Số lần đọc/download: 2433 / 129
Cập nhật: 2014-12-16 12:05:39 +0700
Hồ
Đâu cần phải tha thứ cho bằng hết lỗi lầm mới có thể yêu thương....
Vào cái ngày đầu tiên Nakajima ngủ lại nhà tôi, tôi mơ thấy mẹ.
Phải chăng là do đã lâu rồi tôi mới ngủ cùng phòng với ai đó?
Lần gần nhất tôi ngủ chung phòng với người khác là lần có bố, mẹ và tôi, ba người trong buồng bệnh của mẹ.
Mỗi lần mở mắt, sau khi yên tâm là mẹ chưa ngừng thở, tôi lại ngủ tiếp. Sàn bệnh viện hóa ra rất bụi, tôi cứ ngắm đi ngắm lại hoài một chỗ bụi bám. Giấc ngủ không thật sâu, hễ choàng tỉnh là lại nghe tiếng chân y tá đi ngoài hành lang. Tôi có cảm giác "ở bệnh viện an tâm hơn bên ngoài kia, vì trong này có rất nhiều người đang cận kề cái chết."
Khi ở dưới đáy vực, ta sẽ thấy nơi chốn ấy có một sự ngọt ngào riêng, không giống bất cứ một nơi nào khác.
Đây là lần đầu tiên, kể từ ngày mẹ mất, tôi mơ thấy mẹ.
Có những khi mẹ xuất hiện rời rạc trong một cơn mộng chập chờn, nhưng chưa bao giờ mẹ ở lại giấc mơ tôi lâu và rõ ràng thế này, làm tôi cảm thấy như lâu lắm rồi mình mới được gặp mẹ.
Nói về một người đã mất theo cách như vậy nghe thật buồn cười, nhưng đúng là tôi đã nghĩ thế.
Chẳng có gì lạ khi bảo rằng trong mẹ tôi gần như có hai con người. Hai con người ấy cứ đến rồi đi bên trong hình hài bà như hai nhân cách khác nhau.
Một người rất xã giao, tươi tắn, phong trần, sống gấp và sành điệu. Người kia thì tinh tế, khác nào một đóa hoa yếu mềm, luôn run rẩy chực rụng trước cả một cơn gió thoảng.
Phần nhân cách tựa đóa hoa ấy chẳng hề dễ hiểu, nên mẹ, vốn rất mực xởi lởi, chỉ chú tâm nuôi dưỡng phần tính cách phóng khoáng hơn cả đàn ông kia. Mẹ tưới nước cho nó bằng nhiều cuộc tình và bón phân cho nó bằng lời khen ngợi của thế nhân.
Mẹ sinh tôi mà không lấy bố.
Bố là giám đốc một công ty xuất nhập khẩu nhỏ ở một phố thị nhỏ bên rìa Tokyo. Còn mẹ là một mama xinh đẹp vừa phải trong một câu lạc bộ hạng sang cũng ở phố thị nhỏ bé ven đô ấy.
Lần nọ trong một buổi chiêu đãi, bố được mời tới câu lạc bộ và mê mẹ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Mẹ cũng rất có cảm tình với bố. Trên đường về, hai người ghé quán cơm Hàn Quốc, cười như nắc nẻ, thích thú gọi đủ mọi món và ăn uống thân mật bên nhau. Tối hôm sau, hôm sau nữa, vào cả những ngày tuyết rơi, bố vẫn đều đặn tới câu lạc bộ, để rồi hoàn toàn trở thành người tình của mẹ hai tháng sau đó. Bất chấp tình huống khiến họ quen nhau, việc phải mất đến hai tháng tìm hiểu làm tôi tin rằng tình yêu của họ là chân thật.
Mỗi lần tôi hỏi tại sao bố mẹ lại cười như nắc nẻ, thì y như rằng cả hai đồng thanh đáp: "Quán đấy chẳng có lấy một người Nhật, bố mẹ loanh quanh mãi giữa đêm khuya mới tìm thấy nó. Nhưng có đọc được thực đơn đâu, đành gọi bừa, kết quả là họ đem ra toàn những món mình không biết hoặc cay khủng khiếp, lại nhiều quá sức tưởng tượng, làm bố mẹ buồn cười." Tuy nhiên, tôi chắc chắn không phải vậy.
Tôi tin rằng, bấy giờ họ vui sướng và phấn khích đến thế chỉ bởi một lý do đơn giản là, người kia đang ở trước mặt mình. Ngoài xã hội họ có thể thế này thế khác, nhưng đối với tôi, họ luôn là hai con người đáng yêu. Họ hay cãi vã, song chỉ toàn những cãi vã kiểu trẻ con.
Mẹ muốn có con nên ngay sau đó tôi ra đời, mặc dù mẹ và bố không cưới xin chính thức. Nghĩ cũng thật lạ, vì trước đấy bố chưa có vợ con nào khác, ngay cả bây giờ cũng không.
Nhà nội phản đối quyết liệt, bố không muốn lôi mẹ vào chuyện này, thành thử tôi đã lớn lên như một đứa con hoang có thừa nhận.
Trên đời đâu thiếu những chuyện như vậy. Vả chăng bố ở bên chúng tôi phần lớn thời gian, nên tôi chẳng thấy mình có gì đáng thương.
Song thú thực từ thâm tâm, tôi cảm thấy chán ngấy hoàn cảnh ấy.
Chán ngấy cái phố thị ấy, sự sắp đặt ấy, tất cả mọi thứ. Tôi muốn quên bằng hết. Mẹ qua đời thậm chí là một cớ hay để kiếp này tôi khỏi phải quay về đó. Trừ việc gặp bố, tôi hầu như chẳng còn chút quyến luyến nào. Bố mau chóng bán ngôi nhà mà tôi và mẹ từng sống rồi gửi tiền vào tài khoản cho tôi, nói là để tôi khỏi vướng bận chuyện tranh chấp với họ hàng. Tôi không thích, vì cảm thấy nó giống như một dạng bồi thường thiệt hại tinh thần, nhưng dù gì cũng là tài sản do mẹ để lại. Nhà bán đi, mọi dấu tích của tôi tan biến theo, nhưng tôi không đau buồn.
Ví dụ ban ngày mà đến quán bar của mẹ, sẽ thấy mọi thứ đều tối tăm, hơi dơ bẩn, mùi rượu và thuốc vương vất đâu đấy gây cảm giác vô cùng trống rỗng. Những bộ quần áo màu mè của mẹ đưa từ tiệm giặt là về trông mỏng tang dưới ánh mặt trời.
Ấy là tất cả những cảm nhận của tôi về vùng đất cũ.
Cảm nhận vẫn nguyên vẹn đến tận lúc này, khi tôi đã gần ba mươi tuổi.
Lần cuối cùng gặp mặt, bố chăm chú nhìn tôi, đang ngày càng giống mẹ, mắt ngấn lệ. "Đáng lẽ mọi thứ bây giờ mới bắt đầu. Bố mẹ định về già sẽ sống một cuộc đời thật nhàn tản, cùng nhau đi đây đi đó. Mẹ con bảo dứt khoát phải làm một vòng quanh thế giới bằng tàu thủy. Ai ngờ chuyện xảy ra thế này. Giá mà bố đừng băn khoăn về công việc, còn mẹ đừng ngại xin nghỉ ít bữa ở câu lạc bộ để có thể thu xếp đi ngay thì hay biết mấy."
Uống được rượu, lại thích giao du nên chắc hẳn trước đây bố chơi bời ra trò, nhưng tôi tin là kể từ ngày ở bên mẹ, bố chẳng còn qua lại với ai một cách nghiêm túc nữa.
Mặc dù bố là tay chơi cự phách, xét theo một thứ quan niệm khuôn sáo kiểu như đã là tay chơi thì phải thế này thế nọ, nhưng riêng về mặt hình thức, bố chỉ là một ông chú hói đầu tỉnh lẻ chẳng chệch đi đâu được, làm gì cũng quê kệch, từ đầu đến chân chẳng bới đâu ra được nét gợi tình. Một người không hề sành điệu. Một người nghiêm túc tới nỗi dân chơi đích thực phải phì cười nếu trông thấy.
Bố vốn dĩ là con người đơn giản, phải sống với những ràng buộc về địa vị, về chuyện kế nghiệp gia đình mà chẳng hề quan tâm đến việc vùng thoát ra khỏi đó. Trong vai trò giám đốc công ty xuất nhập khẩu ở một phố thị nhà quê, bố tạo cho người ta ấn tượng về một người có gốc gác con nhà địa chủ chỉ đang cốt làm cho xong, cho đủ lệ bộ những việc phải làm theo khuôn mẫu đã định.
Tôi nghĩ trong cuộc đời bố, mẹ là đóa hoa duy nhất tỏa ra hương thơm tự do.
Bố không bao giờ trộn lẫn không gian riêng của hai người với bất kỳ thứ gì khác. Ở trong đó, bố như được là mẫu người mà mình mong muốn, cứ về đến nhà là bắt tay tu bổ mái ngói, chăm sóc vườn cây, ra ngoài ăn cùng mẹ, xem bài tập của tôi, sửa xe đạp cho tôi.
Nhưng hai người không bao giờ có ý định rời bỏ mảnh đất ấy để đi tìm cuộc sống của riêng mình. Ở bên nhau trong hoàn cảnh ấy mới chính là cuộc sống của họ.
Giờ đây điều bố lo sợ nhất có lẽ là việc tôi muốn cắt đứt quan hệ với bố.
Tôi nghĩ mối lo sợ ấy không thường trực, mà chỉ như một cơn lạnh bất chợt lướt dọc sống lưng bố mà thôi.
Rằng biết đâu một ngày kia tôi sẽ nói với bố: "Tên họ của chúng ta ngay từ đầu đã khác nhau, nên kể từ giờ chúng ta là người dưng."
Đôi khi, bố bất ngờ chuyển tiền vào tài khoản hoặc gửi đồ ăn tới cho tôi. Tôi sẽ gọi điện cảm ơn. Nỗi lo sợ của bố truyền qua ống nói nghe thật khẩn thiết.
Chúng ta vẫn còn là cha con phải không? Một cảm giác đại loại như vậy.
Tôi cảm ơn bố và nhận tiền, nhưng chưa từng nói rõ dù chỉ một câu rằng quan hệ cha con mình vẫn sẽ tiếp tục. Vì tôi chưa bao giờ cho rằng mối quan hệ của chúng tôi thuộc diện cần phải nói ra điều đó. Cho dù bố đang cảm thấy thế nào với nỗi day dứt mơ hồ trong lòng, và cho dù tôi có định cắt đứt quan hệ thật, thì bố vẫn là bố.
Riêng về phần mình, tôi chẳng để tâm tới những chuyện như thế.
Nếu cơ nhỡ, tôi rất sẵn lòng được nhờ cậy bố, nhưng khi bố mua cho tôi món này món nọ, thì thể nào những kẻ đố kỵ tham lam cũng tới dòm dỏ (tôi biết bọn họ chỉ đơn giản là muốn nhìn ngó mà thôi) khiến tôi thấy phiền toái.
Tôi thấy phiền toái với mọi thứ định níu giữ tôi lại nơi ấy. Tôi chỉ muốn dừng lại ở những gì tối thiểu.
Trong mắt tôi, dường như có một sợi xích đã cột chặt chân bố mẹ vào với nhau, rồi cột chặt họ với phố thị đó, mặc dù bản thân họ chưa chắc đã nhận ra.
Vì thế, tôi thường xuyên ấp ủ một điều: ấy là có thể chạy trốn bất cứ lúc nào. Tôi hay nghĩ, giả dụ mình có bạn trai, rồi lỡ ra thật lòng, tổ chức đám cưới linh đình trong một khách sạn hay đâu đấy ở phố thị này, lại không may mang bầu nữa, thì coi như chấm hết. Thế nên, ngay cả khi bạn bè cùng trang lứa vô tư yêu đương hoặc mơ mộng chuyện cưới xin, tôi vẫn cứ thờ ơ. Trong lúc hành động tôi luôn suy xét đến hậu quả. Ngay sau khi tốt nghiệp cấp ba tôi liền lấy cớ lên Tokyo học đại học để ra khỏi nhà cho thật nhanh.
Tôi cảm nhận được bằng chính cơ thể, về sự phân biệt đối xử, tuy có gượng nhẹ nhưng chắc chắn tồn tại, mà mình đang chịu đựng.
Có một bầu không khí luôn vây chặt lấy tôi theo kiểu "gọi là con cái danh gia trong vùng, chứ bản chất chẳng qua là đứa con gái ngoài giá thú của một mama quán bar mà thôi", nó tỷ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của bố, mà bố thì chỉ nổi tiếng trong khu phố thị này.
Khi đến Tokyo, trở thành một sinh viên vô danh chuyên ngành nghệ thuật, tôi gần như bay bổng vì nhẹ nhõm.
Có lẽ đến hết đời tôi cũng không quên được cảm giác khi thấy những kẻ đầy lòng hiếu kỳ cùng hứng thú lẫn ganh ghét vận bộ đồ đen sặc vẻ hình thức và đãi bôi, dát lên mình sự nghiêm trang giả tạo, gắn lên bộ mặt đau buồn ánh mắt sáng trưng đến nhìn vào bên trong quan tài mẹ... Cái cảm giác chỉ muốn đập tan bầu không khí giả dối và đội lốt ấy bằng một điệu múa khỏa thân cho bõ ghét.
Thân xác mẹ đã được lửa tẩy sạch, không để ánh mắt bẩn thỉu nào có thể in dấu lên đó. Tôi không nghĩ mình lại cảm thấy nhẹ nhõm đến thế khi mẹ bị hỏa thiêu. Trang phục của mẹ, vẻ đẹp của mẹ, quy mô đám tang mà bố chẳng tiếc tiền chuẩn bị dường như đã hoàn toàn thỏa mãn lòng hiếu kỳ của bọn họ.
Với vai trò tang chủ, tôi đứng ra đọc lời điếu, cố gắng mỉm cười hoặc thỉnh thoảng lau nước mắt, nhưng không nói với ai về cảm giác mỉa mai đang dâng lên trong mình.
Đó là một cảm giác thanh cao mà những kẻ đang cố sống cố chết gắn cho kiếp nhân sinh vốn không có hình thù một thứ hình thù nào đó chẳng bao giờ hiểu được.
Nhưng may thay, cô hàng xóm và một vài người bạn ít ỏi của mẹ đã đem lại cho tôi tình cảm đầm ấm, giúp tôi có được những giây phút dễ chịu, rồi cùng uống với nhau một tách trà nóng. Cuộc đời chắc chắn vẫn còn những mặt tốt. Thật tiếc khi phải công nhận rằng giữa cái xấu, ta mới thấy mặt tốt rõ hơn. Không dùng lời, nhưng ánh mắt của họ nói với tôi rằng: "Chúng ta biết con đang tổn thương."... Khi trông thấy bố bám chặt lấy quan tài khóc nức nở, tôi đã nghĩ mình không bằng bố. Bố dồn cả tâm tư cho mẹ, còn tôi thì toàn để ý tới những điều vô nghĩa.
Trước câu chuyện tình thế kỷ (tất nhiên chỉ đối với hai người họ) ấy, tôi chỉ là cô con gái nhỏ đang run lên vì mất mẹ. Hoặc cũng có thể, đây đơn giản là sự khác biệt giữa chồng và con.
Phải rồi, ngày hôm đó, mẹ đã đến trong giấc mơ tôi, không phải cái nhân cách kia mà là phần con người tựa một đóa hoa của mẹ.
Phần con người thân thương như một cánh hoa mỏng thẹn thùng rung rinh trong bóng nắng.
Mẹ nói chuyện với tôi, trong khung cảnh của căn buồng bệnh từng chứng kiến những ngày cuối cùng của đời mẹ. Suốt một thời gian dài mẹ không thể nhỏm dậy, nên khi thấy mẹ ngồi tựa lưng vào thành giường, tôi bỗng thấy nhớ mẹ quá.
Gió từ cửa sổ thổi vào, ánh nắng cũng lung linh. Mặc bộ đồ ngủ màu hồng giống một nữ sinh trung học trong chuyến dã ngoại cuối cấp, mẹ như đang ở giữa quầng sương mù đẹp đẽ. Những bó hoa thăm hỏi tựa hồ nhòa tan trong vầng hào quang của mẹ.
Mẹ chói chang quá khiến tôi cứ phải nhìn hồi lâu vào đám bụi bám trên bậu cửa sổ. Mẹ nói, "Chihiro ơi, mắc sai lầm một lần thôi là suốt cả cuộc đời con sẽ sống trong bồn chồn, nóng nảy giống như mẹ. Con hiểu không? Lúc nào cũng nóng giận hoặc quát tháo tức là đang phải lệ thuộc vào người khác đấy."
Con hiểu, con hiểu. Con biết thật ra mẹ không phải kiểu người thích mắng mỏ ai đó, hoặc gập mình trước những khách hàng quan trọng để duy trì quán bar, hoặc quát tháo bố qua điện thoại mỗi lần bố không tới và rằng "biết làm sao được khi tôi chẳng phải là vợ chính thức mà chỉ là vợ hờ của ông thôi", mẹ đâu có con mắt lõi đời như vậy; mẹ thật ra không giống đóa hoa dại nở ngoài đồng mà là kiểu người mang trong mình sự tinh tế và trong suốt đến rùng mình, như đóa hoa âm thầm nở trên vách đá cao vút chẳng ai khác ngoài chim chóc, hươu nai lui tới.
Hẳn là bố đã nhận ra điều đó. Hẳn là bố luôn nhìn nhận mẹ theo cách hiểu riêng của mình.
Bởi khi thả lỏng mình bên bố, lúc nào mẹ cũng như một thiếu nữ. Hai người giống bọn con nít ấy. Nhưng chỉ tại xã hội, hay nhân thế, hay những thứ tương tự đã không để hai người tạo dựng một thế giới riêng, phải vậy không?
Mà hai người cũng không có được sự can đảm hay liều lĩnh để tạo dựng thế giới riêng ấy, phải vậy không? Mọi chuyện chấm dứt giữa khi cuộc đời tạm bợ vẫn đang chiếm giữ vị trí của cuộc đời thực sự, phải vậy không?
Tôi chỉ nghĩ thầm trong bụng, vậy mà, chắc tại trong mơ nên mẹ gật đầu thật dễ dàng. Rồi mẹ nói, "Kỳ thực mẹ không muốn thế. Mẹ ghét trang điểm, ghét phẫu thuật thẩm mỹ, mẹ sợ bệnh viện, sợ nhìn thấy những người tìm đến bệnh viện để làm đẹp. Thú thật là mẹ rất sợ đau. Khi được khuyên làm, mẹ chỉ mơ hồ cảm thấy cần thiết, và thế là quyết định. Đến lúc bước vào phẫu thuật thực sự, mẹ lại thấy sợ, và để đánh lừa bản thân, mẹ đã biến nó thành chuyện cười, nhưng tinh thần thì mãi mãi tổn thương."
"Hơn nữa, mẹ đâu có muốn cằn nhằn suốt ngày với bố con. Nhưng mẹ chỉ sợ bố con đi mất, vì thế mới cố níu cho thật chặt. Mặc dù biết rằng còn có bao nhiêu cách bày tỏ khác mà không cần cáu giận, nhưng mẹ vẫn làm thế. Tự lúc nào mẹ đã dấn bước vào con đường này, con đường không thể quay ngược trở lại. Bất an khiến bất an càng thêm chồng chất, rồi mẹ nhận thấy đóng kịch để che giấu tình cảm thật của mình thì dễ được chấp nhận hơn, nên cứ trượt dài theo hướng đó. Mẹ không dừng lại được nữa. Và rốt cuộc, mẹ chết mà không thay đổi được gì."
"Con biết không, từ chỗ hiện giờ, khi dùng tầm nhìn bao quát xem xét lại những ngày đã qua, mẹ hiểu ra rất nhiều điều. Mẹ nhìn thấy biết bao nhiêu chuyện, không phải những chuyện gây hối hận đâu, mà lại chính là những việc mà mẹ đã không cần phải lo lắng. Bởi vậy mẹ muốn nói..."
"Chỗ hiện giờ" có phải là thiên đường không? Có thiên đường sao hả mẹ? Tôi thầm hỏi, nhưng mẹ chỉ cười lấp lửng rồi tiếp, "Một kẻ sĩ diện như mẹ có quá nhiều nỗi sợ nên để bảo vệ mình, mẹ chỉ còn cách làm như thế. Nhưng con thì đừng vậy. Luôn luôn giữ ấm bụng, thả lỏng con tim và cơ thể để máu đừng bốc lên đầu. Hãy sống như một bông hoa con nhé. Đó là quyền lợi. Là việc nhất định con có thể làm khi hãy còn sống. Chỉ cần như thế thôi."
