Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:49:05 +0700
Chương I Bài Học Đầu Tiên
Đ
oàn xe rời xa lộ, quẹo vào con đường đất đỏ chừng vài cây số rồi dừng lại. Trời bắt đầu sáng. Sau một đêm di chuyển mất ngủ, tôi nhìn những nét mặt mệt mỏi, những cặp mắt đờ đẫn, những mái tóc rối bời, không ai nói một lời. Tên bộ đội trẻ măng ôm khẩu A.K ngồi ở cuối xe, liếc nhìn mọi người với cặp mắt nghiêm khắc. Hắn đưa ngang cây súng như đề phòng, sợ có người nhảy xuống trước khi có lệnh. Tên khác, ngồi sát ca-bin nhoài người, một tay cầm súng, một tay vén chiếc bạt xe, thò đầu ra ngoai. Chiếc Molotova chứa 80 người đi học tập cải tạo cùng tư trang với 2 tên bộ đội áp tải. Lòng xe chật cứng không ai có thể cựa quậy, xoay trở. Chiếc bạt che kín mít, làm nghẹt thở. Mùi hôi dầu mỡ do tấm bạt tỏa ra tăng thêm khó chịu. Ai cũng muốn thò đầu ra ngoài để mong được hít thở chút không khí trong lành, nhưng không được. Những tiếng ngáp kéo dài từ người nọ qua người kia tạo nên cảnh tượng vô cùng chán mỏi. Một vài đốm lửa lập lòe. Khói thuốc quanh quẩn không thoát khỏi lòng xe quến vào mùi dầu mỡ và hơi nóng từ đầu máy dội lai làm cổ họng tôi ngứa ngáy, buồn nôn. Vì ngồi sát phía sau, tôi cố tìm cách quay mặt ra ngoài. Mặt tôi gần chạm vào thân súng A.K. Tên bộ đội nhìn chăm chăm. Bỗng từ trên xe, lao nhanh xuống một bóng người. Khẩu A.K quay nhanh nòng về hướng đó:
- Anh kia, “nên” [Các tên bộ đội V.C. đều nói ngọng L thành N] xe ngay. Ai cho xuống? Xin phép ai? - Tiếng nói gắt gỏng mang nhiều tính cách dọa nạt.
- Thưa...., cho đi tiểu! - Vừa nói anh vừa cho tay mở cửa quần.
- “Nên” ngay, nếu không tôi bắn!
Tên bộ đội đặt tay vào cò súng. Mọi người trong xe im phăng phắc. Chiếc áo trắng quay lại, cửa quần mở toang, cho tay bám vào thành xe, leo lên. Tôi nhìn, nhận ra Lâm, Trung Tá Quân Y. Vì nhỏ con và sau một đêm thức trắng, xe lại quá cao, không còn sức để leo. Tôi cúi xuống nắm tay Lâm, kéo lên. Sau khi Lâm đã ngồi thu lu trong lòng xe, tên bộ đội vẫn chăm chú nhìn, như muốn trút tất cả bực bội xuống hắn.
Trời sáng rõ. Tên bộ đội nhảy khỏi lòng xe theo lệnh của tên ngồi phía trước. Hắn cầm ngang súng, trong tư thế sẵn sàng. Một tiếng hô, khô và sắc: Xuống!
Mọi người như trút được gánh nặng, nhảy ồ ạt mong thoát khỏi lòng xe càng sớm càng tốt. Khi bàn chân vừa chạm đất, ai nấy đều khoa tay, nhún chân, vặn mình cho đỡ mỏi. Những khớp xương kêu răng rắc. Vài người mót tiểu quá, kéo nhanh cửa quần. Dòng nước tức tưởi bung ra!
- Tập họp hàng hai!
Tiếng hô của tên bộ đội âm vang. Đôi mắt hắn quắc lên như hằn học. Có người đái chưa hết bãi, vội cho tay kéo cửa quần, những dòng nước vẫn chảy làm ưót sũng một khoảng vải.
Dưới làn ánh sáng buổi mai, giữa một khung cảnh tươi mát của cảnh vật còn ướt đẫm hơi sương, tôi nhìn tên bộ đội với bộ đồ tác chiến nhăn nhúm, chiếc nón cối đã sờn vành, chiếc dây nịt bằng nhựa nâu kiểu dân sự thường dùng, đôi dép lốp “Bình Trị Thiên”, được sáng tạo từ hồi Kháng Chiến chống Pháp, đúc tại Trung Quốc, tất cả như toát ra sự nghèo nàn, nhớm nhếch không phù hợp với khẩu A.K mới toanh, màu gỗ đỏ au, nòng thép xanh biếc có gắn chiếc lưỡi lê sáng quắc. Hắn cũng có vẻ mệt mỏi không kém chúng tôi, nhưng ở cuơng vị này, không cho phép hắn có những lời nói và hành động thiếu “tính chất Cách Mạng”! Vì đứng gần, tôi nhìn rõ hàng lông to mọc bừa bải trên mép hắn như vết nhọ.
- Thưa..., cho mang đồ xuống! - Một người trong bọn chúng tôi nói ấp úng vì chưa biết phải gọi tên bộ đội bằng gì?
- Một “nên”, một đứng dưới đỡ xuống. Còn ở tại hàng! - Giọng nói khô khan, lạnh lùng.
Trong khi chờ đợi mang đồ xuống xe, tôi nhìn phía trước và phía sau. Ở cuối mỗi chiếc Molotova, đều có hàng người đứng ngay ngắn. Đoàn xe quá dài, ở trước mặt cũng như sau lưng, những bộ quần áo đủ màu làm cảnh trí nơi đây cũng bớt phần tẻ nhạt. Một tên bộ đội chắc là cấp sĩ quan tuy không mang quân hàm, có dáng chững chạc, đeo K 54, đi từ đầu hàng xe lại. Hắn đi như duyệt qua hàng rào danh dự. Không đội nón cối. Mái tóc hớt ngắn, đen rậm. Cặp chân mày như hai nét mác chếch lến cao gần chấm tóc. Vầng trán hẹp, thấp. Khuôn mặt vuông. Chiếc cằm bạnh ra làm tăng phần cương quyết. Hàm răng hô nên môi hắn lúc nào cũng mở hé như cười. Thân hình tầm thước, nhưng đôi vai khá rộng. Nhìn hắn, tôi đoán biết từ miền Bắc mới vào cùng với ngày 30-4. Bộ quân phục hắn mang trên người thuộc loại hàng bóng, tương đối tươm tất. Hắn không mang dép lốp mà mang dép nhựa nâu, kiểu rọ heo. Cách xa hắn một khoảng, đám bộ đội, kẻ đội cối người đầu trần; tất cả đều không mang vũ khí.
Khi đi qua hàng chúng tôi, hắn liếc nhìn. Đôi mắt sắc sảo lướt nhanh như ánh chớp. Hắn không nói câu nào. Hai tên bộ đội áp tải, không chào, cứ đứng trơ trơ, coi như không có ai trước mặt.
Cảnh tượng đó làm tôi suy nghĩ.
Chúng tôi lợi dụng lúc này để trò chuyện trao đổi với nhau những lời nói thì thầm. Tôi nhận thấy, trên mỗi nét mặt, thoáng hiện sự lo âu nhiều hơn bình thản.
Tất cả, cầm đồ trong tay! Sau tiếng ra lệnh, moi người cúi xuống xách túi tư trang của mình. Có người khiêm nhường, chỉ mang theo một túi nhỏ, chứa vài chiếc áo quần thay đổi cùng dăm ba thứ vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày. Có người lo xa, mang một ”xắc ma-ranh” tròn vo như con heo nái! Tất cả sự không cân xứng đó như báo trước và đánh giá về tầm mức hiểu biết của mỗi cá nhân về vấn đề học tập cải tạo! Một tên bộ đội, cao, gầy, nét mặt xương xương từ đâu tiến đến sát chỗ chúng tôi. Hắn nói với một trong hai tên áp tải:
- Các đồng chí cho tôi “nãnh” B [[B= Trung Đội] này! A, các anh ở B-30 phải không? B Trưởng đâu?
Một người trong chúng tôi bước ra khỏi hàng:
- Thưa... tôi đây!
Đó là Trung tá Bảy thuộc Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu. Anh Bảy người lùn, mập mạp. Cái lối trình diện của anh vẫn theo đúng tác phong một quân nhân, dù hôm nay, anh không còn là sĩ quan cấp Tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nữa. Anh đứng thẳng tăp, hai gót chân đụng nhau, hai đầu bàn chân tẽ chênh chếch đúng 45°. Tôi nghĩ, có lẽ do thói quen nhiều hơn sự sợ sệt của một người bại trận đứng trước một người thuộc phe thắng trận!
- Tốt, các anh theo tôi.
Anh Bảy đi đầu, theo sát tên bộ đội, chúng tôi bước sau, không ai cất tiếng.
Từ chỗ tập họp đi vào doanh trại, nơi chúng tôi sẽ phải học tập cải tạo, cũng khá xa. Con đường đất đỏ còn ướt sũng nước mưa đêm hôm trước, gây trở ngại cho sự di chuyển. Từng mảng bùn đỏ, quánh đặc dính vào dép như một lớp keo dầy, không cách nào làm nó lìa khỏi đế. Nó dính cứng, mỗi bước mỗi dầy thêm, càng lúc càng nặng nề, mệt mỏi! Tôi đang loay hoay chùi dép vào rìa cỏ cho ra bớt đất, có bóng người qua mặt. Tôi ngước nhìn. Một anh cao lớn, vai mang túi đeo lưng khá to, mặc chiếc áo xám ô vuông, quần dacron mầu nâu, chân đi “bốt-đờ-sô” hùng hục bước, coi thường bùn đất. Tôi nghĩ, anh này có lý. Chắc trước khi đi, anh đã được một tên Việt Cộng quen thuộc nào đó nói cho biết, cần mang theo những gì khi đi học tập cải tạo! Tôi biết, anh tên Dinh, người miền Trung, Trung đoàn Trưởng, Trung đoàn X thuộc Sư đoàn III.
Vừa vào qua chiếc cổng làm bằng những cây trụ Ấp Chiến Lược, một bên cánh đã hư, sà xuống gần sát mặt đất, cong queo, như bị sự va chạm nặng nề, có thể do chiếc GMC hay chiếc M113 đụng phải. Ngay bên cạnh đấy, một đống rác to, cao hơn đầu người. Trong đống rác có đủ thứ nhơ nhớp, xen kẽ vào đấy, nào giấy đánh máy, giấy in Ronéo, các văn kiện quân sự bị xé nát, lon bia, lon đồ hộp, chân bàn ghế gẫy, nồi niêu, soong chảo bẹp rúm, chiếu rách và những tấm nylon tả tơi cùng giầy, dép cũ. Có một chiếc giầy trẻ con màu đỏ nằm giữa lối đi. Tôi toan cúi xuống nhặt, người đi trước đã vô tình dẫm lên làm nó chìm xuống măt bùn. Có một cái gì tang thuơng buồn bã đang khỏa lấp cảnh tượng nơi đây làm lòng tôi se lại. Tôi cảm thấy ngay từ giờ phút này, cuộc sống của mọi người bắt buộc phải chuyển hướng, dù tốt, dù xấu!
Chúng tôi di chuyển qua 2 căn nhà rồi quẹo sang bên phải. Tên bộ đội dừng lại trước một căn, bốn phía quây bằng lưới ngăn ruồi, không có tường, có cửa sổ gì hết. Phía trước có chiếc mái hắt nhô ra, được chống bằng 2 chiếc cột gỗ bắt chéo. Lối kiến trúc này tôi thường thấy nơi các Câu Lạc Bộ thuộc doanh trại quân đội. Quay mặt ra ngoài, tôi đảo mắt nhìn. Toàn khu khá lớn, rất nhiều căn nhà làm sẵn, lợp tôn. Một người ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Căn cứ của Trung Đoàn 48.
Tên bộ đội đi vào, anh Bẩy theo sau. Từ chỗ đứng, tôi nghe tiếng nói:
- Đây, chỗ ở của các anh! Từ phút này, tôi quản “ný” các anh. Các anh phải tuyệt đối phục tùng “nệnh” của tôi. Mai đây, tôi sẽ sinh hoạt để nói với các anh những gì các anh phải “nàm”. Còn vấn để xưng hô, các anh muốn nói gì với tôi, phải dùng danh từ: “cán bộ”. Còn tôi gọi các anh bằng “anh”, không phân biệt tuổi tác! Các anh không được xưng hô với nhau qua cấp bậc cũ, không được nói tiếng nước ngoài. Đó, tôi nói để các anh hiểu sơ qua.
Hắn nói ngọng, giọng nói một trăm phần trăm nông dân miền Bắc. Hắn đi ra, hai tay khoanh sau lung, quần áo xốc xếch như mọi tên bộ đội khác. Đôi dép lốp không được mang quai tử tế mà xỏ như xỏ guốc. Hai chiếc quai sau bị đè bẹp dưới gót chân. Hắn không nhìn ai, đi thẳng ra ngoài, hướng về dãy nhà khang trang hơn ở bên kia con đường đá.
Mọi người đi vào. Tôi sững mắt nhìn căn nhà. Nền đất dơ dáy, rác rưởi mỗi nơi một đống. Đó đây vài vũng nước đục ngầu, đỏ quạch, nhơ nhớp vì mưa tạt. Những tấm lưới ngăn ruồi dính bụi lâu ngày trông giống màu sắt rỉ, vài chỗ rách nát, tả tơi! Tất cả, tuy không ai nói lời nào, nhưng nhìn qua nét mặt, đều có thể đoán được phần nào ý nghĩ của nhau trước thực tế này.
Anh Bẩy nói với tư cách B Trưởng.
- Chỗ ở của tụi mình đây. Bây giờ chúng ta hãy làm vệ sinh cho sạch sẽ, rồi chia nhau chỗ nằm.
- Chổi đâu? - Một tiếng hỏi như gắt.
Anh Bẩy nhỏ nhẹ.
- Mấy anh tự tìm lấy. Tôi cũng như mấy anh biết gì đâu mà hỏi!
- Anh là B Trưởng mà!
Nghe câu đó, anh Bẩy không giữ được bình tĩnh:
- B cái con mẹ gì? Tôi yêu cầu 3 anh Tổ Trưởng phân công cho anh em làm vệ sinh. Nếu không, tôi sẽ...
Anh chưa nói hết câu nhưng mọi người đều nhận biết đó là lời đe dọa! Một tiếng nói vọng ra từ góc nhà.
-Đù mẹ, chưa chi đã phách lối!
Tất cả đồ hành trang được xếp vào một góc. Mọi người túa đi tìm chổi. Tôi đi lang thang nhìn ngó khắp mọị chỗ xung quanh nhà, nhưng không tìm đâu ra cây chổi hoặc một vật dụng nào có thể thay thế. Nhiếu nguời đi mãi xa. Tìm chổi không được, tôi đến bên cây chuối mọc sát bờ rào, bứt lá chuối khô buộc lại, bên ngoài bọc lớp bẹ tươi cho cứng. Từ xa, nhiều người trở về, mỗi người cầm trong tay một cành lá.
Chúng tôi quét loạn xạ, bùn đất văng tứ tung. Những bãi rác được bốc bằng tay quăng sát bờ rào kẽm gai. Các vũng nước được lùa qua kẽ hở, đùn ra ngoài.
Sau chừng một tiếng đồng hồ làm vệ sinh, căn nhà tương đối sạch sẽ, nhưng nền nhà ngâm nước mưa lâu ngày không cách nào khô mau được!
- Vấn đề giường chiếu sao, anh Bẩy?
- Có chi nằm nấy. Ai có nylon trải ra. Tổ 1, Tổ 2 nằm phía tay mặt, Tổ 3 phía trái.
Căn nhà bỗng nhiên nhộn nhịp vì tranh giành chỗ nằm tốt. Một vài tấm nylon được trải ngay trên nền đất ướt. Tôi không mang theo gì, vì nghĩ 1 tháng chẳng bao lâu, bây giờ đối diện trước thực tế, chẳng biết xử trí ra sao? Sau cùng, tôi lại ra cây chuối, dùng con dao nhỏ, cắt mấy tàu lá mang về trải chỗ nằm.
Có lẽ, sau cuộc hành trình vất vả, vài người đã ngủ vùi. Trên mặt tấm nylon rộng vừa đủ 2 chỗ nằm, mấy người chụm đầu nói chuyện thì thầm. Tôi đoán, họ nói không ngoài vấn đề thực tế đã mặc khải cho họ những gì sai với ước tính, trước khi ra đi.
- Anh B Trưởng đâu? - Tên bộ đội đứng ở cửa, hỏi vọng vào...
- Dạ, tôi đây, cán bộ!
- Trong các anh, có ai biết nấu cơm không?
Anh Bẩy quay mặt hỏi anh em.
- Có tôi! - Một cánh tay giơ lên cao.
- Một mình anh đâu được, nấu cho cả C [C= Đại Đội] chứ đâu cho riêng B. Phải 1 Tổ. - Tên bộ đội nhìn chúng tôi như tìm hiểu.
- Tổ nào xung phong? - Anh Bẩy nhìn các Tổ Trưởng. - Tổ 1 được không?
- Dạ, chưa quen.
- Tổ 2 được không?
- Được! - Tiếng nói thật dứt khoát, làm mọi người tin tưởng.
- Đi theo tôi! - Tên bộ đội quay ra cùng với 10 người thuộc Tổ 2.
Anh Bẩy nói khẽ với những người còn lại:
- Cán bộ quản giáo đó. Chúng mình sẽ thuộc quyền anh ta trong suốt thời gian học tập tại đây!
Cứ vô tư nhận xét, tên bộ đội tuy quê mùa, nói ngọng, nhưng trông bề ngoài không đến nổi ác độc. Tôi nằm dài trên những tàu lá chuối, hơi nước chuyền lên làm sống lưng lạnh giá như nằm trên vũng nước. Bụng đói meo vì thức suốt sáng, tới giờ này chưa được miếng nào vô bụng!
Tôi nhắm mắt, hồi tưởng những gì đã xẩy ra trong 2 ngày qua, khi vừa đặt chân đến Trường Trung Học Kỹ Thuật Don Bosco, để đăng ký học tập cải tạo theo Thông Cáo của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh. Sau khi làm thủ tục xong, biết mình thuộc B-30, tôi được hướng dẫn lên lầu cùng vài người khác. Đây là căn buồng nội trú cửa học sinh, những dẫy giường ngang dọc kê san sát, chỉ chừa lối đi nhỏ. Một tên bộ đội đeo quân hàm Thiếu úy, cho lệnh chúng tôi làm tờ khai lý lịch và thu tiền ăn một tháng 12,600$. Theo Thông Cáo đăng tải trên tờ Nhân Dân, và tờ Sàigòn Giải Phóng, vần đề ăn uống do nhà hàng Đồng Khánh phụ trách. Anh em ai cũng yên tâm và tin tưởng về cách đối xử “mã thượng” của Cách Mạng, không đánh người ngã ngựa! Đi học tập cải tạo, được như vậy, nhất rồi! Sau khi thâu tiền và lý lịch, tên Thiếu úy cho tay chỉ vào mặt chúng tôi dõng dạc nói:
- Mấy anh đáng tội chết! Các anh đã tiếp tay với Mỹ-Ngụy để phản “nại” Cách Mạng, nhưng Đảng và Nhà Nước khoan hồng, tha tội chết cho mấy anh đó, biết không?
Hắn quắc mắt nhìn như muốn ăn tươi, nuốt sống. Chúng tôi cứ đứng im, không có thái độ. Tôi nghĩ, còn thái độ nào tốt hơn là giả câm, giả điếc trong trường hợp này! Từ giờ phút đó, tôi đã nhận thức được cương vị của mình trong hoàn cảnh mới. Có tiếng nạng gỗ đập cành cạch xuống sàn gạch. Tôi quay nhìn. A, một chiến hữu cụt chân, vai đeo túi vải, đang chống nạng tiến về phía chiếc giường ngủ ở cuối buồng. Tôi sững sờ, vì anh cùng đến với tôi một lượt. Tên Việt Cộng ghi danh đã từ chối nhận anh, hắn nói:
- Thôi cho anh về, chờ khóa sau. Anh tàn tật như vậy, chúng tôi sẽ cấp giấy chứng nhận được hoãn.
- Dạ, xin cho tôi được đăng ký học khóa này. Trước sau cũng phải học. Một Iần cho xong, để yên tâm làm ăn!
Anh cố nài nỉ, trong khi tôi lên lầu nên không hiểu sự việc được diễn tiến ra sao? Nay nhìn thấy anh, như nhìn thấy một quyết tâm, thiện chí trong vấn đề học tập cải tạo!
Bữa cơm chiều, quả thực chúng tôi có được ăn những món do nhà hàng Đồng Khánh nấu. Tên đầu bếp nói tiếng Tàu, các cô chiêu đãi cũng mặc áo trắng có thêu chữ Đồng Khánh Tửu Lầu trên ngực. Nhưng đó chỉ là bữa ăn rất tầm thuởng, rất bình dân, số lượng lại ít, ăn chẳng đủ no, không tương xứng với số tiền chúng tôi bỏ ra. Hơn nữa, có người đến muộn chỉ ăn một bữa, vẫn phải đóng đủ số tiền ấn định! Ai nấy nhìn nhau thất vọng! Một vài tiếng chửi vọng từ xó kín nào đó. Tôi cố tìm nhưng không ra!
Buổi tối qua, sau bữa cơm chiều còn đói, chúng tôi được lệnh chuẩn bị di chuyển. Chiếc sân trường Don Bosco rộng thế, chật cứng người, toàn Trung Tá! Tất cả hàng đèn phía trước ngôi trường được bật sáng, những chiếc Molotova cao lênh khênh phủ bạt kín mít đậu nối đuôi nhau. Những tên bộ đội vai đeo AK, đi lại tấp nập. Không khí ngôi trường như có sự gì quan trọng sắp xảy ra. Chiếc loa phóng thanh kêu những số xe theo thứ tự và nhắc những người đi học tập cải tạo chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh.
Vấn đề chuyển vận trên 1,500 con người không phải chuyện dễ dàng, do đó không thể tránh được lộn xộn, khi sắp xếp. Những chiếc đèn pin, đèn bão được xử dụng tối đa vì chiếc sân quá rộng lại thiếu ánh sáng. Từng B một, lần lượt lên xe theo tiếng loa gọi. Mỗi xe 30 người gồm cả hành trang, nên lòng xe chật cứng, dù Molotova là loại vận tải của Nga khá lớn, lại thêm 2 tên bộ đội áp tải nên càng chật. Chúng tôi lần lượt leo lên, chiếc bạt phủ kín làm nghẹt thở. Mọi người đều cố tìm cách thò đầu ra một kẽ hở nào đó để tìm chút không khí. Chúng tôi mong xe chạy càng sớm càng tốt để có gió lùa vào. Nhưng nó cứ đứng ì một chỗ, thỉnh thoảng có chuyển bánh nhưng chỉ xích qua, xích lại để dồn xe. Mồ hôi vã ra như tắm. Tôi không dám hút thuốc dù cơn thèm đã lên đến cao độ.
Bỗng có nhiều tiếng máy nổ cùng một lượt. Tôi đoán, sắp đến giờ khởi hành. Khi chiếc xe chở chúng tôi vừa lăn bánh, một tên bộ đội lách mình ở phía trước nơi gần ca-bin, trèo vô, nòng súng chạm vào thành xe nghe sắc lạnh. Vì vội vàng và trong tối, hắn đạp cả dép lên đầu, lên cổ những người ngồi phía đó. Tiếng la oai oái chìm lấp vào tiếng máy. Từ phía sau, tên bộ đội khác cũng trèo lên, tương đối không làm phiền ai. Hắn thò đầu ra khe bạt, tay ôm chặt khẩu A.K. Tôi ghé mắt nhòm qua kẽ hở. Đoàn xe nối đuôi nhau ra khỏi cổng. Giờ này chắc đã khuya. Tôi nhìn đồng hồ tay, nhưng chẳng thấy gì vì kim không có dạ quang. Các cửa nhà đều đóng kín. Từ trên chiếc ban-công, 2 cô gái xoả tóc nhìn xuống. Hình như các cô vừa qua giấc ngủ ngắn. Đoàn xe dừng lại ở ven phố. Mấy tên bộ đội chiếu đèn pin kiểm soát. Chiếc bạt được vén lên, ánh đèn rọi vào lòng xe quét một vòng, rồi cánh bạt lại hạ nhanh xuống. Có tiếng hỏi vọng lên:
- Các đồng chí hiểu rõ tiêu lệnh rồi chứ?
- Hiểu! - Tên bộ đội áp tải ngồi phía sau, trả lời ráo hoảnh.
Hơi nóng từ đầu xe hắt lại càng làm cho nóng nực, khó thở. Có tiếng ho sặc sụa nổi lên. Vì nhờ ngồi sát tấm bạt, nên tôi có thể dí sát mũi vào kẽ hở để thở, nhưng đôi chân tê bại vì không có chỗ nhúc nhích. Nếu tình trạng này kéo dài, thế nào cũng có người xỉu. Một hồi còi rúc vang. Đoàn xe rồ máy, lăn bánh. Hơi gió lùa qua các khe hở xua bớt không khí ngột ngạt ra ngoài. Tôi nhìn lên chiếc ban công lần cuối. Hai cô gái vẫn đứng đó. Dòng tóc lẫn vào bóng đêm dầy đặc. Xe đến ngã tư, tôi nhìn thấp thoáng ánh đèn của tiệm hủ tiú và quán cà-phê cùng mấy người đang ăn uống. Tất cả đều thuộc giới lao động. Đó, những hình ảnh cuối cùng, tôi ghi nhận được trước khi đi vào cánh cửa thứ nhất của Địa Ngục.
Xe chạy bon bon trên con đường êm và rộng thênh thang. Mọi người đều biết đó là xa lộ. Một tiếng nói nhỏ trôi vào tai tôi.
- Căn cứ Long Bình. Tụi mình sẽ học tập ở đây!
Tiếng nói có vẻ khẳng định. Đoàn xe chạy chừng 2 tiếng rồi quẹo vô căn cứ Long Bình thật. Tôi thán phục anh bạn nào vừa xác định địa điểm học tập một cách chính xác như vậy! Căn cứ Long Bình, tôi biết, nó là một trong những căn cứ lớn của Quân đội Mỹ tại miền Nam. Tất cả phòng ốc đều có hệ thống điều hòa không khí. Biết bao nhiêu thiết bị quan trọng cung cấp cho nhu cầu chiến tranh đều xuất xứ tại đây. Người ta không thể đi bộ trong căn cứ, mà phải dùng xe gắn máy hoặc xe hơi. Chỉ có địa điểm này, may ra mới đủ chỗ chứa nổi một số lượng lớn lao các sĩ quan Quân Lực V.N.C.H đi học tập cải tạo. Tôi thầm khen những người lãnh đạo Cách Mạng đã sáng suốt khi quyết định chọn lựa địa điểm này.
Nhưng không, đoàn xe chỉ dừng lại chừng nửa tiếng, lại rồ máy vòng qua ngả khác và cứ thế, tiếng máy đều đều chạy tới mờ sáng mới dừng lại.
Một người nói:
- Căn cứ này của Trung đoàn Thiết kỵ Hoa Kỳ.
- Không phải, đây doanh trại của Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn D, không có thiết kỵ nào ráo trọi, chỉ có tụi cố vấn Mỹ ở căn nhà đằng xa kia kìa. Có một thời gian tôi giữ chức vụ Tiểu đoàn Trưởng ở đây mà! Đây, thuốc vùng Long Giao. Buồn bỏ cha, toàn đồi cao su! Tôi hành quân, mòn cả ”bốt- đờ-sô”, không biết sao?
Tiếng nói qua lại, tranh đua về sự hiểu biết vùng đất, vẫn chưa ngã ngũ, bỗng có tiếng gọi:
- B-30 lãnh cơm. Yêu cầu mỗi Tổ cử người đi lãnh.
