Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Chương 1 - Cơn Mưa Đất
K
hi tôi mới sinh ra, bố đặt tên tôi theo tên cụ tổ bảy đời của gia đình. Truyền thuyết kể rằng, cụ tổ nhà tôi đã từng đánh bại chín gã khổng lồ và kết hôn với ái nữ của một công tước. Mẹ thì nói tất cả chỉ là chuyện tào lao. Trước hết, trên đời này chẳng có thứ gì gọi là khổng lồ cả. Tại sao chúng ta chưa từng nhìn thấy những sinh vật to lớn đó nếu chúng thực sự tồn tại? Hai là, chúng tôi chẳng có chút dây mơ rễ má nào với ngài công tước hết. Nếu có, chúng tôi lẽ ra phải thật giàu có và đang an cư trong một điền trang rộng lớn; chứ không phải nghèo xác xơ, sống chen chúc dưới một mái nhà chật chội trong một trang trại bé tí giữa một ngôi làng bé xíu. Chẳng có gì là vĩ đại hay rộng lớn ở đây hết.
Nhưng bố chẳng buồn bận tâm tới tiểu tiết. Ông tin rằng có sự vĩ đại ẩn chứa trong cái tên đó, và nếu như đặt nó cho tôi, có thể sự vĩ đại sẽ ngấm sâu vào trong xương thịt tôi.
“Chúng ta sẽ đặt tên con là Jack,” bố tuyên bố. “Và nó sẽ trở nên vĩ đại.”
“Nếu anh nói thế,” mẹ đáp. Bà là một người phụ nữ thực tế và không xem trọng chuyện tên tuổi. Tất cả những gì bà cần là một từ ngữ để gọi tôi về ăn tối, hoặc để quở trách mỗi khi tôi phạm sai lầm. Tôi đã phải hứng chịu lời quở trách đầu tiên trước cả bữa ăn tối, ngay sau khi chào đời. Bởi vì trong lúc bố đang đánh vần cái tên, tôi đã nhe ra một chiếc răng nhọn hoắt và ngoạm vào tay mẹ.
“Ái da!” Mẹ kêu lên. “Thằng nhóc càn quấy!” Đó là danh xưng mẹ sẽ dùng để gọi tôi thường xuyên hơn cả Jack.
Bố cả gan bật cười. “Ồ Alice à, con mới chỉ là một đứa bé thôi. Nó có biết gì đâu.”
Nhưng mẹ thì tin tôi có biết rõ. Với bà, miếng cắn đó là một điềm báo nhỏ cho những gì sắp xảy ra, như vài giọt nước lác đác rơi trước một cơn mưa rào, tiếng vo ve trước khi con ong đốt, và cảm giác lâm râm trước lúc bạn nhận ra mình đang bị bao vây giữa cơ man thường xuân độc.
Có thể tôi sinh ra để trở nên vĩ đại thật, nhưng vĩ đại về việc gì mới được chứ?
Năm tháng tuổi, tôi bắt đầu học bò. Tôi bò nhanh như một con gián, bố nói vậy. Phút trước còn đang bám váy mẹ, phút sau tôi đã thoăn thoắt chui vào chuồng lợn, lăn lộn trong đống phân và bùn đất. Mẹ kể rằng bà đã phải tắm cho tôi hai lần một ngày để giữ tôi khỏi biến thành một con lợn thật.
Tôi biết đi trước khi lên một tuổi, đến năm hai tuổi, tôi đã học leo trèo. Tôi leo lên bàn, ghế, đống củi, cây cối... Có lần mẹ tìm được tôi trên mái nhà, và tóm lấy tôi trước khi tôi kịp trượt qua ống khói lò sưởi xuống đống lửa cháy rừng rực bên dưới.
“Đúng là một thằng nhóc càn quấy,” mẹ quở.
“Nó chỉ là một thằng nhóc thôi,” bố sửa lại.
Nhưng tôi không muốn mình mãi chỉ là “một thằng nhóc”. Tôi muốn trở nên vĩ đại.