Mẹ cười tươi. Phải rồi, hãy giữ ấm bụng là câu mẹ thường nói với tôi hồi bé mỗi lần tôi ngủ hở bụng để mẹ phải đắp lại chăn cho. Nhớ đến câu nói ấy, tôi bỗng trào nước mắt dẫu đang trong mơ.
Hồi nhỏ, nửa đêm mỗi lần tỉnh giấc và hé mắt ra nhìn, tôi lại thấy mẹ đang vỗ nhè nhẹ vào cái bụng để hở của tôi, sửa sang áo ngủ rồi đắp lại chăn cho tôi.
Bằng cơ thể, tôi đã học được rằng: "Được yêu là thế. Là khi một người ‘muốn chạm vào mình, muốn tỏ ra dịu dàng với mình'". Vì vậy tôi không bao giờ có phản ứng trước một tình yêu giả tạo. Đây là ý nghĩa của việc "được nuôi nấng" chăng?
Con muốn gặp lại mẹ một lần nữa, mẹ ơi. Con muốn được chạm vào người, được ngửi mùi của mẹ.
Khi nghĩ rằng ngay cả cái quán bar hơi dơ bẩn lúc ban ngày giờ đây cũng không còn nữa, tôi bỗng thấy nhớ thương.
Cho dù không phải một chốn tuyệt vời, nhưng đó đã từng là nơi chắp cánh cho tôi. Là thế giới có mùi của mẹ. Là nơi hơi ấm cũng nhiều như sự huyên náo. Tôi vẫn còn là đứa trẻ cần đến cha mẹ, vậy mà tự lúc nào đã phải bước đi một mình.
Trong mơ, tôi nhận thấy cảm giác đau buồn tăng lên gấp đôi, cõi lòng thì yếu mềm hẳn, tưởng chừng sắp bị nghiền nát tới nơi.
Tỉnh giấc rồi, nước mắt vẫn chảy thành dòng.
Chợt nhìn sang bên cạnh, thấy Nakajima vẫn ngủ ngon lành, cánh tay trần đang thò ra trên chiếu. Sợ lạnh, tôi kéo chăn đắp lên cho hắn.
Khi đã quay về với thực tại, giấc mơ không còn buồn nữa. Hình bóng mẹ vẫn in đậm trong tim tôi, song cảm giác nhớ nhung phố thị nơi mình sinh ra và lớn lên quả thật đã không còn.
Tôi ngạc nhiên tự hỏi: tại sao trong mơ mình lại có cảm giác như vừa trở về là một đứa trẻ? Tuy nhiên, giờ thì tôi đã hoàn toàn quay lại với "hiện tại", tới mức có thể đưa ra một đánh giá thế này: nhất định trong mình vẫn còn chút quyến luyến nào đó với quá khứ.
Duy chỉ có căn hộ ấy, căn hộ giờ đây không còn nữa, là khiến tôi vương chút nhớ nhung. Đôi khi tôi muốn trở về nhà, quay lại làm tôi thuở bé...
Tôi hồi tưởng.
Bầu không khí hạnh phúc của một sáng Chủ nhật. Tiếng ti vi phát ra với nhịp điệu thong thả tới mức không thể kiếm đâu được vào thời buổi này, bố thư thái chờ đợi bữa cơm là sự kết hợp của bữa sáng và bữa trưa, mẹ ở trong bếp với ngổn ngang nguyên liệu nhập ngoại, đang thử chế biến món ăn truyền thống của một nước nào đó... Hai người vẫn còn dư âm của cơn say hôm trước, bây giờ nghĩ lại, tôi chắc rằng trong đó có cả sự rã rời đầy ngọt ngào của một cuộc yêu đương. Sự rã rời đó phủ lên hai người một vẻ uể oải thật dịu dàng. Từ trên giường, tôi thơ dại cứ ngắm mãi bầu không khí ấy như một điều gì tuyệt diệu.
Nếu là phố thị của thuở ấy thì tôi có thể quay về.
Tôi lại giật mình vì nhớ ra Nakajima đang nằm bên cạnh. Ô kìa? Sao Nakajima lại ở đây? Nếu là mơ thì xin đừng tỉnh giấc!
Phải rồi, ra là vậy. Hình như Nakajima đã quyết định ngủ lại nhà tôi đêm qua.
Trí nhớ của tôi đang khôi phục dần dần.
Nhớ đến cuộc làm tình trang nghiêm mà chúng tôi vừa hì hụi đánh vật lúc trước, tôi chợt thấy hơi ngượng ngùng. Bây giờ thì cả hai đều đã mặc quần áo và đang ngủ như chưa có gì xảy ra. Tôi có cảm giác chúng tôi đã sống với nhau thế này từ lâu lắm rồi, nhưng vẫn giật mình vì sự có mặt của Nakajima. Một cảm giác rất lạ, vừa như bấn loạn, vừa như điềm tĩnh. Có lẽ vì thế nên tôi mới mơ thấy mẹ.
Đâu phải lúc nào cũng có một kẻ kỳ lạ như thế này ở trong nhà mình.
Hơn nữa, tôi vẫn tưởng Nakajima là kẻ chẳng bao giờ ở lâu trong cùng một nhà với người khác. Đã có lần tôi từng nhìn thấy một người nữa, chắc là bạn gái, trong căn hộ của hắn, nhưng hình như không phải lúc nào cũng ở với nhau.
Hôm qua, Nakajima vừa khóc vừa nói: nếu bỏ lỡ dịp này, tớ có cảm giác cả đời mình sẽ không thể làm tình được nữa, tôi bảo: làm gì mà nghiêm trọng thế, nhưng rồi lại thấy Nakajima sao mà tội nghiệp lúc nói ra điều ấy, sau đó thì chính tôi cũng buồn bã, tâm trạng bỗng thành ra ủy mị.
Rồi thì sao nhỉ? Mình có làm đến cùng không nhỉ? Hay là không?
Tôi không hề uống rượu, vậy mà chỉ còn nhớ bập bõm. Mà thôi, Nakajima cũng đâu đã trốn mất, tôi tự nhủ.
Thế rồi hình bóng mẹ lại vụt hiện lên trong tâm trí.
Ôi, một giấc mơ buồn nhưng đẹp. Tôi thầm nghĩ.
Phần con người mà tôi muốn gặp, cái phần hiếm khi bộc lộ ra ngoài của mẹ đã ở đó trong giấc mơ.
Mẹ lúc nào cũng khoác lên mình cái vẻ ngoài ăn to nói lớn, cười xòa cho qua trước bất kể chuyện gì, cao ngạo, vững vàng và sảng khoái đến nỗi chính tôi cũng gần như quên mất phần nhân cách đích thực ẩn náu tận đáy sâu con người mẹ.
Song le, hồi tôi còn nhỏ, những khi mẹ phá lên cười nhẹ bẫng, những khi chúng tôi cùng nhau ủ ấm đôi bàn chân giá lạnh trong chăn, những khi mẹ nghịch ngợm ướm dấu chân lên mặt tuyết tinh tươm buổi sáng trong lúc đi dạo... Những khi ấy, con người thực của mẹ từ từ lộ ra với hình hài một bé gái không bao giờ có tuổi.
Vừa hồi tưởng vừa ngắm vồng ngực phập phồng của Nakajima trong căn phòng tối, tâm trạng tôi cứ nhẹ nhõm dần, như bị thôi miên.
Nakajima, Nakajima... Một Nakajima có ngoại hình kỳ lạ.
Sao tôi lại yêu quý mọi thứ trên người Nakajima đến thế kia chứ: từ hai cái lỗ của chiếc mũi dài ngoẵng đến cổ tay gầy như que củi, những ngón tay dài, cái miệng há hốc, đường gân cổ mong manh, đôi má phinh phính như con nít, cả cái cách mà mớ tóc khô xơ xác xòa xuống mắt, rồi cặp mắt ti hí và hàng mi dài ẩn dưới mái tóc. Dù một ngày kia hơi thở tắt lịm, Nakajima biến thành một vì sao (đây hoàn toàn chỉ là lối ví von tôi nghe được ở đâu đó, nhưng thực sự không còn cách so sánh nào xác đáng hơn. Hắn thực phù hợp để làm một vì sao. Bởi cảm giác về sự tồn tại của hắn, ngay từ đầu, đã quá ư nhạt nhòa), thì tôi tin mình vẫn luôn ở bên linh hồn Nakajima. Tôi nghĩ đấy là nỗi kinh ngạc, thậm chí sửng sốt, nhiều hơn là một dạng tình yêu. Vì vậy tôi chỉ ngắm nhìn, mà không thể dấn sâu.
"Hôm nay hắn vẫn ở đây, hôm nay hắn chưa biến mất. Và hôm nay, cảm xúc này vẫn đang tiếp diễn!" Tôi thầm nghĩ.
Mỗi ngày trôi qua với tôi đều là một ngày tươi mới, khi mà mỗi ngày ấy tôi đều không thể cầm lòng trước sự lôi cuốn của Nakajima, một Nakajima kỳ lạ. Từ khi bắt đầu ở cùng Nakajima, nhịp sống của tôi hoàn toàn đảo lộn. Tôi vốn dĩ là kẻ chỉ biết nghĩ cho mình, sống chết cũng phải giữ lấy quan điểm, ra sức lao về phía trước mà chẳng thèm để mắt tới điều gì khác ngoài tương lai lý tưởng của mình; tôi là thứ cỏ rêu không nơi bám rễ, chỉ biết dồn tâm huyết cho việc lánh xa khỏi phố thị thuở nào. Thế nhưng, Nakajima mạnh mẽ quá, khiến tôi bị choáng ngợp và bị kéo lê đi.
Ở đây hoàn toàn không có cái gọi là thời gian. Tôi cảm thấy mình như bị tách khỏi thế giới. Cảm thấy như chỉ có Nakajima và tôi, không có thời đại, cũng không còn tuổi tác.
Có lúc tôi từng nghĩ: hay đây chính là hạnh phúc?
Thời gian đang ngừng trôi, và tôi đang nhìn Nakajima chẳng với bất cứ niềm hy vọng nào.
Tôi nghĩ, đó là cảm giác của hạnh phúc.
Liệu có phải tôi đang sống một cuộc sống bình thường không? Tất nhiên, tôi cũng hiểu, xét trên một nghĩa nào đó thì chỉ riêng việc tôi là con ngoài giá thú ở cái thành phố nhà quê mà chuyện gì cũng có thể trở thành đề tài ngồi lê đôi mách đã đủ biến tôi thành kẻ khác thường, nhưng thực tế tôi chẳng có chỗ nào khác thường cả.
Vì thế, một Nakajima hơi khác thường rõ ràng là quá sức đối với tôi, thành ra trong mối quan hệ với hắn, tôi luôn ở tư thế sẵn sàng bỏ chạy.
Tôi chỉ biết rằng, Nakajima đã phải trải qua điều gì đó kinh khủng trong quá khứ, nhưng chưa bao giờ tôi đi sâu vào câu chuyện.
Nakajima rất yêu người mẹ đã mất, mỗi lần nhắc đến mẹ là hắn khóc. Tôi không biết cụ thể, nhưng chắc chắn là hắn đã được nuôi nấng theo một cách thức nào đó khiến hắn yêu quý mẹ mình chân thành đến vậy, xét về mặt tình cảm yêu thương thì hắn chẳng có gì bất thường.
Và chắc chắn là trên đời này, không ai yêu thương Nakajima như mẹ hắn.
Tôi biết mình không có khả năng xử trí đối với những điều lớn lao như thế trong Nakajima, nhưng ngược lại, có khi chính nhờ vậy mà tôi mới đến được với hắn một cách vô tư.
Đã bao lâu kể từ lúc quen nhau cho tới khi Nakajima bắt đầu ngủ lại nhà tôi nhỉ? Phải một năm là ít.
Không biết tự lúc nào, chẳng cần đến một quá trình hay cao trào, hắn cứ tự nhiên lui tới nhà tôi vào các buổi tối.
Tôi nhớ mang máng là hễ tôi có nhà thì hắn sẽ sang vào chập tối, rồi tự động ra về vào lúc nửa đêm, sự giao lưu bình lặng ấy, quãng thời gian mà mọi việc chỉ dừng ở đấy, kéo dài khoảng ba tháng.
Tuy nhiên, bấy giờ tôi cảm thấy chúng tôi chỉ là bạn cùng ký túc không hơn không kém, kiểu như mỗi người có một phòng riêng nhưng hơi cách xa nhau, chứ không hề có cảm giác là đang sống chung. Cũng không có cảm giác gò bó. Ngược lại, chính nhờ có Nakajima mà trong lồng ngực tôi lúc nào cũng thấy ấm áp.
Tôi sống trong căn hộ này, còn Nakajima sống ở tầng hai của khu chung cư nằm chếch phía đối diện.
Tôi có thói quen đứng trước cửa sổ và nhìn ra bên ngoài, Nakajima cũng vậy. Nhờ thế mà chúng tôi cùng nhận ra nhau bên bậu cửa sổ, rồi bắt đầu chào nhau từ lúc nào không hay. Ở quê tôi thì giao thiệp như thế là bình thường, nhưng ở thành phố, có lẽ hiếm ai đi chào một người lạ khi bắt gặp ánh mắt họ nơi cửa sổ. Song Nakajima không phải dạng câu nệ những chuyện kiểu này. Ở hắn có một loại uy lực. Uy lực của một kẻ không sợ cái chết và đang sống dưới đáy cùng vực thẳm.
Hẳn là nhờ thế mà tôi nhận ra hắn là người hợp với mình.
Đôi lúc dáng người mảnh khảnh bên cửa sổ của hắn biến thành một bức tranh. Thi thoảng hình ảnh bàn tay thon nhỏ đang buông thõng từ song cửa trông đẹp như của một chú khỉ hoang.
Dần dà, tôi bắt đầu có thói quen cứ sáng dậy là mở cửa sổ phòng mình để nhìn sang cửa sổ nhà Nakajima. Không cần biết mình đã thay quần áo chưa, đầu tóc như thế nào. Tôi luôn nghĩ ở bên ấy là một người thân thiết, là cái gì đó giống như một khung cảnh. Không hiểu vì lẽ gì, nhưng tôi tin chúng tôi sẽ không bao giờ lại gần nhau.
Nhiều khi chẳng thấy bóng dáng Nakajima đâu, chỉ thấy đám đồ giặt phơi ngay ngắn (cách phơi đồ của hắn chỉn chu gần như một thứ nghệ thuật. Phơi kiểu ấy, có lẽ chỉ cần rút vào là mặc được ngay mà không cần ủi. So với hắn, cách phơi của tôi là quá cẩu thả, chỉ vo tròn rồi vắt ra ngoài cửa sổ), hoặc bóng dáng người phụ nữ dễ thường hơn tuổi Nakajima thỉnh thoảng vẫn ngồi thảnh thơi bên cửa sổ phòng hắn, thế nào tôi cũng nghĩ: "Ồ, vậy là hắn đã giữ bạn gái ngủ lại qua đêm, cố gắng đấy chứ!"
Cứ như thế, dần dần, từng mi li mét một, chúng tôi xích lại gần nhau.
Ngay cả khi mùa đông tới, trời trở lạnh, tôi vẫn thích ở cạnh cửa sổ và thường vẫy tay với Nakajima.
"Khỏe không?" tôi hỏi. "Khỏe!" Không nghe thấy tiếng, nhưng tôi hiểu vì môi hắn mấp máy theo khẩu hình như vậy kèm một nụ cười.
Tưởng chừng định mệnh đã sắp đặt cho hắn sống ở đó, nên chẳng ai khác có thể chia sẻ được những cảm giác này. Ngày nào cũng nhìn sang cửa sổ của nhau, tôi đâm ra có cảm giác như đang sống chung. Khi đèn tắt, tôi tự nhủ: "A, Nakajima ngủ rồi, mình cũng đi ngủ thôi." Khi tôi về quê lên, vừa mở cửa sổ đã thấy Nakajima xuất hiện ở ô cửa bên kia và chào, "Đã lên rồi đấy à!"
Chúng tôi không mảy may nhận ra rằng, bản thân việc chúng tôi luôn quan tâm tới động tĩnh của nhau một cách tự nhiên như thế, tai bỗng thính nhạy tới mức có thể phân biệt được tiếng mở cửa một cách dễ dàng như thế, chính là khởi đầu của tình yêu.
Trong quãng thời gian dài dằng dặc cho tới ngày đưa tiễn mẹ sang thế giới bên kia, tôi thường xuyên phải về quê. Trở lại căn hộ của mình sau mỗi chuyến đi, lòng tôi được lắng dịu nhờ ánh đèn hắt ra từ khung cửa sổ nhà Nakajima. Đó là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi duy nhất giữa chuỗi tháng ngày khó khăn ấy.
Ở quê, tôi có người mẹ sắp mất, có cha và những kỷ niệm đẹp đẽ với hai người, nhưng khi ra ga bắt tàu tối trở về nhà, tôi chỉ có một mình, mà mẹ lại chỉ có mình tôi là con.
Đó là một hành trình tôi không thể chia sẻ cùng ai.
Đứng trên sân ga buổi tối, với thực tế rằng mẹ sắp mất, kỷ niệm cũ và bầu không khí chán ngắt tỏa ra từ những con người đang sống cuộc sống bình thường kia như trộn lẫn với nhau khiến tôi chẳng còn phân biệt được gì. Tôi không biết mình thuộc về nơi nào, là người lớn hay trẻ con, sống ở đâu, bắt rễ vào đâu nữa, đầu óc tôi quay cuồng.
Tôi chẳng còn hơi sức để nghĩ được những chuyện như: Sao mình không yêu Nakajima? Sao không để hắn trở thành nguồn an ủi lớn hơn? Sao không để hắn trở thành chỗ dựa vững chắc hơn? Sao không để hình bóng trên nền cửa sổ kia trở nên gần gụi hơn? Như thế chẳng tốt hơn ư?
Giai đoạn ấy, Nakajima đã ở vào một vị trí vừa khéo. Nếu gần hơn hoặc xa hơn thế thì tôi nghĩ chuyện đã chẳng thành.
Hai ô cửa sổ bị ngăn cách bởi một con đường nên thực tế rất xa nhau, song tôi không thấy thế, lại còn có cảm giác chúng ăn thông với nhau. Tiếng nói của Nakajima đáng lẽ phải bị át mất bởi tiếng xe cộ, song kỳ lạ thay tôi tưởng như nghe được rõ ràng. Tôi cảm nhận niềm an ủi lớn lao khi gương mặt trắng trẻo và nụ cười vô ưu của Nakajima hiện ra trong bóng tối.
Lo đám tang cho mẹ xong, tôi cũng chẳng thông báo gì với Nakajima.
Trước đó, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn cùng đi uống cà phê nếu tình cờ chạm trán trên đường. Hôm ấy, sau ba tuần vắng mặt vì phải lo ma chay cho mẹ, tôi trở về căn hộ của mình, quét dọn nhà cửa xong, đang đến siêu thị mua đồ ăn thì gặp Nakajima. Hai đứa vào Starbucks, ngồi xuống cạnh nhau bên một cái quầy nhìn ra cửa sổ.
Tôi bỗng váng vất khi gặp lại tất cả những gì thân thuộc sau bao ngày xa cách: bầu không khí huyên náo, mùi cà phê, tiếng trò chuyện của đám thanh niên. Nếu mình có ra ma, tôi nghĩ cuộc sống bình thường với những chi tiết ấy sẽ là điều tôi lưu luyến nhất. Chắc chắn tôi sẽ nhớ nhất cái sự tầm thường và tẻ nhạt này.
"Kể từ giờ tớ sẽ không phải về quê vào các ngày cuối tuần nữa. Ở quê gần như chẳng còn ai thân thích nên thỉnh thoảng về là được," tôi nói. Nakajima nhíu mày như bị bỏng, nhấp một ngụm rồi hỏi, "Mẹ cậu mất rồi à?"
"Sao cậu biết?" Tôi ngạc nhiên.
"Tớ đoán thế, vì dạo này thấy cậu về quê suốt..." Nakajima đáp.
Không thể gọi đó là một lời giải thích thuyết phục. Tôi nghĩ là hắn đoán được qua dáng vẻ thiếu sức sống của tôi, hắn đúng là một kẻ rất nhạy cảm với trạng thái của các sự vật xung quanh. Soi vào cửa kính, trông tôi lúc này chỉ nhỏ bằng một phần so với bình thường. Có cảm giác hơi tiều tụy và nhợt nhạt. Quả thật, người nào tinh ý thì chỉ cần liếc qua cũng biết tôi vừa mất mẹ.
