Nguyên tác: The Mill On The Floss
Số lần đọc/download: 1990 / 33
Cập nhật: 2015-10-05 18:59:31 +0700
Chương 2
ÔNG TULLIVER NÓI:
- Bà có biết tôi muốn gì không? Tôi muốn cho thằng Tom học hành thật nên người, học làm sao cho nó đủ sức nuôi sống lấy. Đó là điều mà tôi đã nghĩ tới trong khi báo cho nó biết là không còn học ở cái trường ký túc xá ở Ladyday nữa. Tôi thấy nó cần phải theo học ở một trường nào cho ra hồn ngay giữa mùa Hè này.
Hai năm học ở ký túc xá cũng đã đủ cho nó trở thành một nông gia không thua sút ai, bởi vì nó đã hiểu được chữ nghĩa khá nhiều hơn tôi. Thật ra, tôi có học được cái gì đâu, một vài chữ đọc cũng không thông. Tại vậy mà tôi muốn thằng Tom phải trở thành một nhà thông thái cũng giống như mấy người mà tôi đã biết, họ nói chuyện hết sức hay và viết mau như gió. Có được vậy, nó mới giúp tôi trong mấy vụ kiện cáo, điều đình gì đó. Tôi không muốn thằng con tôi làm luật sư... cái nghề đó bỉ ổi lắm... nó phải là một cái gì như ông kỹ sư, hoặc là thanh tra hay giám định viên, hồ giá viên gì cũng được, thí dụ như ông Riley; nếu không thì nó phải là một nhà buôn giỏi, chỉ có thâu lợi vào chớ không mất tiền ra.
Hết thảy mấy người tôi mới nói đều không ngán gì luật pháp, chắc vậy mà. Bà có thấy ông Riley không, ông nhìn... thẳng vào mặt ông thầy kiện Wakem chẳng khác gì hai con mèo nhìn nhau, không sợ một chút nào hết.
Ông chủ nhà máy xay Dorlcote đã nói như thế cùng vợ, một người đàn bà tóc hoe vàng, dáng điệu nhu mì, hòa nhã. Lúc đó, bà Tulliver đang đội chiếc nón kiểu cánh quạt (tôi không nhớ rõ là kiểu nón này xuất hiện từ lúc nào, có lẽ chỉ mới gần đây thôi. Trong thời kỳ này, bà Tulliver trạc tuổi bốn mươi, và cả gia đình vẫn hãy còn mới lạ đối với thành phố St. Ogg’s).
- Ông Tulliver, ông luôn luôn biết nhiều hơn tôi; tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhưng chẳng biết là tôi có nên làm thịt một cặp gà mái rồi mời các dì dượng tới chơi vào tuần tới hay không. Nhân dịp đó, ông có thể hỏi chị Glegg và Pullet để coi họ thấy ra sao. Trong chuồng, ít ra cũng có một cặp gà tới lúc làm thịt rồi.
Ông Tulliver bực tức:
- Bà muốn giết bao nhiêu gà thì cứ việc, Bessy; nhưng nhứt định là tôi không thèm hỏi dì dượng nào cả về chuyện gì dính líu tới con trai tôi.
Bà Tulliver lắc đầu chán nản:
- Coi kìa! Sao lại nói vậy, ông cứ nói cái giọng khinh bỉ đó với gia đình bên tôi, để rồi chị Glegg cứ đổ thừa tại tôi, mà tôi thì có lỗi gì đâu. Có bao giờ tôi nói là con gái của tôi phải khổ sở vì mấy dì dượng của nó đâu. Mà thôi, nếu thằng Tom phải tới học ở trường mới, tôi mong mỏi là được học ở một chỗ nào để tôi còn lo giặt áo, giặt quần và may vá cho nó, chớ nếu không thì đồ đạc của nó sẽ bị dơ bẩn chịu không nổi. Với lại, mỗi lần có ai đi về, tôi còn có thể gởi cho nó bánh trái thịt heo hầm cho nó ăn, dầu là người ta có cho nó ăn uống đầy đủ hay không cũng vậy. Con cái của tôi là luôn luôn phải no đủ chớ.
