Số lần đọc/download: 3688 / 98
Cập nhật: 2017-05-24 16:47:54 +0700
II - Trên Giòng Chao Phya
Kẻ đến lãnh Văn Bình đi hành quyết là gã trung sĩ da đen sì, bắp thịt rắn như đúc bê tông. Chàng đã quen mặt hắn. Có lẽ ngoài đại úy Sulim, chàng nhớ hắn nhiều nhất khi xuống suối vàng. Vì hắn đã lưu lại trong lòng chàng một kỷ niệm thú vị. Đêm ấy, Sulim đập bàn ghế quát tháo trong khi hỏi cung Văn Bình. Chàng vẫn tỉnh khô. Sulim bèn ra lệnh cho gã trung sĩ da đen kia:
-Chắc nó buồn ngủ. Đánh thật mạnh cho nó mở mắt ra.
Gã trung sĩ nghiến răng, chém bàn tay vào cổ Văn Bình. Rõ ràng đối phương đã dùng đòn hiểm song gã trung sĩ không biết Văn Bình có cái cổ cứng như thép nguội. Sulim ngoảnh đi chỗ khác -dường như đang mải ngắm thân hình tròn trịa của người đàn bà nào đó nổi bóng trên cửa sổ căn nhà đối diện- nên không nhìn thấy nét mặt đau đớn vô biên của gã trung sĩ sốt sắng. Gã đánh vào cổ Văn Bình mà tay gã lại kêu rào rạo, khớp xương bị gẫy. Tuy vậy, gã nín thinh không thốt nửa lời. Lòng tự ái của con nhà võ không cho phép gã hé răng trước mặt Sulim. Nhưng sau khi Sulim ra ngoài, giao Văn Bình cho gã thẩm vấn, gã tiến đến trước mặt chàng, ve vẩy bàn tay bị thương, giọng thiết tha:
-Anh giúp tôi với … Võ anh rất giỏi mà tôi không biết.
Văn Bình dùng thuật hồi sinh Kuatsu nắn bóp cho gã. Trong chớp mắt, bàn tay gã trở lại lành lặn như cũ. Gã phục xuống nền nhà lạy chàng, lí nhí cám ơn rồi gã chẳng hỏi cung gì nữa. Trước khi chia tay, gã biếu Văn Bình một gói thuốc lá. Rồi gã biến dạng.
Sáng nay, bỗng dưng gã trung sĩ đen sì lại xuất hiện. Thấy chàng, gã đứng lại, giọng rầu rầu:
-Phiền ông đứng dậy, theo tôi ra ngoài.
Văn Bình hỏi:
-Anh đem tôi đi bắn?
-Vâng. Đại úy Sulim cắt cử tôi bắn phát thi ân. Lẽ ra, bổn phận của tôi không phải là giải tù, nhưng vì tôi có tình với anh. Mối tình của con nhà võ …
-Anh có cách nào cứu tôi không?
-Nếu tôi là sĩ quan chỉ huy, tôi đã nhắm mắt cho anh bỏ trốn ra biển, nhưng tôi chỉ là trung sĩ quèn. Xuống suối vàng, anh đừng oán tôi nhé … Tôi phải thi hành nhiệm vụ mặc dầu tôi không tin là anh có tội. Tôi sẽ dặn tiểu đội bắn thật trúng, và riêng tôi, tôi sẽ bắn phát thi ân ngay lập tức.
Mặt trời buổi sáng từ hướng đông chiếu tới làm Văn Bình chói mắt. Hướng đông là quê hương của Rôsita. Hướng đông cũng là nơi du thuyền Thiên Thần buông neo chở chàng, chờ mãi mà chàng không quay lại. Giờ này Rôsita và toàn thể thủy thủ ở đâu, và đang làm gì?
Chỉ còn vài ba phút đồng hồ nữa, Văn Bình phải quyết định dứt khoát. Chàng có thể quật ngã gã trung sĩ trong chớp mắt tuy chàng bị còng tay và xiềng chân kiên cố. Nhưng bên cạnh gã trung sĩ còn cả tiểu đội võ trang đến tận răng nữa. Chàng không có hy vọng chạy trốn vì chàng mới ra đến nửa sân thì hàng chục khẩu tiểu liên đã nhả đạn đồng loạt. Dẫu chàng thoát được đến bức tường thì cũng còn nhiều vọng gác và nhất là hai ổ đại liên.
Nghĩa là là lát nữa đây, chàng phải chết.
Giữa sân rộng là cột cờ cao lêu nghêu. Lá cờ Nam dương hai sọc đỏ và trắng nằm ngang kêu phần phật trước gió. Tuy trời nắng, gió vẫn thổi dữ. Bức tường gạch quét vôi xám sừng sững cách Văn Bình hai trăm thước ngăn chận tầm mắt thèm khát phóng khoáng. Sau tường là rừng rậm và biển cả.
Gã trung sĩ đi trước, Văn Bình đi giữa, hai bên có 4 binh lính kèm sát. Toàn thể bước theo nhịp quân hành, hùng dũng và trịnh trọng, tạo ra cảm tưởng đây là một pha trong cuộc duyệt binh chứ không phải là hành quyết tử tội.
Cả bọn qua kỳ đài, rẽ sang trái rồi đứng lại sau tiếng hô “nghiêm” sang sảng của gã trung sĩ. Một cây cọc gỗ được trồng sâu trên mặt đất. Trên cọc còn lòng thòng hai sợi giây thừng ướt máu tươi. Máu tươi cũng bắn tung tóe xuống mặt sân. Bức tường phía sau mang đầy vết đạn lỗ chỗ, có những vết bằng quả cam. Bên trái, Văn Bình thấy một xác người nằm còng queo, vuông vải dù trắng che phủ từ đầu xuống chân. Đó là thi thể của người thủy thủ Mã lai già vừa bị hành hình.
Tuy tử tội vừa gục ngã, ruồi nhặng đã bay vo ve chung quanh. Trên đầu, Văn Bình nghe rõ tiếng quạ kêu quang quác. Có lẽ chúng vừa đánh hơi thấy bữa tiệc thịt người thịnh soạn đang được sửa soạn bên dưới.
Đại úy Sulim thản nhiên nhìn Văn Bình và toán lính hành quyết. Trên khuôn mặt sạm nắng của hắn, Văn Bình đọc thấy vẻ kiêu căng xen lẫn thỏa mãn. Nếu được tự do, chàng đã nhảy tới tặng hắn cái tát nổ đom đóm mắt. Dường như hắn lấy làm khoái trá khi được chứng kiến cái cảnh tử tù do hắn bắt giam, xử án, lần lượt trở thành đống xác chết máu me nhầy nhụa …
Cả bọn quay về phía đại úy Sulim. Gã trung sĩ đứng nghiêm, giơ tay chào rồi nói với Sulim bằng thổ ngữ. Chắc gã đang xin chỉ thị của thượng cấp. Sulim lạnh lùng chào trả rồi từ từ rút trong túi ra một tờ giấy trắng đánh máy. Hắn đằng hắng một tiếng rồi dõng dạc đọc, vừa đọc vừa ngẩng đầu nhìn Văn Bình. Văn Bình nghe lõm bõm là tòa án quân sự họp tại đảo Datoek kết tội chàng làm gián điệp cho Mã lai, và án tử hình được được chính phủ trung ương chuẩn y. Sulim đọc xong, gấp tư miếng giấy, bỏ lại vào túi. Gã trung sĩ da đen tiến tới, mở khóa còng và xiềng cho Văn Bình, đoạn dẫn lại cây cọc.
