The worth of a book is to be measured by what you can carry away from it.

James Bryce

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 41
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Án Mạng Trong Ba Căn Phòng
âu chuyện đã bắt đầu như thế với Hercule Poirot, Jennie và Fee spring vào buổi tối thứ năm ngày 7 tháng 2 năm 1929, giữa những kệ đựng ấm trà cong vênh trong quán cà phê Pleasant.
Hay hình như nó bắt đầu như thế. Tôi không tin những câu chuyện đời thực luôn có đầu có đũa. Tiếp cận chúng từ mọi điểm thuận lợi nào, ta đều thấy chúng kéo dài bất tận từ quá khứ, tràn sang tới tương lai, không có gì ngăn được. Ta không bao giờ nói được rằng “Nó là thế này,” và vẽ ra một phác đồ.
May thay, những câu chuyện thực luôn có những nhân vật nam, nữ. Bản thân tôi không phải là nhân vật chính, và tôi cũng chẳng mong mỏi điều ấy, song tôi biết quá rõ tất cả họ đều là thật.
Tôi không hiện diện vào buổi tối thứ năm hôm đó tại quán cà phê. Tên của tôi đã được nhắc đến – Edward Catchpool, người bạn cảnh sát từ Scotland Yard của Poirot, cái gã không nhỉnh hơn ba mươi là bao (chính xác là ba mươi hai) – nhưng tôi đã không có mặt ở đó. Tuy vậy, tôi đã thử lấp khoảng trống bằng kinh nghiệm cá nhân để viết một báo cáo về câu chuyện của Jennie. May thay tôi đã được trợ giúp bởi lời kể của Hercule Poirot, và không thể có nhân chứng nào tốt hơn ông.
Tôi đang viết chẳng cho ai cả mà cho chính bản thân. Khi nào viết xong, tôi sẽ đọc đi đọc lại cho đến khi có thể nhìn xuyên qua các từ ngữ mà không cảm thấy cú sốc tôi đang cảm nhận khi viết… cho đến khi câu hỏi “làm sao nó có thể diễn ra?” nhường chỗ cho câu “đó là những gì đã diễn ra.”
Đến một lúc nào đó, tôi sẽ phải nghĩ đến một cái tựa nào hay hơn là ‘Câu chuyện của Jennie’. Đó là một cái tựa không đắt.
Sáu tuần lễ trước cái hôm thứ năm kể trên, tôi gặp Hercule Poirot lần đầu tiên khi ông đến thuê phòng trong ngôi nhà trọ ở London do bà Blanche Unswoorth làm chủ. Đó là một tòa nhà rộng rãi, sạch tinh tươm, mặt tiền rất vuông vức và nội thất không thể nào nữ tính hơn. Khắp nơi đều có những viền, những diềm, những tỉa tót.
Đôi khi tôi sợ ngày nào đó tôi sẽ đến sở làm và phát hiện ra những đường diềm màu hoa cải trong phòng khách cách chi đó vẫn bám theo cùi chỏ hay đôi giày của tôi.
Không giống tôi, Poirot không phải là khách thuê dài hạn trong ngôi nhà mà chỉ là khách ngắn ngày. “Tôi sẽ thưởng thức ít nhất một tháng nghỉ ngơi, không hoạt động,” ông nói với tôi như thế vào cái đêm đầu tiên gặp nhau. Ông nói câu đó với vẻ đầy quyết tâm, như thể ông tưởng tượng tôi sẽ ngăn cản ông. “Đầu óc tôi ngày càng bận bịu,” ông giải thích. “Nhiều ý nghĩ cứ dồn dập chạy qua… Ở đây tôi tin rằng chúng sẽ chậm bớt lại.”
Tôi hỏi ông sinh sống ở đâu, bụng chờ đợi câu trả lời là Pháp. Lát sau, tôi mới biết ông là người Bỉ chứ không phải người Pháp. Đáp lại câu hỏi của tôi lúc đó, ông bước đến cửa sổ, vén tấm rèm ren sang bên và trỏ vào tòa nhà lớn, sang trọng ở cách đó khoảng ba trăm mét.
