Nguyên tác: Brave New World
Số lần đọc/download: 0 / 116
Cập nhật: 2023-07-16 17:10:04 +0700
Chương 1
M
ột tòa nhà lùn bè bè màu xám chỉ có 34 tầng. Trên cổng chính, dòng chữ TRUNG TÂM ẤP VÀ BẢO QUẢN PHÔI LONDON và trên một lưới bảo vệ, là khẩu hiệu của Nhà nước Toàn cầu:
CỘNG ĐỒNG – ĐỒNG NHẤT – ỔN ĐỊNH
Căn phòng rộng thênh thang ở tầng trệt quay về hướng bắc. Lạnh lùng, dù bên ngoài những ô cửa sổ kia đang là mùa hè, dù trong phòng đang là cái nóng nhiệt đới, một ánh sáng mảnh chói gắt chiếu qua cửa sổ cố tìm một hình nhân mặc quần áo, một bóng dáng xanh xao ớn lạnh, nhưng chỉ thấy thủy tinh, kền và những đồ sứ sáng choang lạnh lẽo của phòng thí nghiệm. Chỉ thấy cái lạnh lẽo mùa đông đáp lại cái lạnh lẽo mùa đông. Áo choàng của nhân viên trắng toát, còn những bàn tay đeo găng cao su màu da xác chết của họ lại tái nhợt. Ánh sáng đông cứng, chết chóc, ma quái. Nó chỉ mượn vẻ sống động rực rỡ từ những hình trụ màu vàng của những chiếc kính hiển vi – những ống sáng bóng như những thỏi bơ vàng óng, trải từng vệt, từng vệt xuống những chiếc bàn làm việc.
“Và đây” – Giám đốc vừa mở cửa vừa nói – “là Phòng Thụ tinh”.
Cúi xuống những dụng cụ của mình, 300 Nhân viên Thụ tinh đang chúi đầu làm việc, khi Giám đốc Trung tâm Ấp và Bảo quản Phôi bước vào phòng, trong không khí im lặng chỉ nghe tiếng hơi thở, những tiếng lẩm nhẩm âm ư hay tiếng huýt đãng trí của sự tập trung miệt mài. Một đoàn sinh viên mới đến, trẻ trung, hồng hào và non nớt, hơi khúm núm sợ sệt, đi theo sau gót viên Giám đốc. Mỗi cậu mang một cuốn sổ tay, cứ mỗi khi ông lớn kia nói, thì lại hốt hoảng ghi nguệch ngoạc vào đấy. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này. Đây là một đặc ân. Vị GĐLÂ (Giám đốc Ấp – Bảo quản Phôi, nói gọn là Giám đốc Lò ấp) của Trung tâm London luôn luôn lấy điệu bộ quan trọng, đích thân dẫn các sinh viên mới của ông đi một vòng quanh các phòng ban.
“Để giúp các anh có một ý niệm chung” – Ông ta giải thích. Vì tất nhiên nếu họ muốn làm công việc của họ một cách thông minh, thì nhất định phải có những ý niệm chung này; nhưng nếu họ muốn là những thành viên tốt và hạnh phúc trong xã hội, thì họ càng ít có những ý niệm ấy bao nhiêu càng tốt. Vì những cái cụ thể, như mọi người đều biết, làm nên đức hạnh và hạnh phúc; còn những cái chung, cái tổng quát, thì về mặt trí tuệ tất nhiên là xấu. Không phải các triết gia, mà những người thợ xẻ và những người sưu tập tem tạo nên xương sống của xã hội.
“Ngày mai” – Ông nói thêm, mỉm cười với chút vẻ dọa dẫm hiền lành – “các anh sẽ ngồi xuống làm việc nghiêm chỉnh. Các anh không còn thời gian cho những ý tưởng tổng quát nữa. Trong khi…”
Trong khi, đó là một đặc ân. Bọn trẻ ngoáy như điên. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này.
Cao, hơi gầy và dáng đi thẳng, Giám đốc hướng đến căn phòng. Ông ta có chiếc cằm dài, những chiếc răng to và hơi hô, khi ông không nói thì được che bằng đôi môi dày đỏ và cong. Trẻ hay già? 30? 50? 55? Khó đoán. Dầu sao thì câu hỏi này vẫn chưa được đặt ra, ở cái thời ổn định này. A.F.632 1 chưa xảy ra để cho người ta hỏi câu hỏi đó.
