A book is a garden, an orchard, a storehouse, a party, a company by the way, a counsellor, a multitude of counsellors.

Henry Ward Beecher

 
 
 
 
 
Tác giả: Khaled Hosseini
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 133
Cập nhật: 2021-02-23 22:41:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
ột
MÙA THU NĂM 1952
Thế này nhé. Các con muốn nghe chuyện thì cha sẽ kể cho các con nghe một câu chuyện. Nhưng chỉ một thôi nhé. Đừng đứa nào đòi thêm. Muộn rồi, mà chúng ta, Pari, con và cha, còn có cả một ngày dài phải đi phía trước. Tối nay con sẽ cần ngủ đấy. Cả con nữa, Abdullah. Cha trông cậy vào con, con trai, trong khi cha và em gái con vắng nhà. Mẹ con cũng vậy. Giờ thì một câu chuyện đây nhé. Nghe này, cả hai đứa, nghe cho kỹ. Và đừng có ngắt lời.
Ngày xửa ngày xưa, vào cái thuở div, jinn* và những người khổng lồ còn lởn vởn quanh vùng, có một người nông dân tên là Baba Ayub sinh sống. Ông ngụ cùng gia đình tại một ngôi làng nhỏ có tên Maidan Sabz. Vì phải nuôi cả nhà đông người, ngày ngày Baba Ayub chỉ biết nai lưng ra làm việc. Hôm nào ông cũng quần quật từ sáng sớm cho tới tối mịt, cày ruộng, xới đất, chăm sóc những cây hồ trăn khẳng khiu. Lúc nào cũng thấy ông trên ruộng nhà, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, lưng cong như chiếc liềm ông vung cả ngày. Tay ông luôn chai sần, thường rướm máu, và đêm xuống, khi má vừa chạm gối là ông liền ngủ thiếp đi.
Những sinh vật siêu nhiên trong truyện dân gian Hồi giáo.
Các con biết không, ông nào phải người duy nhất chịu đựng cảnh này. Cuộc sống ở Maidan Sabz rất khắc nghiệt với người dân. Có những ngôi làng khác may mắn hơn nơi phương Bắc, trong thung lũng, với cây ăn quả, hoa tươi, không khí hiền hòa, và những con suối nước mát trong. Nhưng Maidan Sabz là vùng đất khỉ ho cò gáy, chẳng giống chút nào với hình ảnh Đồng Xanh mà cái tên của nó gợi ra. Nó nằm trên một đồng bằng bằng phẳng khô cằn, bao quanh là dãy núi lởm chởm. Gió oi nồng hắt bụi vào mắt. Để tìm ra nước mỗi ngày là biết bao nhọc nhằn vì giếng làng, kể cả những cái sâu nhất, cũng thường khá cạn. Cũng có sông đấy, nhưng dân làng phải cuốc bộ nửa ngày trời mới đến được đó, vậy mà nước lại đục ngầu quanh năm. Giờ đây, sau mười năm hạn hán, sông gần như khô cạn. Vậy là người dân Maidan Sabz phải làm việc vất vả gấp đôi mà vẫn không đủ trang trải cuộc sống.
Tuy vậy, Baba Ayub vẫn thấy bản thân thật may mắn bởi ông có một gia đình mà ông trân trọng hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Ông yêu vợ mình và không bao giờ to tiếng với bà, nói gì đến động chân động tay. Có chuyện gì ông cũng bàn bạc với vợ và thấy thực sự hạnh phúc khi được làm bạn đời của bà. Về đường con cái, ông được trời thương cho nhiều con như số ngón tay trên một bàn tay, ba cậu con trai và hai cô con gái, đứa nào ông cũng yêu thương hết mực. Con gái ông đảm đang, ngoan hiền, nết na. Với con trai thì ông dạy chúng về giá trị của lòng trung thực, sự dũng cảm, tình bạn, và tinh thần không ngại khó ngại khổ. Chúng nghe lời ông, đúng như bổn phận của những đứa con trai ngoan ngoãn, và giúp cha làm đồng áng.
