Điều tôi quan tâm không phải là bạn đã thắng hay thua, mà là bạn có sẵn sàng đón nhận thất bại hay không.

Abraham Lincohn

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Serpent'S Shadow
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
1.Chúng Tôi Phá Bĩnh Thiêu Rụi Một Buổi Tiệc
ADIE KANE ĐÂY.
Nếu các bạn đang lắng nghe băng này, chúc mừng nhé! Các bạn đã sống sót qua ngày tận thế rồi đấy.
Ngay đây tôi muốn xin lỗi về mọi sự bất tiện mà ngày tận thế có thể đã gây ra cho các bạn. Những vụ động đất, nổi loạn, bạo động, vòi rồng, bão lụt, sóng thần, và tất nhiên là cả con rắn khổng lồ muốn nuốt chửng mặt trời – tôi e là đa số những thứ này là lỗi của chúng tôi. Carter và tôi quyết định ít ra chúng tôi nên giải thích chuyện đã xảy ra như thế nào.
Đây có lẽ là lần thu băng cuối cùng của chúng tôi. Khi các bạn nghe được câu chuyện của chúng tôi, lý do cho chuyện này sẽ rất rõ ràng.
Những rắc rối của chúng tôi khởi nguồn tại Dallas, khi con cừu phun lửa tàn phá buổi triển lãm Vua Tut.
Đêm đấy các pháp sư vùng Texas đang tổ chức một buổi tiệc trong khu vườn điêu khắc đối diện với Bảo tàng Mỹ thuật Dallas. Đàn ông mặc tuxedo mang ủng cao bồi. Phụ nữ vận váy dạ hội cùng kiểu tóc bới như kẹo bông gòn nở tung trên đầu.
(Carter bảo kiểu này bên Mỹ được gọi là kiểu kẹo gòn. Tôi chẳng quan tâm. Tôi được nuôi dạy ở Luân Đôn, nên các bạn phải ráng chấp nhận và làm quen với cách kêu tên gọi vật đúng đắn đi nhé.)
Một ban nhạc đang chơi nhạc đồng quê thời xưa ngoài nhà sạp. Những dải đèn dây lấp lánh trên các ngọn cây. Mấy pháp sư thi thoảng từ những cánh cửa bí mật tre các bức điêu khắc ló ra hay triệu hồi tia lửa đến đốt mấy con muỗi khó chịu, nhưng ngoài ra thì toàn cảnh dường như trông vẫn giống như một buổi tiệc rất bình thường.
Người đứng đầu Vùng Năm Mươi Mốt, JD Grissom, đang trò chuyện với khách khứa và nhâm nhi đĩa bánh tacos nhân thịt bò thì chúng tôi kéo ông ta đi họp khẩn. Tôi áy náy lắm, nhưng có còn lựa chọn nào đâu, nếu nghĩ đến mối nguy hiểm mà ông ấy đang lâm vào.
“Một cuộc tấn công á?” Ông ta cau mày. “Triển lãm Vua Tut đã mở cửa được một tháng. Nếu Apophis sẽ tấn công, không phải hắn đã ra tay rồi sao?”
JD cao lớn to khỏe, gương mặt gồ ghề dạn dày, mái tóc đỏ mượt, và hai bàn tay gân guốc như gốc cây. Ông ta trông chừng bốn mươi, nhưng với pháp sư thì khó đoán tuổi lắm. Biết đâu ông ta bốn trăm tuổi cũng không chừng. Ông mặc bộ vest đen cùng cà vạt dây và khóa nịt hình ngôi sao bạc Lone Star, y như một cảnh sát trưởng miền Viễn Tây.
“Chúng ta hãy vừa đi vừa nói nào,” Carter bảo. Anh dợm bước dẫn đầu chúng tôi đi về phía đầu kia khu vườn.
Tôi phải thừa nhận là ông anh trai mình cư xử tự tin ngời ngời.
Tất nhiên, đôi lúc anh ấy vẫn là tên ngố tàu. Mái tóc nâu thẫm của anh ấy mất đi một chỏm phía bên trái nơi con điểu sư “cắn yêu” anh ấy, và từ mấy vết xây xước trên mặt anh, bạn có thể thấy anh ấy chưa nắm vững nghệ thuật cạo râu. Nhưng từ lần sinh nhật thứ mười lăm thì Carter cao phổng lên và nổi thêm cơ bắp nhờ hàng giờ tập luyện giao chiến. Anh trông điềm đạm chững chạc trong quần áo vải lanh đen, nhất là với thanh khopesh bên hông. Tôi hầu như có thể hình dung ra Carter như một vị lãnh tụ cảu nhân loại mà không phải cười bò lăn bò càng.
