Hướng tới tương lai mà chỉ dựa vào quá khứ, chẳng khác nào lái xe mà cứ chằm chằm nhìn vào kính chiếu hậu.

Herb Brody

 
 
 
 
 
Tác giả: Anne Rice
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Dịch giả: Hải Âu
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
a hiểu...” ma cà rồng trầm ngâm nói, rồi chậm rãi băng qua phòng đi về phía cửa sổ. Hắn đứng đó một hồi lâu, chắn đi ánh sáng mờ trên đường Divisadero và ánh đèn xe lướt qua. Lúc này chàng trai có thể thấy rõ hơn đồ đạc trong phòng, một bàn gỗ sồi tròn, vài cái ghế, một bồn rửa mặt gắn trên tường cùng tấm gương. Anh đặt cặp tài liệu lên bàn và chờ đợi.
“Nhưng anh mang theo bao nhiêu cuộn băng đấy?” ma cà rồng hỏi, giờ đã quay lại để chàng trai có thể nhìn nghiêng người hắn. “Có đủ cho câu chuyện cả một đời?”
“Tất nhiên, nếu đó là một câu chuyện hay. Thỉnh thoảng, nếu may mắn, tôi phỏng vấn ba bốn người một đêm. Nhưng đó phải là câu chuyện hay. Như thế mới công bằng, phải không?”
“Hết sức công bằng,” ma cà rồng trả lời. “Nếu vậy ta sẽ kể anh nghe chuyện đời ta. Ta rất muốn làm thế.”
“Hay lắm,” chàng trai nói. Anh nhanh tay lấy từ trong cặp ra một cái máy ghi âm nhỏ, kiểm tra cuộn băng cassette và pin. “Tôi rất nóng lòng muốn biết tại sao anh lại tin vào chuyện này, tại sao anh...”
“Không,” ma cà rồng cắt ngang. “Chúng ta không bắt đầu như thế. Thiết bị của anh đã sẵn sàng chưa?”
“Rồi,” chàng trai trả lời.
“Ngồi xuống đi. Ta sẽ bật đèn trần.”
“Nhưng tôi tưởng ma cà rồng không thích ánh sáng,” chàng trai nói. “Nếu anh nghĩ bóng tối sẽ làm tăng thêm không khí...” Nhưng rồi anh ngừng lại. Ma cà rồng đang nhìn anh, lưng quay về phía cửa sổ. Giờ chàng trai không thể nhìn thấy gì trên mặt hắn nữa, và có vẻ gì đó ở dáng người im phăng phắc kia khiến anh bị phân tâm. Anh đã định nói tiếp nhưng cuối cùng lại im lặng. Rồi chàng trai thở phào nhẹ nhõm khi ma cà rồng tiến tới bàn và với tay giật công tắc đèn.
Ánh đèn vàng chói lòa lập tức bao phủ toàn bộ căn phòng. Và chàng trai, trân trối nhìn ma cà rồng, không ngăn nổi tiếng hổn hển. Những ngón tay anh run rẩy lùi lại để nắm lấy cạnh bàn. “Chúa ơi!” anh thì thào và cứ thế nhìn chằm chằm ma cà rồng, không nói nên lời.
Ma cà rồng trắng bệch và nhẵn thín, như được khắc từ xương trắng, còn mặt hắn vô hồn như một bức tượng, ngoại trừ cặp mắt xanh lục sáng rực đang nhìn xuống chàng trai một cách chăm chú như hai ngọn lửa trong một cái đầu lâu. Nhưng rồi ma cà rồng nở nụ cười u sầu, và da mặt trắng bợt, nhẵn thín của hắn chuyển động với sự linh hoạt vô cùng nhưng lại với đường nét tối giản của một hình hoạt họa.
“Anh thấy chứ?” hắn nhẹ nhàng hỏi.
Chàng trai rùng mình, đưa cánh tay lên như muốn che chắn cho mình khỏi ánh sáng quá mạnh. Mắt anh chầm chậm nhìn xuống chiếc áo choàng đen với những đường may tinh tế mà anh mới chỉ thoáng thấy trong quán bar, những nếp gấp đổ dài trên áo, chiếc cà vạt lụa đen thắt nơ ở cổ họng, và ánh sáng yếu ớt từ cái cổ áo màu trắng, trắng như da thịt tên ma cà rồng. Anh nhìn chằm chằm mái tóc đen bóng, những gợn tóc được chải gọn về phía sau tai, những lọn xoăn vừa chạm đến mép cổ áo.
“Nào, anh vẫn muốn tiếp tục cuộc phỏng vấn chứ?” ma cà rồng hỏi.
Miệng chàng trai đã há ra trước khi âm thanh buột ra. Anh gật đầu. Rồi anh nói, “Vâng.”
Ma cà rồng chậm rãi ngồi xuống đối diện anh và hơi ngả về phía trước, nói nhẹ nhàng, vẻ tin cẩn, “Đừng sợ. Bật băng đi.”
Sau đó hắn với tay qua bàn. Chàng trai co mình lại, mồ hôi chảy xuống hai bên má. Ma cà rồng đưa một tay giữ chặt vai anh và nói, “Tin ta đi, ta sẽ không làm tổn thương anh. Ta muốn cơ hội này. Bây giờ, nó quan trọng với ta hơn anh tưởng nhiều. Ta muốn anh bắt đầu.” Hắn rút tay lại và ngồi ngay ngắn, chờ đợi.
Phải mất một lúc để chàng trai dùng khăn tay lau mồ hôi trên trán và môi, kiểm tra micro của máy, nhấn nút, và thông báo máy đã bật.
“Không phải ngay từ đầu anh đã là ma cà rồng, đúng chứ?” chàng trai bắt đầu.
“Đúng,” ma cà rồng trả lời. “Khi trở thành ma cà rồng, ta đã hai mươi lăm tuổi, và đó là năm 1791.”
Chàng trai giật mình trước độ chính xác của thời gian và nhắc lại cái năm đó trước khi hỏi tiếp, “Chuyện đã xảy ra thế nào?”
“Ta có một câu trả lời cực kỳ đơn giản. Nhưng ta nghĩ ta không muốn đưa cho anh những câu trả lời đơn giản,” ma cà rồng nói. “Ta muốn kể chính xác những gì đã xảy ra...”
“Vâng,” chàng trai nói nhanh. Anh gấp chiếc khăn tay lại mấy lượt và tiếp tục lau môi thêm lần nữa.
“Đã xảy ra một thảm kịch...” ma ca rồng bắt đầu. “Em trai ta... Cậu ấy đã chết.” Và rồi hắn im bặt, chàng trai bèn hắng giọng và lại lau mặt rồi có phần sốt ruột nhét cái khăn tay vào trong túi.
“Chuyện đó không đau đớn lắm chứ?” anh rụt rè hỏi.
“Nghe có vẻ vậy hả?” ma cà rồng hỏi. “Không đâu,” hắn lắc đầu. “Chỉ là ta mới kể chuyện này cho duy nhất một người. Và cũng từ rất lâu rồi. Không, chuyện này không đau đớn...”
“Khi đó gia đình ta sống ở Louisiana. Chúng ta được cấp cho một mảnh đất và đã trồng hai đồn điền chàm bên sông Mississippi, ngay sát New Orleans...”
“À, hèn gì anh có cái giọng lơ lớ đó...” chàng trai nói khẽ.
Ma cà rồng ngây ra mất một lúc. “Ta nói giọng lơ lớ ư?” Hắn cười phá lên.
Chàng trai đỏ mặt, vội trả lời, “Tôi đã nhận ra khi chúng ta gặp nhau trong quán bar và tôi hỏi anh làm nghề gì. Các phụ âm hơi sắc hơn một chút, chỉ thế thôi. Tôi không đoán nổi đó là tiếng Pháp.”
“Không sao đâu,” ma cà rồng trấn an. “Ta không quá sốc như vừa tỏ ra đâu. Chỉ là thỉnh thoảng ta lại quên mất điều đó. Giờ để ta tiếp tục...”
“Xin mời...” chàng trai nói.
“Ta đang nói tới hai đồn điền. Chúng liên quan rất nhiều đến chuyện ta trở thành ma cà rồng. Nhưng ta sẽ kể từ đầu. Cuộc sống của gia đình ta vừa xa hoa vừa nguyên sơ. Và chúng ta tự thấy điều đó rất hấp dẫn. Anh thấy đấy, gia đình ta sống ở vùng đất ấy sung túc hơn nhiều so với Pháp. Có lẽ chỉ là sự hoang vu của vùng Louisina khiến nó có vẻ như vậy, nhưng đúng là nó có vẻ như vậy thật. Ta nhớ khắp nhà chất đầy những thứ đồ đạc ngoại nhập.” Ma cà rồng mỉm cười. “Và cây đàn clavico; nó mới đẹp làm sao chứ. Em gái ta thường chơi nó. Vào những đêm hè, nó ngồi trước phím đàn, quay lưng lại với những cửa sổ kiểu Pháp đang mở rộng. Ta vẫn còn nhớ giai điệu mảnh và nhanh, cảnh những đầm lầy hiện ra từ phía xa sau lưng con bé, những cây bách bám đầy rêu vươn lên trời. Và còn có những âm thanh của vùng đầm lầy - một bản đồng ca của các sinh vật, tiếng chim kêu. Ta nghĩ chúng ta đã từng yêu thích chúng. Chúng làm cho những đồ đạc bằng gỗ cẩm lai trong nhà trở nên quý giá hơn, âm nhạc tinh tế hơn, hấp dẫn hơn. Kể cả khi những dây đậu tía đâm xuyên qua cửa sổ gác mái và len lỏi vào giữa bức tường vôi trắng chỉ trong chưa đến một năm... Đúng, chúng ta yêu chúng. Tất cả chúng ta, ngoại trừ em trai ta. Ta chưa từng nghe nó phàn nàn về bất cứ điều gì, nhưng ta biết nó cảm thấy ra sao. Rồi cha ta qua đời, ta trở thành trụ cột của gia đình, và ta liên tục phải bảo vệ em trai trước mẹ và em gái. Họ muốn đưa nó đi thăm thú đó đây và đến New Orleans dự các buổi tiệc, nhưng nó ghét những thứ ấy. Ta nghĩ nó đã ngừng hẳn tất cả các hoạt động vui chơi từ lúc chưa đầy mười hai tuổi. Nó chỉ quan tâm đến cầu nguyện, cầu nguyện và những cuốn sách bọc da nói về cuộc đời các vị thánh. Cuối cùng, ta xây cho nó một cái thánh đường nhỏ ở bên ngoài nhà, và nó bắt đầu ở trong đó suốt cả ngày, thường đến tận sẩm tối. Mỉa mai biết bao, thật vậy. Nó quá khác so với chúng ta, quá khác so với tất cả mọi người, còn ta lại quá tầm thường! Ta chẳng có gì đặc biệt.” Ma cà rồng mỉm cười.
“Thỉnh thoảng, buổi tối, ta tới thăm em trai và tìm thấy nó trong khu vườn gần thánh đường, ngồi im phăng phắc trên một chiếc ghế đá, và ta thường kể với nó về những vấn đề của ta, những khó khăn ta gặp phải với cánh nô lệ, rằng ta nghi ngờ tên đốc công hay thời tiết, hay những tên thương lái... mọi vấn đề đã làm nên sự tồn tại của ta. Và nó luôn lắng nghe, chỉ thỉnh thoảng đưa ra vài bình luận, luôn thấu hiểu, vì thế khi rời đi, ta luôn có ấn tượng rõ ràng rằng nó đã giúp ta giải quyết tất cả. Ta không nghĩ mình có thể từ chối nó điều gì, và ta đã thề sẽ cho phép nó trở thành linh mục, khi nào đến lúc, dù rằng ta sẽ đau khổ vô cùng nếu phải mất nó. Tất nhiên, ta đã sai.” Ma cà rồng dừng lại.
Chàng trai chằm chằm nhìn hắn một lúc rồi giật mình như vừa tỉnh khỏi cơn mê, và anh hơi lúng túng, dường như không tìm được đúng từ ngữ để diễn đạt. “À... cậu ấy không muốn trở thành linh mục?” anh hỏi.
Ma cà rồng nhìn anh dò xét như muốn biết ý nghĩa ẩn giấu sau vẻ mặt anh. Rồi hắn nói:
“Ý ta là ta đã sai về chính mình, về việc ta không từ chối nó bất cứ điều gì.” Ánh mắt hắn chậm rãi di chuyển về bức tường ở phía xa và dừng lại ở tấm kính cửa sổ. “Nó bắt đầu nhìn thấy những ảo ảnh.”
“Ảo ảnh thật ấy à?” chàng trai hỏi, nhưng một lần nữa lại tỏ ra lưỡng lự, như thể anh đang nghĩ đến chuyện khác.