“Ông sống ở đó ư?” tôi hỏi, nghĩ rằng ông đang đùa.
“Oui. Tôi không muốn ở cách nhà quá xa,” Poirot giải thích. “Tôi rất thích ngắm nó: một khung cảnh thật đẹp!”
Ông nhìn ngôi nhà đầy tự hào. Trong khoảnh khắc tôi tự hỏi phải chăng ông đã quên cả tôi đang đứng đó. Rồi ông nói, “Du lịch là một điều tuyệt vời. Nó rất kích thích nhưng lại không thư giãn. Mà nếu tôi không đi đâu đó thì tâm trí của Poirot tôi sẽ chẳng vacances lúc nào cả! Những thứ chộn rộn sẽ đến dưới dạng này hay dạng khác. Ở nhà thì sẽ bị tìm ra quá dễ dàng. Một người bạn hay một người xa lạ sẽ mò đến với một vấn đề cực kỳ quan trọng comme toujours – luôn luôn là cực kỳ quan trọng! – và những tế bào xám nho nhỏ một lại sẽ bận bịu và không thể bảo tồn được năng lượng. Cho nên Poirot phải tung tin rằng ông ta rời London một thời gian, kỳ thật lại nghỉ ngơi ở một nơi quen thuộc nhưng tránh được mọi quấy nhiễu.”
Ông cứ thế nói suốt, còn tôi thì gật gù theo, như thể hoàn toàn thông hiểu, lòng tự hỏi chẳng biết có phải càng cao tuổi người ta càng lập dị hơn hay không.
Bà Unsworth không bao giờ nấu bữa tối vào thứ năm. Đó là buổi tối hàng tuần bà viếng thăm cô em gái của người chồng quá cố – và đó cũng là lý do vì sao Poirot phát hiện ra quán cà phê Pleasant. Ông bảo tôi ông không thể để bị bắt gặp ở những nơi ông vẫn thường lui tới khi mà mọi người đều hiểu ông đã rời thành phố, và hỏi tôi có lời khuyên nào không “về một nơi mà người như anh có thể đến, mon ami. Nơi nào nấu ăn ngon ấy.” Tôi giới thiệu cho ông quán Pleasant: chật chội, hơi lập dị, nhưng khách đến một lần thì hầu hết sẽ trở lại, trở lại hoài.
Tối thứ năm đó – buổi tối mà Poirot gặp Jennie – ông trở về nhà vào lúc 10 giờ 10, trễ hơn nhiều so với lệ thường. Tôi đang ngồi ở phòng khách, gần lò sưởi, nhưng không cách chi thấy ấm lên. Tôi nghe tiếng bà Unsworth thì thào vài giây với Poirot sau khi có tiếng cửa chính mở ra rồi khép lại. Chắc hẳn bà đã chờ sẵn ông ngoài tiền sảnh.
Tôi không nghe bà nói gì, nhưng đoán thì được thôi: bà đang lo lắng, và tôi chính là nguyên do sự lo lắng ấy. Trở về từ nhà cô em dâu vào lúc 9 giờ 30, bà bỗng nhận định rằng tôi đang gặp chuyện gì đó không ổn. Trông tôi rất đáng sợ, như thể bị mất ăn mất ngủ, bà nói với tôi như vậy. Chẳng hiểu nổi làm sao để nhận ra một người trông có vẻ đã bỏ bữa. Trông tôi gầy gò hơn lúc dùng điểm tâm sáng hôm ấy chăng?
Bà dò xét tôi từ nhiều ngóc ngách và đề nghị đủ mọi thứ sáng kiến để giúp tôi được tốt lành, bắt đầu từ những trị liệu thông thường nhất đối với những trường hợp như thế: đồ ăn, thức uống, sự lắng nghe thân thiện. Có lần, khi tôi từ chối cả ba thứ đó một cách hết sức hòa nhã, bà đã đưa ra những gợi ý còn kỳ quặc hơn nữa: một chiếc gối nhồi cỏ, rồi chất gì đó hôi hôi từ một chai màu xanh mà tôi phải trút vào bồn nước tắm.