- Không sao, không sao đâu! Mình có gởi nó đi xa lắm đâu, mình đâu muốn vậy. Nhưng bà đừng có thọc gậy vào bánh xe với cái chuyện giặt quần, giặt áo đó để tôi phải cho nó học ở một trường gần. Bessy, tôi thấy bà cứ hay mắc cái tật đó, hễ gặp một cây gậy ở giữa đường là y như rằng bà không chịu bỏ đi luôn. Tại vậy mà bà không để tôi mướn một người đánh xe giỏi bởi vì y có mụt ruồi trên mặt.
Bà Tulliver chỉ dám biểu lộ sự ngạc nhiên vừa phải:
- Chúa ơi, tôi có phản đối một người nào vì có mụt ruồi trên mặt đâu. Tôi còn thích nữa là khác bởi vì anh tôi cũng có một mụt ruồi ở chân mày mà. Tôi còn nhớ là ông định mướn người đánh xe nào có mụt ruồi đâu. John Gibbs đâu có mụt ruồi nào trên mặt, cũng như ông vậy; tôi đã làm mọi cách để ông mướn y và ông cũng đã mướn rồi; nếu y không chết trong trận cháy đó thì chắc bây giờ y cũng đang đánh xe cho mình vậy. Làm sao tôi biết được là sau khi chết rồi, y có mọc mụt ruồi nào không, ông Tulliver?
- Không, không phải vậy, Bessy. Tôi không phải muốn nói đúng y như vậy, tôi muốn làm thí dụ để nói khác, mà thôi... suy nghĩ nhức đầu lắm. À, cái điều mà tôi bắt buộc phải suy nghĩ muốn bể óc là phải cho thằng Tom học ở đâu cho xứng đáng, nhứt định không phải mấy cái trường chẳng ra gì đó. Rối trí quá.
Thỉnh thoảng ông Tulliver ngừng đôi ba phút rồi thọc sâu cả hai tay vào túi quần đùi, dường như cố tìm trong đó một ý kiến gì sáng sủa hơn. Và rõ ràng là ông đã không thất vọng với cử chỉ này, bây giờ mặt ông đã sáng rỡ lên:
- Rồi, được rồi. Tôi sẽ hỏi ông Riley chuyện đó; ngày mai ổng tới để phân xử vụ cái đập nước.
- Được rồi, ông Tulliver. Tôi đã cho lấy mấy tấm vải trải trên cái giường tốt nhứt ra và Kezia đã đem hong gần lửa. Không phải là quí giá gì nhiều nhưng mấy tấm vải trải giường cũng quá tốt cho bất cứ người nào được nằm lên. Đó là loại Hòa Lan chớ có phải tầm thường đâu. Nếu mai kia mà ông có chết thì chúng nó đã sẵn sàng, đẹp lắm, lại có ướp mùi oải hương, nhứt định là chỉ có tôi chớ không ai được trải chúng ra. Tôi cất kỹ lắm, ở bên trái tủ gỗ sồi.
Vừa nói xong, bà Tulliver rút ra một chùm chìa khóa và mân mê chiếc chìa mà bà đã dùng để khóa học tủ đựng mấy tấm vải trải giường kia, với một nụ cười sảng khoái trong khi nhìn ánh lửa trong lò sưởi. Nếu là người mê tín dị đoan, chắc chắn ông Tulliver sẽ coi cái cử chỉ vừa rồi của vợ như là một dấu hiệu xui bảo ông sớm nằm vào mấy tấm vải Hòa Lan kia mà bà cho là quí giá vô song. Nhưng ông không phải là hạng người này, ông chỉ bận tân đến việc nghi ngờ quyền hạn của ông đối với vấn đề thủy lực thôi. Hơn nữa, ông luôn luôn giữ cái thói quen của một người chồng chẳng bao giờ cần chú ý tới từng câu, từng lời của vợ; ngoài ra, sau khi đã nhắc tới tên Riley, ông không còn nghĩ tới chuyện nào khác hơn được nữa.
