Số lần đọc/download: 1947 / 48
Cập nhật: 2015-02-03 06:50:55 +0700
Chương 2: Sophie Bị Buộc Phải Đi Tìm Vận May
“C
ái gì?” Sophie nhìn cô em đang ngồi trên ghế đối diện. Cô bé nhìn y chang Lettie. Cô đang mặc bộ áo xanh đẹp thứ hai của Lettie, một màu xanh biếc rất hợp với cô bé. Cô có mái tóc đen và đôi mắt xanh của Lettie.
“Em là Martha,” cô em nói. “Chị đã bắt gặp người nào xé ngăn áo lụa của Lettie? Em chẳng bao giờ kể lại với Lettie chuyện đó. Chị có không?”
“Không,” Sophie nói, khá là kinh ngạc. Giờ đây cô có thể nhận ra đây là Martha. Cách nghiêng nghiêng đầu của riêng Martha, và cách Martha đặt hai tay trên đùi với hai ngón tay cái xoay xoay. “Tại sao?”
“Em đã sợ chị sẽ đến thăm,” Martha đáp, “bởi vì em biết em phải nói thật với chị. Giờ nói rồi thì thấy thoải mái ghê. Chị phải hứa không được nói với ai. Em biết chị sẽ không nói nếu đã hứa. Chị là người biết giữ lời.”
“Chị hứa,” Sophie trả lời. “Nhưng tại sao? Làm cách nào?”
“Lettie và em sắp xếp với nhau,” Martha kể, hai ngón tay cái xoay xoay, “bởi vì chị Lettie muốn học phép thuật mà em thì không muốn. Lettie có đầu óc, và chị ấy muốn sử dụng chúng trong tương lai – chỉ là không được nói điều đó với mẹ! Mẹ quá ghen tị với Lettie để công nhận rằng chị ấy cũng có đầu óc!”
Sophie không thể tưởng tượng nổi Fanny lại như thế, nhưng cô cho qua câu nói đó. “Nhưng còn em thì sao?”
“Ăn bánh đi chị,” Martha nói. “Ngon lắm. Đúng đó, em có thể khôn ngoan nữa. Em chỉ mất hai tuần tại nhà dì Fairfax để tìm ra câu thần chú nào cho cuộc tráo đổi. Em thức thật khuya và bí mật đọc sách của dì, cũng dễ thôi. Rồi em xin phép được đi thăm gia đình, dì Fairfax nói được. Dì ấy rất tốt. Dì tưởng em nhớ nhà. Em đọc câu thần chú đó và đến đây, chị Lettie đến chỗ dì Fairfax giả làm em. Tuần đầu tiên là khó nhất, khi em không biết những thứ mà em cần biết. Khó chịu lắm! Nhưng rồi em khám phá ra là người ta thích em – chị biết không, nếu chị thích họ – và rồi mọi việc đều ổn thỏa. Dì Fairfax còn chưa đá Lettie về nhà, nên em nghĩ rằng chị ấy cũng khỏe.”
Sophie nuốt vội miếng bánh mà không thưởng thức mùi vị gì. “Nhưng tại sao hai em lại làm vậy?”
Martha lắc lư cái ghế, nở nụ cười trên mặt Lettie, hai tay cái xoay xoay vui vẻ. “Em muốn lấy chồng và có mười đứa con.”
“Em chưa đến tuổi!” Sophie thốt.
“Chưa,” Martha đồng ý. “Nhưng chị phải hiểu em phải bắt đầu nhanh chóng nếu muốn có mười đứa con. Cách này còn cho em thời gian chờ đợi xem người ta có thích em vì em hay không. Câu thần chú sẽ dần dần nhạt đi, và rồi em sẽ trở lại thành chính em.”
Sophie kinh ngạc thấy mình đã nuốt chửng hết cái bánh mà không xem nó là loại bánh gì. “Tại sao mười đứa?”
“Tại vì em muốn nhiều như thế,” Martha đáp.
“Chị chưa từng nghe!”