Dù yêu thương cả đàn con của mình, Baba Ayub vẫn âm thầm dành tình cảm đặc biệt cho một đứa, chính là Qais, đứa con út mới ba tuổi. Qais là cậu bé có đôi mắt màu thiên thanh sẫm. Ai gặp cậu cũng bị mê hoặc bởi tiếng cười tinh ranh. Thằng bé còn hiếu động tới nỗi khiến người khác mệt nhoài. Khi lẫm chẫm tập đi, cậu thích thú đến độ hễ thức là đi cả ngày, và rồi, rắc rối thay, kể cả trong giấc ngủ ban đêm. Cậu mộng du rời khỏi căn nhà trát bùn mà thơ thẩn bước vào bóng đêm mờ trăng. Đương nhiên cha mẹ cậu rất lo lắng. Nhỡ cậu ngã xuống giếng, hay bị lạc, hay, tệ hơn hết thảy, bị một sinh vật rình rập nơi đồng bằng ban đêm tấn công? Họ đã thử nhiều cách nhưng đều vô ích. Cuối cùng, giải pháp mà Baba Ayub tìm ra lại khá đơn giản, đúng tinh thần cách hay nhất thường là cách đơn giản nhất: Ông tháo chiếc chuông nhỏ khỏi cổ một con dê đeo vào cổ Qais. Cách này như sau, nếu nửa đêm Qais nhỏm dậy thì chuông sẽ kêu leng keng. Việc mộng du ngừng một thời gian, nhưng Qais ngày càng dính chặt với cái chuông chẳng chịu tháo ra. Thành thử dù không phục vụ mục đích ban đầu, cái chuông vẫn toòng teng trên sợi dây đeo quanh cổ cậu bé. Khi Baba Ayub về nhà sau ngày dài làm việc, Qais sẽ từ trong nhà chạy ra dụi mặt vào bụng cha, cái chuông bé xíu leng keng theo từng bước chân nhỏ. Baba Ayub sẽ bế cậu lên đưa vào nhà, và Qais say sưa ngắm cha mình rửa ráy chân tay, rồi lại ngồi bên Baba Ayub khi cả nhà quây quần ăn tối. Ăn uống xong xuôi, Baba Ayub sẽ nhấm nháp trà, trìu mến ngắm gia đình mình, mường tượng ra ngày lũ con lấy vợ lấy chồng rồi sinh con đẻ cái, ngày ông trở thành vị trưởng tộc đầy tự hào của một đàn con cháu còn đông hơn nữa.
Than ôi, Abdullah và Pari ơi, những ngày tháng hạnh phúc của Baba Ayub đã đến hồi kết thúc rồi.
Chuyện xảy ra vào một ngày div đến Maidan Sabz. Khi nó tiến đến gần ngôi làng từ hướng núi, mặt đất rung chuyển ầm ầm theo từng bước chân nó. Dân làng vứt bỏ cuốc xẻng, rìu rựa chạy tán loạn. Họ khóa chặt mình trong nhà mà túm tụm với nhau. Khi tiếng bước chân chói tai của div dừng lại, bầu trời phía trên Maidan Sabz tối sầm vì cái bóng của nó. Người ta nói rằng đầu nó nhô ra đôi sừng cong, vai và cái đuôi dữ tợn được bao phủ bởi lớp lông đen thô ráp. Người ta nói mắt nó phát ra ánh sáng đỏ rực. Không ai, ít nhất không ai còn sống biết chắc cả, các con hiểu chứ: Bởi div xơi tái ngay tại chỗ kẻ nào dám liếc trộm dù chỉ một cái thôi. Biết thế, dân làng cứ khôn ngoan dán chặt mắt xuống đất.
Người dân làng nào cũng biết tại sao div đến. Họ đã nghe kể về những lần nó ghé qua những ngôi làng khác và họ chỉ biết ngạc nhiên sao Maidan Sabz lại không bị nó để mắt tới lâu đến vậy. Có lẽ, họ lý luận, cuộc sống nghèo khổ, tằn tiện ở Maidan Sabz lại là cái lợi cho họ, vì con cái họ không được ăn uống đầy đủ bằng nên còi cọc hơn. Dù vậy, cuối cùng vận may cũng thôi mỉm cười với họ.
Cả Maidan Sabz run rẩy nín thở. Các gia đình cầu nguyện div sẽ bỏ qua nhà mình vì họ biết rằng nếu div gõ lên mái nhà họ thì họ sẽ phải cống cho nó một đứa trẻ. Div sẽ quăng đứa trẻ vào bao tải, vắt lên vai, rồi quay trở lại đường nó đã đến. Không ai có cơ hội gặp lại đứa trẻ tội nghiệp ấy nữa. Và nếu nhà đó không chịu thì div sẽ mang hết con cái của họ đi.
Vậy div mang lũ trẻ đi đâu? Tới pháo đài của nó, ngự trên đỉnh núi dốc. Pháo đài của div cách rất xa Maidan Sabz. Phải vượt qua các thung lũng, vài sa mạc, và hai dãy núi mới tới được đó. Mà có người tỉnh táo nào lại làm việc đó chứ, chỉ để gặp thần chết? Họ nói pháo đài đầy những hầm ngục mà ở đó dao phay treo khắp tường. Những cái móc treo thịt lủng lẳng thõng xuống từ trần nhà. Họ nói có những hố lửa và cây xiên khổng lồ. Họ nói nếu div tóm được một kẻ xâm nhập, ai cũng biết dẫu có ghét thịt người lớn tới đâu, nó cũng sẽ xơi tái kẻ đó.