“Tôi sẽ bắt đầu ngay từ đầu” – GĐLÂ nói, và những sinh viên nhiệt huyết hơn ghi lại ý ông trong sổ tay của họ. Bắt đầu ngay từ đầu. “Đây là những lò ấp” – Ông vẫy tay. Và, mở một cánh cửa cách nhiệt, ông chỉ cho họ những dãy giá xếp chồng lên nhau đựng những ống nghiệm có đánh số. “Đây là mẻ trứng của một tuần. Được giữ” – ông giải thích – “ở thân nhiệt bình thường; trong đó những giao tử đực” – và đây, ông mở một cánh cửa khác – “phải được giữ ở 35 thay vì 37 độ. Thân nhiệt bình thường hoàn toàn tiệt trùng”. Những con cừu đực được bọc trong lò sinh nhiệt không thể làm cha.
Vẫn đứng tựa vào các lò ấp, ông giải thích ngắn gọn cho họ, trong lúc những chiếc bút chì vẫn gấp gáp loằng ngoằng trên các trang giấy, về quá trình thụ tinh hiện đại, tất nhiên đầu tiên nói về dẫn nhập giải phẫu của nó: “Cuộc giải phẫu tiến hành một cách tự nguyện vì lợi ích của xã hội, chưa nói đến chuyện nó mang lại phần thưởng lên đến chín tháng lương” – tiếp tục với một số mô tả về kỹ thuật giữ cho buồng trứng sống và phát triển mạnh sau khi bị cắt rời; chuyển sang xem xét nhiệt độ tối ưu, độ mặn, độ nhớt; ý nói đến thứ chất lỏng trong đó bảo quản những quả trứng rụng và chín, rồi dẫn các đệ tử của mình đến các bàn làm việc, chỉ cho họ thấy chất lỏng ấy được xả ra khỏi các ống nghiệm như thế nào, nó được lấy từng giọt từng giọt một vào những bản-kính-mang-vật của các kính hiển vi như thế nào, những quả trứng mà nó bảo quản được kiểm tra về tình trạng bất thường, được đếm và được chuyển vào những vật đựng có lỗ hình tổ ong như thế nào, rồi (lúc này ông đưa họ sang xem hoạt động này) vật đựng được nhúng vào một dung dịch ấm chứa những tinh trùng bơi lội tự do như thế nào, ở một mật độ tối thiểu một trăm nghìn con trong một centimet khối, ông nhấn mạnh, và sau mười phút, nếu có trứng nào vẫn còn chưa được thụ tinh, nó sẽ được nhúng lần nữa, và nếu cần, lần nữa; những trứng đã thụ tinh quay trở lại lồng ấp như thế nào, nơi các Alpha 2 và các Beta cuối cùng được đóng chai, trong khi các Gamma, Delta và Epsilon lại được mang ra, chỉ sau 36 giờ, để thực hiện Quy trình Bokanovsky 3 .
“Quy trình Bokanovsky” – Giám đốc nhắc lại, và bọn sinh viên gạch dưới những chữ này trong sổ tay của họ.
Một trứng, một phôi, một người trưởng thành bình thường. Nhưng những trứng đã qua quá trình Bokanovsky sẽ đâm chồi, sẽ sinh sôi nảy nở nhanh chóng, sẽ phân chia. Từ 8 lên 96 chồi, và mọi chồi sẽ lớn thành một phôi hình dạng hoàn hảo, và mọi phôi sẽ lớn thành một người lớn trưởng thành đầy đủ. Làm 96 người lớn lên ở nơi trước đây chỉ có một người lớn lên. Tiến bộ.
“Về thực chất” – GĐLÂ kết luận – “việc Bokanovsky-hóa bao gồm một loạt sự hãm phát triển. Chúng ta kiểm soát sự lớn lên bình thường và thật nghịch lý, trứng đáp ứng bằng việc đâm chồi”.
“Đáp ứng bằng việc đâm chồi”. Những chiếc bút chì ngoáy rối rít.
