ...
Robert, trong lúc này, quên bẵng chính mình có đứa em.
Tuy nhiên Vincent đâu phải dại dột; sự vọt miệng quá lời này đây cảnh giác cho anh rằng nó chẳng thành tâm gì lắm, rằng sự bất bình có bộc lộ chăng là để dẫn dắt đến một cái gì khác. Anh im lặng chờ coi. Nhưng Robert ngừng đột ngột; y vừa bắt chợt, nhờ ánh lửa điếu thuốc của Vincent, cái khóe khác thường trên môi Vincent, tưởng chừng bắt gặp ở đó sự mỉa mai, mà y thì e ngại sự chế giễu hơn cả. Tôi tự hỏi điều này vẫn đúng là điều khiến y đổi sang giọng khác chăng. Có chăng, cái linh tính bất ngờ về một điều như là đi vào ruột nhau giữa hai người, có thể lắm... Và Robert nói tiếp, tỉnh bơ, và theo cái lối “khỏi cần bóng gió với anh”:
- Phải! Tôi với cậu Olivier được một bữa nói chuyện thú lắm. Tôi rất thích nó.
Passavant cố bắt cho được ánh mắt của Vincent (đêm không tối lắm); nhưng Vincent nhìn chăm chăm về trước.
- Và đây là cái việc nho nhỏ tôi muốn nhờ anh...
Nhưng nói tới đây, một lần nữa, y thấy cần dừng lại và có thể nói là: cần rời bỏ giây lát vai tuồng của mình, giống như diễn viên đã chắc chắn nắm trong tay mớ khán giả nên muốn chứng tỏ cho mình và cho người biết điều đó. Thế là Robert chồm tới Lilian, và cao giọng, như để làm nổi bật cái tính chất riêng tây của những gì y đã nói và sẽ nói:
- Này em, không lạnh chứ, chắc không? Có tấm vải quàng không dùng làm gì đây này...
Rồi không đợi trả lời, thu mình trong góc xe, bên cạnh Vincent, y trở lại trầm giọng:
- Chuyện nó thế này: tôi muốn đem em của anh đi trong vụ hè này. Đấy, giản dị có thế, giữa chúng mình hà tất quanh co?... Tôi không có hân hạnh được cha mẹ anh biết đến, dĩ nhiên các người không để cho Olivier đi với tôi nếu anh chẳng tích cực can thiệp. Chắc anh sẽ tìm cách dàn xếp thế nào đó cùng các người giúp tôi. Chắc anh rõ tính của ông bà và hẳn nhiên biết xử liệu. Anh bằng lòng giúp tôi?
Y chờ một lát rồi nói luôn, vì Vincent vẫn lặng thinh:
- Này, Vincent... Tôi sẽ rời Paris không lâu nữa đâu... chưa biết đi đâu. Tôi rất cần đem theo một người thư kí... Anh biết tôi chủ trương một tập san. Tôi có ngỏ cùng Olivier. Tôi thấy nó đủ ưu điểm cần có... Nhưng tôi không muốn đặt mình ở quan điểm vị kỉ mà thôi; tôi bảo mọi ưu điểm của nó dưới mắt tôi đều dùng được ở đây. Tôi đề nghị với nó chức vụ chủ bút... Chủ bút một tập san, ở tuổi nó!... Thật sự đâu phải thường.
- Không phải thường nên tôi sợ điều đó phần nào sẽ gây kinh hãi cho cha mẹ tôi, - Vincent đáp, cuối cùng mới quay mắt sang và nhìn y chằm chặp.
- Phải, anh hẳn có lí. Có lẽ đừng nói chuyện đó với cha mẹ anh thì tốt hơn. Anh có thể đưa dẫn các ích lợi của chuyến du ngoạn tôi thực hiện cho nó mà thôi, nhé? Cha mẹ anh thế nào cũng hiểu rằng tuổi nó cần đi đây đi đó. Tóm lại anh sẽ dàn xếp với các người, đồng ý?
Y lấy hơi, châm điếu thuốc nữa, rồi tiếp một giọng:
- Và vì anh có lòng giúp, tôi sẽ cố gắng làm một cái gì cho anh. Tôi tin có thể giúp anh hưởng một vài lợi lộc mà người ta biếu cho tôi trong một vụ áp phe hoàn toàn đặc biệt… một vụ mà một người bạn tôi vốn làm ở ngân hàng quốc gia dành riêng cho vài người đặc cách. Nhưng xin yêu cầu giữ kín; đừng hở môi với Lilian. Dù sao, tôi chỉ mộ được một số cổ phần quá ít, không thể dùng cùng lúc ứng cho nội bộ và ứng cho anh... Năm chục ngàn franc của anh tối hôm qua?