Chắc là các con biết cú gõ đáng sợ của div rơi vào mái nhà nào phải không? Khi nghe thấy tiếng gõ, một tiếng kêu thống khổ liền bật khỏi môi Baba Ayub, còn vợ ông thì ngất lịm. Lũ trẻ khóc lóc sợ hãi, và đau đớn nữa, vì giờ đã biết chắc một trong năm anh chị em sẽ phải ra đi. Từ lúc đó cho tới rạng sáng hôm sau, gia đình họ sẽ phải nộp “cống vật”.
Sao cha có thể diễn tả cho các con nghe nỗi đau mà Baba Ayub và vợ ông phải chịu đựng đêm đó? Không bậc cha mẹ nào đáng bị đặt vào tình huống phải đưa ra một lựa chọn như vậy. Tránh không cho lũ trẻ nghe thấy, Baba Ayub và vợ ông tính xem nên làm gì. Họ bàn bạc rồi lại khóc than, bàn bạc rồi lại khóc than, cứ thế suốt đêm, và khi bình minh dần hé rạng, họ vẫn chưa quyết được - đây có lẽ là điều div muốn, vì sự thiếu quyết đoán của họ sẽ khiến cả năm đứa trẻ phải ra đi thay vì một. Cuối cùng, Baba Ayub gom ngoài nhà năm viên đá tương đồng về hình dáng, kích cỡ. Trên mặt mỗi viên đá, ông nguệch ngoạc tên một đứa con, và khi làm xong, ông quẳng mấy viên đá vào bao tải. Khi ông đưa cái bao cho vợ, bà rụt lại như thể bên trong có rắn độc vậy.
“Tôi không làm được mình ơi,” bà lắc đầu nói với chồng. “Tôi không thể là người chọn lựa được. Tôi không chịu nổi đâu.”
“Tôi cũng thế,” Baba Ayub bắt đầu nói, nhưng khi nhìn qua cửa sổ ông thấy chỉ một chút nữa thôi mặt trời sẽ nhô lên khỏi dãy đồi phía Đông. Thời gian đang cạn dần. Ông đớn đau nhìn năm đứa con. Phải cắt một ngón tay thôi, để bảo vệ cả bàn tay. Ông bèn nhắm mắt lấy một viên đá từ trong bao ra.
Chắc là các con cũng biết Baba Ayub nhặt ra hòn đá nào. Khi nhìn thấy cái tên trên đó, ông ngửa mặt lên trời thét vang. Lòng đau như cắt, ông bế cậu con út lên ôm, và Qais, vốn tin cậy cha mình vô ngần, cũng hạnh phúc quấn tay quanh cổ Baba Ayub. Tới lúc Baba Ayub bỏ cậu ngoài nhà và đóng cửa lại thì cậu mới nhận ra có chuyện không ổn, còn Baba Ayub đứng đó, lệ ứa ra từ đôi mắt nhắm chặt, lưng dựa vào cửa trong khi đứa con trai yêu dấu nắm bàn tay nhỏ xíu gõ cửa thình thình, khóc xin cha cho vào nhà, nhưng Baba Ayub chỉ biết đứng thì thầm, “Tha lỗi cho cha, tha lỗi cho cha,” giữa lúc mặt đất rùng rùng bởi bước chân div, và con trai ông kêu la thất thanh, rồi mặt đất lại rung chuyển từng hồi khi div rời khỏi Maidan Sabz, mãi đến lúc nó đi hẳn mới thôi rúng động, tứ bề yên lặng, chỉ còn tiếng Baba Ayub vẫn nức nở cầu xin Qais tha thứ.
Abdullah ơi. Em gái con ngủ rồi. Đắp chăn lên chân cho em đi con. Đấy. Ngoan lắm. Có lẽ cha nên dừng lại thôi nhỉ. Không à? Con muốn cha kể tiếp ư? Con chắc chứ, con trai? Được rồi.
Cha kể đến đâu rồi nhỉ? À phải rồi. Tiếp đó là bốn mươi ngày để tang. Ngày ngày hàng xóm nấu ăn cho họ và thức cầu nguyện cùng họ. Mọi người mang tới bất cứ món gì có thể - trà, kẹo, bánh mì, hạnh nhân - cả nỗi phân ưu lẫn lòng thương cảm. Baba Ayub hầu như không thể thốt ra dù chỉ là một lời cảm ơn. Ông ngồi trong góc nhà nức nở, những dòng nước mắt tuôn rơi như thể ông định lấy nước mắt mình xua tan cơn hạn hán của ngôi làng. Ngay cả với những kẻ đê mạt nhất, ta cũng không mong chúng phải chịu đựng nỗi đau đớn và bất hạnh như ông.
