Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Chương 2
V
ăn phòng của Peter Crew nằm ở trung tâm Southampton, trên một con đường dày đặc văn phòng môi giới bất động sản. Đó là dấu ấn của thời đại, Roz thầm nghĩ khi bước qua mấy văn phòng rộng rãi, nhưng vắng tanh vắng ngắt. Tình trạng suy thoái đã phủ một lớp mây đen chẳng thể xua tan xuống toàn bộ nơi này, cũng như mọi ngóc ngách khác của nền kinh tế.
Peter Crew là một người đàn ông cao lênh khênh và khó đoán tuổi, với đôi mắt nhạt màu, bộ tóc giả vàng hoe hất sang một bên. Còn tóc thật của ông ta có màu trắng ngà, nằm ẹp bên dưới bộ tóc giả trông không khác gì một tấm mạng bẩn thỉu. Chốc chốc, ông ta lại thò một ngón tay vào dưới bộ tóc giả và cào cào da đầu. Hậu quả tất yếu là khiến bộ tóc giả bị hở hoác ra một đoạn nhỏ thẳng phía trên mũi. Chẳng khác nào một con gà to tướng đang đậu trên đỉnh đầu ông ta. Cô thấy đồng cảm với mối ác cảm của Olive Martin.
Crew mỉm cười, cố tình nhếch môi lên khi cô đề nghị được ghi âm cuộc trò chuyện. “Tùy cô thôi.” Ông ta đan hai tay vào nhau và đặt lên bàn, “Cô Leigh, vậy là cô đã gặp thân chủ của tôi. Cô ta thế nào rồi?”
“Cô ta ngạc nhiên khi biết mình vẫn có luật sư cố vấn.”
“Tôi không hiểu.”
“Theo lời Olive, cô ta không hề nhận được tin tức gì từ ông trong suốt bốn năm qua. Ông vẫn đang đại diện cho cô ta đấy chứ?”
Ông ta thoáng lộ vẻ bối rối, nhưng hệt như nụ cười ban nãy, biểu cảm ấy chẳng chân thật chút nào, “Trời đất, lâu đến vậy sao? Không thể nào. Chẳng phải năm ngoái tôi có viết thư cho cô ta sao?”
“Ông nói vậy thì tôi biết vậy, thưa ông Crew.”
Crew rảo bước đến bên một chiếc tù ở góc phòng và lật tìm trong đống hồ sơ. “Đây rồi, Olive Martin. Ôi trời, cô nói đúng. Bốn năm. Quả là vậy.” Ông ta mau mắn thêm vào, “Nhưng cũng không hề có liên lạc gì từ phía cô ta.” Ông ta rút tập hồ sơ ra rồi mang lại bàn làm việc. “Luật là một ngành kinh doanh khá tốn kém, cô Leigh ạ. Chúng tôi không gửi thư chỉ để cho vui, cô biết đấy.”
Roz nhướng mày, “Vậy ai là người trả tiền? Tôi đoán cô ta không được miễn chi phí tư vấn pháp lý.”
Crew chỉnh lại mớ tóc giả màu vàng, “Bố cô ta trả, nhưng nói thật, tôi không chắc bây giờ thì thế nào. Ông ta chết rồi mà.”
“Tôi không hề biết.”
“Bị trụy tim, cách đây một năm rồi. Ba ngày sau mới có người phát hiện ra. Thật là một vụ rối rắm. Chúng tôi vẫn đang cố phân loại tài sản.” Ông ta châm một điếu thuốc và bỏ dở nó trên rìa chiếc gạt tàn đã đầy ắp.
Roz viết vài dòng nguệch ngoạc bằng bút chì lên tập giấy ghi chú. “Olive có biết bố mình đã chết không?”
Crew ngạc nhiên, “Tất nhiên là biết chứ.”
“Là ai nói cho cô ta vậy? Rõ ràng phía ông không hề viết thư thông báo rồi.”
Đột nhiên Crew hồ nghi nhìn Roz như thể một người đi dạo vô tình thấy rắn trên bãi cỏ, “Tôi có gọi điện đến trại giam và nói chuyện với giám đốc. Tôi nghĩ Olive sẽ bớt đau buồn hơn nếu cô ta được trực tiếp nghe tin từ ai đó có thẩm quyền.” Ông ta bỗng tỏ ra cảnh giác, “Hay cô đang ám chỉ rằng đến giờ cô ta vẫn không hề hay biết?”
“Không, tôi chỉ thắc mắc thôi, nếu bố cô ta có để lại tài sản, mà không liên lạc gì với Olive, thì ai sẽ được hưởng quyền thừa kế đây?
Crew lắc đầu, “Tôi không thể tiết lộ được. Hiển nhiên là không phải Olive rồi.”
“Tại sao lại hiển nhiên?”