Không hiểu sao thời gian khi ấy lại trôi nhanh lạ lùng. Khoảng cách từ chỗ chàng đứng đến cây cọc hành quyết không hiểu sao lại ngắn rụt lại như thể được phép thần thông thu ngắn, khiến chàng càng bước nhanh tới sự chết. Nhiều phen, thần Chết đã lởn vởn bên chàng. Nhưng chưa lần nào chàng cảm thấy thần Chết đến quá gần gũi như lần này. Vì sau khi bị bịt mắt, trói cứng vào cọc, toán lính nâng súng lên ngang mày, gã trung sĩ hô lệnh thì không pháp thuật nào trên dương thế có thể đưa chàng trở lại kiếp người.
Văn Bình quay lại đối diện với toán hành quyết. Gương mặt điềm đạm cố hữu của chàng vẫn bình tĩnh hơn bao giờ hết. Mọi việc sớm muộn sẽ đến hồi chung cuộc. Sau nhiều năm vùng vẫy, giờ đây đến lúc chàng gục ngã. Bốn người lính đã quỳ xuống. Gã trung sĩ đi vòng ra sau lưng Văn Bình sửa soạn bịt mắt và trói chàng vào cọc. Tuy đứng xa, đại úy Sulim vẫn không bỏ sót chi tiết nào của cuộc xử bắn. Văn Bình thấy rõ nụ cười sung sướng trên miệng hắn.
Chàng nghe tiếng thì thầm của gã trung sĩ:
-Chào anh nhé!
Rồi tiếng hô chắc nịch:
-Sửa soạn!
Nhưng trùm lên tiếng nói bên tai của gã trung sĩ và tiếng hô dõng dạc, Văn Bình vừa nghe một tiếng kêu lớn từ phía sau vẳng tới:
-Văn Bình, nằm xuống!
Bốn khẩu súng cùng khạc lửa ra một lượt song Văn Bình đã phản ứng trước đó một phần vi phân giây đồng hồ. Chàng vận nội công, phối hợp với Ninjutsu, giật đứt giây trói và bổ nhào xuống đất. Cả bốn viên đạn đều bắn vào cọc, cách mặt đất thước rưỡi. Nếu chàng còn đứng nguyên vị, ngực chàng đã vỡ nát. Thân chàng vừa chạm đất thì băng vải đen cũng được chàng gỡ tung khỏi mắt. Súng máy nổ liên hồi như pháo Tết. Chàng thấy bốn người lính trước mặt bị đốn ngã như sung rụng. Đại úy Sulim đã kịp thời nằm rạp xuống để tránh loạt đạn đầu tiên. Hiện hắn đang giơ súng lục nhằm Văn Bình bóp cò song một loạt đạn đã cắm chặt hắn xuống đất. Hắn ngã sóng soài chết ngay, tay còn nắm chặt khẩu súng đầy đạn vô ích.
Thoát chết, Văn Bình nhổm dậy. Chàng quên bẵng gã trung sĩ hảo tâm đang chờ bên cọc để bắn phát súng cuối cùng. Do phản ứng tự nhiên của người quân nhân chuyên nghiệp, gã đã cuộn tròn người để tránh đạn. Gã có thiện cảm với Văn Bình nhưng khi cần lựa chọn tối hậu, gã đã dứt khoát về phe đại úy Sulim. Văn Bình chỉ cách gã trung sĩ một xải tay. Chàng đứng chưa vững thi gã đã nhoài tới, ôm ghì chân chàng, vận toàn lực để giật ngã. Gã biết tài nghệ siêu quần của Văn Bình nên không dám nương tay. Bị tấn công đột ngột, Văn Bình ngã khuỵu. Song trong chớp mắt, chàng đã nhìn thấy đối phương. Chàng lộn người lên thật lẹ làng, và bổ vào đầu gã trung sĩ. Lưỡi dao mà gã trung sĩ vừa rút ra khỏi thắt lưng, đâm thẳng vào mặt Văn Bình đã bị gạt bắn sang bên. Yếu tố bất thần không còn nữa, gã trung sĩ không hy vọng cầm cự được thêm. Văn Bình đã giáng atêmi giữa yết hầu đối phương. Gã trung sĩ kêu ằng ặc được một tiếng rồi nằm thẳng đơ.
Tiếng nói quen thuộc lại vẳng tới. Giờ đây Văn Bình đã biết. Đó là tiếng nói thân mật của Rôsita, núp trên cành cây cao, lá mọc xum xuê phía sau bức tường. Thì ra Rôsita đã tìm cách cứu chàng. Thần may mắn đã cứu chàng vì nếu Rôsita can thiệp chậm một phút nữa là chàng đã thành người thiên cổ.
Chàng nhìn lên bức tường để nhận định địa thế. Bề cao hơn 4 thước, phía trên lại có một lớp kẽm gai cuộn tròn, cao gần 1 thước nữa. Vị chi là 5 thước. Văn Bình thấy một thủy thủ Mã lai hiện ra giữa đống cành lá rậm rì. Hắn cầm trong tay một cuộn giây thừng ni lông. Nhanh nhẹn, hắn quăng một đầu giây xuống sân cho Văn Bình, kèm theo lời dặn:
-Mau lên, bọn chúng sắp tới đông lắm.
Văn Bình nhảy lên, định bám lấy sợi giây nhưng chàng chỉ táp vào khoảng không vì đạn tiểu liên nổ ròn, gã thủy thủ bị thương ngã lộn từ đỉnh cây xuống đất. Ổ súng ở vọng gác bên trái đã bắt đầu tham chiến. Xa xa, về hướng nhà giam cũng có tiếng súng nổ chát chúa. Có lẽ nhân viên của Rôsita đã lọt vào khu nhà giam, hạ sát lính gác để giải thoát bốn tử tội Mã lai còn lại.
Tacata … Tacata …
Khẩu đại liên quét một vòng tròn trên sân rộng. Nếu xạ thủ được tự do nhả đạn, đoàn tiếp cứu sẽ phải bỏ thây ngoài hàng rào.
Đoàng... Đoàng...
