Số lần đọc/download: 186 / 18
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
II - Mùi Hương Ngọt Đắng
V
ào cái đêm mà vụ giết người diễn ra tại căn nhà miền thôn quê Bellegarde của Marcus Chesney, thanh tra Elliot đã rời khỏi London trên xe của mình – chiếc xe mà anh luôn tự hào một cách quá đáng – và đã đến Sodbury Cross vào lúc mười một giờ rưỡi đêm. Thời tiết khá dễ chịu dù ngoài trời đang tối đen như mực sau một ngày nắng vàng rực rỡ, và nhiệt độ thì khá ấm áp so với ngày mùng 3 tháng Mười.
Đã có một loại, anh ảm đạm nghĩ, một loại định mệnh về chuyện đó. Khi chánh thanh tra Hadley yêu cầu anh tiếp quản vụ này, Elliot đã không nói với ông ấy những điều mình đang nghĩ. Thứ đang ám ảnh anh không chỉ là cảnh tượng ở Pompeii, mà còn thêm sự việc không mấy tốt đẹp ở một hiệu thuốc nọ.
“Như thường lệ,” Hadley đã cay đắng phàn nàn, “chúng ta lại được gọi vào lúc manh mối đã nguội lạnh cả rồi. Vụ án đó đã xảy ra gần bốn tháng trước đấy! Cậu đã làm rất tốt vụ Chiếc bản lề cong dù không có nhiều bằng chứng để lại, nên tôi nghĩ cậu có thể làm gì đó với vụ này. Nhưng đừng có lạc quan quá. Cậu có biết gì khác về vụ này không?”
“Tôi – lúc nãy có đọc qua chút thông tin, thưa sếp.”
“Chà, vụ án đó lại được khuấy lên lần nữa. Từ sau lúc gia đình Chesney trở về từ chuyến đi nước ngoài, một chuỗi náo động đã xuất hiện. Những bức thư nặc danh, những bức vẽ nguệch ngoạc trên tường, mấy thứ đại loại như thế. Đó là một hành động bẩn thỉu, chàng trai ạ, việc đầu độc trẻ con ấy.”
Elliot chần chừ một chút mới quyết định lên tiếng. Ông ấy có vẻ đang bị cơn giận làm mờ lí trí. “Họ đang nghi ngờ hung thủ là người trong gia đình Chesney đúng không sếp?”
“Tôi không biết. Thiếu tá Crow – cảnh sát trưởng ở đó – có suy nghĩ riêng của mình. Crow có khuynh hướng dễ bị kích động hơn cậu nghĩ, dù ngoài mặt ông ấy trông khá bình tĩnh. Một khi đã nảy ra được ý tưởng nào đó, ông ấy sẽ mắc kẹt luôn với nó. Dù vậy, ông ấy sẽ cho cậu tất cả những chi tiết mà cậu cần. Crow là người tốt, và cậu sẽ làm việc tốt dưới trướng của ông ấy thôi. Ồ, và nếu cậu cần giúp đỡ, cậu có thể nhờ Fell. Ông ấy đang ở Bath để truy tìm manh mối. Hãy nhờ đến Fell và cậu sẽ thấy rằng ông bạn già đó đôi khi cũng được việc lắm.”
Andrew MacAndrew Elliot, một thanh niên trẻ, nghiêm túc và mang tâm hồn của người Scotland trong mình, đã trở nên hăng hái hơn khi biết về sự hiện diện của vị học giả lớn này.Anh thậm chí nghĩ anh có thể kể với tiến sĩ Fell những điều ám ảnh mình bấy lâu nay, bởi vì tiến sĩ Fell là loại người mà bạn có thể thoải mái làm những điều như vậy.
Sau đó, vào lúc mười một giờ rưỡi tối, anh đã đến Sodbury Cross và đẩy cửa bước vào đồn cảnh sát. Sodbury Cross là một nơi nằm trong tình trạng lơ lửng giữa một thị trấn và một ngôi làng. Nhưng nó là thị trấn buôn bán, và nằm gần đường đến London, vậy nên giao thông ở đây khá đông đúc. Nhưng vào thời điểm đêm tối như thế này, cả thị trấn đang chìm trong giấc ngủ. Ánh đèn từ xe hơi của Elliot chiếu những vệt dài trống rỗng lên các khung cửa sổ hai bên đường, và ngoài ánh đèn xe của anh ra thì chỉ có một luồng sáng khác là chiếc đồng hồ phát sáng gắn trên vòi phun nước uống Diamond Jubilee.
Thiếu tá Crow và sĩ quan Bostwick đang chờ anh tại văn phòng quản lí đồn cảnh sát.