Ông ta tỏ vẻ bất mãn, “Cô đang nghĩ gì vậy? Olive đã giết vợ và con gái út của ông ta, khiến người đàn ông tội nghiệp đó phải sống thui thủi một mình suốt những năm tháng cuối đời trong chính ngôi nhà nơi xảy ra thảm kịch. Chẳng ai muốn mua ngôi nhà. Cô có thể hình dung cuộc đời ông ta bi thảm đến thế nào không? Ông ta sống ẩn dật cô độc, chằng mấy khi ra ngoài, và cũng không tiếp bất cứ ai. May nhờ mấy bình sữa bỏ ngoài cửa, mọi người mới nhận thấy điều bất thường. Như tôi đã nói, ông ta chết được ba ngày mới có người phát hiện ra. Tất nhiên, ông ta sẽ không để tiền lại cho Olive.”
Roz nhún vai, “Vậy tại sao ông ta lại trả tiền thuê luật sư cho cô ta. Chẳng phải việc này không nhất quán sao?”
Crew tảng lờ câu hỏi của cô, “Dù ông ta có muốn thế chăng nữa thì việc này cũng là bất khả. Olive không thể nhận tài sản thừa kế vì tội sát hại mẹ đẻ và em gái.”
Roz thừa nhận quan điểm ấy, “Ông ta để lại nhiều tài sản không?”
“Thật đáng ngạc nhiên là có. ông ta kiếm được một khoản kha khá nhờ chơi chứng khoán.” vẻ thèm thuồng tiếc nuối thoáng hiện lên trong đôi mắt Crew khi ông ta gãi sồn sột lên phần da đầu bên dưới bộ tóc giả, “Chẳng biết do may mắn hay đoán định như thần, nhưng ông ta đã bán sạch cổ phiếu trước ngày thứ Hai đen tối*. Tài sản hiện giờ trị giá khoảng nửa triệu bảng.”
“Ôi trời đất.” Roz thoáng im lặng, “Olive có biết không?”
“Biết chứ, nếu cô ta đọc báo. Con số đã được công khai, và vì vụ án mạng quá um sùm nên thông tin ấy cũng được đăng lên báo.”
“Tài sản đã được sang tên cho người thừa kế chưa?”
Ông ta cau có, mày chau lại, “Tôi e mình không được phép thảo luận chuyện này. Các điều khoản quy định trong di chúc không cho phép tôi nói ra.”
Roz nhún vai và gõ gõ cây bút chì vào hàm răng, “Thứ Hai đen tối rơi vào tháng Mười năm 1987. Vụ giết người xảy ra vào mùng 9 tháng Chín năm 1987. Thật kì lạ, ông không thấy sao?”
“Kì lạ chỗ nào?”
“Tôi cứ nghĩ ông ta hẳn phải bị sốc đến nỗi chẳng còn để tâm đến chứng khoán và cổ phiếu chứ.”
“Ngược lại, hiện thực tàn khốc đòi hỏi ông ta phải tìm thứ gì đó để khiến đầu óc bận rộn. Sau vụ án mạng ông ta gần như không đi làm nữa. Có lẽ theo dõi số liệu tài chính là thú vui duy nhất còn lại.” Crew nhìn đồng hồ, “Sắp hết giờ rồi. Cô còn việc gì không?”
Roz chực hỏi, nếu Robert Martin một bước thành triệu phú nhờ chơi chứng khoán, vậy tại sao ông ta lại chịu sống những ngày tháng cuối đời trong một ngôi nhà không thể bán được. Chẳng phải rõ ràng một người đàn ông với nửa triệu bảng Anh thừa đủ tiền để chuyển đến chỗ khác, mà chẳng thèm bận tâm ngôi nhà mình đang ở đáng giá bao nhiêu hay sao? Cô băn khoăn không biết thứ gì trong ngôi nhà kia khiến Martin phải hi sinh nhiều đến thế? Nhưng cô cảm nhận được thái độ thù địch của Crew và quyết định nên thận trọng thì hơn. Người đàn ông này là một trong số rất ít nguồn thông tin chứng thực mà cô có thể tiếp cận được, và cô sẽ còn cần đến ông ta, ngay cả khi sự thương cảm của ông ta dành cho ông bố rõ ràng nhiều hơn cô con gái.
“Vào sáng nay thì chỉ còn một hai câu hỏi nữa thôi.” Roz mỉm cười thoải mái, pha chút quyến rũ có tính toán, hệt như nụ cười của Crew, “Tôi vẫn đang cố tìm đường trong mớ bòng bong này. Nói thật với ông, tôi vẫn chưa dám khẳng định câu chuyện này xứng đáng để đem viết sách.” Quả là nói giảm nói tránh. Cô còn chưa hề có ý định viết bất cứ thứ gì. Hay cô định viết thật nhỉ?
Crew sốt ruột gõ mấy đầu ngón tay vào nhau, “Nếu cô còn nhớ, cô Leigh ạ, tôi đã nhấn mạnh điều đó trong lá thư gửi cô rồi.”