Hai phát súng nổ liên tiếp. Liền khi đó, khẩu đại liên câm họng. Bắn nhanh và chính xác như vậy chắc phải là Rôsita. Mừng rỡ, Văn Bình chạy vụt tới chân tường nhưng chàng lại phải nằm xuống lần nữa vì từ cuối sân một tên lính vừa nhắm chàng bắn ria. Tài bắn của hắn cũng không đến nỗi kém vì nếu chàng không thay đổi vị trí liên tục thì đã ăn đạn.
Nhờ núp sau mô đất cao, Văn Bình có thể an toàn trong vài ba phút. Liếc chung quanh, chàng nhận thấy nhiều đống gạch cát ngổn ngang. Có lẽ đại úy Sulim đang xây công sự phòng thủ. Mắt chàng tóe tia sáng hân hoan vì chàng vừa khám phá ra nhiều thanh sắt tròn nằm lẫn lộn trong đống cát. Loại sắt này được dùng để đúc bê tông. Đối với chàng, nó có thể biến thành cây sào tiện lợi giúp chàng vượt qua bức tường ác độc. Văn Bình vốn không có biệt tài nhảy cao nhưng chàng lại luyện tập nhảy sào đúng phương pháp. Muốn nhảy qua bức tường, chàng phải có sào tre, hoặc sào ni lông, hoặc sào thủy tinh ép vừa cứng vừa mềm, chứ không thể xử dụng cây sắt thẳng đơ. Nhưng chàng không có thời giờ suy hơn tính thiệt nữa.
Chàng ép mình sát đất, bò lại đống cát, từ từ rút một cây sắt. Khẩu tiểu liên vẫn gầm thét bên tai chàng. Vụ một cái, chàng đứng thẳng lên, ôm cây sào chạy thật nhanh để lấy trớn. Rồi chàng nhún người, vận dụng nghệ thuật Ninjutsu cho thân thể nhẹ bỗng và vọt lên cao. Hai chân chàng vướng vào kẽm gai song nhờ trớn còn mạnh, chàng tuột được sang bên kia bức tường.
Hú vía...
Một loạt đạn bắn theo hàng ngang nhưng không trúng người chàng. Chàng kêu to:
-Rôsita!
Rôsita từ trên cây nhảy xuống. Nàng mặc đồ chẽn đen, trông gọn ghẽ và hùng dũng như nữ hiệp sĩ cứu khổn phò nguy trong tiểu thuyết kiếm thuật Trung hoa.
Rôsita nắm tay chàng:
-Chạy đi anh.
Khi ấy, Văn Bình mới biết là đã phá kỷ lục nhảy sào thế vận 1963 (1) với một dụng cụ thô sơ. Chàng không hiểu sức mạnh nào đã giúp chàng khắc phục được những khó khăn lớn lao khó khăn như vậy. Chàng mỉm cười nhìn Rôsita. Vì nàng... vì nàng mà Văn Bình vô tình trở thành vô địch nhảy sào.
Rôsita ra hiệu cho toán thủy thủ chạy thật nhanh trên con đường mòn ngoằn ngèo, gập ghềnh và đầy gai góc. Bốn tử tù Mã lai được cứu thoát cũng nhập bọn sau khi Văn Bình vào rừng được hai, ba phút. Rôsita bảo Văn Bình:
-Trong đồn còn gần 50 binh lính nữa, nhưng em cho là không đáng sợ vì sĩ quan chỉ huy đã bị giết. Tuy nhiên, chúng mình rời đảo Datoek này càng sớm càng tốt vì bọn sống sót có thể điện về thủ đô Jakarta, họ cho phi cơ săn đuổi thì nguy lắm.
Văn Bình hỏi:
-Du thuyền đậu ở đâu?
Rôsita đáp:
-Cách đồn binh độ nửa giờ xuyên rừng.
Mưa đổ xuống ào ào, không báo trước. Rôsita nép vào người Văn Bình, miệng rú lên một tiếng nho nhỏ. Chàng vội ôm chặt lấy nàng, nhưng không phải để đặt vào môi nàng một cái hôn đắm đuối như thường lệ, mặc dầu từ lúc trốn khỏi pháp trường đến giờ, chàng chưa tình tự thân mật với nàng. Thật ra, Văn Bình cũng muốn hôn Rôsita cho bõ nhớ nhung, thèm muốn, nhưng cảm hứng nồng cháy của chàng đã nguội ngay vì nàng thét to:
-Anh ơi, em sợ lắm!
Đang bước rảo, Văn Bình dừng lại. Trên lối đi lầy lội chỉ còn hai người. Toán thủy thủ đi trước độ trăm thước. Cuối con đường xuyên rừng về hướng tây là bờ biển. Tuy trời còn mưa, Văn Bình vẫn nghe được âm thanh rì rầm của biển, âm thanh chứa đầy lạ lùng mà chàng say mê từ thuở hoa niên...
Văn Bình vội hỏi:
-Em sợ gì?
Chàng rút ngay khẩu súng lục ra cầm tay, sửa soạn nhả đạn. Nàng đang ưu tư bỗng phá lên cười:
-Anh lấy súng ra làm gì?
Văn Bình ngạc nhiên:
-Vì nghe em kêu cứu, anh tưởng... họ đã rượt tới nơi.
-Vâng, em kêu cứu, nhưng không phải vì binh lính Nam dương đuổi kịp. Trời mưa thế này họ không dám vào rừng đâu. Vả lại, họ như rắn mất đầu, chẳng làm gì được nên chuyện. Em kêu cứu vì... thôi, em hết sợ rồi.
-Lạ quá, em không phải là người yếu bóng vía, nhiều lần đối phương dí súng vào lưng mà em không sợ. Anh hỏi lý do thì em trả lời đã hết sợ. Em sợ gì, cứ nói cho cho anh biết.
-Anh sẽ cười em.
-Trời ơi, cứ dài dòng mất thời giờ quá.
-Anh đừng cười em nhé, anh hứa đi. Anh long trọng cam kết là không cười em, em mới nói.
-Ừ, thì hứa.
-Em sợ con vắt.
-Vắt đỉa ấy à?
-Vâng.
Văn Bình phá lên cười. Bất cứ ai đi rừng đều biết con vắt, một giống đỉa nhỏ, sinh sản hàng vạn, hàng triệu con. Hễ trời mưa là từ trên cây rụng xuống, từ dưới đất trồi lên. Hễ gặp người đi qua là chúng ùa ra, bám chặt lấy hút máu không nhả. Kẻ đi rừng dùng con dao bén cạo một lượt như cạo râu, hoặc đốt cháy từng con. Nhiều con bị chém đứt đôi hoặc lửa thiêu sèo sèo mà vẫn bám cứng da thịt để hút máu.
Văn Bình không lạ gì Rôsita. Nàng là nữ điệp viên xuất sắc của Phản gián Phi luật tân trước ngày lên xe hoa về nhà chồng. Bình sinh, nàng không biết sợ. Võ nghệ cừ khôi, mưu chước tuyệt vời, nàng đã chinh phục được cảm tình đặc biệt của Văn Bình. Nàng không sợ súng đạn, nàng không sợ chết vậy mà nàng sợ con vắt nhỏ lăn tăn. Đàn bà là như thế đó…
Rôsita vùng vằng:
-Anh cười em … Té ra anh thất hứa!