Bảy năm trôi qua. Hạn hán vẫn hoành hành, và Maidan Sabz rơi vào cảnh càng cùng quẫn hơn. Vài đứa bé chết khát trong nôi. Giếng còn cạn hơn trước, sông thì khô cằn, không như nỗi khổ tâm của ông, một con sông mà mỗi ngày trôi qua lại càng phình to hơn. Ông chẳng giúp ích cho gia đình được nữa. Ông không làm việc, không cầu nguyện, cũng chẳng ăn uống mấy. Vợ con ông đã nói hết nước hết cái, nhưng nào ích gì. Những cậu con trai còn lại phải thay cha gánh vác việc nhà, vì ngày nào Baba Ayub cũng chỉ ngồi bên bờ ruộng, một dáng hình đơn độc ủ rũ đăm đăm dõi về phía núi. Ông cũng thôi nói chuyện với người dân trong làng, vì cho rằng người ta cứ thì thầm to nhỏ sau lưng ông. Họ nói ông là kẻ hèn nhát vì đã bằng lòng cho con trai đi. Rằng ông không xứng đáng làm cha. Một người cha đích thực lẽ ra phải chiến đấu với div. Lẽ ra ông nên hy sinh tính mạng để bảo vệ gia đình.
Một đêm ông nhắc đến chuyện đó với vợ mình.
“Người ta không nói vậy đâu,” vợ ông đáp. “Không ai nghĩ mình là kẻ hèn nhát cả.”
“Tôi nghe thấy mà,” ông nói.
“Đấy là mình nghĩ vậy thôi,” bà nói. Tuy nhiên, bà lại không kể với ông rằng dân làng có xì xào sau lưng ông. Và họ xì xào rằng có lẽ ông phát điên rồi.
Và rồi một ngày, ông chứng minh điều họ nói là đúng. Ông dậy lúc bình minh. Không đánh thức vợ con, ông nhét vài ổ bánh mì vào bao tải, đi giày, giắt liềm bên hông, rồi lên đường.
Ông đi mất bao ngày ròng. Ông đi cho đến khi mặt trời chỉ còn là đốm đỏ mờ mờ phía xa. Đêm xuống ông ngủ trong hang trong lúc gió rít bên ngoài. Hoặc ông ngủ ven sông, dưới những tán cây hay giữa đám sỏi đá. Ông ăn bánh mì mang theo, rồi ăn bất cứ thứ gì tìm thấy được - dâu dại, nấm, mấy con cá mà ông tay không bắt được dưới suối - và có những ngày ông chẳng ăn uống gì sất. Nhưng ông vẫn đi. Khi những người qua đường hỏi ông đi đâu, ông đáp lại thì có người cười, có kẻ vội vã bỏ đi vì sợ rằng ông bị mất trí, cũng có người cầu nguyện cho ông, bởi họ cũng từng mất con vào tay div. Baba Ayub cứ cúi đầu mà bước. Giày long đế thì ông lấy dây buộc chúng vào chân, dây đứt thì ông cuốc bộ bằng chân trần. Cứ thế, ông băng qua các sa mạc, thung lũng và bao dãy núi.
Cuối cùng ông cũng đến được ngọn núi nơi có tòa pháo đài của div ngự trên đỉnh. Quá hăm hở bắt tay vào tìm kiếm, ông không nghỉ ngơi mà trèo ngay, quần áo ông rách tả tơi, chân rướm máu, tóc bám đầy bụi, nhưng quyết tâm thì không gì lay chuyển nổi. Đá lởm chởm cứa rách lòng bàn chân ông. Diều hâu mổ vào má ông khi ông trèo qua tổ chúng. Những cơn gió cuồng nộ sém chút nữa hất tung ông khỏi sườn núi. Nhưng ông vẫn cứ trèo, hết tảng đá này sang tảng đá khác, cho đến khi cuối cùng ông cũng đứng trước cánh cổng pháo đài khổng lồ của div.
Kẻ nào dám? giọng div rền vang khi Baba Ayub ném một hòn đá vào cổng.
Baba Ayub hô to tên mình. “Ta từ làng Maidan Sabz đến,” ông nói.
Ngươi muốn chết hả? Hẳn rồi, dám làm phiền ta ngay tại nhà ta kia mà! Ngươi tới có việc gì?
“Ta tới đây để giết ngươi.”
Giọng nói bên kia cánh cổng ngưng lại. Rồi cổng cót két mở ra, và div đứng đó, sừng sững phủ bóng xuống Baba Ayub với trọn vẹn vẻ choáng ngợp như cơn ác mộng của nó.
Vậy ư? nó hỏi bằng giọng vang như sấm dậy.
“Đúng thế,” Baba Ayub đáp. “Dù thế nào đi nữa, hôm nay một trong hai ta sẽ chết.”