"Sao lại quắc mắt với em thế, Carter? Mô tả vậy là hào phòng quá rồi chứ gì nữa."
Carter lượn vòng qua bàn để thức ăn, nhón một vốc tortilla. “Apophis làm theo một khuôn mẫu,” anh bảo với JD. “Mọi cuộc tấn công khác đều xảy ra vào đêm trăng đầu tháng, khi bóng tối ken dày nhất. Tin tôi đi, hắn sẽ tấn công bảo tàng của ông vào tối nay. Và hắn sẽ tấn công dữ dội đấy.”
JD Grissom né quanh một nhóm các pháp sư đang uống sâm panh. “Những cuộc tấn công khác…” Ông nói. “Ý cậu là Chicago và thủ đô Mexico đấy à?”
Và Toronto,” Carter nói. “Và… vài nơi khác nữa.”
Tôi biết anh ấy không muốn nói thêm nữa. Những vụ tấn công mà chúng tôi đã chứng kiến cả mùa hè qua đã khiến cả hai anh em chúng tôi cứ phải nằm thấy ác mộng.
Quả thật, Ngày tận thế hủy diệt chưa đến. Đã được sáu tháng kể từ ngày Apophis – Chúa Tể của Sự Hỗn Mang tẩu thoát khỏi nhà tù dưới Địa Ngục, nhưng hắn vẫn chưa dấy lên cuộc xâm lăng quy mô lớn nào vào thế giới con người như chúng tôi dự đoán cả. Vì lý do nào đấy, con răn vẫn đang câu giờ, bằng lòng với những cuộc tấn công quy mô nhỏ hơn vào các khu vực dường như là an toàn và hạnh phúc.
Như là khu này đâu, tôi nghĩ bụng.
Khi chúng tôi đi ngang qua nhà sạp, ban nhạc đã chơi xong. Một người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp cầm violon vẫy vẫy cây vĩ với JD.
“Nào anh yêu!” bà ấy gọi. “Bọn em cần anh chơi guitar!”
JD cố nặn ra nụ cười. “Mau thôi em. Anh sẽ quay lại ngay.”
Chúng tôi bước tiếp. JD quay sang chúng tôi. “Anne, vợ tôi.”
“Bà ấy cũng là pháp sư ạ?” Tôi hỏi.
Ông gật đầu, vẻ măt sa sầm. “Những cuộc tấn công ấy. Tại sao cô cậu quả quyết là Apophis sẽ tấn công vào đây?”
Mồm Carter đang ứ đầy tortilla, nên câu trả lời của anh ấy là, “Ưm – ưm.”
“Hắn đang truy lùng một món đồ tạo tác nào đấy,” tôi dịch hộ. “Hắn đã phá hủy năm bản sao rồi. Bản cuối cùng còn tồn tại tình cờ lại nằm trong bộ trưng bày Vua Tut của ông.”
“Món nào?” JD hỏi.
Tôi ngập ngừng. Trước khi đến Dallas, chúng tôi đã gieo đủ kiểu thần chú che chắn rồi chất đầy người các loại bùa hộ mạng bảo vệ để ngăn chặn trò nghe lén pháp thuật, nhưng tôi vẫn thấy lo khi phải nói lớn tiếng về các kế hoạch của chúng tôi.
“Tốt hơn là để chúng tôi chỉ cho ông.” Tôi bước vòng qua đài phun nước, nơi có hai pháp sư trẻ tuổi đang dùng đũa phép vẽ nên dòng chữ I love you sáng tỏa trên nền đá lát đường. “Chúng tôi đã mang theo đội quân tinh nhuệ của mình để trợ giúp. Họ đang chờ nơi bảo tàng. Nếu ông cho phép chúng tôi kiếm ra các mẫu vật, có thể là để chúng tôi mang đi cất giữ-“
“Để cô cậu mang đi á?” JD cau mày. “Dàn trưng bày được canh gác cẩn mật. Tôi đã cho những pháp sư giỏi nhất của mình bao quanh nó cả ngày lẫn đêm. Cô cậu nghĩ mình có thể canh giữ tốt hơn ở Nhà Brooklyn sao?”
