Số lần đọc/download: 2892 / 38
Cập nhật: 2016-01-28 12:41:00 +0700
Chương 2
B
a năm trước, một hôm đang ngồi làm việc ở toà soạn một tờ báo mà tôi ký hợp đồng làm việc ngắn hạn, tại Thành phố Hồ Chí Minh thì nhận được điện thoại của Hải Minh, bạn thân của tôi, một đạo diễn phim tài liệu truyền hình nổi tiếng từ Hà Nội gọi vào bảo tôi bay ra gấp vì có một việc rất cần. Thế là tôi thu xếp đi ngay. Ra đến nơi mới được biết Hải Minh đang cần tôi viết gấp cho anh một kịch bản về 12 nhà sư nữ hiện đang tu hành ở 12 ngôi chùa, đều có chung một quá khứ là thanh niên xung phong phục vụ chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn những năm kháng chiến chống Mỹ. Khi hết chiến tranh, tuổi xuân qua đi, các chị không có cơ hội lập gia đình nên đã rủ nhau vào chùa xuống tóc quy y nương nhờ cửa phật. Trong số này, Hải Minh đặc biệt lưu ý tôi một ni sư pháp danh là Diệu Hằng, vừa là cựu thanh niên xung phong, vừa là thương binh, thương tích 2 trên 4, mất hẳn con mắt trái và nhiều vết thương phần mềm khác, hiện có hàng chục viên bi đang còn găm trong đầu. Theo Hải Minh, hiện nay điều khó khăn nhất cho các nhà báo nhà văn là Diệu Hằng kiên quyết không chịu hé lộ về nhân thân của mình. Ni cô có kể thì cũng chỉ kể về những thành tích chung của đơn vị mà ngày đó bà tham gia. Vì thế người ta mới chỉ biết quê quán của bà là tỉnh Hải Dương, còn xã nào, huyện nào thì cũng chẳng ai biết được.
- Chuyện hay đấy, ông hãy uốn ba tấc lưỡi khai thác nhân vật này xem sao. Chúng ta sẽ có được bộ phim nổi đình đám đấy!
Hải Minh bảo thế. Anh thân với tôi từ khi cả hai còn đang lớ ngớ chập chững bước vào con đường văn chương. Và sau đấy do hợp “giơ” nhau nên có đề tài nào hay hay anh cũng ới tôi, dù tôi ở thành phố Hồ Chí Minh trong khi anh ở Hà Nội cách nhau cả ngàn cây số.
Kinh nghiệm cho thấy với những nguyên mẫu nhân vật bí hiểm và độc đáo như thế này, viết về họ, sáng tác về họ, tác giả sẽ dễ thành công hơn. Thế là máu nghề nghiệp nổi lên, tôi thu xếp công việc bay ra ngay. Theo cái địa chỉ mà Hải Minh ghi lại đằng sau tờ lịch lốc, không khó khăn gì tôi tìm đến đúng ngôi chùa có tên Báo Thiên ấy.
Tôi ngạc nhiên khi thấy trong sân chùa sừng sững, xum xuê một cây ngâu hoa vàng có dáng mâm xôi như cây ngâu ở nhà ông Khán Vĩnh làng tôi ngày trước. Mùi thơm ngập tràn không khí khiến cả khu vườn như được ướp hương. Rồi cái giậu bằng duối cũng thế, vàng rực quả chín, lấp ló trong đám lá cây như những ngọn đèn nhỏ xíu. Lại nữa, hai bên cổng ra vào là hai dãy cây tầm xuân mùa này hoa đang nở rộ, thứ hoa lúc nào cũng làm người thưởng ngoạn thấy cần có sự công bằng trong cách đánh giá. Rằng tầm xuân đẹp thua gì hoa hồng mà một bên suốt đời làm giậu, một bên chuyên sống trong chậu cảnh sang trọng. Lần ấy, những thứ cây đặc thù này gợi cho tôi một cảm giác rằng hình như có một người nào đó đã thổi vào mảnh đất lạ này phần hồn của quê tôi, khiến ngôi chùa trở nên gần gũi.
Đang ngơ ngác chưa biết hỏi ai thì thấy có tiếng chân người bậm bịch trên mặt đất rồi một thanh niên đang làm vườn gần đó tất tưởi chạy ra. Cậu mặc y phục nhà chùa, quần nâu áo sồng, khoanh tay lễ phép: “A di đà phật, thưa ông cần gặp ai ạ!”. Tôi nói ngay cần gặp sư nữ Diệu Hằng.
- Vậy mời ông vào trai phòng kia, chờ con vào bạch với thầy ạ.
Tôi vào trai phòng ngồi lên chiếc tràng kỷ. Mùi hương trầm thơm dìu dịu ngây ngất. Trước mặt tôi là tấm bảng ghi nắn nót lịch sử ngôi chùa. Hoá ra chùa Báo Thiên tuy là chùa nhỏ không có tiếng tăm trong vùng nhưng cũng đã có tuổi trên một trăm năm nay, từ khi vùng đất này được cụ Nguyễn Công Trứ tổ chức dân chúng khai hoang lấn biển.