Tôi cảm ơn bà và từ chối. Bà cuống cuồng đảo mắt khắp phòng khách, tìm một vật gì đó có thể dúi cho tôi cùng với lời cam đoan rằng nó sẽ giải quyết các vấn đề của tôi.
Giờ đây, nhiều khả năng bà đang thì thào với Poirot, nhờ ông nài ép tôi nhận cái chai xanh hôi rình kia hay chiếc gối nhồi cỏ.
Trở về từ Pleasant mỗi tối thứ năm, Poirot thường đọc sách trong phòng khách đến 9 giờ. Tôi trở về từ khách sạn Bloxham vào lúc 9 giờ 15, quyết định không nghĩ ngợi gì đến chuyện tôi đã gặp ở đó, lòng rất mong tìm thấy Poirot trên chiếc ghế ưa thích của ông để chúng tôi có thể trao đổi vài câu chuyện tầm phào vui vẻ như mọi khi.
Ông ta không có đó. Sự vắng mặt của ông khiến tôi có cái cảm giác kỳ lạ như xa cách mọi thứ, như mặt đất chợt sụp xuống dưới chân. Poirot là mẫu người điều độ, không thích thay đổi những thói quen vốn có. “Catchpool ạ, chính những nề nếp không đổi hàng ngày sẽ giúp cho tâm trí được thư giãn,” ông nhiều lần nói như vậy với tôi… Thế mà ông đã về muộn phải đến những mười lăm phút rồi.
Khi tôi nghe tiếng cửa chính mở ra vào lúc 9 giờ 30, tôi đã hy vọng đó là ông, nhưng hóa ra lại là bà Unsworth. Tôi sém nữa bật ra một tiếng rên. Nếu biết lo cho bản thân thì điều tối kỵ là dây dưa với kẻ nào đó mà thú tiêu khiển chính là làm ầm ĩ những việc không đâu.
Tôi sợ sẽ không thuyết phục được bản thân quay trở lại khách sạn Bloxham ngày hôm sau, dù tôi biết mình phải làm vậy. Tôi đang cố không nghĩ đến chuyện đó.
Và giờ đây, tôi nghĩ, Poirot cuối cùng đã về, và ông sẽ lo lắng cho tôi được bình an vì bà Unsworth đã nhờ vả ông. Tôi quyết định tốt nhất là tránh gặp cả hai.
Nếu không có cơ hội trò chuyện một đề tài nào đó nhẹ nhàng và thư giãn, tôi thà là không nói năng gì.
Poirot xuất hiện trong phòng khách, vẫn đội nón, mặc áo khoác. Ông khép cửa lại. Tôi chờ đợi một dòng thác những lời hỏi han, nhưng thay vào đó ông lại nói, vẻ ngơ ngẩn, “Đã muộn rồi. Tôi cứ đi, loanh quanh các phố, tìm mãi, tìm mãi mà chẳng thấy gì cả, chỉ tổ về nhà muộn.”
Ông đang lo lắng, đúng vậy, nhưng không phải cho tôi, không phải về việc tôi đã ăn chưa hoặc sẽ ăn không. Thật là nhẹ nhõm. “Tìm kiếm ư?” tôi hỏi.
“Oui. Tìm một người phụ nữ tên là Jennie mà tôi rất mong còn sống chứ chưa bị giết chết.”
“Giết ư?” Tôi có cảm giác mặt đất lại lún xuống. Tôi biết Poirot là một thám tử nổi tiếng. Ông đã kể tôi nghe một số vụ án ông từng phá. Nhưng ông đang trong giai đoạn tách rời khỏi tất cả những việc đó, nên tôi cũng ngạc nhiên khi ông không thốt ra cái từ ‘giết’ ấy, bằng một vẻ xúi quẩy đến như vậy.