Chúng tôi dùng bước ngay rìa khu vườn. Bên kia đường, tấm băng rôn Vua Tut cao hai tầng nhà được treo bên hông bảo tàng.
Carter lôi điện thoại di động ra. Anh chìa cho JD xem một hình ảnh trên màn hình – một căn biệt thự bị thiêu rụi nơi đã từng là cơ quan đầu não của Vùng Một Trăm ở Toronto.
“Tôi biết rõ là dàn lính gác của ông rất giỏi,” Carter nói. “Nhưng chúng tôi thà không muốn biến khu vực của ông thành mục tiêu cho Apophis còn hơn. Trong những cuộc tấn công khác như vụ này này… đám lâu la của con rắng không để ai sống sót cả.”
JD nhìn chăm chăm và màn hình điện thoại, rồi liếc lại vợ mình, bà Anne, đang mải mê kéo đàn cho một bài nhạc nhảy điệu đồng quên.
“Thôi được,” JD nói. “Tôi hy vọng đội của cô cậu là đỉnh của đỉnh.”
Đội pháp sư tinh nhuệ của chúng tôi đang bận bịu càn quét cửa hàng quà lưu niệm.
Felix đã cho triệu gọi ba con chim cánh cụt, đang lạch bà lạch bạch mang theo mặt nạ Vua Tut bằng giấy. Anh bạn khỉ đầu chó của chúng tôi, Khufu, ngồi trên nóc kệ sách đọc cuốn Lịch sử các pharaoh, hẳn trông phải ấn tượng lắm kia, ngoại trừ việc nó đang cầm sách ngược. Walt – ôi trời ơi Walt, sao lại thế? – đã mở ngăn tủ nhỏ đừng đồ trang sức và đang săm soi mấy chiếc vòng tay vòng cổ như thể chúng có thể có pháp thuật vậy. Alyssa nhấc bổng những chậu đất sét lên bằng pháp thuật yếu tố thiên nhiên của đất, đang tung hứng hai mươi ba mươi chậu gì đấy theo hình số tám.
Carter hắng giọng.
Walt chết lặng, hai tay đầy nữ trang bằng vàng. Khufu lồm cồm leo xuống kệ sách, làm đổ gần hết đống sách. Mấy chậu đất của Alyssa rơi xuống sàn tan tành. Felix cố lùa đám chim cánh cụt của mình ra sau quầy tính tiền. (Cậu này đúng là rất tin tưởng vào sự hữu ích của chim cánh cụt. Tôi e là mình không thể giải thích được vì sao.)
JD Grissom nhịp nhịp ngón tay lên khóa nịt hình ngôi sao Cô Đơn. “Đây là cái đội tuyệt vời của cô cậu đấy à?”
“Đúng vậy!” tôi cố nhoẻn cười lấy lòng. “Xin lỗi về mớ lộn xộn này. Tôi sẽ chỉ, ừm…”
Tôi rút đũa phép từ thắt lưng ra rồi nói lên một từ quyền năng: “Hi-nehm!”
Tôi thạo mấy loại thần chú thế này hơn rồi. Đa phần thì, giờ đây tôi có thể điều chuyển sức mạnh từ nữ thần Isis bảo hộ cho tôi mà không phải ngất đi. Với lại tôi chưa lần nào bị nổ tung đấy nhé.
Chữ tượng hình mang nghĩa Nhập Lại loáng sáng lên trong không khí:
Những mảnh vỡ của bình đất bay vèo lên nhập vào nhau tự liền lại. Sách quay trở lại lên giá. Mặt nạ Vua Tut rơi khỏi mấy con chim cánh cụt, để lộ ra chúng là – hức – là chim cánh cụt.
Mấy người bạn của chúng tôi trông khá là xấu hổ.
“Xin lỗi,” Walt vừa lúng búng vừa đặt nữ trang trở lại vào hộp. “Chúng tôi phát chán.”
Tôi không thể nổi đóa với Walt. Anh ấy cao ráo dáng người thể thao, cơ thể như một cầu thủ bóng rổ, đang mặc quần tập và áo không tay khoe ra hai cánh tay sắc múi. Da anh một màu nước sô cô la nóng, gương mặt anh từng nét một đều điển trai và mang vẻ vua chúa như những bức tượng các pharaoh tổ tiên của anh ấy.