“Well, nói với chị có nghĩa lý gì khi chị quá bận ủng hộ mẹ trong việc tìm vận may của em,” Marth nói. “Chị tưởng mẹ nghĩ vậy thật. Em cũng tưởng thế, cho đến khi bố mất và em thấy mẹ chỉ muốn xua chúng ta đi – đặt Lettie nơi mà chị ấy có thể tìm thấy nhiều con trai để cưới, và cho em đi xa thật xa! Em rất tức giận, và nghĩ, Sao lại không? Em bàn với Lettie và chị ấy cũng giận dữ, tụi em cùng bày mưu. Giờ thì tụi em đang rất vui vẻ. Nhưng cả hai đều buồn cho chị. Chị quá thông minh và quá tốt bụng để mà phải chịu kẹt với cửa tiệm nón đó đến cuối đời. Tụi em bàn với nhau, nhưng không nghĩ ra được cách gì giúp chị.”
“Chị cũng ổn mà,” Sophie phản đối. “Chỉ hơi chán tí thôi.”
“Ổn sao?” Martha kêu lên. “Vâng, chị chứng minh mình ổn bằng cách vài tháng rồi không đến đây thăm em, lúc đến thì lại bận cái váy xám xấu xí này, trông có vẻ như là em làm chị sợ! Mẹ đã làm gì với chị vậy?”
“Không có,” Sophie thấy không thoải mái. “Cửa tiệm giờ bận rộn lắm. Em không nên nói về Fanny như vậy đâu, Martha. Mẹ là mẹ của em.”
“Đúng, và em giống mẹ đủ để hiểu được me,” Martha cãi lại. “Đó là lý do mà mẹ gởi em đi xa. Mẹ biết không cần phải tàn nhẫn để biết cách lợi dụng người ta. Mẹ biết chị rất vâng lời. Mẹ biết chị luôn nghĩ mình sẽ thất bại vì chị là chị cả. Mẹ đã sai khiến chị một cách hoàn hảo và bắt chị làm nô lệ cho mẹ. Em dám cá mẹ chưa từng trả lương cho chị.”
“Chị còn đang học việc,” Sophie phản đối.
“Em cũng vậy nè, nhưng em vẫn có lương. Bà chủ biết rằng em đáng giá đó,” Martha đáp. “Cửa tiệm nón hiện đang ăn nên làm ra, tất cả là nhờ chị! Chị may cái nón xanh đó làm bà vợ thị trưởng trông y như một cô gái trẻ, đúng không?”
“Cái nón màu xanh nõn. Chị đã khâu nó.” Sophie nói.
“Và cái bonnet mà Jane Farrier đã đội khi gặp nhà quý tộc đó,” Martha tiếp tục. “Chị là một thiên tài may nón và áo, mẹ biết điều đó! Chị đã trói cuộc đời mình khi chị may cho Lettie cái áo dạ hội vào lễ May Day năm ngoái. Bây giờ thì chị kiếm tiền trong khi mẹ đi nhún nhẩy…”
“Mẹ ra ngoài mua vật liệu,” Sophie bênh vực.
“Mua vật liệu!” Martha thét lên. Ngón tay cái quay nhanh hơn. “Việc đó chỉ chiếm một buổi sáng thôi, em đã thấy mà, Sophie, và tận tai nghe. Mẹ bước vào trong một cỗ xe thuê, bận áo mới do tiền chị làm, đến thăm tất cả biệt thự dưới thung lũng! Họ nói mẹ sẽ mua ngôi nhà lớn ở Vale End và ăn mặc lộng lẫy. Còn chị đang ở đâu?”
“Well, Fanny xứng đáng được hưởng thụ sau khi đã nuôi dạy chúng ta khôn lớn,” Sophie nói. “Chị thì đã thừa kế cửa tiệm rồi.”
“Thật là một cuộc đời!” Martha kêu lên. “Chị nghe em…”
Nhưng tại giây phút ấy hai hàng kệ trống bị kéo về phía đối diện căn phòng, và một người phụ việc ló đầu ra. “Đúng là tiếng cậu, Lettie,” cậu ta nói, miệng nhe răng cười với vẻ thân thiện nhất. “Lứa bánh mới vừa ra lò. Hãy đi nói họ đi.” Cái đầu tóc xoăn và có chút bột của cậu trai lại biến mất. Sophie nghĩ rằng đó là một cậu bé dễ thương. Cô muốn hỏi có phải cậu ta là người mà Martha thích không, nhưng cô không có cơ hội. Martha nhanh chóng đứng bật dậy, vẫn tiếp tục nói.