“Cô Jennie đó trông thế nào?” Tôi hỏi. “Ông tả lại cô ta đi. Biết đâu tôi đã thấy cô ta, nhất là nếu liên quan đến án mạng. Tối nay tôi đã thấy hai phụ nữ và một người đàn ông bị giết. Cho nên biết đâu ông gặp hên. Người đàn ông thì chắc không tên Jennie rồi, nhưng hai người kia thì…”
“Attendez, mon ami,” giọng điềm tĩnh của Poirot cắt ngang những lời dông dài thảm hại của tôi. Ông giở nón và bắt đầu cởi khuy áo khoác. “Xem chừng bà Unsworth có lý… Anh gặp chuyện gì à? Ồ, mà sao tôi lại không thấy ngay nhỉ? Trông anh xanh lắm đấy. Các suy nghĩ của tôi cứ chạy vẩn vơ, nhưng mỗi khi thấy bà Unsworth tiến đến là chúng lại thu xếp để lỉnh đi chỗ khác! Nhưng làm ơn nói cho Poirot này biết đi, immédiatement… có chuyện gì vậy?”
“Có ba án mạng,” tôi nói. “Cả ba đều không giống bất cứ án mạng nào tôi từng gặp. Hai nữ và một nam. Mỗi người trong một phòng khác nhau.”
Dĩ nhiên, tôi đã từng chứng kiến nhiều cái chết dữ. Tôi làm việc cho Scotland Yard đã gần hai năm và từng làm cảnh sát trong năm năm, nhưng hầu hết các án mạng đều có biểu hiện rõ rệt của sự mất kiểm soát: ai đó bị đá chết trong một cơn cáu giận, hay ai đó quá say xỉn và bị mất lý trí. Những vụ việc ở Bloxham thì rất khác. Kẻ ba lần ra tay giết người tại khách sạn đã lên kế hoạch từ trước… từ cả tháng trước, tôi đoán thế. Mỗi hiện trường đều là một công trình nghệ thuật rùng rợn với một ý nghĩa ẩn giấu mà tôi không sao giải mã được. Tôi kinh sợ với ý nghĩ rằng kẻ mà tôi đối mặt lần này không phải là một tên giết người dạng côn đồ, bừa phứa. Có lẽ tôi đang đối mặt một bộ óc lạnh lùng, tinh vi, không cho phép mình sơ sẩy.
Chắc chắn tôi đã quá tâm trạng, nhưng tôi không sao rũ bỏ những cảm xúc vẩn vơ. Ba xác chết khớp với nhau: chỉ ý nghĩ đó không thôi cũng khiến tôi rùng mình. Tôi nhủ lòng không được để hốt hoảng. Phải xử lý vụ này giống như những vụ khác, dù bề ngoài của nó có khác lạ thế nào.
“Ba án mạng diễn ra trong các phòng khác nhau của cùng một tòa nhà?” Poirot hỏi.
“Không, của khách sạn Bloxham chứ. Nó ở trên đường Piccadilly Circus. Chắc ông không biết khách sạn đó đâu nhỉ?”
“Non.”
“Đêm nay là lần đầu tiên tôi vào khách sạn ấy. Đó không phải là nơi mà một người như tôi dám tơ tưởng đặt chân vào. Quá lộng lẫy.”
Poirot ngồi rất thẳng lưng. “Ba án mạng trong cùng một khách sạn, và ở ba phòng khác nhau?” ông hỏi.
“Vâng, và cả ba đều diễn ra vào đầu giờ tối, chỉ cách nhau những quãng thời gian ngắn.”
“Tối nay ư? Thế sao anh lại ở đây. Sao anh không ở khách sạn? Hung thủ bị bắt rồi à?”
“Đâu có hên vậy được, tôi e là thế. Nhưng, tôi…” Tôi khựng lại, đằng hắng. Tôi có thể đi thẳng vào tường thuật các dữ kiện của vụ án, nhưng tôi không muốn Poirot biết tinh thần tôi đã lung lạc ra sao trước những gì mục kích, và càng không muốn thú nhận rằng tôi chỉ ở Bloxham trong chưa đầy năm phút, rằng tôi đã đầu hàng trước thôi thúc mạnh mẽ phải rời đi.
Cả ba nạn nhân được đặt nằm ngửa một cách chỉnh tề: tay dọc hông, lòng bàn tay úp xuống, chân khép vào nhau…
Sắp đặt chỉn chu. Câu đó như ghim vào tâm trí tôi cùng hình ảnh một căn phòng tối tăm từ nhiều năm về trước… một căn phòng mà tôi đã bị cấm vào khi còn bé, và kể từ đó đã từ chối bước vào ngay cả trong trí tưởng tượng. Suốt cuộc đời còn lại, tôi vẫn quyết không bước vào trong đó.
