To choose a good book, look in an inquisitor’s prohibited list.

John Aikin

 
 
 
 
 
Tác giả: Charlaine Harris
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Living Dead In Dallas
Dịch giả: Thiện Hoàng
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 11
Cập nhật: 2023-06-18 15:54:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
húng tôi mở cửa quán lại vào lúc bốn rưỡi, đến lúc đó thì cả đám tụi tôi đã nản hết sức. Tôi thấy xấu hổ về chuyện này, vì dù sao thì, tất cả chúng tôi ở đó vì một người mà cả bọn quen biết vừa chết, nhưng chẳng thể chối được rằng sau khi dọn dẹp kho hàng, lau dọn văn phòng của Sam và chơi vài ván bài Buorre (Sam ăn năm đô la và mấy đồng tiền lẻ), chúng tôi đều đã ngấy lên rồi, chỉ muốn gặp người mới thôi. Khi Terry Bellefleur, anh họ của Andy và là người pha chế rượu kiêm đầu bếp dự bị thường trực cho quán Merlotte, bước vào qua cửa sau, ông ấy đã được đón chào nhiệt liệt.
Tôi đoán Terry cỡ gần sáu mươi. Ông là cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, là tù nhân chiến tranh trong khoảng một năm rưỡi. Trên mặt Terry có vài vết sẹo lồ lộ, và chị bạn Arlene của tôi bảo rằng những vết sẹo trên mình ông ấy còn kinh khủng hơn nhiều. Terry có mái tóc đỏ, mặc dù cứ mỗi tháng thì tóc ông càng ngả sang màu xám nhiều hơn, có vẻ là thế.
Tôi luôn thích Terry, vì ông ấy luôn nhún mình đối đãi tử tế với tôi - trừ khi tâm trạng ông không tốt. Ai cũng biết là đừng có chọc giận Terry Bellefleur trong những lúc ông trở chứng. Rõ ràng tháng ngày đen tối của Terry đã mang đến cho ông cơn ác mộng dễ sợ nhất, như mấy người hàng xóm của ông ấy bảo. Họ có thể nghe thấy Terry gào rú trong những đêm gặp ác mộng.
Tôi không bao giờ, không bao giờ đọc tâm trí của Terry cả.
Terry hôm nay trông khá ổn. Hai vai ông thả lỏng, và đôi mắt không láo liên nhớn nhác. “Cô ổn chứ, cưng?” ông hỏi, vỗ vỗ tay tôi đầy cảm thông.
“Cảm ơn Terry, tôi ổn. Chỉ buồn chuyện của Lafayette thôi.”
“Phải thôi, hắn cũng đâu có tệ lắm.” Terry mà nói vậy, thì đó là một lời khen ra trò rồi. “Làm đúng việc, luôn đến đúng giờ. Lau chùi nhà bếp sạch sẽ. Không văng tục bao giờ.” Thể hiện được đến mức đó là tham vọng cao siêu nhất của Terry. “Và rồi hắn lại chết trong chiếc Buick của Andy.”
“Tôi e là xe của Andy bị như là…” Tôi cố tìm ra từ nào nhẹ nhàng nhất để diễn tả.
“Tẩy được mà, nó bảo thế.” Terry nóng lòng muốn kết thúc đề tài này cho rồi.
“Anh ấy có kể cho ông nghe chuyện gì đã xảy ra với Lafayette không?”
“Andy bảo có vẻ như cổ của hắn ta bị gãy. Và có vài, à ừ, vài bằng chứng là hắn đã bị… bị vọc.” Đôi mắt nâu của Terry lảng ra chỗ khác, lộ vẻ khó chịu. “Bị vọc” theo ý Terry có nghĩa là chuyện gì đó liên quan đến bạo lực và tình dục.
“Ôi. Chúa ơi, kinh quá.” Danielle và Holly đã bước đến sau tôi từ lúc nào, rồi cả Sam, cùng với một túi rác nữa được anh dọn từ văn phòng, anh dừng lại trên đường đi ra chỗ thùng rác sau nhà.
“Anh ấy không có vẻ gì là bị… Ý tôi là, chiếc xe trông đâu có gì là…”
“Dính dơ hả?”
“Phải đó.”
“Andy nghĩ rằng hắn ta bị giết ở nơi khác.”
“Khiếp.” Holly thốt lên. “Đừng nói chuyện này nữa. Kinh quá, tôi chịu hết nổi rồi.”
Terry nhìn hai cô này qua vai tôi. Ông chẳng ưa gì Holly lẫn Danielle, mặc dù tôi không biết lý do và cũng chẳng hơi đâu mà tìm hiểu. Tôi cố gắng để cho mọi người được riêng tư, nhất là giờ đây khi tôi kiểm soát khả năng của mình được tốt hơn. Tôi nghe thấy hai cô nàng bỏ đi, sau khi Terry cứ lừ mắt nhìn chòng chọc vào họ thêm vài giây nữa.
“Portia đến đón Andy tối hôm qua à?” ông hỏi.
“Vâng, tôi đã gọi cho cô ấy. Anh ta không thể lái xe được. Mặc dù bây giờ tôi cá là anh ta đang ước chi tôi đã để anh ta tự lái xe về lúc đấy.” Tôi thì chẳng bao giờ được là người dẫn đầu trong danh sách những người mà Andy Bellefleur yêu thích cả.
“Con bé có gặp rắc rối gì khi lôi anh nó vào trong xe không?”
“Bill đã giúp cô ấy.”
“Bill ma cà rồng hả? Bạn trai của cô ấy à?”
“Phải.”
“Tôi mong là hắn ta không làm con bé sợ phát khiếp,” Terry nói, cứ như thể ông ấy không nhớ ra rằng tôi vẫn còn đứng ngay đây.
Tôi có thể cảm nhận thấy khuôn mặt mình bắt đầu cau có. “Chẳng có lý do quái gì mà Bill lại đi hù dọa Portia Bellefleur cả,” tôi vặc lại, và có gì đó trong cách tôi nói đã xuyên thẳng vào đám sương mù suy nghĩ thầm kín của Terry.
“Portia chả cứng rắn như mọi người vẫn tưởng đâu,” Terry bảo tôi. “Còn cô ấy à, trái lại nhé, bên ngoài là chiếc bánh nhỏ nhắn ngọt ngào nhưng bên trong lại là con chó ngao hung tợn.”
“Tôi không biết mình nên thấy được tâng bốc hay nên thụi ông một phát đây.”
“Đấy thấy chưa. Có bao nhiêu cô nàng - hay anh chàng, trong chuyện này - dám nói điều ấy với một tên điên như tôi đây?” Và Terry mỉm cười, như ma quỷ cười. Mãi đến bây giờ tôi mới biết Terry ý thức được tiếng tăm của mình đến mức nào.
Tôi kiễng chân hôn lên bên má mang sẹo của ông ta, để chứng tỏ rằng mình chẳng sợ chút nào. Nhưng khi hạ gót xuống, tôi nhận ra không hẳn là thế. Trong một số tình huống nào đó, tôi hẳn không những e dè người đàn ông thương tật này, mà có lẽ còn thực sự trở nên khiếp đảm ông ấy nữa là khác.
Terry quàng tấm tạp dề đầu bếp trắng qua người và bắt đầu mở cửa nhà bếp. Đám còn lại chúng tôi trở lại làm việc. Tôi sẽ chẳng phải phục vụ bàn lâu đâu, vì đến sáu giờ tôi sẽ ra về để sửa soạn cùng Bill lái xe đến Shreveport. Tôi không thích Sam phải trả công tôi cho khoảng thời gian tôi quanh đi quẩn lại trong quán Merlotte, chờ đến lúc làm việc; nhưng việc sắp xếp lại nhà kho và dọn dẹp văn phòng của Sam phải đáng giá chút ít gì chứ nhỉ.