Ông chỉ tay. Trên một băng chuyển động thật chậm, chiếc giá đầy những ống nghiệm được đưa vào chiếc hòm kim loại lớn, rồi từ một hòm khác, giá nhô ra. Máy móc quay ro ro uể oải. “Mất tám phút để một ống đi qua” – ông bảo họ. Tám phút chiếu tia X mạnh là thời gian mà trứng có thể chịu được. Một số trứng chết, số còn lại, được chia làm hai, đa số bật ra bốn chồi, một số tám, tất cả được đưa lại các lồng ấp, tại đó chồi bắt đầu phát triển; rồi, sau hai ngày, bất ngờ được làm ấm lên và kiểm tra. Hai, bốn, tám, những chồi đến lượt bật lên, và sau khi đã bật lên, chúng được cho một liều cồn gần chết, kết quả là bật nẩy chồi lần nữa và có những chồi nẩy ra từ chồi, cứ thế sau đó tiếp tục hãm đến gần chết, để phát triển trong yên tĩnh. Trong thời gian đó, trứng gốc theo đúng luật trở thành một trong từ 8 đến 96 phôi, các cậu thấy không, một sự cải thiện phi thường về bản chất. Những cặp đồng sinh giống nhau, nhưng không phải sinh đôi, sinh ba tầm thường như cái thời sinh đẻ trước đây, mà là một trứng đôi khi ngẫu nhiên phân chia thành hàng chục, hoặc hơn rất nhiều trong cùng một thời gian.
“Rất nhiều” – Giám đốc nhắc lại, và vung hai tay lên, như thể ông đang ban phát sự hào phóng của mình – “Rất nhiều”.
Nhưng một trong các sinh viên ngốc đến mức hỏi như thế có lợi gì.
“Cậu bé giỏi!” – Giám đốc xoay tròn xung quanh cậu ta – “Cậu có thấy không? Có thấy không?” – Ông ta giơ tay lên, cử chỉ của ông thật trang trọng – “Quy trình Bokanovsky là một trong những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội!”.
Những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội!
Những đàn ông đàn bà đạt chuẩn, trong những mẻ giống nhau như đúc. Toàn thể cán bộ của một nhà máy nhỏ được bố trí bằng các sản phẩm của một trứng duy nhất được Bokanovsky-hóa.
“Chín mươi sáu đứa trẻ sinh đồng thời giống nhau như đúc vận hành những cỗ máy giống nhau như đúc” – Giọng nói gần như run lên vì cuồng nhiệt – “Anh sẽ thật sự biết anh đang ở đâu. Lần đầu tiên trong lịch sử”. Ông dẫn khẩu hiệu toàn cầu: “Cộng đồng, Đồng nhất, Ổn định”. Những từ ngữ vĩ đại. Nếu chúng ta có thể Bokanovsky-hóa một cách đồng nhất thì toàn bộ vấn đề sẽ được giải quyết.
Giải quyết bằng những Gamma tiêu chuẩn, những Delta bất biến, những Epsilon đồng nhất. Hàng triệu đồng sinh giống nhau như đúc. Nguyên tắc sản xuất hàng loạt cuối cùng đã được áp dụng cho sinh học.
“Nhưng than ôi” – Giám đốc lắc đầu – “chúng ta không thể Bokanovsky-hóa một cách đồng nhất”.
96 dường như là giới hạn, 72 là trung bình tốt. Từ cùng một trứng và với những giao tử của cùng con đực chế tạo ra nhiều mẻ đồng nhất có thể – đó là điều tốt nhất (đáng buồn là chỉ tốt hàng thứ hai) mà họ có thể làm được. Mà ngay cả chuyện này cũng khó khăn.
Vì trong tự nhiên cần đến 30 năm để 200 trứng đạt đến độ chín. Nhưng công việc của chúng ta là ổn định dân số vào ngay lúc này, bây giờ và ở đây. Nhỏ giọt những đứa trẻ giống nhau trong suốt một phần tư thế kỷ – thì còn có ích lợi gì?
Rõ ràng, chẳng ích lợi gì cả. Nhưng kỹ thuật của Podsnap đã tăng tốc gấp nhiều lần quá trình chín của trứng này. Họ có thể đảm bảo chắc chắn ít nhất 150 trứng chín trong hai năm. Theo lời họ, thụ tinh hay Bokanovsky-hóa nhân với 72, ta sẽ có trung bình gần mười một nghìn anh chị em cùng sinh trong 150 mẻ những trẻ cùng sinh giống nhau như đúc, và trong hai năm có cùng một tuổi.
“Và trong những trường hợp ngoại lệ, chúng ta có thể làm cho một trứng sinh ra cho chúng ta hơn mười lăm nghìn cá nhân trưởng thành.”