Trong một thoáng có vẻ như div sẽ nện cho ông một cú trời giáng rồi kết liễu ông bằng một nhát cắn với hàm răng sắc nhọn như dao găm. Nhưng có gì đó khiến sinh vật này lưỡng lự. Nó nheo mắt. Có lẽ chính bởi những lời lẽ điên rồ của ông. Có lẽ chính bởi dáng vẻ của ông, quần áo tả tơi, mặt rướm máu, bụi phủ đầy từ đầu tới ngón chân, trên da đầy những vết thương hở. Hoặc có lẽ bởi div không tìm thấy một tia sợ hãi nào trong mắt người đàn ông già nua ấy.
Ngươi nói ngươi từ đâu đến?
“Maidan Sabz,” Baba Ayub đáp.
Nhìn ngươi ta đoán chắc là xa lắm, Maidan Sabz ấy.
“Ta không đến đây để nói chuyện tào lao. Ta đến đây để…”
Div giơ một bàn tay đầy móng vuốt lên. Rồi. Rồi. Ngươi đến đây để giết ta. Ta biết. Nhưng chắc chắn ta được phép nói vài lời cuối cùng trước khi bị cắt tiết chứ nhỉ.
“Được rồi,” Baba Ayub nói. “Nhưng chỉ vài lời thôi đấy.”
Ta cảm ơn ngươi. Div cười nhăn nhở. Xin hỏi ta đã đắc tội gì với ngươi mà phải chết vậy?
“Ngươi đã cướp đứa con út của ta,” Baba Ayub đáp. “Thằng bé là người ta yêu thương nhất trên đời.”
Div lầm bầm đoạn gõ gõ cằm. Ta đã cướp nhiều đứa trẻ khỏi tay nhiều người cha lắm, nó đáp.
Baba Ayub tức giận vung liềm. “Thế thì ta sẽ thay mặt họ trả thù ngươi.”
Ta phải nói là sự can đảm của ngươi khiến ta trào dâng ngưỡng mộ đấy.
“Ngươi chẳng biết gì về can đảm cả,” Baba Ayub nói. “Để can đảm, ắt phải đánh cược một số thứ. Ta tới đây mà chẳng có gì để mất cả.”
Ngươi có mạng để mất đấy, div nói.
“Mạng ta đã bị ngươi lấy đi rồi.”
Div lại lầm bầm và trầm ngâm quan sát Baba Ayub. Một lúc sau nó nói, Thế thì được lắm. Ta sẽ cho ngươi được đọ sức tay đôi. Nhưng trước tiên ta yêu cầu ngươi phải theo ta.
“Nhanh lên,” Baba Ayub nói, “ta hết kiên nhẫn rồi.” Nhưng div đã tiến thẳng vào hành lang khổng lồ, Baba Ayub chỉ còn biết theo sau. Ông theo chân div qua một mê cung hành lang, trần mỗi hành lang gần như chọc vào mây, được chống đỡ bởi những cây cột đồ sộ. Họ băng qua nhiều dãy cầu thang, và những căn phòng đủ rộng để chứa cả Maidan Sabz. Họ cứ bước theo lối đó cho đến khi cuối cùng div dẫn Baba Ayub vào một căn phòng thênh thang, tít phía cuối là một tấm rèm.
Lại gần hơn đi, div khoát tay.
Baba Ayub đến đứng bên div.
Div kéo tấm rèm ra. Đằng sau là cửa sổ kính. Qua cửa sổ, Baba Ayub thấy một khu vườn mênh mông. Những hàng cây bách bao quanh vườn, gốc cây phủ đầy hoa tươi rực rỡ đủ sắc màu. Có hồ bơi lát gạch xanh dương, sân hiên lát đá cẩm thạch và những bãi cỏ xanh mơn mởn. Baba Ayub thấy những hàng rào được tỉa tót mỹ miều, và những đài phun nước róc rách dưới bóng cây lựu. Có sống ba đời ông cũng không thể tưởng tượng ra một nơi đẹp đến vậy.
Nhưng điều thực sự khiến Baba Ayub quỵ ngã là cảnh lũ trẻ vui vẻ chạy nhảy và nô đùa trong vườn. Chúng đuổi nhau qua các lối đi và quanh những hàng cây. Chúng chơi trốn tìm sau hàng rào. Baba Ayub căng mắt tìm trong đám trẻ và cuối cùng cũng tìm ra thứ mình muốn. Thằng bé kia rồi! Cậu con trai Qais, còn sống, và khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Cậu đã cao lên, tóc dài hơn Baba Ayub nhớ. Cậu mặc một tấm áo trắng xinh xắn phía trên chiếc quần dài bảnh bao. Cậu vừa đuổi theo hai đứa bạn vừa cười hân hoan.
“Qais,” Baba Ayub thì thầm, hơi thở phả ra làm mờ lớp kính. Và rồi ông thét gọi tên con trai.