“Ta không nghĩ vậy,” ma cà rồng trả lời. “Việc đó bắt đầu từ lúc nó mười lăm tuổi. Hồi đó, nó là một đứa đẹp trai. Nó có làn da mịn màng nhất trần đời và đôi mắt xanh biếc to nhất trần đời. Nó là đứa khỏe khoắn, không gầy như ta bây giờ hay hồi đó nhưng mắt nó... khi nhìn vào chúng, ta cảm thấy như mình đang đứng trơ trọi bên rìa thế giới... trên một bãi biển lộng gió. Không có gì ngoài tiếng sóng ì ầm. Thế đấy,” hắn nói, mắt vẫn dán chặt vào tấm kính cửa sổ, “nó bắt đầu thấy những ảo ảnh. Đầu tiên nó chỉ nói bóng nói gió, rồi nó bắt đầu bỏ bữa. Nó ở luôn trong thánh đường. Dù ngày hay đêm, bất cứ lúc nào ta cũng có thể tìm thấy nó đang quỳ gối trên phiến đá lát trước bàn thờ. Ngay cả cái thánh đường cũng bị nó phớt lờ. Nó không thắp nến, thay vải trải bàn thờ hay thậm chí là quét dọn lá rụng. Một đêm nọ, ta cực kỳ kinh hãi khi đứng dưới giàn hoa hồng quan sát nó trọn một tiếng đồng hồ mà nó không hề nhúc nhích đầu gối, thậm chí hai cánh tay đang dang ra thành hình chữ thập không một giây nào buông lơi. Bọn nô lệ đều nghĩ nó bị điên.” Ma cà rồng nhướng mày trầm ngâm. “Ta đã tin rằng nó chỉ... hơi cuồng tín. Rằng tình yêu dành cho Chúa của nó đã đi quá xa. Sau đó, nó kể với ta về các ảo ảnh. Cả Thánh Dominic và Đức Mẹ Đồng trinh Mary đều đã đến thánh đường thăm nó. Họ bảo nó phải bán tất cả của cải của chúng ta ở Louisiana, tất cả những gì chúng ta có, và dùng tiền để phục vụ cho các công việc của Chúa ở Pháp. Em trai ta phải trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo vĩ đại, để đưa đất nước trở lại sùng đạo như xưa, đẩy lùi chủ nghĩa vô thần và cuộc Cách mạng. Tất nhiên, nó không có tiền riêng. Ta sẽ phải bán đồn điền và căn nhà ở New Orleans của chúng ta để đưa tiền cho nó.”
Ma cà rồng dừng lại một lần nữa. Và chàng trai ngồi im nhìn hắn, vẻ sững sờ. “A... xin lỗi anh,” anh thì thầm. “Anh bảo sao? Anh đã bán đồn điền?”
“Không,” hắn nói, nét mặt vẫn bình tĩnh như trước. “Ta cười nhạo nó. Và nó... nó nổi điên lên. Nó khăng khăng rằng đó là những yêu cầu từ Đức Mẹ Đồng trinh. Ta là ai mà dám coi thường? Là ai?” hắn hỏi nhẹ nhàng, giống như đang nghĩ về lời chất vấn đó một lần nữa. “Là ai? Và nó càng cố thuyết phục ta, ta càng cười. Ta bảo nó rằng chuyện đó thật vớ vẩn, đó là sản phẩm của một tâm trí non nớt, thậm chí bệnh hoạn. Ta bảo nó cái thánh đường đó là một sai lầm; ta sẽ lập tức cho phá bỏ. Em trai ta sẽ đi học ở New Orleans, tống hết những điều điên khùng ra khỏi đầu. Ta không nhớ rõ đã nói những gì. Nhưng ta nhớ cảm giác lúc ấy. Đằng sau lời từ chối đầy khinh miệt của ta là cảm giác thất vọng và một nỗi giận âm ỉ. Ta đã vô cùng thất vọng. Ta đã không tin một lời nào của nó.”
“Nhưng cũng dễ hiểu thôi,” chàng trai nói nhanh khi ma cà rồng ngừng lại, vẻ kinh ngạc của anh dịu đi. “Ý tôi là, liệu có ai tin cậu ấy được không?”
“Có dễ hiểu thật không?” Ma cà rồng nhìn chàng trai. “Ta nghĩ có lẽ đó là thói ích kỷ xấu xa. Để ta giải thích nhé. Ta yêu quý em trai mình, như ta đã nói với anh đấy, và đôi khi ta tin rằng nó là một vị thánh sống. Ta khuyến khích nó cầu nguyện và thiền định, như ta đã nói đấy, và ta sẵn sàng để nó làm linh mục. Và nếu có ai đó kể với ta về một vị thánh ở Arles hay Lourdes có thể nhìn thấy ảo ảnh, ta sẽ tin. Ta là một người Công giáo; ta tin vào các vị thánh. Ta thắp nến trước các bức tượng bằng đá cẩm thạch của họ trong nhà thờ, ta biết các bức tranh vẽ họ, ta biết các biểu tượng, các tên gọi của họ. Nhưng ta không hề, không thể tin được em trai mình. Không những không tin nó đã thấy các ảo ảnh, ta còn không hề thích thú gì cái ý tưởng đó. Tại sao ư? Bởi vì nó là em trai ta. Nó có thể là một người sùng đạo nhiệt thành, chắc chắn là người kỳ quặc, nhưng là vị Thánh Francis vùng Assisi thì không. Em của ta thì không. Không đứa em nào của ta có thể như vậy. Như thế là ích kỷ. Anh hiểu chứ?”
Chàng trai suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nói có, anh nghĩ là anh đã hiểu.
“Có lẽ nó đã thật sự nhìn thấy những ảo ảnh đó,” ma cà rồng nói.
“Thế nghĩa là anh... anh không khẳng định được... rốt cuộc cậu ấy có thấy được ảo ảnh hay không?”
“Không, nhưng ta biết rõ nó không bao giờ dao động, dù chỉ là một giây, trước niềm tin thành kính của mình. Đó là điều bây giờ ta hiểu rõ và là điều ta đã nhận ra được sau cái đêm nó rời khỏi phòng ta trong giận dữ và đau khổ. Nó không hề dao động dù chỉ trong khoảnh khắc. Và chỉ vài phút sau đó, nó đã chết.”
“Chuyện xảy ra như thế nào?” chàng trai hỏi.
“Nó bước khỏi cánh cửa kiểu Pháp đi vào hành lang và đứng ở đầu cầu thang gạch một lúc. Rồi nó ngã xuống. Khi ta xuống đến chân cầu thang thì nó đã chết, bị gãy cổ.” Ma cà rồng lắc đầu kinh hoảng, nhưng nét mặt vẫn bình thản.
“Anh có chứng kiến cậu ấy ngã không?” chàng trai hỏi. “Cậu ấy bị trượt chân à?”
“Không, nhưng hai nô lệ đã chứng kiến chuyện xảy ra. Chúng bảo nó đã ngước lên như thể vừa nhìn thấy cái gì đó trong không khí. Sau đó cơ thể nó tiến về phía trước như bị gió quét. Một trong hai đứa đó kể rằng nó đã mấp máy gì đó khi rơi xuống. Ta cũng nghĩ nó định nói điều gì đó thật, nhưng lúc ấy ta đang quay khỏi cửa sổ. Ta đã quay lưng khi nghe thấy tiếng động.” Ma cà rồng liếc nhìn chiếc máy ghi âm. “Ta không thể tha thứ cho bản thân. Ta cảm thấy phải có trách nhiệm với cái chết của em trai,” hắn nói. “Và tất cả những người khác cũng đều có vẻ cho rằng ta phải chịu trách nhiệm.”
“Nhưng sao lại thế? Anh nói họ đã nhìn thấy cậu ấy ngã xuống mà.”
“Đó không phải lời buộc tội trực tiếp. Họ chỉ biết rằng có chuyện khó chịu nào đó đã xảy ra giữa hai bọn ta. Rằng bọn ta đã cãi nhau trước khi em trai ta ngã. Đám người hầu đã nghe tiếng chúng ta cãi vã, mẹ ta cũng đã nghe thấy. Bà không ngừng gặng hỏi chuyện gì đã xảy ra và tại sao em trai ta, người luôn trầm lặng, lại to tiếng như vậy. Sau đó lại đến lượt em gái ta vào cuộc và tất nhiên ta từ chối trả lời. Ta đã sốc và đau khổ đến nỗi không thể kiên nhẫn với bất kỳ ai, chỉ có một nỗi quyết tâm mơ hồ là không thể để ai biết về những ‘ảo ảnh’ của em trai ta. Họ sẽ không thể biết cuối cùng nó đã biến thành thứ gì, không phải một vị thánh mà chỉ là một... kẻ cuồng tín. Em gái ta đi ngủ thay vì đối mặt với đám tang, còn mẹ ta nói với tất cả mọi người trong giáo xứ rằng có chuyện khủng khiếp gì đó đã xảy ra trong phòng ta mà ta không chịu tiết lộ; thậm chí cả cảnh sát cũng thẩm vấn ta, dựa vào lời khai của chính mẹ ta. Cuối cùng vị linh mục đến gặp ta và yêu cầu được biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng ta không nói với ai cả. Đó chỉ là một cuộc tranh luận, ta nói thế. Ta không có mặt ngoài hành lang khi nó ngã, ta phản đối, và tất cả đều nhìn chằm chằm vào ta như thể ta đã giết em trai mình. Chính ta cũng có cảm giác đó. Ta ngồi trong phòng khách bên cạnh quan tài của em trai trong suốt hai ngày mà nghĩ, ta đã giết nó. Ta cứ chăm chăm nhìn vào mặt nó cho đến khi mắt nhòa đi và ta suýt ngất. Phía sau đầu nó đã bị đập vỡ trên sàn và hình dạng cái đầu trên gối nom thật méo mó. Ta buộc mình phải nhìn chằm chằm vào nó, nghiên cứu nó, chỉ đơn giản là vì ta không thể chịu đựng được nỗi đau và mùi thi thể thối rữa, và hết lần này tới lần khác, ta chỉ muốn thử vạch đôi mắt của em trai mình ra. Tất cả đều là những suy nghĩ điên rồ, thôi thúc điên rồ. Suy nghĩ xâm chiếm toàn bộ tâm trí ta lúc ấy là: ta đã cười nhạo nó; ta đã không tin tưởng nó; ta đã tệ bạc với nó. Nó ngã là do ta.”
“Chuyện này đã thực sự xảy ra sao?” chàng trai thì thào. “Anh đang kể tôi nghe một chuyện... đó là sự thật.”
“Đúng,” ma cà rồng trả lời, nhìn chàng trai không chút ngạc nhiên. “Ta muốn kể cho anh nghe thêm.” Nhưng khi ánh mắt hắn lướt qua chàng trai và quay về cửa sổ, hắn dường như chẳng còn quan tâm mấy đến chàng trai, người có vẻ như đang có một cuộc đấu tranh nội tâm câm lặng nào đó.
“Những anh đã nói rằng anh không dám chắc về những ảo ảnh, rằng anh, một ma cà rồng, không biết chắc chuyện đó có thật hay không...”
“Ta muốn kể theo trình tự,” ma cà rồng nói, “ta muốn kể cho anh chính xác sự việc đã xảy ra như thế nào. Đúng, ta không dám chắc về những ảo ảnh. Cho tới hôm nay.” Và hắn lại đợi cho đến khi chàng trai lên tiếng.
“Vâng, anh cứ kể tiếp đi.”
“Thế đấy, ta đã muốn bán đồn điền. Ta không bao giờ muốn nhìn thấy ngôi nhà hay cái thánh đường đó lần nữa. Cuối cùng ta đã cho một hãng môi giới thuê và điều hành mọi việc để ta không bao giờ phải đến đó nữa, rồi ta chuyển mẹ và em gái tới một trong những ngôi nhà thành phố ở New Orleans. Đương nhiên, ta không thể thoát khỏi em trai ta lấy một phút. Trong đầu ta chẳng có gì ngoài hình ảnh cái xác đang mục rữa của nó. Nó được chôn tại nghĩa trang St. Louis ở New Orleans, và dù đã làm mọi cách để tránh đi qua những cánh cổng đó, ta vẫn luôn nghĩ về nó... Dù say hay tỉnh, ta vẫn nhìn thấy hình ảnh cái xác em trai ta đang mục rữa trong quan tài và điều đó khiến ta không thể chịu đựng được. Ta liên tục mơ thấy nó đang đứng trên đầu cầu thang và ta đang giữ lấy tay nó, nhẹ nhàng khuyên giải nó, nài nỉ nó trở lại phòng ngủ, nói với nó một cách dịu dàng rằng ta tin tưởng nó, rằng nó hẳn vẫn cầu nguyện cho ta có niềm tin ấy. Trong lúc đó, bọn nô lệ ở Pointe du Lac (đồn điền của ta) bắt đầu bàn tán rằng chúng nhìn thấy hồn ma của nó trong hành lang, và tên đốc công không thể trấn áp nổi những lời xì xào. Người ngoài hỏi em gái ta những câu khó chịu về vụ việc, và con bé phát điên. Thực ra nó không điên. Nó chỉ cho rằng phải phản ứng như vậy, nên nó đã làm thế. Ta uống rượu suốt ngày và tránh phải ở nhà. Ta đã sống như một kẻ muốn chết nhưng lại không có dũng khí để tự kết liễu mình. Ta lang thang một mình trên những con phố và ngõ hẻm tối om; ta ngất đi trong những quán rượu. Ta trốn tránh hai cuộc thách đấu vì thờ ơ hơn là vì hèn nhát, và thật lòng muốn bị giết. Rồi một ngày ta bị tấn công. Lẽ ra nó có thể là bất cứ ai - ta sẵn lòng mời gọi cả những gã thủy thủ, những tên trộm, những tên điên, bất cứ ai. Nhưng đó lại là một tên ma cà rồng. Một đêm hắn đã bắt được ta ngay trước cửa nhà và bỏ mặc ta chờ chết, hoặc theo ta nghĩ là thế.”