Những cánh tay không sức sống, lòng bàn tay úp xuống.
“Cầm tay ông đi, Edward.”
“Đừng lo, cảnh sát đang bu đầy nơi đó,” tôi cao giọng nói nhanh để xua đi cái hình ảnh không mời mà đến ấy. “Sáng mai trở lại cũng còn kịp mà.” Thấy ông đang chờ một câu trả lời hoàn chỉnh, tôi nói thêm, “Đầu óc tôi phải thanh thản đã. Nói thẳng ra, cả đời tôi chưa từng thấy ba án mạng nào kỳ lạ như thế này.”
“Kỳ lạ ở chỗ nào?”
“Các nạn nhân đều có một vật trong miệng mình. Cùng một vật!”
“Non.” Poirot lắc ngón tay với tôi. “Không thể thế được, mon ami. Cùng một vật thì không thể nào nằm cùng lúc trong ba cái miệng khác nhau.”
“Ba vật riêng rẽ giống hệt nhau,” tôi chỉnh lại. “Ba chiếc khuy măng-xét, trông như bằng vàng ròng, có khắc tên. Cả ba đều có chữ ‘PIJ’. Poirot? Ông ổn chứ? Trông ông…”
“Mon Dieu!” Poirot bật dậy, bắt đầu đi ngang dọc căn phòng. “Anh không hiểu ý nghĩa của nó đâu, mon ami. Không, anh không hiểu gì cả, vì anh đâu đã nghe tôi kể về cuộc gặp gỡ cô Jennie. Tôi sẽ kể lại thật nhanh để anh hiểu.”
Với Poirot, cách kể nhanh một câu chuyện không hề giống như hầu hết mọi người. Mọi chi tiết đều quan trọng như nhau, dù đó là ngọn lửa thiêu sống ba trăm người hay đó là lúm đồng tiền trên má đứa bé. Ông không bao giờ bị cám dỗ để đi vội đến cốt lõi của vấn đề, vì vậy tôi phải ngồi xuống ghế để nghe ông tường thuật theo cái lối riêng ấy của mình. Lúc ông kể xong, tôi cảm thấy như đã trải nghiệm qua những sự kiện đó, thậm chí còn mạch lạc hơn so với nhiều khung cảnh ngoài đời mà đích thân tôi từng tham gia.
“Một câu chuyện thật kỳ lạ,” tôi nói. “Lại trong cùng một đêm với ba án mạng ở Bloxham nữa chứ. Quả là trùng hợp.”
Poirot thở dài. “Tôi không nghĩ đó là trùng hợp đâu, bạn tôi ạ. Phải thừa nhận rằng sự trùng hợp đôi khi cũng xảy ra, nhưng ở đây lại có một mối liên kết rất rõ rệt.”
“Ý ông nói một bên là giết người và bên kia là nỗi sợ bị giết?”
“Non. Đó cũng là một mối liên kết, đúng vậy, nhưng tôi đang nói về cái khác cơ.” Poirot ngừng đi loanh quanh trong phòng khách. Ông quay lại, đối mặt tôi. “Anh nói trong miệng ba nạn nhân có ba chiếc khuy măng-xét bằng vàng khắc chữ ‘PIJ’?”
“Đúng vậy.”
“Cô Jennie, cô ấy đã nói với tôi rất rõ: ‘Xin hãy hứa với tôi điều này: nếu người ta tìm thấy tôi đã chết, xin ông bảo người bạn cảnh sát của ông đừng truy lùng hung thủ. Ôi, mong đừng ai mở miệng. Vụ án đó không bao giờ nên phá.’ Anh nghĩ sao về câu nói: ‘Ôi, mong đừng ai mở miệng’?”
Ông ta đùa chăng? Có vẻ là không. “Thì đấy,” tôi đáp, “cũng đã rõ rồi, đúng không ạ? Cô ta sợ bị giết, nhưng không muốn hung thủ bị trừng phạt nếu hắn giết được cô và hy vọng không ai nói năng gì để vạch mặt hắn. Cô ta tin mình đáng bị trừng phạt.”