- Tôi đã có việc dùng rồi, - Vincent thốt, hơi xẵng, vì nhớ tới lời Lilian cảnh giác.
- Thôi được, thôi được… - Robert ứng đáp ngay, như giận dỗi. - Tôi khỏi nhiều lời.
Kế đó, bằng giọng điệu “can cớ gì giận anh”:
- Nếu có thể anh nghĩ lại, thì nhanh cho một tiếng... vì, ngày mai sau năm giờ chiều thì chậm mất.
Vincent phục bá tước Passavant nhiều hơn, kể từ khi anh hết coi trọng y.
* * *
XVIII
NHẬT KÍ Édouard
2 giờ - Mất va li. Được lắm. Đồ đạc bên trong, tôi không thiết gì ngoài cuốn nhật kí. Tha thiết quá đi mất. Trong thâm tâm, thú vị cho cuộc lưu li. Trong khi chờ đợi, thích có lại cuốn tập. Ai sẽ đọc những tờ giấy đó?... Có lẽ, từ lúc đánh mất, tôi đã thổi phồng sự quan trọng của nó. Tập nhật kí đó viết tới đoạn tôi đi Anh. Qua đến đó tôi ghi tất cả vào một cuốn sổ tay khác, tôi lại bỏ cuốn này, nay tôi quay trở về Pháp. Cuốn sổ tay mới với những dòng chữ hiện tại sẽ không rời khỏi túi tôi trong một thời gian. Nó là tấm kính dạo theo tôi. Không có điều gì xảy ra hiện hữu đích thực đối với tôi, chừng nào tôi không nhìn thấy phản chiếu trong đó. Nhưng từ buổi quay về đây, tuồng như tôi loay hoay trong một cơn mơ. Buổi chuyện trò với Olivier sao nhọc nhằn thế! Thế mà tôi hi vọng nhiều hoan lạc cho buổi ấy... Ước gì Olivier cũng ít thỏa mãn như tôi, ít thỏa mãn về nó cũng như về tôi. Chính tôi không biết cách nói phô, rõ khổ! Mà cũng chẳng biết làm sao cho nó nói. Một chữ cỏn con vẫn khó khăn, một khi nó lôi kéo theo sự chấp thuận cả con người toàn diện! Con tim, khi đã xen vào, làm cứng cóng, làm tê liệt trí óc.
7 giờ - Tìm lại được va li; hay ít ra đã tìm được kẻ lấy va li của tôi. Nó là bạn thân thiết nhất của Olivier đi nữa, vẫn là kẻ dệt nên giữa nó và tôi một mạng nhện mà chỉ có tôi lãnh phần tháo gỡ gút mắt. Cái nguy chính là vì hễ có biến cố bất ngờ nào là tôi lấy làm thích thú vồn vập đến nỗi quên mất chuẩn đích mình nhắm tới.
Gặp lại Laura. Máu thích hành hiệp của tôi bừng bừng nổi dậy ngay khi có cái khó khăn xen vào, ngay khi phải đương đầu với cái quy ước, tầm thường, quen thuộc.
Lại đi thăm ông cụ La Pérouse. Chính bà ra mở cửa cho tôi. Hơn hai năm không gặp lại bà, bà vẫn nhận ra ngay. (Tôi không nghĩ rằng ông bà được nhiều người thăm viếng.) Dù thế nào, bà rất ít đổi khác; nhưng (phải chăng vì tôi được tin về bà trước đây), nét mặt bà có vẻ dữ hơn, ánh mắt chua xót hơn, nụ cười giả tạo hơn bao giờ.
- Tôi sợ nhà tôi không tiếp anh được, - bà nói ngay, rõ ràng muốn tranh lấy tôi; kế, lợi dụng sự lãng tai để khỏi trả lời, không đợi tôi hỏi. - Không, không, phiền gì đâu có. Anh hãy vào thôi.
Bà đưa tôi vào phòng, nơi ông La Pérouse quen dùng để dạy, có hai cửa sổ mở ra sân. Và khi tôi vào tới:
- Tôi đặc biệt vui mừng có thể tiếp chuyện riêng anh một lát. Tình trạng nhà tôi làm tôi lo ngại hết sức, tôi biết hai người là bạn lâu năm và bền bỉ. Ông nghe lời anh, có thể nào anh thuyết phục ông bảo trọng lấy thân được chăng? Phần tôi, có nhắc nhở gì với ông cũng chẳng khác nào bất đồng ngôn ngữ.