Đêm đêm, bố lại kể cho tôi nghe những câu chuyện về cụ tổ Jack: cụ đã chặt lìa đầu của bọn khổng lồ, khoắng sạch toàn bộ của cải của bọn chúng và giải cứu những người vô tội. Tôi biết rằng nếu muốn trở nên vĩ đại, tôi sẽ phải thực hiện một cuộc hành trình tìm kiếm cao cả và đánh bại một hoặc chín gã khổng lồ giống cụ tổ bảy đời - Jack - của mình.
Chỉ có một vấn đề duy nhất. Tôi chưa từng nhìn thấy một tên khổng lồ nào trong suốt ròng rã mười hai năm cuộc đời.
o O o
“Đừng có nhìn mãi lên trời thế, Jack!” Bố nói. “Công việc ở dưới này này!”
Đang vào mùa thu hoạch, năm nào cũng như năm nào. Làm việc, làm việc, làm việc. Chán ngắt, chán ngắt, chán ngắt. Ngay cả khi công việc đã hoàn thành, chúng tôi vẫn cứ nghèo xơ nghèo xác.
Bố huýt sáo theo một giai điệu vui vẻ khi ông gặt lúa mì. Tôi vừa lầu bầu vừa bó chúng lại và buộc ngang thân. Chúng tôi cứ làm mãi làm mãi cho đến khi vun được một đống lúa cao ngang đầu bố. Cứ ngỡ hai bố con sắp xong việc đến nơi, nhưng khi ngước lên nhìn, tôi lại thấy còn hàng mẫu lúa chưa gặt. “Rắn rết cóc nhái ơi,” tôi lầm bầm. Sao tôi ghét cảnh tượng này đến thế!
“Chẳng phải nàng là phong cảnh đẹp nhất con từng được thấy hay sao?” Bố gọi đất đai là nàng, như thể đó là một quý cô bố chuẩn bị ve vãn vậy. Thế nhưng, hầu hết thời gian, “quý cô” đỏng đảnh này chỉ toàn vả vào mặt bố, nhưng bố vẫn luôn thuỷ chung với nàng. Bố yêu mảnh đất này.
Tôi ư? Tôi có thể sống thiếu nó. Tôi ưng một thanh gươm hơn một lưỡi hái cắt cỏ, một con chiến mã cao quý hơn là một con bò. Tôi muốn lên đường săn tìm, chiến đấu với lũ người khổng lồ, giành lấy vàng bạc châu báu. Sau đó tôi sẽ chẳng bao giờ phải vắt sữa bò hay thu hoạch một vụ mùa trong một ngày nóng nực nào nữa.
Tôi nhìn về phía căn nhà, nơi mẹ đang phơi đồ giặt lên dây. Annabella ríu rít lượn quanh mẹ như một con bướm, hai bím tóc nhảy tưng tưng trên vai nó, vô tư như chẳng hề có mối bận tâm nào tới thế giới này, cho đến khi...
“Eo ơiiiii!”, Annabella ré lên, điên cuồng giũ giũ tạp dề. Một con châu chấu to tướng nhảy vọt ra ngoài và biến mất trong bụi cỏ rậm rạp.
Tôi cố nén một tiếng cười. Annabella là em gái tôi, kém tôi bốn tuổi. Tôi đoán là khi tôi khoảng chừng ba tuổi, mẹ đã chấp nhận rằng tôi là thành phần vô phương cải tạo nên đã cố thử lần nữa, huy động tất cả sự đề phòng để mọi chuyện không đi vào vết xe đổ thêm một lần nào. Đầu tiên, bà đúc được một cô con gái, và thứ hai, bà không cho phép bố đặt tên cho con bé, hay phát ngôn bất cứ điều gì liên quan đến sự vĩ đại nữa. Con bé là gái cưng ngọt ngào của Mẹ.
Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Annabella lúc con bé vừa chào đời, đỏ hỏn, trọc lốc và chẳng có răng lợi gì. Mẹ cưng nựng con bé như thể cuối cùng bà đã có được điều gì đó mình hằng ao ước. Một cái bị thịt chán ốm không biết cắn, hoặc thậm chí là di chuyển.