“Xin lỗi vì đã tới trễ,” Elliot nói với hai người họ. “Nhưng lốp xe của tôi bị xẹp ở đầu kia của Calne, và…”
“Ồ, không sao hết,” cảnh sát trưởng thoải mái nói. “Bản thân chúng tôi cũng là cú đêm cả. Cậu định nghỉ ở đâu?”
“Chánh thanh tra có gợi ý cho tôi đến The Blue Lion.”
“Không kiếm được chỗ nào tốt hơn nơi đó đâu. Cậu có muốn đến đó, gõ cửa và giải quyết vấn đề chỗ ở trước không, hay cậu muốn nghe về vụ án trước?”
“Tôi muốn biết về vụ án trước, thưa ngài, nếu bây giờ không là quá trễ với ngài.”
Lần đầu tiên, cả căn phòng trở nên hoàn toàn yên lặng, chỉ có tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ ồn ã chậm rãi chạy đều. Thiếu tá Crow rút từ trong túi ra một hộp thuốc lá. Thiếu tá Crow là một người đàn ông thấp người, trông có vẻ hòa nhã với bộ ria mép xám được cắt tỉa gọn gàng. Đó là loại người từng có kinh nghiệm trong quân đội, thành công của những người này luôn khiến bạn ngạc nhiên cho tới khi bạn thấy được hiệu quả làm việc tuyệt vời của họ. Cảnh sát trưởng châm một điếu thuốc và tỏ ra hơi ngần ngừ, đôi mắt ông dán chặt xuống sàn nhà.
“Tôi mới là người,” ông lên tiếng, “nên xin lỗi cậu, thanh tra. Lẽ ra nếu định yêu cầu cậu tham gia vào vụ này, chúng tôi nên gọi đến Yard từ lâu rồi. Nhưng vài ngày qua, từ khi Chesney và gia đình ông ta trở về, vụ việc bị khơi lên ồn ào không chỉ một lần. Mọi người sẽ nghĩ rằng có chuyện lớn ở đây” – nụ cười của ông không hề mang chút tính công kích nào cả – “chỉ bởi vì Scotland Yard cũng bắt tay vào vụ việc. Hiện tại, rất nhiều người trong số họ muốn chúng ta bắt giữ một cô gái, Marjorie Wills. Và chúng tôi thì không có đủ bằng chứng.”
Elliot, mặc dù rất muốn, đã không bình luận câu nào.
“Rồi cậu sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng tôi đang phải đối mặt,” thiếu tá Crow tiếp tục, “nếu cậu thấy những hình ảnh chi tiết về cửa hàng của bà Terry. Tôi cá là cậu đã nhìn hàng trăm bức ảnh như vậy. Nó là một chỗ rất nhỏ, chật chội nhưng sâu hun hút. Phía bên tay trái cửa hàng có một quầy thuốc lá, phía bên tay phải là quầy đồ ngọt. Giữa chúng là một lối đi chỉ đủ rộng để quay người hướng đến phía sau cửa hàng, nơi đặt một thư viện lưu động nhỏ. Cậu nắm được rồi chứ?”
Elliot gật đầu.
“Chỉ có ba cửa hàng bán thuốc lá và đồ ngọt ở Sodbury Cross này, và chỗ của bà Terry là (hoặc từng là) nơi được yêu thích nhất. Mọi người đều đến đó mua đồ. Bà ấy là một người vui vẻ, và bà ấy làm việc rất nhiều từ khi người chồng mất và để lại năm đứa con thơ. Cậu nắm được rồi chứ?”
Elliot lại gật đầu.
“Nhưng cậu cũng nên biết cách người ta quản lí việc mua bán đồ ngọt ở những cửa hàng như thế này. Một số loại bánh kẹo được đặt dưới một tủ kính trưng bày. Nhưng phần lớn các loại khác chỉ để tùy ý đơn giản, trong những lọ thủy tinh hoặc trong những chiếc hộp để mở đặt ngay trên quầy thanh toán. Mặt trên tủ kính trưng bày có năm chiếc hộp để mở, chúng hơi nghiêng ra phía ngoài một chút để khách hàng thấy được những loại đồ ngọt bên trong. Ba chiếc hộp chứa kẹo sô cô la nhân kem, một hộp chứa những thanh sô cô la rắn và một hộp chứa kẹo caramen.
“Bây giờ giả sử cậu muốn đầu độc vài viên sô cô la trong đó. Không thể dễ dàng hơn! Cậu đi đâu đó mua một ít sô cô la – loại phổ biến có thể mua ở bất kì cửa hàng nào. Cậu lấy một chiếc kim tiêm dưới da, bơm đầy strychnine được hòa tan trong cồn, và tiêm một hoặc hai giọt vào (khoảng) nửa tá sô cô la. Một vết kim tiêm nhỏ xíu như thế sẽ khó mà bị phát hiện được.