Thằng bé không nghe thấy ngươi đâu, div nói. Cũng chẳng nhìn thấy ngươi.
Baba Ayub nhảy lên nhảy xuống, vẫy tay rồi nện vào cửa kính, cho đến khi div kéo rèm lại.
“Ta không hiểu,” Baba Ayub nói. “Ta cứ tưởng…”
Đó là phần thưởng dành cho ngươi, div nói.
“Ngươi hãy giải thích đi,” Baba Ayub kêu lên.
Ta đã bắt ngươi vượt qua một thử thách.
“Thử thách?”
Thử thách về tình yêu. Ta nhận ra đó quả là một thách thức khắc nghiệt mà ngươi sẽ không tránh khỏi tổn thất nặng nề. Nhưng ngươi đã vượt qua. Đây là phần thưởng của ngươi. Và của thằng bé.
“Ngộ nhỡ ta không chọn,” Baba Ayub hét lên. “Ngộ nhỡ ta không chịu thực hiện thử thách của ngươi?”
Thế thì tất cả các con ngươi sẽ chết, div nói, vì đằng nào chúng cũng bị nguyền rủa rồi, vì là con của một người cha yếu đuối. Một kẻ hèn nhát thay vì day dứt lương tâm lại giương mắt nhìn lũ con mình chết. Ngươi nói ngươi không can đảm nhưng ta thấy phẩm chất đó ở ngươi. Những gì ngươi đã làm, gánh nặng mà ngươi chấp nhận mang, đòi hỏi lòng can đảm. Chính vì điều đó, ta kính nể ngươi.
Baba Ayub yếu ớt vung liềm lên, nhưng nó trượt khỏi tay ông rơi đánh keng xuống sàn cẩm thạch. Đầu gối nhũn ra, ông đành phải ngồi xuống.
Con trai ngươi không nhớ ngươi, div nói tiếp. Đây là cuộc sống của nó bây giờ, và chính mắt ngươi đã thấy nó hạnh phúc thế nào. Ở đây nó được ăn ngon mặc đẹp, có bạn và được yêu thương. Nó được dạy nghệ thuật, ngôn ngữ và khoa học, theo những phương pháp thông tuệ và nhân ái. Nó chẳng muốn gì nữa. Một ngày nào đó, khi đã trưởng thành, nó có thể chọn cách rời đi, và nó sẽ được tự do làm vậy. Có lẽ với tấm lòng thiện lương, nó sẽ thay đổi được cuộc sống của nhiều người và mang hạnh phúc đến cho những kẻ chìm trong đau khổ.
“Ta muốn gặp nó,” Baba Ayub nói. “Ta muốn đưa nó về nhà.”
Thật ư?
Baba Ayub ngước lên nhìn div.
Sinh vật này bước tới chiếc tủ kê sát bức rèm, mở ngăn kéo lấy ra cái đồng hồ cát. Con có biết đó là gì không, Abdullah, đồng hồ cát ấy? Con biết à. Giỏi lắm. Ừm, div lấy cái đồng hồ cát ra, lật ngược lại, và đặt nó dưới chân Baba Ayub.
Ta sẽ cho phép ngươi đưa nó về nhà, div nói. Nếu ngươi đồng ý, nó không bao giờ được quay lại đây nữa. Nếu ngươi từ chối, ngươi không bao giờ được quay lại đây nữa. Khi cát đã chảy hết, ta muốn biết quyết định của ngươi.
Nói xong, div ra khỏi phòng, để lại Baba Ayub với một lựa chọn đau đớn khác.
Ta sẽ đưa nó về nhà, ý nghĩ đó lập tức ập đến với Baba Ayub. Đó là việc ông khao khát nhất, tới từng thớ thịt trong con người ông. Chẳng phải ông đã luôn tưởng tượng ra điều này trong cả ngàn giấc mơ sao? Được ôm Qais bé nhỏ lần nữa, thơm lên má và cảm nhận bàn tay nhỏ mềm mại trong bàn tay ông? Nhưng… Nếu ông đưa cậu về nhà, cuộc sống nào sẽ đợi Qais ở Maidan Sabz đây? Khá lắm cũng chỉ là cuộc sống nhọc nhằn của một người nông dân, như ông bây giờ, có chăng đỡ hơn chút đỉnh. Thật vậy, nếu Qais không chết bởi hạn hán như bao đứa trẻ làng. Thế thì ngươi có thể tha thứ cho bản thân không, Baba Ayub tự vấn, khi biết rằng mình đã dứt nó khỏi cuộc sống sung sướng và nhiều cơ hội vì những lý do ích kỷ? Mặt khác, nếu ông để Qais lại, thì làm sao ông có thể chịu nổi, biết rằng con trai mình vẫn còn sống, biết cậu ở đâu nhưng lại bị cấm gặp cậu? Làm sao ông chịu nổi đây? Baba Ayub nức nở. Mỗi lúc ông lại thêm nản lòng đến nỗi ông cầm chiếc đồng hồ cát lên ném vào tường, khiến nó vỡ vụn thành hàng ngàn mảnh và lớp cát mịn vương vãi khắp sàn nhà.