“Ý anh là... hắn hút máu anh?” chàng trai hỏi.
“Đúng,” ma cà rồng cười. “Hắn hút máu ta. Đó là cách tiến hành đấy.”
“Nhưng anh vẫn sống,” chàng trai cất lời. “Anh nói rằng hắn đã bỏ mặc anh chờ chết.”
“Thế đấy, hắn đã hút máu cho đến lúc ta ngắc ngoải, và hắn nghĩ thế là đủ. Ngay khi có người phát hiện, ta được đưa về giường, bối rối và không hiểu chuyện gì đã xảy ra với mình. Ta cứ tưởng mình đã bị đột qụy vì uống rượu. Ta nghĩ mình sẽ chết chắc và không muốn ăn uống hay nói chuyện với bác sĩ. Mẹ ta đã mời linh mục đến. Khi ấy, ta bị sốt và đã tiết lộ tất cả với linh mục, về những ảo ảnh của em trai ta và những gì ta đã làm. Ta nhớ mình đã ôm chặt lấy cánh tay linh mục, bắt ông ta thề đi thề lại rằng sẽ không nói với ai. ‘Con biết là con không giết nó,’ cuối cùng ta đã nói với linh mục như vậy. ‘Chỉ là con không thể sống khi giờ đây nó đã chết. Không thể, sau cái cách mà con đã đối xử với nó.’
“‘Thật nực cười,’ vị linh mục trả lời. ‘Đương nhiên là con có thể sống. Ngoài việc sống bê tha ra thì con chẳng có vấn đề gì hết. Mẹ con cần con, đó là chưa nói đến em gái con. Còn em trai con, cậu ấy đã bị quỷ ám.’ Ta đã sững sờ đến mức không thể phản bác được. Vị linh mục giải thích rằng ác quỷ đã tạo ra những ảo ảnh. Ác quỷ đang hoành hành. Cả nước Pháp đang nằm dưới sự điều khiển của ác quỷ và Cách mạng chính là chiến thắng lớn nhất của hắn. Em trai ta chỉ có thể được cứu bằng cách trừ tà, cầu nguyện và ăn chay, để người ta đè nó xuống trong lúc con quỷ hoành hành trong cơ thể nó và cố gắng xua đuổi con quỷ đó đi. ‘Ác quỷ đã xô ngã cậu ấy lúc ở cầu thang, đó là điều rõ ràng,’ ông ta khẳng định. ‘Con đã không nói chuyện với em trai mình trong căn phòng đó, con đã nói chuyện với ác quỷ.’ Ta cảm thấy cực kỳ tức giận. Trước đó, ta tin rằng mình đã đi đến cực hạn của bản thân, nhưng ta đã nhầm. Vị linh mục tiếp tục nói về ác quỷ, về những thầy phù thủy trong đám nô lệ và những vụ quỷ ám ở những nơi khác trên thế giới. Và rồi ta trở nên cuồng loạn. Ta phá nát căn phòng đồng thời suýt nữa đã giết chết ông ta.”
“Nhưng sức mạnh của anh... tên ma cà rồng...?” chàng trai hỏi.
“Ta đã mất trí,” ma cà rồng phân trần. “Ta đã làm những việc đáng lẽ không bao giờ làm nếu đầu óc sáng suốt. Cảnh tượng đó bây giờ trở nên lẫn lộn và mờ ảo, kỳ quái. Ta nhớ mình đã đẩy vị linh mục ra khỏi nhà bằng cửa sau, băng qua sân rồi đập đầu ông ta vào bức tường nhà bếp cho tới lúc ông ta ngắc ngoải. Khi cuối cùng ta cũng bị ghìm lại và đang thoi thóp vì kiệt sức, người ta đã cố gắng trích máu để cứu ta. Bọn ngu ngốc. Nhưng ta muốn kể về việc khác. Đó là lúc ta nhận ra sự ích kỷ của bản thân. Có lẽ ta đã nhìn thấy điều này phản chiếu trong vị linh mục. Thái độ khinh bỉ của ông ta với em trai ta cũng giống thái độ của chính ta; sự phê phán vội vàng và nông cạn của ông ta về ác quỷ; việc ông ta phủ nhận rằng sự linh thiêng có thể tồn tại giữa loài người.”
“Nhưng ông ta thực sự tin có chuyện quỷ ám.”
“Đó là một quan niệm trần tục hơn nhiều,” ma cà rồng lập tức nói. “Những người không tin vào Chúa trời hay cái thiện vẫn tin vào ác quỷ. Ta không hiểu tại sao. À không, thực ra là ta hiểu. Ác quỷ luôn hiện hữu. Còn thánh thần thì luôn khó với tới. Nhưng anh phải biết rằng, ‘bị ám’ thực ra chỉ là cách nói tránh đi của ‘bị điên’. Ta cảm thấy đó mới là cái mà vị linh mục muốn nói đến. Ta dám chắc ông ta đã thấy sự điên loạn. Có lẽ ông ta đã chứng kiến những biểu hiện điên loạn và tuyên bố đó là do quỷ ám. Người ta không cần phải nhìn thấy Satan khi hắn bị trục xuất khỏi cơ thể nạn nhân. Nhưng để đứng trước một vị thánh để tin rằng vị thánh đã nhìn thấy ảo ảnh. Không, việc chúng ta từ chối tin rằng điều đó có thể xảy ra trong thế giới loài người, đó là thói ích kỷ.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ như vậy,” chàng trai nói. “Nhưng chuyện gì đã xảy ra với anh? Anh nói họ đã trích máu anh để cứu anh, và việc này suýt nữa đã giết chết anh?”
Ma cà rồng cười lớn. “Đúng vậy. Ta gần như đã chết. Nhưng rồi tên ma cà rồng quay lại vào tối hôm đó. Anh biết đấy, hắn muốn Pointe du Lac - đồn điền của ta. Lúc đó đã rất khuya, em gái ta đã ngủ. Ta nhớ rõ như thể chuyện này mới xảy ra hôm qua vậy. Hắn tiến vào từ sân, nhẹ nhàng mở cánh cửa chính kiểu Pháp, đó là một người đàn ông da trắng cao lớn với mái tóc dày vàng óng và những bước di chuyển mau lẹ, duyên dáng như mèo. Hắn nhẹ nhàng phủ một chiếc khăn choàng lên mắt em gái ta và vặn bấc đèn xuống. Con bé ngủ gật bên cạnh cái chậu và tấm vải mà nó dùng để đắp trán cho ta, và nó không hề cựa quậy dưới lớp khăn cho đến sáng. Nhưng đến lúc ấy, ta đã thay đổi rất nhiều.”
“Thay đổi đó là gì?” chàng trai hỏi.
Ma cà rồng thở dài. Hắn dựa lưng vào ghế và nhìn chằm chằm lên tường. “Lúc đầu, ta tưởng hắn là một bác sĩ khác hoặc được gia đình nhờ tới để thuyết phục ta. Nhưng ta nhanh chóng nhận ra mình đã nhầm. Hắn tiến gần tới giường ta và cúi xuống để mặt hiện rõ dưới ánh đèn, và ta dễ dàng thấy được đây không phải một con người bình thường. Đôi mắt xám sáng rực của hắn và hai bàn tay trắng dài buông hai bên mạng sườn không phải là mắt và tay của người thường. Ngay lúc ấy, ta nghĩ mình đã hiểu rõ mọi thứ và những gì hắn tiết lộ sau đó chẳng qua chỉ và sự tái khẳng định. Ý ta là, thời khắc nhìn thấy hắn, nhìn thấy hào quang tỏa ra từ cơ thể đó và biết mình chưa từng thấy tạo vật tương tự nào trước đây, bản thân ta dường như tan biến. Bản ngã, vốn không thể chấp nhận một tạo vật phi thường nhường ấy trước mặt mình, đã bị nghiền nát. Mọi ý niệm trong ta, kể cả cảm giác tội lỗi lẫn tư tưởng tự hủy hoại mình, đều không còn ý nghĩa gì nữa. Ta đã hoàn toàn quên mất bản thân!” ma cà rồng thốt lên, lặng lẽ đưa bàn tay đặt lên ngực. “Ta đã hoàn toàn quên mất bản thân. Và cùng lúc đó ta cũng hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa của những điều có thể. Từ đó về sau, ta chỉ cảm thấy nỗi kinh ngạc mỗi lúc một tăng. Khi hắn nói chuyện với ta và tiết lộ về cái mà rồi ta sẽ trở thành, về những điều hắn đã từng và vẫn đang trải qua, ta cảm thấy quá khứ của mình như đã cháy rụi. Ta nhìn lại cuộc đời đã qua như một kẻ ngoài cuộc, những phù hoa, sự ích kỷ, việc luôn trốn tránh vô vàn những điều khó chịu vụn vặt, lời ủng hộ sáo rỗng dành cho Chúa trời, Đức Mẹ Đồng trinh và một loạt các vị thánh trong sách kinh của ta, vốn chẳng có lấy một động thái dù nhỏ nhoi nào đối với cuộc đời tù túng, vật chất và ích kỷ mà ta đã sống. Ta đã thấy các thánh thần thật sự... thánh thần của phần lớn loài người. Đồ ăn, thức uống và sự an toàn khi sống theo nguyên tắc. Tất cả đều thành tro tàn.”
Khuôn mặt của chàng trai trên căng thẳng với sự bối rối xen lẫn kinh ngạc. “Và anh quyết định trở thành ma cà rồng?” anh hỏi.
Ma cà rồng im lặng một lúc.
“Quyết định ư? Đó không phải từ chính xác trong trường hợp này. Thế nhưng ta không thể nói rằng đó là điều không thể tránh khỏi từ giây phút hắn bước vào căn phòng ấy. Không, quả thực nó không phải là điều không tránh khỏi. Tuy vậy ta cũng không thể nói là ta đã quyết định. Nói cách khác, khi tên ma cà rồng nói hết những điều hắn cần phải nói, ta nhận ra mình chẳng còn sự lựa chọn nào khác, và ta đã chấp thuận mà không hề hối hận. Ngoại trừ một điều.”
“Ngoại trừ một điều? Đó là gì?”
“Bình minh cuối cùng của ta,” ma cà rồng nói. “Buổi sáng hôm ấy ta vẫn chưa biến thành ma cà rồng. Và đó cũng là lần cuối ta được ngắm mặt trời mọc. Ta nhớ như in khoảnh khắc đó; thế nhưng ta không nghĩ rằng mình còn nhớ bất kỳ buổi bình minh nào trước đó. Ta nhớ tia nắng đầu tiên chiếu vào những khung cửa sổ kiểu Pháp, một ánh nhàn nhạt phía sau tấm rèm cửa bằng ren, và sau đó, ánh nắng càng lúc càng chói chang hơn, xuyên qua những kẽ lá. Rồi mặt trời hiện lên qua khung cửa sổ, tấm rèm cửa bằng ren in bóng xuống nền đá, và ánh nắng phủ lên em gái ta đang ngủ, bóng tấm rèm in lên chiếc khăn choàng trên đầu và vai con bé. Bắt đầu cảm thấy nóng, nó bèn hất khăn ra nhưng vẫn không tỉnh dậy, rồi nắng chiếu lên mắt nó và nó nhắm chặt mắt. Rồi nắng lan tới cái bàn nơi con bé đang gối đầu lên tay mình, rồi chói rực lên trên nước trong bình. Và ta có thể cảm thấy nắng trên tay, trên tấm chăn rồi trên khuôn mặt ta. Ta nằm trên giường suy nghĩ về tất cả những điều mà tên ma cà rồng đã nói, rồi ta từ biệt buổi bình minh và trở thành một ma cà rồng. Đó là... buổi bình minh cuối cùng.”