“Sau đó cậu bước vào cửa hàng của bà Terry (hoặc bất cứ cửa tiệm nào khác) với những viên sô cô la giấu trong lòng bàn tay. Cậu hỏi mua thuốc lá và bà Terry đi đến sau quầy thuốc lá. Cậu nói cần mua năm mươi hay một trăm điếu thuốc, vậy là bà ấy sẽ không chỉ quay đi, mà còn phải với tay hoặc leo lên trên kệ hàng cao hơn để lấy hộp thuốc lá chứa một trăm điếu. Trong khi bà ấy quay lưng cậu chỉ cần lấy từ phía sau và thả những viên sô cô la đã được chuẩn bị sẵn vào trong chiếc hộp để mở. Mỗi ngày có hàng trăm người ra vào cửa hàng đó, và ai mà biết hay chứng minh được cậu là hung thủ chứ?”
Ông bắt đầu tức giận, màu hồng nhẹ đang lan trên mặt ông.
“Có phải đó là cách hung thủ gây án không, thưa ngài?” Elliot hỏi.
“Từ từ đã! Cậu có thể thấy nếu một kẻ muốn tận hưởng niềm vui giết chóc, và không hề quan tâm người mình giết là ai, có thể dễ dàng thực hiện điều đó thế nào mà không bị tóm. Như vậy cậu đã biết được những khó khăn của chúng tôi.
“Đầu tiên tôi nên cho cậu biết về Marcus Chesney, cũng như gia đình và bạn bè thân thiết của ông ấy. Chesney sống trong một căn nhà lớn cách nơi này khoảng một phần tư dặm, có thể cậu đã thấy căn nhà đó rồi. Một nơi gọn gàng và sạch sẽ, được trang bị những nội thất hiện đại có chất lượng tốt nhất. Căn nhà được gọi là Bellegarde, đặt theo tên một loại đào.”
“Một gì cơ, thưa ngài?”
“Một loại đào,” cảnh sát trưởng trả lời. “Cậu đã bao giờ nghe về những nhà kính nổi tiếng của Chesney chưa? Chưa à? Ông ấy có nửa mẫu Anh dựng toàn nhà kính. Cha và ông nội Marcus đã trồng trong đó những giống đào xa xỉ nhất trên thế giới. Ông ấy cũng tiếp tục công việc này. Chính là loại đào lớn người ta hay bán tại chuỗi khách sạn West End với giá cắt cổ ấy. Marcus trồng đào không theo mùa, ông ấy nói rằng ánh nắng và khí hậu không mấy ảnh hưởng tới việc trồng đào. Ông ấy bảo bí quyết của mình là một bí mật trị giá cả chục ngàn đô. Ông trồng Bellegarde, Early Silver, và (loại đào đặc biệt chỉ mình ông có) Royal Ripener. Và công việc đó chắc chắn mang lại lợi nhuận đáng kể. Tôi được biết thu nhập năm ngoái của ông ấy lên đến sáu con số.” Nói đến đây giọng thiếu tá Crow hơi ngần ngừ, ông nhìn vị khách của mình một cách sắc sảo. “Về bản thân Chesney,” ông tiếp tục, “trong quận này ông ấy không được yêu thích lắm. Ông ấy khôn ngoan, mạnh mẽ và cứng rắn.
“Mọi người hoặc là không thích ông ấy, hoặc là đối xử với ông ấy bằng thái độ nửa tôn trọng nửa chịu đựng. Cậu biết đấy loại mà người ta hay nói trong mấy quán rượu ấy: ‘À, lão Chesney à, lão ta là người như vậy mà!’ kèm theo một cái lắc đầu, hoặc nụ cười nửa miệng, và uống hết li bia đặt trên quầy. Sau đó người ta truyền tai nhau nói rằng gia đình đó có gì đó rất kì lạ, mặc dù không ai có thể nói chính xác điều kì lạ ấy là gì.
“Marjorie Wills là cháu gái của Marcus. Em gái của ông ấy, mẹ đẻ con bé, đã qua đời. Mọi người biết đến Marjorie là một cô gái tốt bụng. Nhưng cô ấy cũng khá nóng nảy. Đối lập với vẻ ngọt ngào ngây thơ bên ngoài, đôi khi tôi nghe cô ấy sử dụng những từ ngữ có thể khiến một tay lính phải giật mình.
“Người tiếp theo là Joe Chesney, một bác sĩ. Ông ấy là người cứu chuộc cả gia đình họ. Mọi người đều thích ông ấy. Ông ấy luôn giống như một con bò gầm gừ vậy, và tôi không tin ông ấy giỏi kĩ năng chuyên môn lắm, nhưng rất nhiều người tin tưởng vào ông ấy. Joe không sống cùng với Marcus – Marcus sẽ không đời nào để căn Bellegarde loạn lên với những cuộc khám bệnh thường xuyên. Ông ấy sống phía dưới con đường này một chút.