Div trở lại căn phòng và thấy Baba Ayub đứng ngó xuống lớp thủy tinh vỡ, vai chùng xuống.
“Ngươi là đồ quái vật tàn nhẫn,” Baba Ayub cất tiếng.
Khi nào sống lâu bằng ta, div đáp, ngươi sẽ nhận ra rằng tàn nhẫn và nhân từ chỉ là những sắc thái khác nhau của cùng một màu mà thôi. Ngươi đã lựa chọn chưa?
Baba Ayub lau khô nước mắt, nhặt liềm lên giắt bên hông. Ông lê bước ra cửa, đầu gục xuống.
Ngươi là một người cha tốt, div nói, khi Baba Ayub đi qua nó.
“Cầu cho ngươi bị quay chín trong lửa Địa ngục vì những gì ngươi đã làm với ta,” Baba Ayub rệu rã nói.
Ông ra khỏi phòng, và đang men theo hành lang thì div gọi.
Cầm lấy cái này, div nói. Nó đưa cho Baba Ayub một lọ thủy tinh nhỏ chứa chất lỏng sẫm màu. Hãy uống trên đường về nhà. Tạm biệt.
Baba Ayub cầm lấy cái lọ và lẳng lặng rời đi.
Nhiều ngày sau, vợ ông vẫn đang ngồi bên bờ ruộng nhà, ngóng tin ông cũng đau đáu như khi ông ngồi đó mong mỏi nhìn thấy Qais. Từng ngày trôi qua, niềm hy vọng ông trở lại cứ tiêu tan dần. Dân làng đã dùng thì quá khứ để nói về Baba Ayub. Nhưng rồi một ngày, khi bà đang ngồi trên đụn đất lẩm nhẩm cầu nguyện thì trông thấy một dáng hình mỏng manh từ hướng núi đi về phía Maidan Sabz. Ban đầu bà tưởng ông là một thầy tu Hồi giáo bị lạc, một người đàn ông gầy guộc, quần áo rách như xơ mướp, mắt trũng sâu, thái dương hõm lại, nên mãi đến khi ông tới gần hơn bà mới nhận ra đấy là chồng mình. Tim bà đập rộn ràng vì vui mừng và bà cất tiếng reo nhẹ nhõm.
Sau khi tắm rửa, ăn miếng cơm, uống miếng nước, Baba Ayub nằm nghỉ trong nhà trong khi dân làng vây quanh ông hỏi hết câu này đến câu kia.
Ông đã đi đâu hở Baba Ayub?
Ông đã thấy những gì?
Chuyện gì xảy ra với ông vậy?
Baba Ayub không thể trả lời họ, vì ông không nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra với mình. Ông không nhớ chút gì về chuyến đi, về việc trèo lên ngọn núi div ở, nói chuyện với div, về cung điện hoành tráng, hay căn phòng rộng với tấm rèm. Cứ như thể ông vừa thức dậy khỏi một giấc mơ mà mình đã quên sạch mọi thứ. Ông không nhớ khu vườn bí mật, bọn trẻ, và trên hết, ông không nhớ là đã nhìn thấy con trai mình, Qais, nô đùa giữa đám cây cùng lũ bạn. Thực ra, khi có người nhắc đến tên Qais, Baba Ayub còn chớp mắt khó hiểu. Ai cơ? ông hỏi. Ông không nhớ mình đã từng có một đứa con trai tên là Qais.
Con có hiểu không, Abdullah, rằng đó lại là điều may? Thứ thuốc lú đã xóa sạch những ký ức ấy? Đó là phần thưởng dành cho Baba Ayub vì đã vượt qua thử thách thứ hai của div.
Mùa xuân năm ấy, bầu trời trên Maidan Sabz cuối cùng cũng nứt toác. Trút xuống không phải những giọt mưa phùn nhè nhẹ mấy năm qua mà là một cơn mưa ào ào thác đổ. Trời mưa xối xả, và cả ngôi làng vươn mình khao khát đón mưa. Cả ngày liền, nước rào rào trên những mái nhà Maidan Sabz và nhấn chìm mọi âm thanh khác trên đời. Những giọt mưa nặng hạt, căng tròn lăn khỏi mép lá. Giếng làng được đổ đầy, nước sông dâng lên. Những ngọn đồi phía Đông chuyển sắc xanh tươi. Hoa dại bừng nở và lần đầu tiên trong bao năm qua, đám trẻ nô đùa trên đồng xanh còn lũ bò thảnh thơi nhai cỏ. Ai nấy đều hân hoan.