Ngay khi cảnh sát cho mở bãi đỗ xe, mọi người bắt đầu ùa vào, lượng khách đông hết mức so với một thị trấn nhỏ bé như Bon Temps. Andy và Portia là một trong số những người bước vào đầu tiên, và tôi thấy Terry nhìn qua cửa sổ phòng bếp trông ra đám em họ. Hai anh em vẫy tay chào, ông liền giơ cái muôi dẹt lên đáp lời. Tôi băn khoăn không biết Terry là ông anh họ gần đến cỡ nào. Terry không phải là anh con chú bác ruột, điều đó thì tôi chắc chắn. Dĩ nhiên, ở nơi này thì người ta có thể gọi bất kỳ ai là anh em họ hay cô dì chú bác mà thực chất chỉ là họ hàng xa hay là chẳng có chút quan hệ máu mủ nào cả. Sau khi bố mẹ tôi mất đi trong một cơn lũ quét cuốn phăng chiếc xe họ lái khỏi cầu, cô bạn thân nhất của mẹ tôi đã cố gắng vài ba tuần lại ghé qua nhà bà tôi mang theo chút quà cho tôi; tôi đã gọi cô ấy là dì Patty từ bấy đến giờ.
Tôi trả lời mọi câu hỏi của khách nếu có thời gian, và phục vụ hamburger cùng salad ức gà - kèm theo bia - cho đến khi mệt hoa cả mắt. Khi tôi liếc nhìn đồng hồ thì cũng đã đến lúc phải đi. Tôi tìm ra chị bạn Arlene, người làm thay ca cho mình, trong phòng vệ sinh nữ. Mái tóc đỏ chóe hất ra sau của Arlene (tháng này còn đỏ tươi thêm hai cấp độ nữa) được uốn xoắn xít, và chiếc quần bó sát của chị thông báo cho cả thế giới biết rằng chị đã giảm được hơn ba cân. Arlene đã lên xe hoa bốn lần, và hiện đang tìm kiếm người thứ năm.
Hai đứa tôi trao đổi về vụ giết người vài phút, rồi tôi tóm tắt cho chị ấy biết tình hình mấy bàn khách tôi phục vụ, trước khi tôi vơ lấy chiếc túi xách ở văn phòng Sam và lỉnh ra cửa sau. Trời vẫn chưa tối hẳn khi tôi tấp xe vào nhà, ngôi nhà nằm sâu trong rừng cách con đường quê thưa thớt người qua lại một phần tư dặm. Đây là một ngôi nhà cổ, vài phần của căn nhà đã có từ một trăm bốn mươi mấy năm trước, nhưng ngôi nhà lại thường xuyên được sửa chữa thêm thắt vào quá đỗi nên chúng tôi không coi đó là một ngôi nhà từ thời tiền Nội Chiến nữa. Dù sao thì đây cũng chỉ là một căn nhà kiểu miền quê cũ kỹ. Bà tôi, Adele Hale Stackhouse, đã để ngôi nhà lại cho tôi, và tôi trân trọng nó. Bill đã thuyết phục tôi dọn đến ở nhà của anh, nằm trên một ngọn đồi chỉ cách nhà tôi một nghĩa trang, nhưng tôi lại chần chừ không muốn xa rời nơi chốn của riêng mình.
Tôi tuột phăng bộ đồ hầu bàn rồi mở tủ quần áo ra. Nếu chúng tôi đến Shreveport vì công việc liên quan đến ma cà rồng, thì Bill sẽ muốn tôi diện một chút. Tôi thật không thể hiểu nổi, vì tuy anh chẳng muốn ai để ý đến tôi, nhưng lại luôn muốn tôi trông xinh xắn hơn mỗi khi chúng tôi đến quán Fangtasia, quán bar của ma cà rồng chủ yếu phục vụ khách du lịch.
Đúng là đàn ông mà.
Tôi chẳng thể quyết định được phải mặc gì, nên nhảy tót vào tắm táp trước đã. Tôi luôn thấy căng thẳng khi nghĩ đến quán Fangtasia. Những tên ma cà rồng chủ quán lại là một bộ phận trong hệ thống quyền lực cai quản giới ma cà rồng, và khi phát hiện ra khả năng đặc biệt của tôi, bọn họ khao khát có được tôi. Chỉ có quyết tâm tham gia vào hệ thống tự trị của giới ma cà rồng của Bill mới giữ cho tôi được an toàn; có nghĩa là, tôi được sống ở nơi mình muốn sống, được làm công việc mình chọn. Nhưng để đổi lại cho sự an toàn đó, tôi vẫn buộc phải trình diện mỗi lần được triệu gọi, và phải sử dụng khả năng ngoại cảm của mình để giúp bọn họ. Thứ các ma cà rồng “muốn hội nhập vào thế giới loài người” cần là những phương pháp ôn hòa hơn so với những lựa chọn mà họ có trước kia (tra tấn và khủng bố). Nước nóng làm tôi thấy khỏe hơn ngay, tôi thả lỏng người khi làn nước xả xuống lưng mình.
“Cho anh tắm cùng nhé?”
“Chết tiệt, Bill!” Tim tôi đập liên hồi, tôi phải tựa vào tường phòng tắm để khỏi ngã.
“Xin lỗi cưng nhé. Em không nghe thấy cửa phòng tắm mở sao?”
“Không nghe thấy đâu, đồ quỷ. Sao anh không thể kêu lên ‘Cưng ơi, anh về rồi,’ hay gì đó đi chứ?”
“Xin lỗi mà,” anh lại nói, giọng không có vẻ gì là thành khẩn cho lắm. “Em có cần ai đó kỳ lưng hộ không?”
“Không cần, cảm ơn,” tôi rít lên. “Em không có hứng muốn được-kỳ-lưng đâu.”
Bill toét miệng cười (để tôi có thể thấy hai răng nanh của anh đã được rút vào) và kéo tấm màn phòng tắm lại.
Khi tôi bước ra khỏi phòng tắm, với chiếc khăn tắm quấn gần như kín đáo quanh mình, anh đang duỗi dài trên giường tôi, đôi giày của anh xếp gọn gàng trên tấm thảm nhỏ cạnh bàn bên giường ngủ. Bill đang mặc sơ mi dài tay màu xanh sẫm và quần kaki, mang tất tiệp màu với áo và đôi giày lười bóng loáng. Mái tóc màu nâu sậm của anh được chải ngược hẳn ra sau, hai bên tóc mai dài dài của anh trông có vẻ hoài cổ.
Ừ, thì cổ thật mà, nhưng kiểu tóc mai ấy còn cổ hơn tất cả những gì mà người ta có thể từng tưởng tượng ra.
Anh có đôi mày cong và cao, mũi cũng cao. Bờ môi anh giống môi của những bức tượng Hy Lạp, ít ra là như những bức tượng mà tôi thấy trong tranh ảnh. Anh chết vài năm sau khi cuộc Nội Chiến kết thúc (hay là cuộc chiến tranh Xâm Lược Từ Phương Bắc, theo cách bà tôi luôn gọi.)
“Vậy vụ tối nay là gì thế?” tôi hỏi. “Công việc, hay đi chơi vui vẻ thôi?”
“Khi nào ở bên em mà chẳng vui,” Bill đáp.