Đối diện với nơi tôi đang ngồi là ngôi chính điện, tuy nhỏ nhưng mọi chi tiết đều kiến trúc công phu với những nét chạm trổ tinh vi, mái cong, ngói âm dương, rồng chầu phượng múa, phảng phất những nơi thầy trò Đường Tăng thường gặp trên đường thỉnh kinh. Thoang thoảng bên tai tôi là tiếng mõ, tiếng chuông và tiếng tụng kinh lúc xa lúc gần. Khi những thanh âm đó ngừng bặt thì từ ngôi chính điện ấy bước ra một vị sư nữ già lưng đã hơi còng thùng thình trong bộ áo quần nhà phật. Đoán đây là ni sư Diệu Hằng, tôi đứng dậy chào. Nhà sư năm ấy khoảng ngoài sáu mươi tuổi, nghĩa là cũng chỉ xấp xỉ tuổi tôi nhưng bước đi đã tỏ chậm chạp khó nhọc. Do trời lạnh bà phải quấn thêm lên đầu chiếc khăn vuông nâu làm cho khuôn mặt bà đã tối lại càng u ám hơn. Đã vậy bà còn mang trên mặt cặp kính đen, chắc là muốn giấu đi con mắt không còn nguyên vẹn, tôi nghĩ thế.
Tôi liếc nhìn bà nhưng rồi phải vội quay ra hướng khác. Sao vị sư nữ này có cái gì giống Eùn quá vậy. Cũng đôi mắt, tuy già rồi, vết rạn chân chim nhiều rồi nhưng vẫn không sao phai mờ được nét đẹp mê hồn của cô Én ngày xưa. Cũng hai hàm răng tuy không sáng trắng như ngày xưa, nhưng vẫn là hàm răng đẹp, sít vào nhau, đều chằn chặn, được che bởi đôi môi giống như môi của người trong tranh. Đúng là Én rồi. Tôi tự trấn tĩnh, cố gắng che giấu bớt những cảm giác không bình thường đang trỗi dậy trong tôi. Như không dám nhìn thẳng vào mặt bà. Như không dám cất tiếng nói. Tình thế, buộc bà phải cất tiếng hỏi tôi trước: “Thưa ông cần gặp tôi có chuyện gì”.
Bây giờ thì tôi nhận ra cảm giác ban đầu của tôi là chính xác. Vì rõ ràng giọng nói ấy là của Én, đích thị của Én. Con người ta, thời gian có thể tàn phá tất cả nhưng chắc chắn giọng nói thì không sao biến đổi được. Trẻ thế nào già thế vậy.
Tim tôi thắt lại rồi lại nở bùng ra. Có thể là đây là duyên trời phật, người đã sắp xếp cho tôi cuộc hội ngộ này. Nghĩ thế, tôi vui lắm, dợm chân định đứng dậy ôm chầm lấy Én mà reo lên, ôi Én của tôi, tình yêu của tôi, nỗi đau khổ tột cùng của tôi. Nhưng mảnh đất dưới chân tôi đã ghì tôi xuống và bầu không khí tôi đang thở như một bàn tay đã bịt miệng tôi lại. Không, đây không còn là Én của thời tuổi trẻ của tôi, không còn là tình yêu của tôi nữa. Mà là lòng phản trắc, sự bội bạc. Là lòng căm thù.
Tôi lại ngồi xuống ghế. Và vẫn tuyệt nhiên không hé răng lấy nửa lời. Tôi thầm trách Hải Minh, bày vẽ làm chi để bây giờ tôi thấy khó xử.
Mấy chục năm nay, lòng tôi đã lạnh, vết thương lòng đã kín miệng và làng quê tôi cũng đã quên con người này rồi.
Ngày nay người trẻ thì không biết gì đến Én. Người lớn tuổi thì nói Én đã chết lâu rồi. Ngày ấy, sau những biến cố kinh hoàng của gia đình tôi, Én đã bỏ làng ra đi. Người làng đồn bảo Én đi theo lão Đội Khoảnh về Ninh Bình, làm vợ hai của lão rồi không chịu nổi cảnh ghen tuông quá quắt của mụ vợ cả, Én đã phát điên đâm đầu vào đoàn tầu hoả mà chết không toàn thây. Nhưng lại có người bảo ngay ngày ấy, Én đã nhẩy xuống sông Hồng tự tử, mà nguyên nhân vì trót mang thai với lão đội Khoảnh nổi tiếng dâm dục rồi bị lão bỏ rơi. Tóm lại có cả hàng tá tin đồn khác nhau về Én mà tin nào nghe cũng đau tai nhức óc.
Ôi, vậy thì tôi còn gặp lại con người này làm gì nữa. Quân phản phúc, kẻ bất nhân. Bất giác, tôi nhếch mép cười mỉa một mình. Vậy mà cô ta còn táng tận lương tâm nhờ đến sự chở che nơi cửa phật, tìm đến tiếng chuông tiếng mõ để trốn chạy sự truy đuổi của lương tâm.
Thôi, chả nên dừng lại đây thêm một giây một phút nữa làm gì. Gần nửa thế kỷ qua, ông thần thời gian đã hiểu thấu lòng tôi, giúp tôi xoá nhoà gần như tất cả rồi, nay sao tôi lại nỡ phụ lòng ông cho sống lại làm chi. Vả lại, người xưa cũng đã nói “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng- Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”. Người đẹp cũng như danh tướng, không nên cho người đời thấy dung nhan lúc về già, hết cả oai phong, hết cả diễm lệ.
- Xin lỗi, tôi lại phải đi ngay vì có người cần gặp gấp!
Tôi móc trong túi quần chiếc máy điện thoại di động ra bấm mấy cái làm động giả. Từ lúc gặp Én đến giờ đây là câu nói đầu tiên tôi bật ra. Tôi cố nén giọng cho nó trầm xuống, lạc hẳn đi.