Nếu mặt biển mãi mãi bình lặng, chắc chắn những thủy thủ tài ba sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời.

Ngạn ngữ Anh

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Vu Duy
Upload bìa: Vu Duy
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 48
Cập nhật: 2020-12-23 17:01:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Truyện Thứ Nhất - Mười Ba Giờ Định Mạng
iữ chức vụ quan trọng trong guồng máy chánh quyền, và lợi dụng chức vụ này để cung cấp tin tức, tài liệu điệp báo cho địch, như vậy danh từ chuyên môn Anh ngữ gọi là "defection in place".
Dịch nôm na và ngô nghê là "bội phản tại chỗ". Dịch thoát nghĩa (mặc dầu không đúng hẳn) là nội-tuyến.
Nội-tuyến hiện giữ vai trò to lớn trong cuộc chiến tranh nóng cũng như lạnh giữa các phe trên thế giới.
Đặc ký "13 giờ định mạng" sau đây thuật lại câu chuyện có thật trăm phần trăm về một nội-tuyến lỗi lạc, đại tá Rết (Alfred Redl) của quân đội Áo trước đại chiến thứ nhất.
Câu chuyện xảy ra năm 1913. Nội-tuyến Rết bị sa lưới chỉ vì ưa con số 13. Và từ khi bại lộ đến khi từ giã cõi đời chỉ có 13 giờ đồng hồ, 13 giờ định mạng...
Những năm mở đầu thế kỷ 20 là những năm đen tối nhất ở châu Âu, các cường quốc hồi ấy, Đức, Pháp, Anh, Nga, và Áo, đều ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Trừ Pháp, các cường quốc vừa kể đều theo chế độ quân chủ. Nước Áo hồi ấy gồm cả một phần Tiệp khắc, có thêm thủ đô Praha (Prague).
Rết là lãnh tụ điệp báo chuyên nghiệp. Năm 1907 ông là nhân vật điệp báo số một của Áo. Nhưng ông cũng là điệp viên của Nga. Hồi ấy, Nga chưa phải là Nga sô. Nga cũng chưa có KBG hoặc RU như ngày nay. Cơ quan thu dụng Rết là Okrana (Okhrannoyé Odelenié). Okrana hoạt động khá hữu hiệu.
Năm 1883, điệp viên Okrana đã qua Hoa kỳ, bí mật theo dõi những phần tử chống Nga-hoàng. Bằng chứng về sự hữu hiệu của Okrana: một bản phúc trình đề ngày 1-5-1904 đã miêu tả rành mạch là Sít-ta-lin, người sẽ nắm vận mạng nước Nga sau ngày Lênin chết, có bàn chân trái bị bẩm tật, ngón thứ nhì và ngón thứ ba dính vào nhau bằng một mảng da.
Rết chết vì đàn bà. Cuộc đời Rết đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại các trường gián điệp hầu lưu ý khóa sinh đến sự nguy hiểm của nội-tuyến, sự nguy hiểm của... đàn bà.
Bạn đọc quen thuộc của loại truyện gián điệp sống động — như tủ sách Z.28 — chắc sẽ hài lòng. Vì những tình tiết có thật về đại tá Rết cũng ly kỳ không kém những tình tiết được tưởng tượng.
I.
5 giờ sáng.
5 giờ sáng là giờ bắt đầu thức giấc của những thành phố lớn sau một đêm dài mê mệt. Buổi tỉnh ngủ của thành phố thường được đánh dấu bằng những đoàn xe hơi chở hàng từ ngoại ô rầm rộ phóng qua đại lộ tráng nhựa mênh mông, rực rỡ ánh đèn nê-ông muôn mầu, và những ngã tư gắn đèn giao thông đỏ vàng hấp háy liên hồi. Du khách ở bên trong đại lữ quán lộng kiếng trong suốt, được điều hòa khí hậu, lên xuống bằng thang máy điện tử cũng lục tục thức dậy để xuống xe "ca" ra phi trường, lên chuyến máy bay phản lực thương mãi cất cánh sớm nhất trong ngày.
Tuy vậy 5 giờ sáng hôm ấy tại Praha (Prague) bắt đầu thức giấc lại không có những đoàn xe hơi chở hàng, những du khách sửa soạn đáp máy bay phản lực, những đại lữ quán trang bị tiện nghi tối tân. Lên, xuống, người ta còn phải dùng cầu thang xi-măng. Dọc đường cũng không có đèn nê-ông.
Vì năm ấy là năm 1913, trước thế chiến thứ hai 26 năm. Praha chưa là thủ phủ của Tiệp khắc cộng sản. Praha còn là một thị trấn của hoàng gia Áo quốc. Đời sống chẳng có gì đặc sắc, ngoại trừ sự đặc sắc của đàn bà. Nhưng đàn bà hồi ấy chưa biết sửa mũi cao, mổ mắt thành hai mí, cặm lông nheo giả, vẽ mắt bằng chì xanh, và nhất là đệm mông cao su mút, bơm ngực nở với chất si-li-côn để đánh lừa giống đực...Và dĩ nhiên là đàn bà chưa biết nghệ thuật mồi chài hở ngực, hở đùi, hở rốn...
Cho dẫu phụ nữ Praha hồi ấy am tường những mánh khóe tuyệt đỉnh để chinh phục nam giới, lão Câm cũng không cần. Vâng, lão Câm không cần. Lão Câm không quan tâm đến sắc đẹp phái yếu. Đối với lão, đàn bà đẹp hay đàn bà xấu, đàn bà ngực nhọn hay đàn bà ngực lép cũng vẫn là đàn bà. Và đàn bà cũng chẳng khác đàn ông bao nhiêu...
5 giờ sáng.
Ngày 27 tháng 5 năm 1913.
Như thường lệ, mỗi đêm cứ đúng 5 giờ sáng là lão Câm lặng lẽ rời tòa báo Quốc gia về nhà 1. Phuơng châm của lão dường như là sự lặng lẽ. Lão không ra đường bằng cửa trước như mọi nhân viên. Mà là lùi lũi ra bằng cửa sau, một cánh cửa nhỏ xíu, ọp ẹp, nằm giấu phía sau thân cây sồi. Cây cổ thụ này đứng sừng sững trên vỉa hè từ nhiều trăm năm nay, cành lá luôn luôn xum xuê thiết tưởng cả một trường học ở gần đấy gồm mấy trăm cậu bé xếp hàng phía dưới cũng không sợ mưa nắng.
Trời mùa hạ, dầu là sáng tinh sương, phố sá đầy ắp sương mù, nên không khí có vẻ oi bức. Nhưng lão Câm lại co ro bước ra đường. Lão đặt đế giầy thật nhẹ, như thể nền đường được làm bằng vật ròn. Và, như thường lệ, lão đội cái mũ nỉ sùm sụp, bên nách cặp tờ báo mới ra khỏi máy in còn thơm mùi giấy và mùi mực, lão tạt qua đường đút đầu vào cái hẻm nhỏ nằm sau những ngôi nhà cao thấp và to nhỏ không đều.