Roz trang trọng gật đầu, vuốt ve tính sĩ diện của ông ta, “Và như tôi cũng đã nói với ông, tôi không muốn viết ra một câu chuyện chỉ bằng cách đề cập đến những chi tiết man rợ trong vụ án của Olive. Nhưng lá thư ông viết lại ẩn chứa một khía cạnh rất đáng để bỏ công sức tìm hiểu. Ông khuyên cô ta biện hộ bằng cách nhận mình không đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Và nếu thành công, theo như ông gợi ý, cô ta sẽ chỉ bị quy vào tội ngộ sát, và sẽ bị giam giữ vô thời hạn*. Tôi nghĩ ông sẽ tính tiếp để cô ta chỉ phải điều trị từ mười đến mười lăm năm trong một bệnh viện tâm thần tập trung, tất nhiên là nếu cô ta chịu chữa trị tâm lý và có phản ứng tích cực với quá trình điều trị.”
“Chính xác là thế.” Crew đồng ý, “Và tôi nghĩ đó là một tính toán hợp lý. Cô ta sẽ không phải chịu những án phạt kiểu 25 năm tù giam như thẩm phán đề nghị.”
“Nhưng cô ta từ chối lời khuyên ấy. ông có biết tại sao không?”
“Biết. Cô ta sợ hãi và suy nghĩ lệch lạc về chuyện bị nhốt chung với những người điên. Cô ta còn hiểu sai bản chất của việc giam giữ vô thời hạn. Cô ta tin chắc rằng đó có nghĩa là chung thân, và dù đã cố gắng hết sức, nhưng chúng tôi cũng không thể thuyết phục cô ta nghĩ khác đi.”
“Trong trường hợp đó, tại sao ông không thay mặt cô ta đệ đơn biện hộ luôn? Rõ ràng thực tế rằng cô ta không thể hiểu được những gì ông đang đề nghị cho thấy cô ta không hề có khả năng tự biện hộ. Nếu cho rằng cô ta đã có đủ lý lẽ để tự biện hộ cho mình thì ông đã chẳng đời nào đưa ra gợi ý như thế, không phải sao?
Crew mỉm cười dứt khoát, “Cô Leigh, tôi không hiểu tại sao, nhưng có vẻ cô quả quyết rằng, xét theo một khía cạnh nào đó, chúng tôi đã không tận tình với Olive? Tôi gợi ý cô nên nói chuyện với người đàn ông này trước khi đi đến bất cứ kết luận sai lầm nào thêm nữa.” Ông ta viết nguệch ngoạc một cái tên và địa chỉ lên mẩu giấy rồi búng nhẹ về phía cô, “Cậu ta là luật sư chúng tôi chỉ định để bào chữa cho Olive. Graham Deedes. Trên thực tế, Olive đã qua mặt chúng tôi và cậu ta còn chưa được gọi đến để bào chữa.”
“Nhưng tại sao? Làm sao cô ta có thể qua mặt ông được?” Roz chau mày, “Tôi xin lỗi vì giọng điệu của mình có phần gay gắt quá, ông Crew ạ, và làm ơn hãy tin tôi, ông đã sai khi cho rằng tôi đưa ra những kết luận cực đoan.” Nhưng đó chẳng phải sự thật sao, cô thầm nhủ. “Tôi chỉ đơn giản là một người ngoài cuộc đang bối rối nên muốn đưa ra các câu hỏi. Nếu anh Deedes đây ở vị thế có thể nêu ra những điểm đáng ngờ về tình trạng ‘tâm lý bình thường’ của Olive trước tòa, lẽ ra anh ta nên nỗ lực hơn nữa để làm thế, dù thân chủ của mình có muốn hay không, vậy mới phải chứ? Không muốn nói thẳng ra đâu, nhưng sự thật là trong trường hợp Olive bị điên, thì hệ thống luật pháp phải có nghĩa vụ thừa nhận sự thật ấy, ngay cả khi bản thân cô ta nghĩ rằng mình bình thường.”
Thái độ của Crew dịu lại đôi chút, “Cô đang dùng những từ rất nhạy cảm, cô Leigh ạ. Chúng tôi không định bào chữa rằng cô ta bị điên, mà chỉ là không đủ năng lực trách nhiệm hình sự thôi. Nhưng tôi hiểu ý cô. Tôi dùng từ ‘qua mặt’ là có lý do. Đơn giản là một vài tuần trước khi diễn ra phiên tòa xét xử như đã định, Olive đã viết thư cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ yêu cầu được biết liệu cô ta có quyền nhận tội hay không. Theo luật pháp Anh thì hiển nhiên câu trả lời là không. Nhưng cô ta thỉnh cầu rằng, một phiên xét xử dài lê thê sẽ chỉ tạo ra những áp lực không đáng có, chẳng những không giúp được gì cho cô ta mà chỉ càng khiến ông bố đau khổ. Và thế là ngày xử án được hoãn lại, các bài kiểm tra được tiến hành nhằm xác định xem cô ta có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận tội hay không. Kết luận được đưa ra là có.”
“Ôi trời!” Roz cắn môi và phải thốt lên lần nữa, “Ôi trời! Họ đưa ra kết luận chính xác chứ?”