"Vậy là từ giờ trở đi, cuối tuần tớ không còn buồn nữa. Xin lỗi cậu nhưng mà tớ thấy vui. Thì bởi lẽ, thật là chán chết khi không có cậu, tuần trước, rồi cả tuần trước nữa, cửa sổ phòng cậu cứ tối đen. Cửa sổ phòng cậu rất được. Tớ nhận ra nó ngay trong khi những cái khác thì không. Không ồn ào, không hỗn tạp, mà lúc nào cũng sáng một cách lặng lẽ."
"Thật á?"
Biết phản ứng thế nào đây khi có người tỏ ra vui mừng trước việc mẹ mình mất, nhưng khi đã nghe đến nhàm tai những lời chia buồn chiếu lệ, tôi mới thấy thấm thía sự thật thà của Nakajima.
"Thật. Không có ánh sáng từ cửa sổ phòng Chihiro, tớ thấy khổ sở và buồn bã."
Lúc Nakajima nói ra ba tiếng "Chihiro", từng âm tiết trong tên tôi bỗng ánh lên như ngọc. Tôi kinh ngạc. Ồ? Chúng vừa mới phát sáng. Cậu thử nhắc lại xem nào!
Nhưng làm sao tôi nói ra đề nghị đó được, đành phải thầm nhai lại cách hắn gọi tên mình. Tôi nghe trong cách gọi tên của hắn có cả sự háo hức đầy gợi cảm mà lần đầu tiên tôi nhận thấy, pha lẫn chút gì đó tự hào.
"Thế thì, có lẽ việc tớ quay trở lại đây là đúng đắn." Tôi nói, và khóc một chút vì không cầm được nước mắt.
"Tớ hiểu khi mất mẹ thì đau khổ thế nào. Vì tớ cũng từng trải qua cảm giác ấy." Nakajima nói.
Không biết nhiều về hoàn cảnh của Nakajima, nên tôi chỉ nghĩ: hóa ra hắn cũng không còn mẹ.
"Ừ, nhưng âu cũng là con đường mà mọi người đều phải trải qua." Tôi vừa khóc vừa nói.
Tôi gần như ôm ghì lấy cốc trà Masala cỡ lớn đang cầm trên tay. Rồi chẳng hiểu tại sao, cảm giác nặng nề khi phải chứng kiến nhiều chuyện một cách bất đắc dĩ cũng như nỗi lo sợ vì mất gia đình và nơi chốn trở về bỗng nhiên vơi bớt, rồi phút chốc bỗng như tự do, nhẹ bẫng.
Sau đó chừng hai tuần lễ, vào một ngày cuối tuần, bằng một vẻ hết sức tự nhiên, Nakajima bắt đầu đều đặn sang nhà tôi chơi. Tựa hồ hắn thoắt một cái đã từ cửa sổ bên ấy bước sang cửa sổ bên này, mà cảm giác chẳng có gì thay đổi.
Hôm đó, lại đúng là lúc tình cờ gặp nhau trên đường, hắn hỏi, "À mà này, Chihiro đã có bạn trai chưa?"
Tôi trả lời, "Hiện giờ thì không. Trước đây tớ có qua lại với một biên tập viên, anh ta bận rộn suốt, chỉ rảnh rỗi vào những ngày cuối tuần. Từ khi tớ phải chăm mẹ ốm, hai bên không còn thời gian gặp nhau nữa nên đã chia tay."
"Ờ, ý cậu là mẹ cậu quan trọng hơn tay đó nhiều đúng không?"
Cái từ "tay đó" khiến tôi thấy vui vui.
Đối với tôi, bất cứ điều gì Nakajima làm cũng đáng yêu. Tôi chấp nhận mọi thứ ở Nakajima. Chúng tôi đã dành nhiều thời gian dõi về nhau từ khung cửa sổ của mỗi đứa, tỉ mỉ cóp nhặt từng khoảnh khắc chung ấy để ghép lại thành một điều gì đó ở nơi sâu nhất trong tim mình, bởi thế mà trên bề mặt, giữa chúng tôi chẳng có con sóng lớn nào.
"Có lẽ vậy. Nên tớ chẳng mấy đau buồn. Thật khổ sở khi cứ phải tranh thủ thời gian để gặp nhau. Không có anh ta thành ra lại dễ chịu. Thì cậu bảo, dạo ấy tớ chỉ muốn có thời gian ở một mình, để được ngủ cho đã mà." Tôi đáp.
"Tớ hiểu..."
Nakajima gật đầu. Hơi nhăn mặt mỗi khi gật đầu là thói quen của hắn.
Từ tối đó, hắn bắt đầu tới nhà tôi chơi, tự nhiên như ở nhà mình.
Chúng tôi bắt đầu cùng nhau dùng bữa, cùng nhau ra ngoài mua gà nướng (vì cả hai chúng tôi, đặc biệt là Nakajima, đều không ưa ăn quán nên chẳng bao giờ ra ngoài đi uống), chờ người kia tắm để đến lượt mình, chuyện gẫu trong lúc uống bia sau khi tắm, hoặc im lặng.
Cứ khi nào có Nakajima trong phòng là căn phòng lại sáng sủa một cách kỳ lạ, và lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình "có bạn", "không đơn độc".
Chẳng dựa trên căn cứ nào nhưng tôi mặc nhiên coi Nakajima là gay, người phụ nữ thỉnh thoảng ngủ lại nhà hắn chỉ là bạn, còn nhu cầu kia thì hắn đã giải quyết ổn thỏa ở bên ngoài.
Tôi luôn nghĩ về Nakajima thế này: ham muốn tình dục hầu như mờ nhạt; cơ thể gầy gò đến quái dị; thi thoảng cũng ăn ra trò, nhưng lúc đã không ăn thì hầu như chẳng ăn gì cả nên xét về tổng thể, hắn có vẻ ít năng lượng; quan hệ với phụ nữ thì có đấy nhưng không sâu sắc; và nếu có ra ngoài vào buổi tối thì chỉ là để tụ tập với đồng bọn gay loanh quanh đâu đó ở khu phụ cận.
Hoặc giả có thể vì lòng tự trọng mà tôi muốn nghĩ thế. Bởi lẽ hắn dường như chẳng thèm để ý tới tôi. Tệ tới mức, ví như tôi có thay đồ ngay trước mặt hắn thì chưa chắc hắn đã thấy ngượng.
Suốt cả tối qua, Nakajima không có vẻ gì là muốn ra về. Hắn viện đủ mọi lý do để trì hoãn, rốt cuộc tôi phải hỏi, "Nhà cậu đang có bọn bắt nợ hay bạn gái cũ đến à?"
"Hôm nay giống như cái ngày đã xảy ra chuyện chẳng lành trước đây, tớ cứ thấy bồn chồn. Đầu óc và cơ thể tớ có khả năng ghi nhớ rất kỳ lạ, cứ vào cái ngày kỷ niệm đáng sợ này là y như rằng tâm trạng lại có điều bất ổn." Nakajima nói. "Nhưng lúc này thì tớ chưa thể nói về chuyện chẳng lành đó, cậu đừng giận nhé. Hồi tưởng lại chi tiết quá sẽ khiến tớ càng thêm bồn chồn."
Ô hay, đây là nhà tôi, cậu tự tiện đến chơi rồi thích nói gì thì nói mà được à? Tôi muốn bảo hắn vậy, nhưng nhìn bộ dạng của hắn có vẻ khẩn khoản, hơn nữa câu chuyện xem ra sẽ nặng nề nên tôi quyết định không gặng hỏi thêm.
Tôi vốn chỉ hỏi lấy lệ: "Cậu ngủ lại đây chứ?", nhưng thấy hắn gật đầu, nên đành tặc lưỡi.
Tôi trải đệm, để nguyên đèn và đọc sách. Nakajima xem một bộ phim trên ti vi sau khi hỏi "Tớ xem chương trình này được không?" Suốt một lúc lâu chúng tôi không trao đổi câu nào. Thế rồi bộ phim kết thúc và Nakajima tắt ti vi, đúng lúc tôi vừa gấp sách vừa nghĩ, "Mình cũng chuẩn bị ngủ thôi. Có một người nữa ở trong phòng thật thích. Có tiếng động của con người làm mình thấy yên tâm" thì Nakajima cất tiếng, mắt nhìn lên trần nhà:
"Thật ra, tớ không thể làm tình được dễ dàng."
"Ồ, thế à..." Tôi đáp.
Tôi hơi ngạc nhiên, giống như khi nghe tỏ tình. Bởi tôi cứ ngỡ hắn luôn cố ý lảng tránh đề tài này.
Sau khi mất đi một người quan trọng đối với mình, tôi không còn ham muốn tình dục nữa. Giả sử trong lúc tôi đang thực sự cảm thấy như toàn bộ hơi nước vừa rút sạch khỏi người mình, mà Nakajima lại tỏ ra hăng hái thì chắc là tôi đã đuổi hắn ra khỏi nhà. Vì vậy chính tôi cũng luôn kín đáo tránh những việc gợi lên đề tài hoặc bầu không khí như vậy.
Tôi còn sợ một điều khác nữa: đó là nếu bây giờ, vì chuyện này mà tình cảm của chúng tôi rạn nứt, khiến tôi để vuột Nakajima thì tôi sẽ suy sụp mất.
Mệt mỏi vì chăm mẹ ốm, suốt thời gian qua tôi không còn muốn ngủ với bất cứ ai.
Có thể là tại ngày nào tôi cũng phải nhìn thấy những thứ như mông, bô, ống đựng nước tiểu. Không những thế, lúc ở viện, vì rảnh rỗi mỗi khi chờ mẹ đi xét nghiệm nên thỉnh thoảng tôi vẫn giúp đỡ ông cụ ở giường bên.
Có thể do tôi hơi mệt mỏi vì thấy rằng con người hóa ra chỉ toàn là thịt, thịt chứa đầy nước.
Lúc thay quần áo cho mẹ, từ cổ mẹ bốc lên một mùi mà chỉ có thể gọi đó là mùi nước. Bây giờ thì tôi thấy nhớ và muốn ngửi lại, nếu được tôi muốn quay ngược về thời điểm đó để ngửi mãi cái mùi ấy, nhưng bấy giờ thì tôi chẳng nghĩ được gì khác ngoài tâm trạng buồn bã: Ồ, con người hóa ra được làm từ nước.
Tôi không kể với Nakajima rằng nguyên nhân khiến tôi chia tay người tình trước là do tôi không đáp ứng được đòi hỏi tình dục của anh ta.
Công việc của anh ta vô cùng bận rộn, nên nếu gặp được nhau thì chỉ có thể là vào thứ Bảy, Chủ nhật. Vì thế, như một lẽ tất nhiên, anh ta sẽ đường đột tìm đến vào khoảng nửa đêm của những ngày trong tuần hoặc không thì chập tối ngày Chủ nhật. Sau đó chúng tôi sẽ ngủ với nhau, nhưng tôi rất, rất không có tâm trạng đó. Phải nói đấy là một người đàn ông cực kỳ sung sức, anh ta thèm được làm chuyện ấy ở mọi nơi, mọi lúc dù là sáng hay tối. Những khi khỏe khoắn thì như thế cũng vui, nhưng sẽ chẳng còn gì vui nữa khi có việc khác phải làm. Nghĩa là tôi hoàn toàn chẳng yêu gì con người ấy. Anh ta giống một bạn sex tình cờ gặp được khi bỗng nhiên nổi cơn thèm muốn. Trong khí thế hăng hái của những ngày đầu nảy sinh tình cảm, dường như tôi đã lầm tưởng sự thèm muốn ấy là tình yêu đối với anh ta.
Tôi nhận ra điều này bằng cách nào? Quả thật tôi đã không tự ý thức được mãi cho tới khi phát hiện thấy: hễ có anh ta ở trong phòng là tôi không muốn mở cửa sổ.
Vì tôi không muốn Nakajima trông thấy anh ta có những cử chỉ tự nhiên trong phòng mình.
Dù là với ai, nhưng nếu cứ cái kiểu như thế thì tôi nghĩ là mình không thể làm nổi.
Nói vậy, song chính bản thân tôi dạo gần đây cũng phải thừa nhận rằng, đúng là không khỏe thì không thể làm nổi chuyện ấy, mặc dù Nakajima mà tôi quý mến suốt ngày loanh quanh trước mặt. Ở cạnh một chàng trai trẻ trung thế mà tôi chẳng thấy rạo rực, cũng không có gì cần kìm nén. Vì thế nên tôi hoàn toàn không nghĩ gì đến nội tâm của Nakajima.
Tôi chỉ mơ hồ cảm thấy rằng biết đâu mình có thể thích hắn.
Tôi nghĩ mình không đời nào tin vào điều ấy, nhưng trong mọi chuyện, ở Nakajima luôn tỏa ra một bầu không khí đặc biệt khiến người ta dần bị thuyết phục, và khi ngâm mình trong bầu không khí ấy thì mọi sự dị dạng đều sẽ trở thành bình thường.
Chẳng hạn, từ khi ở cùng Nakajima, lần đầu tiên tôi nhận thức được một cách rõ ràng những suy tư trước đây và những ý định sau này của mình. Đó là bởi trong cách sống của hắn không bao giờ có sự chênh chao. Tôi sáng tỏ ra nhiều điều: ví dụ con người tôi cứ luôn thay đổi theo những ý nghĩ thất thường hết ngày này qua ngày khác, hoặc cố tự giày vò bản thân bằng cảm giác day dứt vì những ấn tượng cay nghiệt về tình cảnh của bố mẹ hay về cuộc đời của mẹ... Chẳng hạn, tôi luôn thầm cảm thấy có lỗi vì không thể thông cảm được với người mẹ lúc nào cũng cố gắng làm tất cả, tuy nửa vời, để chiều lòng thế gian, nhưng chưa đạt được điều ấy thì đã mất. Tôi đã luôn tự nhủ: Mình phải biết cảm thông với mẹ, bởi đã là con người thì ai cũng yếu đuối. Ở nhà quê, người ta không thể sống mạnh mẽ như thế được. Mình chỉ có một mình, lại sống ở thành phố nên gần như đã quên mất điều này, nhưng ở quê, mối liên hệ giữa con người vẫn còn quan trọng lắm, mà mẹ thì thuộc về nơi ấy. Mình đúng là một kẻ quá ngạo mạn, mình phải thay đổi.
Tuy nhiên, sau khi gặp Nakajima, nhìn hắn miệt mài sống mỗi ngày chỉ để làm những điều mình thích, lần đầu tiên tôi nhận thấy, hóa ra mình cũng cùng một dạng với mẹ: "Vốn không có khả năng đó, nhưng vì không dám khác người, nên lúc nào cũng cố tìm cách để chiều lòng thế gian."
Khi tự hỏi lối sống ấy sẽ đem lại gì cho cuộc đời mình sau này, tôi nhận ra rằng cuộc đời của mẹ và tôi, dù nhìn từ phía nào, cũng hoàn toàn khác nhau. Thời đại, suy nghĩ, những thứ được cho là quý giá, tất thảy đều đổi khác. Nhưng không có nghĩa là tôi không yêu mẹ, không kính trọng mẹ hay không thể tha thứ cho mẹ.
Sau khi cẩn trọng bóc đi từng lớp sự cảm thông giả tạo bề ngoài thì sẽ thấy một cảm giác tha thứ tinh khôi, nhẵn mịn như vừa khởi sinh từ đó.
Tôi phát hiện ra một tình cảm mới mẻ trong mình và giác ngộ: "Ồ, vậy là mình đã lớn." Đến lúc này, lần đầu tiên tôi ý thức được rằng: vì sống độc lập, từ lâu Nakajima đã là một người lớn.
Hắn không chỉ rất người lớn, mà còn rất đàn ông mặc cho vẻ bề ngoài yếu đuối.
"Đấy là lý do tại sao tớ lại như thế này, chứ không phải là tại Chihiro không hấp dẫn. Tớ xin lỗi." Nakajima nhìn tôi trong bóng đêm, nói vẻ ngượng ngùng.
"Có gì đâu. Mà ai bảo tớ mong đợi điều ấy nào? Làm sao cậu biết được tâm trạng của tớ?"
"Thế á? Tớ cứ nghĩ con gái là như vậy đấy. Đã thân thiết rồi mà không ra tay là thể nào các nàng cũng giận." Nakajima nói.
"Giờ thì tớ chưa giận đâu. Với lại, bọn mình mới đang bắt đầu trở nên thân thiết, nói thế nào nhỉ, mà thật ra tớ chẳng có những suy nghĩ kiểu như thế." Tôi đáp. "Cậu yên tâm đi."
"Ừ. Mà này, thực sự đã có rất nhiều việc xảy ra với tớ. Ngày xưa ấy. Vì thế tớ sợ chuyện đó lắm, sợ đến phát run lên. Sợ da trần đụng chạm với người khác. Sợ nhìn người khác trần truồng. Sợ quá nên không dám đến nhà tắm công cộng hay suối nước nóng nữa. Cậu có tin tớ không?"
Tôi không biết đã có chuyện gì, nhưng chắc là nghiêm trọng.
"Nghe một câu chuyện trắc trở của người khác cũng giống như cầm tiền của người ta vậy, không thể chỉ nghe xong để đấy. Bởi khi đã nghe nghĩa là ta đã nhận lấy trách nhiệm."
Đó là câu mẹ thường nói. Mặc dù nghĩ vậy thì khó sống quá, nhưng tôi phải thừa nhận có thể thế thật. Thành thử tôi mắc một cái tật, ấy là hễ người khác định nói ra điều gì quan trọng, tôi sẽ lập tức co mình lại.
Vì có mẹ làm nghề tiếp khách, ngay từ nhỏ tôi đã biết rất rõ chẳng có giới hạn nào trong những câu chuyện trắc trở. Nên khi trở thành sinh viên, nghe những câu chuyện bất hạnh mà đám bạn gái thường tỏ ra vòng vo mỗi khi tâm sự, tôi chỉ coi như trò trẻ con. Đây là một loại kinh nghiệm tôi có được do phải nghe quá nhiều.
Rồi cả những chuyện kiểu: cậu đã làm tình bao giờ chưa, vân vân, thì ngay từ khi còn rất trẻ tôi đã hiểu được rằng, thật ra ở một mức độ nào đó, nó chẳng có gì ghê gớm.
"Đừng nói nữa vậy. Những chuyện khó mở lời thì càng chẳng nên nói ra." Tôi ngăn. "Nếu tớ thực sự muốn chuyện ấy trong khi Nakajima bất lực, thì tớ đã đuổi thẳng cổ cậu ra khỏi nhà và đi kiếm bạn trai khác rồi, không vị tình hay nhân nhượng gì đâu. Nên cậu khỏi phải bận tâm. Bây giờ chưa phải lúc để có tâm trạng đó. Thật đấy."
"... Ừ."
Nakajima lặng lẽ khóc.
Tôi bỗng thấy thắt lòng như nhìn một đứa trẻ nhỏ. Vì hắn khóc như một đứa trẻ. Tiếng khóc không lối thoát, như đang tỏ bày với riêng Thượng đế. Tôi muốn ôm hắn vào lòng, nhưng nghĩ biết đâu làm thế cũng sẽ khiến hắn sợ nên bảo: "Để tớ nắm tay cậu ngủ nhé!", rồi cầm lấy tay Nakajima. Bàn tay còn lại vẫn bưng mắt không rời, cứ như vậy Nakajima càng lúc càng thổn thức. Tôi nắm mãi, thật chặt bàn tay gầy, lạnh và khô của hắn.
Nhiệt độ bàn tay hắn nói với tôi về một cái gì đó bất lực, không thể vãn hồi. Tôi không hiểu lắm, nhưng tôi đoán dễ là ngày xưa hắn từng bị ngược đãi tình dục. Tôi nghĩ đã có cái gì đó bị hủy hoại một lần đến tan nát tới nỗi không thể chữa lành được nữa, hoặc để chữa lành sẽ phải mất nhiều thời gian.
Tôi nhận ra mình đã phạm phải sai lầm. Tôi thật không nhạy cảm trước những việc mình chưa từng trải qua. Tôi đã không hình dung ra được mức độ méo mó trong con người Nakajima.
Hẳn là từng biểu hiện thân mật nhỏ nhoi của một cô gái bình thường như tôi thể hiện ra với hắn đã gây cho hắn những dồn nén.