Tôi có mê mẩn anh ấy không à? Ừ, phức tạp lắm. Để sau tôi sẽ kể thêm.
JD Grissom nhìn sang đội của chúng tôi.
“Rất vui được gặp mọi người.” Ông ta cố ngăn vẻ hăng hái. “Đi theo tôi.”
Sảnh chính bảo tàng là một căn phòng màu trắng rộng bao la có mấy bàn nước nhỏ trống trơn, một sân khấu, cùng trần nhà cao đủ chỗ cho một con hươu cao cổ làm thú cưng. Một bên sảnh, cầu thang dẫn lên ban công có một dãy những văn phòng. Ở phía bên kia, vách tường bằng kính trông ra bầu trời đêm của Dallas.
JD chỉ tay lên ban công, nơi có hai người đàn ông mặc đồ lanh đen đang đi tuần. “Cô cậu thấy chứ? Người canh gác ở khắp nơi.”
Hai người đàn ông tay cầm gậy và đũa phép chuẩn bị sẵn sàng. Họ liếc xuống chúng tôi, và tôi nhận thấy mắt họ đang ngời sáng. Chữ tượng hình được sơn trên má họ như sơn màu lâm trận.
Alyssa thì thào với tôi: “Mắt họ sao thế?”
“Pháp thuật giám sát,” tôi đoán. “Những ký hiệu cho phép người canh gác nhìn được và Cõi Âm.”
Alyssa cắn môi. Vì vị thần bảo hộ cho cô ấy là Geb thần đất, cô thích những vật cứng chắc, như là đá hay đất sét. Không thích độ cao hay nước sâu. Nhất định là cô không thích ý niệm về Cõi Âm – vương quốc pháp thuật đang tồn tại song song với thế giới của chúng ta.
Một lần, khi tôi mô tả Cõi Âm như là một đại dương dưới chân chúng ta, với hàng tầng hàng lớp chiều không gian phép thuật cứ xuống mãi đến vô tận, tôi nghĩ Alyssa như sắp bị say sóng.
Ngược lại, cậu nhóc mười tuổi Felix, thì không chút e dè. “Tuyệt quá!” cậu bé bảo. “Em muốn có hai mắt rực sáng.”
Cậu lần ngón tay quá má, để lại những đốm màu tím sáng bóng có hình dạng Nam Cực.
Alyssa bật cười. “Giờ em nhìn thấy Cõi Âm chưa?”
“Chưa,” thằng bé thú nhận. “Nhưng em có thể nhìn thấy mấy con chim cánh cụt của em rõ hơn.”
“Ta nên nhanh lên,” Carter nhắc nhở chúng tôi. “Apophis thường tấn công khi mặt trăng lên cao nhất. Nghĩa là –“
“Agh!” Khufu chìa cả mười ngón tay lên. Chỉ có khỉ đầu chó là có được cảm nhận thiên văn hoàn hảo nhất.
“Trong mười phút nữa,” tôi nói. “Hay thật.”
Chúng tôi tiến đến lối vào phòng triển lãm Vua Tut, nơi này khó bị bỏ lỡ nhờ vào biển hiệu vàng khổng lồ có dòng chữ TRIỂN LÃM VUA TUT. Hai pháp sư đứng gác cùng hai con báo trưởng thành được dắt dây.
Carter kinh ngạc nhìn JD. “Làm sao ông được phép vào khắp nơi trong bảo tàng này vậy?”
Ông người Texas nhún vai. “Anne vợ tôi là chủ tịch hội đồng. Nào, cô cậu muốn xem mẫu vật nào đây?”
“Tôi đã nghiên cứu bản đồ triển lãm của ông,” Carter đáp. “Đi nào. Tôi sẽ chỉ cho.”
Hai con báo có vẻ thích thú với đám chim cánh cụt của Felix, nhưng pháp sư canh gác đã kéo giữ chúng lại để chúng tôi đi qua.
Ở bên trong, phòng triển lãm vô cùng choáng ngợp, nhưng tôi không nghĩ các bạn lại quan tâm đến chi tiết đâu. Một mê cung các phòng cùng những quách, tượng, bàn ghế, đồ trang sức bằng vàng – blah, blah,blah. Nếu là tôi thì tôi bỏ qua hết. Tôi đã nhìn thấy quả đủ những bộ sưu tập Ai Cập cho đến mãn kiếp rồi, cảm ơn.