“Tất nhiên.” Crew nhận ra điếu thuốc bỏ quên nãy giờ đã cháy rụi, tàn thuốc uốn cong lại rồi rớt xuống. Ông ta liền thô bạo dụi tắt nó, “Cô ta biết chính xác hậu quả là gì. Thậm chí họ còn nói trước cho cô ta biết án phạt để cô ta hình dung. Nhà tù cũng chẳng khiến cô ta ngạc nhiên nữa rồi. Cô ta đã bị tạm giam bốn tháng trước khi ra tòa. Nói thật, ngay cả khi cô ta đồng ý biện hộ thì kết quả vẫn vậy. Bằng chứng để có thể xin giảm tội do mất năng lực trách nhiệm hình sự là rất mong manh. Tôi cho rằng chúng tôi khó lòng che mắt bồi thẩm đoàn.”
“Trong thư ông cũng viết, dù có ra sao chăng nữa, ông vẫn tin chắc rằng cô ta bị thái nhân cách. Tại sao vậy?”
Crew chỉ tay vào tập hồ sơ trên bàn, “Tôi đã nhìn thấy tấm ảnh chụp thi thể Gwen và Amber ở hiện trường. Sàn bếp chẳng khác nào một lò mổ nhơ nhớp máu, đó là cảnh tượng kinh khủng nhất tôi từng thấy. Tôi không tin một người tâm lý bình thường lại có thể ra tay tàn bạo như vậy đối với bất kì ai, chứ đừng nói đến mẹ và em gái mình.” Ông ta dụi mắt, “Không, cô Leigh ạ, dẫu các bác sĩ tâm lý có nói gì chăng nữa, và dẫu cuộc tranh luận về việc thái nhân cách có phải một bệnh tâm thần hay không còn chưa ngã ngũ, nhưng cô vẫn nên nhớ rằng: Olive Martin vẫn là một đối tượng nguy hiểm. Tôi khuyên cô nên hết sức thận trọng khi tiếp xúc với cô ta.”
Roz tắt máy ghi âm và với lấy cặp táp, “Liệu cô ta có phải là hung thủ không?”
Crew chằm chằm nhìn Roz như thể cô vừa nói một điều quá sức phi lý. Ông ta đốp lại, “Liệu là sao? Cô định ám chỉ gì vậy?”
“Tôi chợt nghĩ, sự thiếu nhất quán giữa biểu hiện tâm thần bình thường của Olive và tính chất bất thường của tội ác này có thể giải thích một cách đơn giản là do cô ta không hề phạm tội mà chỉ cố bao che cho kẻ gây án.” Roz đứng lên và khẽ nhún vai, nhìn xuống ông luật sư đang mím chặt môi. “Chỉ là tôi nghĩ vậy thôi. Dù quan điểm ấy của tôi cũng chẳng thay đổi được gì, nhưng thật tình vụ án này hoàn toàn phi lý. Ý tôi là, nếu cô ta thực sự là một kẻ giết người điên loạn, hẳn cô ta đã chẳng thèm lo lắng đến việc bố mình sẽ phải chịu đựng một phiên tòa tồi tệ. Cảm ơn vì đã dành thời gian cho tôi, ông Crew. Tôi có thể tự ra về được.”
Ông ta bắt tay cô, “Cô đã đọc bản tự khai chưa, cô Leigh?”
“Vẫn chưa. Văn phòng của ông đã hứa sẽ gửi nó cho tôi.”
Crew lật giở tập tài liệu và lấy ra vài tờ giấy kẹp lại với nhau. “Cô có thể giữ bản sao này.” Ông ta nói với cô và đẩy tệp giấy qua bàn, “Tốt nhất cô hãy đọc nó trước khi đi bước tiếp theo. Tôi nghĩ, nó sẽ thuyết phục được cô, như nó đã từng thuyết phục được tôi, về tội ác của Olive.”
Roz cầm tệp giấy lên, “Ông rất ác cảm với cô ta, đúng không?”
Mặt ông ta đanh lại, “Tôi chẳng có cảm xúc gì với cô ta cả, theo phương diện nào cũng vậy. Tôi chỉ quan tâm đến việc giữ lại tính mạng cho cô ta dựa trên các tiêu chuẩn pháp lý của xã hội mà thôi. Cô ta là kẻ sát nhân. Đừng quên điều đó, cô Leigh ạ. Chúc cô một ngày tốt lành.”
Roz mất một tiếng rưỡi để lái xe quay về căn hộ của mình ở London. Gần như trong suốt thời gian ấy, câu nói “Cô ta là kẻ sát nhân” luôn lấn át mọi suy nghĩ khác. Như thể cô đã tách chúng ra khỏi ngữ cảnh, viết thành một dòng cỡ lớn lên màn hình và cho chạy đi chạy lại trong tâm trí với vẻ thỏa mãn đầy ác ý.