Mọi người nhổm dậy như có chiếc đũa thần gõ vào sợi dây thần kinh nhạy bén nhất. Các loại ca, lon, muỗng được cầm sẵn trong tay. Những người có nhiệm vụ trực cơm, nhốn nháo tìm vật dụng đựng cơm, canh.
- Tại sao không xuống hầm đạn lấy vài thùng T5 mà dùng.
- Ý kiến hay!
Hai, ba bóng người lao nhanh về phía sát bờ rào, nơi có gò đất cao, cỏ phủ dầy.
Một lát sau, những chiếc thùng gỗ mới toanh, đựng đạn đại bác 75 ly không giật, được mang lên khỏi hầm cùng những thùng sắt đựng đạn đại liên 30.
Bữa cơm thứ nhất trong đời sống cải tạo không ngon lành gì. Cơm vừa khê, vừa nát lại sống! Canh thì lỏng bỏng toàn nước, váng mỡ, vài sợi mì ăn liền chìm tuốt dưới đáy, hôi mùi dầu mỡ thùng đạn. Tuy đói, mọi người không ai nuốt nổi, qua 2 lần bới. Tiếng chê trách ồn ào. Tổ Trưởng Tổ 2 phân trần:
- Anh em tính coi, có bao giờ mình nấu cơm bằng chảo đâu, chiếc chảo to bằng nửa chiếc chiếu, cho 180 người ăn. Củi lại ướt, khói mù mịt, mắt ai cũng đỏ ngầu như vừa khóc xong, lấy đâu mà ngon! Chiều nay, rút kinh nghiệm, may ra khá hơn! Củi đang phơi kia kìa!
Vừa nói, anh vừa cho tay chỉ về phía trước. Những khúc cây to bằng bắp chân, bắp tay nằm ngổn ngang, màu thâm xịt vì ngâm nước lâu ngày. Sau khi ăn xong, anh em mới chợt nghĩ đến vấn đề nuớc. Nhiều tiếng hỏi nhao nhao:
- Nước lấy ở đâu? Đựng bằng cái gì?
- Đù mẹ, giếng xa và sâu quá. Cả khu, mấy ngàn con người, chỉ có một cái giếng cạn, tuy lúc này đang mùa mưa! Muốn lấy nước phải đi 2 người. Một đeo dây vào vai, chạy thật nhanh để kéo thùng nước từ dưới sâu hơn 10 thước lên, nơi miệng giếng có giắt một chiếc “pu-li” lớn, còn người kia đón bắt thùng, đổ vào đồ chứa. Cực ghê vậy đó! Người chờ đông như kiến, biết bao giờ tới lượt mình?
Tôi nghe phát nóng lạnh. Vì ngại đi lấy nước, tôi đến bên một vũng nước mưa, vừa rửa gà-mèn, muỗng, vừa rửa mặt luôn. Tôi bắt đầu làm quen với sự mất vệ sinh!
Tôi vào nhà, ngồi trên những tàu lá chuối, lúc này đã héo, quăn lại, để hở những mảng nền còn ướt bùn. Cầm điếu, nhồi thuốc, tôi kéo một hơi thuốc lào. Khói thuốc sau bữa cơm thật khoái cảm. Nó làm tan đi những dư vị của thức ăn không mấy ngon lành.
Buổi trưa trời nắng gắt. Từ trong nhìn ra, ánh nắng như một khối lụa khổng lồ táp xuống cảnh vật. Căn nhà tôi ở, tuy bốn bề là lưới, nhưng vẫn nóng vì hơi từ mái tôn phả xuống hừng hực. Cây cối im phăng phắc. Trời cao và xanh, nhưng phía chân trời có nhiều cụm mây xám đùn lên. Có thể, chiều nay sẽ mưa. Chưa bao giờ tôi mong mưa như buổi nay. Nếu có mưa, tôi sẽ không phải đi guồng nước, lại có nước tắm giặt thoải mái. Bộ quần áo mặc mấy bữa nay đã dơ dáy. Mùi mồ hôi xông lên khó chịu. Nhưng lúc nay trời đang nắng, nên hy vọng của tôi, có thể trở thành ảo vọng!
Tôi đi ra phía ngoài cho thoáng. Vài người dễ ngủ đã ngáy ngon lành, như giấc ngủ bình yên dưới mái gia đình. Họ thực sung sướng. Tôi cởi áo, phanh ngực cho mát, đảo mắt nhìn một vòng. Doanh trại khá lớn, nhưng có vẻ hoang tàn. Căn cứ này có lẽ, từ lâu không được xử dụng, nếu có, cũng chỉ được xử dụng một phần nào đó. Những đám cỏ gianh cao gần bằng đầu người mọc tràn lan, chỗ nào cũng có. Đó đây, vài căn nhà đổ nát, tiêu điều. Ngay trước mặt, trên bờ rào kẽm gai, dây leo mọc chằng chịt. Sau hàng rào, có con đường trải đá khá bằng phẳng. Một căn nhà ngói nằm phía bên kia đường, thấp thoáng bóng những chiếc áo xanh. Tôi đoán đó là nơi của tụi quản giáo. Thỉnh thoảng, tên lính liên lạc cưỡi xe đạp tay cầm ghi-đông, tay cầm xấp giấy ra vào.
Từ chỗ chúng tôi ở, muốn sang đó, phải đi ngược lên mấy chục thước, qua vọng gác có lính canh. Xung quanh khu vực, toàn kẽm gai, không phải do Việt Cộng mới làm để nhốt những người học tập cải tạo, mà đã có từ trước, đề phòng sự tấn công của quân Cộng Sản khi chiến tranh còn tiếp diễn.
Đang suy nghĩ viễn vông, bỗng có bàn tay đặt nhẹ lên vai, tôi quay lại. Lâm cười bải lải:
-Ông mơ mộng gì đấy!
- Nóng quá, ở trong nhà chịu không nổi, ra đây hóng gió, chứ mơ mộng mẹ gì!
Lâm nói giọng buồn:
- Rồi mai đây, chả biết số phận tụi mình ra sao nhỉ?
Lâm, người bạn mới quen ở Don Bosco, cũng như Huy, như Mậu, như Phát, như Định và những người khác cùng B. Hắn là Bác sĩ Quân Y, một trí thức. B-30 gồm nhiều thành phần, ở nhiều đơn vị khác biệt, chỉ mới biết nhau một, hai bữa nay. Nhưng vì cùng chung cảnh ngộ, nên dễ thân. Lâm còn trẻ, mới trên dưói 40, đã mang cấp Trung Tá, vì có một thời gian dài, phục vụ ở đơn vị tác chiến, luôn luôn hiện diện sát mặt trận.
- Sáng nay, ông suýt ăn đạn A.K nhé!
- Nó dọa vậy thôi, chứ dám bắn!
- Ai nói với ông như vậy? Ông thử chạy vài bước xem!.
Lâm cười, đầu gục gặc:
- Này ông, đứng đây cũng vậy, mình đi một vòng xem sao!
Tôi đồng ý. Lâm vào nhà lấy 2 chiếc mũ vải, chụp lên đầu tôi một chiếc.
Chúng tôi đi dưới ánh nắng gay gắt. Tôi nhìn từ xa thấp thoáng có những chiếc áo mầu. Ngạc nhiên, tôi hỏi Lâm, sao có sự tình như vậy? Lâm nhìn, có vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi.
- Thế ông không biết tí gì à? Đó, các vị sĩ quan cao cấp Nữ Quân Nhân đấy!
- A, nhi nữ cũng phong trần, lại coi chút!
Tôi kéo tay Lâm đi nhanh về phía những chiếc áo mầu. Trong căn nhà, tương đối kín đáo sạch sẽ, chừng mấy chục đàn bà, kẻ đứng, kẻ nằm, kẻ ngồi trên những tấm nylon mầu, mặt mày buồn xo. Vài người, không chịu nổi sự nóng bức, nên đứng mé ngoài hóng gió. Tôi chợt nghĩ đến những gì, họ sẽ phải gánh chịu, nếu cuộc sông này kéo dài. Một cô gật đầu chào tôi với nụ cười buồn vì trước có quen biết. Các khuôn mặt hiện diện giữa không gian này, không trang điểm phấn son, nên sắc đẹp phần nào giảm sút. Ai cũng có vẻ gầy đi, chắc lo âu làm hao mòn thể xác! Lâm huých nhẹ khuỷu tay vào sườn tôi, khẽ hỏi:
- Ai đấy?
- Cô Thúy, Trung Tá chức sắc của ngành Nữ Quân Nhân đấy, đàn em bà Đại Tá Hương. Cô có mặt trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày đầu, trong ngành Nữ Trợ Tá (PAF).
Vừa đi, tôi vừa suy nghĩ vơ vẩn, không hiểu bằng cách nào, họ kéo nước, nơi nào họ làm công việc vệ sinh thường nhật? Đàn ông dễ rồi, chỗ nào cũng được, còn họ, quả thực, một vấn đề khó khăn! Bỗng tôi nghe có tiếng gọi:
- Ê, bồ vô chơi!
Tôi ngoảnh nhìn. Một người cởi trần, khăn tắm vắt vai, chiếc quần xà-lỏn bó sát hông! A, Nghiêm. Tôi rẽ ngang, giơ tay nắm chặt tay Nghiêm - Đại tá Dù, khi Việt Cộng đánh vào Saigon Tết Mậu Thần (1968) đã cho tôi chiếc áo giáp, mà dạo ấy, chỉ riêng binh chủng Dù mới có.
- Nóng bỏ cha, muốn đi tắm, ra đến nơi, đông quá, đành quay về chờ vậy!
Nghiêm định kéo vô nhà, nhưng tôi từ chối với lý do đang đi với Lâm. Tôi liếc nhìn vô trong. Những thân xác nằm ngổn ngang trên nền đất, ai cũng mặc quần xà-lỏn hoặc xì-líp, trông như đàn heo mới cạo lông!
Chúng tôi đi loanh quanh. Mấy trăm Đại tá, chia nhau vài căn nhà, ngay phía trên căn nhà của nữ quân nhân. Các vị nữ quân nhân, chẳng biết làm cách nào, có thể chịu nổi cái cảnh mấy trăm người đàn ông suốt ngày mặc xì-líp, xà-lỏn đứng nhởn nhơ trước cửa:
- Ông đã biết giếng nước ở đâu chưa?
- Chưa!
- Vậy nên coi cho biết!
Chúng tôi đi vòng qua khu đất trống, rồi băng qua dẫy nhà thấp như nhà kho. Mắt tôi bỗng bắt gặp một cảnh tượng vô cùng huyên náo. Hàng trăm người mặc quần cụt, đầu đội khăn lông, đứng phơi mình dưới nắng. Một người đang gò lưng kéo sợi giây dài, trông có vẻ vất vả.
- Thôi, thôi!
Người kéo giây đứng lại, nhưng vẫn ở cái thế kéo, cho tới lực sợi giây chùng xuống, hắn mới đứng thẳng người, thả sợi giây xuống đất. Hắn quay lại chỗ giếng nước, vừa đi vừa cho tay vuốt mồ hôi mặt.
-Lẹ lẹ mày, còn tắm chứ!
- Mệt bỏ cha, cho thở chút chứ!
Tuy nói vậy, nhưng hắn cũng rảo bước đến nơi có tiếng gọi. Hắn cúi xuống cùng khênh với người bạn một thùng đạn 12.7 đầy nước!
Họ khiêng ra, không xa giếng bao nhiêu, rồi thản nhiên cởi quần ra tắm. Từng lon nước tưới lên thân xác họ, những thân xác xù xì lông lá, như muốn rửa sạch hết bụi bậm đường dài và bực bội!
Vì tò mò, tôi đến bên giếng dòm xuống. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài chiếc miệng giếng lở lói, sâu hoắm, đen ngòm như vực thẳm!...
- Xô gì dữ vậy Bố? Té xuống là chết đấy!
Ai nói gì cứ nói, tôi cứ đứng trơ trơ như pho tượng!
Bữa cơm chiều cũng chẳng ra gì. Tuy không khê, không sống nhưng nhảo nhoẹt như cháo đặc. Vẫn món canh mì y hệt buổi sáng. Tôi nuốt từng miếng uể oải cho xong bữa. Gió thổi ào ạt, hàng cây phía xa vật vả. Tôi nhìn lên vòm cao. Mặt trời đã khuất sau đám mây đen kịt. Mầu đen cứ tan dần, loang thành một vùng rộng. Tôi chờ đón cơn mưa. Màn nước trải rộng ngang tầm nhìn, những lằn chớp chạy loằng ngoằng theo sau. Tiếng sấm nổ ầm ĩ. Tôi rủ Lâm sẵn sàng tắm rửa và giặt giũ. Huy có mặt gần đấy, ngước nhìn vòm trời:
- Hỏng rồi, các ông ơi! Tôi đoan chắc không mưa tới đây, vì mây mỏng lắm! Mình ở cuối cơn, mưa sao nổi?
Huy đã nói đúng. Mây đen tan dần. Trời sáng lại. Nơi chúng tôi đang ở chỉ lắc rắc vài hột mong manh.
- Thôi, ở bẩn sống lâu! - Lâm vừa nói vừa cười.
- Bác sĩ, ăn nói như vậy đó! - Tôi nhìn Lâm với con mắt diễu cợt.
Ngay dưới mái hiên, có sẵn chiếc ghế gỗ dài, tôi đề nghị nên mang ra ngoài ngồi cho mát, có thể nhìn thấy cảnh vật xung quanh. Huy và Lâm khiêng ghế đặt ngay giữa sân. Chúng tôi ngồi nói chuyện và ước đoán cái gì sẽ xẩy đến trong những ngày sắp tới.
- Sao? Sau nhiều sự kiện vừa xẩy ra, trong mấy chục tiếng đồng hồ, các bạn nghĩ gì? có hy vọng một tháng sẽ về không? - Tôi hỏi ngu ngơ!
Huy, con người đã làm ông Quận, dưới trào Đệ Nhất Cộng Hoà, trầm ngâm.
- Tôi thấy ngài ngại làm sao ấy. Nếu họ giữ đúng lời hứa theo Thông Cáo, thì cách đối xử của họ đối với bọn mình phải khác, chứ đâu đến nổi, họ canh giữ gắt gao như vầy? Ông Lâm vừa nhẩy xuống xe đi đái, nó đã định bóp cò! Tên Thiếu úy Việt Cộng ở Don Bosco sỉ nhục tụi mình thẳng thừng. Còn những tên khác, nhìn mình với con mắt đầy thù hận! Như vậy, tôi cảm thấy khó tin quá!
Lâm nhổm cao đầu:
- Riêng tôi, tin chính sách của Cách Mạng là đứng đắn. Còn vấn đề thi hành có sai lệch, do cấp dưới. Chúng ta đã buông súng, đầu hàng vì không muốn cảnh huynh đệ tương tàn tiếp diễn quá lâu. Cách Mạng cũng chủ trương như vậy. Các ông đã đọc Thông Cáo 10 điểm chưa?
Tôi nhìn Lâm rồi nhìn Huy như dò xét. Luôn luôn tôi nghĩ Cộng Sản là bọn chuyên dùng mưu lược và coi sự dối trá như một thứ vũ khí nhiệm mầu để thắng địch, nên trả lời:
- Tôi không đọc, vì nghĩ rằng, tất cả đều thuộc về tuyên truyền. Thực chất của vấn đề không nằm trong những dòng chữ. Sự ra về, chắc không dễ đâu, nhưng sự tình ra sao một phần cũng tùy thuộc vào thái độ của chúng ta trong những ngày săp tới!
Ba chúng tôi thì thào trao đổi, mổ xẻ ý kiến của nhau, nhưng không ai đưa ra được kết luận nào hợp lý, có thể tạo được niềm tin để yên lòng, dù tốt dù xấu!
Trời đã tối. Chúng tôi không còn nhìn rõ mặt, chỉ nghe tiếng nói. Toàn thể khu vục tối om. Không căn nhà nào có ánh đèn, trừ căn nhà của tụi quản giáo, bên kia con đường, le lói ánh đèn dầu. Không khí trở nên hoang vu lạ thường. Do sương đêm và gió, tôi cảm thấy dễ chịu, dù đã 2 ngày chưa tắm giặt.
Từ trong nhà, có bóng người bước ra, đi thẳng đến chỗ chúng tôi ngồi. Tiếng cười hì hì:
- Ủa, mấy cha ngồi chi lâu dữ vậy? Nói chuyện gì thế, cho góp được không?
- Mậu hé!
- Còn ai nữa? Nằm trong nhà hôi mùi đất quá, chịu không nổi. Muốn ngủ cũng không được, nên ra đây góp chuyện cho vui.
Mậu (Thiết đoàn Trưởng) người nằm kế tôi. Hắn cũng không mang theo gì cả, dùng lá chuối thay chiếu.
- Ngồi xuống cha, chờ gì nữa!
Ba đứa tôi, mỗi người xích một chút lấy chỗ cho Mậu ngồi. Vừa đặt người xuống ghế, Mậu nói:
- Chán ghê, chán ghê, biết thế này đếch bỏ súng. Uýnh đến chết còn sướng hơn. Chỉ tại tụi Mỹ hết!
- Nè, khe khẽ cái miệng chứ, chết oan bây giờ!
- Các ông nghĩ coi, mấy chục chiếc tăng chưa hết xăng, hết đạn mà đành bỏ chạy, thế có tức không? Những giờ phút cuối, chúng tôi đang yểm trợ cho Dù ở Xuân Lộc, nghe Dương văn Minh cho lệnh đầu hàng qua radio. Chán ghê, chán ghê!
Mậu cũng thuộc loại sĩ quan tuổi trẻ, cấp cao! Với bản tính nóng nẩy, thẳng thắn của người miền Nam, khi hứng lên, nói bất cần đời.
- Sau khi đầu hàng, ông dùng phương tiện nào để trốn thoát về Saigon mà không bị Việt Cộng tóm?
- Thay đồ ”si-din” chạy trối chết, sau cùng đi Molotova về Saigon.
- Bằng cách nào, ông lên Molotova được? - Lâm hỏi.
- Mình cứ đứng ngơ ngơ ở xa lộ, thấy xe tụi nó, giơ tay ngoắc, tụi nó tưởng mình là dân, cho đi nhờ, dễ ẹc! - Nói xong, Mậu cười hí hí!
Tôi nhìn ra xa, thật xa, qua vùng tối tăm, thấy một khoảng ánh sáng thật rộng tỏa lên nền trời. Tôi đoán, đó là thành phố Biên Hòa. Trong lòng tôi chợt quặn đau, nghĩ đến gia đình. Giờ này dưới vòm trời Saigon chan hòa ánh sáng, vợ con tôi đang làm gì và có ngờ rằng tôi phải ngồi đây, giữa bóng tối, trong một khung cảnh không mấy khích lệ, và thời gian 1 tháng, có phải là thời gian quá lâu, đối với đợi chờ?
Chúng tôi đi vô nhà vì đã thấm mệt. Giữa bóng tối, tôi lần mò trong túi vải, lôi chiếc áo mưa trải lên những tàu chuối, và tấm vải mỏng làm mền đắp.
Tuy mệt, vẫn không ngủ đựợc. Hơi lạnh thấm qua áo mưa, chiếc áo đã cũ, đôi chỗ mất lớp cao su, không còn đủ khả năng ngăn hơi ẩm. Đàn muỗi vo ve bên tai như thổi sáo. Mùi đất xông lên hôi hám làm khó thở! Biết không thế nào lười được, tôi ngồi dậy mở túi, lôi chiếc mùng nhà binh ra. Tôi mò mò buộc đại vô giây mùng của Mậu và Phát (Trung tá Hải Quân), nằm kế 2 bên. Tôi vùi đầu vào tấm vải, xoay qua trở lại một lúc, thiếp đi lúc nào không hay.
Một hồi kẻng khua vang. Tôi bừng mắt, toàn thân đau nhừ, mệt mỏi. Chẳng biết giấc mộng nào đến với tôi đêm qua, đêm thứ nhất trong đời một người sống ở Trại Cải Tạo. Tôi không nhớ gì hết. Tôi cuốn mùng, xếp đồ vào túi vải. Đó đây, có tiếng rít thuốc lào. Quơ tay cầm chiếc điếu, tôi vê vê thuốc nhồi vào nõ. Tôi biết, khói thuốc đầu tiên buổi sớm, sẽ làm ngây ngất, phải nằm xuống ngay sau khi hút. Chuẩn bị chỗ nằm xong, tôi đánh lửa. Tiếng nước rít trong lòng ống tre nghe ròn rã. Khói thuốc ùa vào lồng ngục. Tôi giữ không cho khói thuốc tuôn ra quá mau. Tự nhiên đầu tôi choáng váng, tim đập mạnh, dồn dập. Tôi nằm vật xuống thở dốc, tay chân bủn rủn. Tôi đang đi vào cơn mê cảm của ảo giác, tuy ngắn ngủi, nhưng vô cùng thú vị! Con say đã tan, nhìn sang hai bên, Phát và Mậu còn ngủ vùi. Tôi đi ra ngoài. Mặt trời chưa lên. Sương mù buổi sáng giăng ngang lưng chừng đồi cao su trước mắt. Từ căn nhà, phía bên kia đường, một tên bộ đội mang súng đi ra..
- Dậy, anh em, kẽng rồi! - Tiếng B Trưởng.
Một giọng ngái ngủ:
- Còn sớm mà, mệt bỏ cha! Có làm gì đâu mà dậy?
Tuy vậy, nhưng mọi người cũng cuốn mùng, gấp mền cho vào túi hành trang. Mậu vươn vai đi lại phía tôi, nói:
- Đêm qua, sao ông mớ dữ vây?
- Mớ gì đâu? - Tôi sững mắt ngó Mậu.
- Ông nói lung tung, chả đâu vào đâu. Mấy tên bộ đội đi tuần nhòm vào, chúng biết ông nói mớ, tụi nó bỏ đi!
Sự thực, tôi không biết mình mớ. Có lẽ mất ngủ liền mấy đêm, mệt quá, nên thần kinh rối loạn.
- Ông có gì ăn sáng chưa?
Mậu hỏi. Tôi trả lời, có mấy gói mì ăn liền.
- Làm gì có nước sôi để ông ăn mì? Ông ăn khô đại đi, cho đỡ đói.
Tôi nghĩ, chẳng còn cách nào hơn là làm theo ý Mậu.
Tôi chỉ ăn nửa gói, vì nghĩ còn nhiều buổi sáng kế tiếp, mà vợ tôi chỉ xếp có 10 gói mì phòng đói bất tử và 1kí ruốc thịt cùng mấy trăm đồng dằn túi. Đó, tất cả vốn liếng của tôi chuẩn bị cho một tháng học tập cải tạo!
Lát sau, Mậu ngồi bên tôi thủ thỉ:
- Nè ông, sáng nay, tôi với ông phải đi kiếm mấy miếng ván kê làm chỗ ngủ, chứ nằm lá không được đâu. Ông ngó mà xem, lá của ông rách nát, cong queo hết rồi, của tôi cũng vậy, nằm thế chó nào được? Cả đêm xương sống lạnh buốt như ướp nước đá. Nếu kéo dài, sớm muộn gì cũng vô bệnh viện.
Trời vừa hừng sáng, hai đứa tôi đi ngược lên chỗ khu Đại Tá, rồi quẹo qua phía dẫy nhà thấp. Bữa qua, tôi để ý thấy có một căn không khóa cửa. Chúng tôi bước nhanh vô. Bên trong có kê chiếc giường đã gẫy một chân, nghiêng sát mặt đất. Mấy chiếc nồi nhôm bẹp rúm, vài chiếc quần áo cũ quăng rải rác trên mặt đất. Duới gầm giường có đôi guốc đứt quai. Chắc đây là căn nhà của một Hạ sĩ quan coi kho, đã bỏ đi sau ngày 30-4. Căn nhà vách ván, đôi chỗ gỗ đã mục, long đinh. Tôi cho tay giựt mạnh. Thanh gỗ bung ra, nhưng chưa rời khỏi khung cột. Mậu giúp tôi lay mạnh. Chỉ trong chốc lát, mỗi đứa đã có 3 tấm ván rộng chừng 0m25, dài chừng 2 thước. Mừng quá, chúng tôi vội vả vác lên vai toan chạy về. Bỗng có tiếng nói:,
- Ê, mấy anh kia, ai cho phép phá nhà vạy, muốn chết phải không?
Chúng tôi tự nhiên biến thành 2 khối đá, đứng ngay đơ.
- Bỏ xuống ngay! - Tên bộ đội cho lệnh.
Mậu bỏ trước, tôi bỏ sau, rồi lủi nhanh sang bên hông, đi ra phía giếng nước. Tên bộ đội nhìn theo một lát, rồi cũng bỏ đi. Chúng tôi đứng nấp vào bụi cây gần giếng, chờ hắn đi khuất, quay lại căn nhà. Vì có sức hơn tôi, Mậu vác cả 6 tấm ván lên vai, còn tôi nhặt vội mấy chiếc nồi nhôm bẹp, xong chạy nhanh về phía kho đạn, nơi đó tương đối vắng người. Khi tôi bắt kịp, Mậu bảo tôi quan sát xung quanh xem có tên bộ đội nào không. Nếu không, làm hiệu, để hắn vác ván chạy về. Đi một quảng, không thấy tên bộ đội nào, ngoài anh em, tôi khoa tay lên cao làm hiệu. Với 6 tấm ván trên vai, Mậu chạy vun vút, chỉ một loáng đã về đến nơi ở.
Tôi lửng thửng xách mấy chiếc nồi bẹp dí về, thấy Mậu đang ngồi thở dốc, mồ hôi ướt đẫm khuôn mặt. Chúng tôi cứ tưởng làm được như vậy là nhất B rồi, ai ngờ, lát sau, mỗi người đều mang về vài tấm ván có phần tốt hơn của chúng tôi. Hỏi ra, mới biết ở phía cuối dẫy, có căn nhà đã hư sẵn, ai muốn lấy gì tùy ý.
Chúng tôi ngồi nghỉ một lát rồi tổ chức chỗ ngủ. Các tàu lá chuối được quăng đi. 6 tấm ván được đặt ngay hàng, giữa 3 tấm, chừa một khe hở, ngăn cách. Mậu chưa hài long, hắn lại nhào đi tìm mấy cây vuông, kê phía dưới, cho ván không ép sát mặt đất. Tôi nhìn xung quanh, chỉ còn 2 khoang chưa có ván, đó là phần của B Trưởng và của Kiên, thuộc đơn vị 101.
Tên quản giáo từ ngoài xồng xộc đi vô trừng mắt nhìn. B Trưởng đến chào. Tôi đứng ngoài cửa nói chuyện với vài ba anh em. Chừng l5 phút sau, tên quản giáo đi ra.
B Trưởng mời mấy Tổ Trưởng vô họp để phổ biến lệnh của quản giáo. Sau mấy phút, tôi được biết tên quản giáo không muốn anh em phá nhà lấy ván kê chỗ ngủ. Tất cả, lấy đâu phải mang lại đấy trả. Nghe vậy, xương sống mọi người cứng đơ. Chúng tôi cùng đề nghị với B Trưởng nói lại với cán bộ quản giáo, trình bầy về hoàn cảnh của anh em, nếu nằm đất, ngã bệnh hết, làm sao học tập? B Trưởng gật gù, hứa chiều nay đi hội C sẽ trình lại, nhưng phải thi hành trước đã! Mọi người đồng tình cứ ì ra, đánh ván bài liều thứ nhất.
Những giờ phút qua đi thật nặng nề. Vấn đề cơm nước buổi nay do B khác lo, vì làm luân phiên. Bữa ăn trưa nay, khá hơn hôm qua, tuy cơm nhiều sâu mọt vì gạo giấu dưới hầm lâu ngày trong thời gian chiến tranh, nay được khai quật để nấu cho cải tạo ăn. Bữa cơm có cá ngừ và canh mì lỏng. Cơm ăn không hết, phải đào lỗ chôn. Tôi nhìn những hạt cơm trắng ngần đổ xuống hố, chợt nhớ đến lời mẹ dạy khi còn nhỏ dại quá đúng và ứng nghiệm ngay đến bản thân, trong những năm tháng dài cải tạo sau này!...