Với lại, nhìn đến bất cứ đâu, là tôi lại thấy những gợi nhắc đến các trải nghiệm không hay.
Chúng tôi đi qua dãy hộp trưng bày tượng shabti, chắc chắn chúng đã được ếm bùa để sống lại khi được gọi đến. Tôi thôi vụ này rồi. Chúng tôi đi ngang qua những bức tượng quái vật sáng rực cùng các thần mà tôi nghĩ mình đã đích thân chiến đấu – kền kền Nekhbet, từng có lần chiếm hữu bà Ngoại tôi (chuyện dài lắm); cá sấu Sobek, từng định giết con mèo của tôi (chuyện còn dài hơn nữa); và nữ thần sư tử Sekhmet, có lần chúng tôi đã đánh bại bằng nước sốt cay (thôi đừng có hỏi).
Điều bực bội hơn cả là: một bức tượng thạch cao trắng nho nhỏ của Bes bạn của chúng tôi, thần người lùn. Nét chạm khắc xưa ơi là xưa, nhưng tôi nhận ra cái mũi tẹt ấy, tóc mai lùm xùm, bụng bia, và gương mặt xấu xí đáng yêu trông như thể vừa bị cái chảo quật túi bụi. Chúng tôi chỉ biết Bes được vài ngày thôi, nhưng ông ấy cơ bản là đã hy sinh linh hồn mình để cứu chúng tôi. Giờ đây, mỗi lần nhìn thấy ông ấy là tôi bị gợi nhắc đến món nợ mình không bao giờ có thể đáp đền được.
Hẳn là tôi đã nấn ná lại bức tượng của ông ấy lâu hơn mình tưởng. Cả nhóm còn lại đã bỏ xa tôi và đang quành vào căn phòng kế tiếp, trước đấy chừng hai mươi mét, thì một giọng nói cạnh tôi vang lên, “Xuỵt!”
Tôi nhìn quanh. Tôi nghĩ chắc tượng của thần Bes mới lên tiếng. Thế rồi giọng nói ấy lại gọi: “Ê cưng. Nghe này. Không còn nhiều thời gian nữa.”
Ngay giữa bức tường, ngang tầm mắt tôi, một gương mặt đàn ông lồi ra khỏi bức tường trắng nhám như thể đang cố bứt phá ra ngoài. Gã có cái mũi khoằm ơi là khoằm, môi mỏng tang tàn nhẫn, cùng vầng trán cao. Mặt dù gã có cùng màu như màu tường, nhưng gã dường như vẫn rất sống động. Đôi mắt trống rỗng của gã còn biểu lộ được cả vẻ mất kiên nhẫn nữa chứ.
“Cô sẽ không cứu được cuộn văn tự đâu, cô nhỏ,” gã cảnh bảo. “Mà có cứu được, cô cũng chẳng bao giờ hiểu được đâu. Cô cần sự giúp đỡ của ta.”
Tôi đã kinh qua lắm chuyện kỳ lạ kể từ khi bắt đầu luyện phép thuật, nên tôi cũng không ngạc nhiên gì cho cam. Dầu vậy, tôi vẫn biết tốt hơn không nên tin vào bất cứ sự hiện hình vữa trắng cũ xì nào mà lại nói chuyện với mình, nhất là lại gọi mình là cưng. Dã làm tôi nhớ đến một nhân vật trong mấy cái phim mafia nhảm nhí mà đám con trai tại Nhà Brooklyn hay xem trong lúc rảnh rỗi – chú Vinnie của ai đấy, có lẽ thế.
“Ông là ai?” tôi hỏi
Gã khịt mũi. “Cứ như là cô không biết ấy. Cứ như là có ai lại không biết ấy. Cô có hai ngày trước khi chúng hạ bệ ta. Cô muốn đánh bại Apophis, thì tốt nhất cô nên tạo chút ảnh hưởng mà đưa ta ra khỏi đây.”
“Tôi chả biết ông đang nói gì cả,” tôi bảo.
Gã này nghe không giống Set chúa tể của cái ác, hay rắn Apophis, hay bất kỳ tên xấu xa nào mà trước đây tôi từng phải đương đầu, nhưng có ai mà chắc được chứ. Dầu sao thì cũng có một thứ được gọi là pháp thuật đó thôi.