Thế rồi bà bắt đầu một trang trách móc dai dẳng: Nào là ông cụ không chịu thủ thân chỉ cốt giày vò bà. Nào là ông làm toàn cái không đáng làm, và cái đáng làm thì không làm. Gặp thời tiết nào cũng đi ra ngoài mà lại chẳng bao giờ chịu che kín cổ. Gặp bữa ăn không chịu ăn: “Ông lớn không đói bụng”, bà không biết đâu mà mò để cho ông ngon miệng; thế mà ban đêm, ông lại thức dậy, lục lạo xào xáo trong bếp không hiểu để kiếm chác gì.
Bà cụ, cố nhiên, không bịa đặt; qua lời lẽ kể lể đó, tôi hiểu rằng chỉ vì diễn dịch những cử chỉ nhỏ nhặt hồn nhiên mà bắt chúng phải mang một ý nghĩa chọc giận, và thực tế đã phóng rọi lên lớp óc hẹp hòi này một bóng tối hãi hùng thế nào. Thế nhưng ông cụ, về phía ông, có hiểu đúng bao nhiêu săn sóc ân cần của vợ không, trong khi bà vợ cho mình là khổ thánh mà ông tự biến làm tên đao phủ? Tôi không phê phán, tìm hiểu; hay đúng hơn, bao giờ cũng thế, càng hiểu, tôi phê phán các người càng hòa hoãn hơn. Còn lại một điều là, đây là hai con người buộc suốt đời vào nhau và làm khổ nhau khủng khiếp. Tôi thường hay để ý, giữa những cặp vợ chồng, cái bướu nhỏ nhất về tâm tính của người này cũng duy trì một sự ngứa ngáy thế nào ở người kia, bởi lẽ cuộc “sống chung” khiến cái bướu kia bị cọ xát hoài một chỗ. Và nếu sự cọ xát đó gây ra giữa hai người với nhau, thì đời sống vợ chồng chỉ còn là địa ngục.
Dưới mái tóc giả với những món tóc đen làm nét mặt trắng nhợt rắn thêm, lại còn đai bao tay dài màu đen để ló ra những ngón tay nhỏ như mấy cái vuốt, bà La Pérouse mang dáng dấp của con chim ưng. Bà nói thêm:
- Ông trách tôi rình rập ông. Ông vẫn cần ngủ nhiều chứ, ấy thế mà ban đêm, giả vờ ngủ, đến khi đoán tôi yên giấc rồi là trở dậy; ông lục lạo trong mớ giấy cũ, và có khi chàng ràng tới sáng vừa khóc vừa đọc thư từ ngày xưa của ông anh quá cố. Ông muốn tôi nhẫn nhịn đủ điều đừng nói năng chi hết!
Tiếp đó bà than phiền rằng ông cụ muốn đưa bà vào nhà dưỡng lão; đây là một điều nặng nề cho bà, nhất là vì, bà nói thêm,ông cụ hoàn toàn không kham sống một mình và không thể không được bà chăm nom cho. Mấy lời này được nói lên bằng một giọng ái ngại lộ giả dối.
Trong khi bà mải mê kêu ca thì cánh cửa phòng khách xịch mở sau lưng và, bà vẫn chưa nghe, ông cụ La Pérouse bước vào. Đến mấy câu cuối của vợ, ông nhìn tôi mỉm nụ cười mát, và đưa tay trỏ lên trán, muốn nói là bà nghễnh ngãng. Tiếp theo, mất kiên nhẫn, đanh ác nữa chứ, những nét tính mà tôi không tin ông có được, những nét tính hình như xác nhận cho những lời buộc tội của bà cụ (nhưng cũng là do cao độ giọng nói của ông muốn cho bà nghe):
- Thôi bà ơi! Kể lể dông dài làm mệt anh đây, bà phải biết như thế! Có phải anh đến thăm bà đâu. Để đấy chúng tôi với nhau.
Nghe thế bà bắt bẻ rằng cái ghế bành bà đang ngồi là ghế của bà, bà không chịu nhường.
Ông cụ cười khẩy nói tiếp:
- Thế thì, nếu anh cho phép, mình cùng đi ra vậy.