“Làm việc tiếp đi, Jack,” bố nhắc nhở.
Tôi thở dài. Bố lại gặt và tôi lại gom-và-buộc. Làm việc, làm việc, làm việc. Chán ngắt, chán ngắt, chán ngắt. Tôi toan giả vờ bị ốm để được ngồi nghỉ.
Nhưng may mắn làm sao! Ai đó đã giúp tôi làm gián đoạn công việc. Mẹ đang hối hả tiến lại phía chúng tôi. Annabella nhảy tung tăng một bên, và bên kia là bà hàng xóm gần nhà tôi nhất, nhưng chắc chắn không phải là người bạn thân thiết nhất, cô Lettie Nettle.
Lúc này trông bà ta không vui vẻ gì cho cam. Đôi lông mày nhíu lại, những nếp nhăn hai bên khóe miệng trễ xuống quanh cằm nom như một con chó săn mặt buồn, tuy nhiên bà ta lại là một con chó săn đang giận dữ. Bà trừng trừng nhìn tôi. Mẹ lo lắng vặn xoắn chiếc tạp dề trong đôi bàn tay.
Tôi gãi đầu và lục lại trí óc. Gần đây tôi có tặng cô Lettie này trò chơi khăm nào không nhỉ? Tôi không nghĩ thế...
Bố ngước nhìn lên và thôi huýt sáo. Ông lau trán bằng một chiếc khăn tay và liếc tôi, như thể đã biết trước chuyện sắp xảy ra.
“Ngày mới tốt lành, cô Lettie,” bố nói.
“Đừng có chúc ‘ngày mới tốt lành’ với tôi. Ngày hôm nay vô cùng tồi tệ,” cô Lettie đáp.
“Ồ? Có chuyện gì thế?”
“Bắp cải của tôi bị ăn trộm.”
“Ăn trộm ư?”
“Phải. Ăn trộm. Tất cả số đó.”
Niềm hạnh phúc và tự hào của cô Lettie chính là vườn bắp cải của mình. Chúng luôn luôn giành giải nhất trong cuộc thi rau củ quả tại Lễ hội Mùa màng. Hễ có đợt sương giá nào đến sớm, cô Lettie lại đắp chăn cho lũ bắp cải. Tôi thậm chí còn nghe thấy bà ta hát ru cho chúng.
“Ôi trời, đúng là một bi kịch,” bố nói. “Chúng tôi luôn luôn trông đợi những cây bắp cải xinh đẹp, mập mạp của cô.”
“Bi kịch ư? Đây không phải là bi kịch, mà là một vụ trộm cắp!”, cô Lettie lại quắc mắt nhìn tôi. Tôi chớp chớp mắt.
“Bà ấy tin Jack đã lấy trộm chúng,” mẹ nói.
Annabella mỉm cười tự mãn. Con bé luôn thích thú mỗi khi thấy tôi gặp rắc rối. Tôi nhìn quanh kiếm một con bọ để bỏ lên đầu nó.
“Gượm đã, cô Lettie,” bố nói. “Điều gì đã khiến cho bà nghĩ Jack có liên quan đến vườn bắp cải bị mất tích nhà bà?”
Cô Lettie Nettle trợn mắt ngó bố như thể ông bị ngớ ngẩn. “Bởi vì thằng nhãi luôn luôn có liên quan đến mọi việc. Nhớ khi nó mang túi đường đến cho tôi không? Tôi cứ nghĩ cái túi đầy ắp đường trắng tinh, ngọt ngào, cho đến khi phát hiện trong đó toàn là muối!”
Ha! Tôi quên béng mất vụ tráo đường bằng muối đấy. Rắn rết cóc nhái ơi, cái ánh nhìn trên gương mặt bà ta khi ngoạm một miếng bánh pút- đinh mận mặn chát thật là khó tin! Tôi chưa bao giờ biết rằng một gương mặt có thể xoắn vặn theo nhiều hướng đến thế.