Gã hếch cằm ra. “Thôi được, ta hiểu rồi. Cô muốn chứng cứ tạo lòng tin chứ gì. Cô sẽ không bao giờ cứu được cuộn văn tự, nhưng hãy tìm giữ cái hộp bằng vàng. Nó sẽ cho cô manh mối về thứ cô cần, nếu cô đủ thông minh để hiểu được. Ngày kia vào lúc hoàng hôn nhé, bé cưng. Khi đó lời đề nghị của ta sẽ hết hạn, vì đấy là khi ta vĩnh viễn bị-”
Gã sặc lên. Hai mắt mở lớn. Gã căng người như thể có nút thọng lọng thắt quanh cổ mình. Gã từ từ tan lại vào trong tường.
“Sadie?” Walt gọi tôi từ đầu kia hành lang. “Em ổn chứ?”
Tôi nhìn lại. “Anh có thấy nó không?”
“Thấy gì cơ?” anh hỏi.
Tất nhiên là không rồi, tôi thầm nhủ. Còn gì là vui khi người khác lại có thể nhìn thấy cảnh mộng của tôi về Chú Vinnie chứ? Như thế thì tôi sẽ không còn được thắc mắc liệu mình có đang phát rồ phát dại lên không nữa.
“Chẳng có gì,” tôi đáp, rồi chạy theo bắt kịp.
Lối vào phòng kế tiếp có hai bên là hai bức tượng nhân sư bằng đá vỏ chai mang thân mình sư tử cùng đầu cừu. Carter bảo loại nhân sư đặc bệt này được gọi là criosphinx. "Cảm ơn nhé Carter. Bọn em tất cả đều mong mỏi muốn biết được chút thông tin vô dụng ấy đấy."
“Agh!” Khufu cảnh báo, giơ năm ngón tay lên.
“Còn năm phút nữa,” Carter dịch lại.
“Chờ tôi một chút,” JD bảo. “Căn phòng này chịu thần chú nghiêm ngặt nhất. Tôi cần phải sửa đổi chúng để cho mọi người vào.”
“Ừ,” tôi bồn chồn bảo, “nhưng mấy thần chú ấy vẫn chặn được kẻ thù, như là con rắn Hỗn Mang ấy, tôi hy vọng thế chứ nhỉ?”
JD chán chường nhìn tôi, vụ này tôi nhận phải luôn ấy mà.
“ôi quả tình có biết vài ba điều về phép thuật bảo vệ đấy,” ông ta hứa hẹn. “Hãy tin ở tôi.” Ông ấy giơ đũa phép lên bắt đầu ngâm nga.
Carter kéo tôi sang bên. “Em ổn chứ?”
Chắc tôi phải trông rúng động lắm từ cuộc chạm trán với chú Vinnie kia. “Em ổn,” tôi đáp. “Vừa nhìn thấy một thứ ở chỗ hồi nãy. Có lẽ chỉ là một trong mấy trò của Apophis thôi mà, nhưng…”
Mắt tôi chuyển sang đầu kia hành lang. Walt đang nhìn trân trân vào chiếc ngai vàng trong hộp trưng bày. Anh ấy rướn tới trước chống một tay lên mặt kính như thể anh bị ốm.
“Chờ chút nhé,” tôi bảo Carter.
Tôi đi đến bên Walt. Ánh đèn từ phòng triển lãm soi tỏa khắp mặt anh, biến các nét mặt anh thành màu nâu đo đỏ như các ngọn đồi Ai Cập.
“Có gì không ổn thế?” tôi hỏi.
“Tutankhamen đã chết trong cái ghế ấy,” anh đáp.
Tôi đọc biển trưng bày. Chẳng thấy nói gì đến việc Tut chết trên cái ghế ấy cả, nhưng Walt nghe có vẻ rất chắc chắn. Có lẽ anh ẩy cảm nhận được lời nguyền của dòng họ. Vua Tut là ông chú ti tỉ mấy đời của Walt, và cùng loại chất độc di truyền từng giết Tut năm mười chín tuổi giờ đang truyền chảy trong máu của Walt, mỗi khi anh ấy giở pháp thuật ra là chất độc ấy càng thêm mạnh. Ấy vậy nhưng Walt không chịu gia giảm đi. Nhìn vào ngai vàng tổ tiên mình, hẳn là anh ấy cảm thấy như đang đọc bản cáo phó của chính mình vậy.