Rồi quay sang tôi, dịu hẳn giọng:
- Đi, anh! Để bà ở đó.
Tôi khẽ chào lúng túng và theo gót ông vào phòng bên, đúng gian phòng ông đã tiếp tôi lần sau cùng. Ông nói:
- Tôi mừng cho anh được nghe bà nói. Đấy! Suốt ngày cứ thế.
Ông đến đóng cửa sổ.
- Đường sá huyên náo, không nghe được. Suốt ngày tôi đóng cửa sổ, suốt này bà mở ra lại. Bà bảo ngột. Luôn luôn nói cho quá. Bà không chịu nhận ở ngoài nóng hơn trong nhà. Có cái hàn thử biểu nhỏ đấy chứ, nhưng hễ trỏ cho bà, bà bảo mấy con số mà chứng tỏ gì. Bà muốn thắng lí, kể cả khi biết mình nhầm cũng cứ thế. Việc trọng đại đối với bà, là làm trái tôi.
Trong khi ông nói, tôi thấy chính ông cũng không hoàn toàn quân bình; cao hứng thêm, ông nói luôn:
- Mọi cái gì bà làm hỏng ở đời là cứ tôi mà đổ lên. Suy xét gì của bà cũng lệch lạc. Này nhé, để anh hiểu: Anh biết rằng hình ảnh ở ngoài, con người đến khi nhận vào trong não thì đảo ngược, nơi đây một bộ phận thần kinh dựng cho hình thẳng lại. Thế thì, bà nhà tôi không có được bộ phận chỉnh hình. Trong người bà, mọi thứ vẫn đảo ngược. Anh xét xem có khổ không!
Ông hẳn cảm thấy khoan khoái trong việc giải thích, và tôi không nói xen vào làm gì. Ông lại tiếp:
- Vợ tôi luôn luôn ăn quá độ. Thế mà bà cứ cho là chính tôi mới quá độ. Hồi nãy, giá bà bắt gặp tôi cầm mẩu sôcôla (thức ăn chính của tôi đấy), bà sẽ cầu mâu “Khi nào cũng đang nhóp nhép!” Bà trông chừng tôi. Buộc tội tôi trở dậy ban đêm ăn vụng, vì có một lần bà bắt gặp tôi đang chế một tách sôcôla trong bếp... Làm thế nào được? Cứ thấy bà ngồi ở bàn ăn trước mặt, vồ vập đĩa này đĩa kia, là bao nhiêu ngon miệng đều biến hết. Thế là bà cho tôi làm khó dễ, vì cần phải dằn vặt bà.
Ông ngừng một lát, và trong một cơn như thể trào lòng:
- Tôi ở trong cái thế chiêm ngưỡng những lời trách móc của vợ... Chẳng thế mà cái dạo bà đau một bên hông, tôi ái ngại cho bà. Thế là bà can xin tôi, bà nhún vai: “Đừng làm như có lòng không bằng.” Và mọi cái gì tôi làm hay tôi nói đều là để bắt bà khốn khổ.
Chúng tôi đang ngồi, nhưng ông đứng lên, rồi ngồi xuống ngay, loay hoay theo một nỗi lo lắng bất thường:
- Anh có tưởng tượng nổi rằng trong mỗi gian phòng ở đây, có những đồ đạc của bà rồi có những cái khác của tôi? Hồi nãy anh trông thấy bà với cái ghế đấy. Với chị giúp việc ban ngày, khi chị này dọn dẹp, bà bảo: “Không, cái này của ông, đừng đụng vào.” Và như hôm nọ, tôi vô tình để tập nhạc của tôi lên trên chiếc bàn nhỏ của bà, bà liệng xuống đất. Cong queo mấy góc hết cả... Ôi thôi! Không thể kéo dài mãi thế này... Nhưng, anh...
Ông chụp lấy tay tôi, và hạ giọng:
- Tôi đã có biện pháp. Bà dọa tôi mãi rằng “nếu tôi tiếp tục”, bà sẽ vào nhà dưỡng lão ẩn thân. Tôi đã để dành được một món tiền chắc là đủ trả trú phí cho bà ở Sainte-Périne; họ bảo nơi đó tốt hơn cả. Dăm ba giờ dạy hiện tại của tôi hầu như hết thu lợi được gì. Ít lâu nữa là hết thu lợi, tôi sẽ buộc lòng đụng tới số tiền đó, tôi không muốn. Nên tôi đã quyết… Trong vòng hơn ba tháng nữa thôi. Phải, tôi có ghi ngày. Anh biết, nghĩ rằng từ nay cứ mỗi giờ đưa tôi lại ngày đó gần hơn nữa là tôi cảm thấy nhẹ nhõm thế nào.