“Em phải kêu mấy đứa đến mang hàng bánh ra ngoài,” cô nói. “Giúp em phía bên kia với.” Cô bé kéo cái kệ gần nhất và Sophie giúp em đẩy nó ra khỏi cửa vào gian hàng đông đúc, ồn ào. “Chị phải làm một cái gì đó cho chị, Sophie,” Martha vừa đi vừa thở hổn hển. “Lettie cứ nói không biết chị sẽ bị gì nếu tụi em không ở đó giúp đỡ chị. Chị ấy lo lắng thật là đúng.”
Trong cửa tiệm bà Cesari dùng bàn tay khổng lồ túm lấy cái kệ từ hai chị em, hét lời chỉ dẫn và một đám người chạy qua Martha để lấy thêm bánh. Sophie hét lớn tạm biệt và chạy vào trong đám người hỗn độn. Tán chuyện thêm với Martha lúc này thật không phải. Bên cạnh đó, cô muốn được ở một mình để suy nghĩ. Cô chạy thẳng về nhà. Bên ngoài bắt đầu bắn pháo bông, từng đợt pháo bắn thẳng lên trời cạnh con sông gần hội chợ, hỗ trợ với những quả cầu xanh bắn ra từ lâu đài Howl. Sophie cảm thấy mình thật vô dung trong lúc này.
Cô nghĩ mãi và nghĩ mãi, trong những tuần sau đó, và tất cả càng làm cô thấy lạc lõng và bất mãn. Mọi sự không còn như trước kia cô nghĩ nữa. Cô sửng sốt về Lettie và Martha. Cô đã hiểu lầm về hai đứa nó. Nhưng cô không thể tin Fanny lại là người như Martha đã nói.
Cô có rất nhiều thời gian để suy nghĩ, bởi vì Bessie đã nghỉ việc để đi đám cưới, và Sophie hầu như ở một mình trong tiệm. Fanny không có vẻ gì là ra ngoài nhiều, nhún nhẩy hay không, và công việc khá chậm sau lễ May Day. Ba ngày sau Sophie có đủ can đảm để hỏi Fanny, “Con có nên có lương hay không?”
“Dĩ nhiên rồi, con yêu, với tất cả mà con đã làm!” Fanny nhiệt tình trả lời, cô đội cái nón gắn hoa hồng rồi soi mình trong tấm kiếng ở cửa tiệm. “Chúng ta sẽ bàn việc này khi mẹ làm thống kê buổi chiều nay.” Rồi Fanny bước ra ngoài, không trở lại cho đến khi Sophie đóng cửa tiệm, và lấy những cái nón trong ngày về phòng mình để khâu.
Thoạt tiên Sophie thấy mình đã tàn nhẫn khi nghe lời Martha, nhưng giờ đây Fanny đã không nhắc lại chuyện lương, trong buổi chiều hôm đó và những ngày sau, Sophie bắt đầu nghĩ Martha đã nói đúng.
“Có lẽ mình đã bị lợi dụng,” cô nói với cái nón khi cô viền dải lụa đỏ và đính hạt anh đào sáp chung quanh, “nhưng phải có người làm việc này nếu không thì lấy nón đâu mà bán.” Cô hoàn thành cái nón, và bắt đầu tiếp tục nhặt cái nón trắng đen lên, đúng mốt, và rồi một ý nghĩ mới đến với cô. “Nhưng không có nón bán thì có sao hay không?” Cô nhìn vào dãy nón, đang treo hay đang chờ được khâu. “Bọn mi có gì tốt chứ?” cô hỏi chúng. “Bọn mi chẳng làm việc gì tốt cho tao cả.”