“Chúng ta sẽ tìm ra cách chữa mà,” tôi hứa. “Ngay sau khi xử lý Apophis xong…”
Walt nhìn tôi, làm giọng tôi lạc đi. Cả hai chúng tôi đều biết cơ hội cho chúng tôi đánh thắng Apophis khá mong manh. Thậm chí nếu chúng tôi có thành công đi nữa, không có gì đảm bảo rằng Walt sống được đủ lâu để tận hưởng chiến thắng. Hôm này là một trong những ngày khỏe của Walt, thế nhưng tôi vẫn nhìn thấy cơn đau trong mắt anh ấy.
“Mọi người ơi,” Carter gọi. “Chúng ta sẵn sàng rồi.”
Căn phòng bên trong hai con nhưn sư đầu cừu là bộ sưu tập quy mô nhất về sự sống sau cái chết của người Ai Cập. Một tượng Anubis bằng gỗ có kích cỡ như thật đang từ trên bệ của mình nhìn trừng trừng xuống. Ngồi bên trên bản sao cán cân công lý là một con khỉ đầu chó bằng vàng, Khufu ngay lập tứ bắt đầu ve vãn. Còn có cả các mặt nạ của pharaoh, bản đồ Địa Ngục, và hàng đống hũ quách từng có thời chứa đầy nội tạng của xác ướp.
Carter đi qua tất cả mọi thứ. Anh tập hợp chúng tôi lại quanh một cuộn văn tự bằng giấy cói đựng trong hộp thủy tinh trên tường.
“Đây là thứ cậu đang cần à?” JD cau mày. “Cuốn sách để đánh bại Apophis à? Cậu có ý thức được rằng ngay cả những câu thần chú hay nhất chống lại Apophis cũng không hiệu nghiệm lắm mà.”
Carter cho tay và túi lấy ra một nhúm giấy cói cháy khét. “Đây là tất cả những gì chúng tôi có thể cứu lấy tại Toronto. Là một bản sao khác của cuộn văn tự.”
JD cầm lấy nhúm giấy cói rách rưới. Nó không lớn hơn tấm thiệp là mấy rồi còn cháy xém hết cả khiến chúng tôi chỉ đọc ra được vài chữ tượng hình.
“Đánh bại Apophis…” ông đọc lớn. “Nhưng đây là thứ phép thuật thông thường nhất. Hàng trăm bản sao đã tồn tại từ thời cổ đại rồi.”
“Không đúng.” Tôi cưỡng lại nỗi thôi thúc được nhìn qua vai, phòng trường hợp mấy con rắn khổng lồ đang lắng nghe. “Apophis chỉ đang tìm một bản nhất định, được tay này viết này.”
Tôi vỗ vào biển thông tin cạnh chỗ trưng bày. “Dành cho hoàng tử Khaemwaset,” tôi đọc, “còn được biết đến dưới cái tên Setne.”
JD cau mày. “Là một cái tên xấu xa… một trong những pháp sư đểu cáng nhất từng sống trên đời.”
“Chúng tôi cũng nghe thế,” tôi nói, “và Apophis chỉ tiêu hủy những phiên bản của Setne. Theo như chúng tôi nhận định, chỉ tồn tại có sáu bản sao thôi. Apophis đã đốt hết năm rồi. Đây là bản cuối cùng.”
JD hồ nghi săm soi đống giấy cói cháy khét. “Nếu quả thật Apophis đã trỗi dậy từ Cõi Âm cùng bao sức mạnh của hắn, tại sao hắn lại quan tâm đến vài cuộn văn tự làm gì? Không câu thần chú nào khả dĩ ngăn được hắn cả. Sao hắn đã không tiêu hủy cả thế giới này chứ?”
Chúng tôi bao tháng trời nay đã tự hỏi mình cùng một câu hỏi ấy.
“Apophis sợ cuộn văn tự này,” tôi nói và hy vọng mình nói đúng. “Chắc là có gì trong đấy giữ cái bí mật để đánh bại hắn. Hắn muốn đảm bảo là mọi bản sao đều bị tiêu hủy trước khi hắn xâm lăng thế giới này.”
“Sadie, chúng ta cần nhanh lên,” Carter giục. “Cuộc tấn công có thể xảy ra bất cứ lúc nào.”