Nhìn gương mặt đầm đìa mồ hôi lúc Nakajima thổ lộ những lời ấy, tôi thấy hơi sợ, sau đó lại là cảm giác nặng trĩu. Giờ đây tôi vẫn còn đang kiệt sức, tôi quá mệt mỏi để bắt đầu một điều gì đó, nhưng tôi định chỉ ít lâu nữa thôi sẽ yêu, sống trẻ trung và vui tươi hơn. Tôi định sẽ đi xem phim, cãi vã, hẹn hò, ăn những thứ ngon lành bên ngoài (cái thế giới bên ngoài mà Nakajima rất ghét), sử dụng thời gian của cuộc đời mình một cách phung phí và hào hứng như vậy. Tôi không muốn đối diện với những thứ nặng nề. Tôi ước được như thế, nhưng nếu yêu con người này, tôi sẽ không thể đi tắm suối nước nóng và sex sẽ trở thành khổ hạnh. Vào khoảnh khắc ấy, tôi vẫn còn suy nghĩ rất đơn giản rằng: mình không thích thế, mình muốn sống vui vẻ cơ.
Nhưng Nakajima đã cất tiếng bảo tôi, bằng giọng mũi và đôi mắt như của một nam sinh tiểu học.
"Tớ thử được chứ? Để xem mình có làm được không. Nếu không phải bây giờ, tớ có cảm giác cả đời mình sẽ không thể làm được nữa."
Và rồi tôi đáp: Có gì đâu mà không được.
Vì hắn sợ phải cởi hết quần áo nên chúng tôi vẫn mặc nguyên đồ ngủ, đụng chạm nhau trong tiếng sột soạt. Nakajima có một cơ thể khác thường và hình như chẳng lấy gì làm thích thú. Sex gì mà cứ như giả vờ, khiến tôi có cảm giác đang làm tình với một người đang nghĩ mình làm việc xấu.
Tôi vừa nghĩ về cơ bản chắc là mình phải thay đổi quan điểm nếu muốn làm chuyện này lâu dài với hắn, vừa thấy một cảm giác thật kỳ lạ.
Tuy nhiên, ở chỗ này chỗ kia trong những cử động của chúng tôi cũng có một vài tia sáng, chứ không phải hoàn toàn vô vọng. Kỷ niệm về cái đêm đầu tiên của hai đứa là như vậy đấy.
Sau khi tiễn mẹ về bên kia thế giới, dòng chảy của biết bao thứ đột ngột thay đổi.
Tôi không phải thường xuyên về quê nữa, Nakajima đã sang nhà tôi chơi. Dường như mỗi ngày tôi đều bắt gặp một giấc chiêm bao lạ lùng với câu hỏi: mọi chuyện đã như thế từ khi nào? Và cảm thấy mình đang sống trong giấc mơ của một người không quen biết. Tôi mơ hồ nhớ lại về hài cốt, về nhà hỏa táng và tự hỏi: điều đó đã xảy ra thật ư?
Thế rồi tôi nhận được một công việc quan trọng.
Tôi vốn là một họa sĩ làng nhàng chuyên vẽ bích họa.
Một vài lần được giới thiệu trên ti vi nhờ cách phối màu lạ mắt, lại là phụ nữ đơn thân có thể đi bất cứ đâu (nhưng tôi thường phải thuê người do không biết lái xe), thành thử tôi nhận được khá nhiều công việc ở khắp nơi. Mặc dầu chẳng mấy tiếng tăm, song nhu cầu đối với công việc này lúc nào cũng sẵn, nên tôi liên tục phải đi để vẽ lên những tường nhà, góc vườn, hay bức tường sắp đổ của bảo tàng hải dương học, nhà kho của hội đồng thôn. Mục đích của tôi là được vẽ tranh ngoài trời, do đó về cơ bản tôi không đáp ứng những yêu cầu phải vẽ một cái gì cụ thể. Nhưng rồi tôi cũng chấp nhận những đề nghị chung chung kiểu như vẽ hoa quả, động vật hay biển v.v... Cho tới giờ, tôi đã vẽ lên hai mươi bức tường, nhà kho và đồ chơi công viên.
Nói vậy nhưng nếu hỏi tôi có thực sự muốn kiếm sống bằng cách này không thì câu trả lời là: không hẳn. Nhận được sự khen ngợi sau một lần làm thử là lý do duy nhất khiến tôi tiếp tục.
Tôi chỉ đơn giản là thích cái cảm giác của cuộc sống trong lúc vẽ tranh tường nên không đặt nặng giá trị nghệ thuật.
Bởi đằng nào rồi cũng có ngày bức tường bị phá đi, hoặc sơn lại do những dự tính của nhà nước nên tôi hoàn toàn không để tâm tới chi tiết. Có được những giây phút vẽ tranh thật vui, vừa vẽ vừa trò chuyện hoặc kết thân với mọi người xung quanh, rồi để bức vẽ làm ấm lòng những người dân sống gần đó trong ít lâu, với tôi như thế là đủ.
Bức tường người ta nhờ tôi vẽ lần này nằm trong khuôn viên trường Đại học Nghệ thuật mà tôi từng theo học. Đó là một bức tường thấp, ngăn cách khuôn viên trường đại học với không gian xung quanh tòa nhà trước đây là vườn trẻ nhưng nay đã trở thành lớp vỡ lòng tư thục. Mặt tường phía trường đại học có một bức bích họa đã cũ, nhưng phía lớp vỡ lòng thì chỉ sơn vàng, vì vậy họ nói cứ vẽ gì tùy thích.
Địa điểm vẽ ngay gần nơi tôi ở, lại là tòa nhà đã lưu giữ nhiều kỉ niệm, nên khi Sayuri, cô bạn hồi đại học hiện đang dạy dương cầm tại lớp vỡ lòng đó đưa ra đề nghị, tôi đã phấn khởi nhận lời.
Tòa nhà của lớp vỡ lòng tuy đã cũ nhưng cũng dễ thương, nó được một kiến trúc sư người thành phố này dồn bao tâm sức xây dựng vì lũ trẻ, với mong muốn tạo nên một tòa nhà lưu lại cho hậu thế.
Từ hồi còn học ở trường, tôi càng nhìn càng yêu biết bao hình dáng của bức tường và tòa nhà, cùng với khoảng sân và ngọn núi giả xinh xắn được làm cho lũ trẻ, tôi thường tựa lưng vào bức tường đó ăn cơm hộp trong lúc ngắm nhìn điệu bộ của chúng. Một tòa nhà ấm cúng đến độ tôi ước mình được học ở đó nếu tôi là một đứa trẻ.
Quá trình xuống cấp diễn ra nhanh chóng đến mức nguy hiểm, mà sửa chữa thì rất tốn kém nên ở đâu đó người ta đã bàn tới chuyện dỡ bỏ, ngay đài truyền hình cũng đưa tin. Tôi còn cùng nhóm người muốn bảo vệ các công trình của địa phương trả lời phỏng vấn về chủ đề liên quan tới việc vẽ tranh tường mà tôi được họ nhờ.
Tuy nhiên, tôi chẳng can dự sâu vào những chuyện mang tính chính trị như vậy, mà chỉ quan tâm tới tòa nhà, vì xét về tính chất thì đó là nơi lúc nào cũng đầy ắp trẻ thơ, nên tôi muốn ghi lại trên tường cái cảm xúc khi nhìn vào những đôi mắt ấy trong lúc vui đùa với chúng. Tôi định sẽ dành cả mùa xuân này cho việc đó nên chưa nghĩ đến việc nào xa hơn. Mà có nghĩ xa cũng chẳng ích gì.
Công việc sáng tạo là như vậy, ta cứ tưởng ta đang tự mình xoay vần mọi thứ và cảm hứng sẽ tìm đến với ta, nhưng sự thực ta chẳng thể làm gì một mình.
Chắc chắn lũ trẻ sẽ giúp tôi tạo ra bầu không khí. Chúng sẽ cùng khắc sự vĩnh hằng lên tường. Sự vĩnh hằng ấy sẽ còn mãi cho dù bức tường bị phá bỏ. Như vậy là đủ.
Dạo gần đây, tôi đã phải làm nhiều việc mình không quen, nào chăm mẹ ốm, nào tổ chức tang lễ, những thứ giống như cặn ghét của người đời từ đó bám vào tôi, nên tôi muốn lao đầu vào công việc để rũ sạch tất cả.
Những khi cật lực chăm sóc mẹ, đầu óc tôi chỉ có mỗi một ý nghĩ là mình thật vất vả, nhưng thực tế thì hoàn toàn không, vì lúc nào tôi cũng hướng suy nghĩ của mình về những điều tốt đẹp, hoặc là về phía ánh sáng. Tôi chỉ lấy làm lạ là, nhiều lúc nảy ra điều gì đó thì lại không thể trò chuyện được với mẹ.
Tôi đã lo lắng và làm biết bao điều vì mẹ, vậy mà mẹ hoặc đang trong trạng thái hôn mê hoặc thẫn thờ, chẳng tỏ vẻ quan tâm. Đó là điều duy nhất khiến tôi đau lòng.
Cuộc trao đổi chiều nay diễn ra suôn sẻ.
Tôi đã trò chuyện cởi mở với người chủ của lớp vỡ lòng, một cặp vợ chồng từng làm việc tại vườn trẻ bên Mỹ, và đi đến thống nhất là sẽ vẽ những con vật sống động, tuy còn băn khoăn đôi chút về nhiều chỗ lồi lõm trên tường, nhưng tôi hiểu rằng nếu trát lại sẽ vô cùng tốn kém cả về thời gian cũng như tiền bạc, nên thay vào đó, có thể tạm khắc phục bằng sơn lót, hơn nữa lại không cần trải bạt vì dưới chân tường là nền đất.
Như vậy công việc dễ thở hơn nhiều, phí tổn do thành phố chi trả, tôi sẽ nhận được tổng cộng năm trăm ngàn yên, số tiền để một đứa không biết lái xe như tôi dư sức thuê một người phụ việc trong vài ngày. Trong trường hợp thuê người, họ sẽ cung cấp xe luôn, như thế việc hàng ngày phải vận chuyển hai mươi thùng màu nước cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Thang thì tôi đã mượn được của trường, nếu khéo ra còn có thể cất tạm dụng cụ trong chỗ trống của nhà kho. Một khởi đầu tốt hơn tôi tưởng. Phân nửa những công việc như thế này được thực hiện ở nơi công cộng nên một khi đã vướng mắc thì sẽ dằng dai mãi. Nhưng lần này cảm giác thật dễ chịu.
Trong lúc khảo sát chiều dài bức tường, tôi tự hỏi chẳng biết hôm nay Nakajima có sang ngủ nữa không?
Tôi không háo hức, nhưng thấy cảm giác ấm áp lan tỏa trong lòng.
Như một kẻ vừa có người yêu mới.
Rồi tôi lại chợt tự hỏi: nếu sau này xuất hiện một người mà tôi yêu đến cuồng nhiệt khiến sự có mặt của Nakajima ở nhà tôi trở nên bất tiện thì sao? Bây giờ thì tôi chưa thể nói gì được. Hắn có một sức ảnh hưởng mang tính quyết định tới tôi, nhưng sức ảnh hưởng và tình yêu có lẽ là hai thứ khác nhau.
Thời gian này còn đang vui vẻ nên tôi chưa nghĩ tới chuyện ấy, nhưng nếu nó xảy ra khi quan hệ giữa hai đứa đã trở nên sâu sắc thì vấn đề không còn đơn giản nữa.
Vả lại, nếu vì thế mà tôi đuổi hắn ra khỏi nhà thì hắn sẽ ra sao? Liệu hắn có tự sát hay phát điên không?
Bản thân tôi không có vết thương lòng nào sâu sắc, thành thử tôi không thấm thía được tâm trạng của một con người đã phải trải qua những điều kinh khủng trong quá khứ. Và ắt là tôi không được phép cho rằng mình hiểu. Thừa nhận mình không hiểu những chuyện mình thực sự không hiểu chính là tôn trọng người đó.
Nhưng, tôi tự nhủ, cũng chẳng sao nếu mình tiếp tục thích Nakajima.
Chúng tôi đã khởi đầu quá mức thận trọng, và tôi đang bắt đầu thích Nakajima. Về chuyện này, dù cho khiêm tốn cũng phải công bằng mà nói, nếu là người khác thì chúng tôi đã dừng lại rồi. Ở hắn có cái gì đó mang tính quyết định.
Khi định xây nhà, một số người muốn tự mình tìm đất, thuê người thiết kế, lựa chọn từng loại vật liệu làm tường. Nhưng tôi không phải típ người như vậy, tôi thích ngắm nghía kỹ càng theo một cách riêng những gì mình tình cờ phát hiện ra.
Vẽ tranh tường cũng vậy, có người sau khi đã trát kín mạch vữa, biến bức tường thành một tấm toan trắng tinh, cân nhắc sự hài hòa với màu sắc xung quanh, lựa chọn mô típ, dựng sẵn phác thảo rồi mới phóng lên tường.
Nhưng tôi lại thuộc kiểu người chỉ lấy vẽ tranh làm vui nên cứ hăng say vẽ cái đã, chẳng cần cả nghĩ, tới chừng nào việc sáng tác gặp trở ngại, tôi sẽ bằng mọi cách giải quyết để hoàn thành. Tóm lại, tôi theo chủ nghĩa cứ tới nơi rồi hẵng tính, mọi thứ đều đã sẵn sàng ở hiện trường, và hoàn toàn không tin vào những gì đã nghĩ sẵn trong đầu. Tôi muốn vừa quan sát hình dáng các sự vật và dòng chảy của thời gian, vừa vận động cơ thể, cố gắng ở ngoài trời càng lâu càng tốt.
Thế là, trong phần lớn các trường hợp, một sự hài hòa đến bất ngờ sẽ tự nhiên thành hình sau khi mọi thứ hoàn tất. Những lúc ấy, tôi tưởng như mình vừa thể hiện xong một vũ điệu thời gian thực cùng thế giới.
Cảm giác như mình đã nhảy cuồng nhiệt, bằng cả cơ thể, với nơi chốn đó, với miền đất đó... Và rồi nói lời chia tay mãi mãi, để hướng tới miền đất tiếp theo.
Tất nhiên, tôi thừa hiểu rằng đây là một phong cách không tinh tế. Nhưng với tôi, bích họa chỉ là thú vui chứ không phải một nghề chính thức. Do đó, tôi tạm hài lòng với hiện tại. Tôi vẫn đang cân nhắc xem mình có định chọn nó làm nghề nghiệp tương lai hay không, vả lại những trở ngại do cách làm hiện nay gây ra cũng sẽ được cải thiện theo cách riêng của tôi tùy theo từng trường hợp. Biết đâu cứ như thế rồi một ngày kia tôi sẽ trở thành họa sĩ tranh tường chuyên nghiệp. Tôi tin nếu trau chuốt để phong cách ấy trở thành điêu luyện và mọi chuyện thực sự thuận lợi, thành quả sẽ đến với mình. Còn lúc này vẫn là giai đoạn âm thầm tiến về phía trước.
Tất nhiên không khỏi có người bài xích cách làm của tôi. Đại khái như: ôi dào, kỹ thuật như thế, tranh thì nguệch ngoạc như thế mà cũng đòi lên truyền hình trả lời phỏng vấn như thể nghệ sĩ tiếng tăm không bằng. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là tôi chỉ làm theo một phương pháp duy nhất, đã được mài giũa và tuyệt đối không nhượng bộ.
Đó là luôn suy xét xem những bức tranh, vì được vẽ ở ngoài trời, liệu có lỗi thời sau hàng chục năm hay không?
Trước tiên, cần quan sát thật kỹ dòng chảy của cái tinh thần lẩn khuất trong mỗi khung cảnh và nơi chốn, thì rồi tự nhiên những màu sắc và mô típ phù hợp sẽ hiện ra. Nếu tôi nắm bắt chính xác điều đó, tạo được sự hài hòa thực sự với mọi thứ xung quanh và tinh thần của tôi không rệu rã thì bức tranh sẽ chẳng bao giờ lỗi thời cho dù mười năm, hai mươi năm, thậm chí hàng trăm năm trôi qua. Riêng về điều này thì tôi tự tin tuyệt đối, và đã xác định một cách rõ ràng, giống như người thợ nề tự hào về ngôi nhà do mình cất lên. Tôi đã xác định, tuyệt nhiên không dao động. Không mơ hồ. Tôi đang thách thức thế giới bằng việc khắc lên một dấu ấn nhỏ của mình, giống như lũ chó đái để đánh dấu lãnh địa của chúng.
Tôi không biết có nên đánh đồng tình yêu với cái gọi là sự chuẩn bị, hoặc kế hoạch, hoặc ảo tưởng hay không, tuy nhiên giữa tôi và Nakajima không hề tồn tại sự chuẩn bị, kế hoạch hay ảo tưởng ấy. Chỉ khi có Nakajima trước mặt, ở chỗ nào có hai đứa, chúng tôi mới thúc đẩy việc ấy.
Đâu còn cách nào khác khi mà chúng tôi luôn sống dựa vào những cảm giác thực tế.
Tôi nghĩ, người như Nakajima, một người khác thường đến vậy, trên đời này chắc chỉ có một mà thôi.
Tôi chưa từng thấy ai khác đứng bên cửa sổ đêm mà im lìm nhường ấy. Ngay từ đầu hắn đã không tin vào xã hội và con người, nên chỉ đứng bên lề. Dáng đứng ấy vừa bi ai vừa mạnh mẽ khiến tôi cứ phải mãi ngắm nhìn.
Giờ đây nhớ lại, tôi thấy mình dạo đó giống một nữ sinh cấp hai đang ôm mộng đơn phương khi ngắm cái bóng ngược sáng của Nakajima bên cửa sổ. Tôi muốn khắc sâu hình ảnh ấy vào đáy mắt. Tôi chỉ nghĩ, dáng hắn đứng sao mà đẹp thế.
Nao lòng quá...
Tôi nghĩ vậy trong lúc ngước nhìn những cành cây khô. Chúng có hình những bàn tay xòe rộng, ánh sáng yếu ớt đặc trưng của lúc giao mùa từ đông sang xuân đang rọi xuống qua những kẽ hở.
Dạo trước tôi qua đây hằng ngày nên nắm rất rõ địa điểm này. Chắc sẽ không có chuyện tôi vẽ ra những thứ kỳ quặc. Tuy nhiên tôi vẫn đứng thêm một lát để xem mình có bỏ sót gì không. Tôi quyết định vẽ một bức tranh vừa hơi buồn, vừa hơi vui. Một phác họa lờ mờ đã hiện trên bức tường, giống như một cái bóng tuyệt đẹp.
"Chihiro, về thôi chứ?"
Sayuri lên tiếng. Cô chính là người đã đem dự án tranh tường lần này đến cho tôi. Hình như tiết dạy dương cầm của cô vừa kết thúc. Lúc này là khoảng thời gian nghỉ giải lao trước khi bọn trẻ lại ùa tới vào cuối buổi chiều.
Tham gia vào nhịp sống thường nhật của mọi người theo cách này thú vị như đi du lịch vậy.
"Tớ xong rồi, hay là bọn mình đi uống gì đi?" Tôi đề nghị.
"Tớ sợ không có nhiều thời gian đến thế." Sayuri nói, tôi bèn đưa cho cô một trong hai lon cà phê mua từ trước.
"Cậu vẫn để ý đến anh chàng đó à? Cái anh chàng dị thường, gầy nhẳng, đang theo học tại một trường đại học danh giá gì đó." Sayuri hỏi.
"Phải đấy, lần trước tớ đã kể rồi còn gì? Hắn tên là Nakajima. Đúng ra thì không còn là để ý nữa mà có lẽ đã bước ở vào giai đoạn hẹn hò rồi."
"Cậu ta học ngành gì ấy nhỉ?"
"Thấy bảo nghiên cứu về nhiễm sắc thể, nhưng cụ thể là làm gì thì tớ mù tịt. Hắn đang viết luận văn, cái gì như là ‘Nghiên cứu hội chứng Down bằng phương pháp cấy nhiễm sắc thể 21 ở người...', nhưng khó lắm, nghe giải thích mãi mà không hiểu. Đã thế hắn lại viết bằng tiếng Anh, thành thử có muốn đọc trộm cũng đành chịu."
"Đúng là khó nhỉ, đến nhan đề cũng còn không nhớ nổi nữa là. Điều duy nhất mà tớ hiểu là cái câu cậu bảo cậu không hiểu. Nhưng kể cũng lạ, không hiểu gì về cái cậu ta cho là quan trọng nhất, vậy mà quan hệ hai người vẫn cứ tiến triển nhỉ."
"Thế đấy, giá mà là những ngành như nhân học văn hóa, dân gian học, hoặc văn học Pháp thì ít ra còn được."