“Chúng ta đến Shreveport vì lý do gì?” tôi hỏi, vì khi nào nghe thấy một câu trả lời ma mãnh là tôi biết ngay.
“Chúng ta được triệu gọi.”
“Bởi ai?”
“Dĩ nhiên là Eric.”
Giờ đây khi Bill đã chạy đua và tiếp nhận vị trí điều tra viên Khu vực số Năm, anh hoàn toàn chịu sự sai khiến của Eric - và nằm dưới sự bảo trợ của Eric. Điều này có nghĩa là, như Bill đã giải thích trước đây, hễ ai mà tấn công Bill thì cũng sẽ phải đương đầu với Eric, và cũng có nghĩa là bất kỳ những gì thuộc về Bill đều quan trọng với Eric. Nghĩa là bao gồm cả tôi. Tôi chẳng hào hứng gì với việc được liệt kê thành một trong những thứ Bill sở hữu, nhưng thế còn hơn là bị rơi vào những tình huống khác.
Tôi nhìn vào gương phụng phịu.
“Sookie à, em đã thỏa thuận với Eric rồi mà.”
“Vâng,” tôi thú nhận, “quả là thế.”
“Vậy thì em phải tuân thủ theo cam kết thôi.”
“Em đang cố đây.”
“Mặc chiếc quần jean bó màu xanh có thắt dây hai bên hông ấy,” Bill gợi ý.
Thực ra đấy không phải vải jean mà là một loại co dãn gì đó. Bill rất thích tôi mặc chiếc quần jean ấy, với cạp quần trễ nải. Đã nhiều lần tôi tự hỏi không biết liệu có phải Bill khoái mấy kiểu như của Britney Spears hay không nữa. Vì luôn ý thức được rằng mình trông hấp dẫn trong chiếc quần jean ấy nên tôi tròng nó vào, cùng áo sơ mi ngắn tay sọc ca rô trắng và xanh đậm với hàng cúc phía trước, dài quá áo ngực chừng năm phân. Chỉ để phô ra chút quyền tự do (dù sao thì, anh ấy cũng nên nhớ rằng tôi là một phụ nữ độc lập). Tôi chải tóc thành đuôi ngựa cao vống trên đỉnh đầu. Tôi kẹp một chiếc nơ xanh lên vòng chun buộc tóc, và cọ quẹt trang điểm chút chút. Bill thỉnh thoảng liếc nhìn đồng hồ đeo tay, nhưng tôi cứ thong thả. Nếu anh ấy cứ chăm chăm để ý đến việc tôi sẽ gây ấn tượng với mấy tay bạn ma cà rồng của anh ra sao thì anh ấy đành phải chờ tôi thôi.
Khi hai đứa đã ở trong xe trên đường đi theo hướng Tây về phía Shreveport, Bill cất lời, “Hôm nay anh bắt đầu một vụ làm ăn mới.”
Thực lòng mà nói, tôi đã bắt đầu thắc mắc tiền của Bill là ở đâu ra. Anh không khi nào có vẻ giàu có, cũng chẳng bao giờ có vẻ nghèo khổ. Nhưng anh cũng chẳng làm ăn gì cả, trừ phi là anh đi làm trong những đêm không ở bên tôi.
Tôi khó chịu nhận ra rằng bất kể ma cà rồng lão luyện nào cũng có thể trở nên giàu có; dù sao thì, khi anh có thể kiểm soát tâm trí con người đến một mức nào đó, chẳng có gì khó khăn khi thuyết phục con người bỏ tiền ra hay tiết lộ thông tin chứng khoán hay những cơ hội đầu tư. Mà thấy chưa, chừng nào ma cà rồng chưa có được quyền tồn tại hợp pháp thì họ chẳng phải đóng đồng thuế nào. Kể cả chính phủ Mỹ cũng phải thừa nhận chẳng thể bắt những kẻ chết rồi đóng thuế được. Nhưng Quốc hội đã nhìn ra rằng nếu cho họ quyền lợi, rồi cả quyền bỏ phiếu, thì vẫn có thể buộc ma cà rồng đóng thuế đấy.
Khi người Nhật hoàn thiện hóa loại máu nhân tạo có thể thực sự giúp ma cà rồng “sống” mà không cần phải hút máu người, ma cà rồng đã có thể thoát ra khỏi quan tài. “Thấy không, bọn tôi đâu cần phải phương hại đến loài người để mình tồn tại đâu,” ma cà rồng có thể phát ngôn như thế. “Chúng tôi chẳng phải là mối đe dọa gì cả.”
Nhưng tôi biết rõ cơn hào hứng tột cùng của Bill mỗi khi anh hút máu tôi. Có thể anh ấy có một chế độ dinh dưỡng khá ổn định với Nguồn Sống (tên nhãn hiệu được tiếp thị rộng rãi nhất của máu nhân tạo), nhưng việc nhấm nháp vào cổ tôi lại tuyệt vời không gì sánh nổi. Anh có thể uống hết vài chai máu A cộng ở trong một quán bar đầy nhóc khách, nhưng nếu anh định nhấp chỉ một ngụm dưỡng chất Sookie Stackhouse, thì quỷ ạ hai đứa nên ở riêng với nhau thì hơn, bởi hiệu ứng hoàn toàn khác hẳn. Bill chẳng có được chút cảm giác hứng tình nào từ mấy ly rượu Nguồn Sống đó cả.
“Thế vụ làm ăn mới này là gì?” tôi hỏi.
“Anh mua một trung tâm mua sắm nhỏ dọc đường cao tốc, cái trung tâm có cửa hàng LaLaurie ấy.”
“Ai là chủ sở hữu trung tâm ấy thế?”
“Nhà Bellefleur vốn sở hữu quyền sử dụng đất. Họ nhờ Sid Matt Lancaster hợp tác khai thác phát triển giùm.”
Sid Matt Lancaster từng là luật sư của anh trai tôi trước đây. Ông ta hành nghề biết bao nhiêu năm nay và có ảnh hưởng hơn Portia gấp bội lần.
“Vậy là ngon cho nhà Bellefleur rồi. Họ đang cố bán mảnh đấy mấy năm nay. Họ cần tiền, rất cần. Anh mua cả mảnh đất và khu mua sắm đó à? Mà khu đất ấy to đến thế nào nhỉ?”
“Chỉ một mẫu thôi, nhưng ở vị trí rất tuyệt,” Bill nói bằng cái giọng làm ăn mà tôi chưa nghe thấy bao giờ.
“Chỗ đó có cả nhà hàng LaLaurie, một tiệm làm tóc, và cửa hàng quần áo Tara’s Togs phải không?” Ngoài câu lạc bộ ngoại ô ra thì LaLaurie là nhà hàng duy nhất để mọi người có thể trông đợi ở khu vực Bon Temps. Đó là nơi anh đưa vợ đến để kỷ niệm hai mươi lăm năm ngày cưới, hay đưa sếp mình đến khi muốn được thăng chức, hoặc một nàng mà anh rất, rất muốn gây ấn tượng. Nhưng nhà hàng đấy làm ăn cũng không khá lắm, tôi nghe nói vậy.
Tôi chẳng có ý niệm gì về việc quản lý kinh doanh hay thương lượng làm ăn, chỉ mới chân ướt chân ráo thoát ra khỏi cảnh đời nghèo túng của mình. Nếu bố mẹ tôi mà không may mắn tìm được chút dầu trong mảnh đất của họ và để dành toàn bộ số tiền bán dầu trước khi dầu cạn, thì Jason, bà và tôi chắc hẳn đã có một khoảng thời gian cơ cực thiếu thốn rồi. Ít nhất cũng đã hai lần, chúng tôi suýt bán nhà của bố mẹ, chỉ để có tiền trang trải tiền nhà cho bà và tiền thuế má, khi bà nuôi hai đứa ăn học.