“Anh chọn ý nghĩa thoạt đầu có vẻ hiển nhiên,” Poirot nói. Giọng ông có vẻ thất vọng. “Hãy tự hỏi liệu những lời ấy còn mang ý nghĩa nào khác không: ‘Ôi, mong đừng ai mở miệng’. Hãy nghĩ đến ba chiếc khuy măng-xét vàng của anh đi.”
“Chúng không phải của tôi,” tôi nhấn mạnh, lòng chỉ mong đẩy vụ việc này ra càng xa càng tốt. “Thôi được, tôi biết ông muốn hướng đến chuyện gì, nhưng…”
“Anh biết gì nào? Je conduis ma voiture à quoi?”
“Thì… ‘Ôi, mong đừng ai mở miệng’ có thể hiểu rộng ra là ‘Mong đừng ai mở miệng ba nạn nhân bị giết ở khách sạn Bloxham’.” Tôi cảm thấy giọng mình nghe cực kỳ ngốc nghếch khi thốt ra cái lý thuyết ngớ ngẩn này.
“Exactement. ‘Mong đừng ai mở miệng họ và tìm ra các chiếc khuy măng-xét vàng với chữ khắc PIJ’. Phải chăng đó là điều mà Jennie muốn nói? Rằng cô ta biết ba nạn nhân bị sát hại ở khách sạn, và biết cả kẻ giết họ, đồng thời cũng toan giết chính cô?”
Không đợi tôi phản hồi, Poirot tiếp tục dòng suy tưởng của ông. “Còn ba chữ PIJ… Kẻ mang cái tên viết tắt đó, hắn rất quan trọng trong câu chuyện này, n’est-ce pas? Jennie biết điều đó. Cô ta biết nếu ta tìm ra ý nghĩa ba chữ cái đó thì ta sẽ lần ra hung thủ, và cô ta muốn ngăn chặn điều này. Alors, anh phải bắt hắn ta trước khi quá muộn đối với Jennie, và với cả Hercule Poirot này nữa, vì ông ta sẽ không tha thứ cho bản thân đâu!”
Tôi hoảng lên khi nghe ông nói thế. Tôi cảm thấy áp lực trách nhiệm phải tóm cổ tên sát nhân, và cũng chẳng mong mình có lỗi trong việc làm cho Poirot phải day dứt. Có thực ông ta nghĩ tôi là người có năng lực tóm cổ một tên sát nhân đầu óc bệnh hoạn đến cỡ đó – kẻ dám nghĩ ra việc đặt những chiếc khuy măng-xét có khắc tên vào miệng những người chết? Tôi luôn là người thẳng thắn và làm việc tốt hơn với những tình tiết thẳng thắn.
“Tôi nghĩ anh nên trở lại khách sạn,” Poirot nói.
Ý ông là ngay tức thì. Tôi rùng mình khi nhớ lại ba căn phòng đó.
“Ngày mai cũng còn sớm chán,” tôi nói, cố tình tránh tia mắt ông. “Tôi phải nói với ông rằng tôi sẽ không làm cái chuyện ngu ngốc là đưa nhân vật Jennie đó vào vụ này đâu. Làm vậy chỉ gây rối thêm cho mọi người mà thôi. Ông đã nêu ra một ý nghĩa khả dĩ về câu nói của cô ta, còn tôi thì nêu ra một ý nghĩa khác. Lập luận của ông nghe thú vị hơn, nhưng lập luận của tôi hiện thực hơn gấp hai chục lần.”
“Không hề!”
Mâu thuẫn đã nổ ra.
“Chúng ta sẽ bất đồng với nhau về chuyện này,” tôi quả quyết nói. “Nếu ta hỏi một trăm người, tôi e rằng tất cả sẽ đồng ý với tôi, chứ chẳng ai đồng ý với ông đâu.”
“Tôi cũng e thế.” Poirot thở dài. “Nếu được, hãy cho phép tôi thuyết phục anh vậy. Ban nãy, khi kể về các án mạng trong khách sạn, anh có nói: ‘Các nạn nhân đều có một vật trong miệng mình’, đúng không nhỉ?”