"Ờ, như thế thì ít nhiều vẫn còn hiểu được."
"Không hiểu đôi khi lại tốt. Hiện giờ với tớ, mỗi ngày đều có vẻ rất ổn. Tớ chưa bao giờ thấy lòng mình yên bình đến thế." Tôi nói. "Lắng dịu, yên tĩnh, nhưng lại có gì đó dữ dội, tựa như đang ở dưới nước vậy. Mọi thứ trần tục đều khuất xa dần. Tớ không nghĩ quan hệ của bọn tớ tới đây sẽ có gì bùng nổ, nhưng cũng không tính đến việc chia tay."
"Mới quen nhau ít lâu mà đã đạt đến cảnh giới đó rồi ư!" Sayuri cười.
Tôi nói:
"Chưa bao giờ hỏi, nhưng tớ biết một điều rằng ngày xưa hắn đã gặp phải chuyện gì khủng khiếp lắm. Cậu biết đấy, chỉ cần ở cạnh nhau là có thể cảm nhận được thôi mà. Bởi vậy, tớ luôn cố gắng để không vội vàng, nhưng thành ra lại chìm nghỉm đi mất. Hay là tớ nên làm gì đó, chẳng hạn như ép hắn phải kể?"
"Cần gì chứ? Nếu cậu cảm thấy ổn. Chỉ mong sao đấy không phải những chuyện chẳng ra gì như phạm tội, trốn nợ hay phá sản này nọ. Mà cho dù thế cũng chẳng sao, miễn là nó đừng trở thành vấn đề trong hiện tại."
"Không, xét từ tính cách con người hắn, tớ nghĩ chắc là không có những chuyện như vậy. Biết đâu lại chẳng có gì hết cũng nên. Tớ chỉ nghe hắn kể rằng hắn rất gắn bó với mẹ, nên khi mẹ mất đi hắn bị sốc nặng, nhưng tớ cảm thấy còn có một tổn thương sâu sắc hơn trong hắn chứ không chỉ có thế."
"Nếu vậy thì mong sao chuyện đó đừng gây ra điều gì khủng khiếp bên trong cậu ta."
"Tớ cảm nhận được sự khủng khiếp ấy, nhưng cầu mong là nó không nghiêm trọng đến mức không thể sống tiếp được nữa. Dù sao thì hắn cũng vẫn đang sống cho tới thời điểm này. Vả lại, cứ âm thầm mà sống thì chắc sẽ không sao."
Tôi nói với giọng khẩn cầu. Mong rằng hắn tiếp tục sống.
Tôi luôn không biết phải làm gì với sự khổ sở của Nakajima, điều mà tôi phát hiện ra khi ở cùng hắn. Tôi biết một Nakajima vừa la hét vừa bật dậy và run rẩy lúc nửa đêm; một Nakajima vã mồ hôi ở chốn đông người; một Nakajima hễ cứ nghe một bản nhạc mặc định nào đó là đau đầu; một Nakajima kể rằng suốt một thời gian dài từ khi mẹ mất, hắn chỉ muốn sớm đi theo mẹ. Những điều này tôi dần nhận ra khi ở cùng hắn, tuy là những mảnh ghép rời rạc.
Có dương chắc chắn phải có âm. Ánh sáng mà lớn thì bóng tối đối lập với nó cũng lớn. Tôi cảm thấy Nakajima, như một sinh vật trong truyền thuyết, không thể tự kiểm soát được sức mạnh của chính mình.
Sayuri nói:
"Do đặc thù công việc, tớ đã từng gặp rất nhiều đứa trẻ đáng thương. Không kể những trường hợp có tính cách tàn nhẫn bẩm sinh, chứng rối loạn tâm thần do tổn thương thực thể não thì nhiều nhất vẫn là do vấn đề của cha mẹ. Tớ cũng thường chứng kiến những cuộc đời được làm lại sau khi một cái gì đó, có thể chỉ là một phần rất nhỏ, bị tê liệt hoặc hủy hoại vì cha mẹ lũ trẻ có vấn đề trong thời kỳ chúng còn thơ dại. Đúng là có những nỗi khủng khiếp ăn sâu bên trong chứ không chỉ khơi khơi bên ngoài. Sự hủy hoại nhân cách thì lại muôn hình muôn vẻ và phức tạp nên cũng chẳng có cách nào giải quyết. Cũng may là tớ dạy đàn piano, chứ làm giáo viên mầm non thì sẽ phải tiếp xúc với cha mẹ lũ trẻ, mà như thế thì tớ cảm thấy nhàm chán vô cùng. Thời buổi này thực sự có quá nhiều gia đình bị hủy hoại theo những cách hết sức lạ lùng. Cả các ông bố bà mẹ lệch lạc về mặt nhân cách nữa chứ."
Tôi gật đầu. Chỉ cần có mặt ở nơi vẽ tranh tường, tôi cũng đủ hiểu điều đó. Trong nhiều người đến tham gia, có cả những ông bố bà mẹ và những đứa con mà thời xưa không bao giờ có. Những linh cảm mách bảo tôi rằng Nakajima không thuộc vào số ấy.
"Chắc chắn hắn không phải một người bình thường, nhưng chắc chắn cũng không có gì phức tạp. Hẳn là đã có một sự kiện hệ trọng nào đó trong quá khứ của hắn. Tuy nhiên đối với trường hợp của hắn, tớ biết dù rằng bố mẹ hắn từng ly hôn nhưng hình như không phải do mâu thuẫn nặng nề, vả chăng tình yêu của mẹ hắn rất mãnh liệt. Tóm lại, xem chừng chẳng có gì đặc biệt xảy ra với hắn cũng như hắn không có ấn tượng bất thường nào về vấn đề của bố mẹ. Đấy là theo những câu chuyện chắp nối tớ nghe được. Nói gì thì nói, hơn hết cả, hắn là một người tốt tự đáy lòng... Chỉ hiềm, tớ phải nhắc lại, riêng điều này thì tớ biết, rằng đã có một cái gì đó rất dữ dội xảy đến với hắn."
"Chẳng hạn cái gì?"
"Chẳng hạn bị bắt cóc hoặc bị kẻ nào đó ngược đãi tình dục, đại loại thế."
Khi nghe chính mình nói vậy, có điều gì đó bỗng trở nên rất sáng tỏ trong tôi.
Đôi khi vẫn xảy ra những việc như thế. Tự mình nói ra, rồi tự mình bị thuyết phục. Tôi chợt hiểu, ở đó đã có sẵn cái gần giống với câu trả lời. Nhất định là như thế. Nhưng dù sao tôi vẫn phải tiếp tục câu chuyện.
"Hơn nữa, hắn lại rất khác thường, nói như thế nào nhỉ, kiểu như luôn lánh xa phù trần. Hay nói đúng hơn, ở hắn có một vẻ siêu việt. Cứ cho là chưa từng có chuyện gì xảy ra với hắn, thì tớ vẫn cảm thấy tư chất ấy đã tiềm tàng sẵn trong con người hắn rồi. Dù sao cũng không vội, tớ sẽ chờ xem thế nào. Bọn tớ đều là kiểu người phải mất nhiều thời gian để quen nhau, cũng như để nghe được câu chuyện của nhau hoặc để làm bất cứ điều gì khác."
Trong lúc nói, tôi dần nhận ra rằng không phải mình không suy nghĩ một cách nghiêm túc về chuyện của Nakajima. Tâm trạng vừa như muốn biết, vừa như không muốn biết.
Chính vì vậy mà tôi cảm nhận được. Rất có thể bản thân tôi đang bắt đầu một quyết định thực sự.
Có thể tôi đang thích, không biết tự bao giờ, nhưng có thể tôi đang thích hắn rất nhiều. Có thể lần đầu tiên trong đời tôi đang thích một chàng trai với tư cách một cô gái theo đúng nghĩa, chứ không phải chơi bời.
Tôi nhận ra điều đó bởi lẽ sự thận trọng của tôi thật giống cung cách của mẹ đối với bố.
Càng yêu bao nhiêu càng thận trọng bấy nhiêu cũng là đặc trưng của mẹ.
"Thế còn tiền? Cậu ta có tiền chứ?"
"Có. Hắn bảo cha hắn sẽ chu cấp cho tới khi hắn hoàn thành chương trình tiến sĩ, vả lại hình như mẹ hắn cũng có tài sản để lại. Hiện giờ hắn vẫn có một căn hộ riêng, nhưng hắn bảo vì buổi tối ở nhà tớ nên góp chung tiền ăn và tiền điện nước. Tháng nào hắn cũng tính toán một cách cẩn thận, rạch ròi đến phát sợ, rồi đưa tiền đầy đủ cho tớ. Chính xác tới từng giờ, tới từng đồng yên một."
"Nghĩa là về khoản ấy cậu ta rất sòng phẳng."
"Đi hỏi cả chuyện này nữa, tớ thấy Sayuri đúng là người lớn rồi đấy."
"Vậy thì còn vấn đề gì nữa nào? Cậu có thể cứ sống như thế đến hết đời. Cậu ta khác người, nhưng vừa khít với một kẻ khác người như cậu đấy chứ."
"Ừ, thực tình thì tớ đang nghĩ mình sẽ cứ như thế này tiến tiếp thêm một thời gian." Tôi nói, nhưng bụng bảo dạ, với điều kiện là có thể tiến tiếp được.
"À mà Sayuri này, chẳng phải cậu bảo gọi tớ tới đây vì có việc muốn nói à?"
"Có đấy, tớ xin lỗi vì bắt cậu lên ti vi cho vụ vẽ tranh tường lần này."
"À, chuyện ấy thì có gì đâu."
"Bây giờ cậu thành ra cực kỳ nổi tiếng rồi. Lại được dành hẳn một phóng sự đặc biệt trong chương trình tin tức nữa chứ." Sayuri nói.
Tôi cười.
"Làm gì mà cực kỳ nổi tiếng cơ chứ."
"Ở cái thành phố này thì như thế đủ để là người nổi tiếng rồi. Có một vài người cho rằng, khi cậu vẽ tranh tường và việc này thu hút sự chú ý của dư luận thì tòa nhà sẽ không bị phá dỡ."
"Tớ hiểu."
"Tớ muốn xin lỗi cậu là vì thực lòng không định lôi kéo cậu vào chuyện này."
"Sayuri nghĩ thế nào về tòa nhà?"
"Tất nhiên tớ cũng mong nó không bị phá dỡ. Bởi lớp học vỡ lòng có một ý nghĩa rất lớn với cuộc đời tớ. Rất nhiều em đã tới đây học tập trong suốt nhiều năm. Nhưng tớ nhờ đến cậu không phải vì chuyện ấy. Mà bởi lẽ, tớ muốn thấy tranh của Chihiro được vẽ thật to ở nơi tớ làm việc, thế thôi, đó mới là mục đích thực sự. Tớ không định lợi dụng Chihiro, cũng không định bắt cậu phải sáng tạo một tác phẩm mà biết thừa là rồi sẽ biến mất." Sayuri nói.
Tôi tin những lời này là thật lòng. Vì chúng được Sayuri nói ra. Vì Sayuri đang cụp mắt nhìn xuống để tôi có dịp ngắm kỹ những sợi lông tơ xung quanh vành tai cùng đôi lông mày đậm nét, những chi tiết khiến tôi cảm thấy lời Sayuri nói là thật lòng. Chắc chắn đã có rất nhiều người đưa ra vô số đề nghị với cô, song Sayuri vẫn âm thầm dành công việc cho tôi.
"Không sao, nếu là về tranh thì tớ có thể tham gia bất cứ cuộc phỏng vấn nào. Còn về những vấn đề ngoài hội họa thì phải xin lỗi vì tớ chẳng biết gì hết." Tôi nói.
"Cảm ơn cậu. Và tớ cũng thành thật xin lỗi nếu một ngày không xa tòa nhà bị phá bỏ và bức tường không còn nữa. Nhưng tớ sẽ ráng bảo vệ chừng nào còn ở đây." Sayuri nói.
"Thôi nào, tớ vẽ đâu phải vì muốn để đời. Hơn nữa, chuyện đó mà xảy ra thì cũng không phải do lỗi của Sayuri."
"Dù thế nào tớ cũng sẽ chụp thật nhiều ảnh và yêu cầu lưu trữ tại trung tâm tư liệu thành phố. Chắc chắn thế."
Sẽ là nói dối nếu bảo rằng tôi hoàn toàn không muốn tranh mình được lưu trữ. Nhưng càng không thật lòng nếu nói rằng tôi muốn nó được bảo tồn mãi mãi. Chỉ đơn giản là do tôi thích cảm nhận điều mới mỗi ngày và ghi chúng lại dưới dạng một bức tranh khổ lớn. Mong muốn của tôi chỉ có vậy. Xét đến cùng, đó là một thái độ không nghiêm túc.
Thái độ của tôi thì như thế, còn Sayuri luôn luôn nghiêm túc và đối xử với bọn trẻ chân thành đến rụng cả tóc khiến tôi tự thấy ăn năn trong dạ.
Thú thật, với tôi thì thế nào cũng được. Mặc lòng bức tường bị phá bỏ hay tôi bị đánh giá ra sao. Và tôi tin rằng, ngay cả khi lớp học vỡ lòng mất đi, song nếu vẫn còn những người tốt bụng và những người thông minh, thì chắc chắn họ sẽ lại gieo mầm hy vọng.
Có thể tôi sợ cái ý nghĩ cột cứng rằng: "Nhất định phải là như thế." Tôi lúc nào cũng muốn để mặc mình trôi đi như nước và ngắm nhìn dòng chảy đó mãi không thôi.
Cứ như vậy, mặc dù trong lòng cảm thấy thân thiết, nhưng tôi không có người bạn nào hòa hợp với mình từ sâu tận tâm hồn. Tôi luôn cảm thấy có gì khó lòng với tới.
Thành thử đối với tôi, Nakajima là người bạn đầu tiên trong đời... Tôi có cảm giác ấy. Hắn cực kỳ yếu đuối, nhưng lại chứa đựng trong mình một cái gì thật vững chắc.
Nó khiến tôi như được soi mình trong gương. Để biết bản thân không sai. Và cảm thấy yên tâm.
Hơn nữa, từ trước tới nay, vì không ở gần mẹ nên tôi tưởng như mình đã tự lập, song giờ đây, khi còn lại một mình, tôi mới hiểu mẹ đã là chỗ dựa tinh thần lớn lao biết nhường nào.
Mặc dù không bao giờ hỏi ý kiến mẹ, nhưng tôi sẽ gọi điện để kể những chuyện chẳng đâu vào đâu, hoặc trở về nhà để được nhìn thấy gương mặt mẹ mỗi khi gặp những thay đổi như thế này đây. Khi mẹ không còn nữa, tôi mới nhận ra rằng nhờ vào cách ấy mà tôi có thể quay trở về với trục quỹ đạo của mình... và dù tốt hay xấu thì đó cũng là gốc quy chiếu của tôi. Tôi thậm chí còn không hiểu nổi một điều: gốc quy chiếu ấy đã có từ trước khi tôi chào đời.
Thời thơ ấu, tôi xác định vị trí của mình bằng cách nhìn lại gương mặt mẹ, còn giờ đây, tôi phải tự bản thân xác định điều ấy. Tất nhiên tôi có thể thông qua Nakajima để xác định, nhưng biết đâu chỉ cần tôi rời mắt đi là hắn sẽ biến mất. Về bản chất, hắn khác với sự tuyệt đối của mẹ.
Bởi đã chứng kiến quá tường tận những gì mẹ trải qua trước khi chết, nên giờ đây tôi không thể nhớ lại ánh sáng linh hồn mẹ lúc còn khỏe. Tôi chỉ nhớ được những thứ như hơi thở khó nhọc lúc lâm chung, mùi của một con người đang đi dần về phía cái chết đang tràn ngập trong phòng bệnh. Điều đó gợi lại trong tôi không gì hơn là cảm giác bất lực, rằng mẹ đã phải đau đớn một mình, và mình chẳng thể làm chỗ dựa cho mẹ trong cái thế giới ấy.
Tôi từng đọc một câu trong sách, rằng nếu cố níu kéo người đã mất thì người ấy sẽ không thể siêu thoát, và câu này cứ bám trụ một cách kỳ lạ trong đầu tôi, làm tôi không dám khóc nhiều mà chỉ lặp đi lặp lại những lời cảm ơn đối với mẹ. Giờ đây, tôi chỉ biết tự trách mình đã thật ngu ngốc. Giá tôi cứ khóc thật nhiều. Giá tôi cứ bám chặt lấy quan tài mà khóc tu tu như bố. Giá tôi cứ phớt lờ ánh mắt và quan niệm của người đời để được sống đúng là mình.
Và như thế, chắc chắn mẹ đã chẳng xuất hiện trong giấc mơ vì lo ngại rằng tôi không thể đem lòng yêu Nakajima.
"Tớ định đi gặp bạn cũ, nhưng tớ sợ đi một mình, cậu đi cùng tớ được không?"
Khoảng hai tuần sau đó, Nakajima đánh tiếng với tôi như thế.
Từ hôm ấy, chúng tôi không làm tình với nhau thêm lần nào nữa, nhưng đêm nào Nakajima cũng ngủ lại nhà tôi. Hắn còn bảo: "Tớ sẽ tính lại tiền điện nước cho đầy đủ."
Sang tuần cuộc sống vẽ tranh tường mới bắt đầu nên thời gian này tôi đang rảnh rỗi.
Nhờ rảnh rỗi mà tôi có thì giờ để chế biến các món ăn từ chỗ giăm bông nhập khẩu cao cấp mà bố gửi rất nhiều cho tôi: nào cơm rang giăm bông với dứa, nào bít tết giăm bông, rồi cơm om giăm bông, nói chung là đủ loại.
Tôi liên tục sáng tạo ra các món mới, đến nỗi ngay cả một kẻ hoàn toàn thờ ơ và dễ dãi với việc ăn uống như Nakajima cuối cùng cũng phải thốt lên: món giăm bông như vậy có lẽ là đủ rồi!
Tiếp theo là quãng thời gian vui vẻ khi đi mua màu nước cùng cậu đàn em nhờ tôi phụ giúp việc vẽ tranh tường, hay khi sắp xếp, chuẩn bị cọ vẽ, hoặc lúc chúi mũi xuống bàn để dựng phác thảo.
Lúc cắm cúi vào phác thảo, tôi thấy vui như đang làm thiết kế cho một mô hình thu nhỏ. Tôi sẽ không chép y nguyên phác thảo đó lên tường, nó chỉ là bức vẽ nháp cho dễ hình dung, tuy nhiên việc vẽ mọi thứ ở kích thước nhỏ cũng đem đến cho tôi một niềm vui riêng. Một niềm vui giống như chơi đồ hàng hồi bé. Các chi tiết nhỏ mà người cũng nhỏ. Song ở trong đầu, tất cả đã được chuyển sang kích thước thật.
Bức tường dùng để vẽ tranh thấp và chạy dài, nên tôi định sẽ vẽ những chú khỉ ồn ào tiếp nối nhau thành một dòng chảy, nhưng lại chưa nghĩ ra được một ý tưởng cụ thể tuyệt vời hay phù hợp nhất cho địa điểm đó. Chính tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên vì sự nghèo nàn trong sáng tạo của mình và đắn đo không biết có nên tham khảo ý kiến bọn trẻ trước hay cứ đợi tới nơi rồi hẵng tính. Dù không phải là hoàn toàn, nhưng tôi đang bế tắc về ý tưởng.
Nếu chỉ vẽ những thứ giống như dân không chuyên thì thà để cho người của tòa thị chính thành phố vẽ còn nhanh hơn. Tôi cần một ý tưởng mang tính cá nhân và khác biệt. Ý tưởng đó là gì? Tôi từng có kỉ niệm gì với lũ khỉ? Lần cuối cùng tôi nhìn thấy khỉ là khi nào? Liệu có cần phải tới vườn thú để tìm hiểu về chúng hay không? Giữa lúc bối rối như vậy, một chuyến đi xa để thay đổi tâm trạng thật vừa khéo.
"Đồng ý, vậy thì chúng mình sẽ làm một chuyến pích ních?" Tôi trả lời mà mắt thì nhìn tạp chí.
Nhưng khi bất giác ngẩng lên, nhận ra sắc mặt Nakajima, tâm trạng ngọt ngào của tôi tắt ngấm. Sắc mặt hắn nói rằng đó chẳng phải chuyện chơi.