“Vậy mọi việc hoạt động như thế nào? Anh sở hữu tòa nhà chứa ba cơ sở kinh doanh đó, và họ trả tiền thuê mặt bằng cho anh à?”
Bill gật đầu. “Cho nên bây giờ, nếu em muốn làm tóc gì đấy, thì cứ đến tiệm Clip and Curl nhé.”
Cả đời tôi mới chỉ đến tiệm làm tóc có một lần. Nếu đuôi tóc chẻ ngọn xù xì, tôi thường ghé qua tiệm di động của Arlene để chị ấy tỉa lại cho bằng. “Anh nghĩ tóc em cần phải cắt tỉa gì à?” tôi ngập ngừng hỏi.
“Không, đẹp mà,” Bill khẳng định với giọng trấn an. “Nhưng khi nào em muốn đến, thì ở đó họ có, à ừ, làm móng tay này, rồi mấy món sản phẩm dưỡng tóc nữa.” Anh nói cụm “sản phẩm dưỡng tóc” cứ như thể đấy là tiếng nước ngoài vậy. Tôi nín cười.
“Còn nữa,” anh tiếp tục, “cứ đưa bất kỳ ai em muốn đến nhà hàng LaLaurie, em sẽ không phải trả tiền đâu.”
Tôi quay mình trên ghế nhìn anh chằm chằm.
“Và Tara biết rằng nếu em ghé qua tiệm, cô ấy sẽ tính tiền bất cứ thứ quần áo nào em mua vào tài khoản của anh.”
Tôi cảm thấy cơn giận của mình đang ken két trỗi dậy. Nhưng Bill, thật không may, lại không cảm nhận được điều đó. “Vậy, nói cách khác là,” tôi nói, tự hào với vẻ bình thản trong giọng mình, “họ biết cách chiều chuộng người tình của sếp nhỉ.”
Bill có vẻ nhận ra rằng mình đã mắc sai lầm. “Ôi, Sookie à,” anh bắt đầu, nhưng tôi chẳng muốn nghe một lời nào cả. Sự kiêu hãnh trong lòng dâng lên đập chan chát vào mặt tôi. Tôi thường không hay nổi giận, nhưng mỗi khi nổi giận, tôi sẽ giận ra trò.
“Sao anh không thể tặng em mấy bông hoa chết tiệt như bạn trai người ta ấy? Hoặc mấy viên kẹo cũng được. Em thích kẹo lắm. Tặng em một tấm thiệp Hallmark thôi, sao anh không làm? Hay một chú mèo con hoặc khăn choàng cũng được!”
“Anh muốn tặng cho em thứ gì đó mà,” anh nói giọng cẩn trọng.
“Anh làm cho em thấy như mình là một phụ nữ bị lệ thuộc vậy. Và chắc hẳn anh cũng làm cho nhân viên tại những cơ sở kinh doanh đó có cảm tưởng rằng em là người như thế.”
Những gì tôi nhận thấy trong ánh sáng lờ mờ của đèn đồng hồ xe là Bill chừng như đang cố hình dung ra sự khác biệt. Chúng tôi vừa chạy qua lối rẽ vào hồ Mimosa, và qua ánh đèn trước cửa xe Bill tôi có thể thấy những khoảng rừng sâu hút bên phía hồ ven đường.
Thật ngạc nhiên làm sao, chiếc xe giật giật rồi khựng lại. Tôi coi đó như một điềm báo.
Đáng ra Bill phải khóa cửa xe nếu biết điều tôi định làm, vì trông anh thực sự hốt hoảng khi tôi leo ra khỏi xe bước về phía rừng ven đường.
“Sookie, quay lại xe ngay!” Bill giờ cũng đã nổi điên, trời ạ. Vâng, cũng phải mất một lúc khá lâu đấy.
Tôi vừa giơ ngón tay thối về phía anh vừa dấn bước vào khu rừng.
Tôi biết nếu Bill muốn lôi tôi vào xe, thì tôi sẽ ở trong xe ngay, vì anh ấy nhanh và khỏe hơn tôi gấp hai mươi lần. Sau vài giây trong bóng tối, tôi suýt nữa đã ước chi anh ấy đuổi theo mình. Nhưng sự kiêu hãnh trong tôi chợt bùng lên, và tôi biết mình đã làm một điều đúng đắn. Bill có vẻ vẫn còn chút bối rối về bản chất của mối quan hệ giữa hai đứa, và tôi muốn anh ấy phải hiểu đúng đắn về điều này. Anh ấy cứ việc lê cái mông đáng thương của mình đến Shreveport mà giải thích với Eric, cấp trên của mình, về sự vắng mặt của tôi đi. Ha ha, việc này sẽ làm anh bẽ mặt đây.
“Sookie à,” Bill gọi với theo từ con đường lộ, “anh sẽ đến trạm sửa xe gần nhất để gọi thợ.”
“Chúc may mắn nhé,” tôi lầm bầm. Một trạm sửa xe với thợ làm việc toàn thời gian, mở cửa vào ban đêm à? Bill đang nghĩ lúc này là những năm 50 hay một thời đại nào khác sao chứ.
“Em cư xử như trẻ con ấy, Sookie,” Bill nói. “Anh có thể đến bắt em vào xe, nhưng anh sẽ chẳng phí thời gian đâu. Khi nào bình tĩnh trở lại, hãy quay lại xe khóa cửa lại nhé. Anh đi đây.” Bill cũng có niềm kiêu hãnh của riêng mình.
Trong mình vừa nhẹ nhõm vừa lo lắng, tôi nghe loáng thoáng tiếng bước chân rầm rập dọc theo đường lộ cho thấy Bill đang chạy đi với tốc độ của ma cà rồng. Anh đã bỏ đi thật rồi.
Chắc hẳn Bill nghĩ anh đang dạy tôi một bài học. Nhưng là ngược lại kia. Tôi tự nhủ như thế nhiều lần lắm rồi. Dù sao thì, vài phút sau anh sẽ quay lại thôi. Tôi chắc chắn vậy. Tất cả những gì tôi cần bảo đảm là làm sao đừng lang thang quá sâu vào trong rừng mà sảy chân xuống hồ.
Trong rừng thông này tối quá. Dẫu rằng trăng vẫn chưa tròn, nhưng tối nay lại quang mây, và bóng cây đen thui tương phản với quầng sáng lẻ loi lạnh lẽo của vùng không gian rộng mở.
Tôi đi ngược trở ra đường, đoạn hít một hơi sâu và bắt đầu cuốc bộ trở lại Bon Temps, ngược hoàn toàn với hướng Bill đã đi. Tôi băn khoăn không biết hai đứa đã đi cách Bon Temps được bao nhiêu dặm rồi trước khi Bill bắt đầu cuộc cãi vã ấy. Chẳng bao nhiêu dặm đâu, tôi tự trấn an, an ủi bản thân rằng mình đang đi giày thể thao chứ không phải một đôi giày dây cao gót. Tôi không mang theo áo len, nên khoảng da trần giữa chiếc áo lửng đến chiếc quần jean xanh trễ cạp cứ nổi cả da gà. Tôi bắt đầu chạy chầm chậm thư thái dọc lề đường. Ở đây không có tí đèn đường nào, may nhờ có ánh trăng không thì tôi sẽ té lộn cổ mất.