Ăn xong, Huy rủ tôi đi xuống hầm đạn lấy mấy chiếc thùng đựng nước. Nếu chậm, anh em lấy hết. Tôi nghe theo. Hầm đạn khá lớn và kiên cố. Một lớp đất cao dầy trên một thuớc, phủ trên những thanh sắt PSB, loại dùng làm sân bay dã chiến. Bên trong, xây bê tông chìm sâu. Từ trên, tôi nhìn xuống, những băng đạn vàng chóe nằm bừa bải. Những viên 57 ly cả đống, ngổn ngang. Tôi thấy ớn quá. Có mấy người coi thường nguy hiểm, đang lục lọi tìm kiếm những thứ cần dùng như vải bọc đạn, bao cát mới. Những trái mìn và lựu đạn tấn công, lăn lóc bên cạnh nhưng sợi bấc cháy chậm. Huy nhào xuống, kéo tôi theo. Chúng tôi lần đến nơi xếp những thùng đạn đại liên 30. Tôi kéo chốt, mở nắp, những viên đạn sáng ngời, trông thật đẹp. Tôi gỡ từng lớp, nhẹ nhàng để sang bên, lấy 2 chiếc, Huy lấy 4. Khi chúng tôi chuẩn bị đi lên, từ miệng hầm có người sắp đi xuống, môi ngậm thưốc lá, thở khói trắng xóa. Huy kêu to:
- Muốn chết sao? Xuống đây còn hút thuốc?
Biết mình vô ý, anh ta quay người, không trở xuống nữa.
Từ từ, tôi bước trên đống đạn sào sạo. Tôi chợt rùng mình, nếu vì sự không may nào đó, kho dạn phát nổ, chắc chắn sẽ tan thây! Hai tay xách 2 thùng đạn rỗng, tôi thấy yên tâm khi nghĩ đến vấn đề nước dùng hàng ngày. Chẳng hiểu sao, những viên đạn lại chập chờn trong đầu. Vì đâu mình thua trận, khi số vũ khí đạn dược còn đầy ăm ắp trong các kho chứa từ Quảng Trị tới Cà Mâu? Với số lượng đạn được chứa đầy ắp trong căn hầm này, ít ra cũng tiêu diệt được vô số Việt Cộng! Hơn nữa, căn cứ to lớn này, đâu phải chỉ có một hầm dạn duy nhất? Ít ra, nó cũng phải có dăm bảy hầm như vậy. Tôi cứ loay hoay với ý nghĩ vừa ngây thơ vừa chủ quan đó, bỗng câu nói cũ kỹ của Hitler chợt hiện lên trong trí nhớ: “Súng ống chỉ là vật vô tri, tinh thần quân đội mới đáng kể!” Đúng, chúng tôi thua do yếu tố tinh thần và nhiều lý do khác, làm miền Nam sụp đổ.
Trời bỗng dưng tắt nắng. Cả vùng mây đen vận chuyển rất nhanh theo tốc độ gió. Một cơn lốc xoáy bụi cát tung mũ mịt. Hàng cây nơi cuối trại vật vã, như có bàn tay khổng lồ lay manh, những bãi cỏ gianh cúi rạp dưới sức gió. Tôi đi rảo bước về nhà. Huy lúp xúp theo sau. Chúng tôi vừa về đến cửa, cơn mưa cũng vừa chụp xuống. Mưa quá mau làm tôi không kịp chuẩn bị gì hết. Tôi mở vội nắp thùng đạn, đặt dưới mái hiên, nơi có dòng nước xối mạnh, xong cứ để nguyên áo quần đứng dưới giọt gianh. Vừa tắm, vừa cởi quần áo ra giặt, không xà-bông. Từ trong nhà ào ra đống người. Tiếng nói cười có vẻ thoải mái vì được tắm giặt sau mấy ngày chịu đựng dơ dáy. Mưa mỗi lúc mỗi tăng cường độ. Từng khối nước chảy xối xả từ mái nhà đổ xuống như thác. Những lằn chớp sáng chói chạy loằng ngoằng và tiếng sấm nổ chát chúa, có lúc tưởng ngay trên đầu. Các thùng đạn chứa nước đầy ắp. Anh em tắm giặt xong, trời vẫn còn mưa. Tôi vô nhà, chỗ ngủ đã bị mưa tạt uớt sũng. Chiếc túi vải đựng áo quần, mùng mền như bị ngâm nước. Thế là không có đồ thay. Chỗ ngủ của Mậu và Phát ít ướt hơn. Mình trần như nhộng, tôi ngồi thu lu, lạnh run vì gió lùa qua ô lưới. Thấy tôi như vậy, Định mở ba lô cho mượn bộ đồ ngủ, mặc đỡ.
Bữa cơm chiều, vì trời mưa, chúng tôi được ăn trong nhà, thay vì ngoài sân như đã quy định. Trời vẫn mưa tới tối, những giọt mưa nhỏ như rây bột. Căn nhà vẫn chưa có đèn. B Trưởng đi hội C, cách xa nhà khoảng 200 thước. Tôi buông mùng sớm với chủ đích hong cho khô, cùng tấm vải đắp. Vừa nằm xuống, hình ảnh gia đình chợt hiện trong tâm trí. Mới có mấy ngày, tôi tưởng đã mấy tháng!
Sáng hôm sau, theo lệnh của B Trưởng, chúng tôi ào ra sân tập họp. Anh cho biết, theo chỉ thị của cán bộ quản giáo, B-30 có nhiệm vụ phát quang các bãi cỏ gianh xung quanh khu vực. Cuốc và xẻng do Tổ trực đi lãnh tại kho hậu cần. Đây là công tác lao động đầu tiên, nên anh em ai nấy hăng hái tham gia. Những nhát cuốc bỗ xuống chắc nịch, xẻng xúc liên hồi. Đám cỏ gianh lần lượt ngả xuống, ngả xuống, được gom lại thành đống, chờ khô, đốt làm phân bón. Sau mấy giờ hăng say lao động, bàn tay tôi đỏ au, có những mụn nước căng phồng, vài người bị lột cả da, nhìn đỏ loét. Trông như vậy, nhưng công tác cũng chưa tiến hành được bao nhiêu. Bãi cỏ vẫn mênh mông, chắc còn lâu mới hoàn tất.
Gần trưa, tên quản giáo lù lù đi đến. Hắn nhìn bãi cỏ và một mảng mới khai quang, rồi gọi B Trưởng:
- Từ sớm đến giờ, các anh mới “nàm” được chừng này sao? Các anh phải tích cực triển khai công tác “nao” động chứ, “nàm” việc “nề” mề như vậy sao được?
B Trưởng phân trần vì buổi đầu, nhưng anh em sẽ tích cực! Đứng một lúc, tên quản giáo, hai tay khoanh sau lưng, lửng thửng bỏ đi. Mầu áo xanh nhầu nát chìm dần sau bãi cỏ.
Chúng tôi rửa tay chân, vào nhà nằm soài trên ván. Tôi giơ bàn tay nhìn chòng chọc vào những mụt nước. Tôi biết, nếu làm nó vỡ ra, sẽ rát.
Sau giấc ngủ trưa, khi nghe tiếng kẻng gõ, chúng tôi lại ra làm cỏ. Dưới ánh nắng gay gắt, mọi người đều mặc may-ô hoặc cởi trần để lao động. Nhưng có lẽ, tay mỗi người ít nhiều gì cũng mang thương tích, nên dù có sự hối thúc của B Trưởng, công việc cũng chẳng tiến triển được bao nhiêu. Giờ trả dụng cụ đã đến. Ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, đi đến phía những thùng nước. Tiếng mở thùng lách cách. Những ca nước xối ào ạt lên thân hình đang ướt đẫm mồ hôi và bụi bậm. Không ai sợ bị cảm.
Một ngày lao động đã hoàn tất. Gần 30 con người, làm cả ngày, chỉ cuốc được khoảng 7, 8 thước vuông cỏ! Buổi tối nay, sau khi đi hội về, B Trưởng có cầm theo ngọn đèn dầu do Trại phát. Ánh lửa le lói không đủ soi sáng khoảng nhà, nhưng còn hơn không, và ngọn đèn đã giúp cho các tay ghiền thuốc lào đỡ tốn hộp quẹt. Họ quây tròn xung quanh ngọn đèn, chuyền tay nhau chiếc điếu, rít liên tục. B Trưởng hội với 3 Tổ Trưởng để phổ biến công tác ngày mai, không quên nói, cán bộ quản giáo không hài lòng về lao động! Tất cả đều lơ là như chẳng cần chú ý!
Mảnh trăng thượng tuần cong veo đã xế về hướng tây. Chúng tôi lại bắc ghế ra sân ngồi tán láo.Tôi và Lâm rì rầm ước tính ngày học tập chính trị.
- Vấn đề lao động là bước đầu đó ông. Chúng ta phải tỏ ra nhiệt tình để gây thiện cảm, tôi thấy nhiều anh em làm phất phơ quá! - Lâm nói.
Sự thực, tôi chẳng có ý kiến gì về vấn đề này, vì vốn yếu, nên lao động cầm chừng, chi bằng im lặng là hơn. Tôi phát biểu chung chung:
- Ông ạ! Tôi thấy vấn đề học tập chính trị mới cần, lao động như vậy là được rồi! Còn hơn 20 ngày nữa, làm gì không dọn xong mấy bãi cỏ?
Giữa lúc ấy, Phát đến bên, ngồi xuống ghế. Phát (Hải quân Trung tá, cựu Hạm Trưởng). Sở dĩ hắn không đi được trước ngày 30-4 vì lý đo kỷ luật, đã bị giải ngũ. Phát không giấu điều đó. Phát người miền Trung, cũng còn trẻ như Lâm và Mậu.
- Cứ tưởng lao động vất vả thế nào chứ, nếu lao động kiểu này, sướng quá hỉ? Nghe đồn, tuần sau mình sẽ học tập chính trị, học rồi, ra căn cứ Sóng Thần làm lễ mãn khóa, thế là xong! Một tháng đi lẹ lắm mà!
Nói chung, mọi người đi học tập cải tạo, ít nghi ngờ về chính sách của Mặt Trận Giải Phóng, do Ủy Ban Quân Quản ban bố. Dù sao, họ cũng đã thắng trận, Quân Đội miền Nam đã tan rã, còn lực lượng quân sự nào có thể chống được họ, do đấy, họ chỉ dùng chính trị để cải hóa những người khi trước đã chống lại, vì không hiểu đường lối và chủ trương của Cách Mạng! Một khi đã phục tùng, chắc họ sẵn sàng theo đúng chính sách hòa giải, hòa hợp Dân Tộc, để cùng xây dựng lại đất nước sau mấy chục năm dài chinh chiến!
Cũng có vài ý kiến trái ngược với số đông, nhưng vì dè dặt, họ không nói huỵch toẹt ra, sợ bị hiểu lầm, mà chỉ tâm sự với một, hai người bạn chí thiết. Trong số đó có Hải (Trưởng Phòng 3, Quân Đoàn A) và Tường (Tham Mưu phó Chiến Tranh Chính Trị, Quân Đoàn G). Cả hai, đều khẳng định, công việc học tập cải tạo này sẽ lâu dài. Ngoài Bắc có những sĩ quan thuộc chế độ cũ và những nhà trí thức bị nhà nước Cộng Sản cầm tù từ năm 1954 tới năm 1974 mới thả, như trường hợp nữ văn sĩ Thụy An Hoàng Dân. Vị nữ sĩ nay, trong thời gian bị giam cầm, đã dùng bút chọc thủng một bên mắt để phản đối chế độ nhà tù Cộng Sản và mang tật suốt đời...
“Đừng tin những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn những gì Cộng Sản làm!” Trong suốt thời gian làm Tổng Thống của ông Thiệu, chỉ mỗi câu này có giá trị thôi!
Hải cười mỉa mai! Tôi nghe, trong lòng nhức buốt nhưng rất đồng ý với Hải, vì vẫn thường nghĩ, không lý do nào Cộng Sản có thể dễ dàng buông tha cho kẻ thù đã bao năm truờng làm họ điêu đứng. Chúng tôi có mặt trong Trại Cải Tạo này, vì không có phương tiện di tản, trước và sau ngày 30-4. Nói vậy, không có nghĩa, tất cả mọi người đều muốn di tản, có người vì lý do này, lý do khác, muốn ở lại Việt Nam, nhưng số này tương đối ít. Ở lại, là điều không may, nhưng nghĩ cho cùng, không hoàn toàn vô ích cho vốn sống của mỗi người, nếu có nuôi trong tâm tư ý chí phục thù!
Đứng lên, nhìn vùng ánh sáng phía xa, tôi mường tượng ra những sinh hoạt của người dân dưới chế độ mới, nhưng chắc chắn, còn hơn phải sống giữa vòng đai cải tạo, tràn ngập bóng tối và phiền muộn, dù chỉ mấy ngày đầu!...
Sương xuống uớt vai áo. Cảm thấy lạnh, chúng tôi cùng đi vào. Tìm điếu, làm hơi thuốc lào, tôi nằm vật xuống!
Hôm sau, Tổ tôi được phân công đào hố xí, thay vì phát cỏ. Tổ Trưởng chia anh em làm 2 toán: 5 đào đất, 5 đi kiếm vật dụng. Tôi thuộc toán đào đất. Long Giao là vùng đất đỏ, có lẫn đá ong nên rất cứng. Chúng tôi thay phiên nhau kẻ đào, người bốc, suốt buổi sáng mà chưa được 1 thước khối, trong khi chỉ tiêu đề ra 2 thước trong buổi sáng. Tay chân người nào cũng bê bết bùn đất. Mồ hôi chảy nhễ nhại. Trong số chúng tôi, cũng có người mạnh, nhưng vấn đề ở đây là quen việc. Toán đi lo vật dụng khiêng về nào gỗ, nào tôn cũ, cong queo, rỉ sét! Đinh không có, họ phải tháo ở những tấm ván, bằng cách dùng cục đá đập qua đập lại, rồi lấy tay nhổ ra. Cứ như thế, chúng tôi làm đến trưa vẫn chưa đạt được một phần công việc. Mọi người đều mệt nhoài, sau hồi kẻng. Nhưng rồi căn nhà xí cũng xong, sau 3 ngày lao động. Nó không kín đáo và vững chải gì, cũng may, khu này không có đàn bà!
Trong khi chúng tôi làm có tính cách thông thường, bên khu Đại Tá, xây dựng chiếc cổng chào vĩ đại, như kiểu cổng chào mừng ngày Quốc Khánh hoặc ngày Quân Lực khi xưa, ngay trên con lộ đá, trước căn nhà quản giáo. Trên nóc cổng, có đặt một trái cầu lớn, tượng trưng cho trái đất. “Con chim hoà bình” xoè rộng cánh, đậu ngất ngư trên đó. Công tác này rất vất vả, do một Đại Tá Công Binh chịu trách nhiệm. Vị Đại Tá này quá quen thuộc với công việc, vì khi còn tại chức, ông quen làm cổng chào và khán đài trong các ngày lễ lớn. Đôi lúc, tôi ngưng tay, nhìn các vị Đại Tá leo trèo, vác cây, đào lỗ, đóng đinh, làm mọi công việc mà lúc trước, thường chỉ tay 5 ngón! Khi xưa, tất cả những công việc nặng nhọc đều do “em út” đảm nhiệm. Nay thời thế đã thay đổi, làm đảo lộn mọi giá trị. Đó cũng là một bài học, tuy đắt giá, nhưng không phải vô ích!
Một tuần lễ trôi qua. Vẫn những công tác lao động có tính cách cỏ-vê. B. Trưởng nêu ý kiến, nên đánh vài luống khoai và rau muống. Có người phản đối, cho rằng, thời gian 1 tháng có lâu la gì mà trồng với trọt? Khoai lang ít nhất 3 tháng mới có củ, còn rau muống cũng phải trên 1 tháng, ai ở lại mà ăn?
B. Trưởng không nói gì, cứ tiến hành dự định, chắc nghĩ, không làm việc này cũng làm việc khác. Anh đề nghị, anh em mỗi người đóng chút tiền, nhờ cán bộ mua hộ hạt giống rau muống, còn dây khoai, anh lo được!
Ngày ngày qua đi, không ai nói chi đến việc học tập chính trị. Một hôm, tên quản giáo vô nhà, nói với B. Trưởng:
- Các anh có cần điện ban đêm không?
B. Trưởng nhỏ nhẹ trả lời:
- Dạ, tốt quá! Nếu có đèn, anh em có thể học tập, sinh hoạt buổi tối, còn gì bằng!
- Được, mỗi anh đóng 10 đồng, tiền mua bóng và dây!
- Thưa cán bộ, bao giờ đóng?
- Mai, nhất chí chứ?
- Dạ, nhất chí!
A! B. Trưởng tiếp thu từ ngữ Việt Cộng nhanh thực, chưa chi đã “nhất chí”!
Buổi tối sinh hoạt, mọi người đều vui vẻ đóng 10 đồng, vì nghĩ Cách Mạng mới cầm quyền còn nghèo, mình đóng tiền để có phương tiện học tập buổi tối, chứ đèn dầu sao học? Thời gian trôi vùn vụt. Vấn đề đèn điện cũng như học tập không được nhắc đến. Anh em lại bàn tán xôn xao, mỗi tối ngồi tán dóc. Tin đồn này, tin đồn khác bay đến càng làm hoang mang! Hàng ngày anh em vẫn đi lao động, khi chặt hom trồng sắn, khi dọn dẹp các nhà cửa đổ nát, khi sửa đường, khi làm cỏ! Đời sống đi từng bước đều đặn, riêng vấn đề lấy nước, gây cho anh em nhiều khổ cực. Nếu mỗi ngày đều có cơn mưa, không nói làm gì, nhưng mưa là chuyện của Trời, ai biết được? Ngoài chiếc giếng kéo giây, ở phía bên kia đường còn chiếc giếng nữa, dành riêng cho tụi quản giáo và bộ đội. Vì số người học tập cải tạo quá đông, một chiếc không đủ cung cấp nước tắm giặt, nấu cơm, nên họ cho phép những người học tập được xử dụng chung chiếc giếng, nhưng muốn lấy nước phải xếp hàng, mỗi lần qua được 3 người. Khi 3 người về, 3 người khác mới qua. Mỗi lần, đều phải xin phép tên bộ đội gác cổng, khi nào nó gật đầu mới được. Nếu tự tiện, nó nạt nộ, chửi bới, đuổi về! Do vậy, anh em trong Tổ phải chia phiên, chầu chực lấy nước. Chúng tôi kiếm một cây đòn dài, xỏ những thùng đạn vô, 2 người khiêng, còn 1 người xách 2 tay, 2 thùng. Sở dĩ phải đi 3 người vì giếng sâu, lại kéo bằng thùng tôn 20 lít, quá nặng. Hai người quay nước, một người đón bắt đổ vô thùng đạn. Trung bình, mỗi chuyến phải chờ 1 tiếng.
Mỗi sáng sớm, dẫy thùng đạn xếp hàng 6, đã dài cả trăm thước. Ai ra muộn, phải chờ đến trưa, may ra mới qua được, chưa kể hôm nào tụi Việt Cộng mổ heo cần nhiều nước, phải chờ đến chiều.
Buổi nay, Tổ chia công tác cho tôi đi lấy nước cùng Mậu và Phát. Từ sớm, tội đã ngồi chầu giữa một đống thùng đạn to, nhỏ, đủ cỡ. Tên bộ đội đứng trong vọng gác ngay đầu cổng. Mặt nó đầy mụn trứng cá sần sùi. Hai con mắt nhỏ như 2 sợi chỉ, liếc ngang về phía chúng tôi. Có tiếng cãi nhau về chỗ ngồi trước, sau gì đó. Tiếng cãi to dần rồi trở thành cục cằn:
- Đù má mày, tao đập bể mặt mày ra bây giờ!
- Có giỏi đập đi! Tôi đến trước, anh đến sau, sao dành chỗ trên tôi?
- A, mầy thách hả?
Tiếng sắt chạm vào nhau rộn ràng. Tôi quay lại. Một anh to con đang sấn tới, giơ cao quả đấm.
- Ê, thôi đi, hay gì chuyện đó! Nhường nhịn nhau chút, không được sao?
Tiếng nói vọng ra giữa đám đồng. Gã to con chưa hạ cơn nóng:
- Tao đập chết cha mày, không biết tao là ai hả?
Mậu nói nhỏ:
- Dạ, biết rồi, ông là Trung tá Dù, đàn em tướng Cảnh-sát. Một dạo, ổng làm Quận Trưởng, Quận 1 Sàigòn, tức là vua Snack Bar và điếm thượng lưu. Ông cũng là trùm ba gai, khổ lắm, ai không biết?
Nghe tiếng cãi nhau, tên bộ đội ôm súng đi ra ngoài vọng gác, nhíu cặp mày rậm:
- Mấy anh “nàm” gì đấy?
Gã to con vừa hung hăng như thế, sao lúc này đứng trước tên lính Cộng Sản, gã có vẻ hiền lành, ngoan ngoản:
- Dạ, thưa cán bộ, anh kia lộn xộn quá! Hôm nay, chúng tôi lấy nước nấu cơm chứ đâu phải cho cá nhân. Xin phép cán bộ cho qua!
Tên lính Việt Cộng gật đầu. Thế là mấy người trong phe gã khiêng thùng qua cổng, dù hàng của phe gã ngồi mãi dưới xa. Trước khi đi, gã còn ném cái nhìn thách thức, đe dọa vào mặt người gã định đánh. Trong lòng tôi nổi lên sự bất mãn. Ở trong hoàn cảnh này còn dùng sức mạnh, thủ đoạn để lấn hiếp nhau trước mặt tên Cộng Sản nhãi ranh, không đáng gì. Như vậy, sao không thua trận?... Sao Cộng Sản nó chẳng khinh mình? Tôi cho tay kéo chiệc mũ vải che lấp khuôn mặt, một phần để che nắng, phần khác, không muốn nhìn thấy ai.
Bữa ấy, chúng tôi lấy được mấy thùng nước vừa hết buổi sáng. Vì việc lấy nước quá vất vả, cực khổ, chưa kể thùng đứt giây phải dùng móc, câu lên mất cä tiếng đồng hồ, nên chúng tôi dùng rất tằn tiện, trừ hôm nào trời mưa.
Trong khi ăn com, Huy đố tôi biết, căn nhà có gì lạ? Tôi nhìn quanh quất một lúc, nhận ra căn nhà mới có 2 bóng điện, mắc bằng những sợi giây cũ mèm, trong khi chúng tôi góp tiền để mua giây mới. Tôi hỏi Huy:
- Công tắc đặt ở đâu?
Huy cười, nụ cười chế nhạo:
- Ông tưỏng việc tắt, mở đèn mỗi tối, do ông sao? Còn lâu!
Tôi lùa nốt miếng cơm cuối vô miệng, đi rửa gà-mèn, muỗng, rồi vô nhà rít một hơi thuốc lào như thường lệ. Buổi tối, căn nhà có đèn vui hẳn lên. Từ ngoài sân, tôi nhìn khắp, nơi nào cũng có chút ánh sáng, chứ không còn tối mò như trước. Sự có ánh điện ban đêm làm anh em tin tưởng ngày học tập chính trị sắp tới. Một tháng đã trôi qua, ít nhiều gì cũng ảnh hưởng đến tinh thần, dù cho ai có nhiệt tình với Cách Mạng mấy đi nữa!..
Tất cả câu chuyện lại xoay quanh vấn đề, bao giờ học, học cái gì? Một bóng người từ xa đi lại, đúng B. Trưởng! Anh đi hội mỗi tối để nhận lệnh của quản giáo. Vừa bước chân vô cửa, anh la to:- Có điện, “dui”‘ quá ta! - rồi anh mời tất cả mọi người vô nhà để phổ biến tin tức.
Giở tập vở ghi chép, lấy nét mặt trang nghiêm, anh đưa mắt nhìn khắp lượt, chậm rãi nói:
- Tất cả dự đoán anh em đều đúng. Vấn đề học tập của chúng ta đã đến. Buổi hội tối nay, cán bộ quản giáo cho biết, cấp lãnh đao Trại quyết định đặt 2 câu hỏi, để qua đấy, đánh giá mức độ hiểu biết của chúng ta về Cách Mạng! Các anh hãy lấy giấy bút ghi theo lời tôi đọc.
Tất cả đứng dậy đi về chỗ nằm tìm giấy bút. Khi mọi người đã ở trong tư thế sẵn sàng, B. Trưởng dõng dạc:
- Thứ nhất, ghi số La Mã, Lao động là gì? Các anh quan niệm thế nào là lao động?
- Thứ nhì, cũng ghi số La Mã, Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập từ năm nào? Do ai lãnh đạo?
Sau khi ghi xong, tôi liếc nhìn mặt mọi người có phần thờ thẫn dưới ánh điện chẳng sáng là bao nhiêu. Có lẽ, 2 câu hỏi vừa nêu, phần nào xa lạ đối với mọi người. Có tiếng hỏi:
- Bao giờ phải viết xong?
- 2 ngày! hôm nay thứ Tư, đến chiều thứ Sáu, các Tổ Trưởng thu bài trong Tổ mình, đưa tôi nộp cán bộ quản giáo!
Sau khi giải tán, một số ra sân, một số ngồi quây quần hút thuốc lào, bàn tán về 2 câu hỏi.
Ra đến ngoài, chiếc ghế đã đầy người, tôi đành đứng ngơ ngơ nghe Mậu, Huy, Lâm, Phát và Định đang thì thầm to nhỏ. Trong số đó, tôi nhận thấy Lâm tương đối là một sĩ quan có kiến thức cao, có suy luận sâu sắc trong mọi vấn đề thảo luận. Nhưng đứng trước 2 câu hỏi này, Lâm cũng chỉ có thể phát biểu loanh quanh:
- Bố ai biết được Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập từ năm nào. Mình có là Đảng viên đâu? Còn ai lãnh đạo, cái đó dễ rồi. Vấn đề lao động, tuy câu hỏi đơn sơ, nhưng hóc búa đấy các cụ a! Mình có lao động tay chân bao giờ đâu, mà quan niệm? Việc này phải hỏi mấy ông làm ruộng ở miệt quê, hoặc mấy cha xích lô ở thành phố, may ra!...
Tôi đứng ngoài nghe, không tham gia ý kiến. Định kéo tay tôi, hỏi:
- Nè ông, phải có ý kiến giúp anh em chứ? Khi nào học tập xong được trở về, tôi mời ông nhậu một bữa, làm toàn món Huế.
Sự thực, tôi nào hơn gì anh em về vấn đề này, nhưng trước sự nài nỉ của Định, tôi đành trả lời ngu ngơ:
- Lao động, ai chẳng phải lao động, do đó, Marx mới quan niệm “Người là con vật lao động” trái hẳn với quan niệm của Pascal “Người là động vật siêu hình”!
- Hay, hay! - Tiếng vỗ tay nhè nhẹ. - Còn ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, ông biết không?
- Tôi nhớ mang máng, vì trước có được đọc cuốn tài liệu nói về Đảng này, hình như ngày 3-2-1925, nhưng không chắc đâu nhé!
Nghe tôi nói vậy, anh em ngồi im như phân vân. Ít lâu sau, khi được học tập một bài về Lao động, tôi mới biết, mình chẳng hiểu lao động là cái quái gì cả.
Hai ngày qua đi rất nhanh. Trong hai ngày đó, chúng tôi không phải làm cỏ-vê. Sự bàn tán về 2 câu hỏi không ngớt, nhưng cũng có người phớt tỉnh như Kiên (thuộc Đơn vị 101) cứ nằm võng đu đưa suốt ngày, ban đêm anh cũng ngủ võng luôn! Do đó, chỗ nằm của anh không có ván kê.
Sự thực, viết không lâu, chỉ trong vòng nửa tiếng, nhưng có người cẩn thận, cứ sửa đi sửa lại, để chứng tỏ khả năng hiểu biết của mình, họ viết tới 5, 6 trang giấy, nhưng càng viết nhiều, càng nhầm, hối không kịp.