Để tôi kể thêm khi đó hai chúng tôi đang làm gì. Buổi sáng, trong bối cảnh mối quan hệ của chúng tôi hoàn toàn không có tiến triển gì hơn, tôi thức giấc, làm món ốp lết bằng một quả trứng duy nhất (tất nhiên có cả giăm bông) và chia đôi, trong khi tôi đang sơn móng chân ở một tư thế không lấy gì làm dễ coi thì Nakajima chú mục vào chiếc PowerBook viết báo cáo. Và đúng lúc tôi định đi pha trà vì thấy Nakajima buông tiếng thở dài thì hắn đưa ra đề nghị đó với tôi.
Đúng như Sayuri nói, hắn đang theo học ở quận bên trong một trường mà chỉ những kẻ xuất sắc mới có thể vào được, chứ không phải thứ đại học nghệ thuật làng nhàng như của tôi và Sayuri.
Tất nhiên tôi từng hỏi hắn:
"Làm thế nào để học giỏi như cậu? Có phải từ nhỏ cậu đã thích học rồi không?"
Thoạt tiên hắn nghĩ rất lung, rồi trả lời tôi:
"Chợt có một ngày, tớ bỗng nhiên thích học để lấy lại cái gì đó."
"Sau khi mẹ cậu mất?" Tôi hỏi.
"Đúng thế. Bố mẹ tớ bắt đầu lục đục từ khi tớ vắng mặt, đến một hồi thì ở riêng, rồi cuối cùng ly hôn. Vì thế mà hoàn cảnh của tớ có phần giống với Chihiro. Đến giờ, tớ vẫn phải xin tiền sinh hoạt và học phí, thỉnh thoảng tớ cũng có gặp bố, nhưng thôi, chưa nhắc đến chuyện đó vội, hồi mẹ mất tớ đã vào cấp ba rồi, tớ quyết định không sống cùng bố nữa... thì cậu bảo từ ngày ly hôn, bố tớ toàn sống ở quê, chỗ tỉnh Gunma. Tớ chả muốn bỗng nhiên phải chuyển nhà. Vả lại, bố tớ thì đã đi bước nữa và có con riêng. Thành ra tớ quyết định sống một mình, nhưng không thiếu tiền đến mức phải đâm đầu đi làm thêm, cũng chẳng có duyên với sự xa xỉ nên bỗng dưng cực kỳ rảnh rỗi. Vì thế tớ đã suy nghĩ rất nhiều. Tớ muốn sống một cuộc đời không quá sa đà vào trần thế, chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, được làm những gì là của mình và cố gắng làm một vài điều nho nhỏ có ích cho người khác. Và thế là, sau khi tìm hiểu rất nhiều, tớ quyết định nghiên cứu về gien."
"Tớ không hiểu tại sao cậu lại chọn một ngành khó như vậy, có người nào đó thân thiết với cậu làm nghiên cứu trong lĩnh vực này đúng không?" Tôi hỏi.
Nakajima lại trả lời bằng cái cách lúng búng trong miệng:
"Ừm, trong thời gian xa cách bố mẹ, có một người lớn duy nhất mà tớ kết thân vốn học ngành di truyền, rất nhiều câu chuyện tớ nghe được từ người này đã khiến tớ có ý nghĩ biết đâu học ngành này sẽ thú vị."
"Sau khi mẹ mất, chỉ còn lại một mình, buồn bã rảnh rỗi nên tớ cắm đầu vào học điên cuồng. Tất nhiên, tớ chỉ đặt duy nhất một mục tiêu là thi đỗ, hơn nữa do ngại giao tiếp với mọi người nên tớ đã quyết định tự học chứ không đến lớp luyện thi."
Sau đó hắn cặn kẽ, tỉ mỉ giải thích cho tôi phương pháp tự học của mình.
Tôi tự hỏi: "Trong thời gian xa cách bố mẹ nghĩa là thế nào?", nhưng chỉ im lặng nghe hắn giải thích.
Hắn nói có thể tách rời đầu óc khỏi thân xác để tập trung. Nhưng cũng thêm vào rằng, việc đó đối với hắn tuy không khó, nhưng rồi hắn nhận ra là sẽ rất nguy hiểm nếu làm thế trong thế giới thực.
Cách kể của Nakajima càng bình thản bao nhiêu, câu chuyện của hắn càng trở nên kỳ vĩ bấy nhiêu.
Trong thời gian từ khi bắt tay vào học cho tới lúc thi đậu vào ngôi trường mục tiêu, hắn đã giảm mất hai mươi ki lô cân nặng. Hắn cũng kể rằng, sau đó hắn chẳng ăn được gì nên đã ngã gục trên đường, rồi đến bệnh viện, nhờ được truyền dinh dưỡng mà sống sót cho đến ngày nay.
"Muốn trở thành bác sĩ mà cậu lại để mình như thế sao??"
Hắn cười như nắc nẻ khi tôi hỏi vậy. Hắn bảo hiện hắn đang học tại Bộ môn Nghiên cứu Y học nằm trong Khoa Y học, tức là sau đại học, nhưng đó không phải nơi người ta học để trở thành bác sĩ mà để trở thành nhà nghiên cứu.
Hắn nói, việc học không thể nào dừng lại được nên hắn thử tách đầu óc mình ra khỏi thân xác, không ngờ kết quả học tập càng ngày càng tiến bộ đến nỗi khiến hắn say mê và suýt chút nữa thì đánh mất thân xác.
"Nhờ thế mà tớ thấm thía một điều là thân xác bao giờ cũng phản ứng chậm hơn đôi chút so với thời điểm não đưa ra chỉ thị." Nakajima nói.
"Chậm như thế nào?"
"Ban đầu, khi ra mệnh lệnh ám thị, mọi việc khá đơn giản, tớ thiết lập sao cho chức năng cơ thể được đưa về mức thấp nhất và chuyển phần năng lượng đó lên não. Mọi việc thuận lợi khiến tớ có lẽ đã tự tin thái quá. Nhưng, biết giải thích thế nào nhỉ, dần dà có cái gì đó giống như gia tốc đã giành mất quyền kiểm soát, đến nỗi mặc dù tớ đã ra lệnh dừng lại để hấp thu dinh dưỡng và cử động chân tay song mọi thứ chỉ có thể dừng lại một cách từ từ theo quán tính giống như chiếc đu quay vậy. Ngay từ đầu tớ đã không tính tới độ trễ ấy nên gần như bỏ mặc cơ thể mình và chỉ chút nữa là không kịp. Bởi vậy mà tớ suýt chết."
"Nakajima này, tớ biết cậu làm được điều đó, nhưng nên dừng lại đi. Cơ thể sẽ quá tải đấy. Hậu quả sau này đâu có nhỏ, phải không?" Tôi nói.
"Ừ, biết thế nên tớ không còn học bằng cách ấy nữa. Bây giờ thì chỉ năng nhặt chặt bị thôi." Nakajima cười.
Ghê thật đấy, chỉ năng nhặt chặt bị mà lên được cao học, không ai hướng dẫn mà tự viết luận văn, tra cứu số liệu, đọc các sách vở có liên quan, đúng là một kẻ có khiếu học hành. Tôi chỉ còn biết khâm phục.
"Cắm đầu cắm cổ vào học, bỗng một ngày tớ nhận ra rằng: với đà này, chắc chắn mình có thể học hết chương trình tiến sĩ, và nếu cứ chuyên cần viết luận văn thì sẽ lấy được bằng tiến sĩ. Tớ nghĩ, nếu được thế mình sẽ tìm một công việc ở Nhật Bản, biết đâu có thể đầu quân cho một viện nghiên cứu nào đó đáp ứng được điều kiện. Thế nhưng cứ ở mãi Nhật Bản và sống tiếp như hiện nay, tớ chẳng thấy có gì tốt đẹp phía trước, nên tớ đang hơi đắn đo. Tớ dần cảm thấy cần phải đi ra ngoài. Ngày xưa vì phải vật lộn để sống nên tớ chẳng có thời giờ suy nghĩ về điều này." Nakajima bình thản nói.
"Về điều ấy thì tớ không rõ, nhưng một khi đã làm được việc kia thì cái gì mà Nakajima chả làm được. Bất cứ cái gì. Nếu cậu có ý định." Tôi nói.
Đi ra ngoài tức là đi ra nước ngoài, phải chăng có nghĩa là hai chúng tôi sẽ chia tay nhau? Tôi thầm nghĩ.
Chẳng hóa ra, đối với Nakajima, nhà tôi chỉ là chốn nương tạm cho tới khi thoát khỏi Nhật Bản thôi sao...
Tuy nhiên, tôi cảm thấy đó chưa phải là chuyện để bàn vào lúc này.
Mặc dù nói muốn đi gặp bạn nhưng vẻ mặt Nakajima thì trái ngược hẳn, trông quá u buồn, nên tôi mới hỏi:
"Cậu nhất định phải gặp người bạn ấy bây giờ sao?"
Nakajima đáp:
"Không phải vậy, mà tớ nghĩ, nếu là bây giờ thì tớ có thể gặp được."
"Ý cậu là, nếu có tớ đi cùng?"
"Phải... Nếu có một người tính tình vui tươi như cậu đi cùng."
"Nhưng mà tớ cũng chẳng vui tươi được như cậu nghĩ đâu. Có lẽ vậy."
Không phải tôi bực mình, thực sự thế, mà là tôi thấy có lỗi với hắn.
Rất có thể Nakajima chỉ đang phóng đại quá mức nét tính cách dứt khoát, điềm nhiên tôi thể hiện khi sống cùng với hắn, hoặc vẻ bề ngoài vui tươi tôi thừa hưởng từ mẹ mà thôi. Nếu vậy, và nếu sau này hắn phát hiện ra mặt tối tăm, u ám ở tôi thì người cảm thấy bị phản bội nặng nề chính là hắn.
"Tớ biết. Vì vậy mà dù cố gắng thế nào tớ cũng không diễn đạt được điều mình muốn nói, nhưng tớ cho như thế là vừa đủ. Cách nói này làm cậu khó chịu, nhưng tớ cho liều lượng như thế là lý tưởng."
Có lẽ tôi đã hiểu ra điều hắn muốn nói.
Nếu dùng cách nói khác, người như Nakajima chắc chắn có thể biểu đạt được chính xác câu chuyện vắt kiệt thân xác cho học hành của hắn, về sự phân bổ cảm xúc trong tính cách của tôi. Nhưng có lẽ vì hắn phải hạ thấp mức độ cho phù hợp với tôi, thành ra mọi sự diễn đạt mới trở nên mơ hồ.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng cứ để Nakajima nói ra điều gì đó vào lúc này sẽ tốt cho hắn nên quyết định tiếp tục lắng nghe và cố làm ra vẻ chưa hiểu.
"Bởi lẽ, điều Chihiro coi trọng nhất là tình yêu, phải không nào? Mặc dầu vậy, nhưng cậu không hề có ý định kiểm soát người khác." Nakajima nói.
"Cũng chưa chắc đã coi trọng đến thế." Tôi đáp.
"Nhưng cậu luôn rất quý trọng người mẹ đã mất của mình đúng không? Tất nhiên, tớ nghĩ những chuyện vướng bận trong lòng thì gia đình nào mà chả có, song, như một lẽ hết sức bình thường, tình yêu và sự thù ghét là ngang nhau, cậu đồng ý không nào? Bất chấp ước lượng của cậu cho kết quả nào lớn hơn."
"Đúng, điều đó thì đúng."
"Cậu cũng đâu có ghét bố phải không?"
"Ừ, tớ không ghét. Mà ngược lại, tớ nghĩ mình thương ông. Tớ có cảm giác, bù đắp lại những thiếu hụt về địa vị pháp lý, tớ được ở trong một môi trường dễ dàng bày tỏ tình yêu hơn so với các gia đình thông thường khác. Bởi không có khuôn khổ nào ràng buộc, nên mỗi người trong gia đình tớ đều đã nỗ lực bày tỏ theo cách riêng của mình."
"Đúng vậy, chính cái đặc điểm ‘không cho rằng gia đình là một cái gì đó đương nhiên' của cậu khiến tớ thấy an tâm. Cậu nhìn mọi người đúng như bản chất của họ, cậu cũng không đòi hỏi tớ phải thế này hay thế kia, mà nhìn tớ bằng con mắt bình thường, phải không nào?" Nakajima điềm tĩnh nói.
"Tớ thích điều này ở cậu. Tớ rất nhạy cảm, tới mức bệnh hoạn, với bạo lực nên cảm nhận được ngay. Trong khi hầu hết mọi người thường gây ra những bạo hành nho nhỏ với người khác, mặc dù không định thế. Chihiro thì rất ít khi như vậy."
"Còn Nakajima thì sao?" Tôi hỏi.
"Giờ tớ mới nói thật, trước khi mẹ mất, lúc nào tớ cũng cảm thấy nặng nề. Mẹ chẳng nghĩ đến ai khác ngoài tớ, vì thế bố mới phát chán mà bỏ đi." Nakajima nói. "Nặng nề lắm, nhưng dạo phải sống xa nhà một thời gian dài vì nhiều chuyện, tớ luôn thấy nhớ mẹ, ấy vậy mà khi về sống cùng thì lại luôn bị tình yêu của mẹ, người đẻ ra tớ, đè nén... chẳng hạn, tớ chỉ đi ra ngoài một chút là nhất định mẹ sẽ hỏi bao giờ về, nếu về trễ một tẹo thôi, mẹ tớ sẽ vừa khóc vừa đợi. Kiểu người như thế đấy."
"Hơn nữa, tớ sống trong trạng thái bình thường chưa được bao lâu thì mẹ mất, khiến lòng tớ càng lúc càng rối loạn. Khía cạnh lý tưởng, cùng với áp lực gây ra bởi một thứ giống như sự đắm đuối phụ nữ đều hằn sâu trong lòng tớ dưới lớp vỏ là hình tượng của người mẹ."
"Tuy nhiên, khía cạnh lý tưởng thì thật là vĩ đại, tới nỗi cảm thấy mình như bị nuốt chửng và quá nhỏ bé, khiến tớ nghĩ nếu không có mẹ thì tớ đã không ở đây lúc này. Tớ nghĩ suốt cuộc đời này, mình không thể bày tỏ hết nỗi niềm biết ơn với mẹ, kể cả nếu bà vẫn đang còn sống."
"Mẹ con tớ từng có một giai đoạn tồi tệ. Cũng từng có giai đoạn lạc lối vào một mê cung vô phương hóa giải, giống như đôi trai gái yêu nhau vậy. Dạo ấy, cả hai đều phải thường xuyên đến bệnh viện, tinh thần kiệt quệ, nên mẹ con tớ, theo gợi ý của bác sĩ, đã tới sống ít lâu ở ngôi nhà nhỏ của một người họ hàng. Hai mẹ con lặng lẽ sống suốt một thời gian dài trong ngôi nhà trống tênh và cũ nát ở vùng thôn dã ấy. Mùa hè thì mát nhưng mùa đông lạnh không tưởng nổi, tớ lúc nào cũng gần như chết cóng. Tuy vậy, phong cảnh rất đẹp, lúc nào cũng trông thấy hồ, có nét gì đó vừa buồn vừa đẹp."
"Hiện giờ, người bạn trong câu chuyện tớ kể lúc nãy đang sống ở đấy, nên tớ muốn tới thăm, nhưng cứ mỗi lần định đi là những kỉ niệm cũ lại hiện về làm tớ vã mồ hôi lạnh như thế này. Mấy năm gần đây, đã vài lần định đi nhưng lại lấy nê chuyện này chuyện nọ, xong rồi thôi. Tớ không rõ cái gì khiến mình sợ hãi: kỉ niệm với mẹ hay ký ức với người bạn."
"Nếu nó gợi lại những điều nặng nề thì đi làm gì chứ?" Tôi nói. "Đi vào khi mình có thể đi được, lúc mà mình tự nhiên muốn đi, như thế cũng được chứ sao?"
Nghe thế, Nakajima bỗng tỏ ra buồn bã.
"Nhưng như thế tớ sẽ không gặp được người bạn ấy. Sẽ không bao giờ gặp được."
"Lần gặp gần nhất là bao giờ?" Tôi hỏi.
"Lần cuối tớ đi cùng với mẹ, khi ấy bà vẫn còn sống... nên chắc là cách đây khoảng mười năm. Có thể xa xưa hơn cũng nên. Thỉnh thoảng tớ cũng thử gọi điện thoại, nhưng mà..." Nakajima trả lời.
"Nhưng cậu muốn gặp trực tiếp chứ gì?"
"Tớ muốn gặp trực tiếp. Đó là những người tớ muốn gặp nhất trên đời này. Tớ không thể ngăn mình muốn gặp họ. Nó thường trực trong tớ. Gần đây, kể từ khi sống cùng Chihiro, tớ càng muốn gặp, tới mức không thể kìm lòng được nữa." Nakajima nói.
"Cậu nói họ, có nghĩa là nhiều người?" Tôi hỏi lại.
"Ừ, hai người sống ở đó đều là những người bạn cũ, một người anh trai và một cô em gái." Nakajima đáp.
Tôi không biết Nakajima định đưa mình tới đâu, song tôi rất tin tưởng ở hắn. Tin đến từng thớ thịt. Hàng ngày, khi nhìn thấy nhau, nếu trong hắn có điều mâu thuẫn dù chỉ thoáng qua, tôi sẽ lập tức nhận ra. Dù tâm hồn Nakajima có những gai góc, nhưng trong mắt tôi hắn luôn thành thật.
"Được, vậy thì đi nhé. Có xa không?"
"Phải chuyển qua tàu điện, chắc mất chừng ba tiếng."
"Tốn nhiều tiền không?"
"Tớ mời cậu đi nên sẽ chi tiền."
"Không cần đâu, tớ cũng thích đi mà."
"Tớ sẽ chịu toàn bộ chi phí đi lại."
"Thôi nào, hiện tớ đang khá dư dật đấy. Lại vừa có công việc mới." Tôi cười.
"Tại sao cậu có gan đi cùng tớ tới một nơi chưa biết?" Nakajima hỏi với vẻ ngạc nhiên. "Nếu là tớ, thì tớ chịu."
"Thì bởi đó là nơi mà Nakajima rất muốn đi mặc dù chẳng dễ dàng gì với cậu, không phải vậy sao?" Tôi đáp. "Tất nhiên tớ sẽ đi cùng, nếu không ai khác ngoài tớ có thể đi cùng. Vì bây giờ ngày nào cậu cũng ở nhà tớ. Và vì ngày nào tớ cũng gặp cậu, nhất là việc gặp cậu xuất phát từ ý muốn của tớ."
Nếu tôi thực sự đang yêu thì chắc đã không thể nói được những lời như thế. Hoặc tôi sẽ cố tình trêu ngươi để cho hắn phải sốt ruột, hoặc sẽ không thể diễn đạt sao cho rành mạch. Trong lời lẽ của tôi lúc này chỉ có sự quý mến. Nói cụ thể hơn, mà điều này thì tôi chưa hiểu rõ lý do, tôi sợ phải làm hắn bị tổn thương hơn nhiều lần so với việc làm tổn thương bất kỳ người bình thường nào khác. Chỉ nghĩ tới điều đó thôi tôi đã rùng mình và cảm thấy như bị một tảng đá nặng đè lên ngực.
"Cảm ơn cậu." Nakajima khẽ nói.
Hôm sau, chúng tôi lên tàu điện hướng về phía Bắc.
Sau khi xuống tàu ở một ga nhỏ, chúng tôi đi bộ ròng rã trong tiết trời còn se lạnh nhưng cũng chỉ ở mức khiến da mặt tê tê.
Thỉnh thoảng, ánh nắng lạnh lẽo lại lọt xuống qua kẽ mây.
Nhiều cây cối cuối cùng cũng bắt đầu nảy lộc. Những nụ mầm đang dần trở nên căng mập, ở bất cứ một cành cây xám xịt nào cũng lác đác những sự mập mạp đầy nhục cảm như thế thở phập phồng. Không khí trong lành khiến tôi cảm thấy người sảng khoái. Sự huyên náo trước nhà ga của một thị trấn thôn quê nhanh chóng tắt ngúm, chỉ có hai người bước đi qua những góc phố quê rất đỗi bình thường. Vẫn còn tuyết trên những ngọn núi xa. Sự phối màu khô khan giữa những vệt trắng loang lổ và đám cây cối màu nâu thoai thoải tiếp nối nhau dưới bầu trời xanh ngắt.
Cuối cùng chúng tôi cũng tới được một hồ nước không lớn lắm.
Vì là ngày thường nên chẳng có một ai. Hồ nước im ắng, ngay cả âm thanh cũng như bị hút vào đó. Mặt hồ như gương, gió thổi tới làm gợn lên những con sóng li ti. Chỉ có tiếng chim đang vọng tới lúc trầm lúc bổng.