Văn Bình vội kéo nàng vào lòng:
-Xin lỗi em.
Cả hai người cùng cười. Dưới cơn mưa lác đác, Văn Bình ghì chặt thân thể căng cứng, tràn trề căng cứng, tràn trề sinh lực của nàng, nhìn nàng mắt trong mắt, tay trong tay giây lâu, để sửa soạn cảm xúc mê ly rồi mới từ từ cúi xuống dính môi chàng vào môi nàng. Dường như môi Văn Bình có chất keo đặc biệt, đã sát vào thì lâu lắm mới chịu rời ra. Một số chuyên viên điện ảnh nhận định rằng Văn Bình có sức hôn mãnh liệt hơn cả tài tử màn bạc đẹp trai số một Rudolph Valentino (2) nữa.
Rôsita khoác tay Văn Bình lội nước bì bõm, tiến ra bờ biển. Nàng mang ủng da, cao quá đầu gối nên không bị vắt bám vào. Trong khi ấy, tay chân Văn Bình đều đầy vắt, nhưng chúng chỉ nhảy lên rồi té xuống cả chùm như trái chín rụng. Rôsita reo lên:
-Ô kìa, em chưa thấy ai như anh!
Văn Bình giải thích:
-Muốn đuổi vắt không khó, chỉ cần vận công cho da thịt nóng bỏng, giống vắt kỵ nóng, nhất là nhiệt lượng thân thể. Vắt ở đây còn là vắt nhỏ và hiền, ở rừng rậm Đông Dương, nó còn to hơn và dữ hơn nhiều. Em thử rờ cánh tay anh thì biết.
Rôsita đụng làn da của Văn Bình rồi rụt lại:
-Kỳ khôi ghê! Da anh có điện.
Văn Bình tủm tỉm cười:
-Đó là do vận công mà có. Phép vận công cổ truyền của võ Tàu và Nhật, đặc điểm của nó là rút nhân điện trên óc truyền ra ngoài bì phu, ai chạm vào là bị giật, như chạm vào điện nhà vậy.
-Tại sao hồi nãy em không bị giật?
-Hồi nãy, em làm gì?
-Đùa mãi. Hồi nãy, anh hôn em.
-À, anh quên. Để anh giảng theo khoa học cho em hiểu. Em đã theo lớp huấn luyện điệp báo chắc còn nhớ những nguyên tắc căn bản về việc chống lại tra tấn bằng điện. Bị quay điện, muốn khỏi bị giật thì phải ngăn cách dòng điện bằng một vật dẫn điện, như ngậm cái cúc áo hoặc một dúm thuốc lá trong miệng. Hồi nãy hôn em, anh cũng đang vận công để chống bọn vắt, song em không bị giật vì lẽ anh là dương điện, còn em là âm điện.
-Nói xạo!
-Sự thật là như thế. Anh học được điều này trong bộ Thần ảo công do một hòa thượng già người Thái, thuộc giòng vua chúa, truyền lại cho anh trong những ngày thí phát quy y tại một ngôi chùa cổ ở gần thị trấn Vạn tượng (3).
-Vận công lên, toàn thân anh đều có điện nhưng điện này sẽ hoá giải tức khắc nếu chạm da thịt đàn bà, nhất đàn bà mình yêu. Đó là một bí mật ghê gớm, bí mật mà anh phải giữ riêng trong lòng, sống để dạ, chết đem đi, không được tiết lộ cho bất cứ ai.
-Nhưng anh vừa tiết lộ với em!
-Nghĩa là anh giúp em nắm được yếu điểm của anh. Sở dĩ anh có vũ dũng đặc biệt là do Thần ảo công. Nếu địch tìm cách phá được Thần ảo công thì anh trở thành võ sĩ thông thường, dễ bị đánh bại. Muốn phá Thần ảo công thì phải dùng nữ võ sĩ để đấu với anh, hoặc …
-Thôi, anh đừng dậy thêm nữa vì biết đâu một ngày kia, em sẽ giết anh.
-Em giết anh lúc nào mà chẳng được.
-Bây giờ thì không, nhưng anh coi chừng … em đã bỏ chồng để theo anh, nếu em bắt được anh theo người khác thì em sẽ không tha.
-Lại ghen!
-Đàn bà không ghen thì không còn là đàn bà nữa.
-Nhưng nếu đàn ông không hào hoa mã thượng thì không còn là đàn ông nữa.
-Hào hoa mã thượng không có nghĩa là bạ ai cũng yêu, bạ ai cũng hứa hẹn đủ điều. Em chẳng lạ gì tính hảo ngọt bất trị của anh. Vì vậy, em đã bằng lòng cho anh được tự do, nhưng chỉ tự do đến mực độ nào đó mà thôi …
-Hẳn em đã rõ anh đã có con. Con anh là Văn Hoàng.
-Em biết rồi. Cô Quỳnh Loan đã gửi điện mắng nhiếc em. Song anh chỉ có con mà chưa có vợ.
Hai người đã ra đến bờ biển.
Trời vẫn sám xịt. Mặt trời duyên dáng đã biến đâu mất. Nước biển không trong xanh mà đục ngầu, từa tựa như nước sông Hồng những ngày nước lũ đầy gỗ mục, lá chết, và phù sa màu nâu bẩn thỉu. Dọc bờ biển, bãi cát chạy dài tưởng như không bao giờ hết, với rừng dừa, rừng kè lùn màu xanh xẫm.
Du thuyền Thiên Thần nằm khuất sau một mỏm đá lớn, chạy từ bờ ra xa, rồi vòng lại theo hình cánh cung, tạo ra một cái hồ tròn, tứ bề là vách đá. Bên trên, du thuyền được ngụy trang bằng cành lá um tùm. Thủy thủ đoàn đang hối hả vứt cành lá ngụy trang xuống biển. Mưa rừng đã tạnh hẳn. Bốn tử tù Mã lai chờ Văn Bình trên boong. Thấy chàng, họ ùa tới ôm chầm lấy chàng. Thuyền trưởng cung kính chào Văn Bình, và biếu chàng con dao Mã lai hắn đang giắt nơi lưng:
-Thưa ông, con dao quắm này là của gia bảo, tôi dùng nó từ ngày còn xưng hùng trên mặt biển ở Mindanao. Ông là người đầu tiên trong đời mà tôi khâm phục về võ nghệ. Dao này được chế bằng thép riêng, nấu ở lò đúc thép bên Tàu, trong tỉnh Sơn tây, tỉnh nổi tiếng về thép làm kiếm. Lưỡi nó mỏng và mềm, có thể bẻ cong được, nhưng khi lâm trận nó lại cứng kinh khủng, chém sắt cũng đứt. Đặc biệt khi khua lên nó phát ra tiếng vi vu như tiếng gió biển.