Ma cà rồng nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa. Và khi hắn ngừng câu chuyện, sự im lặng đột nhiên bao trùm đến mức chàng trai như nghe được cả sự tĩnh lặng. Rồi anh nghe thấy tiếng ồn từ đường phố. Tiếng một chiếc xe tải inh ỏi. Ánh sáng của ngọn đèn hắt lên tường bị xao động vì những rung lắc của nó. Rồi chiếc xe biến mất.
“Anh có nhớ nhung nó không?” chàng trai hỏi nhỏ.
“Không hẳn,” ma cà rồng đáp. “Còn nhiều thứ khác đáng nhớ hơn. Nhưng chúng ta đã nói tới đâu rồi nhỉ? Anh muốn biết chuyện gì đã xảy ra, làm thế nào mà ta biến thành ma cà rồng.”
“Phải,” chàng trai nói. “Chính xác thì anh đã biến đổi như thế nào?”
“Ta không thể nói một cách chính xác,” ma cà rồng trả lời. “Ta sẽ kể cho anh nghe, dùng những từ ngữ để giúp anh hiểu được tầm quan trọng của nó với ta. Nhưng đừng chờ đợi ở ta những giải thích rõ ràng, cũng như ta không thể giải thích rõ ràng về kinh nghiệm tình dục trong khi anh chưa bao giờ trải qua vậy.”
Chàng trai hình như định hỏi thêm, nhưng ma cà rồng đã nối lời. “Như ta đã nói với anh, tên ma cà rồng Lestat này muốn đồn điền của ta. Một lý do khá trần tục để ban cho ta sự sống vĩnh hằng; nhưng hắn không phải kẻ sáng suốt cho lắm. Ta nên nói là hắn đã không coi thế giới ma cà rồng vốn nhỏ bé là một câu lạc bộ kén chọn thành viên. Lestat còn một rắc rối rất con người, một người cha mù không hề biết và không được phép biết con trai mình là ma cà rồng. Cuộc sống ở New Orleans dần trở nên khó khăn và hắn cần Pointe du Lac để có tiền chăm lo cho người cha đó.
“Bọn ta đã đến đồn điền vào tối hôm sau, để người cha mù trong buồng ngủ lớn, và ta bắt đầu giai đoạn biến đổi từ người sang ma cà rồng. Ta không thể nói rõ trong giai đoạn ấy có những bước cụ thể gì - dù tất nhiên, có một bước mà sau đó ta không thể thoái lui. Nhưng có một vài hành động cần thiết, và việc đầu tiên trong số đó là cái chết của tên đốc công. Lestat giết ông ta trong khi ông ta đang ngủ. Ta phải quan sát và chấp nhận hành động đó; có nghĩa là, chứng kiến ma cà rồng đoạt mạng con người là cách ta chứng minh cam kết của mình và là một phần của quá trình chuyển hóa. Đây chính là phần khó khăn nhất đối với ta. Ta đã nói với anh rồi đấy, ta không sợ cái chết đến với mình, chỉ hơi ghê tay khi phải tự kết liễu. Nhưng ta lại vô cùng trân trọng mạng sống của người khác, và một nỗi ghê sợ cái chết đã vừa nảy sinh sau sự ra đi của em trai ta. Ta đã phải chứng kiến cảnh tên đốc công bừng tỉnh và cố dùng hai tay quật ngã Lestat, nhưng thất bại và chỉ biết nằm vùng vẫy dưới vòng tay của hắn, rồi cuối cùng rũ xuống, người cạn khô máu. Và chết. Ông ta không chết ngay. Bọn ta đã đứng trong phòng ngủ và nhìn ông ta hấp hối suốt gần một giờ đồng hồ. Một phần của sự biến đổi, như ta đã nói. Nếu không, Lestat đã chẳng buồn ở lại. Tiếp đó, phải xử lý cái xác. Việc này khiến ta phát bệnh. Vì cơ thể vốn đang bị sốt và suy nhược nên ta càng cảm thấy buồn nôn khi phải chạm vào cái xác đó. Lestat chỉ cười và nói một cách tàn nhẫn rằng khi nào trở thành ma cà rồng đích thực, ta sẽ thấy khác hẳn và ta cũng sẽ cười như hắn. Nhưng hắn đã nhầm. Ta không bao giờ cười vào cái chết cho dù ta có là nguyên nhân của nó một cách thường xuyên tới mức nào.
“Nhưng để ta kể cho tuần tự. Ta và Lestat đánh xe ngựa chạy dọc bờ sông, tiến ra cánh đồng hoang và để tên đốc công lại đó. Bọn ta lột áo ông ta, vét sạch tiền trong người và đổ đầy rượu lên miệng ông ta. Ta biết vợ ông ta, lúc ấy đang sống ở New Orleans, và biết chắc chắn bà ta sẽ rất đau khổ khi cái xác được phát hiện. Nhưng còn hơn cả buồn thay cho bà ta, ta thấy đau đớn vì bà ta sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã thật sự xảy ra, rằng không phải chồng mình đã bị bọn cướp đường tấn công trong lúc say rượu. Khi chúng ta đánh đập cái xác cho mặt và vai ông ta thâm tím đi, ta mỗi lúc một kích động hơn. Tất nhiên, anh phải hiểu rằng suốt quãng thời gian đó, Lestat trong mắt ta hiển nhiên là một nhân vật phi thường. Hắn cũng như các thiên thần trong Kinh Thánh, đều khác xa đám người trần mắt thịt. Nhưng vì sức ép này, sự say mê của ta với hắn trở thành gượng ép. Ta đã nhìn nhận việc mình biến thành ma cà rồng theo hai cách khác nhau: thứ nhất đơn giản là vì ta đã bị mê hoặc; Lestat đã khiến ta choáng ngợp trong lúc ta thập tử nhất sinh. Nhưng cách nhìn thứ hai là vì ta khao khát được tự hủy hoại mình. Ta mong bị nguyền rủa đời đời. Đó là một cánh cửa mở mà Lestat đã bước qua trong cả hai trường hợp. Giờ đây, ta không còn hủy hoại chính mình nữa mà chỉ hủy hoại kẻ khác. Tên đốc công, vợ ông ta, gia đình ông ta. Ta cảm thấy ghê tởm bản thân và có lẽ đã chạy trốn khỏi Lestat, trí não ta đã suy sụp hoàn toàn, nếu không phải rằng bằng trực giác không bao giờ sai, hắn đoán ngay ra điều đó. Trực giác không bao giờ sai...” Ma cà rồng trầm ngâm. “Trực giác của ma cà rồng mạnh đến mức chỉ một biến đổi nhỏ trên mặt con người cũng rõ ràng như một cử chỉ. Lestat còn có khả năng tính toán thời gian siêu phàm. Hắn vội vã đẩy ta vào xe và thúc ngựa chạy về nhà. ‘Tôi muốn chết,’ ta bắt đầu rên lên. ‘Tôi không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi muốn chết. Tôi biết anh đủ quyền năng lấy mạng tôi. Hãy để tôi được chết.’ Ta không dám nhìn vào hắn, ta không muốn bị vẻ đẹp siêu nhiên của hắn mê hoặc. Hắn chỉ gọi tên ta một cách nhẹ nhàng, rồi bật cười. Như ta đã nói, hắn quyết tâm phải có được đồn điền của ta.”
“Nhưng liệu hắn có để anh đi không?” chàng trai hỏi. “Trong bất kỳ hoàn cảnh nào?”
“Ta không biết. Giờ khi đã hiểu Lestat hơn, ta đoán rằng hắn thà giết chết còn hơn thả cho ta đi. Nhưng anh đã thấy rồi đấy, cái chết chính là điều ta muốn vào thời điểm đó. Nó không phải vấn đề to tát gì. Ta đã từng nghĩ ta muốn chết đi cho xong. Ngay khi về đến nhà, ta nhảy xuống khỏi xe và đi bộ như một thây ma, tiến tới cầu thang gạch nơi em trai ta đã ngã. Vì tên đốc công có nơi ở riêng, căn nhà đã bị bỏ trống trong nhiều tháng, và nhiệt độ và sự ẩm ướt của Louisiana khiến các bậc cầu thang bị nứt toác ra. Cỏ và hoa dại mọc len vào những kẽ nứt. Ta nhớ cảm giác ẩm ướt và mát mẻ của đêm ấy, khi ta ngồi bệt xuống bậc thang, ngả đầu lên gạch và đưa tay chạm vào những bông hoa dại cuống mịn như sáp. Ta dùng một tay nhổ một khóm hoa ra khỏi đất mềm. ‘Tôi muốn chết, hãy giết tôi đi. Giết tôi ngay đi,’ ta nói với tên ma ca rồng. ‘Bây giờ tôi đã phạm tội giết người. Tôi không thể sống được nữa.’ Nhưng hắn chỉ cười khẩy với thái độ như một người đang phải nhẫn nhịn lắng nghe những lời dối trá. Và sau đó, trong nháy mắt, hắn lao tới và ghì ta xuống như đã làm với tên đốc công. Ta điên cuồng phản kháng. Ta đá vào ngực hắn mạnh hết sức trong khi răng hắn cắn ngập cổ họng ta, cơn sốt rần rật trên thái dương ta. Và bằng một chuyển động của toàn cơ thể, nhanh tới mức ta không thể nhận thấy, hắn đã rời ra và đứng khinh khỉnh ở chân cầu thang. ‘Tôi tưởng anh muốn chết cơ mà, Louis,’ hắn nói.”
Chàng trai khẽ buột kêu lên khi tên ma cà rồng nói ra tên mình, và tên ma cà rồng xác nhận bằng một câu ngắn gọn, “Phải, đó là tên ta,” và tiếp tục câu chuyện.
“Ta nằm đó, đối mặt với sự nhu nhược và đần độn của bản thân,” hắn nói. “Có lẽ chính sự đối mặt đó sẽ có lúc giúp ta đủ can đảm để thực sự tự lấy mạng mình, chứ không cần phải rên rỉ cầu xin kẻ khác làm thay. Khi đó, ta tưởng tượng ra mình vung lên một con dao, ngày qua ngày chịu đựng sự tra tấn như một cách sám hối, tha thiết mong rằng cái chết sẽ bất ngờ tìm đến, để linh hồn ta được tha thứ vĩnh viễn. Rồi ta thấy mình như một ảo ảnh đứng ở đầu cầu thang, đúng nơi em trai ta đã từng đứng, rồi ta tự gieo mình xuống nền gạch.
“Nhưng ta không có đủ thời gian để tỏ ra can đảm. Hoặc ta có thể nói là, trong kế hoạch của Lestat không có thời gian cho bất cứ điều gì nằm ngoài kế hoạch của hắn. ‘Bây giờ, nghe ta nói đây, Louis,’ hắn cất lời và nằm xuống ngay bên cạnh ta trên bậc thang, cử chỉ của hắn duyên dáng và thân mật đến mức khiến ta trong thoáng chốc nghĩ đến một tình nhân. Ta co rúm người. Nhưng hắn vòng cánh tay phải sang ôm lấy ta và kéo ta lại sát ngực. Ta chưa bao giờ ở gần hắn như thế, và trong ánh đèn mờ ảo, ta có thể thấy ánh sáng rực rỡ từ đôi mắt và làn da cứng đờ như mặt nạ của hắn. Khi ta cố gắng cựa mình, hắn ép những ngón tay phải lên môi ta và nói, ‘Im nào. Tôi sẽ hút cạn máu anh, đưa anh đến ngưỡng cửa cái chết và tôi muốn anh yên lặng, yên lặng đến mức có thể nghe được tiếng máu chảy trong huyết quản anh, đến mức nghe được tiếng dòng máu đó chảy qua cơ thể tôi. Chỉ có trí óc và ý chí mới giúp anh sống sót.’ Ta muốn phản kháng, nhưng hắn ép những ngón tay xuống mạnh hơn để kiểm soát toàn bộ cơ thể ta; và ngay khi ta không còn gắng sức thoát ra, hắn liền cắm ngập răng vào cổ ta.”
Chàng trai trợn tròn mắt. Anh đã lùi lại mỗi lúc một sâu hơn trên ghế khi ma cà rồng kể chuyện, và giờ đây, khuôn mặt anh trở nên căng thẳng, đôi mắt anh nhíu lại như đang chuẩn bị đón một đòn mạnh.
“Anh đã bao giờ bị mất rất nhiều máu chưa?” ma cà rồng hỏi. “Anh có biết cảm giác đó là như thế nào không?”
Chàng trai mấp máy môi như muốn nói không, nhưng chẳng âm thanh nào phát ra. Anh hắng giọng. “Không,” anh nói.
“Những ngọn nến đang cháy ở phòng khách tầng trên, nơi bọn ta đã lên kế hoạch cho cái chết của tên đốc công. Một ngọn đèn dầu trên hành lang lắc lư trong gió. Tất cả hòa lại và tạo ra một ánh sáng mờ ảo, như thể một vật thể vàng chói đang chao liệng trên đầu ta, lơ lửng trên cầu thang, khẽ vướng vào hàng rào và cuộn lại như khói. ‘Nghe đây, hãy cố mở to mắt ra,’ Lestat thì thầm với ta, môi hắn lướt trên cổ ta. Chuyển động của đôi môi hắn khiến toàn thân ta sởn gai gốc, truyền đến ta một cảm xúc mãnh liệt gần giống với khoái lạc...”