Và chỉ một chút thôi là cô đã rời khỏi nhà, đi tìm vận may của mình, cho đến khi cô nhớ lại mình là chị cả và không ích lợi gì. Cô nhấc cái nón lên lần nữa, thở dài.
Sophie vẫn còn thấy bất mãn, ngồi một mình trong cửa tiệm sáng hôm sau, khi một khách hàng bước vào, vung vẩy dải băng nơ trên bonnet màu nấm. “Hãy nhìn này!” cô gái rít lên. “Cô nói với tôi đây là cái nón mà Jane Farrier đã đội khi gặp ông bá tước. Cô nói dối. Không có gì xảy ra cho tôi cả!”
“Tôi không ngạc nhiên,” Sophie đáp, trước khi ngăn được mình. “Nếu chị ngốc đến nỗi đội cái nón với khuôn mặt đó, chị sẽ không nhận ra chính nhà vua nếu ông đến tìm chị – nếu ông ta còn chưa hóa đá khi nhìn chị trước.”
Người khách hàng trừng trừng nhìn cô. Cô ta quẳng cái nón vào mặt Sophie, và bước thình thịch ra khỏi cửa tiệm. Sophie cẩn thận nhét cái bonnet vào thùng rác, hơi thở hổn hển. Luật của cửa hàng: Mất bình tĩnh, mất khách hàng. Cô đã chứng minh cái luật đó rồi. Cô khó chịu khi thấy mình khá thích thú khi làm điều ấy.
Sophie không có thời gian để nghĩ lại. Bên ngoài có tiếng bánh xe chạy, và tiếng chân ngựa, một cái kiệu dừng ngay cửa sổ. Chuông cửa hàng reo lên và một người khách sang trọng nhất mà cô từng thấy bước vào. Áo lông chồn buông thả từ khuỷa tay, và kim cương lấp lánh trên cái áo đen. Mắt Sophie tiếp nhận người đàn ông trẻ tuổi đã đi theo quý bà đó vào, một khuôn mặt không có hình dạng với mái tóc đó, trang phục quí phái, nhưng xanh sao và đang rất buồn bực. Y nhìn Sophie với một vẻ kinh hoàng đầy khẩn cầu. Y rõ ràng là trẻ hơn quý bà đó nhiều. Sophie bối rối.
“Cô Hatter?” vị phu nhân đó hỏi trong một giọng như nốt nhạc nhưng đầy uy quyền.
“Vâng,” Sophie đáp. Người đàn ông lộ vẻ bực bội hơn bao giờ. Có lẽ vị phu nhân là mẹ ông.
“Tôi nghe nói cô bán nón đẹp nhất,” bà khách nói. “Hãy cho tôi xem.”
Sophie không tin bản thân mình để trả lời cho bất cứ ai với tâm trạng hiện nay. Cô đi và lấy những cái nón ra. Không có cái nào hợp với phu nhân đó cả, nhưng cô có thể nhìn thấy đôi mắt người thanh niên đó theo dõi cô và làm cô bất an. Quý bà đó khám phá những cái nón không hợp với bà ta nhanh chừng nào thì cái cặp kỳ lạ này sẽ đi nhanh chừng ấy. Cô làm theo lời Fanny dặn và đưa ra cái xấu xí nhất.
Bà khách bắt đầu từ chối những cái nón ngay lập tức. “Chán,” bà ta nói với cái bonnet hồng, và “Trẻ” với cái màu xanh nõn. Cái nón có mạng che và kim tuyến thì “Quyến rũ bí ẩn. Rất là hiển nhiên. Cô còn có gì nữa?”
Sophie lấy ra cái nón màu trắng đen đúng mốt, cái duy nhất có vẻ hợp với bà khách.
Bà nhìn nó với vẻ khinh thường. “Cái nón này không làm gì cho ai cả. Cô đang lãng phí thời gian của tôi, cô Hatter.”
“Chỉ vì bà đến đây và hỏi xem nón,” Sophie nói. “Đây chỉ là một tiệm nhỏ trong thị trấn nhỏ, Madam. Sao bà lại__” Sau lưng bà khách, người đàn ông há hốc miệng và dường như ra dấu cẩn thận. “__đến đây làm gì cho phiền?” Sophie kết thúc câu nói, không biết chuyện gì đang xảy ra.