Lão Câm là người gác gian của tòa báo. Lão đến sở đúng 5 giờ chiều, và rời sở đúng 5 giờ sáng. Nhiệm vụ của lão là canh phòng ban đêm, ngăn ngừa kẻ lạ đột nhập tòa báo. Kể ra, công việc khá nhàn hạ, tòa báo không phải là nhà hàng bán thức ăn ngon hoặc tiệm kim hoàn mà sợ gian phi thăm viếng, báo chí hồi ấy được nhà cầm quyền chiếu cố chặt chẽ, tin tức bị kiểm duyệt nên mấy trang in ra mỗi buổi sáng chỉ gồm những tai nạn vặt vãnh và những biến động ở bên ngoài biên giới không liên quan đến Áo quốc. Lão Câm bắc cái ghể đẩu gần cái máy in lớn nhất, ngồi bó gối nhìn những ống trục cao su, lăn mực và liếm giấy quay đều, cặp mắt bâng khuâng. Lão không trò truyện với ai. Lão không hề cười lớn. Song mọi người trong tòa báo đều có cảm tình với lão. Có lẽ vì lão không làm ai mất lòng, và xía vào công chuyện riêng của kẻ khác
Lão Câm làm gác gian trong tòa báo Quốc gia từ một năm nay. Công nhân chạy máy ban đêm không biết lý do lão được thu nạp, chỉ biết là đột nhiên lão xuất hiện sau khi người gác gian cũ bị chết đuối trên con sông lớn chạy ngang thành phổ. Lão không mắc tật câm, lão nói năng khá lưu loát và chín chắn, người ta đặt hỗn danh lão Câm vì lão hà tiện ngôn ngữ, hà tiện đến mức ai cũng có thể lầm là lão cấm khẩu. Lão chỉ cất tiếng mỗi khi thấy cần thiết. Và giọng nói của lão lại nhỏ nhẹ, rụt rè như giọng con gái ru rú trong phòng the lần đầu bước chân vào đời.
Lão Câm trạc 45, 50 gì đó, lẽ ra gọi bằng ông mới đúng, mọi người dùng tiếng lão vì lão đã già trước tuổi. Lão ghét đàn bà đã đành, lão còn ghét cả cách làm dáng, thậm chí lão quên cả hớt tóc, chải đầu và... giặt quần áo nữa...
Lão Câm đi được nửa con hẻm thì dừng lại.
Lão nghển cổ nhìn lên lầu ba của căn nhà bên trái phía sau một cây sồi lớn. Lầu ba của căn nhà cũ xưa này có hai khung cửa sổ. Cả hai đều mở. Và chỉ mở một cánh. Cánh cửa bên vẫn đóng, ở trong phòng hắt ra một ánh đèn vàng lờ mờ.
Lão Câm nhún vai quẹo sang bên phải, trở ra đường lớn. Praha là thị trấn có rất nhiều gác chuông nhà thờ. Qua màn sương trắng, tháp chuông cao lêu nghêu của nhà thờ thánh Vít, nhà thờ lớn nhất, vươn thẳng như mời mọc, và thách thức lão Câm.
Lão Câm rẽ vào mái hiên tranh tối tranh sáng, lục túi lấy thuốc lá. Lão chuyên hút thuốc rê, hút liên tu bất tận, hút nhiều khi cháy đỏ quần áo. Nhưng từ khi rời tòa báo đến giờ lão chưa hề hút. Và thay vì rút ra cái bao da láng mềm, đựng thuốc rê và xấp giấy quyển mỏng dính để vấn thành điếu, lão Câm lại thưởng thức một điếu thuốc thơm đàng hoàng. Lối quẹt diêm của lão cũng nhanh nhẹn chứ không chậm chạp như những khi lão mồi lửa cho bạn đồng nghiệp ở tòa báo. Lão ngửa cổ rít một hơi dài.
Trong khi ấy, lão kín đáo nhìn phía sau. Lão có cặp mắt mơ màng, như thể nhà thơ đang kẹt vận, nhưng trong khi ấy cặp mắt mơ màng của lão lại lóe sáng, xuyên thủng màn sương.
Đường hẻm không có ai. Lão cười mỉm, thả bộ trên vỉa hè lót gạch lồi lõm. Được một quãng, lão Câm dừng lại. Chưa hết, lão còn đi vòng hai con hẻm quanh co khác trước khi quay lại căn nhà cũ xưa có hai khung cửa sổ đóng mở trên lầu ba.
Nhanh nhẹn lão Câm trèo lên bậc thềm khá cao và xô cửa. Cửa nhà chỉ khép hờ nên lão mở ra dễ dàng. Dáng điệu quen thuộc, lão Câm bước qua bộ xa-lông. Cầu thang xi-măng ở góc nhà, bước chân của lão Câm êm như ru. Lão trèo cầu thang từ từ, hơi thở điều hòa, điếu thuốc thơm phì phèo thơm phức đã bị lão giật khỏi miệng, dẫm nát dưới đế giầy từ nãy.
Trong chớp mắt, lão Câm đã lên đến lầu ba, và gõ cửa căn phòng đối diện cầu thang. Bên trong có tiếng:
- Cám ơn. Sáng nay tôi không uống cà-phê.
Lão Câm đáp gọn:
- Vậy, uống la-ve nhá?
Nói đoạn, lão Câm tủm tỉm cười một mình. Rõ khỉ, thiếu gì mật khẩu mà thượng cấp lại bắt lão dùng những tiếng vớ vỉn như "cà-phê, la-ve"...
Nhưng lão lại cảm thấy khoan khoái. La-ve là món uống lừng danh ở Áo, dân nhậu ở xa chỉ nghe nhắc đến cũng rệu nước miếng. Lão cũng có duyên nợ với la-ve, ban đêm lão không dám uống vì sợ bị nghi ngờ, song ban ngày thì tha hồ, lão nốc hết chai này qua chai khác, và càng uống la-ve lão càng tỉnh.
Lão Câm đang tủm tỉm cười một mình với mớ ý nghĩ rí rỏm trong đầu thì cửa phòng hé mở, và một người đàn ông trung niên gày rom rom, cặp mắt kiếng đen sì che gần nửa mặt ló đầu ra, giọng thân mật nhưng khô khan:
- Vào đi.
Căn phòng không được trang hoàng gì cả, ngoại trừ cái bàn gỗ vuông và hai cái ghế gỗ mỏng mảnh. Người đàn ông trung niên chỉ ghế cho lão Câm ngồi. Trên bàn đã có một đống vỏ chai la-ve, và một ly đựng la-ve vàng rộm còn sủi bọt. Lão Câm rót thêm cho thật đầy rồi nâng ly lên miệng, uống ừng ực. Gã trung niên hỏi:
- Đúng là đại tá Rết bị xử bắn không?
Lão Câm lấy vạt áo lau những giọt bia đọng trên mép:
- Thưa đúng. Lệnh của đại tướng tổng tư lệnh quân đội Áo là xử bắn Rết. Tuy nhiên, Rết đã yêu cầu được tự xử.
- Tin này được đăng trên báo?