“Người anh cần biết tiếp theo là một giáo sư đã về hưu tên là Ingram, một người trầm tĩnh và dễ chịu – một người bạn thân thiết rất gắn bó của Marcus. Ông ấy có một căn nhà riêng trên cùng con đường với bạn mình, và được mọi người xung quanh ngưỡng mộ. Cuối cùng, người quản lí kinh doanh hay có thể gọi là quản đốc những ‘vườn ươm’ của Chesney là một gã không ai biết hay quan tâm gì đến tên là Emmet.
“Nào! Ngày 17 tháng Sáu là thứ năm, ngày họp chợ, và do vậy hôm đó có khá nhiều người trong thị trấn. Tôi nghĩ chúng ta có thể giả định chắc chắn rằng, không có viên kẹo sô cô la nhiễm độc nào trong cửa hàng của bà Terry trước ngày hôm đó cả. Lí do: bà ấy có tới năm đứa con, như tôi đã nói với anh lúc nãy, và ngày 16 là sinh nhật của một trong số chúng. Bà Terry đã tổ chức một buổi tiệc sinh nhật nhỏ cho cậu bé vào buổi chiều tối. Để chuẩn bị cho buổi tiệc, bà ấy đã lấy (cùng với những đồ ngọt khác) trong mỗi hộp trên quầy thanh toán một nắm kẹo. Không có ai bị nhiễm độc sau khi ăn số kẹo đó.
“Chúng tôi đã có một danh sách – toàn bộ – những người đã ở trong cửa hàng vào ngày thứ năm đó. Việc này không khó khăn như anh tưởng, bởi vì phần lớn trong số họ đều lấy sách trong thư viện, và bà Terry có giữ biên bản. Hôm ấy không có người lạ nào bước vào cửa hàng, điều này chúng ta có thể xác định được. Nhân tiện, chính Marcus Chesney cũng có tên trong danh sách. Bác sĩ Joe Chesney cũng vậy. Nhưng cả giáo sư Ingram lẫn chàng trai trẻ Emmet đều không vào cửa hàng ngày đó.”
Elliot rút cuốn sổ của mình ra và xem xét những bản phác thảo lạ lùng mà anh đã vẽ lên đó.
“Còn cô Wills thì sao?” anh hỏi – và một lần nữa anh lại ý thức được màn đêm ấm áp, ánh đèn khí đung đưa có nhịp điệu như một lời hát, và đôi mắt đầy âu lo của người cảnh sát trưởng.
“Tôi đang định nói về cô gái đây,” thiếu tá Crow tiếp tục. “Thực ra hôm ấy cô Wills không hề đi vào trong cửa hàng. Đây là những chuyện đã xảy ra. Khoảng bốn giờ chiều, ngay sau khi tan học, cô ấy lái xe của bác mình đến Sodbury Cross. Cô ấy đến cửa hàng của Packers, người bán thịt, để phàn nàn về việc gì đó. Sau khi ra khỏi cửa hàng thịt, cô ấy gặp bé Frankie Dale, tám tuổi. Cô gái luôn rất thân thiết với Frankie, theo phần lớn mọi người ở đây cho biết. Cô ấy nói với cậu bé – theo lời một nhân chứng nghe được – ‘Nào, Frankie, chạy xuống cửa hàng của bà Terry và mua cho chị ba xu kẹo sô cô la nhân kem, được không?’ và cô ấy đưa cho đứa trẻ đồng sáu xu.
“Cửa hàng của bà Terry chỉ cách hàng thịt khoảng năm mươi bước chân. Frankie đã làm như được bảo. Như tôi đã nói lúc nãy, có ba hộp kẹo sô cô la nhân kem trên đầu kệ kính. Frankie, như phần lớn trẻ em, không xác định chính xác những chiếc hộp được. Cậu bé chỉ khăng khăng nhắm vào chiếc hộp ở giữa, và nói, ‘Cháu muốn ba xu loại này.’ ”
“Xin đợi một chút, thưa ngài,” Elliot xen vào. “Có ai khác mua kẹo sô cô la nhân kem vào thời gian đó nữa không?”
“Không. Những loại kẹo khác như cam thảo, thanh sô cô la, và kẹo sữa được bán ra khá nhiều, nhưng không có viên sô cô la nhân kem nào khác được bán vào ngày hôm đó.”
“Phiền ngài tiếp tục.”