Vẫy một chàng trai hồng hào khỏe mạnh tóc vàng hoe vừa ngẫu nhiên đi ngang qua – “Anh Foster” – ông gọi. Chàng trai đến gần. “Anh Foster, anh có thể cho chúng tôi biết kỷ lục của một trứng duy nhất?”
“Mười sáu nghìn lẻ mười hai ở Trung tâm này” – Foster trả lời không hề do dự. Anh ta nói rất nhanh, có đôi mắt linh lợi, và có vẻ thích thú khi dẫn ra những con số. “Mười sáu nghìn lẻ mười hai, trong 189 mẻ đồng nhất. Nhưng tất nhiên họ đã làm tốt hơn nhiều” – anh ta liến thoắng – “trong một số trung tâm nhiệt đới. Singapore đã thường xuyên tạo ra hơn mười sáu nghìn năm trăm; và Mombasa thật sự đã chạm đến vạch mười bảy nghìn. Nhưng lúc đó vì họ có những thuận lợi không công bằng. Ông phải thấy một trứng da đen đáp ứng với tuyến yên! Hết sức đáng kinh ngạc khi ông thường chỉ quen làm việc với chất Âu châu. Còn nữa” – anh ta nói thêm, với một tiếng cười (nhưng trong mắt anh ta có cái ánh hơn thua và hếch cằm lên một cách thách thức) – “còn nữa, chúng tôi muốn đánh bại họ nếu có thể. Hiện giờ tôi đang làm trên một trứng Delta Trừ. Mới chỉ mười tám tháng tuổi. Trên mười hai nghìn bảy trăm con rồi, hoặc mới được gạn hoặc ở dạng phôi. Và vẫn còn rất mạnh. Chúng tôi sẽ đánh bại họ”.
“Tôi thích tinh thần của anh!” – Giám đốc kêu lên và vỗ vai Foster – “Đi với chúng tôi, và cho các cậu sinh viên này hưởng chút kiến thức chuyên môn của anh”.
Foster cười khiêm tốn – “Sẵn lòng” – Họ cùng đi.
Trong Phòng Đóng chai, tất cả đang hoạt động hối hả, hài hòa theo trật tự. Những chiếc nắp làm bằng màng bụng lợn nái tươi sống cắt sẵn thành từng miếng có kích thước thích hợp được ném vào những thang máy nhỏ từ Kho Nội tạng dưới tầng hầm đi lên. Vút, và cạch một cái! Những cửa sập thang máy mở; công nhân đóng chai chỉ việc giơ ra một bàn tay, cầm lấy cái nắp, đưa vào, ấn nhẹ xuống và trước khi chiếc chai đủ thời gian đi ra khỏi tầm với theo băng tải vô tận thì vút, và cạch! Chiếc nắp khác đã bắn tới từ khoảng sâu, sẵn sàng được trượt nhanh vào một chiếc chai khác nữa, rồi chiếc tiếp theo trong cuộc diễu hành chậm chạp và vô tận của băng tải.
Các sinh viên trẻ đứng bên cạnh những công nhân đóng chai. Băng tải diễu qua, lần lượt từng trứng một được chuyển từ các ống nghiệm đến những đồ chứa to hơn, màng bụng được xẻ ra khéo léo, phôi dâu (the morula) được rơi vào vị trí, dung dịch muối được rót vào… và chai đi qua, đến lượt dán nhãn. Tính di truyền, ngày tháng thụ tinh, thành viên của Nhóm Bokanovsky – những chi tiết được chuyển từ ống nghiệm sang chai. Không còn vô danh, mà đã được đặt tên, được nhận dạng, quá trình tiếp tục diễu qua chầm chậm; qua một lỗ mở trên tường, chầm chậm đi vào Phòng Tiền định Vận mệnh Xã hội.
“88 mét khối danh mục” – Foster hào hứng nói khi họ đi vào.
“Chứa tất cả mọi thông tin thích hợp” – Giám đốc thêm.
“Được cập nhật mỗi buổi sáng.”
“Và được phối hợp mỗi buổi chiều.”
“Trên cơ sở của nó họ làm các phép tính.”
“Rất nhiều cá nhân, với những phẩm chất như thế, như thế” – Foster nói.
“Được phân bố theo những số lượng như thế, như thế.”
“Tốc độ Gạn tối ưu tại thời điểm bất kỳ cho trước.”
“Những lượng hao phí không tính trước nhanh chóng tỏ ra hữu ích.”