Ma cà rồng trầm ngâm, bàn tay phải đỡ dưới cằm, ngón trỏ nhẹ nhàng vuốt ve vùng da thịt ấy. “Kết quả là trong vòng vài phút, ta trở nên yếu ớt đến mức tê liệt. Cơn hoảng loạn xâm chiếm khi ta nhận ra mình không thể nói được nữa. Tất nhiên, Lestat vẫn giữ chặt ta, cánh tay hắn đè nặng lên ta như một thanh sắt. Khi hắn rút răng khỏi cổ ta, ta cảm thấy chúng rõ ràng đến nỗi hai vết cắn như trở nên sâu hoắm, chứa đầy đau đớn. Rồi hắn cúi xuống cái đầu mềm oặt của ta, đưa tay phải lên và cắn mạnh vào cổ tay. Máu từ tay hắn chảy xuống áo sơ mi và áo khoác ta, và hắn nhìn cảnh tượng đó với cặp mắt nheo lại, sáng lấp lánh. Ta cảm thấy như hắn sẽ quan sát đến vĩnh viễn, và ánh sáng mờ ảo giờ đang treo lơ lửng phía sau đầu hắn như làm nền cho một bóng ma. Ta biết điều hắn sắp sửa làm trước khi hắn làm điều đó, và ta chờ đợi trong sự yếu hèn như thể ta đã chờ từ lâu. Hắn nhấn cổ tay đầy máu của mình vào miệng ta và nói bằng giọng ra lệnh, thoáng chút sốt ruột: ‘Uống đi, Louis.’ Và ta đã uống. ‘Bình tĩnh nào, Louis,’ và ‘Nhanh lên,’ hắn thì thầm với ta những câu đó vô số lần. Ta uống, hút máu từ vết cắn trên tay hắn, lần đầu tiên từ thuở sơ sinh được trải nghiệm cảm giác hân hoan khi hút chất dinh dưỡng, cả cơ thể và mọi giác quan chỉ tập trung vào dòng chảy đang nuôi sống mình. Sau đó, một điều kỳ lạ xảy ra.” Ma cà rồng ngồi dựa vào ghế, đôi mày hắn khẽ cau lại.
“Thật thảm hại khi cố miêu tả những điều không thể miêu tả được,” hắn nói, giọng nhỏ lại như đang thì thầm.
Chàng trai ngồi lặng im như bị đóng băng.
“Ta đã không nhìn thấy gì ngoài ánh sáng ấy trong lúc ta tiếp tục hút máu hắn. Và rồi điều tiếp theo, điều tiếp theo là âm thanh. Ban đầu là một tiếng gầm trầm đục, rồi chuyển thành những tiếng nện uỳnh uỳnh như tiếng trống, mỗi lúc một to hơn, như thể một sinh vật khổng lồ nào đó đang từ từ tiến ra từ một khu rừng thẳm tối, kỳ quái, vừa đi vừa nện một cái trống to tướng. Và sau đó là tiếng đập trống khác, như thể một tên khổng lồ khác đang tiến tới sau lưng hắn, và mỗi tên trong số chúng chỉ biết đập cái trống của riêng mình, không chú ý gì đến nhịp điệu của tên kia. Âm thanh đó mỗi lúc một to hơn cho tới khi nó tràn vào mọi giác quan của ta chứ không chỉ là thính giác, giần giật trên môi ta, ngón tay ta, mọi thớ thịt trên cơ thể ta và tĩnh mạch ta. Đặc biệt là trong tĩnh mạch, những tiếng trống cứ vang lên dồn dập hết đợt này đến đợt khác; rồi Lestat đột ngột kéo cổ tay hắn khỏi miệng ta, và ta mở mắt ra và ghìm mình lại khi thấy mình đang với theo cổ tay hắn, cố gắng bắt lấy để đưa cổ tay đó quay lại miệng mình bằng mọi giá; ta ghìm mình lại vì ta nhận ra tiếng trống thứ nhất chính là tiếng đập của tim mình và tiếng trống thứ hai là tim Lestat.” Ma cà rồng thở dài. “Anh có hiểu điều ta đang nói không?”
Chàng trai định mở miệng nói, nhưng rồi anh lắc đầu. “Không... ý tôi là, có,” anh nói. “Ý tôi là, tôi...”
“Tất nhiên,” ma cà rồng nói, quay mặt sang hướng khác.
“Chờ đã, chờ đã!” chàng trai hốt hoảng. “Cuộn băng sắp hết rồi. Tôi phải lật sang mặt khác.”
Ma cà rồng kiên nhẫn quan sát chàng trai thay mặt băng.
“Sau đó có chuyện gì?” chàng trai hỏi. Mặt anh ướt lấp nhấp và anh vội lấy khăn tay lau sạch.
“Ta đã có khả năng nhìn của một ma cà rồng,” ma cà rồng nói, giọng giờ hơi hững hờ. Gần như bị phân tâm. Rồi hắn đứng lên. “Lestat đã lại đứng chân cầu thang và ta nhìn hắn theo cái cách ta chưa bao giờ có thể dùng để nhìn hắn. Lúc trước ta thấy hắn trắng bệch, khiến cho trong đêm, làn da hắn dường như phát sáng; còn giờ đây, ta thấy hắn tròn vẹn với đủ máu thịt: hắn đang tỏa sáng rực rỡ chứ không phải chỉ phát sáng. Và rồi ta nhận ra, không chỉ Lestat thay đổi mà trước mắt ta, tất cả mọi thứ đều đã thay đổi.
“Ta giống như một kẻ lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy các màu sắc và hình dạng. Ta mê mẩn những cái nút trên áo khoác màu đen của Lestat đến nỗi ta không nhìn gì khác suốt một lúc lâu. Rồi Lestat phá lên cười và ta nghe tiếng cười của hắn như thể chưa từng nghe thấy gì trước kia. Nhịp đập trái tim hắn vẫn vang tới tai ta như tiếng trống và hòa lẫn vào đó là tiếng cười khô sắc như kim loại. Mới đầu thì thật hỗn độn, các âm thanh pha trộn vào nhau, giống như nhiều cái chuông đang được rung lên cùng một lúc, rồi ta học được cách phân tách các âm thanh, và sau đó chúng chồng chéo lên nhau, êm dịu nhưng khác biệt, dồn dập nhưng rời rạc, một tràng tiếng cười.” Ma cà rồng mỉm cười ra chiều thích thú. “Một tràng tiếng chuông.”
‘Đừng nhìn nút áo tôi nữa,’ Lestat nói. ‘Hãy ra chỗ khóm cây kia đi. Trút bỏ khỏi cơ thể mình tất cả phần người thừa thãi còn lại đi, và đừng quá say sưa với màn đêm đến nỗi lạc đường nhé!’
“Tất nhiên đó là một mệnh lệnh khôn ngoan. Khi nhìn thấy mặt trăng chiếu trên phiến đá lát đường, ta đã bị quyến rũ đến mức chắc hẳn đã ngồi đó suốt một tiếng đồng hồ. Ta bước qua thánh đường của đứa em trai quá cố mà không mảy may nghĩ đến nó, rồi đứng giữa những cây dương và sồi, ta nghe tiếng đêm như thể nó là bản hợp xướng của những người phụ nữ đang thì thầm, mời gọi ta ngả vào ngực họ. Cơ thể ta vẫn chưa hoàn toàn biến đổi, và ngay khi ta quen được một chút với những âm thanh và hình ảnh, cơn đau tìm đến. Toàn bộ phần chất lỏng con người còn lại buộc phải được tống khứ ra khỏi cơ thể ta. Là một con người, ta sắp chết, nhưng là một ma cà rồng, ta đang sống một cách trọn vẹn; và với những giác quan vừa được thức tỉnh, ta đã phải kiểm soát cái chết của cơ thể ta với sự khổ sở và rồi, cuối cùng, cảm giác hoảng sợ. Ta chạy ngược về phía cầu thang, tìm đến phòng khách nơi Lestat đã bắt đầu làm việc với đống giấy tờ liên quan đến đồn điền, xem xét những chi phí và lợi nhuận trong năm qua. ‘Anh là một gã giàu có,’ hắn nói khi ta tiến vào. ‘Có chuyện gì đó đã xảy ra với tôi,’ ta hét lên.
‘Anh sắp chết, thế thôi, đừng có ngốc. Anh không có cái đèn dầu nào à? Kiếm được từng này tiền mà ngoài cái đèn lồng kia thì không có lấy một chút dầu cá voi nào. Đem cái đèn đấy đến cho tôi xem nào.’
‘Sắp chết!’ ta hét lên. ‘Sắp chết!’
‘Ai mà chả phải thế,’ hắn nói, nhất định không chịu giúp gì ta. Mỗi khi nhớ lại chuyện đó, ta vẫn thấy khinh thường hắn. Không phải vì ta sợ, mà vì Lestat lẽ ra đã có thể khiến ta nhìn nhận cuộc biến đổi này một cách tôn kính. Hắn lẽ ra nên trấn an ta và bảo ta nên chứng kiến cái chết một cách bình tĩnh và say mê như ta đã ngắm nhìn và cảm nhận màn đêm. Nhưng hắn đã không làm thế. Lestat không bao giờ là một ma cà rồng giống như ta. Không hề.” Ma cà rồng không nói câu này với vẻ khoác lác. Hắn nói như thể hắn thực sự sẽ hành động theo một cách khác.
“Và thế đấy,” hắn thở dài. “Ta đang chết đi rất nhanh, có nghĩa là khả năng cảm nhận nỗi sợ cũng biến mất nhanh chóng y như vậy. Ta chỉ tiếc là đã không chú ý hơn vào quá trình biến đổi. Lestat đúng là một kẻ cực kỳ ngu ngốc. Ôi, thiên địa quỷ thần ơi!’ hắn hét lên. ‘Anh có nhận ra là tôi chẳng chuẩn bị gì cho anh không? Tôi mới đần độn làm sao chứ.’ Ta suýt nữa đã buột miệng nói rằng, ‘Đúng, anh đúng là thằng đần’ nhưng đã kịp kìm lại. ‘Sáng nay anh sẽ phải ngủ chung với tôi thôi. Tôi quên mất phải chuẩn bị cho anh một chiếc quan tài,’ Lestat bảo ta.”
Ma cà rồng bật cười. “Từ ‘quan tài’ khiến ta kinh hoàng đến mức ta cho rằng nó đã hấp thụ toàn bộ khả năng cảm nhận sợ hãi còn rơi rớt lại trong ta. Sau đó, ta hơi giật mình khi nghĩ đến ý tưởng phải chia sẻ cùng một cỗ quan tài với Lestat. Lúc này hắn đang ở trong phòng của cha hắn, tạm biệt ông già để sáng mai sẽ quay lại. ‘Nhưng con đi đâu? Tại sao con lại phải sống theo lịch trình như vậy!’ ông già tra hỏi và Lestat bắt đầu mất kiên nhẫn. Trước đó, hắn đã rất tử tế vời ông già, tử tế đến mức gần như buồn nôn, nhưng bây giờ hắn đã trở thành một kẻ vũ phu. ‘Tôi đã chăm lo cho ông, đúng không? Tôi cho ông sống trong một cái nhà tốt hơn nhiều lần cái nhà ông từng cho tôi! Bây giờ, nếu tôi muốn ngủ cả ngày và uống rượu cả đêm, tôi sẽ làm, lão già chết tiệt!’ Ông già bắt đầu rên rỉ. Chỉ có cảm xúc kỳ dị và cảm giác kiệt quệ chưa từng thấy mới khiến ta không thể lên tiếng phản đối. Ta quan sát tất cả qua cánh cửa mở, bị lôi cuốn bởi màu sắc của tấm khăn trải giường và sắc thái kích động rõ rệt trên mặt ông già. Tĩnh mạch màu xanh của lão đang rung lên dưới lớp da thịt màu hồng và xam xám. Ngay cả hàm răng vàng xỉn của lão cũng lôi cuốn ta và đôi môi nhăn nheo đang run rẩy cũng khiến ta gần như bị thôi miên. ‘Ôi, con trai ta, con trai ta,’ lão rên lên, tất nhiên chẳng mảy may nghi ngờ bản chất của con trai mình. ‘Tốt thôi, vậy con cứ việc đi. Cha biết con có một tình nhân đâu đó; con sẽ đến gặp cô ta ngay khi chồng cô ta đã ra khỏi nhà vào buổi sáng. Hãy đưa chuỗi tràng hạt cho cha. Chuỗi tràng hạt của cha đâu rồi?’ Lestat lẩm bẩm chửi rủa và đưa chuỗi tràng hạt cho lão...”