Văn Bình vỗ vai thuyền trưởng:
-Trân trọng cám ơn. Tôi xin luôn luôn đeo nó bên mình làm bùa hộ mệnh.
Du thuyền từ từ rời mỏm đá, len qua cái eo nhỏ ra khơi. Tiếng động cơ diesel êm ru, không hổ danh là du thuyền tối tân nhất Phi luật tân.
Văn Bình nằm dài trên ghế da êm ái trong ca bin. Ngồi bên, Rôsita trịnh trọng khui huýt ky rót vào ly. Đột nhiên Văn Bình nhỏm dậy, hỏi:
-Anh sơ ý quá, quên bẵng. Tại sao em biết anh bị kẹt trong đồn binh mà đến cứu?
Rôsita đưa ly rượu trong vắt tận tay chàng, rồi nhoẻn miệng cười tươi:
-Tối hôm ấy, chờ mãi không thấy anh về, em vội cho người lên bộ tìm kiếm. Thủy thủ đi suốt ngày, và trở về tàu tay không. Rạng đông, em đích thân chỉ huy một toán thủy thủ gan dạ và giỏi võ nghệ, trèo qua núi và băng rừng đến phía sau hải đảo thì gặp đồn binh. Đảo Datoek nhỏ xíu nhưng vì lạ đường nên em mất một ngày mới tới được đồn binh của đại úy Sulim. Đoán phỏng là anh bị bắt, em không dám ra mặt, mà chỉ mai phục bên ngoài. Trên đảo không có dân cư, chỉ có binh lính nên đợi thêm một đêm nữa mới thấy một hạ sĩ một mình đi qua chỗ núp. Em ra lệnh chặn bắt lại thì hắn khai là anh đã bị đưa ra tòa xử và bị tuyên án tử hình. Để bảo vệ bí mật, em phải giết hắn. Trong rừng rậm Nam dương có rất nhiều cọp beo và rắn rết nguy hiểm, kẻ đi một mình mất mạng là thường, nên đại úy Sulim không sai người tìm kiếm. Suốt mấy ngày đêm liên tiếp, em chỉ ở cách trại giam 300 thước, dùng viễn kính quan sát bên trong.
Chiều qua, em thấy binh lính chôn cọc ngoài sân, quang cảnh đồn binh có vẻ rộn rịp, em đoán là anh sắp bị đem bắn. Em muốn đột kích vào đồn song vì thiếu súng lớn, lại không triệt hạ được hai khẩu đại liên trên vòng rào nên băn khoăn mãi chưa nghĩ ra kế. Quá nửa đêm, hai tên lính dại dột ra khỏi đồn, em lừa bắt sống, và chúng đã khai rõ chi tiết về vụ hành hình. Em chia nhóm thủy thủ thành hai toán, toán đánh bọc hậu nhà giam sau khi nổ súng và toán xung kích qua cổng, vào sân trại. Một thủy thủ trèo lên ngọn cây cao nhất từ sáng tinh sương chờ khi nào Sulim giải tù ra thì nhất tề ra hiệu tấn công. Chẳng may hắn bị rắn bay (4) cắn chết ngay trên cây.
Khi nghe loạt súng đầu tiên, em hoảng hốt chạy tới gọi thì biết hắn đã cứng đơ như khúc gỗ. Em phải thân chinh trèo lên cây xả súng bắn vào. Chậm độ một vài phút nữa là em đã mất anh.
-Anh hiện nợ em cái ơn cứu tử.
-Lại khách sáo nữa! Nếu không cứu được anh thì chắc chắn giờ này em đã nằm dưới biển. Nói vậy để anh biết rõ mối tình của em đối với anh.
Văn Bình hôn thật lâu vào đôi môi mở hé của nàng. Nàng buông chàng ra, tát vào má, giọng đe dọa:
-Anh nhớ đấy! Đừng tưởng anh lăng nhăng với người khác mà em không biết. Em sẽ đi sát bên anh.
Văn Bình cười:
-Em đánh anh đau quá!
-Mũi dao của em đâm vào da thịt anh còn đau hơn nhiều.
Văn Bình vội đứng dậy vì có tiếng gõ cửa rồi cửa ca bin hé mở. Thuyền trưởng hiện ra với mảnh giấy tờ trong tay. Hắn nói với Rôsita:
-Thưa bà, tôi vừa nhận được phúc điện.
Thuyền trưởng trao tấm giấy đánh máy cho Rôsita rồi bước ra ngoài, khép cửa lại. Hắn vừa gửi bức điện cách đây một giờ. Bức điện này là của Văn Bình. Thuyền trưởng không hiểu được nội dung vì nó được viết bằng mật mã đặc biệt. Hắn cũng không biết bức điện được gửi cho ai. Duy Văn Bình và Rôsita là biết bức mật điện được gửi cho phân cuộc CIA tại Tân gia ba. Nội dung như sau:
“Của Z.28
Yêu cầu chuyển ngay cho Ủy ban Phối hợp tại Sàigòn.
Nội dung: du thuyền Thiên Thần bị bão, giạt vào bờ biển Nam dương nên công tác thiếu sự liên tục. Xin điện cho biết hiện Bồng Lai ở đâu.”
Và đây là bản phúc điện:
“Của Ủy ban Phối hợp
Gửi thẳng cho Z.28.
Bồng Lai vừa cặp bến Tân gia ba để lấy xăng nhớt. Yêu cầu tiếp tục bám sát trong khuôn khổ kế hoạch Trường Huệ.
Chúc may mắn.”
Ủy ban Phối hợp là một ủy ban gồm đại diện tình báo Nam Việt và CIA được thành lập để soạn thảo và tiến hành những kế hoạch tình báo liên quan đến hai quốc gia Việt-Mỹ.
Còn Bồng Lai, và kế hoạch Trường Huệ?
Hai tuần trước; Văn Bình xô cửa vào văn phòng ông tổng giám đốc tại bin đinh mang tên Công ty Điện tử trên đại lộ Nguyễn Huệ gần bờ sông Sàigòn. Ngoài đường trời nóng đến nỗi Văn Bình ngạt thở. Giàu kinh nghiệm, chàng không dám mặc ni lông, vậy mà cái sơ mi bằng lụa dệt tay Ý đại lợi chuyên hút khí nóng, trị giá năm ngàn bạc, của chàng vẫn dính cứng da thịt vì bồ hôi tuôn ra như tắm.
Không khí lạnh buốt trong phòng ông Hoàng làm Văn Bình bàng hoàng. Ông tổng giám đốc không phải là người mê máy lạnh. Sở dĩ phòng ông được gắn máy lạnh là để đảm bảo an toàn, khỏi phải trổ cửa sổ, mặt khác để mọi cuộc trò chuyện kín đáo. Vì luống tuổi, không chịu được khí hậu quá lạnh nên ông Hoàng đã sai gắn một bộ phận đặc biệt trong phòng, kèm theo cái hàn thử biểu. Bộ phận này tự động điều chỉnh cho khí hậu không bao giờ lạnh dưới 20 độ.