Mãi sau, khi đã cuộn tròn trên ghế bành, Roz mới nhận ra chuyến đi về nhà ban nãy là một miền trống rỗng. Cô không có kí ức gì, thậm chí chẳng hề nhớ mình vừa rời Southampton, một thành phố hoàn toàn xa lạ. Có thể cô vừa giết ai đó, nghiến bánh xe qua người họ mà chẳng nhớ nổi sự việc phát sinh khi nào và ra sao. Cô nhìn chăm chăm ra tiền sảnh tối tăm xám ngoét của nhà đối diện qua cửa sổ phòng khách và vô cùng băn khoăn về bản chất của cái gọi là miễn giảm tội do thiếu năng lực trách nhiệm hình sự.
Bản tự khai của Olive Martin
9/9/1987 - 09:30 tối
Nhân chứng: Trung sĩ Hawksley, Trung sĩ Wyatt,
Peter Crew (luật sư cố vấn)
Tên tôi là Olive Martin. Sinh ngày mùng 8 tháng Chín năm 1964. Tôi sống tại số 22 đường Leven, Dawlington, Southampton. Tôi làm thư kí tại Phòng Y tế và An ninh Xã hội trên đại lộ Dawlington. Hôm qua là sinh nhật lần thứ 23 của tôi. Tôi luôn sống ở nhà. Tôi chưa từng thân thiết với mẹ và em gái, mà hợp với bố hơn. Tôi nặng khoảng 117 cân. Mẹ và em gái luôn châm chọc tôi vì điều đó. Họ đặt biệt danh cho tôi là Hattie Béo Bệu, dựa theo tên của nữ diễn viên Hattie Jacques. Tôi rất tủi thân khi bị cười nhạo về cân nặng của mình.
Chẳng ai chuẩn bị gì cho sinh nhật của tôi khiến tôi thực sự rất buồn. Mẹ nói tôi không còn bé bỏng gì nữa nên tôi phải tự tổ chức sinh nhật cho mình. Tôi quyết định cho bà thấy tôi có thể tự làm gì đó. Tôi sắp xếp xin nghỉ ngày hôm nay với ý định sẽ đi tàu tới London để ngắm cảnh. Tôi không tổ chức tiệc tùng gì vào hôm qua cả, vì biết đâu mẹ đã lên kế hoạch dành bất ngờ cho tôi như sinh nhật lần thứ 21 của em gái tôi hồi tháng Bảy. Nhưng hóa ra lại chẳng có gì. Chúng tôi lặng lẽ xem ti vi cả tối. Tôi đi ngủ mà trong lòng ấm ức. Quà sinh nhật bố mẹ tặng tôi là một chiếc áo chui đầu màu hồng nhạt trông chẳng ra làm sao, tôi không thích nó chút nào. Còn em gái tặng tôi một đôi dép lê mới và tôi rất thích.
Tôi tỉnh dậy và cảm thấy hơi lo lắng về chuyện tự đi London một mình. Tôi bảo em Amber gọi điện đến chỗ làm xin nghỉ ốm và đi cùng tôi. Con bé mới làm việc cho cửa hàng thời trang Phù Hoa ở Dawlington được khoảng một tháng. Mẹ tôi nổi giận và không cho con bé đi cùng tôi. Chúng tôi đã tranh luận nảy lửa suốt bữa sáng. Giữa chừng, bố tôi không chịu được nên đã bỏ đi làm. Ông 55 tuổi và làm việc ba ngày một tuần với vị trí kế toán cho một công ty vận tải tư nhân. Ồng đã làm chủ một ga ra ô tô trong rất nhiều năm, nhưng rốt cuộc phải bán đi vào năm 1985 vì không có con trai tiếp quản.
Bố tôi rời nhà một lúc thì cuộc tranh cãi lên tới đỉnh điểm khi mẹ đổ lỗi cho tôi dẫn Amber vào con đường lầm lạc. Mẹ liên tục gọi tôi là Béo Bệu và chế nhạo tôi ủy mị không dám đi London một mình. Mẹ nói bà đã thất vọng ngay từ khi sinh tôi ra. Tiếng bà la hét khiến tôi đau đầu. Tôi vẫn còn rất buồn bực và ghen tị với Amber khi bà tổ chức sinh nhật cho nó nhưng lại chẳng làm gì cho tôi.
Vì thế tôi đi tới chỗ ngăn kéo và lấy ra cây cán bột. Tôi dùng nó đánh bà những mong bà im lặng đi một chút, nhưng rồi bà bắt đầu la hét và tôi lại đánh tiếp. Có lẽ tôi đã dừng lại nếu Amber không bắt đầu la hét theo khi chứng kiến những gì tôi làm. Tôi phải đánh cả con bé. Tôi chưa bao giờ thích ồn ào.
Tôi pha cho mình một tách trà rồi chờ đợi. Tôi nghĩ mình đã đánh họ bất tỉnh. Cả hai đều nằm bất động trên sàn nhà. Một giờ sau, tôi tự hỏi liệu có phải họ chết rồi không. Họ trông tái nhợt và thõng thượt. Tôi được biết, nếu đặt một tấm gương trước miệng người ta mà không thấy có màn sương phủ mờ trên đó thì có nghĩa họ đã chết. Tôi thử bằng tấm gương trong túi xách của mình. Tôi giữ nó trước miệng họ một lúc khá lâu. Không hề có màn sương. Không gì cả.