"Cạnh ngôi đền đằng kia." Nakajima chỉ tay. "Là nơi bạn tớ đang sống."
Tôi nhìn thấy một cái cổng torii nhỏ màu đỏ ở bờ hồ bên kia.
Ngẩng lên, tôi thấy Nakajima đang mồ hôi ròng ròng nhưng mặt thì trắng bệch.
"Nakajima, cậu không sao chứ?" Tôi cầm lấy tay hắn.
"Không sao, thời khắc này là khó khăn nhất. Nhưng khi gặp rồi thì sẽ không sao."
Bàn tay Nakajima lạnh đến phát sợ.
Tôi tự hỏi: rốt cuộc, thể xác và tâm hồn hắn đã phải hứng chịu những điều gì?
Tự nhiên hai chữ đáng thương hiện lên trong đầu tôi. Biết nói sao khác được. Mặc dù hiểu rằng thương hại chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tôi thấy hắn tội nghiệp vô cùng. Hình ảnh một Nakajima nhỏ bé vừa sống xa gia đình vừa gắng gượng gây dựng con người mình mới đáng thương làm sao.
Ngay cả tôi cũng nhận thấy trong hắn đang diễn ra một cuộc giằng co dữ dội.
Đối với tôi, trước mắt là phong cảnh bờ hồ đầu xuân khoan khoái, là một cuộc dạo chơi thong dong, còn hắn thì không thấy thế, hắn khổ sở như ở dưới địa ngục, tựa như mỗi bước đi lại kéo lê theo xiềng xích.
"Nakajima này, dừng lại chút đã." Tôi bảo.
"... Ừ."
Nakajima đứng lại, vẻ bồn chồn không yên, người toát đầy mồ hôi.
"Ngồi xuống một lúc." Tôi bảo.
Nakajima tỏ vẻ khó chịu vì dường như hắn muốn kết thúc giây phút này càng nhanh càng tốt. Hắn chỉ chực xô ngã tôi để lao về phía trước. Tôi biết rõ điều đó. Cảm giác kháng cự truyền sang tôi một cách mãnh liệt. Nhưng rồi vì tôi, hắn miễn cưỡng ngồi xuống.
Chỉ ở giai đoạn đầu của tình yêu người ta mới chịu đựng điều mình không thích vì người kia. Tới khi cả hai biết rõ điều mình không thích thì tự nhiên họ sẽ không còn làm thế nữa. Tôi biết điều đó, nên tự nhủ đây chính là lúc mình có thể yêu cầu hắn làm vậy.
Tất nhiên, đó chẳng qua là lý lẽ thêm vào, xét cho cùng thì tôi vẫn luôn là kiểu người hành động rồi mới suy nghĩ.
Tôi ngồi xuống cùng Nakajima, ôm chặt lấy hắn. Im lặng, một lúc lâu. Tiếng thở của Nakajima phập phồng chỗ cổ tôi. Tóc Nakajima có mùi bụi. Bầu trời xa tít, đẹp tới mức khiến tôi tự hỏi: tại sao chỉ tâm hồn con người là không có tự do? Cơn gió băng qua hồ nước lạnh giá, pha lẫn hơi hướm của mùa xuân dịu ngọt.
Tôi giữ yên như thế một lúc lâu cho tới khi hơi thở và mồ hôi của Nakajima lắng xuống.
Tư thế của chúng tôi chắc chắn mang một vẻ gì đó quẫn bách, chứ gợi cảm thì không. Hoàn toàn không có chỗ cho điều ấy lúc này. Tôi ôm hắn trong lòng mà cảm thấy chúng tôi như hai kẻ đang níu chặt lấy nhau trên bờ miệng vực.
"Sớm hay muộn, chắc chắn hắn sẽ biến mất."
Vào giây phút ấy, tôi tin chắc là như thế. Hắn muốn buông xuôi cho nhẹ lòng trước sự lôi kéo, giành giật từ phía bên kia. Bằng cảm giác của cơ thể, và từ sâu thẳm linh hồn mình, tôi biết rằng tình yêu dù mạnh mẽ đến đâu, thế giới này dù đẹp đẽ nhường nào cũng không thể gánh đỡ nổi sức nặng của mong muốn ấy trong lòng hắn.
"Nhưng ký ức này sẽ không biến mất."
Tôi tự nhủ. Nếu ngay cả điều đó cũng không còn nữa thì hắn sinh ra trên đời này vì cái gì? Tôi nhòa lệ.
"Cảm ơn cậu, tớ ổn rồi."
Rõ ràng là hắn chưa ổn, vậy mà vẫn cố nói thế với tôi, bằng một giọng khản đặc.
Sau đó hắn siết chặt tay tôi rồi lạnh lùng hẩy ra.
Đi thêm một lát, tôi chợt thấy xây xẩm mặt mày. Phải chăng ban nãy khi ôm ghì lấy Nakajima, vì dồn nhiều sức quá nên mình bị thiếu máu? Tôi cảm thấy hơi tức thở, cứ như vừa lây sự khó ở của Nakajima.
"Tớ xin lỗi. Chẳng hiểu sao chưa bao giờ làm tốt được việc đến gặp họ, thế nào rồi đầu óc cũng phải suy nghĩ đủ thứ chuyện." Nakajima nhìn tôi vẻ thăm dò rồi cất tiếng.
"Chuyện đương nhiên thôi mà." Tôi nói. "Nakajima hay nói ‘không thể làm tốt một việc gì đó', nhưng cậu đừng nói như thế nữa được không? Tớ không muốn nghe cậu nói thế. Mỗi lần nghe cậu nói thế, tớ lại thấy tai mình đau nhói."
"Ừ, tại tớ quen miệng. Vì tớ từng ở trong một hoàn cảnh mà nếu không làm tốt thì chỉ còn nước chết."
"Thật vậy ư...?"
Những người chúng tôi sẽ gặp trong ít phút nữa hẳn đang nắm giữ bí mật đó, tôi nghĩ. Và khi nói về họ, biết đâu hắn sẽ kể với tôi về quá khứ của mình. Tôi mong chờ điều đó. Quả tình là tôi muốn biết. Khi đã yêu, người ta sẽ muốn biết. Tôi cũng muốn biết cả những việc mà hắn nói hắn không thể làm tốt.
Hồ nước mờ ảo vì hơi sương. Không biết tự bao giờ, một màn sương mỏng đã che kín tầm mắt. Hồ nước phía sau màn sương mỏng nom đùng đục như màu sữa loãng, tựa như ở bên kia một tấm rèm cửa bằng ren.
Chúng tôi tiếp tục đi. Lối đi nhỏ lờ mờ khuất sau màn sương, hai chúng tôi đang gõ bước trên con đường không trông thấy phía trước. Tôi có cảm giác, như mình đã bước đi trên con đường này từ xa xưa. Những vầng sáng nhỏ thảy đều nhòe đi thành những đốm hình tròn.
"A, kia rồi." Nakajima thốt lên.
Sau chiếc cổng torii màu đỏ là bậc thang bằng đá, phía trên đó hình như là một ngôi đền. Từ những bậc cấp kia hắn có thể trông thấy mặt hồ. Đưa mắt nhìn kỹ về cuối con đường ngang rẽ vào từ chỗ cổng torii, tôi thấy một ngôi nhà. Ngôi nhà hốt nhiên hiện ra mờ ảo trong hơi sương ấy được làm bằng gỗ, đã cũ nát, khiến tôi tự hỏi: có thật là điện đã được kéo đến đây không?
Trên bậc thang dẫn lên hiên trước, các khe hở được vá tạm bằng ván. Ô kính vỡ trên cửa sổ cũng được bịt lại bằng ni lông. Bên trong hơi tối.
Nhưng nếu quan sát kỹ sẽ thấy những miếng ván và ni lông được ghép và bịt một cách rất cẩn thận, đơn giản, thực dụng. Mặc dù đã cũ nhưng hoàn toàn không có cảm giác nhếch nhác hay hoang phế. Trong đầu tôi chợt hiện lên hai chữ "thanh bần".
Dấu hiệu cho thấy bên trong vẫn có người ở toát ra từ những chậu cây cảnh được đặt nằm lặng lẽ, và cũng cũ kỹ, cùng những thanh nan hoa sáng loáng của chiếc xe đạp thủng giỏ.
"Xin chào." Nakajima gọi to.
Một lát sau, từ trong ngôi nhà cũng tĩnh lặng tựa hồ nước, đến mức tôi phải nghi hoặc tự hỏi không hiểu có người ở thật hay không, nhác thấy bóng người đi ra.
Đó là một người trưởng thành, đúng vậy, chừng ba mươi lăm tuổi, nhưng chỉ lớn bằng một đứa trẻ. Khuôn mặt chẳng hiểu sao cũng nhăn nhúm như một con chó Bun. Thế nhưng đôi mắt thì rất sáng, toàn thân toát lên một vẻ cao quý.
"Trời ơi, Nobu. Có thật không đây?"
Người đó cất tiếng. Trên mình mặc một chiếc áo len đã xổ lông, quần kaki nhàu nhĩ, nhưng cũng giống như chính ngôi nhà, vẫn toát lên một vẻ sạch sẽ. Mái tóc dài được búi gọn ra sau, thân hình lùn mập nhưng sống lưng thẳng tắp. Ngay từ đầu tôi đã có ấn tượng rất tốt về con người này.
"Chào Mino, lâu quá rồi."
Nakajima cười, chẳng tỏ ra chút sợ hãi, run rẩy nào như trước lúc tới đây.
Tôi không biết phải gọi cảm giác đó là đúng kiểu đàn ông hay thật khó hiểu, song tôi không khỏi ngạc nhiên trước sự thay đổi vượt sức tưởng tượng của hắn.
Về mặt này, tôi nghĩ hẳn là còn nhiều thứ hắn vẫn giấu tôi. Tôi cảm thấy đích đến của chặng đường ấy còn xa quá.
"Cuối cùng cậu cũng đến... Cho tớ chia buồn về chuyện của mẹ cậu." Người kia nói, rồi tiếp tục: "Nhưng đúng là đã lâu quá rồi nhỉ." Và hơi cất tiếng cười. Một nụ cười sáng lấp lánh và dễ mến.
"Tớ đã phải mất nhiều thời gian để quyết định tới đây. Tớ mong gặp cậu vô cùng, nhưng trong lòng còn nhiều chuyện chưa lắng dịu. Hơn nữa, nơi đây có nhiều kỉ niệm về mẹ tớ, nên tớ sợ..."
Nakajima nhìn lên trần, nheo mắt. Sau đó quay sang tôi.
"Nhưng nhờ có lực kéo này nên không sao. Cuối cùng cũng đến được đây rồi."
"Rất vui được gặp cô. Tên cô là gì?"
Người có tên Mino nhìn tôi hỏi.
"Đây là Chihiro, bạn gái tớ. Còn giới thiệu với Chihiro, đây là Mino."
Nakajima nói. Tôi nói: xin chào, với một nụ cười, nhưng đầu đang quay cuồng với vô vàn dấu hỏi.
Có điều gì đó đặc biệt trong tinh thần của họ. Họ trao nhau những nụ cười mà không cần phải nói, giống như những người cùng ở chiến trường.
Cơn gió lướt qua không trung thật trong lành.
Nếu được tự do ở một nơi đẹp đẽ giống như loài chim trên cao kia, chắc chắn tôi đã chẳng bận lòng nhiều. Nhưng quả thật, đối với tôi Nakajima là một gánh nặng, dù rất nhỏ. Là một kẻ không biết đến ai khác ngoài bản thân trong thế giới của riêng mình, tôi không thích, dù chỉ chút xíu, việc Nakajima sẽ dựa dẫm vào mình nhiều hơn thế này. Nói một cách ngắn gọn: tôi đang "muốn chạy trốn khỏi trách nhiệm này, khỏi sự nặng nề toát ra từ những con người không bình thường này."
Mino mỉm cười chăm chú nhìn tôi đang trong dòng suy tưởng.
Đôi mắt ấy khiến tôi cảm thấy mãn nguyện như đang được một thiên sứ ngắm nhìn. Khiến tôi không còn có ý định che giấu tâm can mình nữa. Đôi mắt trong trẻo tới mức tưởng chừng mọi sự xấu xa trong tôi đều tan biến.
"Chii đâu? Có khỏe không?" Nakajima hỏi.
"Đang ở trong nhà. Hai người vào đi. Xin lỗi vì nhà chật chội và bừa bộn quá." Mino bảo.
Tôi và Nakajima gật đầu ra hiệu với nhau rồi bước vào.
Bên trong đơn sơ và sạch sẽ như trong một ngôi nhà nông thôn châu Âu thường thấy ở các bộ phim.
Tầng một hình như chỉ có bếp, nhà tắm và toa lét, chúng tôi được dẫn vào trong bếp, ở đó có những chiếc ghế với nhiều hình dạng khác nhau và một cái bàn hình vuông hệt như bàn học ở trường phổ thông, chúng tôi chọn trong đám ghế nhiều loại ấy một cái phù hợp rồi khẽ khàng ngồi xuống.
"Tớ đã sống trong ngôi nhà này cùng với mẹ." Nakajima giải thích. "Giống như đi cắm trại, hay trong những bộ phim Pháp ngày xưa, hằng ngày mẹ con tớ phải nhặt nhạnh đủ mọi thứ mặc dù thực tế thì chẳng có gì, và âm thầm sống. Tớ chỉ biết làm mỗi một việc là nhìn hồ nước."
"Vậy à?" Tôi đáp lời.
"Dạo ấy thì thấy khổ, nhưng giờ nghĩ lại, lại thành ra những kỉ niệm vô cùng vui vẻ."
Nakajima từ ban nãy đã hơi có vẻ phấn khích, nói với tôi bằng một giọng cởi mở.
"Vì trong này chật chội nên ngày nào tớ cũng đi dạo. Tha thẩn tản bộ ven hồ. Thỉnh thoảng còn bơi thuyền nữa. Tớ rất mừng vì thấy mẹ dần khỏe lại. Mùa xuân sang, mỗi ngày mẹ tớ một phục hồi sinh lực. Khi nét mặt biểu lộ niềm tin vào tương lai, con người ta trở nên thật đẹp. Thế rồi mẹ tớ bình phục hoàn toàn, nhanh chóng như khi cây cối và núi non chuyển sang sắc xanh. Tớ vẫn còn nhớ như in cảm giác vui sướng ấy."
Nakajima kể, mắt hơi rớm lệ.
Trong nhà tĩnh lặng, từ cửa sổ nhìn ra chỉ thấy hồ nước mờ ảo dưới tiết trời đầu xuân.
Đối với tôi, khung cảnh ở đây thê lương đến đáng sợ. Nhưng tôi biết, dù thê lương đến thế nào thì trong kỉ niệm của Nakajima nơi này vẫn đầy màu sắc.
Mino thong thả đun nước, rồi pha trà theo cung cách thật cẩn trọng.
Nhấp một ngụm, hương thơm lan ra trong miệng. Đây là loại hồng trà ngon nhất mà tôi từng uống. Tôi thành thực nói ra điều ấy khiến Mino hơi thẹn thùng.
"Là vì mạch nước vùng này rất thích hợp với hồng trà." Cậu ta phân bua. "Ngày nào tôi cũng đi lấy nước về pha trà."
Trà ngon chỉ vì nguồn nước thôi ư? Làm gì có chuyện đó. Tôi thầm nghĩ. Trong cái thế giới hạn hẹp này, ngắm hồ nước, uống trà ngon hẳn là tất cả sự giàu có của cậu ta.
Điều đó quan trọng biết nhường nào. Cậu ta đã tạo ra cho mình, một cách chắc chắn, cái thế giới không ai có thể quấy rầy hay xâm phạm. Tôi nghĩ.
Vẻ cao quý của Mino đủ để xóa tan những mẩu vụn cuối cùng của lòng thương hại kiểu các bà trung niên còn sót lại một cách ngớ ngẩn trong tôi.
Trà ngon có sức thuyết phục mạnh mẽ tới mức làm thay đổi con người như vậy đấy!
Nakajima và Mino tán gẫu suốt một lúc lâu, rôm rả như hai cậu học trò tiểu học. Tôi vừa lơ đễnh nghe cuộc trò chuyện, vừa nhìn ra hồ nước. Qua cửa kính, tôi ngắm mép nước mềm mại như một tấm vải đẹp, mới đấy còn gợn sóng bất giác khiến tôi thấy lạnh, giờ đã lại phẳng lặng như một tấm gương.
"Thật ra tớ có việc muốn hỏi Chii, nhưng nếu cô ấy đang ngủ thì thôi." Nakajima nói.
"Chii thì lúc nào mà chẳng ngủ, cậu cứ lên gặp đi." Mino đáp, đoạn quay sang nhìn tôi, "Chii là em gái tôi, từ lâu rồi nó chỉ ngủ li bì. Nhưng không phải do bệnh tật mà vì gan và thận yếu khiến cơ thể mệt mỏi nên hầu như không cử động được. Nói cho đúng là nó chỉ toàn ngủ thôi. Lúc đi vệ sinh cũng phải men theo bờ tường lần từng bước vì không còn cơ bắp nữa, cơm cũng chỉ mỗi ngày một bữa, cơ bản là húp cháo và uống rượu Nhật chứ hầu như chẳng ăn gì. Hãn hữu lắm nó mới thức dậy. Tất nhiên, theo nghĩa rộng, không thể không gọi đó là một chứng bệnh. Chúng tôi không tới bệnh viện, và lại tôi nghĩ mình có nhiều thời gian nên vẫn cứ sống như thế này. Tôi cũng có giúp nó cử động chân tay hoặc đi lại loanh quanh trong nhà, nhưng cố gắng từ tốn nhất có thể."
Chẳng biết nói gì, tôi đành đáp chiếu lệ, "Vậy sao."
"Khi nào muốn nói gì, Chii sẽ nhìn vào mắt tôi, và trao đổi bằng ý thức. Đôi khi là những thông tin đặc biệt, nên có những người tới để nghe, nhờ đó anh em tôi có thể sống tạm qua ngày. Nhưng nhiều khi chẳng có thông tin gì và chúng tôi thì không thể xoay xở cách nào cho tất cả mọi người đến đây, nên về cơ bản chúng tôi giấu kín chuyện này. Nếu được, cô cũng đừng để lộ ra ngoài." Cậu ta nói.
"Cái đó... có phải là một kiểu xem bói theo nghĩa rộng không?" Tôi hỏi.
"Cô cứ hiểu như vậy cũng không sao, nhưng đa phần chỉ đơn giản là những cuộc trò chuyện vui vẻ mà thôi. Khi trò chuyện với nó, không hiểu sao, mọi người như cảm thấy có điều gì đó trở nên sáng tỏ. Vì ngủ suốt ngày nên nó được tự do đi lại khắp nơi trong thế giới mộng mị." Cậu ta nói. "Nhờ thế mà có vẻ như nó được tiếp cận với nhiều thông tin hơn những người tỉnh táo."
"Tôi nghĩ mình hiểu chuyện này." Tôi nói. "Nhưng sẽ không kể với ai."
"Bởi vì có duyên nên cô mới tới đây." Mino nói. Rồi mỉm cười, ánh sáng trong mắt càng lúc càng lấp lánh như những vì sao. "Từ giờ trở đi, cô có thể đến đây bất kể khi nào. Vả chăng, nếu sự xuất hiện của cô không phải do định mệnh thì có lẽ chẳng bao giờ nhớ ra nơi này nữa."
Cứ như một câu đố mẹo vậy.
"Vâng, tôi hiểu." Tôi trả lời. Với một nụ cười. Đối với con người tuyệt vời này, tôi còn có thể dành tặng gì hơn là một nụ cười.
"Cô có gặp em gái tôi không? Cùng với Nobu." Mino hỏi.
"Thôi khỏi, Nakajima có chuyện riêng của cậu ấy, vả lại tôi cảm thấy không tự nhiên khi lần đầu tiên gặp mặt mà cô ấy lại đang ngủ. Nếu lần sau còn tới đây, tôi sẽ gặp cô ấy." Tôi trả lời.
Tôi biết đối với Nakajima việc gặp gỡ những con người này có ý nghĩa quan trọng dường nào nên quyết định không làm phiền họ. Bởi lẽ, nhiệm vụ của tôi chỉ là làm sao để đưa được hắn tới đây. Nghĩ rằng nhiệm vụ đó đã hoàn thành, tôi muốn lui lại phía sau.
"Sao không đi cùng tớ. Cô ấy lúc nào mà chẳng ngủ." Nakajima lên tiếng.
"Không cần đâu, tớ nghĩ cậu có nhiều chuyện muốn nói." Tôi đáp.