“Bà Terry đã cân kẹo cho cậu bé. Sáu xu mua được khoảng ¼ pound kẹo sô cô la bọc kem; cậu bé mua 2 ounce, được khoảng sáu viên. Sau đó Frankie chạy về chỗ cô Wills, với đám kẹo để trong túi giấy. Ngày hôm đó trời mưa và cô Wills đang mặc một chiếc áo mưa với túi áo rất sâu. Cô ấy bỏ bịch kẹo vào túi. Sau đó, như thể đổi ý, cô lại lôi bọc kẹo ra. Ít nhất, cô ấy đã lôi bịch kẹo ra khỏi chiếc túi giấy. Cậu theo kịp không?”
“Có.”
“Cô ấy mở túi giấy, nhìn vào bên trong, và nói, ‘Frankie, em đã mua cho chị loại kẹo nhỏ nhân kem trắng bên trong. Chị muốn loại lớn hơn có kem màu hồng cơ. Em có thể quay vào đó và nhờ bà Terry đổi lại được không?’ Bà Terry, dĩ nhiên, đã giúp cậu bé đổi lại. Bà đổ đống kẹo trở lại vào chiếc hộp ở giữa, và lấy loại kẹo từ chiếc hộp bên tay phải cho vào chiếc túi giấy. Frankie đưa số kẹo cho cô Wills, và cô ấy nói cậu bé có thể giữ số tiền lẻ còn thừa.
“Những việc xảy ra tiếp theo,” thiếu tá Crow nói, cố gắng hít một hơi thật sâu và nhìn người nghe của mình bằng đôi mắt kiên quyết, “đã được tường trình lại rồi. Sau đó Frankie đã không tiêu ba xu còn lại, cậu bé về nhà để uống trà. Nhưng sau giờ trà chiều cậu bé quay lại cửa hàng lần nữa. Dù sao thì cậu bé cũng đã định mua những viên sô cô la nhân kem đó, có lẽ từ lần mua trước, tôi không chắc. Nhưng thằng bé dành hai xu để mua thứ đó – loại kẹo nhỏ có kem trắng bên trong – và một xu kẹo cam thảo. Khoảng sáu giờ mười lăm, một người giúp việc tên là Lois Curtain (cô ấy làm việc cho ông bà Anderson) đến cửa hàng với hai đứa trẻ nhà Anderson, và họ mua nửa pound kẹo trong cả ba chiếc hộp.
“Tất cả những người từng ăn kẹo sô cô la mua từ chiếc hộp chính giữa đều phàn nàn về vị đắng dữ dội của nó. Frankie, cậu bé đáng thương, đã không bị vị đắng này ngăn cản, bởi vì cậu bé dành những hai xu để mua loại kẹo đó. Cậu bé đã ăn rất nhiều. Khoảng một giờ sau, các cơn đau ập đến, và cậu bé chết trong sự đau đớn khủng khiếp vào lúc mười một giờ đêm. Những đứa trẻ nhà Anderson, và Lois Curtain, thì may mắn hơn. Bé Dorothy Anderson chỉ mới cắn một miếng sô cô la liền khóc lên và nói rằng quá đắng nên không thể ăn được – cô bé dùng từ ‘kinh tởm’ để mô tả nó. Lois Curtain, vì tò mò, cũng cắn một miếng. Tommy Anderson cũng ồn ào đòi ăn thử.
“Sau đó Lois cắn một viên kẹo sô cô la khác, và viên đó cũng đắng như viên đầu. Cô ấy quyết định rằng chất lượng những viên kẹo đó quá tệ, và nhét chúng vào giỏ xách để sau này quay lại phàn nàn với bà Terry. Không ai trong số ba người họ mất mạng, nhưng đêm đó Lois vẫn bị ảnh hưởng. Ngộ độc strychnine, dĩ nhiên.”
Thiếu tá Crow ngừng nói. Dường như ông ấy đang nói chuyện bằng sự yên lặng, nhưng Elliot không thích nhìn vào đôi mắt ông lúc này. Sau đó ông dập tắt điếu thuốc rồi lại ngồi xuống.
Ông tiếp tục:
“Tôi đã làm việc trong ngành này được mười hai năm, nhưng tôi chưa bao giờ thấy vụ nào ồn ào như vụ này. Cáo buộc đầu tiên, dĩ nhiên, là bà Terry đã bán số sô cô la có độc đó, và mọi lời buộc tội đổ lên đầu bà ấy. Tôi nghĩ vài người đã mơ hồ nghĩ rằng sô cô la nhiễm độc cũng giống như mấy miếng thịt hư thối vậy. Bà Terry đã quá kích động. Cậu biết đấy, gào thét và khóc lóc, với chiếc tạp dề phủ lên mặt. Mọi người đập vỡ cửa sổ nhà bà ấy. Và bố của Frankie Dale đánh mất đến một nửa lí trí bình thường.