“Tôi đã suýt chết vì nghẹn!”, cô Lettie nói. “Và không ai có thể quên được cái ngày thằng nhãi ăn trộm... ăn trộm đồ lót của tôi và treo chúng giữa thanh thiên bạch nhật!” Cô Lettie tím lịm như một cây bắp cải tím.
“Tôi nhớ chứ,” bố đáp một cách nghiêm trang, nhưng tôi dám cược là ông đang cắn chặt má trong để cố nhịn cười. “Tôi cũng nhớ rằng Jack đã thú nhận toàn bộ tội lỗi và chịu phạt. Nó là một thằng bé trung thực. Vì vậy tại sao chúng ta không hỏi thẳng nó. “Jack, con trai à, con có biết tí gì về vườn bắp cải của cô Lettie đây không?”
Tôi lắc đầu, “Không, thưa bố.”
“Thằng quỷ con dối trá!” Cô Lettie kêu lên. “Việc này có quá nhiều dấu hiệu chống lại mày!”
“Cháu không hề đặt chân lên vườn nhà bà! Cháu thậm chí còn không thích bắp cải của bà.”
“Việc đó đúng đấy,” bố tán thành. “Jack nhà tôi không thích bất cứ thứ gì dính một tí màu xanh. Tôi vẫn nhớ mình từng cố gắng cho nó ăn một ít đậu xanh hồi còn bé, và nó trát tất cả chỗ đậu lên khắp mặt tôi.” Bố cười khúc khích. Cô Lettie thì không.
“Nó không còn là một đứa bé nữa,” bà ta nói. “Nó là một thằng đại dối trá, trộm cắp, lươn lẹo, hư hỏng và...”
“Nếu Jack đã nói nó không làm điều đó, thì nghĩa là nó không làm.” Lần này đến lượt mẹ lên tiếng, gương mặt nghiêm nghị như một lời tuyên thệ. Tôi cố nén một tiếng thở hắt đầy nhẹ nhõm. Mẹ không thường xuyên bênh vực tôi, nhưng nếu bà bảo tôi vô tội, nghĩa là tôi vô tội. Lời nói của bà là sự thật, là luật pháp, và tất cả mọi người đều biết điều đó, kể cả cô Lettie Nettie.
Mặt Cô Lettie nhăn tít lại. “Thế thì ai, ai đã lấy bắp cải của tôi?”
o O o
Đó là một điều bí ẩn, và ở trong một ngôi làng nhỏ luôn đói khát những điều bí ẩn thì tin tức lan truyền đi rất nhanh. Đến giữa trưa, cả làng đã tụ tập đông đủ để điều tra vườn bắp cải nhà cô Lettie. Quả là một đống hỗn độn! Chỗ này đùn lên từng ụ đất thù lù, chỗ kia lại lỗ chỗ những cái hố sâu hoắm. Vài cái cây đổ ngổn ngang, bị tước đến tận rễ. Mười ba đứa trẻ nhà bà góa Francis biến nó thành một cái sân chơi, trượt xuống khỏi những ụ đất và nhảy vào những cái rãnh mới đào. Chúng chẳng hề bận tâm đến vận rủi của ai sất.
“Trời đất, trời đất ơi,” ông Baker Baker lẩm bẩm. Không nhầm đâu, tên ông ấy là Baker Baker, trước hết vì tên ông ấy chính xác là Baker, và thứ nữa là bởi ông đích thị là một người thợ làm bánh: bánh mì, bánh vòng và bánh nướng. Ông kể rằng cha ông đặt tên ông như vậy vì muốn nhấn mạnh nghề làm bánh của con mình sau này. Nó cũng tạo ra cho ông một thói quen thích nói lặp từ. “Ai đã gây nên cơ sự khủng khiếp, khủng khiếp này?”
Vài ánh mắt ngờ vực ném về phía tôi. Có lẽ họ đang nhớ đến chuyện tôi nổi lửa thiêu rụi xưởng của ông thợ rèn vài tuần trước, mặc dù hoàn toàn không phải do tôi cố tình. Tôi chỉ muốn thắp lên ngọn đuốc lớn cho một cuộc săn vĩ đại thôi mà.