“Tôi lúc nào cũng phiền khi có người chống lại Phù thủy vùng Hoang Phế,” người đàn bà đáp. “Ta đã nghe nói về cô, cô Hatter, và tôi không quan tâm đến các tiệm khác hay thái độ của cô. Tôi đến để ngăn chặn cô. Đó.” Bà ta giang tay ra và huơ huơ như nhạo báng trước mặt Sophie.
“Bà là Phù Thủy vùng Hoang Phế sao?” Sophie nói run run. Giọng cô dường như xa lạ vì sợ hãi và kinh ngạc.
“Đúng vậy,” bà ta đáp. “Và hãy để điều này dạy cô đừng có xen vào những gì thuộc về ta.”
“Tôi không nghĩ là tôi đã làm vậy. Có lẽ có sự hiểu lầm ở đây,” Sophie rền rĩ. Người thanh niên nhìn cô hoàn toàn kinh hoảng, dù cô không nghĩ tại sao như vậy.
“Không có hiểu lầm, cô Hatter,” bà phù thủy nói. “Đến đây, Gaston.” Bà ta quay đi và bước ra khỏi cửa. Trong khi chàng thanh niên mở cửa, bà ta quay lại đối diện Sophie. “Mà này, cô sẽ không thể nói với người ta là cô đang bị phù phép,” bà ta nói. Chuông cửa tiệm vang lên như chuông đám tang khi bà ta đi khỏi.
Sophie đặt tay lên mặt mình, không biết người đàn ông đó đã nhìn thấy gì. Cô cảm giác được những đường nhăn. Cô nhìn xuống tay mình. Chúng cũng nhăn nheo, và gầy guộc, với mạch máu lớn trên mu tay và các khớp tay to như cái bướu. Cô kéo váy áo xám lên và nhìn hai cái cổ chân gầy guộc, già cỗi làm đôi giầy trở nên đầy cái u nhỏ. Đó là đôi chân của một người khoảng chín chục tuổi và trông rất thật.
Sophie đi tìm cái gương và thấy mình phải đi khập khiễng. Khuôn mặt trên gương khá bình tĩnh, vì đó là điều cô đã mong đợi. Đó là khuôn mặt hốc hác của một bà già, khô héo và nâu nâu, xung quanh là lọn tóc bạc. Đôi mắt bà lão, vàng vọt và đầy nước, nhìn vào cô, có vẻ rất lạ lùng.
“Đừng có lo lắng,” Sophie nói với khuôn mặt. “Ngươi còn rất khỏe mạnh. Hơn nữa, lại rất hợp với ngươi.”
Cô nghĩ về hòan cảnh của mình, khá bình tĩnh. Mọi thứ đều dường như rất lặng lẽ và xa vời. Cô cũng không nghĩ đến việc giận dữ với bà Phù Thủy vùng Hoang Phế nữa.
“Well, dĩ nhiên ta phải cho bà ấy biết tay nếu có cơ hội,” cô nói với mình, “nhưng trong lúc này, nếu Lettie và Martha có thể chịu biến thành người khác, mình có thể chịu được biến thành như vậy. Nhưng mình không thể ở đây. Fanny sẽ nổi giận. Xem nào. Bộ váy xám này thì được rồi, nhưng mình cần áo choàng và thức ăn.”
Cô lạch bạch đi đến cửa và đặt lên tấm bảng ĐÓNG CỬA. Các khớp xương kêu kẽo kẹt khi cô đi. Cô phải còng lưng xuống và chậm chạp đi. Nhưng cô khá hài lòng khi thấy mình còn là một bà già khá khỏe mạnh. Cô không thấy ốm yếu hay bệnh tật, chỉ hơi cứng cỏi chút thôi. Cô khập khiễng đi lấy áo choàng, quấn nó quanh đầu và vai, như mấy bà già hay làm. Sau đó Sophie lê chân vào nhà, cô lấy túi tiền có vài xu, một miếng bánh mì và cheese. Cô đi ra khỏi nhà, cẩn thận giấu chìa khóa vào chỗ thường lệ, bước đi lạch bạch xuống đường, ngạc nhiên về sự bình tĩnh của mình.