Ngay khi vừa nhớ ra rằng ngoài này có ai đấy đã sát hại Lafayette, tôi nghe thấy tiếng bước chân trong rừng cây song song với lối tôi đi.
Khi tôi dừng bước, chuyển động trong rừng cây cũng ngừng lại.
Thà biết mọi chuyện bây giờ còn hơn. “Được rồi, ai đó?” tôi gọi. “Nếu muốn ăn thịt tôi thì cứ ăn cho rồi.”
Một người phụ nữ bước ra khỏi khu rừng. Đi cùng ả ta là một con lợn lòi hung hăng, lưng mọc lông sắc nhọn tua tủa. Bóng hai răng nanh của nó lấp lánh sáng. Tay trái ả cầm gậy hay đũa thần gì đó, trên đầu gậy có rua.
“Hay nhỉ,” tôi thầm nói với chính mình. “Hay thật.” Người phụ nữ trông cũng đáng sợ như con lợn rừng vậy. Tôi chắc chắn ả không phải là ma cà rồng, vì tôi vẫn có thể cảm nhận được dòng suy nghĩ trong đầu ả; nhưng chắc chắn người đàn bà này cũng là một thứ siêu nhiên nào đó, cho nên ả không phát ra những dấu hiệu rõ ràng. Tuy vậy tôi vẫn chộp được đại ý những suy nghĩ của ả ta. Ả ta đang thích thú.
Chuyện này chẳng thể hay ho gì.
Tôi mong rằng con lợn rừng kia tỏ ra thân thiện. Ở Bon Temps, người ta hiếm khi nhìn thấy lợn rừng, dầu thỉnh thoảng vẫn có thợ săn phát hiện ra chúng; việc hạ được một con lại còn hiếm hơn. Đấy là dịp chỉ có trong tranh ảnh. Con lợn này hôi thối, một mùi xú uế kinh khủng không lẫn vào đâu được.
Tôi chẳng biết mình nên nhắm vào thứ gì nữa. Dẫu sao thì, con lợn rừng đó chưa chắc đã là động vật thật, mà là một kẻ biến hình. Đó là một điều tôi học được trong mấy tháng qua. Nếu ma cà rồng, trước giờ vẫn được coi như chuyện giả tưởng ly kỳ, lại thực sự tồn tại, thì những giống loài mà chúng ta cho là hoang đường giật gân không kém cũng tồn tại nốt.
Tôi cực kỳ lo lắng, nên tôi mỉm cười.
Ả ta có mái tóc rối bù, một màu đen bất định trong ánh sáng nhập nhoạng, và gần như không mặc gì cả. Ả vận một thứ váy áo lót gì đó, nhưng chiếc váy ngắn cũn te tua loang lổ. Ả đi chân trần. Ả mỉm cười lại với tôi. Thay vì hét toáng lên, tôi lại càng cười toe rạng rỡ.
“Ta không có ý ăn thịt cô đâu,” ả nói.
“Nghe thế thì mừng thật. Còn anh bạn kia của cô thì sao?”
“À, bé lợn này ấy à.” Cứ như thể đến giờ ả mới để ý thấy con lợn, ả vươn tay ra gãi gãi cổ con lợn rừng, như tôi sẽ làm với một chú cún con thân thiện vậy. Hai chiếc răng nanh dữ tợn gục gặc lên xuống. “Cô bé đây sẽ làm theo lệnh ta,” người phụ nữ lơ đãng nói. Tôi không cần đến phiên dịch mới hiểu được lời đe dọa đó. Tôi cố sao cho mình cũng toát lên vẻ bình thản tương tự khi tôi liếc mắt ra xung quanh khu vực trống vốc nơi mình đang đứng, hy vọng định vị được một cái cây nào đó mà tôi có thể trèo lên nếu buộc phải thế. Nhưng tất cả những thân cây gần đó mà tôi có thể kịp thời chạy đến đều không có cành nhánh gì cả; tất thảy đều là những tán thông bụi bặm được người ta trồng nơi cửa rừng để lấy gỗ. Những cành nhánh chỉ bắt đầu mọc ra từ cách mặt đất hơn năm mét trở lên.
Tôi nhận ra chuyện mà đáng lẽ mình đã phải nghĩ ra từ sớm hơn; xe của Bill chết máy chẳng phải là tình cờ, có lẽ thậm chí cả cuộc cãi vã của hai đứa cũng chẳng phải ngẫu nhiên gì.
“Cô muốn nói chuyện gì với tôi ư?” tôi hỏi, và khi quay lại phía ả tôi thấy ả đã tiến gần tôi thêm vài mét. Giờ đây tôi có thể nhìn thấy mặt ả rõ hơn một chút, và điều đó chẳng làm tôi thấy nhẹ nhàng hơn được là bao. Có một vệt nhơ quanh khóe miệng của ả, và khi ả mở miệng cất tiếng, tôi có thể nhìn thấy những viền đen quanh răng ả; Quý Cô Bí Ẩn đã chén một bữa thịt động vật có vú tươi sống. “Tôi thấy là cô đã dùng bữa tối rồi nhỉ,” tôi lo lắng nói, đoạn chỉ muốn vả vào mặt mình.
“Ừmm,” ả nói. “Cô là thú cưng của Bill nhỉ?”
“Phải,” tôi đáp. Tôi phản đối thuật ngữ đó, nhưng ở vị thế này tôi không tiện phản kháng. “Anh ấy sẽ bực mình kinh dị nếu có gì không hay xảy ra cho tôi.”
“Cứ như thể sự giận dữ của ma cà rồng có nghĩa lý gì với ta vậy,” ả hờ hững đáp.
“Xin lỗi nhé, thưa cô, nhưng cô là người gì thế? Nếu cô không ngại cho tôi hỏi.”
Ả lại mỉm cười, và tôi rùng mình. “Chẳng ngại gì đâu. Ta là một maenad[1].”
Là gì đấy liên quan đến Hy Lạp. Tôi không biết rõ, nhưng nếu trí nhớ của tôi chính xác, thì đó là một thứ giống cái hoang dã, sống với thiên nhiên.
“Thật thú vị,” tôi bảo, toe miệng cười vì chỉ biết có thế. “Và tối nay cô ra đây vì…?”
“Ta chuyển một tin nhắn đến cho Eric Northman,” ả đáp, và tiến lại gần hơn. Lần này thì tôi đã có thể nhìn thấy ả tiến lại. Con lợn rừng khụt khịt bên cạnh ả như thể nó được buộc vào với người phụ nữ. Mùi hôi không thể diễn tả nổi. Tôi có thể thấy cái đuôi bé tí đầy lông lá của con lợn rừng - nhanh nhẩu nôn nóng vẩy qua vẩy lại.
“Tin nhắn gì vậy?” tôi liếc lên nhìn ả - và xoay mình vùng chạy đi nhanh hết sức. Nếu không phải vì đã từng uống máu của ma cà rồng hồi đầu mùa hè chắc hẳn tôi đã không kịp quay đi nhanh như thế, và chắc hẳn tôi sẽ dính trọn vết thương vào mặt và ngực thay vì vào lưng mình. Cảm giác đó giống hệt như khi có một kẻ cực kỳ khỏe vừa vung một cái cào đất nặng trịch và lưỡi cào mắc vào da tôi, đâm xuống thật sâu, cào rách da thịt dọc xuống cả lưng tôi.