“Jack không làm chuyện đó đâu,” bố nói. “Tôi có thể làm chứng cho con tôi.”
“Tôi nghe thấy vài tiếng sấm đêm qua,” Horace nói, “khiến Cindy cứ trăn trở, trằn trọc mãi.” Cindy là con lợn cảnh của Horace. Bác ta mang nó đi mọi nơi và trò chuyện tâm tình cùng nó như thể con lợn là người thật vậy. “Có lẽ sét đã đánh trúng khu vườn của bà và hun khô tất cả số bắp cải.”
“Ông có thấy cây bắp cải khô nào ở đây không vậy?” Cô Lettie đốp lại. “Chúng biến mất cả rồi! Bị nhổ tận gốc! Bị ăn cắp!”
“Hay là thú hoang?” Horace gợi ý.
“Có thể chính là lũ lợn béo nhà ông đấy,” cô Lettie chì chiết. “Ông lúc nào cũng để đám lợn ấy giày xéo vào vườn bắp cải của tôi!”
“Cindy không ăn bắp cải của bà đâu, phải không, cô bé?”
Ụt ịt, khụt khịt.
“Thấy chưa? Cindy là một cô bé ngoan.”
Cô Lettie cũng khụt khịt mũi.
“Tôi cá là phải nguyên một đàn gia súc mới có thể làm được điều này, đừng nói mấy con lợn,” bố nhận xét.
“Tôi bảo mọi người rồi, đó là do cơn bão,” Horace nói. “Các vị không nghe thấy nó sao?”
Có những tiếng lầm rầm tán đồng. Vụ mùa đến mang theo rất nhiều cơn bão - bão mưa, bão gió và cả bão sấm chớp - bất kỳ cơn bão nào trong số chúng cũng đều có thể phá hủy cả một ngôi làng.
“Nhưng loại bão nào mà chỉ cày nát có một cánh đồng thôi vậy?”, ai đó hỏi.
“Không có cơn bão nào cả,” một giọng nói khác cất lên. “Tôi biết ai ăn trộm bắp cải của bà.”
Sự yên lặng đột ngột bao phủ khi một người đàn ông khập khiễng đi vào giữa vòng tròn, kéo theo sau chiếc xe hai bánh ọp ẹp. Đó là Jaber, tay thợ hàn nồi chỉ còn một chân. Cái chân kia của ông ta là một khúc gỗ trầy xước chằng chịt từ đầu gối trở xuống, theo mỗi bước chân của ông ta, khúc gỗ lại tạo nên những tiếng thịch.
Thịch. Cót két. Thịch. Cót két.
Tôi mới chỉ nhìn thấy Jaber vài lần trước đây, nhưng tôi nhớ cái chân gỗ của ông ta. Jaber không sống ở trong làng, mà lang thang nay đây mai đó, hàn chữa nồi niêu, dụng cụ nấu ăn cho mọi người. Ông ta cũng thường mang tới những chiếc nồi niêu mới từ các ngôi làng khác, cùng với một vài câu chuyện quá là khó tin, ngay cả đối với trí tưởng tượng của tôi. Như là câu chuyện về lũ lợn sống trong các ngôi nhà, hay cô gái tới dự vũ hội hoàng gia trong một quả bí ngô kéo bằng những con chuột nhắt và thằn lằn.
Được rồi, có lẽ Jaber hơi dở người một chút, nhưng cô Lettie Nettle, trong cơn tuyệt vọng, luôn sẵn lòng chờ nghe câu trả lời từ bất cứ người nào, kể cả một ông thợ hàn nồi què giò điên khùng.
“Là ai cơ?”, bà ấy hỏi. “Ông nhìn thấy ai ăn cắp bắp cải của tôi?”
“Phải thưa bà, tôi có thấy,” Jaber đáp.
“Vậy ư? Đó là ai? Hãy vạch mặt tên trộm!”
“Đó là lũ người khổng lồ,” Jaber đáp. “Bọn hắn đã lấy trộm bắp cải của bà.”
Mọi người sững sờ như hóa đá.
Người khổng lồ.
Ba tiếng ấy chớp lấy sự chú ý của tôi như một mẩu vụn pho-mát mời gọi một con chuột đói.
“Người khổng lồ ư?”, cô Lettie hỏi. “Ông vừa nói bọn người khổng lồ đã lấy bắp cải của tôi sao?”
“Vâng thưa bà,” Jaber đáp. “Chúng đến vào giữa đêm và nhổ bắp cải khỏi khu vườn của bà.”
Những tiếng rì rầm và thì thào lan truyền khắp đám dân làng.
“Điều này có thể thật sao?”, ai đó hỏi.
“Không phải đâu.”
“Chuyện tào lao,” mẹ lẩm bẩm.
“Thế chúng đang ở đâu?”, cô Lettie hỏi. “Chúng đã đi đường nào?” Chả biết có phải khổng lồ hay không, trông bà cũng như thể đang bừng bừng khí thế sẵn sàng theo dấu và hạ gục chúng bằng một cây cuốc, đặng chúng chịu trả những cây bắp cải quý giá mới thôi.
Jaber trỏ thẳng lên trên. “Trên trời. Những người khổng lồ sống trên trời.”
Đám dân làng vỡ òa một tràng cười dữ dội. Kể cả tôi cũng phải thừa nhận cái ý tưởng người khổng lồ sống trên trời thật là lố bịch. Có lẽ Jaber đã nhầm lẫn. Có thể ông ta đã nhìn thấy chúng trèo xuống từ một vách đá hoặc một ngọn núi rất cao, mà đôi khi trông giống như bị lẫn vào nền trời. Cũng không quá khó tin.
“Là thật! Là thật đấy!” Jaber kêu lên át đi tiếng cười. “Tôi đã nhìn thấy chúng xé rách bầu trời bằng một tia chớp, và bọn chúng bước đi ầm, ầm, ẦM!”
“Anh ta đang mô tả cơn bão đêm qua đấy thôi,” Horace nói. “Chẳng phải tôi đã nói nó là một cơn bão đó sao?”
“Không phải bão đâu!” Jaber gào lên. “Lũ khổng lồ, chúng đã cướp bóc khắp nơi trên đất nước này. Tôi vừa đi qua một ngôi làng bị lũ khổng lồ càn quét. Chúng cướp đi mọi thứ. Bò, gà, toàn bộ lương thực trên những cánh đồng, kể cả nhà cửa và con người bên trong! Cả một ngôi làng nhộn nhịp đã biến mất như chưa từng tồn tại!”
“Có thể nó chưa bao giờ ở đó,” mẹ nói.
“Ông muốn biết ta đang nghĩ gì không?” Cô Lettie nói. “Ta nghĩ chính ông là kẻ ăn cắp bắp cải của ta!” Bà chỉ một ngón tay xương xẩu vào Jaber.
“Tôi á?” Jaber kêu lên.
“Phải, là ông! Ông có lẽ đã tẩu tán chỗ bắp cải của ta bằng một chiếc xe kéo để đem sang làng khác bán, và giờ thì lại bốc phét với chúng ta những câu chuyện hoang đường về bọn khổng lồ rơi xuống từ trên trời! Ông chẳng là gì khác hơn ngoài một tên bịp bợm, chính ông đó!”
Mặt Jaber chuyển sang đỏ tía. Mắt ông ta đảo lên đảo xuống, sang trái sang phải. “Bà nghĩ đó là tôi? Bà nghĩ tôi ăn trộm bắp cải của bà ư? Tôi không hề ăn cắp! Bọn khổng lồ sẽ quay trở lại, và nếu như không nghiền bà nát bét dưới bàn chân, thì chúng cũng tóm lấy bà và nhai xương rau ráu thôi!” Jaber thực sự đang nổi cơn điên. Nước miếng văng tung tóe khỏi miệng ông ta, đôi tay thì vung vẩy điên loạn đến mức ông ta mất thăng bằng và ngã phịch xuống mặt đất. Chẳng có ai giúp ông ta đứng dậy. Họ bỏ đi, cười hô hố vào Jaber và câu chuyện điên khùng của ông ta.