“Nhưng...” chàng trai lên tiếng.
“Sao?” ma cà rồng nói. “Ta e là mình đã không để anh hỏi cho đủ.”
“Tôi muốn hỏi là tràng hạt thường gắn kèm thánh giá phải không?”
“A, lời đồn về thánh giá!” Ma cà rồng cười lớn. “Anh đang ám chỉ đến nỗi sợ của ma cà rồng đối với thánh giá, phải không?”
“Tôi tưởng là ma cà rồng không thể nhìn thánh giá,” chàng trai nói.
“Vớ vẩn, anh bạn ạ, cực kỳ vớ vẩn. Ta có thể nhìn bất cứ thứ gì ta thích. Và ta lại đặc biệt thích nhìn thánh giá.”
“Vậy còn những lời đồn thổi về lỗ khóa thì sao? Rằng các vị có thể biến thành khí và luồn qua đó.”
“Ta ước gì mình có thể,” ma cà rồng lại cười lớn. “Đó hẳn là một trò thú vị. Nếu có thể, ta sẽ luồn qua thật nhiều lỗ khóa khác nhau để cảm nhận sự mơn trớn từ các hình dạng khác biệt của chúng. Không đâu.” Ma cà rồng lắc đầu. “Đó là chuyện, nói theo cách bây giờ của các anh là thế nào nhỉ... vớ vỉn à?”
Chàng trai không kìm được mà phải bật cười. Rồi vẻ mặt anh trở nên nghiêm túc.
“Anh không cần phải rụt rè với ta như vậy,” ma cà rồng nói. “Định hỏi gì?”
“Thế còn chuyện cọc đâm xuyên qua tim thì sao?”, chàng trai nói, má hơi ửng hồng.
“Cũng vậy thôi,” ma cà rồng đáp. “Vớ vỉn,” hắn nói, cẩn thận phát âm rõ ràng từng từ, lại khiến chàng trai mỉm cười. “Không có phép thuật huyền bí nào cả. Sao anh không hút một điếu thuốc đi? Ta thấy anh có thuốc trong túi áo sơ mi.”
“Vâng, cảm ơn anh,” chàng trai nói như thể đó là một gợi ý tuyệt vời. Nhưng khi đưa điếu thuốc lên môi, tay anh run đến mức làm hỏng cả que diêm mỏng mảnh đầu tiên.
“Cho phép ta nhé,” ma cà rồng nói. Rồi với tay lấy bao diêm, hắn nhanh chóng đưa một que diêm lên châm thuốc giúp chàng trai. Chàng trai rít một hơi, ánh mắt vẫn dán chặt lên những ngón tay của ma cà rồng. Ma cà rồng rút tay về, áo sượt qua mặt bàn sột soạt. “Có một cái gạt tàn trên bồn rửa tay đấy,” ma cà rồng nói và chàng trai bồn chồn đứng lên đi lấy nó.
Anh nhìn chằm chằm vào mấy đầu mẩu thuốc lá trong đó, rồi, nhìn thấy cái thùng rác nhỏ để bên dưới, bèn đổ sạch chiếc gạt tàn và nhanh nhẹn đặt nó lên bàn. Ngón tay anh để lại những vết ướt trên điếu thuốc khi anh đặt nó xuống. “Đây có phải là phòng của anh không?” chàng trai hỏi.
“Không,” ma cà rồng đáp. “Chỉ là một căn phòng thôi.”
“Sau đó đã có chuyện gì?” chàng trai hỏi. Ma cà rồng dường như đang mải nhìn theo làn khói thuốc đang quây lại dưới bóng đèn trần.
“À... Sau đó bọn ta cấp tốc trở về New Orleans,” hắn nói. “Quan tài của Lestat được đặt trong một căn phòng tồi tàn gần pháo đài.”
“Và anh đã chui vào quan tài chứ?”
“Ta không có lựa chọn khác. Ta đã xin Lestat để cho ta ngủ trong tủ quần áo, nhưng hắn chỉ phá lên cười. ‘Anh không biết bây giờ anh là cái gì sao?’ hắn hỏi. Ta vẫn tiếp tục cầu xin: ‘Nhưng nó có phép thuật không? Tại sao lại nhất định phải là quan tài?’ Nhưng hắn chỉ càng cười lớn hơn. Ta không thể chấp nhận được ý tưởng đó; nhưng trong khi bọn ta tranh cãi, ta nhận ra mình không có nỗi sợ hãi thực sự nào cả. Đó là một nhận thức kỳ lạ. Suốt phần đời trước kia, ta mắc chứng sợ những nơi chật hẹp. Sinh ra và lớn lên trong những ngôi nhà kiểu Pháp với trần nhà cao ngất và cửa sổ chạm sàn, ta dị ứng với việc bị quây lại trong không gian kín. Ta cảm thấy bức bối ngay cả khi phải ngồi trong phòng xưng tội của nhà thờ. Đó đã từng là một nỗi sợ bình thường. Và bây giờ, khi đang gắng sức tranh cãi với Lestat, ta nhận ra mình không còn để cảm thấy nỗi sợ đó nữa. Ta chỉ đang nhớ về nó. Bám chặt lấy nó theo thói quen, vì không có khả năng cảm nhận sự tự do mới mẻ đầy hưng phấn. ‘Anh đang cư xử rất tồi đấy,’ cuối cùng Lestat thốt lên. ‘Bình minh sắp đến rồi. Tôi nên để mặc cho anh chết. Anh sẽ chết, anh biết đấy. Mặt trời sẽ hủy diệt dòng máu tôi đã truyền cho anh, đến từng tế bào, từng tĩnh mạch. Nhưng lẽ ra anh không nên sợ hãi như thế này. Tôi nghĩ anh giống như một người đã mất tay, mất chân rồi mà vẫn khăng khăng là mình còn cảm giác đau ở bộ phận đó.’ Phải, đó là điều tích cực, thông minh và hữu ích nhất mà Lestat từng nói với ta, và ta đã bị thuyết phục ngay. ‘Bây giờ, tôi sẽ chui vào quan tài,’ Lestat nói bằng giọng khinh khỉnh nhất, ‘và nếu biết cân nhắc nặng nhẹ thì anh hãy chui vào cùng tôi’. Ta đã chấp nhận. Ta bước vào quan tài, nằm úp lên người Lestat, cực kỳ bối rối vì không thấy sợ hãi và tràn ngập một nỗi ghê tởm vì phải nằm áp sát người Lestat, dù hắn là một sinh vật rất đẹp đẽ và quyến rũ. Rồi hắn đóng nắp quan tài lại. Sau đó, ta hỏi hắn liệu ta đã chết hẳn chưa. Ta cảm thấy cơ thể ngứa ran lên, từ đầu xuống chân. ‘Chưa, nếu thế thì tức là anh chưa chết,’ hắn trả lời. ‘Khi cái chết tìm đến, anh sẽ chỉ nghe và nhìn thấy sự thay đổi đó nhưng chẳng cảm thấy gì cả. Đêm nay, anh sẽ chết. Giờ thì ngủ đi’.”
“Hắn nói đúng không? Có phải khi anh tỉnh giấc thì anh đã... chết?”
“Đúng vậy, điều gì đó đã thay đổi, ta phải nói như vậy. Ta rõ ràng còn sống nhưng cơ thể thì đã chết. Nó phải mất một thời gian để tẩy sạch những thứ dư thừa còn sót lại của phần người trong ta, nhưng nó đã chết hẳn. Và cùng với nhận thức đó là lại thêm một giai đoạn nữa, ta mất dần những cảm xúc của con người. Điều đầu tiên ta thấy được một cách rõ ràng, ngay cả trong lúc ta và Lestat đang đẩy chiếc quan tài vào xe tang rồi ăn cắp một chiếc quan tài khác từ nhà xác, là ta không ưa Lestat chút nào. Ta còn lâu mới ngang hàng với Lestat, nhưng ta đã gần gũi với hắn hơn nhiều so với lúc cơ thể chưa hoàn toàn chết. Ta không thể diễn đạt điều này rõ ràng được, hiển nhiên là vì anh bây giờ cũng giống y như ta trước khi cơ thể ta chết đi. Anh không hiểu được đâu. Nhưng trước khi ta chết, Lestat là trải nghiệm chấn động nhất trong đời ta. Điếu thuốc của anh đã tàn rồi kìa.”
“Ôi!” Chàng trai vội dúi đầu lọc vào chiếc gạt tàn. “Ý anh là khi khoảng cách giữa anh và Lestat biến mất, hắn cũng mất luôn cả... sức lôi cuốn của mình?” anh hỏi, vội dán mắt vào ma cà rồng, hai bàn tay giờ lấy thuốc và diêm đã dễ dàng hơn ban nãy nhiều.
“Đúng, chính xác là như vậy,” ma cà rồng thốt lên với vẻ vui thích rõ rệt.
“Chuyến trở về Pointe du Lac thật hồi hộp. Và đối với ta, tiếng lải nhải của Lestat là thứ nhạt nhẽo và nhàm chán nhất trên đời. Tất nhiên như ta đã nói, ta còn lâu mới ngang hàng được với hắn. Ta còn phải học cách điều khiển tứ chi chết rũ của ta... nói theo cách so sánh của hắn. Và ta đã nhận thức rõ điều này ngay trong đêm đó, khi lần đầu tiên phải giết người.”
Ma cà rồng vươn cánh tay qua bàn và nhẹ nhàng gạt một đốm tàn thuốc rơi trên ve áo chàng trai, và chàng trai hoảng hốt nhìn chằm chằm bàn tay ma cà rồng đang rút về. “Xin lỗi,” ma cà rồng nói. “Ta không định làm anh sợ.”
“Thứ lỗi cho tôi,” chàng trai nói. “Tôi chỉ đột nhiên nhận thấy cánh tay anh... dài một cách bất thường. Anh có thể với tay ra rất xa mà không cần di chuyển!”
“Không,” ma cà rồng nói, thả tay lại trên hai đầu gối đang bắt chéo. “Ta chỉ tiến về phía trước nhanh đến mức anh không kịp nhận ra. Đó là một ảo giác.”
“Anh đã tiến về phía trước? Nhưng anh có làm thế đâu. Anh vẫn đang ngồi hệt như hiện giờ, lưng vẫn dựa vào ghế.”
“Không,” ma cà rồng quả quyết lặp lại. “Ta đã tiến về phía trước, như ta đã nói. Đây, để ta làm lại lần nữa.” Và ma cà rồng làm lại lần nữa, còn chàng trai thì nhìn chằm chằm với vẻ mặt vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. “Anh vẫn không thể nhìn ra,” ma cà rồng nói. “Nhưng, thấy không, nếu nhìn cánh tay ta đang dang ra đây, thực sự nó không dài hơn bình thường chút nào.” Và ma cà rồng giơ cánh tay lên, ngón trỏ chỉ thẳng lên trời như thể hắn là một thiên thần sắp sửa đưa ra lời phán của Chúa. “Anh vừa có một trải nghiệm về khác biệt cơ bản giữa điều anh thấy và điều ta thấy. Động tác đó ta thấy rất chậm rãi, thậm chí là lừ đừ. Và tiếng ngón tay ta vuốt lên áo anh nghe rất rõ. Xin thú thật là ta không muốn làm anh sợ đâu. Nhưng có lẽ qua đây anh đã thấy được hành trình trở về Pointe du Lac của ta là một ngày hội của những trải nghiệm mới, đến cả những cành cây lắc lư trong gió cũng khiến ta thích thú.”
“Vâng,” chàng trai đáp lời, nhưng người vẫn run lên.
Ma cà rồng nhìn anh một lúc, rồi nói, “Ta đang kể với anh về...”
“Về lần giết người đầu tiên của anh,” chàng trai nối lời.
“Phải. Nhưng trước tiên ta phải nói là đồn điền đã trở nên hỗn loạn. Người ta đã phát hiện ra xác tên đốc công, thêm cả ông già mù trong phòng ngủ lớn, và không ai giải thích được sự xuất hiện của ông già mù ở đó. Không ai có thể tìm thấy ta ở New Orleans. Em gái ta đã báo cảnh sát và cả tá cảnh sát đã có mặt ở Pointe du Lac khi ta về đến nơi. Dĩ nhiên, lúc đó, trời đã tối hẳn và Lestat dặn ta tuyệt đối không được để cảnh sát nhìn thấy, dù là trong ánh sáng yếu nhất, đặc biệt là khi cơ thể đang trong trạng thái dễ gây chú ý như hiện nay; vì vậy, ta nói chuyện với họ trên con đường giữa hai hàng sỏi trước đồn điền, giả vờ không nghe thấy khi họ yêu cầu đi vào trong. Ta nói đã có mặt ở Pointe du Lac đêm hôm trước và ông già mù là khách của ta. Còn tên đốc công thì không có đây mà đã đi New Orleans vì công chuyện.