Ông nghiêng mình sang tôi, ông nghiêng sát hơn nữa:
- Tôi cũng có dành dụm một số trái phiếu. Ôi! Không bao nhiêu, nhưng không thể làm hơn. Vợ tôi không hay. Số trái phiếu ấy ở trong ngăn tủ, trong một chiếc phong bì đề tên anh, kèm theo những lời dẫn giải cần thiết. Có thể trông cậy anh giúp tôi được chăng? Tôi mù tịt về loại áp phe, nhưng tôi có nói chuyện với một viên chưởng khế thì y bảo rằng có thể đóng trực tiếp gửi cho cháu tôi, đợi khi nó trưởng thành nó sẽ sở hữu. Nhờ anh nghĩ tình bầu bạn trông chừng cho công việc được thực thi, chắc không đến nỗi quá lợi dụng. Tôi ngờ vực bọn chưởng khế lắm!... Không những thế, nếu anh vui lòng cho tôi được an tâm, anh nên nhận lời lấy ngay chiếc phong bì đó... Phải đấy, anh nhỉ?... Tôi đi lấy.
Ông đi ra, cũng lúp xúp đi như lệ thường, và xuất hiện trở lại với một cái phong bì lớn cầm tay.
- Anh thứ lỗi cho tôi đã niêm thư, vấn đề hình thức. Anh cầm lấy.
Tôi liếc mắt và đọc, ở phía dưới tên tôi, bằng nét chữ nắn nót: “HÃY MỞ SAU KHI TÔI CHẾT”.
- Anh đút nhanh vào túi đi, cho tôi biết nó được an toàn. Cảm ơn... Hà! Tôi đợi anh quá sức!...
Tôi đã thường hay cảm thấy rằng, trong giây lát trọng thể như thế, mọi xúc động nhân tình ở trong tôi có thể nhường chỗ cho một sự xuất thần gần như bí nhiệm, một thứ ngất ngây làm cho con người tôi cảm thấy hùng vĩ, hay nói cho đúng hơn; con người tôi, thoát ra ngoài những hệ lụy vị kỉ, như thoát xác và mất bản ngã. Ai chưa cảm thấy điều đó, cố nhiên không thể hiểu cho tôi. Nhưng tôi cảm thấy ông hiểu. Mọi sự phản đối về phía tôi sẽ vô dụng, sẽ có vẻ không chỉnh và tôi đành lòng siết bàn tay ông đang buông thả trong tay tôi. Mắt ông rực sáng dị thường. Trong bàn tay kia, bàn tay lúc đầu cầm phong thư, ông giữ một mẩu giấy khác:
- Tôi có viết địa chỉ của nó đây. Vì bây giờ tôi biết nó sống ở nơi nào rồi. “Saas-Fée”. Anh biết chỗ đó không? Ở Thụy Sĩ. Tôi tìm trên bản đồ không ra.
Tôi nói:
- Phải. Đó là một cái làng nhỏ gần Cervin.
- Xa lắm không?
- Không xa lắm, tôi đi được, may ra.
- Sao! Anh có thể?... Trời! Anh tốt quá, - ông cụ nói. - Còn tôi, tôi già quá. Với lại, tôi không thể, vì mẹ đứa bé… Tuy nhiên tôi thấy hình như...
Ông ngần ngừ, tìm lời, nói tiếp:
- Hình như tôi có thể yên giấc dễ dàng hơn nếu tôi gặp được nó mà thôi.
- Khổ thân... Sức tôi có thể làm được gì để đem nó về cho thầy là tôi sẽ làm. Thầy sẽ gặp cháu Boris, tôi hứa với thầy như thế.
- Cảm ơn... Cảm ơn.
Ông lẩy bẩy ôm lấy tôi trong hai tay.
- Nhưng thầy hãy hứa với tôi là không nghĩ tới chuyện...
Ông cắt ngang ngay, bảo:
- Ồ! Đó là chuyện khác.