Tôi không thể đứng vững được nữa, chỉ biết lao về trước và ngã sấp người xuống đất. Tôi nghe thấy tiếng cười của ả sau lưng mình, tiếng con lợn rừng khụt khịt, rồi nhận ra rằng ả đã đi mất rồi. Tôi nằm dài ra đó khóc lóc vài phút. Tôi đang cố không ré lên, và nhận thấy mình đang hổn hển hít hà như một bà bầu đau đẻ, đang cố trấn áp cơn đau. Lưng tôi đau muốn chết.
Tôi cũng đang nổi điên lên nữa đây, với chút sức lực còn sót lại. Tôi chỉ là một thứ bảng ghim tin nhắn biết đi đối với ả khốn, ả maenad đó, hay bất kể thứ khỉ gì cũng được. Khi tôi bò, qua những nhánh củi khô và nền đất gồ ghề, qua những gai thông và đất cát, tôi càng lúc càng thêm tức giận. Toàn thân run lẩy bẩy vì đau đớn và phẫn nộ, tôi cố lê thân mình đi, và cho đến khi cảm thấy không còn nguy cơ bị giết nữa thì tôi đã trở nên nhếch nhác bẩn thỉu không để đâu cho hết. Tôi bắt đầu bò ngược lại phía xe, cố gắng hướng về nơi Bill dễ tìm thấy mình nhất, nhưng rồi ngay khi gần đến nơi tôi lại đổi ý về việc ở lại bên ngoài này.
Tôi đã cho rằng ở ngoài đường cái đồng nghĩa với việc được cứu viện - nhưng dĩ nhiên là chẳng có cứu viện gì cả. Trước đấy vài phút tôi đã hiểu ra là không phải ai tình cờ gặp trên đường cũng sẵn lòng giúp đỡ. Nếu chẳng may tôi gặp một thứ gì đó khác, một thứ gì đó đang đói thì sao? Ngay lúc này mùi máu của tôi hẳn đang mời gọi một con thú săn mồi đâu đây; người ta nói cá mập có khả năng nhận biết mùi những lượng máu nhỏ nhoi nhất ở trong nước, và ma cà rồng chắc chắn tương tự như loài cá mập trên cạn.
Thế là tôi bò về phía trong hàng cây, thay vì ở lại ngoài đường lộ nơi có thể dễ dàng được phát hiện. Đây có vẻ như chẳng phải là một nơi để hy sinh danh giá hay có ý nghĩa gì cho lắm. Đây chẳng phải là Alamo[2], hay Thermopylae[3]. Đây chỉ là một nơi trong vùng cây cối um tùm nằm bên con lộ miền Bắc Lousianna. Có lẽ tôi còn đang nằm trên nhánh thường xuân có độc nữa. Nhưng chắc tôi sẽ chẳng sống sót mà vượt qua nổi đâu.
Tôi mong chờ từng giây cho cơn đau bắt đầu dịu đi, nhưng nó chỉ càng thêm nhức nhối. Tôi chẳng thể ngăn nổi những giọt nước mắt lăn dài hai bên gò má. Tôi cố không khóc quá to, để khỏi phải thu hút thêm sự chú ý nào nữa, nhưng cũng không thể nào giữ im thin thít được.
Tôi cố sức tập trung trong cùng cực để giữ cho mình im lặng đến nỗi xém chút không nhận ra được Bill. Anh đang vừa chạy dọc con đường vừa dò xét rừng cây, và qua cái cách anh bước đi tôi có thể nhận ra rằng anh đang cảnh giác với mối nguy đang rình rập. Bill biết có điều gì đó không ổn.
“Bill ơi,” tôi thì thầm, nhưng với hệ thính giác ma cà rồng của anh, thì đó chẳng khác gì một tiếng hét.
Anh đứng sững ngay lại, mắt anh quét qua bóng cây. “Em ở đây,” tôi thì thầm, nuốt ngược tiếng nấc. “Anh cẩn thận nhé.” Rất có thể tôi đang là cái bẫy sống thô sơ.
Dưới ánh trăng, tôi có thể thấy gương mặt anh không chút cảm xúc, nhưng tôi biết anh đang cân nhắc thiệt hơn, cũng như tôi vậy. Một trong hai đứa phải di chuyển, và tôi nhận ra nếu mình lết ra ngoài chỗ ánh trăng rọi sáng, thì ít nhất Bill có thể nhìn thấy rõ ràng hơn nếu có thứ gì đó lao đến tấn công.
Tôi vươn tay ra túm lấy đám cỏ, kéo lê thân mình đi. Tôi còn chẳng đủ sức để quỳ gượng dậy được, nên thế này là tốc độ tốt nhất của tôi rồi. Tôi dùng hai bàn chân nhích đẩy từng chút một, cho dù cả khi sử dụng cơ lưng để làm như thế cũng khiến tôi đau đớn khôn cùng. Tôi không muốn nhìn Bill khi đang di chuyển về phía anh, vì tôi không muốn chùn lòng khi nhìn thấy cơn giận của anh. Cơn giận gần như có thể sờ thấy được.
“Cái gì đã làm em ra nông nỗi này vậy Sookie?” anh hỏi nhẹ nhàng.
“Đưa em vào xe. Làm ơn, đưa em ra khỏi đây đi,” tôi bảo, cố hết sức giữ bình tĩnh. “Nếu em mà làm ồn, có thể mụ ta sẽ quay trở lại đấy.” Tôi run bần bật khi nghĩ đến chuyện đó. “Đưa em đến chỗ Eric,” tôi nói, cô giữ giọng bình tĩnh. “Ả ta nói đây là tin nhắn gửi cho Eric Northman.”
Bill ngồi chồm hỗm xuống cạnh tôi. “Anh phải bế em lên,” anh bảo.
Ôi, không. Tôi định bảo, “Phải có cách nào khác chứ nhỉ,” nhưng tôi cũng biết chẳng có cách nào khác. Bill biết là không nên chần chừ nữa. Trước khi tôi kịp lường hết cơn đau thấu trời, anh đã luồn một tay xuống dưới mình tôi, tay còn lại vào giữa hai chân, trong một loáng đã xốc tôi vắt vẻo lên vai anh.
Tôi thét toáng. Sau đấy tôi cố không khóc thành tiếng, để Bill có thể nghe thấy nếu có một cuộc tấn công khác, nhưng tôi chẳng nín được. Bill bắt đầu chạy dọc con đường, quay về xe. Chiếc xe đã khởi động sẵn, tiếng máy lầm rầm trơn tru đều đều. Bill mở tung cửa sau cố đặt tôi thật nhẹ nhàng nhưng nhanh chóng vào ghế sau của chiếc Cadillac. Làm như thế thì chẳng thể nào không gây thêm đau đớn cho tôi, nhưng anh đã cố gắng lắm rồi.
“Là mụ ta,” tôi bảo ngay khi có thể nói được thành lời. “Chính mụ ta đã làm xe chết máy khiến cho em ra khỏi xe.” Tôi vẫn xem xét khả năng phải chăng mụ ta đã khởi đầu mọi chuyện bằng cách gây ra vụ cãi vã.
“Chúng mình sẽ nói chuyện này sau nhé,” anh nói. Anh nhấn ga chạy về phía Shreveport với tốc độ tối đa, trong khi tôi bấu chặt tay vào nệm ghế xe cố gắng kìm nén bản thân.
Tất cả những gì tôi nhớ về chuyến đi đó là chuyến đi như kéo dài ít nhất hai năm ròng.
Bằng cách nào đó Bill đã đưa tôi về phía cửa sau của quán Fangtasia, và dùng chân đá mạnh vào cửa để người ta nghe thấy.