“Sau khi vụ việc đã được giải quyết ổn thỏa, với thái độ lãnh đạm đáng ngưỡng mộ của ta, thì ta lại phải đối mặt với khó khăn của đồn điền. Bọn nô lệ đã rối loạn, công việc bê trễ. Hồi đó chúng ta có một nhà máy lớn để làm thuốc nhuộm từ chàm và vai trò quản lý của tên đốc công cực kỳ quan trọng. Nhưng ta có một vài tên nô lệ rất thông minh lẽ ra đã có thể làm thay công việc đó từ lâu, nếu ta biết nhận ra trí thông minh của chúng và không e sợ diện mạo cùng lối cư xử đậm chất Phi châu của chúng. Giờ ta cân nhắc kỹ lưỡng và cho chúng quyền tự quản lý công việc ở đồn điền. Ta hứa tên nào làm việc tốt nhất sẽ được cho căn nhà cũ của tên đốc công. Hai phụ nữ trẻ chuyển từ công việc ngoài đồng để vào nhà chăm sóc cho cha Lestat, và ta bảo chúng ta muốn được riêng tư hết mức, nói rằng chúng sẽ được trọng thưởng không chỉ vì sự phục vụ của chúng mà còn vì tránh quấy nhiễu ta và Lestat. Thời điểm đó, ta không hề nhận ra rằng bọn nô lệ sẽ là những kẻ đầu tiên, và có lẽ là duy nhất, nghi ngờ ta và Lestat không phải người thường. Ta không nhận ra rằng bọn chúng có nhiều kinh nghiệm hơn hẳn người da trắng với những thứ siêu nhiên huyền bí. Với sự non nớt của bản thân, ta vẫn coi bọn chúng chỉ như một lũ trẻ con man rợ vừa được chế độ nô lệ thuần hóa. Ta đã phạm phải một sai lầm tồi tệ. Nhưng hãy để ta kể đúng câu chuyện. Ta đang kể cho anh nghe về lần đầu tiên ta tự giết người. Vì thiếu lương tri đúng như bản chất của hắn, Lestat đã phá hỏng mọi chuyện.”
“Phá hỏng?” chàng trai nhắc lại.
“Lẽ ra ta không nên bắt đầu từ con người. Nhưng đó là việc ta đã buộc phải tự nhận ra. Ngay sau khi rắc rối với cảnh sát và bọn nô lệ đã được giải quyết, Lestat và ta cùng tiến vào vùng đầm lầy. Đêm đã về khuya, mấy túp lều của bọn nô lệ đã tối đen như mực. Chẳng mấy chốc, tia sáng cuối cùng của Pointe du Lac cũng khuất khỏi tầm mắt và ta bắt đầu trở nên kích động. Những cảm xúc xa xưa sống dậy một lần nữa: hồi ức về nỗi sợ hãi, sự hoang mang. Nếu Lestat có chút thông minh thiên bẩm nào thì ắt hắn đã giải thích mọi thứ cho ta một cách kiên nhẫn và nhẹ nhàng - rằng ta không cần phải sợ đầm lầy rằng rắn hay côn trùng cũng không thể làm hại ta được nữa, và rằng ta nên tập trung hơn vào khả năng nhìn được trong bóng đêm. Nhưng không, hắn chỉ làm ta càng thêm căng thẳng bằng những lời nhạo báng. Hắn chỉ quan tâm đến con mồi, chỉ muốn kết thúc lễ nhập môn của ta để chuyển sang việc khác.
“Và khi cuối cùng chúng ta cũng tìm thấy con mồi, hắn lập tức ép ta hành động. Đó là một toán nô lệ bỏ trốn. Lestat đã ghé thăm bọn họ từ trước và đã giết khoảng một phần tư nhóm này bằng cách nấp trong bóng tối và chờ cho đến khi có người rời khỏi đống lửa trại hoặc tấn công khi chúng đang ngủ. Bọn nô lệ không hề biết đến sự hiện diện của Lestat. Chúng ta phải chờ gần một tiếng đồng hồ cho đến khi một gã đàn ông, tất cả bọn chúng đều là đàn ông, cuối cùng cũng rời khỏi nhóm và tiến tới lùm cây. Anh ta cởi khóa quần giải tỏa nhu cầu, và khi anh ta quay lưng đi, Lestat lay ta nói, ‘Bắt nó đi.’” Ma cà rồng mỉm cười khi thấy chàng trai trợn tròn mắt. “Có lẽ lúc đó ta cũng tỏ ra kinh hãi y như anh bây giờ,” hắn nói. “Nhưng hồi đó ta không biết mình có thể giết thú vật thay cho con người. Ta vội nói và ta không thể bắt anh ta được. Và tên nô lệ đã nghe thấy tiếng ta. Anh ta quay lại, lưng quay về phía ánh lửa xa xa, chăm chú nhìn vào bóng tối. Rồi, nhanh chóng và lặng lẽ, anh ta rút một con dao dài ra khỏi thắt lưng. Trên người anh ta chỉ độc có cái quần và thắt lưng, một gã trai cao lớn, rắn rỏi và bóng lưỡng. Anh ta lầm bầm gì đó bằng thổ ngữ Pháp rồi tiến lên phía trước. Ta nhận ra là mặc dù ta và Lestat có thể thấy rất rõ tên nô lệ trong bóng đêm, anh ta lại không thể thấy được bọn ta. Bằng một chuyển động nhanh đến đáng kinh ngạc, Lestat ập đến phía sau tên nô lệ và kẹp cổ đồng thời khóa chặt cánh tay trái anh ta. Tên nô lệ thét lên và hất ngã Lestat. Lestat cắm phập răng, và tên nô lệ đờ người như vừa bị rắn cắn. Anh ta khuỵu gối xuống, và Lestat vội vàng hút máu anh ta trong khi những tên nô lệ khác đang ập tới. ‘Anh làm ta phát ốm,’ hắn nói khi quay về chỗ ta. Như thể những con côn trùng đen ngòm hoàn toàn chìm trong bóng đêm, bọn ta quan sát đám nô lệ di chuyển, không hề biết đến sự hiện diện của chúng ta, chúng lôi tên nô lệ bị thương trở về, rồi tỏa đi quanh lùm cây tìm kẻ tấn công. ‘Đi nào, chúng ta phải bắt được một tên nữa trước khi tất cả bọn chúng trở lại trại,’ Lestat nói. Ngay sau đó, bọn ta đuổi theo một tên khác bị tách khỏi nhóm. Ta vẫn vô cùng kích động, tin rằng ta không thể ép mình tấn công và không muốn làm việc đó. Như ta đã nói, có nhiều điều lẽ ra Lestat phải nói và làm. Hắn đã có thể khiến trải nghiệm đó đáng giá hơn theo nhiều cách... Nhưng hắn đã không làm.”
“Hắn đã có thể làm gì?” chàng trai hỏi. “Ý anh là sao?”
“Giết người không phải chuyện bình thường,” ma cà rồng nói. “Không đơn giản là cứ hút máu cho căng bụng.” Hắn lắc đầu. “Đó là trải nghiệm sinh mệnh của người khác, và thường là qua đường máu, trải nghiệm sinh mệnh đó từ từ mất đi. Hết lần này tới lần khác, nó lại gợi ta nhớ đến cái cảm giác sinh mệnh mình bị tước đoạt mà ta đã trải nghiệm lúc hút máu từ cổ tay Lestat và nghe tiếng tim hắn nện thình thịch hòa lẫn vào tiếng tim ta. Hết lần này tới lần khác, nó là sự tôn vinh trải nghiệm đó, bởi vì đối với ma cà rồng, đó chính là trải nghiệm tối thượng.” Hắn nói vẻ nghiêm trang vô cùng, như thể hắn đang tranh cãi với một kẻ bất đồng quan điểm. “Ta không nghĩ Lestat trân trọng điều đó, mặc dù ta không hiểu vì sao hắn lại thế. Ta xin nói rằng hắn cũng có trân trọng một điều gì đó, nhưng ta nghĩ hắn hiểu được rất ít những gì cần hiểu. Dù sao, hắn cũng chẳng buồn nhắc ta nhớ cái cảm giác khi ta phải bấu lấy cổ tay hắn để giữ mạng và không chịu buông ra; hắn cũng chẳng tìm cho ta những địa điểm phù hợp để ta có thể trải nghiệm lần giết chóc đầu tiên với chút yên tĩnh và đĩnh đạc. Hắn lao vào cuộc tấn công như thể đó là một việc phải làm nhanh cho xong, như để đi nhanh cho đến đích. Khi đã tóm được tên nô lệ, hắn bịt miệng và túm chặt lấy anh ta, vạch cổ anh ta ra, ‘Hút máu nó đi,’ hắn nói. ‘Anh không còn đường lùi đâu.’ Mất tự chủ vì ghê tởm và yếu đuối vì tuyệt vọng, ta vâng lời hắn. Ta quỳ xuống bên người đàn ông đang gập người giãy giụa, hai tay giữ chặt vai anh ta rồi cắn vào cổ anh ta. Răng ta chỉ vừa biến đổi và ta buộc phải cắn toạc thịt người đàn ông chứ chưa thể đâm thủng nó, nhưng ngay khi vết thương đã hình thành, máu lập tức trào ra. Và khi chuyện đó xảy ra, một khi ta đã bắt đầu uống... mọi thứ khác đều biến mất.
“Cả Lestat, đầm lầy và tiếng huyên náo của khu trại từ xa vọng lại đều vô nghĩa. Lestat cũng chẳng khác gì một con côn trùng, chỉ có thể vo ve chiếu sáng rồi biến mất không dấu vết. Việc hút máu đã thôi miên ta; nỗ lực phản kháng từ thân thể ấm áp của người đàn ông xoa dịu sự căng thẳng trong tay ta, và rồi tiếng trống lại vang lên, là tiếng trái tim người đàn ông - chỉ khác lần này nó hòa vào một cách hoàn hảo với tiếng trái tim ta, hai nhịp tim cứ đập vang dội qua mọi thớ thịt trong bản thể của ta, cho đến khi nhịp đập bắt đầu chậm dần, rồi chỉ còn lại một tiếng ầm vang yếu ớt không biết bao giờ mới kết thúc. Ta rã rời, chìm vào trạng thái phi trọng lượng; và rồi, Lestat lôi ta lại. ‘Nó chết rồi, đồ ngốc’ hắn nói với vẻ tế nhị duyên dáng đặc trưng. ‘Anh không được uống máu người chết! Hiểu chưa?’ Ta mê loạn mất một lúc, không còn tự chủ nữa, khăng khăng với Lestat rằng tim người đàn ông vẫn còn đập, và vội vã lao vào anh ta một lần nữa. Ta lùa tay lên khắp ngực người đàn ông rồi nắm lấy cổ tay anh ta. Suýt chút nữa ta đã cắn vào cổ tay đó nếu Lestat không xông vào giật ta dậy và tát vào mặt ta. Cú tát thật khủng khiếp. Nó không đau theo cách thông thường. Đó là một cú đánh thẳng vào giác quan theo một kiểu khác, khiến ta xây xẩm mặt mày và chỉ có thể bất lực nhìn chằm chằm, lưng dựa vào một cây bách, màn đêm râm ran tiếng côn trùng trong tai ta. ‘Anh sẽ chết nếu anh hút máu người chết,’ Lestat đang nói. Nó sẽ hút anh vào cái chết cùng nó nếu anh cứ cố bám lấy. Và hơn nữa, giờ thì anh đã hút quá nhiều máu rồi; anh sẽ bị ốm.’ Giọng hắn khiến ta khó chịu. Ta những muốn xông vào hắn, nhưng ta bắt đầu cảm thấy đúng điều hắn vừa nói. Dạ dày ta đau nhói lên, như thể có một xoáy nước bên trong đang cuộn trào và muốn cuốn cả cơ thể ta vào. Đó là do máu của nạn nhân đang chảy quá nhanh vào máu mình, nhưng ngay thời điểm ấy thì ta không biết vậy. Lestat di chuyển trong đêm như một con mèo và ta đi theo hắn, đầu đau như búa bổ, cơn đau quặn trong dạ dày vẫn không thuyên giảm khi ta về tới Pointe du Lac.