“Nhanh chóng” – Foster nhắc lại – “Nếu ông biết số giờ làm thêm mà tôi phải đưa vào sau cuộc động đất vừa rồi ở Nhật Bản”. Anh cười vui vẻ và lắc đầu.
“Những người quyết định vận mệnh gửi những con số của họ đến những người thụ tinh.”
“Những người này chuyển cho họ những bào thai mà họ yêu cầu.”
“Và các chai đưa đến đây được quyết định vận mệnh một cách chi tiết.”
“Sau đó chúng được đưa đến Kho Phôi.”
“Nơi bây giờ chúng ta đang tiến đến.”
Và mở một cánh cửa, Foster dẫn đường xuống tầng hầm.
Nhiệt độ vẫn còn nhiệt đới. Họ đi xuống một ánh sáng dày đặc. Hai cửa và một lối đi với một chỗ ngoặt kép bảo hiểm tầng hầm khỏi sự xâm nhập của ánh sáng ban ngày.
“Những bào thai giống như phim ảnh” – Foster dí dỏm, khi anh đẩy mở một cánh cửa thứ hai – “Chúng chỉ có thể chịu được ánh sáng màu đỏ”.
Và dưới tác động của bóng tối ngột ngạt mà đám sinh viên theo anh ta vào, lúc này có thể thấy được và màu đỏ thẫm giống như bóng tối khi ta nhắm mắt vào một buổi chiều hè. Những cạnh sườn phồng lên của những chai hàng nối hàng, tầng tầng lớp lớp lóe lên với vô vàn viên hồng ngọc và giữa những viên hồng ngọc lờ mờ di chuyển những bóng ma đàn ông đàn bà màu đỏ với những đôi mắt màu tía và mọi triệu chứng của bệnh ban đỏ. Những tiếng rì rầm và lách cách của máy móc khuấy động không khí một cách uể oải.
“Cho họ một vài con số, Foster” – Giám đốc nói, ông đã chán nói rồi.
Foster hết sức vui vẻ cho họ một vài con số.
220 mét dài, 200 mét rộng, mười cao. Anh chỉ lên trên. Giống như gà con uống nước, lũ sinh viên ngước lên nhìn trần nhà.
Ba tầng giá: ngang mặt đất, đường hầm thứ nhất, đường hầm thứ hai.
Những khung thép nghều ngào tầng nối tầng nhạt màu chìm vào bóng tối. Gần chúng, ba bóng ma màu đỏ đang bận rộn dỡ những chai rượu cổ hẹp khỏi một cầu thang di động.
Thang máy Phòng Tiền định Xã hội.
Mỗi chai có thể được đặt vào một trong mười lăm chiếc giá, mỗi chiếc mặc dầu không thể nhìn thấy, là một băng chuyền di chuyển với tốc độ 33 lẻ một phần ba centimet/giờ. 267 ngày ở tốc độ 8 mét/ngày. 2136 mét tất cả. Một mạch của tầng hầm ngang mặt đất, một ở đường hầm thứ nhất, một ở đường hầm thứ hai. Và trong 267 buổi sáng, có ánh sáng ban ngày trong Phòng Gạn. Tồn tại gọi là độc lập.
“Nhưng trong khoảng thời gian ấy” – Foster kết luận – “chúng tôi cố gắng làm thật nhiều. Ồ, thật nhiều”. Anh ta cười vẻ hiểu biết và đắc thắng.
“Tôi thích cái tinh thần của anh” – Giám đốc nhắc lại lần nữa – “chúng ta hãy đi một vòng. Anh hãy kể cho họ về mọi thứ, Foster ạ”.
Foster đã kể một cách đầy đủ.
Anh đã kể về việc nuôi bào thai trong ổ bụng. Cho họ nếm thử chất thay thế máu nuôi bào thai. Giải thích tại sao phải kích thích nó bằng placentin và thyroxin. Nói với họ về việc chiết xuất thể vàng (corpus luteum). Chỉ cho họ xem những tia cứ một phần mười hai mét từ zero đến 2040 lại tự động bắn ra. Nói về những liều lượng tăng dần của tuyến yên được quản lý trong 96 mét cuối cùng của đợt. Mô tả tuần hoàn của mẹ nhân tạo được lập trong mỗi chai tại vị trí 112 mét; cho họ xem bể chứa chất Giả-máu (chất lỏng thay thế máu), bơm ly tâm giữ cho chất lỏng chuyển động trên nhau và đẩy nó qua lá phổi nhân tạo và bộ lọc phế thải. Nhắc đến khuynh hướng rắc rối về thiếu máu của bào thai, đến những liều lượng khổng lồ cần cung cấp cho nó chiết từ dạ dày lợn và gan bào thai lừa.