Sau một lúc im lặng, ông tiếp tục nói lên những ý nghĩ từ nãy giờ bám sát trong đầu:
- Bessy, lần này là tôi đi đúng chỗ rồi. Riley mới đúng là người biết phải cho học ở đâu, chính ổng cũng đã từng đi học từ nhỏ cho tới lớn, đủ các chỗ... giám định giá hàng, giống giống như vậy. Đêm mai, sau khi xong chuyện làm ăn, mình sẽ nói vụ thằng Tom coi ông ta tính sao. Tôi muốn Tom cũng sẽ giỏi như ông Riley, biết ăn nói đàng hoàng, biết viết lách, không sợ gì pháp luật hà hiếp, lại sành sỏi công việc buôn bán nữa.
Dường như bà Tulliver lại muốn «thọc gậy bánh xe»:
- Ăn nói như nước chảy, biết hết mọi thứ, đi còng lưng lại và tóc hớt ngắn lên... thiệt tình con trai của tôi mà có như vậy, tôi cũng chẳng buồn gì mấy. Nhưng có cái chuyện là mấy người ăn nói giỏi ở thành thị lớn, phần đông đều mặc ngực áo giả. Học mặc hoài cho tới khi mấy miếng vải ổ ong đó nát bấy ra mới chịu đem đi giấu. Ông Riley chắc cũng vậy thôi. Với lại, nếu thằng Tom cũng phải đi tới tận Mudport để học như ông Riley, thì chỗ ở của nó chỉ là cái nhà bếp lớn không bằng một nắm tay, ăn sáng không có trứng tươi, rồi ngủ thì ở tuốt trên lầu ba – lầu tư – tôi biết mà – tới chừng có cháy nhà là chết thiêu luôn, xuống làm sao kịp.
- Không đâu, làm gì tới Mudport. Tôi muốn nó đặt văn phòng ở Saint Ogg’s này và ở với gia đình.
Sau vài giây suy nghĩ, ông Tulliver tiếp:
- Cái điều mà tôi sợ nhất là đầu óc của nó không minh mẫn như người ta chậm hiểu quá! Chắc là tại nó giống bên bà, Bessy.
Bà Tulliver nhìn nhận, nhưng chỉ với câu sau cùng:
- Chắc là đúng vậy. Nó ưa rắc muối vào đồ ăn thật nhiều. Anh tôi cũng ưa ăn mặn và cha tôi cũng vậy.
- Tội nghiệp! Con trai lại giống mẹ còn con gái thì không. Thiệt là rắc rối, khó biết được chuyện gì sẽ tới. Con nhỏ thì giống tôi, nó lanh bằng hai thằng Tom. Đối với đàn bà thì như vậy là quá lanh.
Ông Tulliver ngừng nói, ngoẹo đầu sang bên này rồi bên kia:
- Còn nhỏ thì lanh cỡ đó chưa có gì đáng hại, nhưng bà biết chớ, một người đàn bà quá lanh lợi cũng như là một con trừu đuôi dài, không bán được nhiều tiền hơn.
- Còn nhỏ mà lanh lắm cũng có hại chớ, ông Tulliver, bởi vì lần lần nó thành hung ác. Không có cách nào giữ nó sạch được tới hai tiếng đồng hồ. Ông có nhắc tôi mới nhớ...
Bà Tulliver đứng dậy, đi tới cửa sổ:
- Chẳng biết giờ này nó ở đâu, gần tới bữa dùng trà rồi. Chắc là, phải rồi... nó lại đi lên đi xuống ở bờ sông như một con vật hoang, có ngày rồi sẽ té xuống nước...
Bà Tulliver vỗ mạnh vào cửa sổ một cái rồi lắc đầu – một thói quen mà bà thường lập lại nhiều lần trước khi về ghế.
Vừa ngồi xuống, bà nói ngay:
- Theo tôi thì con nhỏ chẳng lanh lợi chút nào, còn hơi đần là khác. Lần nào sai lên gác lấy đồ, nó cũng quên mất không biết lấy gì rồi cứ ngồi luôn trên sàn phơi nắng, vừa phá tóc vừa ca hát như một con điên để tôi chờ hụt hơi ở dưới. Tạ ơn Chúa, cái tánh đó không giống chút nào với gia đình bên tôi. Còn cái nước da ngâm của nó, sao mà giống như mấy đứa giữ lừa. Tôi không dám nói động tới thánh thần chớ thiệt tình trông nó cứ như là một con hề.