"Nhưng tớ cũng muốn giới thiệu Chihiro với Chii." Nakajima nói.
"Biết đâu có thông tin gì đó liên quan tới cô thì sao?" Mino gợi ý với vẻ tinh nghịch. Lòng ham hố trong tôi trỗi dậy, nhưng nghĩ tới quá khứ của bọn họ, tâm trạng tôi bỗng trở nên nghiêm túc, ham muốn theo đó cũng tiêu tan.
"Vậy thì tôi sẽ lên chào cô ấy rồi xuống ngay. Và đợi hai người ở bên dưới." Tôi nói.
"Nào, chúng ta đi." Mino nói.
Đi hết những bậc thang dốc cót két liên hồi thì tới tầng trên, ở đây sáng hơn nhờ ô cửa sổ nơi hành lang. Có hai phòng, cả hai đều đang đóng cửa.
Mino im lặng mở cửa một trong hai căn phòng. Tôi hơi căng thẳng, người cứng lại. Từ bên trong phảng phất bay ra một mùi thơm giống như hoa hồng. Không phải chính xác là hoa hồng, mà là thứ gì đó giống như một cảm giác ngọt ngào.
"Ôi chao, Chii, chẳng thay đổi gì cả." Nakajima thốt lên nghẹn ngào.
"Xin mời." Được Mino thúc giục, tôi cũng vào theo.
Trên chiếc giường rẻ tiền bằng gỗ là một tấm chăn nỉ rẻ tiền màu hồng, dưới chăn có một cô gái mảnh dẻ, nhỏ bé nằm cuộn tròn gần như vùi hẳn vào bên trong.
Nhìn cô chẳng khác gì một bé gái, nhưng cũng giống như Mino, cô là một người trưởng thành. Cơ thể nhỏ bé, cằm và cánh tay gầy guộc như cành cây khô, chỉ có hàng lông mi là dài một cách khỏe khoắn.
"Hình như cô ấy đang ngủ." Nakajima cất tiếng.
"Không, thế này là đang thức đấy." Mino nói.
"Vậy là cô ấy nghe được đúng không? Chào Chii, lâu quá rồi, anh Nobu đây. Xin lỗi vì suốt thời gian dài không tới thăm em được. Hôm nay anh có dẫn theo bạn gái, chị Chihiro, đến đây. Anh muốn giới thiệu với em. Mọi việc của anh khá ổn. Vào đại học, rồi bây giờ đang học cao học. Anh chỉ biết có học thôi." Nakajima nói.
Mino lấy tay ôm đầu, sau một lát mới cất tiếng.
"Ồ, anh đã cố gắng nhiều đấy chứ!"
Đó là một giọng nói hoàn toàn khác. Hóa ra đây là giọng nói từ trong ý thức của em gái mà cậu ta nhắc tới ư, tôi thầm nghĩ.
Giả sử toàn bộ chuyện này là sự tự ám thị của Mino, em gái cậu ta chỉ đơn giản mắc một chứng bệnh tinh thần, ốm yếu và sắp chết, nhưng cậu ta không muốn thừa nhận nên cố tình ngụy tạo giọng nói từ trong ý thức của em gái mình thì sao???
Đứng giữa bầu không khí đặc biệt và cao quý đang lan tỏa khắp phòng, một ý nghĩ theo kiểu thường tình như thế chưa kịp hình thành đã vội biến mất không một vết tích.
"Lại còn đưa đến đây một người bạn gái khá phức tạp nữa." Mino tiếp tục. "Không hé lộ dù chỉ phân nửa tâm tư của mình... chị không thấy khổ sở sao? Tôi biết chị đã đem thứ tình yêu vô ưu trời phú để trung hòa sự căm ghét đối với cha mẹ mình. Chị bận tâm nhiều về điều ấy nên bề ngoài trông có vẻ trầm lặng, nhưng kỳ thực là một kẻ cả gan, tự do, thích làm nũng, ham muốn tình dục cũng vô đáy, đúng không? Tuy nhiên, chị thực sự là một người biết tôn trọng kẻ khác. Rồi chị sẽ một mình trở lại đây vào một dịp không xa. Khi ấy chúng ta sẽ lại nói chuyện với nhau."
Tôi thảng thốt khi nhận ra đó là câu chuyện về mình.
Không thể phủ nhận cô ấy nói đúng, nhưng cũng chưa thể coi đó là những thông tin có tính quyết định.
Mino trở lại là chính mình.
"Xin lỗi cô, em gái tôi hơi cay nghiệt, nó không học được cách che đậy ý nghĩ nên đi đâu cũng toàn gặp rắc rối. Nói bất kỳ điều gì với ai người ta cũng phàn nàn, đến nỗi tôi nghĩ hay là vì thế mà nó mới ngủ suốt ngày. Cho nên, cô đừng để bụng."
"Vâng, đúng là em gái anh khá thẳng tính." Tôi nói. "Nhưng về cơ bản, đó không phải lối thẳng tính khiến tôi khó chịu, mà ngược lại tôi cảm thấy thích."
Bị nói như vậy trong lần gặp mặt đầu tiên thì quả là bất ngờ, nhưng tôi không cho rằng có sự ác ý vô duyên nào ở đây.
"Cảm ơn vì cô đã nói vậy. Thêm nữa, cũng xin cô chớ nghĩ rằng những lời đó là do tôi tự ý nói ra." Mino cười.
Tôi cúi đầu đáp lễ rồi bước xuống cầu thang. Nhưng trong bụng thì nghĩ: lại phải đến đây lần nữa để nghe những lời vạch trần với cấp độ hơn cả vừa rồi về bản thân mình thì tôi xin kiếu. Song tôi không lấy làm buồn bực. Chẳng hiểu sao, tôi lại thấy cảm động trước sự cao quý đến kỳ lạ của những con người trong ngôi nhà này.
Tôi không biết Nakajima hỏi Chii điều gì.
Nhưng nhìn vẻ mặt hắn lúc đi từ cầu thang xuống, tôi lập tức nhận ra rằng đó không phải là về chuyện giữa tôi và Nakajima, cũng không phải về dương mệnh của hắn, mà là một điều gì đó sáng sủa hơn. Hắn nói:
"Bữa trước tớ cũng có nói qua với cậu rồi, là tớ định sau khi kết thúc chương trình tiến sĩ thì sẽ tới làm việc tại một viện nghiên cứu danh tiếng ở Paris. Tớ chỉ hỏi xem liệu điều đó có thể thực hiện được không thôi."
Là thế đấy. Paris ư, vậy sao? Với khả năng của mình, hắn sẽ học điên cuồng, viết báo điên cuồng và sẽ ngay lập tức lấy được bằng tiến sĩ. Và nếu vậy, cuộc sống chênh vênh của chúng tôi sẽ chấm dứt? Tôi choáng váng vì nhận ra câu chuyện làm mình đau lòng hơn tưởng tượng. Không thể thế được, ruột tôi như quặn lại.
Tôi vốn là kẻ không muốn bị ràng buộc nên cố tự thuyết phục rằng: thôi, vì dù sao chúng tôi cũng chỉ mới bắt đầu.
"Khả năng đó là chắc chắn, cậu còn nghi ngờ gì nữa chứ?" Tôi nói. "Đến tớ cũng có thể trả lời cho cậu, rằng nhất định cậu sẽ làm được."
"Tớ có cảm giác chính bản thân đang cản trở tớ làm việc đó." Nakajima nói. "Nhưng Chii bảo rằng rất có thể bằng giờ này sang năm tớ đang ở Paris cũng nên."
Khi nói ra điều đó, Nakajima có vẻ rất vui. Tôi cho rằng chỉ thế cũng đủ khiến chuyến đi này có ý nghĩa.
Uống thêm một tuần trà ngon, trò truyện dăm ba câu nữa, rồi tôi và Nakajima để ngôi nhà dễ thương lại sau lưng.
Dưới ánh đèn hiên, Mino cứ vẫy tay mãi. Bóng dáng cậu trông như một bức ảnh ngược sáng rất đẹp, ánh đèn nhòe đi, lấp lóa như một viên ngọc trong góc tối.
Hồ nước chìm vào màn đêm như một cái hố sâu, đen hun hút tới nỗi phải khó khăn lắm mới nhận ra rằng nó không phải bóng đêm, nhờ sự tương phản với hàng cây.
"Nakajima này, cậu nóng lòng muốn đi Paris đến thế sao?" Tôi hỏi.
"Tớ không vội, nhưng tớ cứ cảm thấy mình sẽ không thực hiện được. Tớ không biết diễn đạt thế nào cho rõ ràng, nhưng bên trong tớ có một cảm giác tội lỗi khiến tớ cố gắng ngăn cản chính mình. Nhưng tớ sẽ ổn vì chỉ cần một lần cảm thấy làm được thì mọi chuyện sẽ đi theo hướng ấy. Với tớ thì thời điểm nào không quan trọng." Nakajima trả lời.
"Thế à, vậy thì tốt. Nghĩa là chưa phải ngay lập tức đúng không?" Tôi nói. "Tớ nghĩ thế thì tốt, vì tớ vẫn muốn sống như hiện tại."
Nakajima không trả lời. Hắn vui hay buồn, tôi không thể nào đo được lòng dạ hắn.
Và tôi nghĩ, biết đâu hắn đang rắp tâm quay trở lại căn hộ của mình để ngay lập tức lao vào việc học hành? Nếu vậy, thỉnh thoảng tôi sẽ sang xem xét tình hình đề phòng hắn đổ bệnh. Gì chứ việc này thì tôi làm được. Ý nghĩ của tôi cũng lưu loát và đẹp đẽ như cơn gió lướt trên mặt hồ. Giống như lối suy nghĩ của tôi từ trước tới nay.
Chúng tôi bước đi lạo xạo trên con đường rải đá. Ánh đèn đường tạo thành những quầng tròn, cứ liên miên xếp chồng lên nhau trắng xóa.
Tôi tự nhiên vòng tay mình qua tay Nakajima. Nhiều chỗ tối quá, nhìn không rõ đường, nhỡ có rắn lao ra thì sợ lắm. Tôi bảo hắn thế.
"Mùa lạnh này, đã làm gì có rắn." Hắn nói.
"Nhưng biết đâu có thứ gì khác, như côn trùng chẳng hạn." Tôi tiếp tục.
Cánh tay hắn khẳng khiu như que củi nhưng ấm áp. Hắn đột nhiên bảo tôi:
"Tớ cũng thích cuộc sống như thế này. Vì mình có thể về nhà cùng nhau."
Đó là câu trả lời cho điều tôi nói khi nãy.
Tôi có cảm giác như chúng tôi đã đi dạo bên nhau mãi như thế này. Men theo bờ hồ. Trong một khung cảnh tưởng chừng thuộc về thế giới khác. Tôi nghĩ... rồi đây có lẽ tôi sẽ tản bộ cùng rất nhiều người khác, nhưng chắc chẳng bao giờ có lại được cảm giác này nữa.
Khi ở bên Nakajima, tôi thấy thời gian thật quý giá, không phải vì xót thương cho hắn. Mà vì tôi nghĩ, thế giới của chúng tôi thật đẹp đẽ, thật tĩnh lặng, nhưng nó sẽ bị phá vỡ nếu có thêm dù chỉ một người khác. Giả sử đó là người như Mino thì chắc sẽ không sao. Nhưng chỉ cần một nhân tố khác xen vào, cái thế giới tinh tế của chúng tôi sẽ lắc lư và sụp đổ. Tôi cảm thấy thế. Giữa chúng tôi có một sợi dây bền chắc là vậy, nhưng sao thật mong manh.
"Nakajima, cậu đừng đi đâu cả." Tôi nói. "Không phải tớ đang nói về Paris, cậu cứ đi Paris cũng được. Nhưng tớ muốn cậu tiếp tục ở lại trên thế gian này."
"Tớ chẳng muốn đi đâu cả, thật đấy." Nakajima nói. "Nhưng trong cơ thể này, có cái gì đó như đang bảo tớ rằng tớ không được ở lại đây."
"Phải chiến đấu chứ, Nakajima."
"Tớ vẫn đang chiến đấu, nhưng có quá nhiều thứ bị tước đoạt, khiến tớ không thể làm tốt được."
"Cậu không được phép yếu đuối." Tôi nói.
"Vậy cậu bảo tớ phải làm sao, khi mà đến việc làm tình với người con gái mình thích đang ở ngay bên cạnh, tớ còn chẳng thể làm cho ra hồn?"
"Chuyện đó không quan trọng, tớ không ham muốn nhiều đến thế."
"Cậu nói dối, tớ biết mà. Thực tế thì ham muốn của cậu là vô đáy!"
"Bất lịch sự chưa kìa!!!" Tôi nói. Tôi cảm thấy giọng mình phá vỡ sự tĩnh lặng, vang vọng giữa trời đêm.
"Cho dù là như thế, thì cũng bởi vì hiện giờ cậu chưa phát huy được bản thân."
Nakajima cười khúc khích.
Nakajima, Mino và cả Chii nữa, thực tình thì tôi không rõ lắm vì cô ấy lúc nào cũng ngủ, đều có điểm chung.
Ấy là bầu không khí cô độc, mong manh đến vô hạn; là quang cảnh hoang tàn được dựng lên một cách gắng gượng, chắp vá từ những thứ đã bị phá nát tới tận nền móng và không sao cứu vãn được.
Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh nào? Tôi bắt đầu lờ mờ nhận ra. Chỉ là phỏng đoán, nhưng ít nhất cũng có thể nói tôi linh cảm được.
Mặc dù vậy, nó đen tối tới mức tôi không muốn thừa nhận rằng đó là một khía cạnh của thực tế cuộc sống.
Dạo ấy, tôi đã tin hơn bây giờ rất rất nhiều rằng, sự vui tươi trong những thanh âm của bữa cơm chiều, hay của nụ cười tiễn tôi ra khỏi nhà vào buổi sáng, hay hơi ấm ở ngay bên cạnh mình mỗi lần thức giấc nửa đêm là tất cả trên đời.
Nhưng Nakajima hoàn toàn khác trong thế giới của mình, một thế giới bao gồm tất cả những gì đen tối đã vĩnh viễn tồn tại ở đó. Đó không phải sự khác nhau giữa đàn ông và đàn bà, mà là sự khác nhau của chặng đường đời mỗi người trải qua. Tôi tưởng mình biết nhiều về thế giới hơn những người cùng trang lứa, nhưng lại hoàn toàn bị hạ gục trước những trĩu nặng trong lòng Nakajima.
Nakajima cười khúc khích trong lúc cầm tay tôi, cùng lặng lẽ vòng qua hồ nước để đi ra ga. Thật bình yên. Chúng tôi bảo nhau mua cơm hộp để ăn trên đường về. Đêm đó tôi tưởng như mỗi bước đi là một bước tiến tới tương lai.
Ngoảnh đầu lại đã thấy hồ nước bị bao phủ trong màn sương, trông chập chờn mờ ảo.
Cuộc sống vẽ tranh tường của tôi bắt đầu từ tuần kế tiếp.
Tôi ra khỏi nhà vào lúc tám giờ sáng, giống như một người lao động trên công trường xây dựng. Vì tôi thích nhất là ánh nắng buổi sáng.
Tôi hôn lên má Nakajima bấy giờ còn đang ngủ rồi đi thẳng tới địa điểm vẽ tranh.
Ngày đầu tiên, sau khi đã vẽ mấy chú khỉ nghịch ngợm, tôi quyết định vẽ một hồ nước lớn ở vị trí tương đương một phần ba bức tường tính từ mép trái. Tất nhiên, tôi sẽ vẽ cả đàn khỉ ở xung quanh đó nữa. Cây cối, cùng lũ khỉ trầm lặng. Hai anh em nhà khỉ, rồi khỉ mẹ và con trai nó chăm chú nhìn hồ nước.
Tôi thừa hiểu nếu vẽ những thứ ấy, lòng mình sẽ thấy xót xa, nhưng dù thế nào tôi vẫn muốn làm vậy.
"Cô đang vẽ khỉ à?"
Đầu tiên một cô bé đến bắt chuyện với tôi, dần dần những đứa trẻ khác cũng xúm lại. Tôi đã nổi khùng với mấy cậu nhóc định nghịch màu vẽ, sau đó tôi xin lỗi và các chú ta cũng bắt đầu tỏ ra hiểu biết đôi chút. Có một cậu bé hỏi tôi, chắc chắn là đã được cha mẹ và Sayuri mớm lời:
"Nếu có tranh của cô thì ngôi trường sẽ không mất đi phải không ạ?"
Đó là một cậu bé còm nhom, có đôi mắt to và cái mũi tẹt. Cậu ta xưng tên là Yotchan và kể đang theo học một lớp hội thoại Anh văn.
"Dù cho có tranh của cô, nhưng nếu ngôi trường bị đóng cửa thì nó vẫn cứ bị đóng cửa thôi cháu ạ."
"Thế thì tại sao cô lại vẽ?"
"Vì có chỗ để vẽ và có người nhờ cô. Cháu cũng thích bức tường có nhiều màu sắc, dù không tồn tại lâu, đúng không?"
"Như thế là nghệ thuật hả cô?"
"Rất tiếc là không phải anh bạn ạ. Chỉ là tranh vẽ các chú khỉ thôi." Tôi cười.
"Cô ơi, mấy chú khỉ này có phải những bóng ma không?" Yotchan hỏi.
Quay sang, tôi thấy Yotchan đang chỉ bốn con khỉ cạnh hồ nước. Tôi mới chỉ vẽ phác, chưa tô màu nên trông gần như trong suốt.
"Không phải đâu, cái đó cô sẽ tô màu sau."
"Thế ạ, làm cháu giật cả mình." Yotchan nói.
Trẻ con thật đáng nể, tôi thầm nghĩ. Tôi không hề nghĩ tới việc vẽ ma trong một bức tranh vui vẻ thế này. Tôi vừa tô màu vừa suy nghĩ.
Chỗ hồ nước sẽ nhiều màu sắc nhất nên tôi định tô màu cuối cùng để đảm bảo sự hài hòa, nhưng không thể để chúng là những bóng ma mãi được. Tôi sẽ tô những chú khỉ âm thầm ấy bằng một tông màu không lòe loẹt nhưng vui tươi. Tôi quyết định chọn tông màu hạnh phúc. Tôi sẽ vẽ cả hồng trà. Cả bánh ngọt. Và tô màu thật đẹp xung quanh nàng công chúa cay nghiệt đang ngủ nữa.
Thật bất ngờ là Nakajima không biến mất khỏi căn hộ của tôi, mặc dù hàng ngày vì việc vẽ tranh tôi phải vắng nhà trong suốt khoảng thời gian còn trông thấy mặt trời.
Không hiểu sao, ở đâu đó trong ý nghĩ, tôi luôn cảm thấy hắn sẽ bốc hơi khi dự án tranh tường của tôi bắt đầu.
Đã nhiều lần tôi ngồi phắt dậy vì mơ thấy điều ấy. Tôi ngạc nhiên bởi mình khóc. Giấc mơ như thế này: Tôi về đến nhà thì Nakajima không còn đó, đồ đạc cũng biến mất. Tôi cuống quýt chạy tới bên cửa sổ, mở ra xem nhưng chỉ thấy căn hộ của Nakajima tối om. Chẳng còn một dấu tích nào cho thấy Nakajima đã thực sự tồn tại. Và giấc mơ dừng lại ở đó...
Lần nào tôi cũng khẳng định với mình bằng một giấc mơ đau buồn, rằng chẳng có gì là lạ nếu chuyện đó xảy ra ngay lúc này.
Tuy nhiên, cứ hết một ngày mệt nhọc trở về nhà, vẫn thấy Nakajima như bình thường.
Thậm chí có lần hắn còn đang nấu cơm cho tôi.
Cũng có khi hắn đang ngủ vì học hành căng thẳng, bên cạnh luôn chất hàng chồng sách khó nhằn về sinh hóa hay kỹ thuật di truyền, trên đó dán phất phơ rất nhiều mảnh giấy nhớ.
Những ngày tháng không có gì là chắc chắn của hai chúng tôi. Duy chỉ có một điều chắc chắn, ấy là Nakajima vẫn ở nhà và đang sống.
Một buổi chiều muộn, trở về nhà, tôi thấy Nakajima đang nằm ngủ và ngáy o o.
Chiếc PowerBook vẫn để mở trên bàn nên chắc là hắn đã ngủ quên đây mà, nghĩ thế, tôi định nhẹ nhàng đắp chăn cho hắn thì phát hiện ra.
Nakajima đang kẹp dưới nách một vật gì đó. Một vật cứng hình vuông, màu bạc.