Vậy mà hôm ấy hàn thử biểu lại chỉ đúng 6 độ. Vâng, đúng 6 độ nghĩa là lạnh hơn tiết đại hàn ngoài Bắc những mùa đông cực lạnh.
Văn Bình dụi mắt nhìn hàn thử biểu lần nữa. Mắt chàng còn tốt nguyên, chưa phải đeo kiếng, nhìn xa rõ như hải đăng. Ở gần thì ban đêm xâu chỉ vào lỗ kim nhỏ xíu cũng như ban ngày ngoài nắng. Đúng, chàng không quáng gà. Đúng là hàn thử biểu đã tuột xuống 6 độ.
Và ông Hoàng cũng không mặc com lê cũ kỹ, bạc màu và sờn chỉ như thường lệ. Trái lại, ông choàng áo bờ lu trắng tinh như y sĩ, và đang đứng ở góc trước cái bàn nhỏ trên đặt một dãy chậu sứ tráng men xanh trồng hoa huệ.
Văn Bình vào đã lâu mà ông Hoàng không để ý. Chàng đằng hắng đến lần thứ ba ông Hoàng mới quay lại. Ông xoa tay và nói:
-À, anh!
Văn Bình ngồi xuống ghế bọc da đỏ êm ái, vẻ mặt ngạc nhiên vi không thấy trên bàn chai huýt ky chưa khui, cái ly pha lê chùi rửa sạch sẽ và bịch thuốc Salem ông để dành riêng cho chàng. Chắc phải có chuyện tối quan trọng ông Hoàng mới quên bẵng cái điều mà từ nhiều năm nay ông luôn luôn nhớ. Tuy vậy, nếu có chuyện tối quan trọng ông cần chàng tới bàn bạc thì tại sao ông lại bâng khuâng trước mấy bông huệ vô tri?
Ông Hoàng chỉ bông huệ ở đầu bàn, lớn nhất và đẹp nhất;
- Anh biết hoa gì không?
Đứa trẻ lên 6, mới cắp sách vào lớp bét tiểu học cũng không thể không biết đó là huệ. Ngày rằm và ngày mồng một, nó phải thấy mẹ nó cắm huệ lên bàn thờ Phật. Tín đồ công giáo cũng dâng huệ trên bàn thờ Chúa. Vậy mà ông tổng giám đốc lại mang câu hỏi ấu trĩ con nít ra hỏi Văn Bình. Bực mình, chàng định xỏ ông một vố. Chàng bèn giả vờ quan tâm, tiến lại gần cái bàn nhỏ, đứng ngắm hồi lâu rồi ngẩng đầu lên, ra dáng thất hy vọng thành thật:
-Thưa ông, tôi chưa hề thấy giống hoa này bao giờ.
Ông Hoàng phá lên cười:
-Đáng khen lắm. Đáng khen lắm. Tôi đã hỏi nhiều người, ai cũng cho là hoa huệ, học thức uyên bác như Triệu Dung mà cũng một mực khăng khăng là hoa huệ. Duy có anh là nói không biết. Thật vậy, biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe...
Ông Hoàng trịnh trọng bưng một chậu hoa lên bàn buya rô bên đống hồ sơ bìa đỏ, đề chữ “Tối mật –an ninh quốc ngoại “ rồi mân mê cánh huệ với dáng điệu đam mê. Văn Bình sững người nhìn ông tổng giám đốc. Người ta bảo là ông già, bà cả thường lẩn thẩn, nhiều khi điên tàng hoặc phát biểu ngây ngô. Ông Hoàng không còn trẻ nữa, không khéo thần kinh bị công việc quá nặng nề làm lệch lạc rồi cũng nên. Phải là kẻ mất trí khôn mới dám nói chậu hoa trước mặt không phải là hoa huệ. Chàng đinh ninh lỡm được ông Hoàng, ngờ đâu lại được khen là nói thật.
Vẻ mặt nghiêm trang, ông Hoàng mở cuốn sách dầy ở góc bàn ra coi. Nhìn thấy trang nào cũng in các loại cây. Văn Bình biết đó là cuốn thảo mộc bách khoa. Trong quá khứ, nhiều lần ông Hoàng đã cải trang làm trại chủ trồng hoa. Để đóng đúng vai trò, ông đã dành nhiều thời giờ nghiền ngẫm bộ sách thảo mộc bách khoa này.
Giở được mấy trang, ông Hoàng đẩy cuốc sách về phía Văn Bình:
-Giống hoa này là Amaryllis, trông như hoa huệ mà không phải hoa huệ. Nó quý hơn cả kim khí quý và đá quý nữa kia.
Văn Bình hỏi:
-Thưa, chắc nó có tác dụng cải lão hoàn đồng hoặc hồi sinh bệnh nhân hấp hối?
-Không, không phải như vậy. Nó quý ở chổ nở hoa quanh năm, mùa nào cũng nở hoa, và nở hoa hàng chục năm liên tiếp. Trên thế giới, người ta đã tìm thấy một giống Amaryllis trổ hoa luôn trong 40 năm liền (5).
Sau những phút bần thần, Văn Bình lặng người đi khi nghe ông Hoàng nói. 40 năm trổ bông liên tiếp... Lần đầu chàng mới được biết tới loại hoa kỳ dị như vậy.
Thì ông tổng giám đốc đã nói tiếp:
-Ông Sì mít vừa gởi bằng máy bay sang cho tôi 4 chậu. Tôi đang tìm cách trồng nó ở nước nhà. Bao nhiêu chuyên viên thảo mộc cố gắng gây giống mà đều thất bại. Nhưng tôi đã khám phá ra bí quyết. Đó là trồng nó trong lồng kính, với sức lạnh không quá 6 độ bách phân.
Chợt nhớ ra, ông Hoàng vội lấy cặp kiếng trắng dày cộm đeo vào mắt:
-À, tôi vừa thăm cháu. Lớn lên, nó càng giống anh như tạc. Tại sao anh chưa tới thăm cháu?
Chết rồi, ông Hoàng lại xía vào đời tư của chàng. Chàng nhớ con, muốn đến ôm nó vào lòng nhưng lại sợ gặp Quỳnh Loan, sợ phải nghe nàng giảng luân lý hàng giờ. Vì vậy, chàng tìm cách đình hoãn và lẩn tránh. Chàng bèn đáp nước đôi:
-Vâng, tôi sẽ đến.