Chỉ cho họ thấy cơ cấu đơn giản trong hai mét cuối cùng của mỗi tám mét, dùng để lắc đồng loạt tất cả các bào thai cho quen với chuyển động. Gợi đến tính nghiêm trọng của cái gọi là “cú sốc gạn” và liệt kê những biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu cú sốc nguy hiểm đó, bằng một tập dượt thích hợp cho bào thai đóng chai. Kể với họ về trắc nghiệm giới tính được tiến hành trong khu vực 200 mét. Giải thích hệ thống được ghi nhãn màu đen trên nền trắng, bằng một chữ T cho giống đực, một vòng tròn cho giống cái, và một dấu hỏi cho những bào thai sẽ trở thành không có khả năng sinh sản.
“Vì tất nhiên” – Foster nói – “trong đại đa số trường hợp, khả năng sinh sản chỉ gây rắc rối. Một buồng trứng có khả năng sinh sản trong 1200 thật sự đã hoàn toàn đủ cho mục đích của chúng tôi. Nhưng chúng tôi muốn có một lựa chọn tốt. Và dĩ nhiên phải là một lựa chọn có hệ số an toàn cực lớn. Do đó chúng tôi cho phép đến 30% bào thai giống cái phát triển bình thường. Những bào thai khác cứ đến 24 mét trong phần còn lại của đợt sẽ được tiêm hormone nam tính. Kết quả: Chúng bị gạn lọc như những bào thai có cấu trúc vô sinh hoàn toàn bình thường (“ngoại trừ” – anh ta phải thừa nhận – “chắc chắn chúng có khuynh hướng mọc râu”), nhưng vô sinh. Đảm bảo vô sinh. “Điều này rốt cuộc” – Foster tiếp tục – “đưa chúng ta ra khỏi vương quốc bắt chước mù quáng của tự nhiên, đi vào thế giới thú vị hơn nhiều của sự sáng tạo con người”.
Anh ta xoa tay. Vì tất nhiên, họ không vừa lòng với việc chỉ nuôi lớn những bào thai: Con bò cái nào cũng có thể làm việc đó.
“Chúng tôi còn định trước số mệnh và thân phận cho chúng. Chúng tôi gạn lọc những trẻ sơ sinh của chúng tôi như những con người xã hội hóa, như những Alpha hay những Epsilon, như những thợ nạo cống tương lai hay những…” – anh ta định nói “những nhà Kiểm soát Thế giới tương lai”, nhưng lại sửa thành – “những Giám đốc Lò ấp tương lai”.
GĐLÂ ghi nhận lời ngợi ca với một nụ cười.
Họ đang đi qua Mét 320 trên Giá 11. Một thợ máy Beta Trừ đang bận rộn dùng tuốc-nơ-vít và cờ-lê trên chiếc bơm máu giả của một chiếc chai đi qua. Tiếng vo vo của động cơ điện nghe trầm sâu do tiếng ken két khi anh ta vặn đai ốc. Xuống, xuống này… Một nhát vặn cuối cùng, liếc nhìn máy đếm vòng và anh ta làm xong. Anh ta bước hai bước xuôi theo dây chuyền và bắt đầu lặp lại thao tác đó với chiếc bơm kế tiếp. “Giảm số vòng quay trong một phút” – Foster giải thích.
“Chất Giả-máu lưu thông chậm hơn, do đó nó đi qua phổi với khoảng thời gian dài hơn và cũng cung cấp cho bào thai ít ô-xy hơn. Để giữ cho bào thai dưới mức trung bình thì không có gì hơn là thiếu ô-xy”. Anh ta lại xoa tay.
“Nhưng tại sao các ông lại muốn giữ cho bào thai dưới mức trung bình?” – Một sinh viên ngây thơ hỏi.
“Đồ con lừa!” – Giám đốc phá vỡ sự im lặng kéo dài – “Chẳng lẽ cậu không thấy một bào thai Epsilon phải có một môi trường Epsilon và một đặc tính di truyền Epsilon hay sao?”