Cô băn khoăn về việc có nên chào tạm biệt Martha hay không. Nhưng không thích ý nghĩ Martha sẽ không nhận ra cô. Tốt nhất là cứ đi. Sophie dự định sẽ viết thư cho hai cô em gái khi cô đến được chỗ ổng định, và lê chân vào đồng cỏ nơi Hội chợ đã diễn ra, qua chiếc cầu, và vào vùng quê phía trước. Hôm ấy là một ngày xuân ấm áp. Sophie khám phá ra thân phận bà già không ngăn cô thưởng thức vẻ đẹp của phong cảnh và hít thở hương thơm táo gai trong bụi cây cỏ, dù rằng mắt cô nhìn hơi mờ mờ. Lưng cô bắt đầu thấy đau. Cô đi khá vững, nhưng cô cần một cây gậy. Cô tìm trong các bụi cỏ để tìm xem có khúc cây gẫy nào không.
Rõ ràng là mắt cô không sáng như trước. Cô tưởng mình đã nhìn thấy một cái cây, khoảng một dặm trước, nhưng khi cô tiến tới gần, đó là phần chân của một con bù nhìn bị người ta quăng vào bụi rậm. Sophie dựng con bù nhìn thẳng lên. Mặt nó có hình củ cải khô. Cô thấy mình có tình cảm tương đồng với nó. Thay vì xé nó ra và lấy cây gậy ở dưới, cô dựng nó giữa hai cành cây, để cho nó đứng ngông nghênh trên bụi táo gai, với tay áo tả tơi trên đôi tay gỗ bay phần phật trong gió.
“Được rồi đó,” cô nói, và cái giọng ồm òam của bà già làm cô ngạc nhiên và phá ra cười ồm oàm. “Cả hai chúng ta ai cũng không có gì cả, đúng không hả bạn hiền? Có lẽ cậu sẽ trở lại cánh đồng nếu ta đặt cậu ở nơi mà người ta dễ thấy.” Cô trở về con đường lần nữa, nhưng một ý nghĩ đến và cô quay lại. “Nếu tôi không bị bắt phải chịu thất bại bởi vì vị trí của tôi trong gia đình,” cô nói với bù nhìn, “cậu có thể trở thành vật sống và giúp đỡ tôi trên đường tìm vận may. Nhưng dù sao tôi mong cậu được may mắn.”
Cô cười khúc khích lần nữa khi đi. Có lẽ cô hơi điên một chút, nhưng mấy bà già thì hay như vậy mà thôi.
Khoảng một giờ sau, cô tìm thấy một cây gậy khi ngồi xuống vệ đường để nghỉ và ăn bánh mì với cheese. Trong bụi rậm đột nhiên có tiếng động: tiếng cọt kẹt nho nhỏ, theo sau là tiếng kéo mạnh làm rơi những cánh hoa táo gai khỏi bụi. Sophie bò trên đầu gối gầy guộc để nhìn lên đám lá, hoa, và gai trong bụi, cô thấy một con chó ốm yếu màu xám ở đó. Nó bị dính vào một cây gậy quấn lên cái khăn quanh cổ. Thanh gỗ cấn vào hai nhánh cây trong bụi táo nên con chó không thể di chuyển đi đâu được. Đôi mắt nó hoang dại nhìn vào khuôn mặt của Sophie cũng đang ngó nó.
Khi vẫn còn là một cô gái, Sophie sợ tất cả các loại chó. Ngay cả là một bà già, cô vẫn thấy sờ sợ hai hàm răng trắng nhọn trong họng của con thú. Nhưng như cô nói với mình, “Như mình thế này, thì còn có gì phải sợ nữa chứ,” và mò trong túi áo để lấy cây kéo. Cô đưa cây kéo vào trong bụi và cắt miếng vải quanh cổ con chó.