Tôi xác nhận là đúng.
“Anh không nói ‘trong miệng họ’, mà anh nói ‘trong miệng mình’ bởi lẽ anh là người có học và anh dùng số ít chứ không dùng số nhiều: ‘mình’ gắn với ‘mỗi người’ – nó chuẩn về mặt ngữ pháp. Cô Jennie là người giúp việc, nhưng cô ta lại có cách nói của người có học. Và cả từ vựng nữa. Cô ta dùng cụm từ ‘không thể tránh khỏi’ khi nói về cái chết của cô ta, hay việc cô ta bị giết. Và cô ta nói với tôi: ‘Cho nên, chẳng còn ai giúp được gì đâu, mà có còn đi nữa thì tôi cũng không xứng đáng’. Anh thấy đấy, cô ta dùng tiếng Anh rất chuẩn. Cho nên, mon ami…” Poirot lại đứng dậy. “Cho nên nếu anh đúng và Jennie đã nói ‘Mong đừng ai mở miệng’ với ngụ ý là ‘Mong đừng ai cung cấp thông tin cho cảnh sát’, thì cớ sao cô ta lại không nói ‘Mong đừng ai mở miệng mình ra’. Từ ‘đừng ai’ đòi hỏi dùng số ít kia mà, đâu phải là số nhiều!”
Tôi ngước nhìn Poirot đến mỏi cả cổ, quá hoang mang và mệt mỏi khiến tôi chẳng thể đối đáp. Chẳng phải chính ông đã nói rằng Jennie đang trong cơn sợ hãi hoảng loạn đó sao? Theo kinh nghiệm của tôi, khi người ta đang cơn hoảng hốt thì làm gì có xu hướng khoa trương về ngữ pháp.
Tôi cứ tưởng Poirot là một trong những người thông minh nhất, nhưng có lẽ tôi đã lầm. Nếu ông ta có khuynh hướng tuôn ra những thứ nhảm nhí như thế thì cũng chẳng lạ gì việc ông ta nghĩ rằng đã đến lúc phải để cho tâm trí được nghỉ ngơi, an dưỡng.
“Hiển nhiên, anh sẽ nói rằng lúc ấy Jennie đang buồn khổ và vì vậy không kỹ càng lắm trong ăn nói,” Poirot tiếp tục. “Tuy nhiên, cô ta hoặc là đã nói năng tuyệt đối chuẩn xác, ngoại trừ mỗi cái khoảnh khắc đó ra, hoặc là tôi đã đúng còn anh sai, và Jennie không hề có sai sót ngữ pháp nào cả!”
Ông chắp tay lại, có vẻ hài lòng về tuyên bố của mình đến mức tôi phải động lòng mà thốt ra khá gay gắt. “Tuyệt thật, ông Poirot. Một người đàn ông và hai phụ nữ vừa bị giết, và công việc của tôi là điều tra những cái chết đó, thế mà tôi lại đang phải hân hoan hớn hở vì Jennie đã không sơ sẩy trong việc dùng tiếng Anh. Mà cũng chả biết cô ta là ai nữa chứ.”
“Cả Poirot này cũng thế đấy, ông ta cũng hân hoan hớn hở,” ông bạn đáng ngán ngẩm của tôi nói, “vì đã có một bước tiến nhỏ, một phát hiện nho nhỏ. Non.” Nụ cười của ông vụt tắt và biểu hiện của ông trở nên nghiêm nghị hơn. “Cô Jennie không mắc sai lầm ngữ pháp nào cả. Ý nghĩa mà cô ta ngụ ý là: Đừng ai cạy miệng của ba người bị giết… miệng của họ.”
“Nếu ông cứ khăng khăng như thế thì tùy,” tôi làu bàu.
“Ngày mai, sau điểm tâm, anh sẽ quay lại khách sạn Bloxham,” Poirot nói. “Tôi sẽ gặp anh ở đó muộn hơn, sau khi tìm Jennie.”