Ông Hoàng cắt điếu xì gà Havan rồi nói:
-Từ nãy đến giờ tôi đã làm mất của anh hơn nửa giờ đồng hồ quý báu, anh đừng giận lão già lẩm cẩm này nhé. Sở dĩ tôi nhắc đến cháu là vì nó liên quan phần nào đến giống hoa Amaryllis, và hoa Amaryllis lại liên quan phần nào đến công tác tôi sắp giao cho anh hôm nay. Thật vậy, cháu Văn Hoàng đã gián tiếp giúp tôi tìm ra phương pháp trồng Amaryllis. Chắc anh không lạ gì cái thú nằm trong phòng gắn máy lạnh của nó. Tuy còn nhỏ xíu, nó đã dư nội hỏa để ở trần trong một khí hậu mà người lớn phải mặc đồ lót len, ba đờ suy lông thú và uống rượu mạnh mới khỏi bị sưng phổi. Nội hỏa của nó là do di truyền, anh giỏi nội công nên con anh trở thành mình đồng, da sắt. Vì vậy, phòng ngủ của nó ít khi lạnh trên 13, 14 độ. Mấy chậu hoa do ông Sì mít biếu lần lượt khô héo. Tình cờ, tôi tới thăm cháu, mang chậu hoa đi theo, và ở gần một giờ chơi đùa với nó. Khi ra về, tôi nhận thấy nụ hoa tươi tốt trở lại.
Văn Bình nói đùa:
-Tôi đề nghị ông đặt tên ở nhà cho nó là Amaryllis.
Một lần nữa, Văn Bình lại “lỡ tàu“. Chàng nói kiểu nghịch ngợm nhưng ông tổng giám đốc vẫn cho là đóng góp ý kiến nghiêm chỉnh:
-Cũng gần như thế. Để ghi nhớ dịp may hãn hữu này, tôi đặt công tác sắp tới do anh có nhiệm vụ tiến hành là công tác Amaryllis, dịch tiếng Việt là Trường Huệ, trường là dài, nghĩa là “hoa huệ sống lâu “. Một lý do khác khiến tôi gắn bó với chữ Amaryllis là vì Dixon rất đam mê loại hoa này.
-Thưa, Dixon là ai?
-Là nhân vật chính trong tấn tuồng đang diễn. Y trạc ngũ tuần, không vợ con chính thức, nhưng khá nhiều bạn gái và con rơi. Mã ngoài của y được phụ nữ ưa thích. Người Mỹ nổi tiếng là cao to, y lại cao to hơn đa số người Mỹ khác. Y hội đủ điều kiện vật chất để thành công trên tình trường, ngoài bộ vó khôi ngô, y lại có ngôn ngữ lịch thiệp, lưu loát, ngọt ngào.
-Dĩ nhiên là có nhiều tiền?
-Chữ nhiều sợ chưa đúng lắm. Người ta chưa ước lượng được sản nghiệp riêng của y là bao nhiêu nhưng ít ra cũng từ chục triệu đô la trở lên. Đó mới là tiền mặt do y cất giữ trong nhà hoặc trong ngân hàng. Nếu cộng thêm của chìm, và các kho chứa võ khí của y rải rác trên khắp thế giới thi tiền bạc không biết cơ man nào mà kể.
-Y là trùm gián điệp địch?
-Không. Nếu Dixon là trùm gián điệp GRU, Smerch, hoặc Tình báo Sở thì công việc của ta sẽ dễ hơn nhiều. Ta chỉ cần thu thập bằng cớ cụ thể rồi lôi y ra tòa lãnh án. Hoặc giản dị hơn, ta sẽ hạ sát và quăng xác y xuống biển. Đằng này y lại là công dân lương thiện, ít ra là lương thiện ngoài mặt. Người ta biết y dính líu vào nhiều vụ động trời, nhưng vì thiếu bằng cớ nên đành bó tay. Dầu khui được bằng cớ hiển nhiên, cũng vị tất bỏ tù được y vì nhờ thế lực của đồng đô la y thuê cả một sư đoàn luật sư, y còn có cả trăm đàn em sẵn sàng nhận tội thay y, và khi cần y lại mua chuộc được quan tòa nữa. Luật pháp Mỹ khá tự do, bắt người đã khó, nhốt người còn khó gấp chục lần. Do đó Dixon vẫn tiếp tục nhởn nhơ phá hoại hòa bình thế giới.
-Phá hoại hòa bình thế giới, nghĩa là y buôn võ khí lậu?
-Phải. Dixon là lái buôn võ khí quan trọng vào bậc nhất hoàn vũ. Y nhập cuộc từ sau thế chiến thứ hai, thoạt đầu mua lại một lô võ khí hỏng cho chữa lại đem bán, rồi đến mua võ khí thặng dư, hay lỗi thời cung cấp cho các nước nhỏ. Y điều khiển một công ty khổng lồ mang tên là Công ty Võ khí Thế giới, trụ sở chính đặt tại Nữu ước, với 12 phân cuộc ở mọi thủ đô lớn trên thế giới. Kho chứa của y cũng rất nhiều, phần đông đều tọa lạc bên ngoài lãnh thổ Hoa kỳ. Chính vì vậy mà cơ quan an ninh Hoa kỳ phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhưng bây giờ thì họ không thể làm thinh được nữa.
-Chắc Dixon bán súng đạn cho phiến quân cộng sản ở Nam Việt?
-Ồ, đó là chỉ là một tội trạng quá nhẹ. Tội trạng nặng nhất của y là bán lậu hỏa tiễn.
-Hỏa tiễn có đầu đạn nguyên tử?
-Phải.
-Kể cũng hơi lạ vì hỏa tiễn nguyên tử không phải là vật dễ chế tạo, mua ở đâu cũng có.
-Đây là hỏa tiễn cỡ nhỏ, tầm bắn từ 10 đến 30 cây số, thuộc loại hỏa tiễn chiến thuật, do Hoa kỳ và Nga sô sản xuất trong nhưng năm đầu tiên của kỹ nghệ chế tạo võ khí hạt nhân. Những võ khí hạt nhân tối tân và xa tầm lần lượt được chế tạo, Nga Mỹ phải cất giữ võ khí cũ vào kho. Không hiểu sao Dixon lại vớ được những hỏa tiễn loại này.
-Do Nga sô bí mật cung cấp …
-Cũng có thể Dixon ăn cắp trong các kho chứa của Hoa kỳ ở trong xứ và hải ngoại. Như anh đã biết khối Minh ước Bắc Đại tây dương và khối Minh ước Liên phòng Đông Nam Á đều có kho chứa riêng. Theo tin tức chính xác, Dixon đang chở một số hỏa tiễn nguyên tử trên một chiếc tàu lởn vởn ngoài khơi Đông Nam Á, hiện sắp ghé Phi luật tân.
-Ông muốn tôi chặn bắt tàu của Dixon lại?
-Tốt nhất là theo dõi y xem y đổ bộ võ khí lên quốc gia nào, rồi khi đó hãy ra tay. Chuyến đi này, Dixon giả dạng là du lịch. Thủy thủ đoàn gồm toàn bọn anh chị quốc tế, trung thành tuyệt đối với Dixon.