Lão Câm trải tờ nhật báo vừa lấy khỏi nhà in trên bàn:
- Thưa vâng. Nhưng vì sở kiểm duyệt hoạt động quá gắt gao nên nhà báo chỉ dám lặp lại tin Rết tự sát bằng súng trong một phút quẫn chí. Họ ca tụng Rết là võ quan cao cấp có tài, có đức, từng lập nhiều công trạng trong ngành điệp báo, đồng thời họ cải chính những tin đồn cho rằng Rết là kẻ phản quốc đã lén bán tài liệu tối mật cho nước Nga...
- Tại sao họ lại cải chính?
- Đó là một cách loan tin khôn khéo và an toàn. Họ nói thật thì sợ ngồi tù, nên họ nghĩ ra một mánh lới mà sở kiểm duyệt không làm gì nổi, ấy là loan tin đúng rồi cải chính tức thời.
- Tờ báo lấy tin này ở đâu?
- Thưa, do sự tình cờ trong một trận đá banh..
- Đá banh?
- Vâng, trận đá banh chiều chủ nhật cách đây hai hôm giữa đội Praha và đội Viên (Vienne). Đội Praha nắm chắc phần thắng, nên hầu hết khán giả đều đánh cá đội Viên thua, không ngờ...
- Hừ... cả anh cũng thích báo cáo dài giòng nữa ư? Đá banh rồi làm sao? Vụ đại tá Rết liên quan gì đến một buổi túc cầu và sự đánh cá ăn thua của đám khán giả thích đỏ đen?
- Thưa, liên quan một cách mật thiết. Số 1 thủ quân của đội Praha còn là phụ tá chủ bút của nhật báo Quốc gia.....
- À, à...
- Thưa, sự tiên đoán của khán giả đã trật lất hoàn toàn. Đội Praha bị đá thủng lưới 2 trái. Nguyên nhân là do hàng phòng vệ quá yếu. Giờ chót, Oác-ne 2 vắng mặt trên sân vì trường hợp bất khả kháng. Sự vắng mặt này làm mọi người phẫn nộ. Viên thủ quân lại càng phẫn nộ hơn ai hết. Đêm ấy, hắn hùng hổ đến nhà Oác-ne, dự định mắng cho một mẻ nên thân, và nếu cần tặng luôn vài ba trái đấm, nhưng không gặp. Viên thủ quân chờ đến khuya không thấy Oác-ne nên đành trở về. Cả đêm hắn không chợp được mắt, sáng tinh sương, hắn lò dò đến tìm Oác-ne lần nữa. Khi ấy, gã hậu vệ vừa về, mệt muốn đứt hơi.
Gã thủ quân nghe bạn trần tình mới bật ngửa. Thì ra, bạn hắn không dự cuộc đấu được vì bị quân đội triệu dụng. Gã hậu vệ làm nghề thợ khóa, gã là thợ khóa giỏi nhất ở Praha. Gã nai nịt gọn ghẽ, sửa soạn ra sân cỏ thì một nhóm sĩ quan cao cấp đậu xịch xe trước nhà. Bình thường một ông úy cà mèng đến thăm gã cũng xanh mặt, huống hồ lại là một ông tướng3. Ông tướng cho biết gã được bộ tổng tư lệnh mời đi Viên để mở một ổ khóa kiên cố.
- Trong nhà riêng của đại tá Rết?
- Dạ. Rết có một căn nhà riêng ở Viên, trong đó kê một tủ sắt vô cùng kiên cố. Rết chết từ đêm trước, nghĩa là đêm thứ bảy rạng sáng chủ nhật, chuyên viên của quân đội hì hục mở mãi không ra, họ đành nhờ đến tài khéo tay của gã thợ khóa kiêm hậu vệ đội banh Praha.
- Gã thợ khóa có nói trong tủ két của Rết đựng những gì quan hệ không?
- Thưa, gã cũng mất khá nhiều thời giờ mới mở nổi. Rết là lãnh tụ điệp báo nên rất thận trọng, tủ két được chế bằng thép dầy, và gắn ổ khóa đặc biệt, phải nổ mìn mới phá vỡ được, nhưng nếu nổ mìn thì cháy hết tài liệu đựng bên trong, bộ tổng tư lệnh biết là triệu dụng gã thợ khóa thì khó giữ nổi bí mật song không còn cách nào khác. Khi mở ra, gã thợ khóa chỉ thấy toàn giấy tờ đóng dấu đỏ tối mật, và rất nhiều bản đồ tham mưu. Ngoài ra còn một số giấy tờ bằng chữ Nga.
- Rết là thằng ngu. Dặn nó hoài mà nó chẳng thèm nghe. Anh có biết những giấy tờ bằng chữ Nga này nói gì không?
- Thưa không. Gã thủ quân là nhà báo nên cũng hỏi gặng, song tên thợ khóa đáp rằng tủ két vừa mở là gã bị các sĩ quan đuổi ra phòng ngoài. Tất cả giấy tờ đều được chở về bộ tổng, có binh sĩ võ trang hộ tống, gã thợ khóa bị lục soát tỉ mỉ, và sau đó người ta cấm gã được bép sép.
- Nhưng gã vẫn bép sép.
- Thật ra, gã định ngậm hột thị, nhưng vì gã thủ quân một mực nghi oan cho gã ăn tiền của đội banh Viên nên kiếm cớ lánh mặt cho đội nhà bại trận, danh dự và tự ái của gã bị va chạm nặng nề, gã đành phải mở miệng. Không dè gã thủ quân lại là nhà báo săn tin rồi cứ thế gã thợ khóa vô tình tiết lộ hết bí mật này đến bí mật khác.
Lão Câm ngừng nói, vớ ly la-ve vừa rót đầy trên bàn uống cạn một hơi. Rồi lão ngước cặp mắt kèm nhèm giả mạo lên nhìn thượng cấp, giọng pha vẻ nghiêm trọng:
- Thưa đại tá, sở dĩ tôi xin được gặp đại tá sáng nay vì gã thợ khóa tiết lộ một điều đáng chú ý. Trong khi gã bị đuổi ra phòng ngoài thì hai ông tướng bàn tán với nhau bằng tiếng Đức, đinh ninh gã là người Tiệp, không hiểu tiếng Đức. Họ nói phải làm một mẻ lưới rộng lớn và bất ngờ, hốt hết điệp viên Okrana ở đây.
Gã đàn ông trung niên mà lão Câm gọi tên một cách kính cẩn là đại tá chắt lưỡi, hai tay chắp sau đít, đi đi lại lại trong phòng:
- Biết rồi, tôi cũng định nói với anh như vậy, Một nguồn tin cho biết chúng ta có thể bị lộ. Vì vậy, sau cuộc gặp gỡ này, anh phải rút ngay vào bí mật. Thượng cấp chỉ cho phép anh rút vào bí mật, chứ chưa cho phép hồi hương, vì tình hình đang biến chuyển nhanh chóng, anh đã phục vụ đắc lực cho Tổ chức, anh còn phải ở lại hải ngoại để tiếp tục nhiệm vụ. Nhân tiện, tôi cũng thông báo với anh hai tin mừng:
- Thưa, đại tá vừa nhận được tin về vợ con tôi?
- Đúng. Thứ nhất là tin nhà. Vợ anh đã khỏi bệnh. Đứa con lớn của anh vừa thi đậu.
- Cám ơn đại tá.