Rồi liền ngay đó, và như để ngăn tôi nhắc nhở, ông lái sự chú ý của tôi sang hướng khác:
- Anh tưởng tượng, hôm nọ, người mẹ một đứa học trò cũ muốn mời tôi đi coi hát! Cách đây khoảng một tháng. Một suất diễn buổi chiều tại rạp Sân Khấu Pháp. Đã hơn hai chục năm tôi không bước chân vào phòng hát. Họ diễn vở Hernani của Victor Hugo. Anh biết chứ? Diễn khá lắm thì phải. Ai nấy hả hê. Còn tôi thì khổ sở không nói nổi. Nếu không giữ lễ thì không ngồi nán lại nổi bao giờ... Chúng tôi ngồi chỗ riêng trên lầu. Bạn bè tìm cách dỗ dành tôi. Bằng không tôi dám la lối khán giả lắm đấy. Quái gở! Có thể nào? Có thể nào?
Ban đầu chưa hiểu rõ tại sao ông làm thế tôi mới hỏi:
- Thầy thấy bọn diễn viên đáng ghét?
- Chứ còn gì nữa. Nhưng tại làm sao người ta dám phô bày loại trò khả ố như thế trên sân khấu nhỉ?... Khán giả vỗ tay nữa chứ! Lại thêm bọn trẻ con trong rạp, bọn trẻ được cha mẹ đem theo, dù biết vở kịch... Quái đản thế. Kệch cỡm, trên sân khấu được quốc gia tài trợ!
Mối bất mãn của con người tốt tính này khiến tôi vui thú. Bây giờ đây, e tôi cười. Tôi thưa lại rằng kịch nghệ không thể bài bỏ việc mô tả tình. Đến lượt ông ông cãi rằng sự tả tình sinh ra cái gương tai hại, điều không thể tránh. Sự bàn cãi tiếp tục như thế một hồi, và bởi lúc bấy giờ tôi đem so sánh cái yếu tố bi thảm với sự rầm rộ của nhạc khí bằng đồng trong dàn nhạc:
- Chẳng hạn như đoạn vào kèn trombone mà thầy thán phục trong bản hòa tấu của Beethoven đó...
- Nhưng tôi có thán phục đoạn vào kèn trombone gì đâu, - ông la lối vùng vằng một cách lạ thường. - Anh muốn bắt tôi thán phục cái làm cho tôi bối rối là tại sao?
Ông run rẩy cả thân mình. Cái âm sắc bất mãn, gần như thù nghịch của giọng nói ông bắt tôi giật mình mà hình như cũng làm cho chính ông ngỡ ngàng, chẳng thế mà ông nói tiếp bằng giọng trầm tĩnh hơn:
- Anh có nhận thấy rằng bao nhiêu nỗ lực của âm nhạc mới, là làm thế nào biến một số hợp âm mà thoạt tiên ta cho là không hòa điệu thành ra có thể chịu được, có thể gây khoái cảm càng hay.
- Đúng thế, - tôi đáp, - cuối cùng đều phải quy về hòa âm, giản lược thành hòa âm.
Ông nhún vai nhắc lại:
- Hòa âm! Tôi thấy đó chỉ là sự xúi làm quen với tội lỗi, với điều ác. Sự nhạy cảm cùn mòn, sự trong sạch bị mờ đi, phản ứng bớt nhặm lẹ, thiên hạ dung túng, thỏa thuận...
- Nghe thầy, tưởng chừng đến cả việc cho con nghỉ bú người ta cũng không dám nữa.
Nhưng ông nói tiếp, không nghe tôi:
- Ước gì ta có thể phục hồi sự ngoan cố của tuổi trẻ, cái mà người ta bất mãn hơn cả là chính con người của mình trong hiện tại.
Đã quá muộn không thể dấn thân vào cuộc thảo luận về cùng đích của đời người, tôi lập tâm đưa ông về lĩnh vực của ông:
- Dù sao thầy không có ý câu thúc âm nhạc vào mỗi sự diễn ý thanh thoát? Bằng không, chỉ một hợp âm là đủ: một hợp âm hoàn bị liên tục.
Ông nắm lấy hai bàn tay tôi và, như xuất thần, mục quang trầm lạc vào sùng bái, lặp lại nhiều bận:
- Một hợp âm hoàn bị liên tục, phải, đúng thế: một hợp âm hoàn bị liên tục... Nhưng hoàn vũ hiện đang làm mồi cho sự lạc điệu, - ông buồn bã vớt thêm.
Tôi cáo từ. Ông đưa ra cửa và ôm lấy tôi, còn thì thào:
- A! Muốn giải quyết hợp âm, còn phải đợi?
* * *