“Ông ấy à?” Tôi nói, có phần khó chịu. Những lời phản đối đã hình thành trong đầu, nhưng tôi biết chúng sẽ chẳng bao giờ đến được tai Poirot. Thám tử lừng danh hay không đi nữa thì trong vụ việc này những ý tưởng của ông nói trắng ra là cực kỳ lố bịch. Nhưng nếu ông cứ đòi tham gia thì tôi sẽ không phản bác. Ông rất tự tin còn tôi thì không, chung quy là thế. Tôi bắt đầu cảm thấy rạo rực bởi chính sự hào hứng của ông.
“Oui.” Ông nói. “Ba vụ giết người đã diễn ra với một đặc điểm chung cực kỳ bất thường: những chiếc khuy măng-xét khắc chữ tìm thấy trong miệng các nạn nhân. Chắc chắn tôi sẽ đến khách sạn Bloxham.”
“Chẳng phải ông muốn tránh trí não bị kích thích và muốn được nghỉ ngơi đó sao?” tôi hỏi.
“Oui. Précisément.” Poirot nhìn tôi. “Nếu phải ngồi trên ghế này suốt cả ngày, chứng kiến anh chậm trễ nhắc mọi người về cuộc gặp gỡ giữa tôi và cô Jennie – một chi tiết cực kỳ quan trọng – thì, với tôi, đó không còn là nghỉ ngơi nữa rồi. Với tôi, đó không phải là nghỉ ngơi nếu như biết Jennie đang chạy khắp London, dâng vô số cơ hội để cho tên sát nhân ra tay rồi nhét chiếc khuy măng-xét thứ tư vào miệng cô ta.”
Vẫn ngồi trên ghế, Poirot chồm tới trước. “Làm ơn cho tôi biết ít ra có phải điều này đã làm anh lo lắng: những chiếc khuy măng-xét đó luôn đi theo cặp? Anh đã có ba chiếc trong miệng những người chết ở khách sạn Bloxham. Chiếc thứ tư đang ở đâu, nếu không phải là trong túi tên hung thủ, chờ được nhét vào miệng của cô Jennie sau khi cô bị giết?”
Tôi phá lên cười. “Ông Poirot, nói như vậy nghe ngớ ngẩn quá. Phải, khuy măng-xét thì thường đi theo cặp, nhưng thực tình mà nói, chuyện này rất đơn giản: hắn muốn giết ba người, do đó hắn chỉ dùng ba chiếc khuy măng-xét. Ông không thể dùng ý niệm bộ-tứ-lý-tưởng để chứng tỏ điều gì, càng không thể liên hệ các án mạng ở khách sạn với cái cô Jennie đó.”
Khuôn mặt Poirot giữ nguyên vẻ ngoan cố. “Mon ami, nếu anh là tên hung thủ đã quyết dùng khuy măng-xét theo cách đó, anh nhất định sẽ bị cám dỗ bởi ý nghĩ về những cặp đôi. Chính hung thủ đã đặt ra trước chúng ta ý niệm về bốn chiếc khuy măng-xét và nạn nhân thứ tư, chứ nào phải là Hercule Poirot này đâu!”
“Nhưng… nếu vậy làm sao chúng ta biết được trong đầu hắn không có sáu hay tám nạn nhân? Ai dám quả quyết trong túi hắn không có năm cặp khuy măng-xét nữa với dòng chữ PIJ?”
Tôi ngạc nhiên khi Poirot gật đầu: “Anh có lý đấy.”
“Không đâu, ông Poirot, điều đó không hợp lý,” tôi ngán ngẩm nói. “Tôi dựng đại những con số đó ra thôi. Có thể ông thích thú óc tưởng tượng bay bổng của tôi, nhưng tôi thề với ông rằng các sếp của tôi ở Scotland Yard chẳng thích thú lắm đâu.”
“Các sếp của anh không thích anh xem xét điều gì có khả năng xảy ra sao? Không đâu, dĩ nhiên là họ không thế,” Poirot tự trả lời. “Vì họ là những người có nhiệm vụ bắt tên sát nhân. Họ và anh. Bon. Thế nên ngày mai Hercule Poirot phải đến khách sạn Bloxham.”
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt