Never get tired of doing little things for others. Sometimes those little things occupy the biggest part of their hearts.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Lê Văn Hòe
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 2
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 11
Cập nhật: 2020-10-08 20:41:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Tại Sao Bình Định Vương Lê Lợi Phải 10 Năm Mới Đuổi Được Giặc Minh
hiến-lược chiến-thuật của Lê-Lợi
Sau khi đem quân sang đánh nước Nam, bắt sống cha con Hồ-quí-Ly, giặc Minh cướp lấy nước ta, chia làm quận, huyện mà đô-hộ.
Cuộc đô-hộ nhà Minh khởi từ năm 1414.
Thì đến năm 1418, tức là bốn năm sau, người anh-hùng đất Lam-sơn là Lê-Lợi dấy binh khởi nghĩa, đánh giặc Minh, định khôi phục lại đất nước.
Biết rằng quân giặc đông và mạnh, giặc lại nhiều chân tay là những tên bán nước theo giặc, và xét địa thế nước nhà, Bình-định-Vương Lê-Lợi đã biết áp dụng một chiến-lược, một chiến-thuật tối-ưu thích nghi, và rất hợp với tình thế quân mình và địa-thế đất nước.
Chiến-lược ấy là chiến-lược « ĐÁNH LÂU DÀI, ĐÁNH DẺO DAI, ĐÁNH MÃI KỲ THẮNG » mới thôi, không cầu chóng việc, không vụ « tốc quyết ».
Chiến-thuật là chiến-thuật du-kích, phục-kích vận động chiến, nhất là phục-kích.
Những trận Lạc-thủy (1418), Nga-lạc (1419), Lỗi-giang (1424), phá quân Trần-Trí ở Ba-Lậm (1421), lấy Nghệ-an (1424), lấy Tân-Bình, Thuận-Hóa (1425), đều thủ thắng vì chiến-thuật phục-kích cả.
Đến ngay những trận lớn có ảnh-hưởng quyết định như trận Tụy-Động (1426) đại phá quân Vương-Thông giết 5 vạn, bắt sống 1 vạn giặc, và trận Chi-Lăng giết được danh tướng của giặc là Liễu-Thăng cũng đều mang nặng thành phần du-kích, phục-kích, tuy là những trận vận động chiến đại qui mô. Và chính nhờ phục-kích chiến mà đã thủ thắng một cách vẻ vang.
So với nguyên-tắc dụng binh của Hưng-đạo-Vương đời Trần, có thể cho là nguyên-tắc dùng binh muôn thuở ở đất nước ta « QUÂN CỐT GIỎI KHÔNG CỐT NHIỀU, LẤY ĐOẢN QUÂN CHỐNG VỚI TRÀNG TRẬN » thì chiến-thuật, chiến-lược của Lê-Lợi không sai lầm chỗ nào. Sự chỉ đạo tác chiến của Lê-Lợi có thể cho là rất sáng suốt và phải phép. Đối với kẻ địch chỉ cậy quân đông tướng nhiều và muốn chóng việc, thì ngoài chiến-lược, chiến-thuật ấy ra, không thể chống nổi.
Nghĩa là chiến-lược, chiến-thuật của vua Lê không có chỗ nào lầm lẫn đáng chê, ngoài một vài trận nhỏ vì khinh địch và muốn áp dụng trận địa chiến mà thiệt tướng hao quân, như trận My-động, Đinh-Lễ thiệt mạng.
Lê-Lợi thi ân nghĩa cho nhân-dân
Bình-định-Vương luôn luôn lấy nhân-nghĩa để chống lại chính sách bạo tàn của giặc Minh mục đích là để thu phục nhân-tâm, củ hợp nhân dân chống giặc.
Vua Lê ra lịnh cho các quan lại:
1. Không được vô tình, tức là không được lừng khừng với tình thế, phải sốt sắng đánh giặc và giúp dân, cứu dân.
2. Không được khi-mạn tức là không được dối vua lừa dân.
3. Không được gian dâm tức là không được hiếp tróc nhân dân.
Và bình nhật đối đãi với quân lính không được giết càn, trừ khi ra trận mà phạm kỷ-luật thì mới được xử theo quân-pháp.
Binh lính mà phạm tội trộm cắp của nhân dân, gian dâm hiếp tróc nhân-dân là bị tội chém đầu.
Dân sự bị loạn phải lưu tán đi chỗ khác, khi hết giặc cho về nguyên quán làm ăn như xưa.
Vợ con gia quyến những người ra làm quan với giặc Minh, vua Lê cũng không giết hại. Ngài ra lệ cho chuộc tội bằng tiền, theo tỷ lệ sau đây:
- Vợ con quan bố chính thì phải chuộc 70 quan.
- Vợ con những sinh viên và thổ quan thì chuộc 10 quan.
- Con trai, con gái, đầy tớ đi ở thì phải chuộc 5 quan.
Ngay đối với những tù binh tức là binh lính nhà Minh ra hàng đều được nhà Vua đưa về các nơi nuôi nấng tử tế.
Tóm lại lúc nào nhà Vua cũng lấy việc thi ân nghĩa cho dân, đánh giặc cứu dân làm cốt. Như thế tất nhiên là lòng dân đều hướng về Ngài và Ngài tới đâu tất được nhân dân hưởng ứng và ủng hộ đến đấy. Thí dụ như tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425) vua đem binh về thành Nghệ-An, đi đến làng Đa-Lôi ở huyện Thổ-Du (nay là huyện Thanh-Chương) dân sự đưa trâu, rượu ra đón rước rất đông. Già trẻ đều sung sướng nói: « KHÔNG NGỜ NGÀY NAY LẠI THẤY UY NGHI NƯỚC CŨ ».
Và quan chức làm với giặc Minh như quan Tri-Phủ Ngọc-Ma tên là Cầm-Quý cũng tự nguyện đem quân về giúp.
Bởi vì lòng người ai cũng căm-thù giặc Minh.
Nhân dân căm thù giặc Minh
Không cần phải có đạo hịch của vua Lê-Lợi phát ra kể tội giặc Minh, chính bổn thân nhân-dân đã căm thù giặc Minh đến cốt tủy.
Người dân xưa nay vốn dễ bảo và dễ tha thứ. Nhưng một khi chạm đến quyền lợi thiết thân của họ, thì người dân phát khùng ngay, và sẵn sàng đứng dậy chống lại.
Vậy thì quyền lợi của nhân dân đã bị giặc Minh động chạm đến như thế nào?
Thuế khóa
- Mỗi mẫu ruộng phải nộp 5 thăng thóc.
- Mỗi mẫu bãi dâu phải nộp 1 lạng tơ.
- Mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.
- Muối dân nấu được bao nhiêu hằng tháng phải đưa vào tòa Đễ-Cử, đợi khi tòa Bố-chính (người Minh) khám xong đánh thuế rồi mới được bán. Ai nấu muối lậu hay bán muối lậu cũng phải tội ngang nhau.
Ở châu, huyện nào cũng có đặt tòa Thuế-khóa để chuyên việc thu thuế.
NHẬN XÉT. – So với đời Trần thì thuế ruộng kể cũng không nặng lắm. (Sử chép nhà Trần thu mỗi mẫu ruộng 100 thăng thóc thuế). Song thuế bãi dâu xét ra quá nặng, nhất là lại thu cả thuế tơ. Thuế muối nhà Trần cũng có thu, nhưng cách thu thuế và kiểm soát giặc Minh làm gắt gao cẩn thận hơn, nên dù sao nhân dân cũng lấy làm khó thở.
Sưu dịch
Thuế má đã vậy, đến việc sưu-dịch mới càng nặng nề:
- Nhân dân phải bắt làm phu đi khai các mỏ quặng.
- Dân miền núi rừng thì phải vào rừng tìm ngà voi, sừng tê, vượn, chim trả, rắn, trăn, hươu nai để dâng giặc Minh đem về Tàu.
- Dân miền bể thì phải xuống bể mò ngọc trai, đồi mồi, san hô, xà cừ…
- Các lâm sản như hồ tiêu, hương liệu cũng phải hằng năm cống nộp.
NHẬN XÉT. – Đã gọi là sưu dịch (corvée) thì tức là phải làm không có công xá gì, may được miếng cơm ăn là tốt. Dân ta vốn siêng-năng chịu khó nhưng siêng năng chịu khó đến đâu cũng không bao giờ thích làm việc công không. Nhất là phải làm những công việc nặng nhọc khó khăn quá sức mình như bắt buộc phải tìm cho được ngọc trai, voi trắng, chim trả, hươu nai, trăn, rắn…
Cho nên những việc sưu dịch này nhân dân coi như cực hình, nhất là lại phải hãm mình vào nơi rừng thiêng nước độc.
Binh dịch
Dân ta xưa nay vẫn yêu làng, không thích dọn khỏi làng. Tàn tích sót lại của thời phong kiến đời Lý, Trần (con cái thường dân suốt đời phải đi lính) đã làm nhân dân chán ghét việc đi lính. Cứ coi câu ca dao dưới này thì biết tâm-lý dân ta thuở ấy đối với việc đi lính như thế nào:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
…Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre chặt gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Đi lính đã hầu như là một cái tội. Đời Trần, dân mấy làng Bàng-Hà, Ba-Điểm vì hàng giặc Nguyên trước tiên nên sau đều phải đi lính suốt làng. Và mấy tên gian-thần theo giặc sau cùng phải tội-đồ làm lính. Ngay thời giặc Minh đô-hộ, những người không thẻ tùy-thân hay thẻ không đúng với tên tuổi ghi trong sổ đều phải tội… đi lính.
Ấy vậy mà giặc Minh bắt buộc nhân-dân mỗi hộ (tức mỗi nhà, mỗi gia đình) phải 3 người đi lính. Từ Thanh-Nghệ trở vào dân thưa thì mỗi hộ phải 2 người đi lính. Nghĩa là nhà nào cũng phải có người đi lính.
Những người ở nhà thì phải cắt lượt nhau ra canh các đồn binh lập ở gần làng hay trong làng.
NHẬN XÉT. – Việc bắt buộc đi lính này, thời bấy giờ, nhân dân ghê sợ không khác gì việc sưu dịch. Từ trước, nước ta vẫn có lệ bắt lính nhưng không bao giờ đến nỗi KHE KHẮT MỘT NHÀ HAI, BA NGƯỜI PHẢI ĐI LÍNH NHƯ THỜI GIẶC MINH.
Trong bài BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO có câu: « THẦN NHÂN CHI SỞ CÔNG PHẪN », nghĩa là THẦN VÀ NGƯỜU ĐỀU LẤY LÀM CĂM THÙ.
Thật không nói ngoa vậy.
Tại sao Lê-Lợi phải đánh trong mười năm mới đuổi được giặc?
Thế là ta thấy:
1. Chiến-lược, chiến-thuật của Lê-Lợi rất thích nghi với tình thế.
2. Nhân dân đều qui phục và tán thành chủ trương đánh giặc cứu dân của Lê-Lợi.
3. Nhân dân hết sức căm thù giặc Minh, luôn luôn muốn thoát khỏi nanh vuốt giặc, tất nhiên sẵn sàng giết giặc và làm tai mắt tay chân cho vị anh hùng cứu quốc họ Lê.
Nghĩa là Lê-Lợi có đủ điều-kiện chủ quan và khách quan để thắng giặc.
Vậy mà Hưng-đạo-Vương xưa trong 2 năm trời phá luôn được 2 chuyến 80 vạn quân Nguyên. Sao đến Lê-Lợi lại phải chật vật, lúc phải rút lui, lúc phải cầu hòa, đánh nhau vất vả cực nhọc trong mười năm trời đằng-đẵng mới đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi?
Mà có phải Lê-Lợi không biết vận-động nhân dân đâu?
- Nào phát hịch đi khắp nước kể tội giặc Minh.
- Nào yết bảng hiệu triệu anh hùng hào kiệt.
- Nào dùng mánh lới cho sâu đục lá cây thành chữ « LÊ-LỢI VI QUÂN, NGUYỄN-TRÃI VI THẦN » để vận động nhân-tâm.
Và cũng không phải là chỉ đạo chiến tranh non tay, Lê-Lợi đã biết lập chiến-khu, đã biết lập căn-cứ địa, đã biết áp dụng chiến-thuật phục-kích, du-kích và vận động chiến.
Trái lại vua Lê chỉ đạo rất sáng suốt. Cứ xét hai việc sau đây, thì đủ rõ:
Bấy giờ quân ta đang vây thành Đông-Quan (Hà-Nội) thì có tin viện binh của Minh kéo sang do bọn Liễu-Thăng, Lương-Minh, Thôi-Tụ, toàn những danh tướng của Minh chỉ huy. Tướng sĩ phần nhiều khuyên Bình-định-Vương Lê-Lợi nên đánh ngay thành Đông-Quan để giặc Minh mất căn cứ địa: « Vương không nghe, bảo rằng việc đánh thành là hạ sách. Nay ta cứ dưỡng uy súc nhuệ để đợi địch đến thì đánh. Hễ viện binh mà thua thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải là một việc mà được hai không? »
Rồi vương lại ra lệnh cho nhân-dân ở các tỉnh Lạng-Giang, Bắc-Giang, Tam-Đái, Tuyên-Quang, Qui-Hóa: DI CƯ, TẢN CƯ ĐI NƠI KHÁC, BỎ ĐỒNG KHÔNG LÀNG TRỐNG ĐỂ TRÁNH GIẶC MINH.
Và cứ coi cái kết-quả trận Chi-Lăng chém được Liễu-Thăng trong một trận phục-kích, thì đủ biết tài mưu lược tính toán như thần của vua Lê.
Vậy thì vì cớ gì mà phải chật-vật trong mười năm trời vua Lê mới đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi? Điều đó không phải là không do nhiều nguyên-nhân, nhiều điều-kiện khách quan, những nguyên nhân đó ở ngoài ý muốn của vua Lê, những điều kiện khách quan ấy, vua Lê phải nhờ thời-gian mới làm chủ được.
Nguyên do chính là nếu Hưng-đạo-Vương đánh giặc « ồ-ạt hùng-hổ mới tới » thì Bình-định-Vương phải đương đầu với giặc ở ngay trong nhà.
Quân giặc ấy trong bốn năm trời đã « mọc rễ » được ở đất nước ta rất là sâu sắc, chắc chắn. Quân giặc ấy đã tổ chức được nhân dân và quân đội một cách rất tinh tế, đã lung lạc được nhân-tâm, đã kiểm soát được từng hành vi cử động nhỏ nhặt của người dân từ thành thị tới hang cùng ngõ hẻm. Tóm lại, quân giặc trong nhà đã thực hiện và hoàn thành được một chế độ đô-hộ có thể cho là khoa-học nhất, chặt chẽ nhất, khắc nghiệt nhất, hoàn-bị nhất trong lịch sử cổ kim đông tây.
Trước khi mất, Hưng-đạo-Vương có trối lại rằng: « …Khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cầu lấy mau việc, thế ấy mới khó trị… »
Giặc Minh tuy vẫn tham của dân, song nó đã đặt được cơ sở vững chắc ở đất nước mình rồi, nên dù sao Lê-Lợi cũng phải đứng trước cái thế sau cùng tức là cái thế Hưng-đạo-Vương bảo là « khó trị ».
Chế-độ đô-hộ của giặc Minh hoàn bị và khắc nghiệt như thế nào?
Có xét kỹ chính-sách đô-hộ của giặc Minh, có xét kỹ cách tổ chức hành chính và quân sự của giặc Minh, thì ta mới thấy cái tài dẹp loạn cứu dân của vua Lê-Lợi. Và ta mới thấy rằng cái thời-gian mười năm đánh đuổi giặc Minh tuy thế còn là một thời-gian tương đối mau chóng, ngắn-ngủi so với thế-lực của giặc Minh thời bấy giờ.
Đại khái ta có thể phân tích chế độ đô-hộ của giặc Minh ra làm mấy chính sách như sau đây:
Chia để trị
Cũng như hết thảy các đế-quốc thực-dân khác trên thế-giới xưa nay, sau khi thôn-tính nước ta, nhà Minh trước tiên lo việc chia để trị.
Trước tiên là chia nước ta thành 17 phủ và 5 châu như các châu phủ của nội địa Trung Hoa:
- Mười bảy phủ ấy là: Giao-Châu, Bắc-Giang, Lạng-Giang, Lạng-Sơn, Tân-An, Kiến-Xương, Phong-Hóa, Kiến-Bình, Trấn-Man, Tam-Giang, Tuyên-Hóa, Thái-Nguyên, Thanh-Hóa, Nghệ-An, Tân-Bình, Thuận-Hóa, Thăng-Hoa
- Và 5 châu là: Quảng-Oai, Tuyên-Hóa, Qui-Hóa, Gia-Bình, Diễn-Châu.
Thế là cái tên An-Nam-quốc thực tế đã bị xóa trên bản đồ. Nước ta đang ở địa vị một nước giáng xuống địa vị mấy phủ châu của nhà Minh, chứ chưa được cái vinh hạnh thành một tỉnh của Tàu. Đứng đầu việc cai trị 17 phủ và 5 châu trên, giặc Minh đặt ra Bố-chánh-ty, Án-sát-ty, Chưởng-đô-ty, do người Minh bổ sang để coi các việc hành chính, tư pháp và quân sự. Dưới các ty đó, giặc Minh thiết lập cả thảy 472 nha môn để coi việc hành chính tư pháp.
Giặc Minh thực hiện chính sách « chia để trị » từ dưới lên trên, từ gốc chí ngọn.
Thành phố, đô thị thì chia ra làm nhiều PHƯỜNG, xung quanh ngoại ô thì chia làm TƯƠNG. Ở nhà quê thì chia làm LÝ và GIÁP.
Cứ 110 HỘ (tức gia đình) hợp lại là một Lý. Cứ 10 hộ chia thành một Giáp, một Lý chia làm 10 giáp. Giáp trội hơn 10 Hộ thì cử một Lý-trưởng coi việc cả lý. Dưới Lý-trưởng, mỗi giáp có một giáp-trưởng hay giáp-thủ coi việc 10 hộ.
Lý nào cũng có sổ đinh, sổ điền kê khai rất cẩn thận, kèm theo cả địa đồ. Như vậy trong một Lý tức là làng hay 110 nhà (Hộ) có tất cả những 11 người trông nom coi sóc thường trực.
Thế là toàn quốc bị chia xẻ, bị tổ chức hoàn toàn theo ý muốn của giặc, để giặc dễ bề kiểm soát và đàn áp.
Kiểm soát và theo dõi thường xuyên
11 người trông coi và ở sát liền với 110 gia đình, tức là 1 người coi 10 nhà, tai mắt chân tay của giặc có thể nói là khắp nước, không chỗ nào là không có và lúc nào cũng sẵn sàng để nghe để nhìn và để bắt bớ. Nhất là giặc lại tổ chức cách kiểm soát, và theo dõi thường xuyên từng nhà và từng người, khiến không một hành động nhỏ nào thoát khỏi cặp mắt cú diều của giặc.
Giặc tổ chức như thế này:
- Mỗi Hộ tức gia-đình khắp nước, tỉnh cũng như quê, đều phải có một Hộ thiếp tức là bản kê khai danh sách và tuổi tác mọi người trong gia đình. Bản danh sách phải kê khai cho đúng số tuổi theo như sổ đinh, và có triện thị thực của Lý-Trưởng và được báo cáo đầy đủ lên cấp trên, mỗi nơi đều có một Hộ thiếp lưu chiểu.
- Hộ-thiếp tức là sổ gia đình hoặc danh sách những người trong gia đình.
- Nhà nào khai gian lận, thừa, thiếu hay sai tên người, sẽ bị tội.
- Ngoài ra mỗi người lại phải đem theo trong mình một cái giấy biên tên tuổi quê quán đúng như đã khai trong sổ gia đình (Hộ thiếp) và đúng như trong sổ đinh, những sổ này đều có những bản lưu chiểu tại nha môn hành chính. Hễ có người khám hỏi thì phải xuất trình giấy đó ra. Hễ giấy của ai không hợp với sổ đinh, sổ gia đình, thì người ấy phải tội… đi lính. Giấy này tức như thẻ tùy thân.
Nhà có sổ, người có thẻ, nhất cử nhất động của người dân khó lòng mà tránh thoát tai mắt của giặc giăng ra khắp nơi trong nước.
Chính sách phòng-thủ
Về binh bị, giặc Minh tổ chức cũng cẩn mật chu đáo lắm. Những nơi hiểm yếu thì đặt thành VỆ-SỞ tựa như ĐẠO QUAN BINH hoặc QUÂN KHU. Cả nước có tất cả 12 vệ-sở. Nước ta bấy giờ chia thànhh 17 phủ mà có tới 12 vệ-sở tức quân khu, thì đủ biết việc phòng-thủ tổ chức chu mật như thế nào.
Cũng vì nhiều vệ-sở như vậy mà lắm nơi đồn trú quân đội, và quân đội phải có thật nhiều. Cho nên giặc mới ra lệnh bắt mỗi Hộ phải có 3 hay 2 người đi lính.
Ngoài ra nơi nào không có vệ-sở, thì lập đồn ở những nơi hiểm đạo, bắt dân-binh ra canh gác ngày đêm, ăn cơm nhà ra canh đồn.
Về binh bị tổ chức như vậy tưởng lưới giăng ra đã kín lắm, những người nghĩa-khí muốn nổi lên làm phản khó lòng mà thoát được.
Cũng cùng theo tinh thần phòng-thủ ấy, giặc Minh tổ chức việc trạm dịch để cho việc thông tin tức và trao đổi công văn được mau chóng, lệnh ra được kịp thời.
Từ Đông-Quan (Hà-Nội) tới Gia-Lâm, Từ-Sơn thì đặt trạm chạy giấy tờ bằng ngựa. Từ huyện Chí-Linh, huyện Đông-Triều tới phủ Vạn-Ninh là nơi giáp đất Khâm-Châu nước Tàu thì đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.
Lung lạc nhân-tài
Một mặt đàn áp tinh thần nhân-dân, một mặt khác giặc Minh lo lung lạc nhân-tài để dùng làm những tay sai và do thám đắc lực.
Vì giặc Minh đã có cái kinh-nghiệm lịch sử của Trung Quốc là những anh hùng hào kiệt khởi nghĩa làm loạn hầu hết là những người biết chữ, có tài văn võ hay là những bực có sức khỏe hơn người, cho nên giặc Minh hết sức mua chuộc nhân-tài trong nước ta để thu làm tay chân của chúng.
Giặc cho tìm kiếm những bực có tài ẩn dật nơi sơn lâm, những người có tài năng đức hạnh hoặc có tài văn thơ, có trí thuật, những người giỏi toán pháp, những người nói năng hoạt bát, những người khéo chân khéo tay, những người tháo vát thạo việc, những người có nết na hiếu thảo, những người mặt mũi khôi ngôi, những người có sức vóc khỏe mạnh, những thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc… tóm lại tất cả những người có tài năng, có đức hạnh, có sức khỏe, có mặt mũi sạch sẽ, bắt cả đem sang Kim-Lăng là kinh-đô nhà Minh. Ở đấy họ bị giặc Minh huấn luyện cho chính sách đô-hộ, và cho hưởng ân huệ, rồi sau một thời-gian tung cả cho về nước, bổ cho làm quan lại để giúp việc giặc. Chẳng khác gì ngày nay người ta tung cán-bộ ra làm việc sau một thời-gian huấn luyện.
Buổi ấy hầu hết nhân dân và người có chút tài năng đều lấy làm vinh dự được giặc đưa sang Kim-Lăng để sau về nước hưởng phú quí. Chỉ có một số rất ít người có liêm sỉ không chịu ra làm quan với giặc Minh.
Thành ra hầu hết nhân-tài trong nước đều gục đầu hầu hạ giặc để mưu lấy phú quí cho bổn thân. Khi vua Lê-Lợi khởi nghĩa ở Lam-Sơn, số nhân-tài hưởng ứng rất ít.
Trong bài BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO của cụ Nguyễn-Trãi có nói đến cái tình trạng thiếu nhân-tài đó: « Ngặt vì tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy-ác thiếu người bàn bạc ».
Thật ta nước ta không hiếm tuấn-kiệt và nhân-tài đến thế. Chỉ vì phần lớn đã bị mắc vào cái mồi phú quí nhất thời của giặc Minh.
Văn hóa nô dịch và ngu dân
Ngay ngày đầu tiên đặt chân lên đất nước Nam, giặc Minh đã lo đến việc chinh phục tâm hồn người Nam bằng văn-hóa.
Chinh phục người Nam bằng võ lực thì có ngày người Nam có thể dùng võ lực phá ách nô lệ được. Chứ lấy văn-hóa mà chinh phục thì gọi là cứ vạn cổ cũng khó mà thoát khỏi tròng.
Cái ý định của giặc thâm hiểm độc ác như vậy.
Cho nên phàm sách vở gì của người Việt-Nam làm ra, giặc Minh thu vét sạch sẽ, cố ý không để lại một di-tích gì của văn-hóa Việt-nam. Rồi giặc Minh đưa sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tính Lý đại-toàn của Tống-nho chú-giải sang phát cho dân ta đọc, cố ý nhồi vào óc dân ta những tư tưởng nô lệ, yên phận, thủ thường, KÍNH THIÊN SỰ ĐẠI, những tư tưởng cố chấp, hủ bại do bọn Đạo-Học Tống-nho đã nêu lên, xuyên tạc mất cả ý nghĩa cố-hữu của Tiên nho, Tiên hiền.
Giặc nô-dịch dân ta bằng sách vở và bằng phong tục, lễ giáo nữa, muốn người Nam thành hẳn người Tàu, tư tưởng như người Tàu, sau khi nước Nam đã thành châu, phủ của nước Tàu.
Giặc bắt trai gái nước ta phải để tóc như người Tàu, không được cạo đầu như ngày trước, quần áo phải ăn bận đúng như người Tàu: áo ngắn, quần dài, cái váy như cái váy Mường (di tích của người Nam thuần túy) nhất định không được tồn tại.
Giặc bắt các phủ, châu, huyện nhất luật phải lập văn-miếu thờ Khổng-Mạnh, Chu-Trình, lập đền thờ Bách-Thần, Xã-Tắc, Sơn-Xuyên, Phong-Vân. Kiểu cách cúng tế, phục sức phải chép hệt y như thể cách cúng tế nhà Minh.
Nô-dịch dân ta như vậy chưa đủ, giặc còn làm cho dân ta ngu mê đi cho dễ sai khiến.
Chẳng những giặc bắt dân ta học Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tính Lý mà thôi, giặc lại bắt dân ta học bói toán, học bùa bèn, kinh kệ, học địa lý, học xem ngày chọn ngày, tức là bắt dân ta học những dị đoan mê tín.
Giặc cho những người giỏi bói toán, phù thủy, địa lý phương thuật… làm quan để dạy dân những môn ấy.
Giặc lại lập ta tăng cương-ti và Đạo-kỳ-ti để coi về đạo Phật, đạo Lão, sai phái đốc thúc các vị sư tăng và đạo sĩ đi truyền bá đạo Phật, đạo lão khắp dân gian.
*
Tóm lại có thể nói rằng từ thượng cổ đến nay, chưa từng có một cuộc chinh phục nào nặng nề, sâu sắc, toàn diện và khoa học tỉ mỉ hoàn bị như cuộc chinh phục nước Nam của giặc Minh. Công cuộc đô-hộ chẳng những nhằm vào chính trị hành chính mà thôi, lại hướng cả vào tư tưởng, và văn hóa đạo đức nữa. Công cuộc ấy tổ chức trong có 4 năm trời, liền bị vị anh hùng Lam-Sơn nổi lên đả phá chật vật luôn trong 10 năm mới phá nổi. Đủ biết rằng công cuộc ấy ảnh-hưởng sâu xa bền chặt đến như thế nào.
Nếu không có vua Lê-Lợi thì bây giờ nước Nam liệu có thoát khỏi là một vài quận, huyện nước Tàu không? và dân Nam ta liệu có thoát khỏi thành người Tàu không?
Mới sau 4 năm đô-hộ mà còn phải đánh trong 10 năm trời, nếu giặc đặt cuộc đô-hộ được trong 40 năm hay 400 năm thì nhất định nước Nam không bao giờ còn, và người Nam tất sẽ mất giống.
Lê-Lợi quả là vị anh-hùng dân-tộc hạng số 1
Nếu người nào căn cứ vào thời-gian đánh giặc (10 năm) của Lê-Lợi mà xét, và cho rằng tài trí của vua Lê kém tài trí của Hưng-đạo-Vương chẳng hạn, thì người ấy lầm to.
Bởi vì Hưng-đạo-Vương trước kia chỉ phải đương đầu với một mặt trận quân sự mà thôi.
Còn Lê-Lợi đã phải đương đầu cùng một lúc với mấy mặt trận cùng nặng ngang nhau:
- Mặt trận quân sự
- Mặt trận chính trị
- Mặt trận văn hóa
- Mặt trận kinh tế.
Nghĩa là cuộc kháng-chiến đời Lê nặng nề khó khăn gấp bốn lần đời Trần.
Ấy vậy mà cuối cùng, sau mười năm đánh giặc gian khổ, Lê-Lợi đã thu được toàn thắng, thì ta phải nhận rằng chiến công đời Lê oanh liệt vẻ vang không những chẳng kém mà về nhiều phương diện lại có phần hơn cả chiến công đời Trần.
Và ta có thể nhắc lại rằng thời-gian 10 năm đánh giặc của vua Lê có thể cho là tương đối ngắn ngủi mau chóng chứ chưa phải là dài lâu gì.
Bài BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO chẳng những đã làm vinh dự cho Nguyễn-Trãi, cho Lê-Lợi mà cả cho dân tộc Việt-Nam muôn đời. Chúng ta có quyền tự hào về bài Bình Ngô Đại Cáo, Bài Hịch dụ tướng sĩ chỉ làm ta thán phục Hưng-đạo-Vương mà thôi. Lòng tự hào dân tộc không được gì trong bài Hịch dụ tướng sĩ.
Chúng ta không bao giờ có ý định hạ thấp Hưng-đạo-Vương để đề cao Bình-Định-Vương. Chúng ta chỉ muốn rằng Bình-định-Vương phải được liệt vào hàng anh hùng dân tộc số 1 cũng như Hưng-đạo-Vương vậy. Vì lâu nay ta thường chỉ bị choáng lòa về chiến-công đời Trần mà hầu như coi thường chiến công đời Lê.
LÊ-VĂN-HÒE
Hưng Đạo Vương - Bình Định Vương Hưng Đạo Vương - Bình Định Vương - Lê Văn Hòe Hưng Đạo Vương - Bình Định Vương