Tôi bắt đầu hoảng loạn và suy nghĩ xem nên giấu những cái xác ở đâu. Đầu tiên, tôi nghĩ nên giấu trên gác mái, nhưng họ quá nặng, tôi sẽ không thể vác lên cầu thang được. Sau đó, tôi quyết định tốt nhất là ném xác họ ra biển vì chỗ ấy chỉ cách nhà tôi hai cây số, nhưng tôi không biết lái xe, và dù sao thì bố tôi cũng đã lấy xe đi rồi. Đột nhiên tôi nghĩ, nếu mình có thể khiến họ nhỏ lại, nhét vừa vào va li thì có thể vứt họ đi theo cách đó. Tôi đã thái thịt gà thành các miếng nhỏ rất nhiều lần rồi. Tôi nghĩ làm tương tự với mẹ tôi và Amber cũng sẽ không khó lắm. Tôi dùng một chiếc rìu cất trong ga ra và một con dao lạng thịt trong ngăn kéo nhà bếp.
Chặt xác họ chẳng hề dễ dàng gì, không giống việc thái thịt gà chút nào. Lúc 2 giờ, tôi đã mệt phờ mà mới chỉ chặt xong phần đầu, chân và ba cánh tay. Có quá nhiều máu và tay tôi cứ trơn tuột. Tôi biết bố sắp về nhà và công việc không thể hoàn tất trước lúc ấy vì còn phải chuyển những mẩu xác ra biển nữa. Tôi nhận ra tốt hơn hết là nên gọi điện cho cảnh sát và thừa nhận những việc mình đã làm. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi đưa ra quyết định đó.
Tôi không hề nghĩ đến chuyện cứ thế rời khỏi nhà và giả vờ rằng một người khác đã làm chuyện đó. Tôi không biết tại sao, nhưng trí óc tôi chỉ tập trung nghĩ cách giấu những cái xác. Tôi thật tình không muốn chặt vụn mẹ và em. Tôi lột quần áo họ chỉ để thấy được các khớp xương. Mãi tôi mới nhận ra mình đã làm lẫn lộn các mẩu xác. Thế là tôi phải sắp xếp lại cho đúng, nhưng máu nhiều quá nên tôi không phân biệt được phần nào với phần nào. Có lẽ tôi đã đặt nhầm đầu của mẹ vào cơ thể của Amber.
Tôi thực hiện tất cả một mình.
Tôi xin lỗi về những việc tôi đã làm. Tôi mất bình tĩnh quá và hành động một cách ngu dại. Tôi xin cam đoan những điều viết trên đây là sự thật.
OLIVE MARTIN (đã kí)
Lời thú tội này là một bản sao, dài ba mặt giấy A4. Mặt sau của tờ cuối cùng có trích một đoạn văn, có lẽ được copy từ báo cáo của bác sĩ nào đó. Chỉ là một kết luận rất ngắn, và không đề tên người viết.
Các vết thương trên đầu rõ ràng là do một hoặc nhiều cú đánh bằng vật thể nặng và rắn gây ra. Những vết thương này xuất hiện trước khi chết và không phải là nguyên nhân gây tử vong. Không có bằng chứng cho thấy cây lăn bột là hung khí, nhưng cũng không thể chứng minh điều ngược lại. Nguyên nhân tử vong của cả hai nạn nhân là do đứt động mạch cảnh trong quá trình chặt. Kiểm tra chiếc rìu cho thấy có nhiều gỉ sét còn bám lại bên dưới vết máu khô. Rất có khả năng nó đã khá cùn. Vết thâm tím lan rộng quanh các vết cắt trên cổ và thân Amber Martin cho thấy hung thủ đã chém ba hoặc bốn nhát rìu trước khi dùng dao lạng thịt để cứa cổ họng. Không thể khẳng định lúc đó nạn nhân đã tỉnh lại hay chưa. Tuy nhiên, trong trường hợp của Gwen Martin, vết rách trên hai bàn tay và cánh tay hình thành trước khi chết cho thấy khả năng bà ta đã tỉnh lại và cố gắng kháng cự. Hai vết đâm chỗ hàm dưới chứng tỏ hung thủ đã cố gắng bất thành nhiều lần trước khi cắt đứt hẳn cuống họng nạn nhân. Hung thủ ra tay hết sức man rợ.