Rõ ràng cậu ta chưa hiểu nên vẫn chìm trong bối rối.
“Đẳng cấp càng thấp, ô-xy càng thiếu” – Foster nói. Cơ quan đầu tiên chịu tổn thương là bộ não, rồi đến bộ xương. Ở mức 70% ô-xy bình thường, sẽ thành người lùn. Dưới 70% – thành quái thai không mắt.
“Tức là một kẻ vô dụng hoàn toàn” – Foster kết luận.
“Trong khi đó” (giọng anh ta trở nên thân mật và sôi nổi), “nếu người ta có thể phát minh ra một kỹ thuật để rút ngắn thời kỳ chín, thì sẽ là một đại thắng lợi và có ích cho xã hội biết bao!”.
“Hãy xem con ngựa – trưởng thành khi sáu tuổi. Voi – mười tuổi. Trong khi đến mười ba tuổi, một người đàn ông chưa trưởng thành về sinh dục, và chỉ trưởng thành đầy đủ ở tuổi hai mươi. Từ đó, tất nhiên, kết quả của sự phát triển trễ, là trí thông minh của con người.”
“Nhưng ở các Epsilon” – Foster nói rất nghiêm chỉnh – “chúng ta không cần trí thông minh con người”.
Không cần và không đạt được nó. Nhưng dù sao trí tuệ của Epsilon cũng chín muồi ở tuổi lên mười, và cơ thể Epsilon không thích hợp để làm việc cho đến tuổi mười tám. Những năm dài non nớt vô dụng uổng phí. Nếu sự phát triển thể chất được thúc nhanh như, nói ví dụ, một con bò, thì tiết kiệm cho Cộng đồng một khoản khổng lồ!
“Khổng lồ!” – Lũ sinh viên rì rầm họa theo. Nhiệt tình của Foster đã truyền cả sang họ.
Anh ta chuyển sang nói sâu về kỹ thuật, về sự phối hợp nội tiết không bình thường khiến cho đàn ông chậm lớn như vậy, đòi hỏi một sự đột biến ở bào thai để giải thích. Có thể gỡ bỏ những tác động của đột biến ở bào thai không? Cá thể bào thai Epsilon có thể, nhờ một kỹ thuật thích hợp, quay trở lại trạng thái bình thường của những con chó, những con bò không? Đó là cả một vấn đề. Và nó gần như đã được giải quyết.
Pilkington, ở Mombasa, đã tạo ra được những cá thể chín muồi về sinh dục ở bốn tuổi, và trưởng thành đầy đủ vào sáu tuổi rưỡi. Một thắng lợi về mặt khoa học! Nhưng vô ích về phương diện xã hội. Đàn ông đàn bà sáu tuổi quá ngu ngốc để có thể làm những công việc thậm chí của Epsilon. Và đó là một quá trình được ăn cả ngã về không; hoặc bạn không thay đổi được gì, hoặc bạn làm thay đổi tất cả.
Họ vẫn đang cố tìm ra một sự dung hòa lý tưởng giữa những người trưởng thành ở tuổi hai mươi, và những người trưởng thành ở tuổi lên sáu. Đến giờ vẫn chưa thành công. Foster thở dài và lắc đầu.
Họ đi tha thẩn xuyên qua ánh chạng vạng màu đỏ thẫm đến khu vực Mét 170 trên Giá 9. Từ điểm này trở đi, Giá 9 được rào kín và chai tiếp tục đoạn hành trình còn lại của nó vào một đường hầm, lâu lâu lại bị ngắt quãng bởi những lỗ mở rộng hai hoặc ba mét.
“Xử lý nhiệt” – Foster nói.
Những đường hầm nóng được thay bằng những đường hầm mát. Khí mát được kết hợp với sự bất tiện dưới dạng những tia X mạnh. Vào lúc chúng được gạn các bào thai khiếp sợ cái lạnh. Chúng được định trước là sẽ di cư vào vùng có tính nhiệt đới, thành những thợ mỏ, thợ quay tơ và thợ sắt.
Sau đó trí óc của chúng được làm để chấp nhận phán xét của thân thể. “Chúng tôi xử lý để chúng phát triển tốt ở chỗ nóng” – Foster kết luận.
“Các đồng nghiệp của chúng tôi ở tầng trên sẽ dạy chúng thích nóng.”