- Còn tin thứ hai. Trung ương nhiệt liệt khen thưởng anh, và đặc cách vinh thăng anh lên thiếu tá. Nào, thiếu tá chìa tay ra cho tôi bắt. Hà hà... bộ tổng tư lệnh Áo muốn bắt nhân viên Okrana, nhưng họ lại không biết rằng những nhân viên chỉ huy Okrana tại Áo là tôi và anh đang sống nhởn nhơ trước mắt họ, anh là gác gian tòa báo Quốc gia còn tôi là ông chủ tiệm làm bánh mì quèn, ha ha.... ha ha...
Viên đại tá gián điệp Nga đã có đủ lý do để cười nhạo quân đội Áo quốc. Vì sự phản bội của Rết đã làm ngai vàng nhà vua lung lay trầm trọng để rồi đại chiến thế giới thứ nhất bùng nổ, vương quốc bị chia cắt tan hoang. Bộ tổng tư lệnh Áo bàng hoàng như bị sét đánh trước những đều tìm thấy trong tủ sắt của đại tá Rết nên quyết định giữ kín nội vụ bằng mọi giá. Ngay cả nhà vua cũng không được báo cáo về sự phản bội của Rết. Nhưng Okrana đã biết.
Ngoại trừ những mẩu tin lặt vặt và rụt rè đăng trên báo địa phương, không một chi tiết đáng kể nào được thẩm lậu, dư luận hoàn toàn mù tịt. Phải chờ đến sau thế chiến đế quốc Áo xụp đổ và bị xâu xé người ta mới biết sự thật.
Sự thật này là hơn nửa triệu người Áo đã chết trong khói lửa do sự phản bội của Rết. Nhưng Rết là ai?
II.
Những tài liệu còn lại trong thư khố an ninh cho thấy Rết là một quân nhân có đặc tài, giỏi tổ chức, điều khiển bén nhọn và rất giàu nghị lực. Ông có năng khiếu về tình báo nên sau khi gia nhập quân đội ông được biệt phái vào Phòng Nhì.
Cuộc đời binh nghiệp của Rết bay cao như diều gặp gió, trong một thời gian ngắn ông trèo lên chức vụ chỉ huy. Từ năm 1900 đến 1905 Rết làm phó giám đốc tình báo và phản gián Áo quốc. Và từ 1907 đẽn 1911, Rết làm giám đốc. Không khí châu Âu hồi ấy cực kỳ khẩn trương, Áo là một vương quốc rộng mênh mông và hùng hậu về mọi mặt, nên chức vụ giám đốc tình báo và phản gián đã tạo cho Rết những uy quyền lớn.
Kể ra Rết xứng đáng làm giám đốc. Vì dưới quyền Rết guồng máy điệp báo của Áo đã trở thành một tổ chức hiện đại và đắc lực. Và không riêng điệp báo Áo, điệp báo trên toàn thế giới đều thừa hưởng của đại tá Rết những phát minh tân kỳ. Văn phòng của Rết, cũng như của các phụ tá cao cấp đều được trang bị ống ảnh bí mật, khách vào phòng bị chụp hình kín đáo, giọng nói của khách cũng bị ghi vào đĩa. Ngày nay, chụp hình trộm hoặc ghi âm trộm là chuyện quá thường, chẳng cứ là chuyên viên điệp báo mới làm nổi, nhưng cách đây gần 70 năm, kỹ thuật nhiếp ảnh và thu thanh vẫn còn thô sơ thì sự bố trí của Rết phải được coi là những phát minh tân kỳ bậc nhất.
Rết còn nghĩ ra một phương pháp lấy dấu ngón tay thật tài tình. Sau vài lời đưa đẩy với khách, Rết chìa hộp thuốc lá bằng bạc mời khách rút thuốc. Hộp thuốc này được phủ một lớp mi-ni-om ở ngoài. Sau đó, vân tay của khách in lên trên mi-ni-om được chụp hình lại trong phòng thí nghiệm.
Trong trường hợp khách không hút thuổc, Rết sẽ kiếm cớ bận việc, chạy qua phòng bên, để lại trên bàn, ngay trước mắt và trong tầm tay của khách một xấp hồ sơ "tối mật" hoặc tấm hình đàn bà trần truồng nẩy nở và khiêu khích. Mỡ để miệng mèo, thử hỏi có mèo nào chịu ngồi bất động?
Rết được thăng đại tá và thuyên chuyển từ Viên đến Praha. Thiếu tá Ron (Maximilian Ronge), phụ tá của Rết được đôn lên thay thế. Ron giữ nguyên những sự sắp xếp của Rết được coi là hữu hiệu. Ron lạị thực thi những chương trình cải tiến do Rết dự liệu song phải đình hoãn vì thiếu phương tiện. Trong số những chương trình cải tiến này, vấn đề kiểm duyệt thư tín được nâng lên hàng đầu.
Việc kiểm duyệt được tiển hành hết sức bí mật. Mộl nhóm nhỏ nhân viên thân tín được thiếu tá Ron biệt phái đến Tổng nha bưu điện có nhiệm vụ mở đọc mọi thư từ, và đặc biệt là thư từ từ các vùng giáp biên gửi tới. Nhóm kiểm duyệt viên này đinh ninh việc mở đọc thư từ nhằm ngăn chặn và khám phá những vụ buôn lậu.
Chỉ có 3 người được biết lý do của việc kiểm duyệt. Trong vòng một năm trường, nhóm kiểm duyệt viên hoạt động bình thường, chẳng có gì đáng nói. Đột nhiên tháng 2-1913 họ thộp được hai bức thư khả nghi, đóng dấu một trạm bưu điện dọc biên giới phía đông Đức quốc, gần cận lãnh thổ Nga. Cả hai phong thư đều gửi cho một hộp thư lưu trữ tại tổng nha bưu điện Praha mang số 13. Trong thư không có một giòng chữ nào. Mà chỉ đựng tiền. Một phong đựng 8 ngàn đồng tiền Áo, phong thư thứ nhì đựng 6 ngàn 4.
Nội vụ được trình báo cho thiếu tá Ron và một hệ thống bẫy xập được thiết lập. Quầy thùng thư lưu trữ được đặt dưới sự theo dõi của các nhân viên mật vụ. Một nút chuông điện được gắn dưới quầy, ăn thông với bót cảnh sát kế cận, trong bót có hai nhân viên mật vụ luân phiên túc trực trong những giờ bưu điện mở cửa. Viên chức thùng thư lưu trữ có bổn phận bấm nút chuông báo tin trong trường hợp người thuê bao thùng số 13 xuất hiện và phải tìm mọi cách rềnh rang hầu hai mật viên có thể đến kịp.
Những giờ, những ngày nhạt phèo trôi qua người thuê bao thùng thư số 13 vẫn biệt mù tăm tích, hai mật vụ viên giết thời giờ bằng cách chơi bài và viết thư... tình, đinh ninh đương sự bị động ổ đã lẩn trốn.
Nhưng ngày 24-5, đúng 12 tuần sau ngày hệ thống chuông báo động được thiết trí tại quầy thùng thư lưu trữ thì một tiếng chuông ngắn reo vang trong bót cảnh sát. Cả tháng, cả buổi nó không chịu reo, đến khi hai mật vụ viên không có mặt nó mới reng reng. Khi ấy, một mật vụ viên mắc kẹt trong phòng vệ sinh. Mật vụ viên thứ hai cũng đang rửa tay.
Họ chạy xấp chạy ngửa đến sở bưu diện. Song đã quá chậm. Nhân viên phụ trách thư lưu trữ đã tìm cách hoạt động chậm hơn rùa bò nhưng người mang số 13 đã lãnh thư và biến dạng. Hai mật vụ viên phóng nhanh ra cửa, và chỉ kịp nhìn thấy một chiếc tắc-xi quẹo ở ngã tư. Họ không có phương tiện di chuyển, xe gắn máy cũng không có chứ đừng nói xe hơi, họ đành đứng chờ trước nha bưu điện. Hồi ấy là năm 1913, tắc-xi còn là đại xa xỉ phẩm, đâu có nhiều như bây giờ, nên hai mật vụ viên đợi hoài, đợi hoài mà những con đường trước sở bưu điện vẫn vắng tanh. Họ hy vọng một chiếc xe nhà nào đó xình xịch chạy tới, họ sẽ chìa thẻ hành nghề ra...chặn lại. song chỉ là hy vọng hão huyền. Cho dẫu họ có xe thì cũng là vô ích. Chậm rồi. Chậm quá rồi. Chiếc tắc-xi cao lêu nghêu sơn đen, bóp kèn toe toe đã chở số 13 thùng thư lưu trữ khỏi tầm mắt họ được đúng 20 phút.
20 phút, trời ơi, 20 phút quái ác... Hai mật vụ viên ngơ ngẩn nhìn nhau, tiu nghỉu như mèo cắt tai. Nửa giờ trước, họ hùng dũng tin tưởng bao nhiêu thì giờ này họ mềm xèo và chán nản bấy nhiêu. Nhớ đến lời dặn của viên thiếu tá giám đốc, họ sợ phát lạnh người, hàm răng đánh vào nhau cầm cập, mặc dầu trời tháng 5 ở Praha nóng toát bồ hôi. Thiếu tá Ron nổi tiếng nghiêm khắc đối với nhân viên, ông ta đã lặp lại nhiều lần là phải túc trực trong bót cảnh sát, hễ kẻ tình nghi đến phòng thư lưu trữ là ập ngay tới, không được chậm trễ. Con chim đã bay bổng, họ sẽ ăn làm sao, nói làm sao với thiếu tá Ron? Nhẹ ra thì tống xuất khỏi sở, không khéo còn bị bắt giữ và lôi ra tòa án về tội cẩu thả nghề nghiệp hoặc thông đồng với địch...
Nghề điệp báo vốn là nghề của sự may rủi, hai mật vụ viên rủi không theo kịp kẻ tình nghi tại sở bưu điện nhưng lại gặp may kinh khủng. Là vì sau gần nửa giờ dậm chân than vãn, họ nhìn thấy chiếc tắc-xi cao lêu nghêu sơn đen hồi nãy lò dò quay lại.
Họ vắt giò lên cổ chạy tới nơi xe đậu. Tài xế nhăn răng cười. Họ mừng đến nỗi họ muốn cười mà cười không được. Tài xế mở cửa xe, cả hai mật vụ viên đứng sững như trời trồng. Lát sau một nguời mới mở được miệng:
- Anh vừa lái ông khách hồi nãy đến đâu?
Tài xế xịu mặt khi thấy tấm chứng minh thư in dấu son, dán ảnh oai vệ của sở Mật vụ, Hắn đáp vâng, rồi chỉ tên một quán cà-phê nhỏ 5. Hai gã nhảy lên xe, dọc đường tài-xế đã xả hết tốc lực mà họ vẫn kêu chậm. Cũng may quán cà-phê này không lấy gì làm xa, đường phố ở Praha năm 1913 chưa có xe cộ đông đúc và đèn hiệu giao thông khệnh khạng, nên hai mật vụ viên của thiếu tá Ron đã đến nơi sau mấy phút đồng hồ.
Nhưng một lần nữa, hy vọng đã biến thành thất vọng. Tiệm cà-phê chỉ có lơ thơ một vài khách uống. Gã tài xế đi vòng các bàn, nhìn từng mặt, và sau cùng lắc đầu. Gần đó có một bãi đậu tắc-xi. Hai mật vụ viên hỏi chủ quán, được biết là ông khách có khuôn mặt và lối phục sức như họ miêu tả mới rời quán sau khi uống cà-phê và đi bộ lại bãi đậu tắc-xi.
Họ sửa soạn phóng lại bãi thì gã tài xế gọi giật và giúi vào tay họ một cái túi da nhỏ. Túi da này được dùng để đựng dao nhíp. Nó màu xám, nền da đã lên nước bóng loáng, chứng tỏ chủ nhân của nó đã mua từ lâu. Gã tài xế tưởng hai mật vụ viên bỏ quên. Xe chạy khỏi quán được một quãng, một trong hai mật vụ viên mới reo lên:
- Chắc chắn mình sẽ tóm được hắn.
Hắn lạc quan không đển nỗi quá đáng vì một tài-xế ở bãi đậu xe cho biết người khách từ quán cà phê đến đã gọi tắc-xi về lữ quán Kờ-lom-se (Klomser). Hai mật vụ viên kêu một nhân viên tiếp tân cuả khách sạn Kờ-lom-se ra hỏi thì được báo cáo là trong vòng 30 phút vừa qua có 4 ông khách mới. Nhân viên tiếp tân này được lệnh gõ cửa phòng của 4 người khách để hoàn trả cái túi da đựng dao.
Ngay khi ấy, một người đàn ông đứng tuổi mặc thường phục nhưng dáng diệu cứng nhắc, chứng tỏ là quân nhân chuyên nghiệp, từ cầu thang bước xuống phòng khách dưới nhà. Hai mật vụ viên ngồi thu hình trong góc, mỗi người cầm một tờ báo to tướng che kín mặt.
Người khách đưa chìa khóa phòng cho bồi. Như vậy có nghĩa là khách sắp đi. Người nhân viên tiếp tân khúm núm tiến lại, chìa cái túi da xám ra. Hắn chưa kịp nói thì khách đã à lên một tiếng. Người nhân viên tiếp tân vội hỏi:
- Thưa, quý ngài bỏ quên cái này.
Khách cười, cất cái túi da vào trong túi rồi nói:
- Vâng, cám ơn, cái túi này của tôi.
Mặt khách đang tươi roi rói bỗng sa sầm. Khách bước theo người nhân viên tiếp tân, giọng hơi mất vẻ bình thường:
- Này, ông bạn, ông bạn nhặt được cái túi này ở đâu đấy?
Người nhân viên tiếp tân đáp:
- Thưa một tài xế tắc xi mang lại khách sạn, nói là quý ngài bỏ quên.
- Tại sao y lại biết tôi bỏ quên?
- Thưa, tôi không được rõ.
- Người tài xế này còn ở đây không?
- Thưa không.
Khách khựng người, da mặt hơi xanh. Bản năng chuyên viên điệp báo vừa thức dậy trong lòng khách. Khách vẫn được coi là người khôn ngoan chín chắn. Lẽ ra khách không nên nhận là chủ nhân cái túi da dựng dao nhíp. Khách từng huấn luyện thuộc viên thận trọng để khỏi rơi vào cạm bẫy. Té ra sinh ư nghệ tử ư nghệ... khách đã đút đầu vào cạm bẫy do chính mình nghĩ ra.
Khách là đại tá Rết, xếp sòng tình báo và phản gián Áo quốc. Đại tá Rết vừa vô tình hạ bút ký vào bản án tử hình của mình.
Rết ra khỏi lữ quán, thờ thẫn như người mất hồn. Một mật vụ viên vứt tờ báo xuống đất, chạy bổ lại máy điện thoại. Thiếu tá giám đốc Ron chờ sẵn ở đầu dây. Sở Mật vụ đã được tin người thuê bao thùng thư lưu trữ số 13 đến lấy thư tại bưu điện trung ương. Giọng nói của thiếu tá Ron trào đầy xúc động khi gã mật vụ phúc trình rằng kẻ tình nghi là Rết. Thiếu tá Ron hỏi:
- Anh nói sao, người thuê bao thùng thư lưu trữ số 13 là ông Rết, ông đại tá Rết?
Gã mật vụ cung kính đáp:
- Thưa thiếu tá giám đốc, đúng là đại tá Rết.
- Đại tá Rết, nguyên giám đốc Sở?
- Thưa vâng.
- Tại sao anh dám chắc kẻ tình nghi là đại tá Rết?
- Thưa thiếu tá giám đốc, ngày trước tôi đã có lần làm việc trong văn phòng của đại tá Rết.
- Anh có biết lời nói của anh sẽ dẫn đến những hậu quả nào không?
- Thưa biết. Cho đến phút này, tôi vẫn còn bàng hoàng. Thoạt đầu, tôi không tin. Thưa thiếu tá giám đốc, tôi không dám tin. Bạn tôi cũng vậy. Sợ tôi bị quáng mắt, nhìn lầm, tôi hỏi nó thì nó cũng hỏi lại tôi là có phải đại tá Rết xếp cũ của bọn mình đấy không. Thưa thiếu tá... bây giờ chúng tôi phải làm gì?
- Anh phải bám thật sát.
- Thưa.....
III.
Thiếu tá Ron đã cắt điện đàm.
Hai nhân viên dưới quyền ông bàng hoàng là chuyện dĩ nhiên. Đến ông là cán bộ điệp báo chuyên nghiệp, trái tim được trui bằng thép, đời sống đã quen với quá nhiều biến cố bất ngờ, trái khoáy, mà còn bàng hoàng như bị đòn nốc-ao trên võ đài, huống hồ...
Ông ngồi lặng trước bàn gỉẩy. Ông không cắt điện đàm song tự nhiên bàn tay ông đặt cái máy xuống giá. Đến khi nhấc lên không nghe tiếng báo cáo của gã thuộc viên nữa ông mới sực nhớ là đã cắt điện đàm. Đại tá Rết, thượng cấp trực tiếp của ông hằng được ông khâm phục và kính nể, có thể làm tay sai cho địch ư?
Thiếu tá Ron châm hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Ông chỉ hút vài hơi rồi dụi vào đĩa đựng tàn. Tâm thần ông bị bối rối cực độ.Ông suy nghĩ giờ lâu rồi gọi điện thoại cho viên chủ sự phòng thư lưu trữ ở tại Bưu điện. Ông cần biết một chi tiết quan trọng trước khi quyết định.
- Muốn thuê bao thùng thư lưu trữ có phải làm đơn xin không?
Viên chủ sự đáp:
- Thưa có!
Thiếu tá Ron nhấn mạnh từng chữ:
- Vậy yêu cầu ông đích thân mang lá đơn của người thuê bao hộp thư số 13 lại văn phòng tôi. Mang lại ngay bây giờ. Tôi chờ.
Trống ngực đập thình thịch—điều ít khi xảy đối với thiếu tá Ron — viên giám đốc tình báo phản gián Áo quốc mở tủ sắt, và lấy ra một tài liệu tối mật. Tài liệu này là một bản dự thảo tổ chức phản gián do đại tá Rết tự tay viết. Chỉ có một bản duy nhất, đại tá Rết sợ lộ nên không đọc cho thư ký ghi chép, cũng không cho phép đánh máy và in lại. Đại tá Rết có một tuồng chữ viết hơi đặc biệt, ông thường chấm dấu i quá cao, chữ t của ông luôn luôn cụt thun lủn gần giống chữ i và đáng kể hơn nữa là chữ y và chữ g đều được viết thảo.
Thiếu tá Ron rút mù-soa chấm bồ hôi trán. Tờ đơn xin thuê bao gồm có nhiều đoạn viết tay. Ông đếm thấy nhiều chữ i, chữ t, chữ y, và chữ g được viết giống hệt như trong bản dự thảo tổ chức mang chữ ký chính thức của đại tá Rết.
Sợ hấp tấp nhìn lộn, thiếu tá Ron ngả lưng lim dim ngủ một lát. Rồi ông dùng kiếng lúp so sánh hai tuồng chữ trong đơn và trong bản dự thảo tổ chức. Không còn hồ nghi gì nữa, kẻ phản bội là đại tá Rết. Nếu Rết là nguời thuê bao hộp thư số 13 thì địch đã hiểu hết nội tình nước Áo. Những tai biến to lớn sắp sửa giáng xuống.
Thiếu tá Ron hối hả ra xe, đến trình diện đại tướng tổng tư lệnh. Những nhân viên đắc lực nhất của Sở được điều động cấp tốc để xiết chặt vòng vây quanh Rết.
Trong khi ấy, Rết đang tìm cách bỏ rơi hai mật vụ viên bám sát sau lưng như bóng với hình. Họ không đến gần Rết, họ chia nhau mỗi người một bên đường, luôn luôn giữ khoảng cách một trăm mét. Họ đi ép vào lề, không cho Rết nhìn thấy. Nhưng họ quên rằng Rết đã từng dậy họ, Rết từng dậy những người điều khiển họ, Rết là ông vua không ngai của làng điệp báo Áo quốc. Nên sự khôn ngoan của họ không lừa được con mắt tinh tế của đại tá Rết.
Ngay từ khi lỡ lời tại lữ quán, Rết biết là bị lộ. Song ông còn níu lấy một tia hy vọng mỏng manh. Phản gián chưa theo dõi ông, ông còn có thể đào tẩu. Ông giả vờ đứng lại, cúi xuống buộc dây giầy. Một thủ đoạn cũ rích. Ông nhìn thấy một mật viên. Rồi người thứ hai. Ông vừa gặp cả hai ngồi đọc báo say sưa trong lữ quán Kờ-lom-se.
Ông rẽ vào một con đường vắng để kiểm soát lại lần nữa. Vẫn hai gã mật vụ quen thuộc gõ bước đều đều trên nền gạch. Rết bèn áp dựng một chiến thuật khác. Cũng cũ rích. Song có nhiều triển vọng thành công.
Ông lấy một số giấy tờ trong mình ra, xé nhỏ thành miếng vụn, ông thả từ từ xuống đường. Mục đích của ông là nhử mồi hai gã mật vụ. Tham tài liệu chúng sẽ dừng lại để thu nhặt. Tội nghiệp cho Rết... cách đó không lâu, ông đã đích thân giảng dậy nhân viên về những mánh khóe thần sầu để phỉnh gạt địch trong khi bị địch bám sát. Một trong những mánh khóe này là xé vụn giấy tờ rồi vứt xuống. Ông căn dặn nhân viên đừng bao giờ dừng lại. Cứ phớt tỉnh, tiếp tục đi theo. Nếu cần, một người ở lại lượm giấy. Nhưng việc quan trọng vẫn là không lơ đễnh, dầu chỉ là lơ đễnh một tích-tắc đồng hồ. Hai mật vụ viên của thiếu tá Ron đã học thuộc bài. Họ không phụ công của giáo sư Rết. Nhưng họ đã giết điệp viên Rết...
Biết không thoát nổi, đại tá Rết đành loanh quanh một hồi rồi quay về lữ quán. Thật ra, ông cũng có hẹn với một người bạn. Tiến sĩ Pô-lắc, một luật sư lỗi lạc. Tiến sĩ Pô-lắc thường đảm nhiệm những hồ sơ liên quan đến các bị can là gián điệp bị truy tố trước tòa. Hai người sẽ dùng bữa tối với nhau.
Rết sắp sẵn trong óc một kế hoạch tinh vi, nếu vòng vây phản gián tỏ ra lỏng lẻo, ông sẽ bỏ trốn nội đêm nay, nhưng nếu ông hết lối thoát ông sẽ giả vờ mắc bệnh loạn trí và thất tình.
Thiếu tá Ron đã gài nhân viên ngay trong phòng ăn. Người bồi bưng thức ăn cho hai người cũng là sĩ quan phản gián. Ron chọn toàn nhân viên tân tuyển nhưng kinh nghiệm, vì sợ Rết quen mặt.
Tiến sĩ Pô-lắc kinh ngạc khi thấy bạn có gương mặt buồn như mặt đưa đám tang. Không đợi Pô-lắc hỏi han, Rết đã thở dài não ruột rồi bằng giọng xúc động kể lại những nỗi sầu đau tưởng tượng. Rết không quên nhấn mạnh đến bệnh tiêu tiền không đếm của mình, và những cô gái có sắc đẹp quyến rũ đã làm ông ta điêu đứng. Dĩ nhiên Rết không thú tội phản bội, làm gián điệp cho Nga-la-tư. Sau cùng, tiến sĩ Pô-lắc tỏ vẻ ái ngại, khuyên bạn nghỉ ngơi một thời gian. Rết toan nhờ Pô-lắc đưa ra khỏi thành phố song viên tướng tổng tư lệnh quân đội Áo đã hạ lệnh cho thiếu tá Ron đến bắt. Cùng đi với Ron còn có 3 sĩ quan cao cấp thân tín khác.
Pô-lắc được mời ra trước khi Ron xuất hiện. Nhưng Ron chưa nói gì. Ông kéo ghế ngồi; đại tá Rết thấy Ron từ xa, bèn giả vờ tản bộ cho tiêu cơm. Nhân viên Phản gián bám sát Rết từng bước. Biết Phản gián chỉ xiết chặt vòng vây, mặc cho ông tự xử, chứ không bắt giữ. Rết bèn trở về phòng.
Còn 30 phút nữa đến nửa đêm.
Không khí hoàn toàn im lặng. Ngoại trừ tiếng giầy của Rết và tiếng giầy của đám nhân viên Phản gián. Rết tra chìa khóa vào ổ rồi quay lại:
- Các chú không nên đứng bên ngoài. Vào trong phòng tôi có đủ đồ uống và ghế ngồi nghỉ chân.
Nhân viên Phản gián đáp:
- Xin đại tá tha lỗi. Chúng em chỉ được phép canh gác bên ngoài.
- Canh gác để làm gì?
- Thưa, chúng em không biết.
- Nhưng tôi biết, tôi biết. Thiếu tá Ron hiện ở đâu?
- Thưa, thiếu tá dặn là khi nào đại tá mời thì chúng em sẽ trình về bằng điện thoại.
- Vậy, các chú gọi ngay cho thiếu tá Ron là tôi muốn gặp tại phòng tôi.
Rết thở dài rồi khép cửa phòng.
IV.
Rết không phải chờ đợi lâu. Vì trong khoảng khắc đã có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa đều đặn, rắn rỏi mà Rết biết là của thiếu tá Ron. Hồi Ron còn làm phụ tá, đại tá Rết đã chú ý đến lối gõ cửa của Ron, bộc lộ tâm tính ngăn nắp và cương nghị, hai yếu tố quan trọng đối với nghề điệp báo.
Rết thường khen Ron và lặp đi lặp lại nhiều lần: "Ron ơi, anh có nhiều đức tính nghề nghiệp hơn tôi nhiều, anh chỉ còn thua tôi về kỹ thuật, nhưng kỹ thuật rất dễ học, trong một thời gian ngắn, anh sẽ bằng tôi, rồi sẽ vượt xa tôi, tôi rất sung sướng được có một người phụ tá như anh. Và mai đây, khi anh ngồi ở ghế giám đốc này thay tôi, bọn nhân viên điệp báo của địch sẽ thất điên bát đảo...".
Lời nhận định của Rết đã thành sự thật. Rết đang thất điên bát đảo trước tài ba và mưu lược của viên cựu phụ tá.
Rết nhìn ra cửa, cố lấy giọng điềm tĩnh:
- Cứ vào.
Rết đã uống non nửa chai rượu mạnh. Bình thường, ông là đồ đệ của Lưu Linh, nhưng có thói quen uống từ từ, mỗi lúc một hớp nhỏ, chứ không nốc cả li, và chưa bao giờ khiêng luôn nửa chai trong vòng 5,10 phút đồng hồ. Thật ra, ông uống rượu mà như uống nước lã vô vị, ông uống rượu mà không biết là mình uống rượu nữa. Thần trí ông đang bị xúc động mạnh mẽ, ông ngồi yên trong ghế, tay vẫn cầm chai rượu.
Thiếu tá Ron bước vào, thân hình vạm vỡ thu gọn trong bộ quân phục cắt khéo, ủi thẳng tắp. Ron vẫn phục sức chững chạc như dạo nào còn làm phó giám đốc, nhưng nụ cười bất hủ trên môi đã biến hẳn. Ron rập hai chân vào nhau, giơ bàn tay lên trán, chào kính cẩn. Rết tiếp tục ngồi yên không đứng dậy. Cùng đi với Ron có hai thiếu tá lạ mặt. Họ khép cửa cẩn thận, và đứng ngay sau cửa, không tiến sâu vào. Mặt người nào cũng lạnh lùng.
Rết nói:
- Tôi không còn là đại tá nữa. Tôi cùng không còn là Rết nữa. Tôi đã thành kẻ có tội, giờ đây tôi đã sẵn sàng.
Thiếu tá Ron đáp:
- Anh vẫn là đại tá Rết, thượng cấp mà tôi hằng khâm phục tài ba và đức độ. Tôi đã trình lên đại tướng tổng tư lệnh, và đại tướng cho phép tôi thương lượng với anh trên tình chiến hữu từng hợp tác với nhau trong nhiều năm và trên tình bạn thắm thiết.
- Tôi không còn xứng đáng là chiến hữu, là bạn thân của anh nữa. Tôi đã phản bội. Tôi là thằng khốn nạn.
- Anh đang còn có cơ hội chuộc tội với quân đội, chuộc tội với gia đình, chuộc tội với Tổ quốc.
- Hiểu rồi. Đại tướng sẽ không truy tố tôi ra tòa?
- Hồi anh điều khiển sở Mật vụ, nhiều trường hợp tương tự đã xảy ra. Anh thường nói với tôi là truy tố chẳng có lợi gì cả. Chỉ có địch là được hưởng lợi. Ra tòa, chắc chắn anh sẽ bị kết án tử hình. Tử hình theo tôi hiểu không phải là điều anh sợ, anh là con người can đảm, có can đảm làm, anh có can đảm gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên, điều anh sợ, điều mà tôi cũng sợ như anh, là những hậu quả sẽ xảy đến cho gia đình anh, cha mẹ anh, và nhất là thanh danh anh. Nếu câu chuyện bị vỡ lở, tên tuổi của đại tá Rết sẽ bị vùi dập xuống vũng bùn. Lá bạn anh, tôi có bổn phận phải...
- Cám ơn anh. Đại tướng muốn biết tất cả những hoạt động phản bội của tôi trong thời gian tôi lãnh lương của do thám Nga-la-tư?
- Vâng. Càng gồm nhiều chi tiết càng tốt. Đại tá đã trao cho họ những tài liệu nào, và trao cho ai. Và...
- Hiểu rồi. Tôi xin cố gắng làm đại tướng và làm anh thỏa mãn. Sau khi anh ra khỏi phòng tôi sẽ bắt đầu viết bản thú tội. Còn về giấy tờ, tài liệu xin anh mở cái tủ sắt cất trong nhà tôi ở Praha. Anh sẽ đảm bảo danh dự tôi được toàn vẹn?
- Tôi sẽ cố gắng hết sức, tuy nhiên, tôi cũng xin nói trước là giữ kín được mãi không phải là dễ. Sau khi anh chết, báo chí sẽ được lệnh loan tin trong thời gian qua, anh làm việc quá sức nên thần kinh bị căng thẳng, phải dùng thuốc trợ lực, và trong một phút quẫn chí đã tự tử. Gia đình anh sẽ được tiếp tục lãnh lương, nhà cửa, tiền bạc của anh sẽ không bị tịch thu, nhưng tôi cũng có nhiệm vụ nói rõ với anh là trong bản trần tình anh phải ghi hết, ghi thật, nếu không đại tướng sẽ không cứu xét.
- Hiểu rồi. Phiền anh chuyển lời chào vĩnh biệt của tôi lên đại tướng. Tôi thành thật cảm ơn anh một lần nữa. Giờ đây, xin anh ban cho tôi một đặc ân. Tôi muốn được tự xử bằng khẩu súng của anh.
Thiếu tá Ron rút khẩu súng lục ra khỏi bao đeo ở thắt lưng, kiểm điểm lại cối đạn, đoạn đặt ngay ngắn trên bàn trước mặt đại tá Rết, Rết chìa tay bắt. Bắt tay xong, thiếu tá Ron lùi lại, chào theo quân cách. Hai sĩ quan đứng sau cũng nghiêm mình.
Cửa phòng được đóng lại. Rết hí hoáy viết.
5 giờ sáng. Nhân viên Phản gián rón rén bước vào. Lần này, họ không gõ cửa. Vì họ biết đại tá Rết đã chết. Họ rón rén vì sợ kinh động giấc ngủ ngàn năm của vị cựu thủ lãnh gián điệp Áo quốc trở thành kẻ thù của Áo quốc.
Rết gục đầu trên đống giấy trắng viết dở, viên đạn chỉ gây ra một lỗ nhỏ trên màng tang, máu chảy rất ít rồi đông lại. Rết để lại hai bức thư tuyệt mạng ngắn ngủi.
Bức thứ nhất:
"Đời tôi tan nát vì nhẹ dạ và đam mê. Hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi lấy cái chết để chuộc lại lỗi lầm - Rết. Đúng 1 giờ 15 sáng. Bây giờ tôi chết. Xin đừng cho pháp luật y khám nghiệm thi thể. Hãy cầu nguyện cho tôi...."
Bức thư thứ hai gồm mấy giòng giành cho người thân.
Thế là xong. 13 giờ đồng hồ sau khi đến thùng thư lưu trữ mang số 13 lấy tiền do Sở gián điệp Nga gửi qua, đại tá Rểt đã phải kết liễu cuộc sống bằng viên đạn 9 li. Thiếu tá Ron đã giữ đúng lời hứa. Nội vụ được ém nhẹm sau khi Rết thiệt mạng. Những người xa gần liên hệ đến nội vụ đều được bí mật triệu đến văn phòng đại tướng tổng tư lệnh để long trọng tuyên thệ ngậm miệrg. Ngay cả hoàng đế Áo quốc cũng không hề hay biết.
Rết đã làm gián điệp cho Nga trong 10 năm. Ông đã yểm trợ điệp viên Nga hoạt động đắc lực trên đất Áo. Ngược lại, ông đã bán cho Nga các điệp viên do ông huấn luyện, và đặc phái sang Nga. Có lần một số người Nga cao cấp đề nghị bán tin tức tối mật cho Áo, Rết đã thông báo cho Nga. Với sự phản bội của đại tá Rết, do thám Nga đã thành công rạng rỡ. Gần nửa thế kỷ trôi qua, người Nga vẫn tự hào là chưa nước nào tái diễn được tấn trò của đại tá Rết.
Rồi vụ Penkốpky xảy ra. Penkốpky là một đại tá Nga. Cũng là yếu nhân mật vụ. Penkốpky làm gián điệp cho Tây phương. Và cũng chết như Rết.
Gián điệp là cái vòng luẩn quẩn. Cười người hôm trước, hôm sau người cười, phải không các bạn?
1 Thật ra, nhật báo này mang một tên địa phương, không hẳn là "Quốc gia", tác giả dùng tên "Quốc gia" với mục đích giản dị hóa địa danh và phương danh, xin bạn đọc am tường ngoại ngữ lượng thứ.
2 Tên người này là Wagner. Tên của người thủ quân là Egon Erwin Kinh. Và đội banh thành Praha này tên là D.B.C. Sturm...
3 Viên tướng có mặt tại nhà gã thợ khóa hôm ấy tên là bá tước von Giesl, mộl nhân vật có quyền thế trong bộ tổng tư lệnh quân đội Áo.
4 Tương đương với khoảng 5 ngàn mỹ-kim hiện nay.
5 Quán cà phê này mang bảng hiệu là Kaiserhof.
Z.28 - 13 Giờ Định Mạng Z.28 - 13 Giờ Định Mạng - Người Thứ Tám Z.28 - 13 Giờ Định Mạng