Tôi bước gần hơn đến cuộn giấy. Cuộn văn tự dài chừng hai mét và cao nửa mét, chi chít những dòng chữ tượng hình và tranh ảnh minh họa đầy màu sắc. Tôi đã trông thấy cả đống cuộn văn tự như thế này mô tả cách đánh bại Hỗn Mang, cùng những lời chú nhằm ngăn con rắn Apophis không ăn lấy thần mặt trời Ra trong chuyến đi mỗi đêm của ông ta xuyên ra Cõi Âm. Người Ai Cập Cổ Đại cứ bị ám ảnh luôn với đề tài này. Cả một đám vui tươi, những người Ai Cập ấy.
Tôi có thể đọc được chữ tượng hình – một trong nhiều tài năng đáng ngạc nhiên của tôi – nhưng cuộn giấy này đọc hiểu khó lắm thay. Mới thoạt nhìn, không có gì cho tôi thấy là sẽ có ích. Chỉ có những đoạn mô tả bình thường về Dòng Sông Đêm, nơi con thuyền của thần Ra lội xuống. Đã từng ở đó rồi, cảm ơn nhé. Có những mách nước về để làm sao xử lý đủ thứ quỷ dữ Cõi Âm. Giết chúng. Mặc áo phông.
“Sadie này?” Carter gọi. “Có gì không?”
“Chưa biết,” tôi càu nhàu. “Chờ em một lát.”
Tôi thấy khó chịu quá khi ông anh mọt sách của mình lại là pháp sư chiến trận, trong khi tôi đây này lại được cho phải là kẻ đọc phép thuật đại tài. Tôi còn không có nổi kiên nhẫn để đọc tạp chí kia mà, chứ đừng nói gì đến mấy cuộn văn tự mốc meo.
Cô sẽ không bao giờ hiểu nó đâu, bản mặt trên tường đã cảnh báo trước. Cô cần sự giúp đỡ của tôi.
“Chúng tôi sẽ cần phải mang nó theo,” tôi quyết. “Tôi chắc mình sẽ nghĩ ra thôi với thêm một chút –“
Khu cao ốc lắc lư. Con Khufu ré lên nhảy phóc vào vòng tay khỉ đầu chó vàng. Đàn cánh cụt của Felix rốt rít lạch bà lạch bạch.
“Nghe như là-“ JD Grissom lấy lại thăng bằng. “Một vụ nổ phía bên ngoài. Buổi tiệc!”
“Đánh lạc hướng đấy, Carter khuyến cáo. “Apophis đang cố lôi kéo hàng phòng thủ của chúng ta rời xa khỏi cuộn văn tự.”
“Chúng đang tấn công bằng hữu của tôi,” JD nói giọng nghèn nghẹn. “Vợ tôi.”
“Đi đi!” tôi bảo. Tôi quắc mắt nhìn anh mình. “Chúng ta có thể lo cho cuộn văn tự. Vợ của JD đang gặp nguy đấy!”
JD bắt chặt tay tôi. “Lấy nó đi đi. Chúc may mắn.”
Ông ta bỏ chạy ra khỏi phòng.
Tôi quay lại vật trưng bày. “Walt, anh có thể mở được hộp này không? Chúng ta cần phải ra khỏi đây nhanh-”
Tiếng cười độc ác tràn ngập căn phòng. Một giọng nói khô khốc, nặng nề, trầm đục như vụ nổ hạt nhân, vang dội quanh chúng tôi: “Ta không nghĩ thế đâu, Sadie Kane à.”
Da dẻ tôi có cảm giác như đang biến thành giấy cói giòn tan. Tôi nhớ cái giọng này. Tôi nhớ ở gần Hỗn Mang cảm giác thế nào, như thể máu tôi hóa thành lửa, từng chuỗi từng chuỗi AND trong tôi tháo bung ra.
“Ta nghĩ ta sẽ tiêu diệt mi cùng lũ canh giữ cho Ma’at,” Apophis nói. “Phải rồi, sẽ vui thú lắm đây.”
Ngoài lối vào phòng, hai con nhân sư đầu cừu quay lại. Chúng đứng kề vai, chắn hết lối ra. Lửa bốc thành ngọn cuộn lên từ lỗ mũi của chúng.
Bằng giọng của Apophis, chúng đồng thanh: “Không kẻ nào sống sót rời khỏi đây. Tạm biệt nhé, Sadie Kane.”
Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 3 - Bóng Rắn