“Gì thế?” giọng Pam vang lên cay nghiệt. Cô nàng là một ma cà rồng tóc vàng xinh đẹp mà tôi đã gặp vài lần trước đây, một kiểu ma cà rồng tinh tế và khá nhạy bén trong kinh doanh. “Ồ, Bill. Chuyện gì xảy ra vậy? Ôi, ngon quá, cô ta đang chảy máu kìa.”
“Gọi Eric lại đây,” Bill bảo.
“Anh ấy đang đợi sẵn trong này này,” cô ta mở miệng, nhưng Bill vượt ngay qua mặt cô ta, và trên vai anh tôi vẫn nẩy tưng tưng như một bịch đồ chơi vấy máu. Khi đó thì tôi đã sức cùng lực kiệt lắm rồi nên anh có vác tôi ra sàn nhảy hay ra quầy bar trước quán thì tôi cũng không màng, nhưng thay vì thế, Bill xông vào văn phòng của Eric với tôi trĩu nặng trên vai và cơn thịnh nộ chất chứa trong lòng.
“Đây là do anh,” Bill gầm gừ, tôi rên rỉ khi anh lay lay tôi như để thu hút sự chú ý của Eric về phía tôi. Tôi không nghĩ làm sao Eric lại nhìn đi đâu khác được, vì tôi là một phụ nữ trưởng thành và có lẽ là người phụ nữ duy nhất đang máu me đầy mình trong văn phòng hắn ta.
Tôi mong sao được lịm người, được ngất ngay đi. Nhưng tôi không ngất. Tôi chỉ rũ rượi vắt vẻo trên vai của Bill mà đau đớn. “Đi chết đi,” tôi lầm bầm.
“Gì cơ em yêu?”
“Đi chết đi.”
“Chúng ta phải đặt cô ấy nằm sấp người trên ghế đã,” Eric nói. “Đây, để tôi…” Tôi cảm thấy một đôi tay khác nắm lấy chân mình, rồi Bill hình như xoay tay đỡ tôi ở phía dưới, và họ cùng nhau cẩn thận đặt tôi xuống chiếc ghế bành rộng mà Eric mới mua cho văn phòng của mình. Chiếc ghế bành có mùi mới, là ghế bọc da. Tôi thấy mừng, nhìn chăm chăm vào nó từ khoảng cách một phân, vì hắn ta đã không cho bọc ghế bằng vải bố. “Này Pam, đi gọi bác sĩ đi.” Tôi nghe thấy tiếng bước chân rời khỏi phòng, và rồi Eric cúi xuống nhìn vào mặt tôi. Hẳn là cúi xuống thấp lắm đây, bởi vì Eric, cao lớn dềnh dàng, trông hệt như chủng người của hắn, một tay cựu Viking.
“Chuyện gì đã xảy ra với cô vậy?” hắn hỏi.
Tôi trừng mắt nhìn hắn, điên cả tiết không thốt nổi nên lời. “Tôi là một tin nhắn dành cho anh đấy,” tôi nói, gần như thì thầm. “Một ả nào đó ở trong rừng đã làm xe Bill chết máy, và có lẽ thậm chí còn khiến hai đứa cãi nhau, rồi cùng con lợn rừng đến chỗ tôi.”
“Lợn ư?” Nếu tôi mà nói mụ ta xuất hiện với một con chim hoàng yến đính trên mũi thì giọng Eric cũng không thể nào tỏ vẻ ngạc nhiên hơn lúc này được.
“Khụt, khụt. Lợn lòi. Lợn rừng. Và mụ ta nói muốn gửi cho anh một tin nhắn, tôi quay đi kịp lúc để tránh đòn vào mặt mình, nhưng ả cũng kịp nhắm trúng lưng tôi, rồi ả bỏ đi.”
“Khuôn mặt của em. Suýt chút nữa thì ả đã nhắm trúng khuôn mặt của em rồi,” Bill bảo. Tôi thấy hai tay anh siết thành nắm đấm dọc theo đùi, rồi thấy lưng của anh lướt đi qua lại quanh văn phòng. “Eric này, vết cào của mụ ấy không quá sâu. Mụ ta sao thế nhỉ?”
“Sookie,” Eric hỏi nhẹ nhàng. “Người phụ nữ này trông như thế nào?”
Gương mặt của hắn ngay sát mặt tôi, món tóc vàng óng dày cộm gần như chạm vào mặt tôi.
“Để tôi kể cho mà biết mụ ta trông như thế nào nhé, trông như một ả tâm thần ấy. Và mụ ta gọi anh là Eric Northman.”
“Đó là cái tên cuối cùng mà tôi dùng để qua lại với con người,” hắn đáp. “Nói là trông như tâm thần, ý cô nghĩa là mụ ta trông… như thế nào vậy?”
“Quần áo mụ ta te tua tơi tả và mụ ấy có vệt máu vòng quanh miệng lẫn trên răng, như là mụ vừa ăn sống cái gì đấy. Mụ cầm theo đũa phép thì phải, với thứ gì đó ở đầu gậy. Mái tóc mụ dài và rối… phải rồi, nhắc đến tóc mới nhớ, tóc tôi đang bị dính vào lưng đây này.” Tôi hổn hển.
“Được rồi, tôi thấy rồi.” Eric bắt đầu thử tách đám tóc dài của tôi ra khỏi vết thương, máu chỗ này đông lại dính bết như keo.
Khi đấy thì Pam bước vào văn phòng cùng một bác sĩ. Nếu trước đây tôi đã hy vọng ý Eric là mời một bác sĩ thông thường, kiểu bác sĩ với ống nghe và cây gạc đè lưỡi ấy, thì một lần nữa tôi lại chìm trong thất vọng. Viên bác sĩ này là một người lùn, chẳng cần phải cúi xuống cũng nhìn được ngay vào mắt tôi. Bill cứ đi qua đi lại, người run run căng thẳng, khi người đàn bà nhỏ bé kia khám vết thương của tôi. Bà ta mặc quần trắng và một chiếc áo suông dài, hệt như bác sĩ trong bệnh viện; à, hệt như bác sĩ ngày xưa, trước khi bác sĩ mặc đồ màu xanh lá cây, hay xanh dương, hay bất kể thứ màu hoa văn điên rồ nào mà họ nghĩ ra. Nhìn mặt bà ta chỉ thấy độc cái mũi, làn da bà sẫm màu ô liu. Mái tóc của bà nâu vàng thô kệch, dày và gợn sóng. Bà ta kẹp hết lên thật ngắn. Bà này làm tôi liên tưởng đến loài quỷ lùn. Mà có lẽ bà là quỷ lùn thật. Sự hiểu biết về thế giới hiện thực của tôi đã phải tự điều chỉnh lại biết bao nhiêu lần trong mấy tháng qua.
“Bà là bác sĩ loại gì vậy?” tôi hỏi, dù rằng phải một lúc lâu tôi mới định thần lại.
“Loại chữa cho lành,” bà đáp bằng một giọng trầm đến ngỡ ngàng. “Cô bị đầu độc rồi.”
“Vậy ra đó là lý do tôi cứ nghĩ mình sắp chết đến nơi rồi,” tôi lẩm nhẩm.
“Sẽ chết mà, nhanh lắm,” bà ta đáp.
“Cảm ơn nhiều nhé, bác sĩ. Bà xử lý thế nào?”
“Chúng ta không có nhiều lựa chọn lắm đâu. Cô nhiễm độc rồi. Cô có từng nghe nói về loài rồng Komodo không? Miệng chúng chứa đầy vi khuẩn chết người. Vâng, những vết thương do maenad gây ra cũng có lượng độc tố tương tự. Sau khi con rồng cắn cô, nó sẽ đeo bám theo cô hàng giờ liền, đợi đến lúc đám vi khuẩn độc hại kia giết chết nạn nhân. Đối với maenad, cái chết dần dần này làm chúng thêm phần khoái trá. Còn với bọn rồng Komodo, ai mà biết được?”