- Nè, bà đừng nói vậy. Con gái mà mắt đen và ngó thẳng như nó ai cũng ưa nhìn. Nó có thua gi đám con gái bằng tuổi nó đâu, lại còn biết đọc chữ như mấy ông thầy tu nữa.
- Nhưng tóc nó không chịu quăn, dầu tôi có làm cách gì cũng vậy. Mỗi lần bắt nó uốn tóc bằng cây sắt hơ nóng là nó nhảy loi nhoi.
Ông Tulliver xẵng giọng:
- Thì cắt đi, cắt ngắn đi.
- Sao nói vậy, ông Tulliver? Nó cũng lớn rồi, chín tuổi còn gì nữa, người lớn hơn tuổi, ai lại đi cắt tóc. Nghĩ tới con em họ Lucy của nó coi tóc người ta cuộn tròn một hàng dài quanh đầu, không một sợi nào rối hết. Cứ nghĩ tới dì Deanne có được một đứa con gái như vậy mà thèm. Con Lucy vậy mà giống tôi hơn là con gái của tôi. Maggie, Maggie...
Bà Tulliver bỗng kêu lên với giọng bứt rứt ngay khi đứa con gái mà bà cho là đã đầu thai lầm, bước vào:
- Má dặn là không được tới gần bờ sông, sao không nghe? Có ngày rồi té xuống, chết trôi rồi mới biết là tại không nghe lời.
Cô bé vừa lột mũ ra thì quả y như lời phiền trách của bà mẹ về mớ tóc rối tung của nó. Điều đáng nói là vừa được mẹ uốn tóc cho thì khoảng một giờ sau, tóc của cô bé lại cứ thẳng tuột ra, đã vậy, nó lại còn có thói quen hất tóc ra phía sau để khỏi che phủ đôi mắt nâu đen luôn luôn ngời chiếu, khiến nó trông không khác mấy con ngựa con giống Shetland.
Bà mẹ lại nhăn nhó:
- Chúa ơi, Maggie, làm gì mà ném mũ ở đây. Đem lên gác mau, chải tóc ngay ngắn lại, thay quần áo và giầy vớ ra... con gái mà như vậy không biết xấu sao? Rồi lo may vá đi, cho giống với con nhà tử tế.
Maggie ngang bướng:
- Không, con không chịu may vá đâu.
- Sao? Bộ không muốn kết nhiễu làm khăn cho dì Glegg hả?
Maggie hất bờm tóc lên:
- Làm gì như là khùng, con không chịu. Ai lại đi xé vụn ra rồi kết miếng này vào miếng khác. Con cũng không muốn làm gì cho dì Glegg đâu, con không thích dì.
Nói xong, cô bé quày quã ra khỏi phòng, vừa đi vừa nắm dây kéo lê chiếc mũ theo trong khi ông Tulliver thấy đời thích thú.
Bà vợ trách móc:
- Vậy mà còn cười được sao, ông Tulliver? Ông cứ cưng nó hoài làm nó hư, để các dì lại đổ lỗi cho tôi.
Bà Tulliver đúng là mẫu người hòa nhã, giỏi chịu đựng chẳng một tiếng rên la dầu là lúc sanh con, hay trong bất cứ cảnh ngộ nào. Từ thuở còn nằm nôi mãi tới giờ, bà vẫn khỏe mạnh, tươi tỉnh, mập mạp và ít chịu suy nghĩ nhiều. Nói chung, bà là ngôi sao của gia đình bà vì cả duyên sắc và tính tình khả ái. Tuy nhiên, chất sữa và những gì ngọt lịm không phải là những thứ có thể giữ được lâu, bởi vì một khi nó đã hơi chua thì rất có hại cho những chiếc dạ dày còn non trẻ. Tôi thường tự hỏi, chẳng biết những người đàn bà hiền dịu và khả ái đó, với mái tóc vàng hoe và nét mặt đôi chút ngây ngô, sẽ phải làm sao để luôn giữ được vẻ thản nhiên, một khi con của họ cả gái lần trai đều đã quá lớn đệ tự hoà nhập với đời. Theo tôi, có lẽ họ sẽ càng la rầy quở trách yếu ớt hơn trong khi cứ phải âu sầu nhiều thêm nữa.