Roz đọc hết một lượt, đặt tệp giấy xuống bàn và nhìn xa xăm. Cô thấy ớn lạnh. Olive Martin cầm rìu… Ôi, trời đất! Chẳng có gì ngạc nhiên khi Crew cho rằng cô ta bị thái nhân cách. Chém ba, bốn nhát bằng cây rìu cùn và Amber vẫn còn sống. Đột nhiên cô thấy cổ họng tắc lại, như mắc nghẹn thứ gì đó tanh tưởi, đắng ngắt và tởm lợm. Cô phải ngừng ngay những suy nghĩ tiêu cực này lại. Nhưng cô không thể, tất nhiên rồi. Tiếng kim loại cắm phập vào da thịt mềm mụp vang vang trong óc cô. Căn hộ này mới tăm tối và ảm đạm làm sao. Cô vội với tay bật chiếc đèn bàn, nhưng nguồn sáng đó chẳng xua tan nổi những hình ảnh quá sống động đang đầy ấp trong trí tưởng tượng của cô. Cơn ác mộng về một phụ nữ loạn óc, cuồng dại trong cơn khát máu. Và những mảnh thi thể nát bươm…
Cô đã liều mình tới đâu để viết cuốn sách này? Cô đã kí giấy tờ gì chưa? Cô có nhận được quyền lợi gì không? Chẳng thể nào nhớ được. Một cơn rùng mình vì hoảng loạn bóp nghẹt lấy cô. Cô đang sống trong một thế giới mông muội, nơi gần như mọi thứ đều vô nghĩa, ngày nối ngày trôi qua, chẳng có gì khác biệt. Roz chồm dậy khỏi ghế bành và bước qua sàn, thầm trách Iris vì đã dồn ép cô, nguyền rủa bản thân vì sự điên rồ của mình, và nguyền rủa Crew vì đã không gửi cho cô bản tự khai luôn vào lần đầu cô viết thư cho ông ta.
Cô vồ lấy điện thoại và quay số Iris, “Mình có kí cam kết gì trong vụ quyển sách về Olive Martin không? Sao ấy hả? Vì mình không thể nào viết được. Chết tiệt, thế đấy. Người phụ nữ đó dọa mình sợ vãi tè rồi và mình sẽ không bao giờ gặp lại cô ta đâu.”
“Mình tưởng cậu thích cô ta chứ.” Iris bình tĩnh nói, miệng vẫn nhồm nhoàm nhai bữa tối.
Roz lờ đi nhận xét ấy, “Mình vừa nhận được bản tự khai của cô ta và báo cáo của bác sĩ, hoặc ít nhất là phần kết luận của bác sĩ. Lẽ ra mình nên đọc nó trước. Mình sẽ không làm chuyện này đâu. Mình sẽ không tuyên truyền cho hành động của cô ta bằng cách viết ra một cuốn sách. Chúa ơi, Iris, cô ta chặt đứt đầu họ khi họ vẫn còn sống. Người mẹ khốn khổ đã cố gắng chống trả trước khi bị giết. Chỉ nghĩ đến việc ấy thôi mình đã đủ phát bệnh rồi.”
“OK.”
“OK gì cơ?”
“Đừng viết.”
Roz nheo mắt nghi ngờ, “Mình nghĩ ít nhất cậu cũng sẽ phản đối vài câu chứ.”
“Tại sao phải thế? Một điều mình học được trong nghề này là không thể ép ai đó sáng tác được. Đúng hơn thì có thể, nếu đủ kiên trì và khôn khéo, nhưng kết quả đạt được sẽ luôn ở mức dưới trung bình.” Roz nghe thấy tiếng Iris uống nước. “Dù sao thì sáng nay, Jenny Atherton đã gửi cho mình mười chương đầu trong cuốn sách mới của cô ta. Cuốn sách cũng khá ổn, viết về những nguy cơ tiềm ẩn của sự tự ti, và béo phì chính là nguyên nhân hàng đầu. Cô ta đã khai quật được cả một mỏ vàng gồm toàn những nhân vật trong các bộ phim và chương trình truyền hình, những người đã suy sụp khủng khiếp kể từ khi tăng cân và bị buộc phải xa rời ống kính. Đọc vô vị kinh hồn, tất nhiên rồi, tất cả sách của Jenny đều vậy cả, nhưng nó vẫn sẽ bán được. Mình nghĩ cậu nên gửi tất cả những thông tin mật cậu đã thu thập được cho cô ta. Olive có thể tạo nên một hiệu ứng vô cùng kịch tính, đặc biệt là khi chúng ta có thể chụp được một bức ảnh cô ta trong buồng giam, cậu không nghĩ thế sao?
“Không thể nào.”
“Không thể nào chụp ảnh được hả? Chán thật.”
“Không thể nào có chuyện mình đưa bất cứ thứ gì của mình cho Jenny Atherton. Mình nói thật đấy, Iris ạ.” Cô nổi đóa, “Cậu thực sự khiến mình khinh thường đấy. Lẽ ra cậu nên làm việc cho mấy báo tờ báo lá cải mới đúng. Cậu không ngại lợi dụng bất kì ai miễn sao kiếm ra tiền. Không đời nào mình để Jenny Atherton lại gần Olive.”
“Mình chẳng hiểu tại sao lại không cơ chứ?” Iris hỏi vặn, miệng lại đang nhồm nhoàm nhai, “Ý mình là, nếu cậu không muốn viết về cô ta và từ chối gặp lại cô ta vì cô ta làm cậu phát ốm, thì tại sao lại chày cối không muốn cho người khác thử sức chứ?”
“Đó là nguyên tắc.”