Mưa tạnh rồi thì dân làng phải khắc phục một số thứ. Mấy bức tường trát bùn đã tan chảy, vài mái nhà võng xuống, và cả vùng đất canh tác biến thành đầm lầy. Nhưng sau khi phải khốn đốn vì nạn hạn hán khắc nghiệt, dân làng Maidan Sabz không có ý kêu than. Tường được dựng lại, mái nhà được sửa sang, và những con kênh tưới tiêu được thoát nước. Tiết thu năm ấy, trong đời Baba Ayub chưa bao giờ được mùa hồ trăn đến thế, và quả vậy, năm sau đó, cả năm sau nữa, hồ trăn ông thu hoạch được càng thêm nhiều và thơm ngon. Ở những thành phố lớn nơi ông bán hàng, Baba Ayub tự hào ngồi sau hàng núi hồ trăn và nở nụ cười tươi rói như người đàn ông hạnh phúc nhất trên đời. Maidan Sabz không bao giờ bị hạn hán hoành hành nữa.
Chẳng còn gì mấy mà kể nữa, Abdullah à. Tuy vậy chắc con băn khoăn, liệu có bao giờ xuất hiện một thanh niên tuấn tú cưỡi ngựa qua ngôi làng trên đường phiêu du? Anh ta có dừng lại uống miếng nước, món mà hiện giờ ngôi làng rất dồi dào, và liệu anh ta có ngồi xuống bẻ bánh mì với người dân, có khi là với chính Baba Ayub? Cha không biết, con trai à. Cha chỉ có thể nói rằng Baba Ayub đã già lắm rồi. Cha có thể cho con biết rằng ông đã thấy các con mình dựng vợ gả chồng, như tâm nguyện nằm lòng của ông, và cha có thể nói rằng các con ông đã sinh cho ông một đàn cháu, mỗi đứa lại mang đến cho Baba Ayub niềm hạnh phúc vô bờ.
Và cha có thể cho con biết rằng có những đêm, không hiểu sao Baba Ayub không ngủ nổi. Dù giờ đã già lắm rồi, ông vẫn đi lại chừng nào còn chống gậy được. Và thế là trong những đêm mất ngủ ấy, ông nhẹ nhàng rời giường mà không làm vợ thức giấc, lấy cây gậy ra khỏi nhà. Ông đi trong bóng tối, cây gậy khua phía trước, gió đêm mơn man trên mặt ông. Có một tảng đá phẳng bên bờ ruộng nhà, ông bèn ngồi xuống. Ông thường ngồi đó một tiếng đồng hồ hoặc hơn, mê mải ngước nhìn các vì sao và những đám mây bồng bềnh trôi qua vầng trăng. Ông nghĩ về cuộc đời dài của mình, biết ơn những phúc lộc và niềm vui mà mình được hưởng. Ông biết, còn mong cầu nhiều hơn nữa thì thật tầm thường. Ông thở dài hạnh phúc, lắng nghe gió từ núi tràn xuống, nghe lũ chim đêm líu lo.
Nhưng thảng hoặc, ông nghĩ mình nghe thấy một tiếng động khác lẫn giữa những thanh âm ấy. Lúc nào cũng vậy, vẫn là tiếng chuông leng keng cao vút. Ông không hiểu sao mình lại nghe thấy âm thanh đó, lẻ loi trong bóng tối, trong khi lũ cừu và dê đều đã ngủ. Có lúc ông tự nhủ mình chẳng nghe thấy gì như vậy cả, có lúc lại tin chắc vào điều ngược lại đến nỗi ông nói vọng vào bóng tối, “Ai ngoài đó vậy? Ai đó? Ra mặt đi.” Nhưng chẳng có lời đáp nào. Baba Ayub không hiểu. Cũng như ông không hiểu tại sao có gì đó gờn gợn, như đoạn cuối một giấc mơ buồn, luôn lướt qua ông bất cứ khi nào ông nghe thấy tiếng chuông leng keng ấy, lần nào cũng khiến ông ngạc nhiên như một cơn gió bất ngờ. Nhưng rồi nó trôi qua, như mọi thứ vậy. Nó cứ trôi qua.
Thế đấy, con trai. Chuyện đến đây là hết. Cha chẳng còn gì để kể nữa. Và giờ thì muộn lắm rồi mà cha cũng đã mệt, sớm mai cha và em con phải dậy rồi. Nên con thổi nến đi. Ngả đầu xuống, nhắm mắt lại. Ngủ ngon nhé, con trai. Sáng ra chúng ta sẽ nói lời tạm biệt.
Và Rồi Núi Vọng Và Rồi Núi Vọng - Khaled Hosseini Và Rồi Núi Vọng