Cảm ơn phần bổ sung cho chương trình tìm hiểu thế giới tự nhiên National Geographic nhé bác sĩ. “Bà có thể làm được gì không?” tôi hỏi qua hàm răng nghiến chặt.
“Ta có thể khép miệng vết thương lại. Nhưng máu của cô đã bị nhiễm độc rồi, nên phải được rút ra thay mới hoàn toàn. Đây là công việc của ma cà rồng.” Bà bác sĩ giỏi giang này dường như vui vẻ khả quan lắm trước viễn cảnh mọi người sẽ làm việc cùng nhau. Trên cơ thể tôi.
Bà ta quay sang đám ma cà rồng đứng tụ tập quanh đấy. “Nếu chỉ một trong số các vị hút lấy máu độc, thì người đó sẽ khổ sở đấy. Đó chính là yếu tố huyền diệu mà maenad truyền tải. Nọc của lũ rồng Komodo thì chắc chỉ là chuyện nhỏ với mấy vị thôi.” Bà ta cười rổn rảng.
Tôi ghét bà này. Nước mắt túa ra trên mặt tôi vì đau đớn.
“Vậy nên,” bà ta nói tiếp, “khi tôi xong phần việc của mình, đến lượt từng người trong số các vị hút ra một ít thôi. Rồi sau đó chúng ta sẽ truyền cho cô ta một lượng máu sạch mới.”
“Máu người đấy nhé,” tôi nói, tôi muốn mọi chuyện được hoàn toàn rõ ràng. Tôi cũng từng phải uống máu Bill để sống sót sau những lần trọng thương, và một lần khác nữa để vượt qua một cuộc kiểm tra đại loại thế, rồi tôi cũng đã vô tình uống nhầm máu một ma cà rồng khác, dù nghe có vẻ khó tin thật. Sau khi tiêu hóa loại máu đó tôi có thể nhận thấy những thay đổi trong tôi, những thay đổi mà bản thân tôi không hề mong muốn nhân rộng ra bằng việc uống thêm một lượng máu nữa. Máu của ma cà rồng hiện là một loại chất kích thích đang rất được giới thượng lưu ưa chuộng, và như tôi được biết, họ có thể có được loại máu ấy.
“Nếu Eric có thể du di luật lệ tí chút và kiếm được máu người,” bà bác sĩ lùn nói. “Ít nhất nửa lượng máu được truyền mới có thể là máu nhân tạo. Mà này, ta là bác sĩ Ludwig.”
“Tôi có thể kiếm được chỗ máu đó, và chúng ta mang nợ cô ấy nên cần phải chữa cho cô ấy.” Tôi nhẹ người khi nghe Eric cất tiếng. Tôi ước gì mình có thể thấy vẻ mặt của Bill lúc này. “Cô có nhóm máu gì hả Sookie?” Eric hỏi.
“O cộng,” tôi đáp, mừng là nhóm máu này khá phổ biến.
“Thế thì chẳng có gì khó nhỉ,” Eric đáp. “Cô lo vụ này được không Pam?”
Lại nghe như có sự dịch chuyển trong căn phòng. Bác sĩ Ludwig cúi người về đằng trước liếm lưng tôi. Tôi ré lên.
“Bà ấy là bác sĩ mà Sookie,” Bill nói. “Bà chữa lành cho em bằng cách này đấy.”
“Nhưng bà ấy sẽ bị nhiễm độc mất,” tôi nói, cố nghĩ ra một cách phản đối sao cho không có vẻ mình là người kỳ thị. Nhưng thực lòng, tôi chẳng muốn ai liếm lưng mình cả, dù đó là một mụ quỷ lùn hay một ông ma cà rồng cao lớn.
“Bà ta là người chữa bệnh,” Eric nói gần như quở trách. “Cô phải chấp nhận cách chữa trị của bà ta.”
“Ôi, được thôi,” tôi đáp lời, chẳng thèm quan tâm xem giọng mình nghe hờn dỗi đến thế nào. “Mà này, tôi vẫn chưa nghe thấy anh nói ‘xin lỗi’ đâu đấy nhé.” Cảm giác bất bình đã lấn át bản năng tự bảo toàn của tôi.
“Tôi xin lỗi vì ả maenad đã chọn hại cô.”
Tôi trừng mắt nhìn hắn. “Chưa đủ,” tôi bảo. Tôi đang cố hết sức bám víu vào cuộc nói chuyện này.
“Hỡi Sookie thánh thiện, hiện thân của sắc đẹp và tình yêu, ta xin phủ phục cung kính ăn năn vì mụ maenad xấu xa quỷ quyệt kia đã làm hại thân thể mềm mại quyến rũ của nàng vì muốn gửi cho ta một lời nhắn.”
“Nghe khá hơn rồi đấy.” Ngay lúc đó hẳn những lời nói của Eric đã làm tôi hả hê nếu một cơn đau không đâm thấu vào tôi. (Sự chữa trị của bà bác sĩ không thật dễ chịu cho lắm.) Những lời xin lỗi thì nên hoặc xuất phát từ đáy tim hoặc trau chuốt hoa mỹ, mà vì Eric chẳng có tim để mà chân thành (hay ít ra là tôi chưa cảm nhận được) thì thôi tốt hơn hắn ta nên làm tôi phân tâm với những lời có cánh.
“Theo tôi hiểu thì lời nhắn đó có nghĩa mụ ta sẽ gây hấn với anh nhỉ?” tôi hỏi, cố gắng lờ đi những thao tác của bác sĩ Ludwig. Toàn thân tôi toát mồ hôi. Và cơn đau nơi lưng tôi thấu tận xương tủy. Tôi có thể cảm nhận được những giọt nước mắt bắt đầu nhỏ trên má. Căn phòng dường như trở nên vàng vàng mờ mịt; mọi thứ trông như phát bệnh.
Eric trông ngạc nhiên. “Cũng không hẳn thế,” hắn ta thận trọng nói. “Pam à?”
“Sắp tới rồi đây,” cô ta đáp. “Như thế này thì tệ quá.”
“Bắt đầu đi,” Bill gấp rút nói. “Cô ấy đang đổi màu kìa.”
Tôi băn khoăn, gần như mơ màng, không hiểu mình đang đổi sang màu gì. Tôi không thể nhấc đầu lên khỏi ghế nữa, vì nãy giờ tôi đã cố tỏ ra tỉnh táo. Tôi đặt má xuống lớp da, ngay lập tức mồ hôi kết chặt tôi vào mặt ghế. Cảm giác rát bỏng tỏa khắp người từ vết vuốt cào nơi lưng tôi càng trở nên kinh khủng hơn, tôi thét lên vì không thể nào ngăn lại được. Bà bác sĩ lùn nhảy từ trên ghế xuống cúi người khám mắt tôi.
Bà ta lắc đầu. “Phải rồi, nếu còn chút hy vọng nào,” bà ta nói, nhưng tôi nghe như giọng của bà cất lên từ nơi xa thẳm. Tay bà cầm một ống tiêm. Điều cuối cùng mà tôi còn nhận ra được là gương mặt của Eric giáp lại gần, và hình như hắn ta nháy mắt thì phải.
Ma Cà Rồng Ở Dallas Ma Cà Rồng Ở Dallas - Charlaine Harris Ma Cà Rồng Ở Dallas