Con chó rất hung dữ. Nó giựt ra xa tay cô và gầm gừ. Nhưng Sophie vẫn tiếp tục cắt. “Mày sẽ đói và bị quấn chết mất, cậu mình ạ,” cô nói với con chó với giọng ồm òam, “nếu mày không để tao cắt miếng vải cho mày. Thực đó, tao nghĩ có ai đã muốn xiết cổ mày. Có lẽ là do cái tính hung dữ.” Miếng vải cột thật chặt vào đầu con chó và miếng gỗ được quấn nhiều vòng vào đó. Cô phải cắt nhiều lần trước khi miếng vải rách ra và con chó có thể tự giải thoát ra khỏi thanh gỗ.
“Có muốn ăn bánh với cheese không?” Sophie hỏi nó. Nhưng con chó chỉ gầm gừ, đi về hướng đối diện của bụi cây, và chạy đi mất. “Cám ơn như vậy đấy!” sophie nói, xoa xoa cánh tay bị gai đâm. “Nhưng dù sao mày cũng đã cho tao một món quà.” Cô kéo thanh gỗ đã giam con chó vào bụi cây ra, và thấy nó là một thanh gậy dẫn đường rất tốt, cắt gọn gàng và đầu gỗ có đính sắt. Sophie ăn hết miếng bánh, và lại tiếp tục đi nữa. Con đường càng ngày càng lên cao con dốc hơn, và cây gậy đã giúp cô nhiều. Nó cũng là một bạn đồng hành dễ nói chuyện. Sophie nắm chặt nó với ý chí kiên định, nói chuyện với cây gậy. Xét cho cùng, mấy bà già thường nói chuyện một mình mà.
“Đã có hai cuộc gặp gỡ bữa nay,” cô nói, “và không một chút gì ma thuật cả. Tuy vậy, mày vẫn là một cây gậy tốt. Tao không có than phiền gì. Nhưng tao xứng đáng được gặp một sự kiện thứ ba, phép thuật hay là không. Tóm lại, ta muốn có cuộc gặp thứ ba. Không biết nó sẽ là gì.”
Cuộc gặp gỡ thứ ba đến vào lúc hoàng hôn khi Sophie đã trèo được khá xa lên đồi rồi. Một người đàn ông vừa đi vừa huýt sáo xuống con đường. Một người chăn cừu, Sophie nghĩ, trở về nhà sau khi chăn bầy cừu. Đó là một người đàn ông trẻ tử tế khoảng bốn mươi tuổi. “Chao ôi!” Sophie nhủ thầm. “Buổi sáng nay ta sẽ cho ông ta là một ông già. Thật là một sự thay đổi!”
Khi người chăn cừu thấy Sophie nói chuyện một mình, ông ta đi cẩn thận phía bên kia đường, và cất tiếng nhiệt tình, “Xin chào mẹ! Mẹ đang đi đâu vậy?”
“Mẹ?” Sophie nói. “Tôi không phải mẹ anh, cậu trẻ!”
“Có thể cho là thế,” người chăn cừu nói, đi nép qua bụi cây. “Cách gọi lịch sự thôi mà, nhìn thấy bà lên đồi vào lúc cuối ngày. Bà sẽ không xuống Upper Folding trước buổi tối, phải không?”
Sophie chưa từng nghĩ đến điều này. Cô đứng trên đường và nghĩ. “Như vậy cũng có sao đâu,” cô nói, một nửa cho mình. “Ta không thể than phiền trên đường đi kiếm vận may.”
“Không thể sao, thưa Mẹ?” người chăn cừu đáp. Bây giờ ông ta đã đi xuống đồi xa hơn Sophie một chút và thấy thoải mái hơn. “Vậy thì xin chúc mẹ may mắn, miễn là sự may mắn của mẹ không liên quan đến bầy cừu của người khác.” Và ông ta bước nhanh xuống đường với những bước chân dài, gần như là chạy, nhưng không phải.