-Thưa, đã có lần nào CIA cho người đột nhập lên tàu của Dixon chưa?
-Có. Một vài lần. Họ đều thất bại vì không nhân viên nào trở về.
-Bị giết?
-Không biết.
-Tại sao họ không yêu cầu công an liên bang FBI xin trát tòa để khám xét?
-Rất khó vì Dixon giao du toàn với những nhân vật cao cấp. Họ là tay tổ trong đảng cầm quyền. Do đó, CIA phải nhờ đến ta.
-Có chắc là Dixon chở hỏa tiễn trên tàu không, thưa ông?
-Chắc, vì CIA gài được một thủy thủ trên tàu. Mật báo viên này sắp cung cấp đầy đủ chi tiết thì mất tích. Thành ra mọi việc phải quay lại con số dê rô. Cho dẫu CIA nắm được chi tiết cũng chẳng làm được gì vì tàu của Dixon luôn luôn ở trên hải phận quốc tế.
-Ông vừa nói là y sắp ghé Phi luật tân!
-Lệ thường, y vào bờ bằng ca nô. Như tôi đã cắt nghĩa ở trên, Dixon khôn như ranh, ăn vụng chùi mép rất giỏi. Y chỉ mắc một sở đoản: đàn bà. Hiện y đang mê một thiếu phụ da trắng tuyệt đẹp, tên là Akita. Nàng cùng đi sang Viễn đông với y.
-Hừ, ông cấm tôi chơi bời mà lại muốn tôi tán tỉnh nhân tình của Dixon. Thôi, tôi không dám.
-Vào địa vị anh, tôi sẽ không từ chối. Ủy ban Phối hợp đã nhóm họp nhiều kỳ, ông Sí mít đặc biệt nhắc đến tên anh. Đây là vấn đề uy tín của Sở. Lại là vấn đề an ninh của nước nhà nữa. Vì nếu Dixon bán hỏa tiễn cho cộng quân hoạt động trên bán đảo Đông dương thì cán cân quyền lực sẽ thay đổi trong khoảnh khắc... Tôi đã chuẩn bị giấy tờ cho anh qua Mani. Anh chờ sẵn ở đó, khi Dixon rời bến thì thuê tàu rượt theo.
-Tàu của ai?
-Tùy anh lo liệu. Phân cuộc CIA ở Mani đã neo trong vịnh một khoái đĩnh chữa lại thành du thuyền, với thủy thủ đoàn người Nam Mỹ. Anh sẽ liên lạc với họ để thảo luận thể thức. Và anh có toàn quyền định đoạt.
Văn Bình đã xử dụng quyền này bằng cách mượn du thuyền của Rôsita. Và chàng bám sát tàu Bồng Lai của Dixon. Cho đến khi trận bão xảy ra. Du thuyền Thiên Thần dạt vào đảo Datoek.
Tờ mờ sáng hôm sau, Văn Bình nhận được bức điện mới của Ủy ban Phối hợp:
“Của Ủy ban Phối hợp
gởi thẳng cho Z.28.
Bồng Lai vừa rời Tân gia ba. Yêu cầu chạy thẳng tới Kota Bharu.”
Kota Bharu là một thương cảng nhỏ hơn của Tân gia ba và ở phía bắc Tân gia ba gần 500 cây số. Du thuyền Thiên Thần ghé vào bờ, đổ nhiên liệu.
Đêm ấy, một bức điện khác được gởi tới:
“của Ủy ban Phối hợp
gởi thẳng cho Z.28.
Bồng Lai đang tiến tới Vọng các. “
Vọng các với giòng sông Chao Phya chứa đầy kỷ niệm là một trong nhiều nơi trên trái đất mà Văn Bình không khi nào quên được. Chàng vui mừng như đứa trẻ được mẹ về chợ cho quà.
Sáu ngày sau, du thuyền Thiên Thần vượt thêm một ngàn cây số đường biển để tới thủ đô Thái lan huyền bí.
Chú thích:
(1) năm 1963, John Thomas Pennel (Hoa kỳ) đã nhảy được 5m20. Văn Bình phải là võ sĩ cừ khôi mới đạt được thành tích vượt tường 5m này, vì muốn nhảy cao như vậy phải chạy 40m để lấy trớn và phải có sào tốt bằng thủy tinh ép hoặc bằng nhôm đặc biệt. Tưởng nên biết rằng võ sĩ nhảy sào không bị gãy xương khi đáp xuống vì có một lớp vỏ bó ni lông khá dày, được trải trên một khoảnh vuông mỗi cạnh 5m, trong khi ấy Văn Bình nhảy từ 5m cao xuống đất cứng. Đó là nhờ công phu Ninjutsu và Thần ảo công.
(2) hồi sinh thời, tài tử Mỹ Rudolph Valentino đã khét tiếng về nghệ thuật hôn lâu, hôn mạnh, và gây nhiều hoan lạc, khoái cảm cho nữ diễn viên màn ảnh. Có lần Rudolph làm mạnh đến nỗi một nữ diễn viên bị gãy ngay... hai cái xương sườn. Từ khi Rudolph mệnh một, hầu hết vụ hôn trên màn ảnh đều giả tạo. Với tài nghệ vượt Rudolph Valentino, Văn Bình quả là đàn ông nguy hiểm, các bà các cô nên... tránh
xa.
(3) xin đọc « Vạn tượng khói lửa » để theo dõi hoạt động của Z.28 ở Lào. Còn về bộ sách Thần ảo công thì đọc « Tia sáng giết người » ( 2 cuốn trọn bộ ), cũng của Người Thứ Tám, Tân Quang, 54 Lê văn Duyệt, tổng phát hành.
(4) danh từ khoa học gọi giống rắn bay này là chrysopefea ornata. Nó sinh sống trong rừng rậm đảo Java ( Nam dương ) và Mã lai Á. Các nhà sinh vật nhiều lần mang rắn bay về xứ lạnh để nuôi song lần nào nó cũng chết. Giống rắn này mình dẹp, chuyên sống trên cây và cuộn tròn lại. Nó băng mình từ cây này sang cây khác chứ không bò xuống đất rồi trèo lên. Khi di chuyển, nó tung người dài ra, dài như giải lụa. Nọc độc nó rất nguy hiểm, hễ nó cắn ai là chết. Rất nhiều người Nam dương và Mã lai đi rừng đã mất mạng vì bị rắn bay cắn.
(5) hiện bà Elfreda Wulff, ngụ tại Omaha ( Hoa kỳ ), trồng được thứ Amaryllis này. Cây hoa của bà trổ bông trong 40 năm và vẫn tiếp tục trổ bông. Trông nó như hoa huệ của ta, duy khác ở điểm hoa nó thường chĩa xuống chứ ít khi đâm lên. Nó có mùi thơm rất quyến rũ.