“Khi chúng ta ngồi bên bàn trong phòng khách, Lestat chơi bài một mình trên nền gỗ bóng lộn, còn ta thì ngồi nhìn hắn đầy khinh miệt. Hắn lầm bầm vớ vẩn. Ta sẽ dần quen với việc giết người, hắn nói; nó sẽ chẳng là gì cả. Ta không được phép run rẩy. Ta đã phản ứng quá dữ dội, cứ như thể vẫn chưa rũ sạch ‘bụi trần’. Rồi ta sẽ nhanh chóng quen thôi. ‘Anh thật sự nghĩ như vậy à?’ cuối cùng ta hỏi hắn. Thực ra ta không quan tâm lắm đến câu trả lời của hắn. Lúc đó, ta đã nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa ta và Lestat. Đối với ta, cảm giác của lần đầu giết chóc chấn động như một trận đại hồng thủy. Khi hút máu từ cổ tay Lestat cũng vậy. Những trải nghiệm đó rất choáng ngợp và đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của ta về mọi thứ xung quanh, từ bức chân dung đứa em trai trên tường phòng khách cho tới ngôi sao lẻ loi hiện ra trên nền trời bên ngoài ô cửa sổ kiểu Pháp, đến nỗi ta không thể tưởng tượng được ma cà rồng nào lại coi những chuyện đó là tất nhiên. Ta đã thay đổi, thay đổi vĩnh viễn; ta nhận thức rõ ràng điều đó. Và điều ta cảm thấy, một cách sâu sắc nhất đối với tất cả mọi thứ xung quanh, ngay cả với tiếng những quân bài sáng bóng đang được Lestat đặt xuống từng quân một, là sự kính trọng. Còn Lestat cảm thấy điều ngược lại. Hoặc là hắn chẳng cảm thấy gì cả. Hắn là thứ bột mà có gột bao nhiêu cũng chẳng nên hồ. Nhàm chán như con người, tầm thường và bất hạnh như con người, hắn vừa chơi bài vừa luôn mồm lảm nhảm, hạ thấp trải nghiệm của ta, hoàn toàn khóa nanh lại trước khả năng trải nghiệm bất kỳ điều gì của chính hắn. Đến sáng, ta nhận ra mình hoàn toàn hơn hẳn Lestat và ta đã bị lừa một cách thật đáng thương khi phải coi hắn là thầy. Hắn phải dạy ta những bài học cần thiết, nếu còn thêm bài học thực sự nào nữa, và ta phải chịu đựng hắn với một thái độ chẳng khác nào là bất kính với tạo hóa. Ta thấy thờ ơ với hắn. Trong sự vượt trội này, ta cũng không thấy khinh bỉ nữa. Ta chỉ khao khát có được những trải nghiệm mới, những điều đẹp đẽ và khủng khiếp như con mồi đầu tiên. Ta nhận ra rằng, để cảm nhận tối đa mọi trải nghiệm, ta sẽ phải dùng sức mạnh của chính mình điều khiển việc học tập. Lestat hoàn toàn vô dụng.
“Cuối cùng, khi ta đứng dậy khỏi ghế và đi ra hành lang, đã quá nửa đêm. Mặt trăng khổng lồ vươn lên trên hàng bách và ánh nến tràn qua những ô cửa ngỏ. Những cột nhà và bức tường trát vữa mới được quét vôi lại, ván sàn mới được quét, và cơn mưa mùa hạ đã để lại một màn đêm thanh khiết, lấp lánh những giọt nước. Ta tựa lưng vào cột trụ cuối cùng của hành lang, đầu chạm vào một nhành hoa nhài mềm mại đang mọc lên trong cuộc chiến tranh giành lãnh thổ với bọn đậu tía, và ta nghĩ về những điều đang chờ đợi trước mặt, trên khắp thế giới cũng như xuyên suốt cả thời gian, và ta quyết tâm khám phá chúng một cách chậm rãi và tôn kính, học lấy từng điều hay nhất để có thể tự giúp mình dày dạn hơn khi đón nhận điều tiếp theo. Điều đó có ý nghĩa gì, chính ta cũng không rõ. Anh có hiểu được không khi ta nói rằng ta không muốn vội vã lao vào trong việc gặt hái kinh nghiệm, và rằng cảm giác của ta khi là ma cà rồng quá mạnh mẽ để bị lãng phí?”
“Vâng,” chàng trai háo hức đáp. “Nghe như là người mới yêu vậy.”
Ánh mắt ma cà rồng sáng bừng lên. “Chính xác. Cảm giác đó giống như tình yêu,” hắn mỉm cười. “Và ta kể với anh những diễn biến trong tâm hồn ta đêm đó để anh thấy được khác biệt sâu sắc giữa các ma cà rồng, và tại sao ta lại chọn cách khác với Lestat. Anh phải hiểu rằng ta không coi thường Lestat vì hắn không tôn trọng kinh nghiệm của bản thân. Ta chỉ không hiểu vì sao những cảm xúc đó lại có thể bị lãng phí. Nhưng sau đó Lestat đã làm một việc giúp ta nhận ra con đường tự trau đồi kiến thức của mình.
“Hắn không chỉ thích thú chung chung với sự giàu có của Pointe du Lac. Hắn đã rất thích bộ đồ sứ dùng trong bữa tối của cha hắn; và hắn thích cảm giác chạm vào những tấm rèm cửa bằng nhung mềm mại, và hắn di ngón chân theo đường hoa văn trên tấm thảm trải sàn. Hắn còn đẩy một ly pha lê từ tủ đựng bát đĩa ra và nói, ‘Tôi thấy nhớ các ly cốc quá.’ Chỉ có điều hắn thốt ra câu đó với vẻ thích thú tinh quái đến mức khiến ta phải cau mày nhìn hắn. Ta ghét cay ghét đắng tên ma cà rồng này! ‘Để tôi cho anh xem một trò nhỏ,’ hắn tiếp tục nói. ‘Nếu như anh cũng thích ly cốc như tôi.’ Và sau khi đặt chiếc ly lên bàn chơi bài, hắn đi ra hành lang chỗ ta đang đứng, lại như một con thú đang rình mồi, trợn trừng đôi mắt nhìn xuyên qua bóng đêm, qua cả quầng sáng của ngôi nhà, về phía những tán sồi. Thoắt một cái, hắn nhảy vọt qua lan can, nhẹ nhàng tiếp đất rồi lao vào bóng đêm để bắt một cái gì đó bằng cả hai tay. Khi hắn quay lại, ta kinh hãi nhận ra trên tay hắn là một con chuột. ‘Đừng có đần thế,’ hắn nói. ‘Anh chưa bao giờ thấy chuột sao?’ Đó là một con chuột đồng to đuôi dài, đang giãy giụa. Lestat xách cổ để nó không thể cắn được. ‘Đôi khi chuột cũng hay lắm đấy,’ hắn nói. Rồi hắn mang con chuột đến chỗ ly rượu, xé toạc cổ nó ra để máu chảy thành dòng xuống chiếc ly. Rồi con chuột bị quẳng qua lan can và Lestat đắc ý nâng ly máu lên trong ánh nến. ‘Rồi sẽ có lúc anh phải sống nhờ vào lũ chuột bọ này nên đừng có ra vẻ kinh tởm như vậy,’ hắn nói. ‘Tất thảy chuột, gà, trâu, bò. Khi anh phải di chuyển bằng tàu thủy, sống bằng máu chuột là lẽ dĩ nhiên nếu không muốn gây ra hoảng loạn đến nỗi chúng lục soát quan tài của anh. Và tốt nhất là anh phải giữ cho tàu không một bóng chuột.’ Nói xong, hắn điệu đàng nhấp một ngụm máu như thể đó là rượu vang đỏ. Hắn hơi nhăn mặt. ‘Bị nguội nhanh quá.’
‘Ý anh là chúng ta vẫn có thể sống được bằng máu động vật?’ ta hỏi.
‘Đúng.’ Lestat uống cạn ly máu và thản nhiên ném cái ly vào lò sưởi. Ta nhìn chằm chằm vào các mảnh vỡ. ‘Anh không lấy thế làm phiền chứ?’ Hắn hất hàm về phía các mảnh vỡ với một điệu cười mỉa mai. ‘Tôi thật sự mong là anh không phiền lòng, vì nếu có thì anh cũng chẳng làm gì được đâu.’
‘Tôi có thể tống cổ cả anh lẫn cha anh ra khỏi Pointe du Lac, nếu tôi thật sự phiền lòng,’ ta đáp trả. Hẳn đó là lần đầu tiên ta công khai thể hiện sự bực bội.
‘Sao anh lại làm thế? Lestat hỏi ra bộ sợ sệt. ‘Anh vẫn chưa biết hết mọi thứ mà... phải không nào?’ Hắn phá lên cười và nhẩn nha dạo khắp căn phòng. Hắn lướt ngón tay trên mặt đàn spinet bóng nhẵn như lụa. ‘Anh biết chơi chứ?’ hắn hỏi.”
“Ta đã nói gì đó đại loại như, ‘Đừng chạm vào nó?’ nhưng hắn chỉ mỉm cười nhạo báng. ‘Tôi sẽ chạm vào nó nếu tôi muốn!’ hắn nói. ‘Ví dụ, anh chưa biết hết những thứ có thể đoạt mạng anh. Và chết vào lúc này thì quả là đáng tiếc, phải không?’
‘Ắt hẳn trên đời phải có ai đó khác có thể dạy tôi điều đó,’ ta đáp lời. ‘Chắc chắn anh không phải là ma cà rồng duy nhất! Và cha anh mới khoảng bảy mươi tuổi thôi. Chắc hẳn anh cũng chưa làm ma cà rồng lâu lắm, vậy nên hẳn là phải có ai đó đã hướng dẫn cho anh...’
‘Vậy anh nghĩ anh có thể tự tìm thấy các ma cà rồng khác à? Họ có thể thấy anh nhưng anh chưa thể nhìn thấy họ được đâu, anh bạn ạ. Không, tôi không nghĩ anh có nhiều sự lựa chọn vào lúc này, anh bạn ạ. Tôi là thầy của anh và anh cần tôi. Chúng ta đều có những người phải chăm sóc. Cha tôi cần bác sĩ, rồi còn mẹ và em gái anh nữa. Đừng mảy may nảy sinh ý nghĩ tiết lộ với họ rằng anh là ma cà rồng. Chỉ cần chăm lo cho họ và cha tôi thôi, có nghĩa là đêm mai tốt hơn hết anh nên giết người cho nhanh rồi đi mà điều hành công việc ở đồn điền. Còn bây giờ thì đi ngủ thôi. Chúng ta sẽ ngủ cùng phòng để tránh bất trắc.’
‘Không, anh đi mà ngủ một mình,’ ta nói với hắn, ‘Tôi không có ý định ngủ cùng phòng với anh.’
“Và hắn nổi điên. ‘Đừng làm gì ngu ngốc, Louis. Tôi cảnh cáo anh. Một khi mặt trời mọc, anh chẳng thể làm gì để bảo vệ mình được đâu, không gì hết. Chia phòng có nghĩa là chia sự an toàn. Nhân đôi sự phòng ngừa và nhân đôi cơ hội bị phát hiện.’ Sau đó, hắn còn lải nhải thêm để hù dọa bắt ta nghe theo, nhưng chẳng khác nào nói với bốn bức tường. Ta nhìn hắn chăm chú, nhưng chẳng nghe gì cả. Ta thấy hắn yếu đuối và ngu xuẩn, giống như một con bù nhìn làm bằng cành cây khô kêu lao xạo. ‘Tôi ngủ một mình,’ ta nói và nhẹ nhàng đưa tay tắt từng ngọn nến. ‘Trời sắp sáng rồi đấy!’ hắn vẫn khăng khăng.
‘Vậy thì nhốt mình lại đi,’ ta nói rồi ôm lấy quan tài của mình, nâng nó lên đem xuống dãy cầu thang gạch. Ta có thể nghe thấy tiếng ổ khóa đóng tách lại trên những ô cửa kiểu Pháp phía bên trên, tiếng rèm sột soạt. Trời đã lờ mờ sáng nhưng những ngôi sao vẫn còn lấp lánh, và gió từ bờ sông lùa theo một cơn mưa phùn, rải nước mưa lất phất trên các phiến đá lát đường. Ta mở cửa thánh đường của em trai, gạt những cây hoa hồng và các bụi gai phủ gần kín cửa, đặt chiếc quan tài ngay trước bàn thờ Chúa. Ta gần như có thể nhìn rõ hình ảnh các vị thánh trên tường. ‘Paul,’ ta khẽ gọi tên em trai, ‘lần đầu tiên trong đời anh chẳng cảm thấy gì về chú, chẳng cảm thấy gì về cái chết của chú; và cũng là lần đầu tiên anh cảm thấy hết thảy mọi điều về chú, cảm thấy nỗi đau buồn trước sự ra đi của chú, cứ như thể anh chưa từng có cảm xúc bao giờ.’ Anh thấy đấy...”
Ma cà rồng quay lại nhìn chàng trai. “Lần đầu tiên, ta đã là một ma cà rồng hoàn toàn và trọn vẹn. Ta kéo tấm mành gỗ che kín cửa sổ nhỏ có chấn song và đóng cửa ra vào lại. Rồi ta trèo vào trong chiếc quan tài lót vải xa tanh, gần như có thể nhìn thấy lớp vải mờ sáng trong bóng tối, rồi đóng nắp quan tài lại. Cuộc đời ma cà rồng của ta đã bắt đầu như vậy.”
Phỏng Vấn Ma Cà Rồng Phỏng Vấn Ma Cà Rồng - Anne Rice Phỏng Vấn Ma Cà Rồng