“Chẳng hiểu gì cả. Với mình thì cũng giống như con chó giữ khư khư miếng xương dù đã chẳng thèm gặm nữa. Nghe này, mình không thể dây dưa mãi. Chúng ta phải đưa người khác vào. ít nhất hãy để mình nói với Jenny rằng Olive là một mỏ vàng chưa ai khai phá. Cô ta có thể bắt đầu từ đầu. Có vẻ cậu cũng chưa gặt hái được gì mấy, đúng không?”
“Mình đổi ý rồi.” Roz đột ngột thông báo, “Mình sẽ viết. Tạm biệt.” Rồi cô thô bạo dập máy.
Ở đầu dây bên kia, Iris nháy mắt với chồng, “Vậy mà còn trách em vô tâm sao?” Cô lầm bầm, “Trên đời này làm gì còn thứ gì khiến em quan tâm hơn thế chứ?”
“Bốt đế đinh chẳng hạn?” Gerry Fielding đáp.
Roz đọc lại bản tự khai của Olive, “Tôi chưa từng thân thiết với mẹ và em gái.” Cô với lấy cái máy ghi âm và cuộn lại băng cát xét, tua đi tua lại cho đến khi cô tìm được phần mình cần lắng nghe lại, “Tôi gọi con bé là Amber vì hồi hai tuổi, tôi không thể uốn lưỡi phát âm ‘l’ hay ‘s’ được. Cái tên ấy cũng hợp với con bé. Nó có bộ tóc tuyệt đẹp, vàng như mật ong, và khi lớn lên, nó chỉ thưa khi được gọi là Amber, còn khi gọi là Alison thì không. Con bé rất đáng yêu.”
Bản thân đoạn này hoàn toàn không có gì đáng bàn. Chẳng ai quy định những người thái nhân cách không thể giả vờ. Thực tế có lẽ họ luôn là những người ưa giả vờ và dối trá. Nhưng ở đây rõ ràng cô ta đã nhẹ giọng hẳn khi nói về em gái, một sự dịu dàng mà với người khác chắc hẳn Roz đã hiểu đó là tình yêu thương. Và tại sao cô ta lại không hề nhắc tới trận xô xát với người mẹ? Thực sự rất kì lạ. Việc đó có thể là lời biện hộ cho những gì cô ta đã gây ra vào ngày hôm đó.
Cha xứ không để ý rằng Olive đã đứng đằng sau, ông giật nảy người khi thấy một bàn tay to lớn đặt lên vai mình. Đây không phải lần đầu cô ta rón rén đến gần và khiến ông ngạc nhiên. Một lần nữa, ông lại tự hỏi không hiểu tại sao cô ta có thể làm được như thế. Bình thường, cô ta đi lại lặc lè khó nhọc, tiếng bước chân đến gần cũng đủ khiến ông khó chịu.
Ông lấy lại bình tĩnh rồi quay người lại, nở nụ cười thân thiện, “Chà, Olive, thật vui được gặp con. Điều gì đã mang con tới nhà thờ vậy?”
Đôi mắt ti hí nhìn ông vui mừng, “Con có làm cha sợ không?”
“Con làm ta giật mình, ta chẳng hề nghe thấy tiếng bước chân.”
“Có lẽ vì cha không lắng nghe. Nếu cha muốn thì chắc đã nghe thấy từ đầu rồi đấy ạ. Họ phải dạy cha ở viện thần học chứ. Chúa thì thầm với ta vào những thời điểm thích hợp nhất.”
Đôi khi ông nghĩ, sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu ông có thể khinh miệt Olive. Nhưng ông chưa bao giờ làm thế được. Ông sợ và không thích cô ta, nhưng không hề khinh miệt, “Ta có thể giúp gì cho con?”
“Nghe nói cha vừa nhận được vài quyển sổ nhật kí mới vào sáng nay. Con rất muốn có một cuốn.”
“Con chắc chứ, Olive? Chúng cũng hệt như những quyển khác thôi. Trang nào cũng có những lời răn dạy của Chúa thôi mà. Lần trước ta đưa con, con chẳng xé rách bươm còn gì.”
Olive nhún vai, “Nhưng con cần một cuốn nhật kí để sẵn sàng chấp nhận các bài thuyết giáo buồn tẻ.”
“Chúng đang ở trong phòng họp.”
“Con biết.”
Olive không đến để lấy nhật kí. ông có thể đoán được như thế. Nhưng cô ta đang lên kế hoạch lấy trộm thứ gì mới được cơ chứ? Có thứ gì để lấy ngoại trừ Kinh thánh và sách cầu kinh đây?
Hóa ra cô ta lấy một cây nến. Sau đó, ông đã báo cáo việc này với giám đốc trại giam. Olive Martin lấy trộm một cây nến dài khoảng mười lăm phân từ bệ thờ. Nhưng tất nhiên, cô ta phủ nhận việc này. Và mặc dù buồng giam của cô ta đã được lục soát từ trong ra ngoài, nhưng vẫn chẳng tìm thấy cây nến nào hết.