“Nhưng một hay hai ngày sau mọi người trở nên ôn hòa hơn, và họ bắt đầu đặt ra những thắc mắc. Joe Chesney đã thành thật phát biểu ở quầy rượu của The Blue Lion rằng đây là một vụ đầu độc có tính toán. Kẻ đầu độc nhắm vào Frankie. Frankie đã ăn ba viên kẹo sô cô la, và nuốt chửng 6,25 grain strychnine. Cậu biết đấy, chỉ 0,0625 grain đã đủ gây tử vong rồi. Ba nạn nhân khác chia nhau 2 grain, số kẹo sô cô la còn lại trong chiếc hộp ở giữa đã được mang đi phân tích. Trong đó có thêm hai viên kẹo độc nữa, mỗi viên chứa hơn 2 grain strychnine hòa trong dung dịch cồn, và trong túi giấy của Lois Curtain cũng có thêm hai viên nữa, cộng thêm hai viên cô ấy và đám trẻ đã ăn. Nói cách khác, có tất cả mười viên sô cô la cùng bị đầu độc và mỗi viên trong số đó đều chứa lượng strychnine cao hơn liều lượng tử vong. Ai đó đã ra ngoài giết chóc, và giết chóc với mục tiêu gây đau đớn nhất có thể cho các nạn nhân.
“Giờ đây – khá rõ ràng là – chúng ta có ba khả năng.
“Thứ nhất. Bà Terry đã cung cấp những viên sô cô la có độc. Không ai tin tưởng điều này, đặc biệt là sau sự ầm ĩ đầu tiên mà bà ấy gây ra.
“Thứ hai. Có người đã đi vào cửa hàng ngày hôm đó và bỏ một nắm kẹo độc vào chiếc hộp ở giữa trong khi bà Terry quay đi. Như tôi đã nói với anh lúc nãy.
“Thứ ba. Marjorie Wills là hung thủ. Khi Frankie mua cho cô ấy một túi kẹo không độc, cô đã chuẩn bị sẵn trong túi áo mưa một chiếc túi khác chứa những viên kẹo có độc. Cô ta đặt túi kẹo an toàn vào túi áo, rút túi kẹo có độc ra và yêu cầu Frankie quay lại đổi. Chính vì vậy nên những viên kẹo có độc mới có mặt trong chiếc hộp ở giữa. Cậu theo kịp chứ?”
Elliot nhíu mày.
“Kịp, thưa ngài. Tôi thấy được điều đó. Nhưng…”
“Chính xác!” thiếu tá ngắt lời và nhìn anh với con mắt ngạc nhiên. “Tôi biết cậu định nói gì. Đó chính là mấu chốt vụ án. Cô ấy mua sáu viên sô cô la. Nhưng có tổng cộng mười viên sô cô la có độc trong chiếc hộp nằm giữa. Nếu cô ấy thực sự tráo chiếc túi, vậy bốn viên nữa từ đâu ra? Và nếu chiếc túi thay thế chứa mười viên sô cô la chứ không phải sáu viên, vậy bà Terry hẳn phải nhận ra điều đó khi đổ kẹo trở lại chiếc hộp chứ, đúng không?”
Đến nay, sĩ quan cảnh sát Bostwick chưa hề nói một lời nào. Là một người đàn ông vạm vỡ, ông ấy đã ngồi yên với cánh tay khoanh chặt và đôi mắt dán vào cuốn lịch. Bây giờ ông mới hắng giọng.
“Vài người,” ông nói, “nghĩ rằng bà ấy không chú ý. Nếu quá bận, có lẽ bà ấy không chú ý thật.”
Lại hắng giọng một lần nữa, ông nói tiếp:
“Dù có hay không có Scotland Yard, tốt nhất nên bắt giữ tên giết người khốn kiếp ấy ngay nếu đó là điều cuối cùng chúng ta có thể làm.”
Sức nóng của sự bùng nổ vừa rồi rung rinh trong căn phòng ấm áp. Thiếu tá Crow nhìn Elliot.
“Bostwick,” ông ấy lên tiếng, “đã được đào tạo để nhìn nhận mọi việc một cách khách quan. Nhưng nếu đó là những điều hiện lên trong đầu ông ấy, cậu có tưởng tượng được suy nghĩ của những người khác về việc này không?”
“Tôi thấy rõ điều đó,” Elliot nói, và âm thầm rùng mình một chút. “Có phải tất cả mọi người đều tin rằng cô Wills…?”
“Đó là việc cậu phải tự mình tìm ra. Nhìn chung mọi người đang không ở trong tâm trạng tranh luận lịch sự, như chúng ta. Đó chính là vấn đề. Đầu tiên, với họ thì bản chất của sự việc là hoàn toàn vô nghĩa, vụ án dã man này đã khiến tất cả mọi người choáng váng. Còn điều này nữa – à thì, có một sự kiện không giúp ích gì được mấy (mặc dù may mắn là hầu như đám đông ở quán The Blue Lion không hề biết điều này) rằng tình huống này giống y hệt vụ đầu độc ở Brighton hơn sáu mươi năm trước. Cậu có nghe về vụ án của Christiana Edmunds năm 1871 chưa? Cô ta tiêm thuốc độc vào những viên kẹo sô cô la, lừa một đứa trẻ trở lại cửa hàng và tráo đổi chúng, chính xác đến từng chi tiết. Mang một túi kẹo thay thế – tôi nghĩ – trong chiếc bao tay bằng lông, và trao cho cậu bé như một trò ảo thuật.”
Elliot cân nhắc. “Christiana Edmunds, nếu tôi nhớ không nhầm,” anh nói, “là một kẻ điên rồ. Cô ta đã chết ở Broadmoor.”
“Đúng vậy,” thiếu tá thẳng thắn gật đầu, “và vài người nghĩ rằng cô gái này cũng mất trí y như vậy.”
Sau khi ngưng lại một chút ông đã tiếp tục với bầu không khí hợp lí hơn.
“Nhưng hãy nhìn vào trường hợp của cô gái đi! Hay nói đúng hơn là những thiếu hụt trong vụ án này. Không thể nuốt trôi, đơn giản là không thể nuốt trôi được. Đầu tiên, chúng ta không thể truy được nguồn thuốc độc của cô ấy – không thể chứng minh rằng cô ấy từng mua, mượn, tìm thấy hay đánh cắp một phần triệu grain nào cả. Câu trả lời của đám đông cho vấn đề đó rất đơn giản. Cô ta được bác sĩ Chesney yêu quý, và Joe Chesney là loại người rất có khả năng bất cẩn để strychnine nằm lung tung khắp nơi như thể chúng là thuốc lá. Đúng là ông ta có dùng strychnine trong khi phẫu thuật, nhưng ông ấy có báo cáo chi tiết với chúng tôi tất cả liều lượng.
“Thứ hai, chính bản thân bà Terry đã thề rằng chỉ có sáu viên sô cô la trong chiếc túi mà Frankie Dale mang trở về.
“Thứ ba, nếu Marjorie Wills là thủ phạm, cô ấy đã gây án một cách ngu ngốc đến không tưởng. Cô ấy thậm chí còn không chịu thực hành các biện pháp an toàn như kẻ điên Christiana Edmunds. Sau tất cả, Brighton là một thành phố khá lớn, và một người phụ nữ chọn một đứa trẻ không biết cô ta là ai để thực hiện việc tráo đổi sẽ tránh cho cô ta nguy cơ bị nhận diện sau này. Nhưng cô gái này! Tiến hành gây án ngay giữa một chỗ nhỏ xíu như nơi này, nói chuyện cùng một cậu bé biết cô ta rất rõ, dưới sự chứng kiến của các nhân chứng ư? Nói cách khác, cô ta đang cố hết sức lôi kéo sự chú ý về phía mình! Nếu muốn đầu độc mấy viên sô cô la, cô ta hoàn toàn có thể tìm một phương pháp khác, ít gây nghi ngờ hơn cách mà tôi đã nói.
“Không, thanh tra. Không có chứng cứ nào đủ mạnh để đưa cô ta ra tòa cả, và chúng ta không thể đưa ra lệnh bắt giữ chỉ để làm hài lòng bác Tom Cobleigh và mọi người. Bên cạnh đó, tôi hi vọng những suy đoán của mọi người là không chính xác. Cô ấy là một cô gái bé nhỏ, và không ai biết gì về cô ấy ngoại trừ những lúc bị gom chung với Chesney dưới danh xưng một gia đình quái gở.”
“Có phải làn sóng kích động chống lại cô ấy bắt đầu từ trước chuyến đi nghỉ dài ngày của gia đình Chesney không?”
“Dù sao thì, trước khi họ đi những tin đồn cũng âm ỉ một chút. Nó chỉ bùng lên dữ dội sau khi họ rời khỏi đây. Và, bây giờ khi họ đã trở lại, mọi việc thậm chí còn tệ hơn. Ngài sĩ quan đây đang lo lắng những người mất lí trí có thể trở nên kích động và cố gắng đập phá nhà kính của Marcus. Mặc dù vậy, tôi không lo lắng về chuyện đó lắm. Cha cậu bé đã nói về việc đó nhiều lần, nhưng anh ta cũng cực kì kiên nhẫn. Anh ta mong nhà chức trách có hành động gì đó, và sẽ không nổi giận nếu chúng ta thực hiện mong muốn đó. Trời ạ, tôi sẵn lòng làm bất cứ thứ gì có thể!” Thiếu tá đột nhiên than vãn. “Tôi cũng có con và chính tôi cũng bất bình về vụ án này y như họ vậy. Bên cạnh đó, thái độ của Marcus Chesney chẳng giúp ích được chút nào. Ông ta trở về từ châu Âu, nổi điên lên, và nói ông ta sẽ giải quyết vụ án này khi chúng tôi thất bại. Thật ra, ông ta mới đến đây ngày hôm kia để hỏi những câu ngớ ngẩn không đâu vào đâu cả.”