Sophie nhìn sau lưng ông ta phẫn nộ. “Y nghĩ ta là mụ phù thủy!” cô nói với cây gậy của mình. Cô nửa muốn làm ông ta sợ bằng cách la lớn những chữ xấu xa sau ông ấy, nhưng việc đó quả là không tốt. Cô lại bước lên đồi, miệng lẩm bẩm một mình. Không lâu sau, bụi cỏ trở thành bờ và quãng đường đằng trước trở thành vùng cao đầy cây thạch nam, với rất nhiều khoảng dốc phủ đầy cỏ vàng. Sophie vẫn dứt khoát đi tiếp. Nhưng bây giờ đôi chân già cỗ bắt đầu thấy đau, và còn lưng cô, đầu gối. Cô cảm thấy quá mệt để nói chuyện và chỉ tiếp tục cất bước, thở hồng hộc, cho đến khi mặt trời xuống rất thấp. Và ngay lập tức Sophie nhận rõ ra rằng mình không thể tiếp tục đi bộ được nữa.
Cô ngã xuống một hòn đá bên cạnh đuờng, không biết phải làm gì tiếp theo. “Sự may mắn duy nhất mà tôi có thể nghĩ tới là một cái ghế thoải mái!” cô thở ra.
Hòn đá tỏ ra là một cái mũi đất, cho Sophie thấy một cảnh tuyệt vời của con đường mà cô đi lên. Hầu hết thung lũng đều nằm dưới chân cô trong ánh mặt trời lặn, cánh đồng, tường, bụi cây, nhánh sông, và những biệt thự của người giàu có tỏa sáng dưới bóng cây, chỉ ngay phía dưới dãy núi xanh biếc trong khoảng xa xa. Chỉ bên dưới cô là Market Chipping, Sophie có thể nhìn thấy những con đường lớn. Thấy Market Square và Cesari’s. Cô có thể thẩy một hòn đá xuống ống khói của căn nhà gần tiệm nón.
“Vẫn còn gần quá sức!” Sophie mất hết tinh thần nói với cây gậy. “Đi lâu như vậy mà chỉ lên trên nóc nhà thôi!
Tảng đá dần lạnh hơn khi mặt trời xuống núi. Ngọn gió đông thổi bất cứ hướng nào mà Sophie quay đi để tránh nó. Bây giờ chuyện cô xuống núi trước đêm tối không còn là vấn đề không quan trọng nữa. Cô thấy mình nghĩ và nghĩ nhiều hơn về cái ghế thoải mái và bếp lửa, và cũng về đêm tối và thú hoang. Nhưng nếu cô trở về Market Chipping, đến nữa đêm chắc cô cũng còn chưa tới nữa. Tốt hơn là cô đi tiếp. Cô thở dài và đứng dậy, kẽo kẹt. Thật là tệ hại. Cô nhức mỏi cả thân mình.
Màn đêm buông xuống thật là nhanh và quãng đồi thanh nam thành màu xanh-xám. Ngọn gió sắc bén hơn. Tiếng thở và tiếng kẽo kẹt của xương mình lớn trong tai Sophie đến nỗi một hồi lâu mới nhận ra tiếng ken két và phì phò không phải đến từ cô. Cô ngước lên nhìn.
Lâu đài của Pháp Sư Howl đang ầm ầm nhảy đến chỗ cô đang đứng trong vùng đất hoang. Làn khói đen bay lên từ những lỗ châu mai. Nó trông cao và gầy, và nặng, và xấu, và rất là nham hiểm. Sophie dựa vào cây gậy và nhìn nó. Cô không sợ hãi chút nào. Cô tự hỏi không biết tại sao nó đi được. Nhưng suy nghĩ duy nhất trong đầu cô là đám khói đó có nghĩa là có một bếp lữa trong những bức tường đen đó.
“Well, sao không?” cô nói với cây gậy. “Pháp sư Howl sẽ không thèm hồn tao cho bộ sưu tập của ổng làm gì. Ổng chỉ thích các cô gái trẻ thôi.”
Cô giơ cao cây gậy và vẫy vẫy hống hách đến lâu đài.
“Ngừng lại!” cô hét.
Tòa lâu đài ngoan ngoãn thắng két lại khoảng năm mươi bước ở ngọn đồi trên đầu cô. Sophie thấy biết ơn khi cô bước đến nó.