“Và đó” – Giám đốc tham gia vào, vẻ răn dạy – “đó là bí mật của hạnh phúc và cái-giống-như đạo đức – những gì mà anh phải làm. Mọi việc xử lý đều nhằm mục đích đó: Làm cho người ta thích cái số phận xã hội không thể thoái thác của họ”.
Trong khoảng hở giữa hai đường hầm, một nữ y tá đang dùng xi-lanh dài và mịn tiêm vào chất gelatin chứa trong một cái chai đi qua. Các sinh viên và hai người hướng dẫn của họ im lặng đứng nhìn cô ta một lúc.
“Nào, Lenina” – Foster nói khi cuối cùng cô đã rút xi-lanh ra và đứng thẳng người lên.
“Henry!” – Nụ cười của cô lóe đỏ lộ hàm răng san hô.
“Quyến rũ, quyến rũ quá!” – Giám đốc lầm rầm, vỗ nhẹ lên cô hai ba phát, và nhận một nụ cười khá cung kính đáp lại.
“Cô có cái gì cho chúng đấy?” – Foster lấy giọng chuyên nghiệp hỏi.
“Ồ, chứng thương hàn thường gặp và bệnh ngủ ấy mà.”
“Các công nhân nhiệt đới bắt đầu được tiêm chủng tại Mét 150” – Foster giải thích cho các sinh viên – “Các phôi vẫn còn là gái. Chúng tôi chủng ngừa giống này tránh những bệnh tật của đàn ông trong tương lai”. Rồi quay lại Lenina.
“Mười đến năm trên nóc, như thường lệ” – Anh nói.
“Quyến rũ quá” – Giám đốc nói thêm lần nữa và với một phát vỗ cuối cùng, quay đi theo những người kia.
Trên Giá 10 là hàng những công nhân hóa học của thế hệ kế tiếp đang được rèn luyện để chịu được chì, xút ăn da, hắc ín, clorin. Phôi đầu tiên của mẻ 250 phôi kỹ sư máy bay mang tên lửa vừa mới được đưa qua dấu 1100 mét trên Giá 3. Một cơ cấu đặc biệt giữ cho các bình chứa quay đều. “Để cải thiện cảm giác thăng bằng của chúng” – Foster giải thích. Tiến hành sửa chữa bên ngoài một tên lửa ở giữa không trung là công việc cần tính thận trọng. Chúng tôi làm chậm lại tuần hoàn máu khi chúng ở thế thẳng đứng, khiến chúng hơi bị đói và tăng gấp đôi dòng Giả-máu khi chúng lộn đầu xuống dưới. Chúng sẽ học cách kết hợp hỗn loạn với thoải mái, thật ra, chúng chỉ thật sự hạnh phúc khi chúng đứng bằng đầu.
“Và đây” – Foster tiếp tục – “Tôi muốn giới thiệu với các bạn một xử lý hết sức thú vị đối với các Trí thức Alpha Cộng. Chúng tôi có một mẻ lớn những phôi này ở Giá 5. Tầng hầm số một” – anh gọi hai cậu trai đang bắt đầu đi xuống Tầng mặt đất.
“Chúng ở khoảng Mét 900” – anh giải thích – “Bạn không thể thật sự xử lý hữu ích trí tuệ nào cho đến khi các bào thai rụng đuôi. Hãy theo tôi”.
Nhưng Giám đốc đã xem đồng hồ – “Ba giờ kém mười” – ông ta nói – “Tôi nghĩ ta không còn thời gian xem các bào thai trí thức nữa. Chúng ta phải lên Phòng Trẻ nhỏ trước khi lũ trẻ kết thúc giấc ngủ chiều”.
Foster thất vọng – “Ít nhất liếc qua Phòng Gạn một tí” – anh đề nghị.
“Thế cũng được” – Giám đốc mỉm cười độ lượng – “Chỉ liếc qua một tí thôi nhé”.
--------------------------------
1
A.F.632: năm 632 Kỷ nguyên Ford [A.F = Anno Ford]. (ND)
2
Alpha: chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái Hy Lạp. Beta, Gamma, Delta, Epsilon lần lượt là các chữ cái thứ hai, ba, bốn, năm. (ND)
3
Quy trình Bokanovsky: quy trình (hư cấu) nhân bản vô tính người, dựa vào tên của Maurice Bokanovsky (1879 – 1928), luật gia và chính khách cánh tả Pháp, người chủ trương tính hiệu quả của Nhà nước và Xã hội. (ND)