Elliot vểnh tai lên ngay lập tức.
“Thật vậy sao?” Elliot chất vấn. “Ông ta hỏi về điều gì thế, thưa ngài?”
Cảnh sát trưởng liếc nhìn sĩ quan Bostwick với ý dò hỏi. Và chờ đợi Elliot là một câu trả lời dài dằng dặc.
“Quý ông đó muốn biết,” sĩ quan Bostwick nói với vẻ mỉa mai, “kích thước chính xác của những chiếc hộp đựng sô cô la trên quầy hàng của bà Terry. Tôi có hỏi ông ta sao lại muốn biết điều đó. Ông ta liền nổi điên, và bảo rằng đó không phải việc của tôi. Vậy nên tôi bảo nếu thế thì ông ta nên đi hỏi bà Terry thì hơn. Và ông ta nói,” sĩ quan cười khục khục với vẻ hài lòng, “ông ta nói rằng mình muốn hỏi một câu khác, nhưng bởi vì tôi chỉ là một gã ngu máu nóng, ông ta sẽ không hỏi nữa và tôi phải chịu tất cả hậu quả do việc này gây ra. Ông ta nói ông ta luôn biết rõ rằng tôi thiếu khả năng quan sát, nhưng giờ thì ông ta biết thêm rằng tôi chẳng có tí não nào cả.”
“Dường như ông ta bị ám ảnh bởi một quan niệm,” thiếu tá giải thích, “rằng phần lớn mọi người thường không có khả năng miêu tả lại chính xác những gì họ thấy hoặc nghe được.”
“Tôi biết,” Elliot nói.
“Cậu biết?”
Elliot không có thời gian trả lời câu hỏi này, vì ngay lúc đó tiếng chuông điện thoại vang lên. Thiếu tá Crow kiên nhẫn liếc nhìn đồng hồ, thứ gây ra tiếng tích tắc tràn ngập căn phòng nãy giờ, và các cây kim của nó đang chỉ vào mười hai giờ hai mươi phút. Bostwick chậm chạp bước đến nhấc ống nghe, trong khi cả Elliot và cảnh sát trưởng đều chìm vào một giấc mơ mơ hồ nhưng không thoải mái. Ngài thiếu tá đang mệt mỏi và chán nản, còn Elliot cũng đang kiệt sức. Giọng nói của Bostwick đã đánh thức họ – có lẽ nói đúng hơn là tiếng gầm nhẹ khi ông ấy lặp lại “Thưa ông?” Thiếu tá Crow nhanh chóng quay người lại khiến chiếc ghế bị đập vào cạnh bàn.
“Đó là bác sĩ Joe,” ngài sĩ quan nặng nề tường thuật lại. “Ông trực tiếp nói chuyện với ông ấy sẽ tốt hơn.”
Mồ hôi rịn ra trên trán ông, và qua biểu cảm trong ánh mắt, người ta có thể đoán được phần nào câu chuyện. Ông đưa điện thoại cho cảnh sát trưởng.
Thiếu tá Crow cầm điện thoại, và yên lặng lắng nghe trong khoảng một phút. Trong không gian tĩnh lặng, Elliot có thể nghe được giọng nói không liền mạch phát ra từ đâu dây bên kia mặc dù anh không thể nghe rõ từng từ. Sau đó cảnh sát trưởng ngắt điện thoại với vẻ lo lắng rõ rệt.
“Đó là Joe Chesney,” ông nói lại, mặc dù lúc này chuyện đó có vẻ không cần thiết. “Marcus chết rồi. Bác sĩ tin rằng ông ta bị đầu độc bằng xyanua.”
Lại một lần nữa, cả căn phòng lại chìm trong tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ, và thiếu tá Crow hắng giọng lần nữa.
“Việc này còn chứng tỏ,” ông tiếp tục, “rằng Marcus đã chứng minh lí thuyết yêu quý của mình bằng mạng sống. Nếu tôi hiểu đúng những điều bác sĩ nói, mỗi người trong số họ đều thấy ông ấy bị đầu độc ngay trước mắt mình. Và không một ai có thể kể lại chính xác những việc đã xảy ra.”