“Đúng là gã quái gở,” Horace nói.
“Còn quái gở hơn cả loại bánh Nutty-Nutty của tôi,” ông Baker Baker đế thêm.
“Hắn chẳng là gì khác hơn một thằng trộm bắp cải phét lác tầm thường!” Cô Lettie chốt hạ.
“Thôi nào, Jack,” bố gọi. “Trở lại làm việc thôi.”
“Con tới đây,” tôi đáp, nhưng ngay sau khi bố quay đi, tôi bước về phía Jaber. Ông ta vẫn ngồi dưới mặt đất bẩn, tự lảm nhảm nói chuyện với mình.
“Chúng sẽ lấy đi bò, lợn, nhà cửa, cải bắp và con cái của các người. Chúng sẽ cướp cả đôi chân của các người nữa. Nhai chúng đến tận xương, như nhai thịt gà vậy.”
“Đó có phải là điều đã xảy ra với chân của ông không?” tôi hỏi. “Một tên khổng lồ đã ăn chúng ư?”
Jaber ngước lên nhìn tôi. Tôi chìa ra một bàn tay. Ông ta đánh giá tôi, băn khoăn không biết liệu có phải tôi đang cố chơi xỏ mình hay không, nhưng trong tất cả những vố đã chơi mọi người, tôi nghĩ thật sự quá thấp kém khi lừa cả một người đàn ông chỉ có một chân đang ngồi bệt trên mặt đất. Jaber nắm lấy tay tôi và tôi kéo ông ta dậy. Ông ta hơi nhảy lò cò một chút cho đến khi lấy lại được thăng bằng trên đôi chân. “Cảm ơn cậu bé,” ông ta nói, phủi đất cát khỏi trang phục rách nát của mình.
“Chúng trông như thế nào?” Tôi hỏi.
“Ai?”
“Bọn khổng lồ.”
“To lớn,” ông ta đáp.
“Và? Gì nữa?”
“Ầm ĩ.”
Tôi khoanh tay. “Ông đã thực sự nhìn thấy một tên khổng lồ bao giờ chưa? Hay là chỉ đang cố bịp bợm, ngáng chân mọi người?” Tôi ngưng bặt. Lẽ ra tôi không nên sử dụng lối đó. Jaber chỉ nhìn tôi đăm đăm, rồi lại ngước lên nhìn trời.
“Trông như đất vậy. Sẽ có một cơn mưa đất sớm thôi.”
“Đất ư? Tại sao lại có thể mưa ra đất?”
Giờ Jaber lại nhìn vào tôi, đôi mắt tối sầm và bí ẩn. “Bên trên cái màn xanh xanh kia có một vùng đất khác. Vùng đất thì đầy đất, chứ còn gì. Vì vậy khi đám khổng lồ mở cửa thế giới của họ để đột nhập vào thế giới của chúng ta, cậu nghĩ điều gì sẽ xảy ra? Hãy nhớ lấy lời tôi, nếu bắt đầu thấy mưa đất, hãy chạy thật nhanh để giữ lấy cái mạng mình.”
Không nói thêm một lời, ông ta nhặt lấy càng xe và khập khiễng đi về phía cuối con đường, ư ử hát một bài ca về một thằng bé Tommy nào đó.
Tommy, Tommy, Tommy
Láu cá, bốc phét, gan lì, tinh ranh
Tối ngày gây chuyện loanh quanh
Chọc bà chủ nổi tam bành bao phen.
Cơn náo động đã qua, tôi bước về nhà, trở lại với cánh đồng và công việc buồn tẻ. Thỉnh thoảng tôi lại ngẩng lên nhìn trời. Bầu trời trong veo xanh biếc, không một gợn mây, hay một tên khổng lồ trong tầm mắt.
“Đừng có nhìn lên trời nữa,” bố quở.
Nhưng tôi không thể cưỡng lại được. Tôi lại nhìn lên một lần nữa, và thứ gì đó rơi vào mắt tôi.
Chỉ là một vài hạt bụi bay lả tả.