Sớm nay, tôi đang đứng nhìn đôi chim khuyên chuyền cành, bỗng có tiếng nói nhỏ nhẹ:
- Ông cho tôi mượn bài đi!
Tôi ngoảnh nhìn thấy Bích (Cựu Tỉnh Trưởng, mới mất chức trước ngày 30-4 vì tham nhũng).
- Cọp-dê sao cha?
- Ừa, nghĩ mệt quá. Sao y bản chính cho tiện!
Bích cười khà khà:
- Ở đời, nghĩ cũng tức cười. Khi trước đi trận, có bữa mình uýnh tụi nó chạy vãi cứt ra quần, nay nó bắt mình trả bài, ức thật!
Buổi chiều, sau khi nộp bài, mọi người như vừa trút xong gánh nặng, dù câu trả lời đúng hay sai? Có người ngụy biện:
- Mình dốt mới phải học chứ? Dốt mới thua!...
Nhưng rồi hình như, mọi người quên đi, lại quây quần xung quanh chiếc điếu để nhắc nhở đến kỷ niệm và những gì đã xảy đến cho mình trước ngày 30-4. Nhưng những chuyện được nhắc đây, không phải để căm thù, hoặc ân hận về những quyết định sai lầm trong khi trong tay còn quyền lực và vũ khí mà chỉ để chứng minh, sự thua trận không phải do lỗi lầm của họ.
Bỗng không khí căn nhà vui nhộn hẳn lên vì tiếng vỗ tay đôm đốp:
- Có chuyện gì vậy?
- Ciné! A, thích quá ta! Lâu lắm mới được coi.
B. Trưởng, dáng điệu chững chạc đứng giữa nhà nói:
- Chiều mai, thứ Bẩy, 6 giờ, anh em sẽ sang khu Tiểu Đoàn xem chiếu phim. Có vài điều, anh em cần nhớ: khi đi, giữ đội hình. Lúc xem, ở đâu ngồi đấy, không nói chuyện. Nếu ai vi phạm sẽ bị kỹ luật!
Tiếng bàn tán lại xôn xao. Người đoán phim này, kẻ đoán phim nọ. Vấn đề học tập tự nhiên chìm xuống. Ai cũng mong chóng đến chiều mai, như trẻ thơ chờ áo mới. Thời gian 1 tháng đã qua được mấy bữa rồi. Các luống rau muống đã lú cao, sắp sửa được ăn lứa đầu. Các luống khoai, lá mọc xanh um, tươi tốt. Bãi cỏ gianh đã được dọn sạch. Toàn trại trông gọn gàng vì có bàn tay con người săn sóc. Chúng tôi đã kiến tạo được trái bếp nhỏ để đun nấu và có cả một số soong, chảo, nồi niêu đủ đùng.
Nóng quá, không ngủ được, buổi trưa tôi ngồi ngoài thềm tựa lưng vào chiếc cột, nhìn những cụm mây trôi lang thang trên vòm tròi. Có nhiều cụm hình thù kỳ dị, sần sùi như mặt quỷ. Có những dải mây mỏng như lụa bay lang thang, bình bồng. Bỗng có tiếng còi xe rúc vang phía bên kia đường. Tôi nhìn sang. Một chiếc Molotova không mui, trên chở độ 4,5 người, trong đó có một cụ già khoảng trên 70 tuổi, râu tóc bạc phơ, rối bời theo chiều gió. Chiếc xe vòng qua lối cổng, chạy thẳng đến khu Đại Tá. Tôi không hiểu những người trong xe thuộc thành phần nào, nhưng chắc chắn, họ được đưa đến đây không phải để chơi! Tên bộ đội mang khẩu AK, ngồi nghiêm chỉnh sát tấm chắn hậu. Lát sau, chiếc xe vòng ra, khoang sau trống rổng.
Vì tò mò, tôi rủ Mậu cùng đi xem những người mới đến. Chúng tôi đi qua căn nhà Nữ Quân Nhân. Tôi ngạc nhiên, thấy căn nhà đó bỏ trống. Tôi hỏi Mậu:
- Nè ông, các “phún” biến đâu rồi?
Mậu cười khục khục:
- Ông ngu ngơ bỏ cha! Tụi Việt Cộng đã chuyển các “bà cố nội” nó đi từ tuần trước.
- Đi đâu?
- Nghe đồn về Trường Thủ Đức!
Vài bóng người lố nhố chạy ra, chạy vô trong một căn nhà nhỏ. Nhìn thấy Sơn, nhà viết sử, tôi vẫy tay gọi. Sơn ngó ra, nét mặt cau có như còn đang cơn tức giận. Sơn nói với tôi, như phân trần:
- Tụi khốn nạn! Người ta già cả, ốm đau như vậy, còn bắt đi cải tạo!
- Ai vậy, bạn?
- Đại tá Cẩm đó! Ông cụ đang bị bệnh rề rề, máu trỉ chảy tùm lum, gần đất xa trời rồi, cũng không tha!
Tôi ghé mắt nhìn vô trong. Một ông già, quá già, nằm dài trên tấm ván đặt sát mặt đất, mồm há ra, thở mệt nhọc.
Tôi hỏi:
- Còn mấy người nữa đâu ông?
- Mấy người kia thuộc diện Trung Tá, trốn học tập cải tạo, bị bắt ở dọc đường. Họ được đưa đến khu D rồi!
Mậu kéo tay tôi.
- Thôi về ông, chán ghê, chán ghê!
Vừa đi, tôi vừa nhìn bóng mình lẩn quẩn trên mặt đất đỏ, như vết nhọ.
Quả thực, không có gì nản bằng khi mắt mình phải nhìn mãi một cảnh tượng không ưng ý. Chẳng còn chi vui thú khi biết tự do của mình đã mất. Vùng trời xanh thẳm trên kia, hàng cây giăng dài phía trước, những vòng kẽm gai quấn quít, tua tủa muôn ngàn mũi nhọn như đe dọa, những mũi súng lạnh lùng ẩn khuất đâu đó, tất cả chẳng khơi động trong tâm trí tôi mảy may xúc động! Những bước chân, quanh quẩn vẫn là những bước chân tù túng, bị hạn chế trong một chu vi nhất định.
Thời gian lướt trôi, ngày rồi đêm, tôi chưa nhìn thấy tia hy vọng nào báo trước việc học tập cải tạo sớm được thực hiện. Mỗi ngày qua đi đều nhạt nhẽo vô vị. Tôi không muốn nhìn, muốn thấy những chiếc nón cối, những bộ đồ trận nhầu nát, những đôi dép lốp thô kệch, chậm tiến, cũng phải nghe những câu nói ngọng L thành N. 99% tụi Việt Cộng, đều nói ngọng và cách phát âm của họ nghe nặng nề, nhức nhối, mở miệng ra là Cách Mạng, Đảng và Nhà Nước!...
Sau bữa cơm chiều, mọi người đều chuẩn bị sẵn sàng, ngong ngóng chờ đến giờ đi coi ciné. Tôi nhìn ai cũng bảnh bao hơn ngày thường. Chắc họ cho vấn đề đi coi ciné tối nay là niềm ưu ái của kẻ thắng trận đối với người thua trận! Thế mới hay, con người có thể thích hợp với mọi hoàn cảnh, nếu hoàn cảnh buộc như vậy! Trước kia, Miền Nam có những rạp ciné sang trọng, hầu hết đều trang bị máy điều hòa không khí, mà còn chẳng mấy khi đi. Nay đi xem phim ngoài trời, ngồi đất, súng AK vây quanh, chẳng hiểu sao, có nhiều người náo nức? Có lẽ quá buồn, họ muốn tìm ít phút để lãng quên cuộc sống tủi nhục này chăng?
Tên cán bộ quản giáo từ phía bên kia đường băng qua. Chiếc nón cối đội sụp xuống gần mắt. Hai bàn tay hắn vung vẫy như hai chiếc bơi chèo. Từ ngày đi học tập cải tạo, tôi chưa nhìn thấy tên bộ đội nào đeo quân hàm, ngoại trừ tên Thiếu úy ở trường Don Bosco. Nhưng có thể phân biệt được giữa cấp sĩ quan và binh sĩ qua khẩu súng ngắn hay dài. Điều làm tôi ngạc nhiên nữa, không bao giờ họ chào nhau theo quân kỷ của một quân đội có tổ chúc. Tất cả đều ngang hàng. Một hôm đi lao động dọn cỏ, tôi chứng kiến vụ hai tên bộ đội cãi nhau vì chiếc ghế. Một muốn lấy đi, một giữ lại!
- Tôi nói cho đồng chí biết, tôi “nà” Cách Mạng, cái gì của Cách Mạng “nà” của tôi. Đồng chí không có quyền “nấy” đi.
- Này đồng chí, thế tôi không phải “nà” Cách Mạng sao? Cái gì của Cách Mạng “nã” của chung. Cái ghế này do tụi “Ngụy” để “nại” ai cần, nấy dùng!
Họ nói rất to, dù chúng tôi có mặt gần đấy! Tôi biết, khi họ đã dùng chữ “đồng chí” để xưng hô với nhau là “căng” lăm. Tôi liếc nhìn. Hai tên đều nắm chặt chiếc ghế trong tay. Một tên mặt đỏ gay, một tên tái mét. Họ có thể đi đến ấu đả, nếu không có tên thứ ba đến kịp thời can gián. Sau cùng, chiếc ghế vẫn ở lại chỗ cũ.
Chúng tôi xếp hàng hai ngay trước nhà. B. Trưởng điểm số rồi báo cáo cho quản giáo. Trước khi cho lệnh đi, hắn nói:
- Tối nay, Ban Chỉ Huy Trại, có tổ chức chiếu phim cho mấy anh xem. Các anh nên nhớ, đó “nà” sự “chiếu cố” đặc biệt của “Trên” đối với những người đi học tập cải tạo. Các anh phải giữ kỷ “nuật” trước, trong và sau khi xem. Không ai được tự ý đi ra ngoài khu vực ấn định. Các anh phải chú ý, để còn “nàm” thu hoạch!
Nghe thấy hai chữ “thu hoạch” 1, anh em có vẻ ngán.
Mậu đứng cạnh tôi, nói khẽ:
- Xem để giải trí, thu hoạch cái con mẹ gì, chán ghê, chán ghê!
Tên quản giáo cho lệnh đi. Đến cổng, chúng tôi phải dừng lại chờ vì quá đông. Những cánh tay giơ cao để chào nhau khi gặp bạn quen. Chúng tôi qua cổng. Tên lính gác dùng chân dẫm lên cây cản. Cây cản cất bổng một đầu như chiếc cần câu khổng lồ. Tên quản giáo báo cáo số người với tên lính gác. Tên này đếm lại trước khi cho đi.
Chúng tôi quẹo trái, đi theo con lộ đất đỏ khá rộng, đủ chỗ cho 2 xe lớn tránh nhau. Hai bên bờ cỏ gianh cao lút đầu. Dòng người đông đảo lấp kín một đoạn đường khá dài. Đi chừng trên 1 cây số, đến khu đất rộng, đã đông nghẹt anh em cải tạo. Phía cuối bãi, một khung vải trắng lớn căng thẳng thắn bằng những chiếc sào tre. Gần đấy, chiếc xe đặt máy chiếu phim. Xung quanh dầy đặc Việt Cộng, kẻ có súng, người không. Tên quản giáo chỉ cho chúng tôi nơi ngồi, rồi chuồn ra tán láo với mấy tên khác đứng gần đấy. Trời bắt đầu tối. Trên khung vải ánh đèn đã chiếu sáng để điều chỉnh máy. Tiếng truyền qua loa phóng thanh, nói về mục đích nội dung các cuốn phim sắp được chiếu. Chúng tôi được xem 3 cuốn: Ca Múa, Nguyễn Thái Bình và Một Ngày Của Hà-nội.
Ngoài cuốn phim Ca Múa (hoàn toàn thuộc loại nghệ thuật) nhằm mục đích giới thiệu các điệu vũ Dân Tộc, với sự tập luyện công phu, 2 cuốn kia đều thuộc loại tuyên truyền.
Cuốn phim Nguyễn Thái Bình, tên không tặc, đã cưỡng bức chiếc Boeing 747 đi Hà-nội, vào năm 1973, bị bắn chết tại phi trường Tân Sơn Nhất, được Việt Cộng đề cao là ”anh hùng Cách Mạng” cũng như tên Nguyễn Văn Trỗi đã ám sát hụt Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, Mac Namara ở cầu Công Lý. Dĩ nhiên, cuốn phim tài liệu do phóng viên ngoại quốc có mặt tại Miền Nam lúc đó, quay được.
Còn cuốn Một Ngày của Hà-nội, nội dung diễn tả một ngày sống động của nhân dân Hà-nội vừa làm việc vừa chống máy bay “cánh cụp, cánh xòe” của Mỹ. Nó là loại phim tuyên truyền có tác dụng tốt. Vô tư nhận xét, kỷ thuật quay khá cao, nhiều hình ảnh đẹp.
Toàn khu chiếu phim im phăng phắc trừ tiếng vỗ tay rào rào sau mỗi cuốn, từng đốm lửa hút thuốc lập loè đó đây. Những tên Việt Cộng chắc đã xem nhiều lần nên có vẻ chán. Chúng nói chuyện, ngó đâu đâu chứ không nhìn lên màn ảnh.
Đêm không trăng, trời tối như bưng. Chúng tôi ra về theo tiếng loa gọi số B tuần tự. Những vệt đèn pin quét vào bóng tối từng vệt sáng dài để soi đường. Tiếng nói chuyện rì rầm về nội dung các cuốn phim. Tên quản giáo đưa chúng tôi đến nhà. Trước khi cho lệnh giải tán, hắn nói:
- Theo “nệnh” trên, ngày mai các anh hội ý với nhau ”nàm” bản thu hoạch, theo mục đích yêu cầu như sau: Các anh nghĩ gì về hình thức và nội dung mỗi cuốn? Chủ yếu “nà” nội dung. Ngày kia, anh B. Trưởng nộp cho tôi. Thôi, các anh nghỉ!
Chúng tôi tan hàng, đi vô nhà. Tiếng điếu cày rít rèn rẹc đó đây, khói tỏa mù mịt. Lời bàn tán về 3 cuốn phim cất lên sôi nổi. Chỉ thấy khen, chẳng ai chê. Có người khẳng định đó là bước đầu chính thức đi vào vấn đề học tập cải tạo. Cách Mạng họ giáo dục theo lối mới mà! Có thế mới là Cách Mạng!... Câu chuyện đang sôi nổi, đèn tắt phụt. Đã đến giờ ngủ. Tiếng kẻng từ xa vọng lại não nề. Một vài người đi ra ngoài, chắc còn nhiều điều cần phải bàn cãi.
Hôm sau, B. Trưởng hội anh em để thảo luận về 3 cuốn phim tối qua và đề cử người viết thu hoạch theo lệnh quản giáo. Khi thảo luận, ai nói cũng hay lắm, nhưng đến lúc đi vào thực tế, viết thu hoạch, ai cũng né tránh.
- Vị nào xung phong? - B. Trưởng hỏi, rồi đưa mắt dò xét.
Tất cả ngồi im như phổng đá.
- Nếu không có, tôi xin đề cử anh Lâm, thay mặt anh em viết bản thu hoạch.
Bỗng nhiên, mặt Lâm đỏ au như vừa uống rượu, vội vàng từ chối, tự nhận chỉ biết viết toa thuốc và xin đề cử anh Mậu. Mậu đang ngồi trầm ngâm bỗng giật miình như bị kiến đốt.
- Ủa, sao lại tôi? Các anh bảo tôi “bóp cò” thì O.K, còn viết xin chịu!
Đùn qua, đẩy lại mãi, chẳng ai chịu nhận cái của nợ đó. Sau cùng, B. Trưởng năn nỉ tôi viết dùm, sẽ miễn lao động cho tôi một tuần. Tôi hết sức từ chối, nhưng B. Trưởng và anh em nài nỉ mãi, tôi đành nhận lời.
Lẽ dĩ nhiên, bản thu hoạch phải ca tụng các cuốn phim cả hình thức lẫn nội dung và kết tội đế quốc! Ở trong hoàn cảnh này, không làm khác được, nhưng cố sức sao cho ngòi bút đừng hèn hạ, để qua đấy kẻ thù đánh giá thấp những người đi học tập cải tạo. Sau 1 ngày cắm cúi viết, tôi đưa cho B. Trưởng.
Buổi tối sinh hoạt, B. Trưởng đọc lên cho tất cả anh em nghe xem ai có ý kiến gì thêm, bớt không? Chẳng ai phản đối. B. Trưởng đại diện ký tên để sớm mai nộp. Trong lúc viết bản thu hoạch 3 cuốn phim, tôi đã nhìn thấy tụi Việt Cộng mở chiếc bẫy thứ nhất nhằm đưa những người học tập cải tạo vô tròng. Chúng rất xảo quyệt khi bắt cả B làm một bản thu hoạch, chứ không bắt mỗi cá nhân. Đây là một tính toán rất tế nhị và khoa học, để mọi người không có mặc cảm, chính mình đã nói xấu, kết tội chế độ mình vừa phục vụ, ai cũng cảm thấy thoải mái vì tin đó là ý kiến chung của tập thể, mình không có trách nhiệm! Từ bước đi thứ nhất này, Việt Cộng sẽ mở lần lần những chiếc bẫy khác, bắt buộc mỗi cá nhân phải chui vô như đàn cá chui vô chiếc nôm, không cách nào thoát khỏi. Cộng Sản không dùng hình thức tra tấn, dọa nạt trực tiếp để khai thác đối tượng, chúng chỉ dùng mưu mô, thủ đoạn xảo quyệt bắt đối tượng phải làm theo những gì chúng muốn.
Quả thực, khi viết xong bản thu hoạch, lòng tôi không yên ổn nhưng nghĩ cho cùng, dù tôi viết, hoặc ai viết cũng không sao khác đượcc, vì hoàn cảnh đã đẩy tới như vậy, làm sao tránh?
Giữ đúng lời hứa, B. Trưởng để tôi nghỉ 1 tuần không đi lao động. Tôi cảm thấy, ngày nghỉ rất dài và buồn. Đi lao động có vất vả, bẩn thỉu, nắng nôi thật đấy, nhưng vui, chóng hết ngày, những ngày chờ đợi của một tội nhân trong ngục tối trước khi nghe tuyên án!
Vào lúc gần trưa ngày nghỉ thứ 3, tôi đứng nhìn một đoàn người mồ hồi nhễ nhại, gánh gồng lương thực đi qua căn nhà tôi ở, bỗng có tiếng nổ lớn tiếp theo những tiếng nổ nhỏ, một cuộn khói đen kịt tung cao ở phía xa, chiếu thẳng khu Đại Tá. Tiếng nổ dồn dập rền vang như tiếng súng giao tranh nơi trận địa, khói lửa bốc mù mịt. Những tên bộ đội từ bên kia đường xách súng băng qua, chạy về hướng phát ra tiếng nổ. Các toán lao động tới tấp trở về, ngơ ngác. Tôi hỏi một người trong bọn:
- Chuyện gì thế bồ?
- Nổ kho đạn khu F!
- Có ai chết hoặc bị thương không?
- Đâu biết!
Vừa lúc ấy, anh em thuộc B tôi về. Trên nét mặt mệt mỏi, áo quần đẫm mồ hôi, nhìn về hướng đám khói. Có vài khối lửa tung cao như những quả bóng đỏ rực, rất đẹp. Cuộn khói cao dần làm tối cả một khoảng trời. Có tiếng nói thì thào bên tai:
- Đù mẹ, mong cho nổ tung, chết cha hết tụi Việt Cộng.
Tôi quay lại, thấy Huy.
- A, ông nói sao? Nó chết, để tụi mình sống?
- Cho chết, chết hết! - Huy dằn giọng.
Kho đạn tiếp tục nổ tới xế chiều mới dứt. Hôm sau, tôi nghe nói có vài anh em ở khu D lao động gần đó, bị thương nhẹ. Khu vực nổ, tụi Việt Cộng đã mang kẽm gai quây kín. Chính vì kho đạn khu F nổ, tuần sau, Việt Cộng mang 2 chiếc GMC của Quân Lực Cộng Hòa, đến kho đạn thuộc khu tôi ở mà bữa trước, tôi và Huy đã lấy thùng đựng nước. Chúng tôi được phân công bốc đạn từ dưới hầm chuyển lên GMC. Đứng giữa hầm đạn, tôi nhìn những viên đạn đã được vứt bừa bải khắp căn hầm, lòng se lại. Ôi, những viên đạn quý báu mang nhãn U.S, đã gần gủi với các chiến sĩ, đã đóng góp vào nổ lực bảo vệ Miền Nam và Tự Do, đã ngăn chặn từng bước chân quân thù suốt mấy chục năm chinh chiến, giờ này đang nằm dưới chân tôi như những vật vô giá trị, dư thừa. Các loại đạn được chuyền tay đưa từ dưới hầm lên để xếp vào 2 chiếc GMC đậu ngay cửa hầm. Gần 30 con người chuyền cả buổi sáng, tay chân mỏi nhừ, kho mới chỉ vơi một nửa. Tên bộ đội cảnh vệ cho lệnh thôi, vì xe đã qua đầy. Chúng tôi phải làm việc cả ngày hôm sau nữa, hầm đạn mới trống trơn. Trước khi rời khỏi căn hầm, tôi nhìn nó lần chót. Con nhiều viên đạn đại liên rớt rải rác đó đây. Những băng vải đựng đạn M 16, giấy bồi, quăng bừa bải. Hầm đạn lúc này giống một hố rác. Mấy năm sau, tôi được biết, những viên đạn này được chi viện cho chế độ Hen Som Rin, để chống lại Pol Pot Ieng Sari tại Campuchia, cũng là Cộng Sản, không quy phục Liên Xô mà theo Trung Cộng!
Có những chiều, sau khi ăn xong, chả biết làm gì, tôi đi lang thang dọc theo con lộ đất đỏ để suy nghĩ những gì thuộc riêng mình. Đôi khi gặp Cung, nhà thơ, đã có mấy bài thơ hay được Phạm Duy phổ nhạc. Anh là Trung Tá Không Quân tuy ở cùng chung khu vực, nhưng không chung C với tôi. Mỗi lần gặp, chúng tôi lại đề cập tới vấn đề số phận của mình trong tương lai.
Những ngày đầu Việt Cộng chiếm Miền Nam, Cung vì quen thân với Hoàng Trọng Miên, em ruột của Thanh Nghị, tên trí thức “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản” chạy theo Việt Cộng từ Tết Mậu Thân, nay trở về với chức vụ Phó Tổng trưởng Thông Tin Văn Hóa của chính phủ Cách Mạng, thường tỏ ý chê bai và lên án những người di tản qua Mỹ trước ngày 30-4. Sau mấy chục ngày, sống trong Trại Tập Trung Cải Tạo, đụng chạm với thực tế, chắc Cung đã thấm phần nào, và cũng đã nhìn rõ sự gian xảo của Cộng Sản, nhưng có lẽ do tự ái, hay vì bảo thủ lập trường, Cung vẫn khẳng định:
- Theo moa, vấn đề học tập cải tạo phải có. Chính nhờ vào học tập chính trị, mình mới có thể ý thức một cách đúng đắn về đường lối Cách Mạng. Hiện tại, mình chả có cách nào hơn là tuyệt đối tin vào Cách Mạng.
- Thanh Nghị không bảo lãnh, cứu cậu à?
- Truớc khi “đi”, moa có gặp anh để trình bầy, anh bảo cứ đi, lo sau!
Tôi mỉm cười, tuy không nói ra những gì mình nghĩ, sợ bị ngộ nhận, mất tình anh em, nhưng vững tin Cộng Sản không bao giờ biết tha thứ cho ai hết, nhất là anh, ngoài cấp Trung Tá, lại giòng dõi quan liêu, phong kiến, có nhiều nợ máu với nhân dân, với Cộng Sản từ xưa!
Cung khác hẳn với Thục Vũ (nhạc sĩ, Trung Tá Thuộc ngành Chiến Tranh Chính Trị), quan niệm rõ ràng mình, người thua trận, đang bị đối xử đúng với tư thế của con người mất chỗ đứng. Thục Vũ làm nhạc cũng như làm thơ, những tiếng thơ buồn bã mang nhiều uất hận! Thục Vũ vốn có bệnh đau gan nặng, da mặt và mắt anh vàng màu lá úa,! Anh ít nói, không thờ ơ cũng chẳng vồn vã. Chúng tôi cùng chung C nhưng không cùng B, ở sát nhà nhau. Tuy ở gần, nhưng ít khi gặp, mỗi lần gặp, tâm sự chẳng muốn rời!
Tự dưng đêm qua, tôi lên cơn sốt. Toàn thân đau nhừ như vừa qua cơn tra tấn nặng nề. Tôi nghĩ, có lẽ do nằm sát đất quá, hơi ẩm mỗi đêm bốc lên, thấm dần vào cơ thể nên dễ bị đau. Trong bóng tối, tôi lần tìm thuốc trong túi vải. Tôi bỏ luôn 2viên Aspirin vô miệng, chiêu ngụm nước. Vị thuốc chua chua đọng lại trong cuống họng. Tôi nằm, không sao ngủ được. Đó đây tiếng ngáy đều đều như bản hợp tấu tùy hứng. Bỗng có tiếng hét từ cuối nhà:
- Rắn, anh em ơi!
Mọi người chồm dậy. Ánh lửa được bật lên châm vào đóm.
- Đâu? Tiếng hỏi nhao nhao.
Ánh lửa bập bùng rồi cháy lớn vì nhiều que đóm chụm lại. Tôi cố đứng dậy nhìn qua ánh lửa. Một con rắn cạp nong khoanh trắng, khoanh đen đang trườn mình thật nhanh phía cuối vách tìm lối thoát. Trong khi mọi người loay hoay tìm gậy đánh rắn, nó đã biến mất.
Anh em mất ngủ, bàn tán lao xao về chuyện rắn. Các câu chuyện về rắn được kể lại qua miệng mọi người. Tôi nằm xuống, cơn sốt dịu đi trong chốc lát, xong nóng lại. Tôi thiếp đi, trong cơn sốt miên man!
Tiếng kẻng báo thức gõ từ lâu, nhưng tôi cứ nằm lì trong mùng vì quá mệt, tuy đầu đã bớt nhức! Tôi báo cáo vơi B. Trưởng, sẽ đi khai bệnh bữa nay.
Từ chỗ ở đến nơi khám bệnh không xa bao nhiêu. Tôi ghi tên vào sổ khám bệnh. Trong khi chờ đợi đến lượt, tôi nhìn quẩn quanh, đọc những khẩu hiệu ghi trên vách: Lương Y là Từ Mẫu, Phòng Bệnh hơn Chữa Bệnh, Sức Khỏe là Vàng v.v.... Tôi biết, đấy chỉ là những sáo ngữ. Người bệnh khá đông, có lẽ vì khí hậu và do sự nằm đất chưa quen.
Tôi được gọi vào. Người khám bệnh cho tôi, Bác sĩ Tín, cựu giám đốc viện Bài Lao Ngô Quyền. Tên bộ đội phụ trách phòng khám bệnh nghe nói hắn chỉ là tên Y tá, quân hàm Trung Sĩ. Tín, bận quần áo thường như mọi người cải tạo khác, không mũ, không blouse trắng, nên chỉ ai quen, mới nhận ra anh. Anh hỏi bệnh, rồi bắt mạch, áp tai vào ngực, vào lưng tôi nghe ngóng, thay ống nghe, xong báo cáo với tên cán bộ quân y về bệnh trạng của tôi.Với giọng nói lạnh lùng, nó ra lệnh cho Tín.
- Rỏ nước tỏi vô mũi! Tiêm một ông B1.
Tín bảo tôi ngữa mặt lên, thọc ống nhỏ giọt vào chai nước đục ngầu, rồi bóp vào lỗ mũi tôi 2 giọt. Mùi tỏi xông lên nồng nặc làm tôi hắt hơi. Trong khi đó, một bệnh nhân khác vô. Có lẽ, anh này thuộc loại khách hàng quen thuộc, mặt xanh như tàu lá. Anh luôn mồm kêu tên y tá Việt Cộng là Bác Sĩ. Tên cán bộ nhấc một ống tiêm trong chiếc khay nhôm, rồi thọc mũi kim xuyên qua lớp nylon bịt kín miệng chai soda trong có chứa đầy nước. Tôi nhìn Tín như hỏi. Anh nói khẽ:”đó là chai nước ‘Sérum lô-canh’ để hòa tan Bi, tức Péniciline đó”. Tôi rùng mình. Tín rút thưốc vào ống chích. Anh bảo tôi vén tay áo. Mũi kim quá to và cùn đâm vào thịt làm tôi đau đớn! Tôi cũng chẳng hiểu vì lý do nào, tên cán bộ quân y lại cho tôi chích B1, trong khi tôi sốt? Tôi hỏi Tín, anh chỉ lắc đầu, tỏ ý không hiểu.
Tôi bước nhanh ra cửa. Ánh nắng làm chóa mắt. Tôi đi lảo đảo như người say. Qua sự kiện vừa xẩy ra, tôi suy nghĩ hoài về sư đảo lộn của từng giá trị, chăng cứ gì ở phạm vi Y tế, mà còn ở nhiều cơ cấu khác, kể từ sau ngày bại trận!
Về tới nhà, tôi nằm lăn ra ván. Anh em đi lao động hết nên căn nhà rộng rinh. B. Trưởng được miễn lao động, đang ngồi nhìn trời. Cơn mệt làm tôi không tha thiết đến việc gì nữa. Có tiếng ồn ào từ ngoài cửa vọng vào. Tôi hé mắt nhìn. Mậu và Huy đang xốc nách một người dìu vô. Tôi đoán, có tai nạn lao động. Lâm theo sau. Tôi hỏi:
- Sao, có chuyện gì thế?
- Ông Giác, đang làm tự nhiên quỵ xuống, đứng dậy không nổi.
- Sao không đưa đi Bệnh xá?
- Mới báo cáo; cán bộ y tế bảo cứ cho về nhà, tính sau!
Trung Tá Giác, thuộc đơn vị tác chiến, người khá to lớn. Trông bề ngoài, không ai ngờ anh có thể bệnh. Nhưng sự thực, Giác đang nằm phía bên kia, chênh chệch chỗ tôi đang nằm, hai chân không còn đủ sức mang nổi thân hình anh nữa.
Lát sau, tên y tá đi vô, mang theo chiếc túi vải nhà binh nhỏ. Hắn ngồi xuống ván, lấy đầu ngón tay ấn vào hai chân Giác. Trong khi đó, Lâm trình bầy với tên y tá về bệnh trạng của Giác.
- Rất tiếc, hiện nay chúng tôi cũng thiếu thốn và không có thuốc tốt. Nếu các anh muốn, có thể gửi tiền tôi đi “Nong Khánh”, hoặc Biên Hòa mua thuốc dùm các anh.
- Dạ, thưa cán bộ, tốt quá! Như vậy phải bao nhiêu tiền?
- Tôi không biết giá, các anh cần thuốc gì, đưa bao nhiêu tôi sẽ mua chừng nấy.
Lâm hỏi Giác muốn mua bao nhiêu thuốc, rồi nhân tiện bảo ai muốn mua góp tiền một thể. Số tiền được góp thật lẹ vì anh em nhìn thấy hình ảnh Giác nên sợ. Tên y tá cài tiền đi ra nhanh như hơi gió..
Sau hai ngày nằm bệnh, nhờ anh em cho thuốc tốt, tôi đã khỏi nhưng vẫn còn chóng mặt chưa đi lao động được. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ sáng, tên cán bộ y tế sồng sộc đi vào phòng đến thẳng chỗ anh Giác nằm, mở túi vải trao cho Giác những vỉ thuốc với tờ giấy kê khai giá tiền mỗi thứ. Giác vẫn chưa đi lại được, mỗi lần đi tiêu hoặc tiểu, phải nhờ 2 người dìu, nếu di chuyển ngắn phải chống gậy lần từng bước khó nhọc.
Tôi đang ngồi ngoài hiên nhìn cảnh anh em xếp hàng lấy nước, tên y tá đi qua dừng lại hỏi:
- Sao anh không đi “nao” động.
- Dạ, tôi bịnh, mới đi bệnh xá bữa qua.
- Bệnh gì?
- Cảm sốt!
Tên y tá nhìn tôi một lúc rồi không hiểu sao, hắn ngồi xuống một gốc củi chẳng rõ ai để đó từ bao giờ.
- Trước anh ở đơn vị nào?
- Chiến Tranh Chính Trị!
- A, tình báo Xê-i-a!
- Không, không phải. Chiến Tranh Chính Trị không phải Cơ quan Tình Báo Mỹ, Xê-i-a, cán bộ hiểu lầm!
- Thế nó có phải “nà” Chiến Tranh Tâm “Ný” không? Cơ quan này ác ôn lắm!
- Cục Tâm Lý Chiến chỉ là một phần của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
- Khi còn ở Cục “Rờ” chúng tôi đã nhiều lần được đọc các tờ truyền đơn thay cho giấy thông hành do máy bay Mỹ ném xuống..
- Không phải máy bay Mỹ, Việt Nam đấy, cán bộ!!
- Ồ, Miền Nam với đế quốc Mỹ “nà” một, ai ném cũng vậy thôi! ·
Thấy tên này ấm ớ quá, tôi toan đứng dậy lỉnh đi chỗ khác, chợt hắn hỏi:
- Anh có biết, tại sao nhân dân Miền Nam không thích Cách Mạng?
- Cái đó, cán bộ nên hỏi thẳng nhân dân, tôi đâu biết!
- Họ bị cơ quan Chiến Tranh Tâm “Ný” của các anh tuyên truyền đó. Khi chúng tôi hỏi, vì sao bà con cô bác không hợp tác chặt chẽ với Cách Mạng, họ trả “nời”, ngày trước, họ nuôi heo, nuôi gà, trồng trọt hoa mầu, họ được bán tự do. Từ ngày Cách Mạng vô Miền Nam, muốn bán thứ gì, họ phải báo cáo với Ủy Ban Nhân Dân, nên họ không thích. Nhưng họ có biết đâu họ bị đế quốc và các anh bóc “nột”, còn Cách Mạng kiểm soát họ “nà” để bảo vệ tài sản chung của Nhà Nước!
Tên y tá nói tỉnh bơ, coi như lời nói của mình là chân lý! Thốt nhiên hắn nhìn thẳng vào mặt tôi, hỏi:
- Anh có biết vì sao Miền Nam thua không?
Tôi hơi sửng sốt vì câu hỏi đó, nhưng cũng cố tìm vài lý do để chứng minh:
- Chúng tôi thua trận, vì Miền Nam không có cấp lãnh đạo giỏi, lại chia rẽ, tham nhũng làm nản lòng các chiến sĩ. Người Mỹ đã bội ước!....
Tên y tá lắc đầu:
- Không, không phải vậy đâu! Anh nghĩ cao xa quá, không sát với thực tế. Các anh thua, do chính các anh đó!
Tôi sửng mắt nhìn. Hắn nói tiếp nhởn nha:
- Các anh thua vì các anh có nhiều thứ phải giữ quá! Này nhá, các anh giữ vợ đẹp, con khôn, giữ tình nhân, giữ ô tô, nhà “nầu”, giữ tiền gửi ở Ngân Hàng, giữ công danh địa vị, nhưng các anh “nại” quên, không giữ mảnh đất đã nuôi dưỡng và cho các anh tất cả những thứ đó. Anh có nhất chí với tôi không?
- Cái đó, chỉ đúng phần nào thôi, cán bộ. Không phải tất cả các sĩ quan của Quận Đội Miền Nam lúc trước, ai cũng có của cải vật chất và công danh, địa vị như cán bộ tưởng. Chúng tôi chiến đấu vì lý tưởng Tự Do, vì Hạnh Phúc của nhân dân Miền Nam.
- Thế sao chúng tôi thắng? Tôi có được đọc báo chí của Miền Nam trước đây. Các anh cho rằng chúng tôi trước khi ra trận, được chích thuốc tăng kích để không sợ chết “núc” xung phong!... “Nầm”, các anh đã “nầm”. “Núc” này, tôi cần nói thẳng cho các anh biết “ný” do nào đã khiến chúng tôi can đảm và thắng các anh. Nó cũng đơn giản thôi, chúng tôi đa số thuộc “nứa” tuổi nghĩa vụ. Sống mãi trong rừng, khổ quá! Phần thiếu thốn về vật chất, phần “no” sợ B52, chưa biết phút nào nó trải thảm trên đầu mình. Chúng tôi sống như đàn chuột chui rúc dưới hầm hố, trong rừng già u thẳm, chẳng có thú vui nào ngoài điếu thuốc, mà thuốc cũng thiếu. Mỗi tháng được cấp 5đ. Với số tiền đó, chúng tôi phải mua đủ thứ, nào kem đánh răng, bàn chải, xà-phòng, thuốc hút, hỏi sao đủ. Vì đời sống quá khổ cực như vậy, chúng tôi chỉ mong được tham dự trận đánh. Mỗi “nần” ra trận, mỗi “nần” chúng tôi quyết tâm: nếu chết, sẽ thoát khỏi đời sống quá gian khổ, khỏi phải ngửa tay cầm 5đ mỗi tháng, khỏi “no” sợ, hồi hộp, khỏi phải kiểm thảo mỗi đêm để xây dựng ý chí, đề phòng sự “chao đảo tư tưởng”, nản “nòng” của những người kém chịu đựng. Nếu thắng, chúng tôi sẽ được hết!
Tên y tá ngưng lại nhìn, như dò xét thái độ của tôi đối với quan niệm của hắn vừa phát biểu. Tôi cho rằng, hắn hơi chủ quan! Lúc này hắn đang ở cái thế thượng phong của người thắng trận, muốn nói sao cũng được. Tôi nói cho qua chuyện:
- Cán bộ thuộc ngành Quân Y đâu phải ra trận!
- Ai nói với anh như vậy? Ra quá đi chứ, vừa cứu thương vừa chiến đấu.
Toán lao động đã về. Những bước chân nặng nề, mệt mỏi kéo lê trên mặt đất. Tên y tá đứng dậy, xách túi thuốc đi, không nói thêm lời nào.
Lâm đến bên tôi hỏi:
- Cán bộ có đưa thuốc lại không?
- Hình như có, ông vào hỏi Giác xem?
Lâm đi vô nhà. Tôi lui cui tìm đồ đựng cơm vì bữa nay đến phiên trực. Từ trong nhà, tiếng Lâm vọng ra:
- Đắt quá, đắt quá! Chúng ta bị bóc lột rồi. Một vỉ Bévétine giá tới 50đ, trước đây chỉ 20đ là nhiều, lại còn cái này nữa, ối cha!
- Nè, ông Lâm, vách có tai đó. Ông nói vừa vừa chứ, chê đắt, khen rẻ, lần sau có ai ốm đau, nó bỏ chết đấy ông ạ!
Đúng là tiếng Mậu, có lẽ anh ta nói cạnh B. Trưởng, vì mọi sinh hoạt, tên cán bộ quản giáo đều biết, anh em nghi B. Trưởng đã báo cáo! Nhưng chẳng phải vì câu nói của Mậu mà Lâm bớt càu nhàu.
Bữa cơm trong Trại Cải Tạo lúc nào cũng vậy, nếu thỉnh thoảng có thay đổi cũng chỉ thêm tí thịt, tí cá! Trong những ngày tháng đầu, vấn đề ăn uống còn đỡ. Hơn nữa, họ còn tổ chức “căng tin” bán mì ăn liền, tương chao, thuốc lá, thuốc lào, xà-bông giặt v.v... Nếu ai có tiền, vẫn có thể sống ung dung, thoải mái! Nhưng số người mang theo nhiều tiền không bao nhiêu, vì phần đông tin vào chính sách 1 tháng theo Thông Cáo!
Hôm nay, Tổ tôi có nhiệm vụ đi lãnh thực phẩm cho C. Nơi lãnh thực phẩm, ngoài cổng chính, cách xa chỗ ở chừng trên 1 cây số. Chúng tôi kẻ mang quang gánh, kẻ đeo bị, lếch thếch kéo nhau đi. Trên đường, tôi gặp một người mang túi xách, ăn mặc sạch sẽ, bảnh bao, có vài người đi kế bên lăng xăng. Có quen một người trong số đó, tôi hỏi, chuyện gì vậy? Anh ta cho biết, bác sĩ Hoàng, con rể Luật sư Trịnh Đình Thảo được tha về. Đây, người cải tạo thứ nhất được tha, sau 2 tháng tập trung, chưa phải học tập chính trị ngày nào! Qua sự kiện ấy, có người lạc quan, có người bi quan. Những người lạc quan cho rằng, chẳng cần học tập, miễn mình có lý lịch tốt, ít nợ máu với nhân dân là về. Những người bi quan, nghĩ khác. Họ nói Bác sĩ Hoàng có gốc lớn, bố vợ là Trịnh Đình Thảo, sống ở Pháp nhiều năm, có ảnh hưởng nhiều đến chính giới Pháp, đã hoạt động tích cực để yểm trợ cho đường lối, chính sách của Cộng Sản nên mới được “chiếu cố” như vậy, chứ tụi mình, còn lâu!... ·.
Cuộc tranh luận kéo dài, chúng tôi đến địa điểm lúc nào không hay. Khi đến nơi, khu đất đã đông nghẹt người. Tôi gặp lại nhiều anh em quen, tù các khu khác. Chúng tôi quấn quít nói chuyện, hỏi thăm tin tức nhau. Tôi được biết Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, Thanh Tâm Tuyền và Phan Nhật Nam đang ở khu B. Anh em còn cho biết cách đây mấy hôm, có một Đại úy chết vì bịnh cấp tính. Tụi Việt Cộng đem chôn người xấu số ở bãi cỏ, sát mé rào! Vì tình chiến hữu, anh em góp tiền nhờ một tên bộ đội đi công tác Saigon, đến báo tin cho vợ con anh Đại Úy biết. Hôm nay, người vợ mang 2 đứa con lên thăm mộ chồng, nhưng tụi nó không cho vô. Câu chuyện vừa đến đây, có tiếng nạt nộ:
- Mấy anh kia, vào đây!
Tên bộ đội lăm lăm cầm súng tiến về phía chúng tôi. Tôi nhanh chân đứng khuất sau chiếc xe tải chở đầy rau. Tên bộ đội lùa mấy bạn tôi vô căn nhà nhỏ gần đấy, dùng lời lẽ nặng nề xỉ vả.
- Mấy anh đáng tội chết, Đảng và Nhà Nước đã khoan hồng cho sống, còn được học tập cải tạo “nại” ngoan cố, không nghe “nời”. Bảo đừng “niên” hệ vẫn “niên” hệ. Mấy anh bố “nếu” bố “náo”, bầy nhầy, giết không được, nuôi khó chịu! Mấy anh “nà” đồ “thiếu văn hóa”!
A, tôi chẳng hiểu, tên bộ đội quan niệm thế nào là văn hóa? Hạng người như chúng có văn hóa sao? Bỗng có tiếng gọi tên tôi lãnh rau. Tôi đi ra phía cổng.
Huy giúp tôi xếp đầy 2 thúng rau muống. Tôi xỏ đòn gánh vào, thử cho cân. Từ thuở nhỏ, đây là thứ nhất, tôi gánh nên không biết vai mình có chịu nổi sức nặng gánh rau chừng 40 ký?
Trong khi chờ đợi về, tôi nhìn ra ngoài. Chiếc cổng mở rộng, tên gác đeo súng trên vai đi đi, lại lại. đó, độ mười thước, một người đàn bà vận bộ đồ trắng, đầu quấn khắn tang, tay cầm bó cúc Vạn Thọ và bao nhang, tay dắt đứa con nhỏ chừng 5 tuổi, bên cạnh đứa lớn hơn, cả 2 đứa trẻ đều buộc khắn trắng ngang đầu. Tôi thấy cặp mắt người đàn bà đỏ hoe, sưng húp tương phản với sắc da xanh mét của khuôn mặt. Người đàn bà dắt con tiến đến gần tên lính gác. Hắn dừng chân, bỏ súng trên vai xuống, cầm ngang như đe dọa.
- Thưa anh, cho phép mẹ con tôi vô thăm mộ một chút.
- Không được, Trên không cho! Tôi đã nói nhiều “nần” rồi, chị về đi, để tôi “nàm” việc.
- Xin anh thông cảm với hoàn cảnh của mẹ con tôi.
- Không thông với cảm gì hết, chị về đi!
Giữa lúc đó, Mậu đến bên, nắm tay tôi.
- Ông ơi! muộn rồi!
Tôi đặt gánh rau lên vai, bước đi. Hình ảnh người đàn bà và 2 đứa trẻ thơ ẩn hiện trong đầu, gây cho tôi nỗi buồn man mác. Chúng tôi về đến nhà lúc gần trưa. Tôi cởi áo nhìn, hai vai đỏ au như thoa phẩm.
Bữa cơm trưa, chỉ có một tô canh lỏng le. Đi lãnh thực phẩm mệt gần chết, về nhà lại gặp bữa cơm như vậy, hết muốn ăn. Tôi hỏi Huy.
- Canh gì như nước muối vậy ông?
Huy nói giọng buồn rầu:
- Có một con gà chết nấu cho 180 người ăn. Tụi làm bếp chả biết sao hơn, cho vào chảo ninh nhừ rồi chà tan. Có thánh cũng không chia nổi một con gà chừng 1.5 ký thành 180 miếng! Thế hồi hôm lúc ngồi chơi ở sân, ông không trông thấy tên “cối”, đeo một xâu gà trên ghi-đông sao?
- Tôi đâu để ý!
- Chắc đi xa quá, gà chịu không nổi, chết cha nó mấy con. Chúng nó thẩy cho tụi mình, mỗi C một con gà chết, lấy đồ tươi của tụi mình thế vào. Chơi cha không?
- Ai bảo buông súng? - Tôi nói mỉa mai!
Buổi trưa không ai ngủ được vì tiếng cãi nhau om sòm về chia chác thực phẩm. Vấn đề cân, đo, đong, đếm chưa bao giờ được anh em chú ý như vậy. Người chê non, kẻ chê già, người bảo ngon, người bảo không. Tiếng ồn ào như cái chợ nhỏ. Nhưng việc gì rồi cũng xong, dù xong bằng vui vẻ hay ấm ức!
Cơn mưa buổi chiều báo hiệu bằng một đám mây đen đang lởn vởn trên vòm trời. Hơi gió thổi dìu dịu đột nhiên cất mạnh làm rùng mình, thế là cơn mưa bắt đầu. Những hạt nước rơi xuống thưa thớt, dần dà dày đặc đổ xiên theo chiều gió. Tiếng sấm nổ âm vang sau mỗi lằn chớp sáng ngời. Từ trong nhà, tôi chạy nhanh ra sân đứng dưới giọt gianh. Nước mưa thấm vào da thịt làm tỉnh táo. Cơn mệt mỏi tan đi nhanh chóng. Dòng nước chảy xối xả, tôi mở nắp các thùng đạn hứng nước. Giặt giũ quần áo, bộ đồ thấm ướt mồ hôi khi sáng, xong tôi chà xà-bông khắp người, kỳ cọ cho trôi hết bụi đất đỏ. Tiếng nói cười thoải mái. Nhiều người tắm truồng, chắc họ nghĩ, đây thuộc thế giới đàn ông! Từ ngoài rào, có tiếng la qua mưa:
- Ai cho các anh tắm truồng? Mặc quần vào ngay!
Tên lính gác trùm kín áo mưa, nhòm vào, sắc mặt cau có. Mấy người chạy nhanh vô nhà như ánh chớp!
Thường thường mỗi tối có sinh hoạt sau khi B. Trưởng đi hội về. Các tin tức được phổ biến, không ngoài công tác lao động ngày mai. Nhưng chẳng hiểu sao, không khí buổi sinh hoạt tối nay có cái gì khang khác. Như thông lệ trước khi chấm dứt, B. Trưởng hỏi:
- Sau đây, anh em, ai có ý kiến gì không?
Một phút trôi qua, căn nhà im phăng phắc. Tôi thấy đôi môi B. Trưởng mấp máy, như định nói câu “buổi sinh hoạt chấm dứt”, bỗng có cánh tay giơ cao:
- Tôi, tôi có ý kiến!
Anh em quay về phía cánh tay xem ai? A, Chính thuộc Tổ 3. Anh vốn tính lầm lì, ít nói. Da ngăm đen, thân hình gân guốc. Anh thuộc binh chủng Biệt Động Quân.
- Xin mời! - B. Trưởng nghiêng mình về phía Chính.
- Tôi có vài điều thắc mắc, để mãi trong bụng không đành, nên phải nói ra. Thưa B. Trưởng, anh hãy trả lời trước anh em những câu hỏi sau:
1/ Vì sao tất cả những câu chuyện anh em nói chơi với nhau tại căn nhà này, cán bộ lại biết?
2/ Tại sao anh không đi lao động với anh em?
3/ Tại sao anh lợi dụng lúc anh em đi lao động, ở nhà anh lấy trứng, mỡ, bột ngọt thuộc khẩu phần chung để dùng riêng?
Tiếng nói gãy gọn khúc chiết, như được nghiền ngẫm từ lâu. Mỗi lời nói như một nhát búa chắc nịch. Dưới ánh đèn dù không đủ sáng, tôi cũng nhìn thấy da mặt B. Trưởng tái ngắt. Tuy nhiên, anh cố lấy giọng bình tĩnh:
- Tôi xin trả lời từng điểm một:
1/ Vấn đề cán bộ biết mọi sinh hoạt của anh em là do tôi. Nhiệm vụ của B. Trưởng, phải báo cáo mọi sự việc xảy ra trong nhà cho cán bộ quản giáo..
2/ Tôi không đi lao động vì chức vụ của tôi được miễn.
3/Anh có bằng cớ gì, cho rằng tôi lấy khẩu phần của anh em để dùng riêng? Xin nêu ra!
Đột nhiên, Chính đứng dậy. Hai tay nắm chặt như có ý tấn công B. Trưởng. Anh dằn giọng:
- Đồ khốn nạn! Tất cả những gì tao nói đều có chứng cớ. Tao đánh vỡ mặt mày bây giờ!
B. Trưởng ngồi im nhếch mếp cười:
- Anh có muốn về sống với vợ con không? Nếu anh tình nguyện bỏ xác ở đây, cứ việc đánh!
Không hiểu câu nói có mãnh lực gì mà trước đây một phút, Chính hung hăng là thế, tự nhiên xìu đi, tiu nghỉu ngồi xuống, chẳng nói thêm câu nào! Tôi thầm phục B. Trưởng đã cao tay, đánh ngọn đòn gió mà hạ đối phương ngã gục! Buổi sinh hoạt tan với những lời thì thào to nhỏ. Mọi người cảm thấy còn có cái gì vướng vất trong tâm tư, như chiếc nhọt mưng mủ, chưa vỡ!
Tối nay, tôi muốn được ngồi một mình, nhìn về vùng ánh sáng phía xa để suy tưởng. Đã hơn 2 tháng trôi qua, hơn 60 ngày sống mất tự do, sống trong lo âu, hồi hộp mỗi đêm nằm xuống. Tất cả những tính toán đã sai lầm. Tôi như con thú mắc bẫy, cứ quanh quẩn giữa những mắt lưới dày đặc. Cuộc thua trận bất ngờ, vô tư nhận xét, mỗi người dân Miền Nam, ít nhiều gì cũng có phần trách nhiệm. Chúng ta đã xử dụng tụ do như xử dụng trò chơi đu bay. Cuộc nhào lộn tuy đẹp mắt thật đấy, nhưng nào ai có thể biết trước được bất ngờ! Chỉ một cái nháy mắt, chỉ một ly sai lầm, dự ước có thể gây nên đổ vỡ, tang tóc! Nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về lãnh đạo. Lời phát biểu của tên y tá Việt Cộng bỗng nhiên vang dội trong đầu. Sự nhận xét đơn giản của hắn không phải hoàn toàn vô căn cứ. Nó cũng có cơ sở của nó! Trên một trận tuyến dài cả ngàn cây số, mỗi giờ, mỗi phút đều có chiến sĩ hy sinh, hay mang thương tích, trong khi đó, tại thủ đô cũng như các đô thị lớn, ngày đêm vẫn quay theo nhịp sống riêng rẽ, coi như cuộc chiến không thuộc về mình. Lúc này, tôi ngồi đây, giữa không khí oán thù, không phải để trách cứ, đổ lỗi, mà chính để tự mình nói lên lời sám hối!
Đã nhiều lần, tôi tiễn đưa các chiến hữu đến nơi ở cuối cùng, tại Nghĩa Trang Quân Đội. Những nấm mồ, chạy dài, thẳng tắp, ngang dọc, giữa một khu đất rộng rinh bao quanh bởi những ngọn đồi cao thấp, nhấp nhô như sóng biển.
Tôi đã được thấy những xác chết hôi thối, không còn ra hình thù con người, bầy nhầy bọc trong túi nylon. Tôi cũng đã nhỏ lệ và chứng kiến bao nhiêu cảnh khóc than, vật vã trước những chiếc quan tai phủ lá Quốc Kỳ với vòng hoa cườm có ghi hàng chữ: Tổ Quốc Ghi Ơn! Ôi, Tổ Quốc, một danh từ vừa thiêng liêng vừa trừu tượng, nó được biểu hiện ở trong mỗi con người tuy theo mức độ và trình độ hiểu biết về danh từ đó.
Tôi ngồi đây, trong vùng tăm tối này, hoàn toàn cách biệt với đời sống bên ngoài, cách biệt như hai thế giới, để suy nghĩ, dù biết rằng mọi suy nghĩ đều vô ích trước thực tế.
Có tiếng huýt gió từ đâu vẳng lại. Tiếng huýt gió run rẩy, lãng đãng trôi vào không gian thăm thẳm. Tai tôi đã được nghe nhiều âm thanh, nhưng chưa một lần tôi nghe tiếng huýt gió não nề như vậy. Tôi đoán, người đang rót vào tai tôi những âm thanh quyến rủ đó, chắc cũng có một tâm sự bi đát. Âm điệu lê thê, nghẹn ngào, có lúc nức nở như tiếng khóc không thành tiếng. Nó ray rứt, tiếc nuối một cái gì quá đẹp đã vuột khỏi tầm tay!
Tôi đứng dậy, lần tìm đến nơi phát ra thanh âm.
Trên gộc củi, một bóng nguời, hai tay khoanh gối, đang ngước mắt nhìn trời, vòm trời đầy sao. Tiếng huýt gió ngân dài rồi lịm dần vào tăm tối.
- Ông đi đâu, chưa ngủ sao?
- Ai đó?
- Minh đây!
- À, Minh, ông huýt gió hay quá vậy? Sao tối nay tôi mới được nghe!
- Buồn ghê ông ơi! Chưa buồn ngủ, ngồi nhớ nhà nên huýt gió tầm bậy cho vui.
- Ô, vui! Ông nói lạ vậy? Tôi nghe buồn đứt ruột!
Qua bóng tối, tôi nhìn thấy hàm răng Minh trắng ởn. Anh cười không ra tiếng. Minh vốn ốm yếu, bị đau phổi. Anh người miền Trung, cùng ngành với tôi, tuy không cùng Quân Khu. Tôi kiếm khúc củi ngồi xuống cạnh Minh. Chúng tôi ôn lại vài ba kỷ niệm lúc trước, nhưng sau cùng, vẫn trở về hiện tại, với những thắc mắc, lo âu có đấy.
- Ai ngồi đây?
Chúng tôi giật mình quay lại. Tên bộ đội vũ trang đã đứng sau lưng từ lúc nào. Hắn đi dép lốp nên không gây tiếng động. Tôi nhanh nhẹn trả lời:
- Dạ, chúng tôi ở B-30, nóng quá, chưa ngủ được!
- Đi vào ngay! - Tên bộ đội ra lệnh gay gắt.
Tôi vội kéo Minh đứng đậy đi vô. Căn nhà đã tắt đèn, tối như vực thẳm.
° ° °
Đi lao động về, tôi cởi quần áo nằm nghỉ mệt, bỗng Trần Mộng Chu và Đổ Trọng Huề ghé thăm. Chu, nhà luật pháp kiêm nhà giáo, nhà thơ. Huề, nhà biên khảo, cả 2 đều “Bò Lục” [Bò Lục = Đại Tá. Danh từ này, anh em dùng để hiểu riêng với nhau, vì Việt Cộng không cho gọi qua cấp bậc cũ].
Chu nói:
- Ông này, tôi mới làm được mấy bài thơ, lúc nào rảnh, đọc ông nghe.
- Sống trong hoàn cảnh này, ông còn làm thơ được sao?
-Việc đời kệ nó chứ? Thơ của ta mà!
- Sao, ông Huề, có tin tức gì mới không? - Tôi quay về phía Huề hỏi.
Cặp mắt Huề long lanh:
- Tên cán bộ quản giáo khu tôi cho biết sắp học tập chính trị đó!
- Thật sao? Tôi đã nghe tin đó cả chục lần rồi! Khó tin quá!
Huề chưa kịp trả lời, Chu đã kéo tay Huề đứng dậy đi ra, vì tiếng kẻng khua vang, báo giờ cơm!
Tin sắp có học tập chính trị được loan ra nhanh chóng như dòng điện. Moi người đều phấn khởi. Không khí trong nhà thay đổi hẳn.
- Này B. Trưởng, anh dò hỏi cán bộ quản giáo xem sao?
Nhân dịp này, B Truởng làm le với anh em, sắc mặt lanh lùng, ra điều quan trọng.
Vừa lúc ấy, tên quản giáo đi vô. Mọi người đều im. Ai cũng hy vọng hắn sẽ nói về vấn đề học tập chính trị! Nhưng không, hắn bảo B. Trưởng:
- Tối nay, Trại lại tổ chức chiếu phim. Đúng 6 giờ chiều, cho mọi người tập họp đi xem.
Khác với mọi lần, hắn ngồi xuống mép ván. Một vài người sán lại gần, gợi chuyện, men lần đến việc học tập.
- Các anh cứ an tâm. Chính sách của Đảng và Nhà Nước “trước sau như một”. Sớm muộn gì cũng học thôi!
Nghe câu trả lời, thấy nản qua, anh em lãng dần.
Tên quản giáo nói nhỏ chuyện gì đó với B. Trưởng, rồi đi ra.
- Cho xem phim thì được, chứ bắt làm “thu hoạch”, ngán bỏ mẹ! Chán ghê, chán ghê!
Mậu vừa nói vừa ngáp.
Quanh quẩn đã đến giờ lao động chiều. Dưới ánh nắng đổ lửa, từ trong bóng mát nhìn ra thấy chán nản. Nhưng dù muốn, dù không, mọi người vẫn phải đi, tuy lao động nơi đây chỉ là công việc tạp dịch, linh tinh.
Dưới sức nóng, mồ hồi tôi vã ra như tắm, dù chưa lao động. Chiếc mũ vải như bị hơ trên lò lửa, ôm chặt lấy khuôn đầu, làm tôi cảm thấy nhức nhối! Chiều nay, Tổ tôi được phân công phụ trách làm cỏ hai bên lộ đá, ngay trước căn nhà quản giáo. Tổ di chuyển ra phía cổng. Mọi người dừng lại, để Tổ Trưởng báo cáo số người cho tên lính gác. Nó gật đầu cho đi. Chúng tôi đi từng bước uể oải đến nơi làm việc. Từng nhát cuốc nặng nề bổ xuống tung bụi đất mà cỏ không đứt rễ. Loại cỏ củ ấu mọc chắc lắm, rễ ăn rất sâu, cuốc lơ mơ không sao bứng lên được. Mười người làm suốt buổi chiều, không cuốc xong đoạn đường dài khoảng 20 thước. Những tên bộ đội qua lại, thấy chúng tôi làm việc lơ mơ cũng chẳng nói gì. Cuốc vài nhát, lại chống cuốc nhìn trời, tán láo.
Nhưng rồi việc gì cũng qua đi, tiếng kẻng tan tầm, làm ai nấy vui mừng, tập họp đi về. Cũng như lúc đi, khi về chúng tôi cũng phải dừng lại nơi trạm gác để Tổ Trưởng báo cáo.
Vừa về đến nhà, mọi người đổ xô đi tắm. Mỗi người, tay xách một thùng đạn dội ào ào. Tắm xong, mặc quần áo khác, bộ đồ lao động để vào một nơi, chờ mai dùng lại.
Cơm nước xong, anh em ngồi tụ tập mỗi nhóm dăm ba người chờ giờ đi coi phim. Tôi sực nhớ bữa nay, thứ Bẩy. Những tháng trước, vào ngày giờ này, Saigon vui lắm. Các đại lộ tràn ngập xe cộ, mầu sắc. Biết bao nhiêu dung nhan kiều diễm diễn hành trên các vỉa hè Lê Lợi, Tự Do? Có bao nhiêu hò hẹn vào mỗi dịp cuối tuần? Thành phố như đẹp hẳn lên trước sức sống tràn trề quá dư thừa vật chất. Nay cũng chiều thứ Bẩy, chúng tôi ngồi đây, áo quần nhầu nát, chờ xem phim bố thí.
Anh em tập họp. Tiếng B. Trưởng từ trong nhà vọng ra. Chúng tôi đứng hàng ba. Lần này không có tên cán bộ quản giáo dẫn đi, B. Trưởng thay thế. Chúng tôi đến địa điểm cũ. Tên quản giáo chờ sẵn đó, chỉ cho chỗ ngồi. Vẫn ngần ấy phong cảnh. Anh em có vẻ nản, nhưng bắt buộc phải tham dự. Nếu có thể nại cớ ở nhà được, tôi chắc sẽ ở lại phân nửa. Nhưng có điều anh em yên tâm, vì không nghe nói tới vấn đề “thu hoạch”. Trời vừa đổ tối, tiếng nói từ loa phóng thanh oang oang:
- Ban Chỉ Huy Trại, tối nay hân hạnh chiếu hai cuốn phim. Một cuốn thời sự nội dung hướng về “ngày lễ Đại Thắng của Quân Đội Cách Mạng”. Cuốn thứ hai, phim thần thoại của Liên Xô mang tựa đề “Trẻ Mãi Không Già”, nhằm mục đích để giải trí cho các cấp cán bộ và để cho các anh cải tạo có dịp học tập!
Màn ảnh sáng rực. Hình ảnh cuốn phim thời sự hiện lên cùng những lời giải thích. Hàng đoàn T54 tiến vào thành phố Saigon với lớp lớp bộ đội cầm AK, B40 chạy lúp xúp theo sau ở hai bên lề phố. Cổng Dinh Độc Lập bị chiếc T54 ủi đổ nghiêng. Lá cờ giải phóng bay cao trên nóc Dinh. Cảnh dân chúng Saigon nô nức xem “quân Giải Phóng”. Cảnh Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch nhà nước và Bộ Chính Trị Đảng đứng trên lễ đài, tràn ngập cờ sao. Không muốn nhìn mãi cảnh đau lòng, tôi nhắm mắt lại, nhưng tiếng nói dẫn giải vẫn vang vang trong đầu. Mỗi hình ảnh, mỗi tiếng nói, như một mũi nhọn cắm sâu vào tự ái, dù hôm nay, tôi đã thuộc thành phần thua trận và đang bị giam cầm dưới hình thức học tập cải tạo.
Từ lúc ấy, tôi không xem phim nữa, quay mặt nhìn nơi khác, hoặc gục đầu xuống gối. Trong tôi, dâng lên sự uất ức khó tả. Hai dòng lệ trào ra tự lúc nào. Vì quá đông, nên không ai để ý. Cứ thế tôi suy nghĩ một mình, dù xung quanh có đông đảo anh em cùng chung cảnh ngộ.
Tiếng vỗ tay rào rào. Mọi người đứng dậy, tôi làm theo. Có tiếng nói thì thào bên tai:
- Phim dở ẹc, thua đế quốc xa. Có mỗi đoạn hay và đúng, đó là cảnh “Vương Quốc Nói Dối”!
Tôi đoán, chắc anh em nói về cuốn phim “Trẻ Mãi Không Già!”. Vì không xem, nên tôi chẳng có ý kiến.
Con đường trở về cũng y như đêm trước. Chúng tôi đến nhà khoảng 9 g 30 tối.
- Đúng, “Vương Quốc Nói Dối”! Hay, hay thật!
Mậu vừa nói vừa cười, hỏi:
- Ông có đồng ý với tôi không?
Tôi trả lời rằng vì nhức đầu quá nên không coi.
- Uổng, uổng quá ông ơi! Như vậy, ông không được nhìn thấy “Vương Quốc Nói Dối” rồi! Nhưng nó cũng xêm xêm như đây vậy.
Tôi biết tính Mậu vốn thẳng thắn, muốn gì cứ nói, mặc kệ hậu quả.
- Sao, B. Trưởng, có phải làm thu hoạch không?
- Không.
Tiếng vỗ tay đôm đốp tỏ vẻ khoái chí.
- Đù mẹ, nếu phải làm, đếch biết viết ra sao?
Lần thứ nhất tôi nghe thấy tiếng Hoài (Phi Đoàn Trưởng, Phi Đoàn F5, đã từng làm mưa, làm gió trên vùng trời vĩ tuyến Gio Linh - Bến Hải). Anh cao lớn, nhưng tính nết lại hiền hoà như con gái. Hôm trước, trong lúc nói chuyện vui, tôi hỏi, sao khộng vọt? Anh cho biết, vì không có tàu, vả lại, cũng chẳng thích Mỹ, vì Mỹ đã đâm sau lưng Đồng Minh.
- Thôi, thà nhục với kẻ thù, còn hơn phải đối diện với người bạn phản bội!...
Những chiếc mùng đã buông kín. Vài người không quen ngủ sớm, ngồi hút thuốc lào vặt, nhỏ to tâm sự.
Tôi nằm, mắt vẫn mở chong chong. Tuy không muốn nghĩ, nhưng sao tâm trí tôi vẫn quẩn quanh, chập chờn từng hình ảnh của cuốn phim thời sự. Tôi nghĩ đến bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu hy sinh trong mấy chục năm, chỉ có 58 ngày đêm đã tan vào ảo ảnh! Sự tan rã bất ngờ của một Quân Đội với cả guồng máy tổ chức khoa học và hiện đại nhất trong vùng Đông Nam Á. Quân Đội Miền Nam không thiếu những đơn vị cũng như cá nhân dũng cảm. Chỉ vì một qụyết định lỡ lầm của vài người, làm cả Miền Nam sụp đổ. Sự thật, không phải Miền Nam có tiềm năng dồi dào, có tinh thần cao, có ý chí chiến đấu để khuất phục đối phương một khi người Mỹ đã bỏ Miền Nam, nhưng muốn đánh ngã nó, Việt Cộng, cũng không dễ dàng chiến thắng như vậy! Sự chiến thắng của Việt Cộng hoàn toàn do ngẩu nhiên vì Quân Đội Miền Nam không chấp nhận giao tranh, ngoài mấy trận như Phan Rang, Xuân Lộc. Riêng mặt trận Xuân Lộc, Việt Cộng đã dùng 3 Sư Đoàn thiện chiến nhất định đè bẹp quân Dù và Sư Đoàn 18 cùng các đơn vị phụ thuộc có trách nhiệm cản đường tiến quân của Cộng Sản vô thẳng Saigon. Nhưng chúng đã thất bại, thiệt hại rất nhiều quân số sau mấy ngày đêm giao tranh. Cuối cùng, chúng phải đi vòng, băng qua Đồng Nai để tiến chiếm sân bay Biên Hòa và thọc sâu nữa!... Hình ảnh những chiến sĩ Dù đứng oai nghiêm, theo lệnh của vị sĩ quan chỉ huy, từ từ bỏ mũ, hạ súng, cởi quân phục đầu hàng, đến bây giờ còn làm tôi xúc động! Có người ôm mặt khóc. Có người mắt quắc lên, nghiến răng như uất hận. Một tiếng súng nổ dòn, ngắn. Một thân hình đổ xuống. Bộ đồ hoa ôm gọn xác người sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi.
Ôi! các Thiên Thần Mũ Đỏ, trong mấy chục năm chinh chiến, các anh đã tung hoành, đã giáng cho địch những đòn chí tử, trên khắp các mặt trận quê hương. Các anh đã đem xương máu của tuổi thanh niên để gìn giữ từng thước đất Tổ Quốc. Binh chủng Nhẩy Dù, binh chủng thiện chiến nhất, dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng hôm nay, không hiểu vì lý do nào, khi tác chiến, giữa những giờ phút cam go nhất của lịch sử, các anh lại mang quần áo dân sự bên trong bộ đồ hoa tác chiến? Như vậy, cái lý do vì sao Miền Nam thua trận đã rõ!.
Tôi không được chứng kiến sự tan rã của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến trong trận chiến cuối cùng, một binh chủng cũng mang nhiều thành tích oai hùng, tuy tuổi chinh chiến chưa được bao nhiêu, nhưng tôi chắc nó cũng thê thảm không kém! Và còn nhiều đơn vị khác, mỗi đơn vị đều có thành tích riêng, bỗng nhiên sống lại trong tôi như bức bích họa vĩ đại, hoen ố đầy máu và nước mắt!....
Xung quanh đã có tiếng ngáy đều đều, xen kẽ tiếng thở dài nhè nhẹ. Tôi biết có người chưa ngủ được. Một đốm lửa loé lên. Tiếng rít thuốc lào trong đêm khuya như lời rên ngắn ngủi!
Thời gian trôi rất chậm. Tôi cố nhắm mắt đi vào giấc ngủ nặng nề, mệt mỏi!...
Khi thức giấc, ánh nắng đã lên cao. Hôm nay chủ nhật, không lao động. Những người dậy sớm đã ăn sáng xong xuôi, đang ngồi uống nước, hút thuốc.
Từ ngoài đi vào, Phát nhìn tôi cười:
- Ông ngủ say ghê! Tối qua chắc mệt, ông lại mơ, hét vang nhà. Tôi lay, ông cũng không tỉnh. Cẩn thận, đau ốm ở đây khổ lắm đó!
- Ừ, đêm qua nhức đầu quá, từ lúc xem Ciné cơ mà!
Tôi đứng dậy cuốn mùng mền rồi kéo điếu thuốc lào. Điếu thuốc sáng nay, mới rít được nửa hơi, đã ho sặc sụa. Tôi biết, đêm qua mất ngủ, trong người mệt, phản ứng có thể làm cho ho. Điếu thuốc buổi sáng nay không có chút hiệu năng nào để gây cơn say thường lệ. Các khớp xuơng đau nhừ. Cũng như mọi chủ nhật, anh em ở các khu đi thăm nhau, vì không ở chung chỗ. Trên con lộ đất nhiều người qua lại, căn nhà tôi ở vui nhộn tiếng nói cười. Tôi nhìn, người nào cũng tươm tất, mày râu nhẵn nhụi. Tất cả những khuôn mặt hiện diện trong vòng đai doanh trại nay, đều đã nắm những chức vụ khá quan trọng trong guồng máy chiến tranh trước đây. Họ tuy không có quyền quyết định tuyệt đối, nhưng sự thắng bại phần lớn đều do họ. Họ là Trung Đoàn Trưởng, Thiết Đoàn Trưởng, Phi Đoàn Trưởng, Hạm Trưởng, các Trưởng khối, Trưởng phòng, Giám đốc, Phó Giám đốc, Phụ Tá v.v... Nhưng hôm nay, đều hiền lành và có vẻ nhẫn nhục, cam chịu những gì định mệnh đã đành cho họ trong hiện tại cũng như tương lai. Nói vậy, không có nghĩa tôi đã nhìn thấu suốt tâm can họ, nhưng qua câu chuyện và thái độ, đã cho tôi nhận định một cách rõ ràng, mọi người đều cố gắng tỏ ra mình vô tội, không có nợ máu với nhân dân, để có thể sớm được tha về như trường hợp Bác sĩ Hoàng, con rể Trịnh Đình Thảo. Hình như họ không mong muốn gì hơn,! Tất cả những vinh quang của chiến trường khi trước, họ muốn nhận chìm xuống, càng sâu càng tốt để che giấu thực chất của quá trình bản thân.
Sự bốc đồng, ăn to nói lớn của Mậu hay của ai nữa, cũng chỉ để che giấu sự lo sợ thầm kín của mình trước viễn ảnh không mấy rực rỡ. Sự thực này cũng đơn giản thôi, vì bây giờ họ chẳng còn gì ở phía trước, cũng như phía sau, thực tế làm họ mất tin tưởng. Do đó, họ chỉ còn trông mong vào sự khôn ngoan của chính mình để vượt thoát được những khó khăn do hoàn cảnh đẩy tới.
Sau bữa cơm trưa ăn vội vã, tôi lăn ra ngủ, giấc ngủ bù đêm qua.
- Này, đậy đi chứ! Ngủ kiểu này, tối ông lại thức, hút thuốc sòng sọc, ai ngủ được?
Phát đánh thức tôi. Tôi vặn người qua lại mấy lần, trước khi ngồi lên. Nhìn ra ngoài, bóng mát đã ngả dài gần tới luống khoai. Hàng chục người đứng lố nhố, kẻ cầm xẻng, người cầm cuốc. B. Trưởng đứng gần đấy, đang giơ tay chỉ chỏ vào các luống khoai. Những nhát cuốc vung lên, lấp lánh dưới ánh nắng. A, luống khoai được dỡ. Tôi thầm nghĩ, khoai hãy con non quá, mới trên 2 tháng làm sao thu hoạch? Tôi đứng lên, đi ra ngoài, đến bên luống khoai. Sở dĩ, tôi chú ý đến nó, vì tôi có đóng góp công sức lao động trong ngày đầu. Nhũng củ khoai nhờn nhợt bé bằng ngón tay được moi lên dần dần, có vài củ to bằng cườm tay đứa trẻ. Tôi chẳng hiểu vì lý do nào và ai đề xuất việc dỡ luống khoai, thực tế không phải vì đói. Sau chừng hơn 1 tiếng đồng hồ đào bới, số lượng khoai thu được chừng một rổ nhỏ, nếu chia đều cho 30 người chưa chắc đã đủ. B. Trưởng đang nhìn đống khoai, bỗng sửng sốt khi chợt thấy một tên Việt Cộng to lớn, người chắc nịch, sắc mặt hầm hầm, đứng bên cạnh từ lúc nào.
- Ai cho các anh dỡ khoai? Các anh xin phép chưa?
B. Trưởng mặt nghệt ra như đứa bé con bị bắt quả tang ăn vụng.
- Dạ, thưa cán bộ, chúng tôi dỡ đi, trồng mì!
- A, anh nói dễ nghe nhỉ? Tôi nói cho các anh biết, tất cả những gì ở Trại này đều thuộc nhà nước Cách Mạng quản “ný”, từ ngọn rau “ná” cỏ, các anh biết chưa? Nếu các anh có “nao” động “nàm nuống” khoai, bãi sắn thì cũng thuộc về tài sản của Trại! Ai nuôi các anh ở đây? Các anh sống nhờ cơm gạo của ai?
Mọi người đều đứng ngay như khúc gỗ. Nói một hơi, chắc hả cơn giận, tên Việt Cộng xuống giọng:
- “Nần” này tôi tha,”nần” sau muốn gì phải xin phép, hiểu chưa? Hãy “nàm nại” các “nuống” khoai như trước.
Nói xong, nó bỏ đi. Những nhát cuốc lại vung lên. Các luống khoai lại thành hình. Dây khoai được vùi xuống vội vàng.
- Đù mẹ, có mấy củ khoai như cu trẻ con thế nay mà bị nhục, chả bõ!
- Ông rắc rối lắm! Khi chưa dỡ, ông là người hăng hái nhất, sao lúc này xìu vậy?
Tôi chán không muốn nhìn và nghe ai cãi với ai, quay nhanh vào, kiếm nước tắm. Tôi cầm thùng nào lên cũng nhẹ hẫng. Tôi biết, trong lúc ngủ, ai đó đã đỡ nhẹ để tắm trước. Câu chuyện lấy nước lén của nhau trở thành vấn đề thời sự! Ngày nào cũng có cãi lộn và chửi bới tục tằn về chuyện nước. Đứng trước việc đã rồi, tôi tự nhủ, mai tắm cũng chưa chết.
Ánh nắng đã tắt. Toàn thể cảnh vật xung quanh Trại đượm sắc thái thanh bình. Ngọn đồi trước mặt vì hàng cây thưa, chiều nay có đám khói trắng bốc cao. Làn khói bay xiên xiên theo hướng gió. Tôi nhìn, nhìn đăm đăm, để tưởng nhớ đến nhiều buổi chiều dĩ vãng, tôi cũng đã nhìn, trên đường đi công tác tại những vùng núi rừng Dalat hoặc Pleiku cùng nhiều nơi khác, khắp giải quê nhà. Buổi chiều miệt Long Giao, xung quanh, rừng cao su xanh ngắt. Một đàn vạc ăn đêm, xoải cánh phía xa nhịp nhàng. Vài ngôi sao lấp lánh trên vòm trời thăm thẳm màu nhung. Cảnh vật có đó, vẫn cảnh vật quen thuộc từ xưa, sao lòng người không hòa chung một nhịp? Cảnh vật và con người đôi khi cũng trở thành xa lạ, chẳng có chút liên hệ nào trong thực tại. Buổi chiều nay, tôi ngồi đây, nhìn cảnh vật này, tôi nhận biết có nó và tôi, nhưng không có sự liên hệ nào ngoài hình thể cũng như màu sắc. Cũng chỉ ít phút nữa thôi, bóng tối sẽ xóa nhòa tất cả. Tới lúc đó, giữa nó và tôi hoàn toàn cách biệt. Nếu có nghĩ tới, cũng chỉ là nghĩ tới sự bủa vây, cầm giữ, giữa một chu vi hạn hẹp, kìm chế Tự do!
Có tiếng gọi, tôi quay nhìn, thấy Phạm Văn Sơn.
Tôi hỏi:.
- Sao, nhà viết sử, có gì lạ không?
- Tụi Cộng Sản phi nhân thực ông ạ! Ông Đại Tá Cẩm bị bệnh trĩ mãn tính, nằm đâu ỉa đái đấy, khổ quá!
- Ai dọn?
- Còn ai nữa. Tôi phải rửa ráy, giặt giũ hết. Chiều nay, tôi vừa chửi tụi Cộng Sản một mách. Tôi nói thẳng cho tên cán bộ biết, Hà-nội ăn cắp tài liệu của tôi để viết sử. Nếu không ăn cắp, sao không ghi chú, trích dẫn ở đâu? Tên cán bộ cãi lại, cho rằng tôi vu khống, không bao giờ Hà-nội chịu làm công việc đó. Giận quá, tôi nói: “Anh không phải thành phần nói chuyện với tôi. Người có thể nói chuyện với tôi là cấp lãnh đạo của anh như Trường Chinh, Xuân Thủy chẳng hạn!”. Tên cán bộ nghe vậy, dằn giọng: “Nếu ngược lại, người nói câu vừa rồi là tôi, chắc anh đã cho cái tát rồi. Nhưng anh đã già, tôi không nỡ!” Nói xong, hắn đi cái một.
Sơn, con người tương đối dám nói thẳng. Anh đi học tập cải tạo cùng 3 con trai và 1 con dâu. Một gia đình có tới 5 người đi cải tạo, quả hy hữu. Chúng tôi ngồi ngoài sân tâm sự tới giờ ngủ. Sơn, vị “Bò Lục” duy nhất đã khẳng định, chúng ta bị đánh lừa, việc học tập cải tạo này chỉ là hình thức giam cầm vô hạn định!.
Hôm nay chúng tôi được lệnh nghỉ lao động. Mọi người thắc mắc không hiểu có chuyện gì. Vào khoảng 9 giờ sáng, tên cán bộ quản giáo lê đôi dép lốp đi vô cùng một tên nữa trông lạ hoắc. Tên mới đến trông thật quê mùa, nhưng loại quê mùa có chức sắc. Mặt hắn xương xương. Cặp mắt thao láo như soi mói mỗi khi nhìn. Cặp môi vều ra như 2 miếng thịt trâu. Hàng răng hô, màu xỉn xỉn. Chân tay thô kệch, nghêu ngao. Chiếc nón cối đã cũ mèm, bạc phếch. Áo quần xô lệch như mọi tên bộ đội khác.
Chúng tôi đứng ngay ngắn, chờ đợi. Tên quản giáo, đi đến giữa nhà dừng lại nói:
- Xin giới thiệu với các anh, đây “nà” cán bộ giáo dục, do Trên “điều” xuống để giúp đỡ các anh trong vấn đề học tập nay mai.
Tiếng vỗ tay rào rào. Trên nét mặt mọi người đều lộ vẻ hoan hỉ vì những gì anh em thắc mắc, chờ đợi nay đã đến. Tên cán bộ giáo dục, lấy vẻ nghiêm trang:
- Trên “điều” tôi xuống để sinh hoạt, giúp đỡ các anh trong vấn đề học tập sắp được tổ chức. Các anh “nà” những người có tội với Cách Mạng, với nhân dân. Các anh cần được giáo dục để nhận định đúng tội “nỗi” của mình trong quá trình hoạt động, từ đó chấp hành đứng đắn những gì Cách Mạng đòi hỏi. Tôi mong, với sự giúp đỡ của tôi, các anh sẽ dễ dàng đạt được mục đích yêu cầu của Trên.
Giọng nói nghe nằng nặng, có lẽ hắn thuộc gốc gác miệt Thái Bình. Sau khi nghe câu đó, nét mặt mọi người không còn hoan hỉ nữa, chảy dài, nặng chĩu lo âu!
Nói xong, hai tên cùng đi ra. B. Trưởng tiễn họ tới sân. Tên cán bộ giáo dục nói với B. Trưởng những gì anh em không ai nghe rõ. Lúc trở vào, B. Trưởng nói:
- 2 giờ chiều nay, tôi sẽ đi hội trên Tiểu Đoàn, chưa biết chuyện gì!
A, từ trước đến nay, nào ai có nghe nói tới việc hội trên Tiểu Đoàn. Nay vấn đề lên hội trên Tiểu Đoàn chắc phải quan trọng. Không còn ai nghi ngờ, vấn đề học tập chính trị đã tới, như vậy, ngày được trả tự do cũng không xa gì! Nếu có chậm trễ, chẳng qua do Cách Mạng nhiều việc quá, trong những ngày đầu thành công. Chính sách của Đảng và Cách Mạng trước sau như một mà!
Mậu lại gần tôi nói nhỏ:
- Ông ạ, mình nghĩ bậy cho Cách Mạng, mình nghi ngờ cho Cách Mạng là “Vương Quốc Nói Dối”, quả thực tụi mình nông nổi quá, đánh giá Cách Mạng không đúng mức. Thua là phải. Học tập đến nơi rồi, về đến nơi rồi, nghe rõ chưa ông?
Tôi thấy Mậu quả là con người bộp chộp. Lúc chống, chống mãnh liệt, lúc hòa lại hòa quá lố. Tôi không trả lời vì chưa đúng lúc. Qua câu nói của tên cán bộ giáo dục, tôi có nhận định công việc học tập còn gặp nhiều khó khăn, ngày về còn xa chứ không như Mậu tưởng.
Anh em lại tụ tập bàn tán, ước đoán như mọi lần mỗi khi có tin gì mới nhưng chưa tìm ra lời giải đáp hợp lý. Tuy không nói ra nhưng chắc ai cũng mong cho chóng tới 2 giờ để B. Trưởng đi hội, xem chuyện gì sẽ đến.
Trưa nay không ai ngủ, kể cả những người dễ ngủ nhất. Chưa tới 2 giờ, B. Trưởng đã ăn mặc tề chỉnh, đầu chải láng, đi đi lại lại trước cửa. Tôi ra ngoài nhìn. Mọi B. Trưởng đều như vậy. Khi kẻng vừa gõ, các C Trưởng và B. Trưởng lũ lượt đi ra phía cổng, xếp hàng hai. Một C Trưởng báo cáo số người với tên gác. Cả mấy chục B. Trưởng đi dài dưới ánh nắng hừng hực, nét mặt đều phấn khởi. Chỉ một thoáng, họ đã đi lấp vào khúc quanh phía sau căn nhà quản giáo.
Tiếng rít thuốc lào lại đua nhau kêu ren réc đó đây. Khói tỏa mù mịt. Tôi đang kéo thưốc, Tuấn Phát tới. Anh là Bác sĩ kiêm nhà văn. Cuốn “Cảm Nghĩ Của Người Thầy Thuốc” đã được anh em làm văn học yêu chuộng. Anh nghệ sĩ hơn thầy thuốc. Tôi biết anh từ hồi Kháng Chiến chống Pháp, giữa một khu rừng miệt Hòa Bình. Anh vốn giòng dõi quan liêu. Nhưng không phải vì giòng dõi đó, anh cách biệt với giới bình dân. Bản chất anh rất tốt, thường chữa bịnh miễn phí cho những ai quá nghèo. Anh đã giải ngũ từ lâu nhưng vẫn đi học tập cải tạo. Với cái nhìn thân ái như thuở nào ngoài đời, anh đưa tay sửa lại gọng kính, rồi nói:
- Này ông, đã rõ ràng chưa? Vấn đề học tập coi như xong rồi, thế mà mỗi lần nói, ông cứ cho tôi là ngây thơ. Họ không đối xử với mình tệ lắm đâu!
Tôi thở khói, làn khói trắng đục xóa nhòa hai khuôn mặt.
- Ông ơi, người Anh có câu nói hay lắm: Wait and see! - Tôi nói lửng lơ!
Tuấn Phát cau mày:
- Ông hay tự làm khổ vì những ý nghĩ vớ vẩn.
Khi nói câu này, anh đâu có ngờ, gần 6 năm sau, Cộng Sản tha anh về với bộ da bọc xương và chỉ 1 tiếng đồng hồ sau, anh trút hơi thở cuối cùng trước dòng nước mắt tủi hờn của mẹ già, vợ trẻ, con thơ và dăm ba người bạn cũ còn lại!...
Có tiếng reo bên ngoài, các B. Trưởng đã trở về.
Mọi người ào ra cửa, Tuấn Phát cũng ra theo. Tới cửa, anh nắm chặt tay tôi:
- Cố gắng giữ gìn sức khỏe, nghe ông! Lúc trước, ông muốn gì cũng được. Nay khác, ông nhớ cho! Chúng ta cần phải sống.
Đoàn người đi hội về, lần luợt qua cổng rồi tỏa ra nhiều hướng. B. Trưởng của chúng tôi, tay cầm cuốn tập đủng đỉnh bước vô. Mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, chiếc trán thấp.
- Mời anh em vô!
Mọi người vô nhà như cơn lốc. B. Trưởng ngồi xuống, mở tập vở:
- Yêu cầu anh em lấy giấy bút ghi.
Căn nhà nhốn nháo một lát rồi hoàn toàn yên lặng. Tất cả đã sẵn sàng. B. Trưởng đằng hắng, lấy giọng, trước khi đọc:
- Thứ nhất: Mục đích yêu cầu!
Số 1 La Mã: Thành khẩn nói rõ về quá trình hoạt động của bản thân. Vào Ngụy Quân từ năm nào? ở đơn vị nào? Hành quân đánh phá Cách Mạng bao nhiêu lần? Ở những vùng nào? Có bao nhiêu huy chương?
Số 2 La Mã: Cách Mạng không bắt phải cường điệu, nhưng yêu cầu nói sự thực, không được giấu diếm!
- Thứ nhì: Thảo luận từng Tổ. Thời gian 1 tuần.
Mọi người cắm cúi ghi chép. Sau đó, tiếng bàn tán lại ồn ào như vỡ chợ, nhưng không ai thắc mắc điều gì, vì đây chỉ là cuộc thảo luận giữa anh em, không có thu hoạch. Sự thực, trong số những người đi học tập cải tạo nơi đây, cũng chẳng mấy ai biết rõ nhau bao nhiêu, thì dù có nói gì chăng nữa, cũng chỉ là câu chuyện tầm phào, nói với nhau lúc trà dư tửu hậu, không có gì đáng quan ngại. Hầu hết đều có ý nghĩ như vậy! Nếu việc học tập chính trị chỉ có thế, thật quá nhẹ nhàng, quá lý tưởng, ai cũng có thể làm được. Hình ảnh căn cứ Sóng Thần và buổi lễ mãn khóa được tưởng tượng qua các đầu óc phong phú. Ai sẽ được đề cử, đại diện anh em đọc diễn văn, cám ơn sự khoan hồng của Đảng và nhà nước Cách Mạng. Bài diễn văn do ai viết? Chủ tọa buổi lễ phóng thích, chắc Tướng Trần văn Trà quá, vì ông ta hiện là đương kim Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh tức Saigon, kiêm Tư Lệnh Quân khu 7. Chính ông ta đã ký lệnh cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” đi học tập cải tạo. Mai đây, chính ông ta lại ký giấy trao trả tự do và quyền công dân cho mình. Vui quá ta!
Không khí hồ hởi khỏa lấp nỗi ưu tư thường trực trên những khuôn mặt ít nhiều gì cũng đã lo âu chán nản!
Buổi tối B. Trưởng ấn định chỗ ngồi cho mỗi Tổ. Ba Tổ sẽ ngồi theo ba hình tròn. Giờ thảo luận được quy định: Buổi sáng từ 8 giờ đến 12g00, buổi chiều từ 14g00 đến 17g30, không ai được vắng mặt.
Buổi tối nay, mảnh trăng thượng tuần lên sớm. Đây là tuần trăng thứ ba, chúng tôi có mặt tại địa điểm này. Hình như không ai muốn ngủ sớm. Anh em túa ra sân. Chiếc ghế tôi thường ngồi đã đầy nghẹt. Tôi kiếm khúc củi, tìm một chỗ khuất ngồi ngắm trăng. Những đêm có trăng, vùng ánh sáng phía xa không nhìn rõ, nhưng đêm nào cũng vậy tôi thường quay mặt về hướng đó để tưởng nhớ gia đình. Gia đình đây, không phải chỉ có vợ con mà còn những thứ liên hệ với đời sống tinh thần của mình khi trước, như cuốn sách nào tôi thích đọc, bản nhạc nào tôi ưa nghe và bức tranh nào tôi thường nhìn ngắm! Trong giờ phút này, tất cả đều sống lại trong tôi. Nó linh động, ẩn hiện trong mỗi ô vưông suy nghĩ. Có hai bóng người đi lại phía tôi, trong tay mỗi người có cầm theo khúc củi. Tôi biết, Lâm và Huy. Họ là hai người bạn thân từ ngoài đời. Tôi, người bạn mới cùng Tổ.
- Ông suy nghĩ gì, cô đơn vậy? - Tiếng Lâm hỏi.
- Tôi vẫn thích cô đơn, ông không biết sao? Trong những đêm trăng sáng như thế này, ngồi một mình duới làn ánh sáng dịu dàng để mơ mộng, thích thú biết bao! Tôi không ưa ồn ào, chắc các ông đã biết.
- Bố ơi! mơ mộng cái con mẹ gì. Ngày mai lên “bàn mổ” rồi đây! Tổ mình sinh hoạt ra sao, cần phải “đả thông” trước, chứ mai mỗi người nói một cách sao được? - Huy nói nhỏ và nhanh.
- Kệ cha nó, muốn gì thây kệ. Mình cứ thảo luận theo đúng mục đích yêu cầu là được. Họ có bắt mình cường điệu đâu mà giấu diếm. Cũng chẳng có gì cần giấu diếm. Đã ở cái thế này, dù muốn dù không cũng chẳng làm khác được! Các ông nghĩ có đúng chăng? - Tôi hỏi sẳng giọng.
- Cái nguy của tụi mình là hồ sơ quân bạ của sĩ quan còn nằm nguyên ở Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu. Họ nhận nút IBM tìm ra ngay, có nói láo cũng vô ích.
Lâm có vẻ thắc mắc. Tôi thấy câu chuyện cứ kéo dài theo điệu này chán chết, nên ngáp dài tỏ ý buồn ngủ.
- Thôi đi “ngáo” mấy cha, mai lấy sức ngồi chứ!
Tôi đứng lên, Lâm và Huy đứng theo. Chúng tôi đi vô nhà, trong khi đó, dưới ánh trăng, vô số anh em tụm năm, tụm ba, vẫn thì thào to nhỏ.
° ° °
Có nhiều tiếng kéo thuốc lào trước giờ kẻng thức. Những hơi thở dồn dập không đều, chứng tỏ có người say thuốc. Tôi cuộn mùng mền, nhìn ra bên ngoài. Trời còn tối. Cảnh vật vắng tanh. Một con chó chạy loăng quăng, thỉnh thoảng dừng lại ghếch chân lên đái.
- Sao dậy sớm thế mấy ông. Đã kẻng đâu?
Một giọng nói ngái ngủ thốt ra. Tôi lấy chân khều khều vào người Mậu.
- Nè ông, dậy! sáng bóc rồi còn gì, nằm đó chờ kẻng sao?
Tiếng ván cọ vào nhau ken két. Tiếng động như một mạch điện, lần lượt mọi người đều thức giấc. Không khí căn nhà sáng nay thật khác biệt. Mọi người hình như đều sẵn sàng tha thứ cho nhau mọi lỗi lầm nếu có, không như những sáng trước, động chút, có thể cãi lộn nhiều khi đưa đến sự chửi rủa tục tằn, thô bạo!
Khói thuốc phủ mù mịt. Tiếng điếu rít không lúc nào ngưng, chẳng ai nói to, mọi người như cố giữ cho mình sự biết điều trước mắt anh em.
Trời vừa sáng, hồi kẻng gõ vang. Tiếng kẻng rền rĩ, lảng đảng trôi vào không gian hiu quạnh. Lời nói, tiếng cười to dần vì lúc này mọi người đều có quyền làm những gì mình muốn. Ở phía bếp, ánh lửa đã loé lên. Người đun nước pha trà hoặc cà-phê, kẻ ăn mì gói.
Sau bữa điểm tâm, người nào người nấy lấy bút giấy để sẵn. Đầu tóc chải gọn gàng, áo quần tươm tất.
- Mấy giờ ông?
Phát giơ tay lên coi:
- Thiếu 15!
- Thôi anh em, các Tổ đi vô, người nào chỗ đó. Đúng 8g00, bắt đầu thảo luận. - B. Trưởng nói dõng dạc.
Mấy phút sau, ba Tổ đã ngồi vào chỗ chỉ định tối qua. Ba khoanh người, ngồi như ba chiếc vòng lớn, trẻ nhỏ thường chơi đùa mỗi lần họp mặt. Lối ngồi sinh hoạt này quả thực, không thích hợp với các sĩ quan của Quân Lực Cộng Hòa. Họ quen ngồi ghế có tựa lưng, trong phòng lạnh, hoặc ít ra cũng có quạt máy. Bộ quân phục họ mang trên người lúc nào cũng cứng đơ, thẳng nếp. Cái lối ngồi xếp chân bằng, dễ mỏi, nếu không quen, chân sẽ bị tê, mỗi lần đứng dậy rất khó khăn.
Tên cán bộ giáo dục nhẹ nhàng đi vô. B. Trưởng hô lớn:
- Anh em chú ý!
Cả ba khoanh tròn im phăng phắc. Tên cán bộ đứng vào chỗ thuận lợi nhất, rồi cất tiếng:
- Hôm qua, tôi đã nói sơ cho các anh biết “mục đích, yêu cầu” của Trên đối với vấn đề học tập. Bữa nay, tôi muốn nói rõ hơn, để các anh có thể nắm vững được vấn đề, không còn “nấn” cấn khi cần phải nói ra những điều cần nói, về quá trình hoạt động của bản thân. Tôi nghĩ, các anh còn nhiều điều ấm ức trong “nòng”. Vì biết rõ như vậy, nên Trên mới tạo điều kiện để các anh có dịp nói cho hết, nói cho hả, kẻo để mãi trong “nòng”, nó “nàm” sao ấy! Các anh có nhất chí không?
- Nhất chí!
- Vậy những sự gì các anh sắp nói ra với nhau đây “nà” điều cần thiết. Trong các anh đây, có anh “nà” Không quân, có anh “nà” Hải quân, có anh “nà” Tình Báo Tâm “Ný” chiến. Tôi tin rằng, các anh tuy bề ngoài quen nhau, nhưng sự thực, chưa biết nhau cặn kẽ đâu! Nhân dịp này, nói cho nhau nghe về quá trình hoạt động của mình cho dứt khoát. Nói xong “nà” quên, “nà” bỏ đi. Nhất chí chứ, mấy anh?
- Nhất chí!
Tôi nhìn tên cán bộ. Hắn nói ráo hoảnh. Tụi nó đang giăng chiếc bẫy thứ hai, chiếc này nguy hiểm hơn chiếc trước.
Tiếng B. Trưởng:
- Đã đến giờ, yêu cầu anh em ngồi vào chỗ, bắt đầu thảo luận.
Một hai người đi uống nước vội quay vào. Tên cán bộ bảo B. Trưởng ra ngoài lấy chiếc ghế gỗ mang vô cho hắn ngồi. Hắn không ngồi sát chỗ chúng tôi mà ngồi xa xa, nơi mé cửa.
Anh em ai cũng né, không ai muốn nói lên lời nói thứ nhất. Người này đưa mắt nhìn người khác, trong khi hai Tổ kia đã bắt đầu cuộc thảo luận. Thấy tình thế này kéo dài mãi không tiện, Lâm cất tiếng:
- Thưa anh em, chúng ta là những người được hưởng sự khoan hồng của Cách Mạng cho đi Học Tập Cải Tạo. Như cán bộ giáo dục vừa nói cho biết, chúng ta tuy cùng chung một Quân Đội, nhưng mỗi người ở một đơn vị, do đó, chúng ta chưa biết rõ quá trình hoạt động của nhau. Nay Cách Mang tạo điều kiện cho chúng ta cùng thảo luận để hiểu rõ nhau hơn. Riêng tôi, cảm thấy đó là điều hợp lý, do vậy tôi xin phép được nói về mình. Tôi, Trung Tá Quân Y. Sở dĩ, tôi theo học ngành Quân Y, thay vì Dân Y vì nhà nghèo, lại đông con. Tôi thường nghĩ, dù phục vụ trong Quân Y hay Dân Y, mục đích vẫn là nhân đạo. Suốt 15 năm phục vụ trong “Ngụy Quân”, tôi đã đi khắp các mặt trận thuộc 4 vùng chiến thuật vì binh chủng tôi phục vụ là Biệt Động Quân. Ở ngoài mặt trận, chẳng những tôi cứu “Ngụy Quân”, còn cứu luôn cả những chiến sĩ Cách Mạng bị thương. Lúc đó, tôi hành động hoàn toàn do lương tâm của ngưòị thày thuốc, không phân biệt bạn, thù! Tuy mới 40 tuổi, 15 năm quân ngũ, đã mang cấp bậc Trung Tá và được nhiều huy chương trong đó có 3 Anh Dũng Bội Tinh, với ngôi sao bạc vì tôi đã tích cực thi hành nhiệm vụ ở bất cứ đâu, bất cứ điều kiện chiến trường nào cần đến khả năng chuyên môn của tôi!...
Lâm nói rất lưu loát, lôi cuốn người nghe. Tên cán bộ giáo dục lắng tai. Cả ba Tổ đều hăng say thảo luận. Bỗng tên cán bộ đứng dậy, đến bên Tổ tôi, hỏi Lâm:
- Anh tên gì?
- Thưa cán bộ, Nguyễn Lâm, Trung Tá Quân Y!
- Anh vừa phát biểu như vậy “nà” chưa đạt yêu cầu. Anh nói anh phục vụ trong Ngụy Quân 15 năm, đi khắp 4 vùng chiến thuật. Anh đã cứu Ngụy Quân và cứu cả những chiến sĩ Cách Mạng. Vậy, yêu cầu anh cho tôi biết, tên tuổi các chiến sĩ Cách Mạng anh đã cứu và cứu ở mặt trận nào?
Mặt Lâm tự nhịên đỏ ửng. Lâm đưa mắt nhìn anh em tỏ ý cầu cứu, tiếp tay, nhưng mọi người vẫn ngồi im lặng như phỗng đá.
-Dạ, thưa cán bộ, làm sao tôi biết được tên tuổi các chiến sĩ Cách Mạng đã được cứu sống ngoài măt trận! Vấn đề này thuộc Phòng Nhì, tôi chỉ biết làm nhiệm vụ của người thầy thuốc khi có mặt ở trận tuyến!
Tên cán bộ nhìn chằm chặp vào Lâm:
-Nói như anh, ai nói cũng đựợc. Việc gì cũng có cơ sở của nó chứ! Các chiến sĩ của chúng tôi đâu có cần các anh cứu. Nếu các anh có cứu, cũng chỉ nhằm mục đích khai thác sau này, chứ đâu vì nhân đạo! Còn anh cứu Ngụy Quân cũng nhằm bồi dưỡng cho họ khỏe, lại đi đánh phá Cách Mạng! Anh phải nhận mình có tội đối với Cách Mạng, như vậy mới thành khẩn!
Tên cán bộ nhếch cặp môi dầy, cười mỉa mai!
Mới ra quân, đã bất lợi! Tổ Trưởng Lộc nhanh trí:
- Thưa anh em, sau phần phát biểu của anh Lâm, nay tôi xin đề nghị anh Mậu lên tiếng. Thông qua sự giúp đỡ của cán bộ giáo dục, anh vui lòng cho anh em biết về quá trình hoạt động của anh!
Có lẽ, bị khớp, thường ngày Mậu ăn nói ngổ ngáo như thế, bây giờ lại nhỏ nhẹ, ấp úng:
- Thưa anh em, tôi, Huỳnh Mậu, Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn X. Tôi tốt nghiệp trường Võ Bị Dalat. Hồi nhỏ, tôi đi xem diễn binh, thấy thích võ nghiệp. Khi lớn lên, thi Tú Tài hoài không đậu, tôi nộp đơn xin thi vào trường Võ Bị. Ai ngờ đâu! Sau khi ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, tôi giữ chức vụ Chi Đội Trưởng Thiết vận xa!...
Mậu nói, vòng vo Tam Quốc, kể lể cuộc đời binh nghiệp của hắn cho tới ngày rã đám. Hắn tự “tố khổ” và tự nhận có tội nặng với Cách Mạng và nhân dân. Hắn đã giết nhiều chiến sĩ Cách Mạng. Đã bắn phá và đoàn thiết vận xa đã nhiều lần quần nát mật khu Bời Lời, Hố Bò và U Minh!...
Tên cán bộ chú ý nghe, nhưng không nói gì, vừa lúc ấy, B. Trưởng tuyên bố, nghỉ 15 phút giải lao.
Mọi người đứng dậy khoan khoái. Tiếng điếu cầy lại kêu ren réc, khói tỏa mù mịt. Tất cả như vừa trút xong được một phần gánh nặng. Tên cán bộ đi ra ngoài. 15 phút qua đi rất nhanh. Mọi người lai phải đeo gánh nặng trong tâm trí và đeo mãi tới khi nào đạt được yêu cầu của Cộng Sản mới thôi!
Lợi dụng lúc tên cán bộ giáo dục chưa có mặt, anh em tuy ngồi nghiêm chỉnh, nhưng không thảo luận mà tán dóc! Ai đã nói, coi như là xong nhiệm vụ, ai chưa, chắc mong được nói ngay lúc này vì sự không có mặt của tên cán bộ giáo dục, muốn nói sao cũng được! Nhưng tên cán bộ từ ngoài đi nhanh vào:
- Sao, các anh không “nàm” việc à?
- Dạ, có, cán bộ! - B. Trưởng lanh lẹ trả lời.
Tiếng thảo luận, lại cất lên, nói cho đúng đó là tiếng tự kể tội! Có lẽ, tên cán bộ nhận thấy nội dung thảo luận chưa hướng đúng mục đích yêu cầu, nên hắn nói:
- Tôi chắc các anh chưa quen với hình thức sinh hoạt này. Đối với chúng tôi, nó thường “nắm”. Đã gọi “nà” sinh hoạt, thảo “nuận”, phải có đối thoại để tìm hiểu. Các anh “nại” thụ động như vậy khó đạt yêu cầu. Các anh cần xây dựng cho nhau, bằng cách nhắc nhở những gì mình biết. Các anh bầu ngay một thư ký để ghi chép “nại” ý của mỗi người. Sau đó, nêu “nên” thắc mắc để “nàm” sáng tỏ vấn đề. Như vậy, cuộc sinh hoạt mới có ích. Trên sẽ đánh giá [nhận xét] các anh qua những giờ sinh hoạt này đó!
Giọng nói của tên quản giáo vừa có ý khuyên bảo, vừa nhằm đe dọa!
Tổ tôi bầu Lâm làm thư ký. Cuộc thảo luận lại nối tiếp. Chúng tôi cứ lần lượt nói. Lâm cứ ghi. Hoài (Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn F 5), lấy nét mặt buồn rầu nói về đời phi công của mình. Anh rất đau lòng khi hồi tưởng lại, sau mỗi trái “rốc kết”, sau mỗi quả bom, những đám cháy bốc Iên, khói bay mù mịt. Anh tin, có nhiều quân Cách Mạng và nhân dân có thể chết, có thể bị thương vì sự độc ác của mình, dù sự độc ác này không do anh mà do Đế Quốc, Ngụy Quyền, Ngụy Quân buộc anh phải thi hành. Thật đáng xấu hổ cho những chuyến bay, khi mình làm chủ một vùng trời mà Cách Mạng cũng như nhân dân không có phương tiện chống trả!...
- Anh Hoài, xin phép cho hỏi. Thế quân Cách Mạng không có cao xạ? Nếu đúng như anh nói, tại sao số phi cơ của ta tổn thất mỗi ngày một lớn!
- Tôi nói là nói về phi cơ, chứ không nói về cao xạ và hỏa tiễn loại nhỏ SA7 chống trực thăng. Nói về phòng không, Cách Mạng quá mạnh rồi!
Cuộc sinh hoạt cứ như vậy tiếp diễn từ sáng đến chiều. Tên cán bộ giáo dục ngồi thường trực, ai không chịu nói, hắn nhắc nhở, lưu ý buộc phải nói. Ai nói không hăng say, nhiệt tình hắn cho là không thành khẩn, cố tình giấu diếm sự thực! Một ngày qua thật nặng nề. Đi lao động tuy vậy sướng hơn nhiều. Đứng dưới nắng, cuốc dăm bẩy nhát, chống cuốc ngó trời, nói chuyện ào ào, đủ mọi loại chuyện, từ câu chuyện đứng đắn đến chuyện tiếu lâm, chứ ngồi sinh hoạt kiểu này chịu không nổi. Nhưng mọi người vẫn phải thi hành đúng những gì Cộng Sản muốn!
Qua chiều hôm sau, đến phiên tôi phát biểu. Tôi tránh né, nói loanh quanh, cho rằng mình chỉ là một chuyên viên. Công tác tôi thi hành, hoàn toàn thuộc lãnh vực bàn giấy, không có nợ máu với nhân dân. Là họa sĩ, tôi lo về trang trí mỹ thuật cho báo chí Quân Đội và các phòng Triễn Lãm trưng bầy các thành tích có tính cách quảng cáo như sách vở, sơ đồ, hình ảnh v.v.. Tôi nói kéo dài, đi vòng ngoài chứ không đề cập đến trọng tâm công tác, dù suốt trên 20 năm, tôi đã giữ nhiều chức vụ, ngoài chuyên môn.
Tên cán bộ nghiêng mặt, lắng nghe. Đột nhiên, Lâm hỏi:
- Tôi chắc khi vẽ hoặc làm các công tác mỹ thuật cho Ngụy Quân, anh cũng phải say mê và tận tình phục vụ lắm, nên mới tạo ra vẻ đẹp, làm mọi người ưa thích, đưa anh đến chổ nổi tiếng!
Câu hỏi của Lâm vô tình đưa tôi vào thế kẹt, trước mặt tên cán bộ. Tôi trả lời khơi khơi:
- Tôi làm việc cũng như người chiến sĩ có nhiệm vụ bóp cò thôi! Trong Quân Đội, như anh em đều biết, việc gì cũng làm theo lệnh cả. Một khi đã làm theo lệnh, còn gì hứng thú?
Tôi cố bào chữa dù biết sự bào chữa cũng chẳng đưa tới kết quả nào, nhưng chủ ý của tôi, quyết không vạch áo cho kẻ thù xem lưng!
Tên cán bộ tiến nhanh đến, chỉ ngón tay vào tôi:
- Này, chúng tôi biết rõ anh quá mà! Mỗi bức tranh của anh mạnh bằng một sư đoàn chiến đấu đó! Anh đừng có “noanh” quanh! Tội của anh nặng hơn những người chiến đấu nhiều. Những người lính Ngụy có bắn giết Cách Mạng và đồng bào, “nà” cũng do tác động chiến tranh tâm “ný” của các anh đấy!
Nói xong, hắn chống tay vào cạnh sườn, đăm đăm nhìn tôi, như dò tìm phản ứng!
Anh em đều ngơ ngác, khi nghe tên cán bộ giáo dục dùng lời lẽ gay gắt với tôi như vậy! Tôi toan cất tiếng, Huy ngồi đối diện, đưa mắt ngầm ý bảo thôi.
Cuộc sinh hoạt học tập cứ như vậy tiến hành ngày này qua ngày khác. Mọi người đều tự thú tội lỗi của mình trong thời gian phục vụ Ngụy Quân, dù đây chỉ là nhiệm vụ cao cả của người chiến sĩ trong thời chiến, giữa hai miền Quốc, Cộng!
Phát (Hạm Trưởng), bị giải ngũ vì lý do kỷ luật đã khôn khéo cho việc giải ngũ của mình thuộc phạm vị chính trị. Trong thời gian tại ngũ, anh đã dám chống đối với kỷ luật Quân Đội. Tuy vậy, anh cũng thành thực tự thú tất cả những hoạt động của mình trong quá trình. Anh đã cho tàu bắn giết dân lành và Cách Mạng, dọn “bãi” cho bộ binh đổ bộ, tiến đánh vào những vùng sình lầy do Cách Mạng chiếm giữ lâu ngày. Bây giờ hồi tưởng, anh thấy đau lòng, coi đó như một tội lỗi nặng nề trước Cách Mạng, trước nhân dân!.. Những tấm huy chương được trao tặng khi trước, bây giờ như những vết tích ô nhục, anh muốn vứt bỏ như vứt bỏ những mảnh vải vụn!...
Định (Trung Đoàn Trưởng) cũng tự thú, đã nhiều lần hành quân trên vùng rừng núi miền Trung. Cũng đốt nhà, bắn giết trâu, bò, lợn, gà, làm thiệt hại nhiều sinh mạng, gây nên bao nhiêu cảnh điêu tàn! Định nói cả nửa tiếng. Giọng nói trầm trầm như cố đè nén cảm xúc đang trào dâng! Nghe Định tự kể tội xong, tên cán bộ giáo dục có ý kiến:
- Tôi “nấy nàm nạ”, đã mấy hôm nay, các anh nói đủ thứ, đủ mọi chuyện, nhưng tôi chưa hề nghe anh nào nói tới vấn đề hảm hiếp, moi gan, mổ bụng các chiến sĩ Cách Mạng cả? “Nàm” sao vậy? Các anh phải thành khẩn chứ? Có như vậy vấn đề học tập cải tạo mới thu hoạch được kết quả. Nếu cứ “nấn” cấn, cố tình giấu diếm tội “nỗi” của mình, các anh sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Cách Mạng. Chúng tôi để các anh nói, thử xem các anh thành khẩn đến mức độ nào, chứ Cách Mạng đã biết hết “nịch” sử của mỗi người rồi! Có giấu cũng vô ích! Sự được trả tự do sớm hay muộn, tùy thuộc vào mỗi người đấy!
Giọng nói của hắn, vẫn cái giọng nhà quê vừa dỗ dành vừa hăm dọa, nghe khó chịu lạ lùng. Nhưng không phải hắn chỉ để ý đến Tổ tôi, mà Tổ nào hắn cũng xía vô, cũng lưu ý, và cho ý kiến khi thấy có điều gì cần phải dằn mặt cải tạo viên.
Sự thực, phần đông chẳng ai lo ngại gì cả vì cuộc sinh hoạt học tập này không có thu hoạch, nghĩa là không phải viết ra giấy trắng mực đen, nên anh em mạnh miệng lắm! Gió bay lên trời mà! Nhưng cũng có người như Huy, khi tự tố cáo, rất dè dặt, thận trọng. Huy có một thời gian làm Quận Trưởng, dưới trào ông Diệm. Huy trình bầy hoàn cảnh nào đã đưa anh đến chức vụ đó. Trong thời gian giữ chức ông Quận, anh nói, chỉ làm những công việc có tính cách hành chánh, còn vấn đề tảo thanh trong Quận do Chi Khu Phó đảm trách!
Tên cán bộ giáo dục hỏi ai có ý kiến gì về lời phát biểu của Huy. Lạc (Trung Tá Cảnh Sát), giơ tay:
- Xin anh Huy cho anh em biết, dưới trào Ngô Đình Diệm, giữ chức vụ Quận Trưởng khó lắm. Phải người miền Trung, theo đạo Ki Tô Giáo, hoặc đảng viên Cần Lao. Anh không phải người miền Trung, không có đạo, vậy anh phải là đảng viên Đảng Cần Lao, có đúng không ạ?
Tôi nhìn sắc mặt Huy tái đi, không biết vì giận hay sợ? Huy trả lời ấp úng:
- Vừa rồi, tôi đã thành thực nói với anh em, việc tôi được chỉ định làm Quận Trưởng, từ trên trời rớt xuống, chứ tôi đâu muốn. Được cấp chỉ huy thương, đề bạt hồi nào không hay, tôi đâu có biết ất giáp gì?
Cũng may Huy vừa nói tới đây, tiếng kẻng tan tầm vừa đổ. Mọi người đứng lên vuơn vai, vặn mình. Các khớp xương kêu răng rắc. Tên cán bộ giáo dục chụp chiếc nón cối lên đầu đi ra.
Trong lúc ăn cơm trưa ở ngoài sân, Huy cứ nhìn Lạc chằm chặp. Cặp mắt Huy như tóe lửa. Lạc cúi đầu để tránh sự đụng chạm. Huy nuốt từng miếng cơm nặng nhọc. Chiếc yết hầu lên xuống kéo theo những đường gân nổi to như chiếc đũa. Lạc cố ăn vội, định vô nhà. Nhung Huy đã bỏ chén cơm xuống mặt bàn, bước vội, đứng chặn ngang lối cửa. Lạc toan lùi lại, không kịp. Huy cho tay nắm ngực áo Lạc, giật mạnh:
- Lạc, tao sẽ giết mày, nếu vì câu hỏi ác ý đó, tao phải ở lại đây! Mày biết không? biết không?.
Sắc mặt Lạc tái ngắt, cắt không còn hạt máu, hai môi run rẩy:
- Tôi đâu có ác ý! Tôi hỏi chỉ để cho qua thôi.
- Đù mẹ mày, dốt như thế cũng mang cấp bậc Trung Tá! Quân Đội có những sĩ quan như mày thua là phải! Nhục là phải!...
Huy buông Lạc ra, trong lúc mọi người bu quanh, sẵn sàng can gián nếu Huy quá giận để xẩy ra đánh lộn. Từ buổi đó, giữa Huy và Lạc như có chiếc hố sâu thù hận! Họ không nhìn nhau dù cùng chung Tổ. Chính nhờ câu chuyện đó xảy ra, từ đấy về sau, mỗi lần đặt câu hỏi trước mặt tên cán bộ, anh em cũng biết cân nhắc, dè dặt, sao cho câu hỏi không gây đụng chạm.
Tất cả việc gì rồi cũng qua đi. Cuộc sinh hoạt học tập đã chấm dứt. Tất cả giấy tờ do thư ký ghi được, đều nộp cho tên cán bộ giáo dục. Anh em thở phào nhẹ nhõm.
Cơn mưa buổi chiều đã phủ kín cảnh vật. Từ lâu mới có cơn mưa lớn vầy. Mưa như trút nước. Từng khối nước khổng lồ từ trời cao đổ ào ạt cùng với tiếng sấm sét vang dội. Qua màn mưa dày đặc, tôi không nhìn thấy gì ngoài mấy cây khoai mì đang vật vã trước măt, cách xa không quá 10 thước. Những tấm nylon được căng kín để che mưa hắt, nhưng cũng không ngăn được luồng gió tạt làm ưót nửa căn nhà.
Cơn mưa kéo dài đến đêm vẫn chưa dứt. Gió thổi quá to làm hư giây điện. Căn phòng tối om thỉnh thoảng sáng bừng do ánh chớp hoặc do ánh lửa hút thuốc. Mọi người không ai ngủ được. Tiếng nói chuyện rì rầm. Họ khoái đi lao động hơn ở nhà học tập.
Sống trong Trại Tập Trung Cải Tạo, không sao đoán biết được ngày mai chuyện gì sẻ xảy tối. Người ta chỉ được biết, ngày mai sẽ làm gì, sau 7g00 tối.
Cơn mưa dịu dần, gió cũng ngớt thổi. Có lẽ, đây là cái đuôi của trận bão nhỏ. Nơi nào bị ướt, anh em dùng khăn lau tạm, buông mùng, nằm ngủ, vì căn nhà không có đèn nên mọi người chẳng biết làm gì hơn.
Cơn mưa lai rai, tới sáng chưa dứt. Những giọt mưa tuy không lớn nhưng rơi đều đều. Trên con lộ đá, thỉnh thoảng có tên bộ đội trùm áo mưa kín mít đi rảo bước. Đôi dép lốp lội bì bõm qua những vũng nước. Cơn mưa đã hạn chế sinh hoạt của mọi người. Chái bếp nhỏ bị mưa tạt ướt hết. Không thanh củi nào còn khô, do đó, chuyện ăn mì và uống nước sáng không có. Tất cả chỉ còn chờ bữa cơm trưa. Mưa gió thế này, cơm nước chắc cũng chẳng ngon lành gì. Gần trưa, cơn mưa ngớt, rồi tạnh. Trời đã để lộ vài khoảng xanh, tuy xung quanh mây xám vẫn nặng chĩu nước. Không ai dám ra sân vì mỗi bước chân sẽ kéo theo tảng đất. Tôi ngồi hút thuốc lào vặt với Mậu.
- Ông nghĩ mình học tập như vậy, xong chưa? - Mậu hỏi.
- Xong thế nào được, theo tôi, đây mới chỉ là món ăn chơi. Nếu học tập đứng đắn phải có thu hoạch chứ? đâu có khơi khơi như vậy được!
- Gay qua nhỉ? Chán ghê, chán ghê!
.. Ánh nắng đã lên. Mặt đất se dần. Những bóng người qua lại trước sân, mỗi lúc mỗi đông. Có lẽ, sau nhiều giờ giậm chân một chỗ, ai nấy đều cuồng cẳng cần ra ngoài cho thoải mái.
Ánh nắng vừa lóe lên một lúc, rồi tắt ngấm. Cảnh vật lại chìm đắm vào mầu bàng bạc thiếu chiều sâu. Ngọn đồi trước mắt với hàng cây thưa đong đưa theo chiều gió. Sau một tuần “động não”, tôi nhìn sắc diện mọi người, hình như ai cũng thấm mệt. Sự tự tố cáo tội lỗi của mình trước mặt mọi người, dù là chiến hữu, bạn bè, sự thực trong đáy lòng vẫn có chút gì ngượng ngùng, tuy chưa ai nói hết những uẩn khúc của đời mình một trăm phần trăm. Nếu giấu diếm, cũng chẳng có gì khó hiểu. Bản tính con người thường thường dành cho mình phần lợi và ít nguy hiểm nhất trong những trường hợp có thể bất lợi cho riêng mình.
Thời gian cứ qua đi trong niềm bâng khuâng xen lẫn lo ngại.
Một ngày lại qua đi, khi ánh đèn bật sáng, B. Trưởng lại cắp vở đi hội.
Tối nay, không ai muốn nói đến chuyện học tập nữa. Câu chuyện được chuyển hướng vào vấn đề tình cảm. Có anh 2, 3 vợ lúc này chả biết giải quyết ra sao vấn đề kinh tế. Có anh nhớ người yêu, mang ảnh ra nhìn, nhìn chán, đưa lên môi hôn, xong ép hình vào ngực, cứ làm như mình còn trẻ và ngây thơ lắm! Những chuỗi cười rúc rích đó đây làm không khí bớt “căng”.
B. Trưởng đi hội hơi lâu, khi về, có vẻ mệt mỏi. Các Tổ Trưởng đi theo anh vô nhà. B. Trưởng mời tất cả đều vô.
Sau khi mọi người yên chỗ, B. Trưởng nói:
- Thưa các anh em, qua buổi hội tối nay, cán bộ giáo dục có những nhận xét sau:
Các anh em sinh hoạt chưa thành khẩn, còn nhiều điều “lấn cấn”, giấu diếm! Chưa đặt nhiều câu hỏi xây dựng. Hình như anh em cốt làm cho xong chuyện, như vậy không đảm bảo được chất lượng, không nắm vững được mục đích yêu cầu của Trên. Qua nhận xét đó, anh em mình nên rút ưu khuyết điểm, để lần sau làm tốt hơn. Mai, B ta đi lao động. Tổ 1 phá cầu tiêu, vì hố phân đã đầy, dòi bọ quá nhiều, hơn nữa, mùi hôi theo gió lan đến tận căn nhà quản giáo. Cán bộ cho lệnh phá ngay, lấp gấp trong buổi sáng phải xong. Tổ 2 và 3 đào hố cầu mới, ở cuối hàng rào, phía bên kia, sát bụi chuối. Mai, sẽ có cán bộ vệ sinh chỉ cách đào hố xí 2 ngăn, kiểu “hiện đại”, miền Bắc đang xử dụng.
Công tác đào hố phân 2 ngăn, được một tên bộ đội vẽ trên tấm giấy học trò, với kích thước rõ ràng. Mục đích để có thể dùng được phân để bón vườn rau. Đi đầy hố này lấp lại và đi hố kia. Nước tiểu có đường thoát riêng, không lẫn vào phân. Hố phân đã lấp đi, chờ một thời gian, phân ải, mới moi lên, làm phân bón rất tốt.
Chúng tôi hì hục, đào, bới, theo đúng kiểu vẽ.
Tên cán bộ đứng bên, luôn luôn hò hét.
- Các anh “nao” động kiểu này, cả năm chả xong. Ai đời từ sáng đến giờ, cả chục người, đào chưa được 5 tấc đất!
Nhưng hắn muốn nói gì cứ nói, nhịp độ lao động tụt dần chứ không nâng lên vì gần trưa, ánh nắng càng gay gắt, người nào cũng mệt, mồ hôi nhễ nhại. Tuy không nói ra, ai cũng chờ tiếng kẻng, vác cuốc xẻng đi về. Để tránh nắng, tôi núp sau bụi chuối, rút thuốc ra hút. Chỗ này, tương đối khuất ít ai để ý. Tôi đang say sưa thả làn khói qua kẽm gai, bỗng nghe sau lưng có tiếng động. Giật mình quay lại, thấy Mậu. Tôi nói khẽ:
- Ông ơi, ra đi, chuồn vào đây nhiều quá, nó tóm được thì bỏ mẹ!
- Kệ cha nó. Tôi vừa nghe tin, khu B có mấy “Bò Tam” [Bò Tam= Đại uý] bị trúng mìn, 1 chết, 2 bị thương, hôm qua.
- Vì sao?
- Tụi nó đi tìm các lon thịt không do tụi bộ đội ăn xong ném vô rào kẽm gai, để đựng nước và đồ ăn, ai ngờ vướng mìn. Chán ghê, chán ghê!
Tiếng kẻng tan tầm nổi lên. Tôi đưa Mậu mẩu thuốc đang hút dở, đi vòng qua bụi chuối, đến nơi tập họp..
Mới sáng sớm, tên bộ đội giao liên qua chỗ chúng tôi ở, kêu Kiên thuộc đơn vị 101 đi “nàm” việc với cán bộ Tiểu Đoàn. Khi được gọi tên bất ngờ, mặt anh hơi tái đi, nhưng chỉ phút sau, anh đã lấy lại sự bình tĩnh cần thiết của một sĩ quan làm nhiệm vụ tình báo chiến lược quân sự. Sau một tuần làm việc liên tục, Kiên gầy hẳn đi. Chúng tôi chắc, anh bị tụi Việt Cộng khai thác, tìm hiểu tổ chức và các đường dây của 101. Đúng như tên cán bộ giáo dục đã nhận định, chúng tôi ở đây chưa ai biết nhau nhiều. Quân Lực Cộng Hoà có trên l triệu người, có cả chục ngàn sĩ quan các cấp, làm sao biết nhau hết. Trừ một số bạn thân cùng đơn vị, ngoài ra chỉ biết nhau qua bề ngoài, nếu gặp trong công tác. Chính nhờ vào các buổi sinh hoạt “tự tố khổ”, nên anh em đã “thấy” nhau. Từ buổi ấy, mọi người nhìn nhau như nhìn qua tấm kính trong suốt, dù đôi chỗ có bị cố ý che mờ, hoặc ẩn khuất do ngụy trang, nhưng đại thể vẫn hiện nguyên hình đầy đủ chứng tích của qúa trình hoạt động!
Vấn đề “làm việc với Trên”, tôi cũng được biết, có nhiều vị sĩ quan giữ những chức vụ quan trọng được mời, trong đó có Đại Tá Phan Trọng Thiện (Cục Phó Cục Tâm Lý Chiến) và Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh (Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị). Chắc Việt Cộng muốn biết về cơ cấu tổ chức ngành Chiến Tranh Chính Trị trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà chúng thường “đánh giá rất cao ”!
Căn nhà cầu mới, chúng tôi đã làm xong, sau bốn ngày lao động! Tuy nó chẳng tốt đẹp gì hơn căn nhà cầu cũ bao nhiêu, nhưng ít ra, nó cũng đỡ phần hôi thối, ruồi muỗi, dòi bọ, một thời gian. Sau công tác đó, những ngày kế tiếp, chúng tôi chuyển làm vệ sinh quét dọn xung quanh chỗ ở của tụi quản giáo, sửa chữa những chỗ hư nơi cổng ra vào.
Mấy bữa nay, C Trưởng chạy đi chạy lại các B để đôn đốc làm tờ Bích Báo mừng ngày lễ Độc Lập 2-9 của Cộng Sản và huy động các anh khéo tay, kẻ một khẩu hiệu chạy suốt bên vách nhà, dài khoảng 20 thước, với câu: “Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!” Buổi chiều ngày 1-9, có một toán cán bộ đi kiểm tra doanh trại, khi nhìn thấy, hỏi ai thực hiện khẩu hiệu này? C Trưởng đang có mặt tại đây, hoan hỉ trả lời:
- Dạ, chúng tôi!
Nói xong, anh yên tâm chờ đợi lời khen, nhưng một tên, trong số đó, có lẽ cấp cao, cau mày:
- Xóa ngay!
Thế là C Trưởng, và mấy cải tạo viên có mặt vừa hí hửng, tưởng làm đẹp lòng Cách Mạng, ai ngờ bị “cái tát” nẩy lửa, lủi thủi đi múc nước cọ rửa đến chiều tối mới xong. Xét cho cùng, họ nói đúng vì “già Hồ” và sự nghiệp là của họ, của những người chiến thắng, chứ đâu phải của phe thua trận!
Hôm sau 2-9, từ sớm, chúng tôi đã nghe tiếng lợn kêu vì bị thọc huyết. Chúng tôi được nghỉ lao động. Từ xa, lá cờ đỏ sao vàng đang phất phới theo chiều gió. Không ai nhìn thấy lá cờ giải phóng nửa xanh, nửa đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa cắm nơi nào? Sự thực, lúc này miền Bắc đã nắm quyền điều hành và kiểm soát tất cả Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Mặt trận Giải Phóng chỉ là tấm bình phong để Cộng Sản núp sau đó, dễ bề điều hành cuộc chiến chống Mỹ và Miền Nam, đi đến thắng lợi cuối cùng! Mặt Trận Giải Phóng chỉ là sự lừa bịp, dư luận thế giới đã thiên vị! Cuộc Hội Nghị 4 phe, được tổ chức tại Paris để quyết định chỗ đứng của Mặt Trận Giải Phóng tại Miền Nam, quả thực đã làm tình hình chính trị Miền Nam bị lép vế, đã sắp “thua” từ lúc đó. Người Mỹ biết, nhưng vì muốn rút chân ra khỏi vũng lầy nên giả đò, làm như không biết, cứ để mặc cho Miền Nam đi từ thất bại này đến thất bại khác, về chính trị cũng như quân sự!
Kể từ sau ngày Tổng Thống Nixon đi cùng với Ngoại trưởng Kissinger đến Bắc Kinh bắt tay Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, cái thế yếu của Miền Nam không thể chối cãi. Nhưng dù sao trách nhiệm vẫn thuộc về người Miền Nam, thuộc về giai cấp lãnh đạo, không nên đổ thừa hoàn toàn cho người Mỹ, dù người Mỹ cũng có phần gánh chịu.
Buổi chiều ngày 2-9, chúng tôi được lệnh ở trong nhà, đóng kín cửa, không một ai được ra ngoài dù có việc cần kíp. Tôi nhìn qua vách lưới. Toàn trại vắng hoe, không một bóng người. Có tiếng động cơ nặng nề từ phía xa vọng lại. Tôi lắng tai. Mậu đến gần, thì thào:
- Đù mẹ, T 54! Tụi nó làm gì dữ vậy. Chán ghê, chán ghê!
Từ vách lưới, tôi thấy một đám bụi đỏ rất cao, kéo dài.
Đoàn xe tăng đang di chuyển. Chỉ lát sau, hàng chục chiếc T 54 ầm ầm chạy qua nơi chúng tôi ở. Những chiếc nắp pháo tháp được mở ra. Tên Việt Cộng ngồi trên mép tháp lia lia khẩu đại liên với băng đạn vàng chóe, như sẵn sàng ấn cò. Vài tên khác, từ trong lòng xe nhô đầu lên, tay cầm AK cười toe toét. Trên mỗi chiếc T 54 đều có cắm lá cờ đỏ sao vàng to bằng chiếc chiếu, bay cuồn cuộn! Tiếng động cơ xa dần, rồi mất hút. Một hồi còi rúc vang, đó là hiệu lệnh cho phép chúng tôi mở cửa ra ngoài. Đứng sát bờ rào, tôi nhìn thấy từng vòng xích xe tăng nghiến vào mặt lộ, rõ mồn một.
Mậu nói hằn học.
- Vâng, chúng tôi biết các ông mạnh rồi, không phải khoe! Đù mẹ, tăng của Trung Cộng chi viện, cứ làm như mình đúc ra. Tiên sư tụi Quân Báo, ăn hại đái nát, để Cộng Sản đưa tăng vào Miền Nam, đếch biết. Lúc nó bắn, vãi cứt ra quần vẫn còn cho là tăng giả, làm bằng giấy. Mẹ kiếp, chán ghê, chán ghê!
Buổi tối, chúng tôi lại nói chuyện về cuộc chiến với những nỗi nhục nhằn phải chịu đựng từ sau ngày 30-4.
Trong lúc đó, Lâm ghé vào tai, nói nhỏ:
- Ông ạ, có lẽ sắp “lên lớp” [Lên lớp=Học tập]. Bên khu “Bò Lục” cho biết như vậy!
- “Lên lớp” như tuần trước chứ gì?
- Không đâu, nghe nói lần này học 8 bài.
- Học 80 bài cũng chẳng sợ. Nhưng đói bụng quá, ông còn mì ăn liền không?
- Làm gì còn. Tiền cũng hết! Còn hơn 100đ, bữa nọ đổi tiền, họ thu rồi.
- Sao ông có ít vậy? Tôi nghe nói, có người đổi cả 100 ngàn. Có người dấu vợ tiền, phải gửi thư gấp về nhà chỉ chỗ cho vợ lấy đổi, kẻo mất toi! Tụi Cộng Sản khốn nạn ghê, 1đ của nó ăn 500đ của mình. Như vậy, ông chỉ còn mấy cắc bạc!
Lâm cười hì hì...
- Cả cơ nghiệp còn mất nữa là!...
Tin đồn “lên lớp” có thật. Sáng nay, cả trại mang không khí mới. Thay vì vác cuốc xẻng, các vị Đại Tá cắp vở như học sinh đi học. Mặt mũi người nào cũng sáng sủa, quần áo tuơm tất. Họ đi qua chỗ tôi ở, hàng ngũ rất nghiêm chỉnh, không thấy ai cười nói như khi đi lao động. Vì số cải tạo viên lên quá đông, nên phải chia lớp học thành nhiều đợt. Tên quản giáo từ ngoài đi vô, tìm B. Trưởng.
- 2g00 chiều nay, các anh “nên nớp”! Sáng nay khỏi “nao” động. Các anh chuẩn bị “nát” nữa cán bộ giáo dục sẽ đến hướng dẫn các anh về buổi “nên nớp” chiều nay..
Nói xong, hắn đi nhanh ra. Vô tư nhận xét, tên cán bộ quản giáo không đến nổi khắc nghiệt. Hắn chỉ làm đúng nhiệm vụ Trên đã giao phó. Trong vài trường hợp, hắn cũng giúp đỡ anh em như mua dùm thuốc lào cùng vai thứ cần dùng khác. Nhưng hắn rất kín đáo triệt để bảo mật, không nói cho ai biết chút gì về ý định của Trên. Trong B tôi, có anh mắc bệnh nghễnh ngãng phải đeo máy nghe bằng pin. Anh ta muốn dò xem chừng bao lâu nữa được tha về, nên ngỏ ý với tên quản giáo.
- Thưa cán bộ, chắc vấn đề học tập cải tạo còn lâu, cục pin nghe của tôi gần hết, xin cán bộ mua dùm cục khác.
Tên quản giáo cười:
- “No” gi, đủ mà! Không “nâu” đâu!
Anh ta mang chuyện đó nói với anh em. Mọi người đều phấn khởi.
Vào khoảng 9g00, tên cán bộ giáo dục đến. Hắn cho lệnh người nào ngồi vào chỗ nấy, xong bắt đầu!
- Theo đúng chính sách của Đảng và Nhà Nước, chiều nay các anh chính thức “nên nớp” học tập chính trị. Tôi cần nhắc nhở các anh mấy điểm sau:
Phải tuyệt đối im “nặng” trong “núc” giảng viên giảng dạy.
Không được đặt câu hỏi trước hay sau khi giảng dạy.
Không hút thuốc trong giờ học.
Phải giữ kỷ “nuật” trong “núc” di chuyển đi và về.
Đây, cơ hội để các anh tỏ bầy trước Cách Mạng “nòng” thảnh khẩn và quyết tâm học tập cải tạo. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh ngưới chạy “nại”. Xét cho cùng, các anh cũng chỉ “nà” tay sai của đế quốc. Cách Mạng có nhiệm vụ phải giáo dục các anh để trở thành những con người tốt, có ích cho gia đình, xã hội mai sau. Trong các anh, ai có điều gì cần hỏi?
Tất cả đều nói:
- Không!
Tên cán bộ đưa mắt nhìn khắp lượt, rồi thủng thẳng đi ra. Mọi người thở phào. Ai cũng mong chóng tới 2g00 chiều để được lên lớp.
Khoảng 11g30, toán “Bò Lục”, lên lớp buổi sáng trở về. Anh em xổ lại hỏi:
- Học gì đó ông
- Đế quốc Mỹ kẻ thù số 1 của nhân dân ta!
Hầu hết, nét mặt các học viên, người nào cũng lộ vẻ hài hòa, không mấy lo âu.
Buổi trưa nay, sau khi ăn xong, tôi nằm kềnh ra ván, ngửa mặt nhìn mạng nhện giăng đầy trần nhà. Bên cạnh, Mậu đã nhắm mắt, thở đều đều. Tên này hay thiệt, dễ ăn, dễ ngủ. Tôi nằm chờ tiếng kẻng.
Khi tiếng kẻng thứ nhất vừa vang lên, tất cả đều chồm dậy. Người chải đầu, người lau mặt vội vàng, bước nhanh ra cửa tập họp. B. Trưởng điểm số, xong cho lệnh đi. Đến cổng, anh em phải chờ báo cáo, trước khi đi vào lộ đá.
Từ nhà đến nơi học cũng khá xa, khoảng 1 cây số. Lớp học, xưa kia chắc là phòng hội của binh sĩ nên rất rộng, có thể chứa 3, 4 trăm người. Mỗi B ngồi vào ô đã được ấn định.
Ở cuối phòng, kê chiếc bàn gỗ mộc, không có ghế. Trên bàn đặt chiếc micro và ly nước. Mấy tên bộ đội lo về âm thanh chạy lăng xăng, sờ mó các dây điện, thỉnh thoảng lại ghé mồm thổi vào micro phù phù. Hai bên vách có treo 2 tấm biểu ngữ, nội dung đề cao vai trò của Xã Hội Chủ Nghĩa và khuyến khích học tập.
Có tiếng hô lớn: Chú ý! Mọi người im lặng tưởng như con ruồi bay qua cũng nghe rõ tiếng vỗ cánh.
Một tên Việt Cộng cao lớn, đỉnh đạc từ cửa hông bước vô. Sắc mặt lạnh lùng. Mái tóc hớt cao. Bộ quân phục khá tươm tất. Trông hắn có vẻ trí thức!
Có lẽ, tụi Cộng Sản phải chọn mẩu người này, tương đối “sạch sẽ” để phụ trách công tác giảng huấn, vì đa số sĩ quan của Quân Lực Cộng Hòa, đi học tập cải tạo đều có văn bằng, thấp nhất là Tú Tài phần I, cao nhất: Cử nhân, có một số nhỏ đã qua Cao Học! Các sĩ quan không bằng cấp, đi từ hàng binh sĩ lên, rất ít. Qua bản Sơ Yếu Lý Lịch, Cộng Sản đã nắm vững được tầm mức học thức của đối tượng.
Mở đầu bài học, tên Việt Cộng khẳng định, không có vấn đề “tẩy não” vì không ai có khả năng và quyền hành để tẩy não ai cả. Bộ óc con người gồm mấy chục ngàn sợi dây thần kinh, không dễ dàng xóa bỏ những gì đã ghi nhận từ lâu, để thu vào những cái mới không thích hợp. “Tẩy não hay không, do các anh”. Nếu các anh nhận thấy Cách Mạng đúng, chính các anh sẽ loại bỏ cái cũ do Mỹ, Ngụy đã nhồi nhét vào trí não các anh, mấy chục năm dài!
Phải nhận, hắn nói rất lưu loát, có tài hùng biện. Hắn áp dụng biện chứng pháp để xoay trở các lý lẽ trở thành “lô gích”.
Bài học đầu tiên: ĐẾ QUỐC MỸ, KẺ THÙ Số 1 CỦA NHÂN DÂN TA, TÊN SEN ĐẦM QUỐC TẾ! Bài học khá dài, học 2 buổi mới hết. Sau mỗi giờ, được nghỉ xả hơi 15 phút. Trong suốt 2 buổi học, tôi không thấy hắn nhìn vào mảnh giấy nào, hắn nói phăng phăng, rất khúc chiết, mạch lạc, chứng tỏ hắn nắm rất vững vấn đề. Giọng nói của hắn có uy lực và hấp dẫn. Chúng tôi cắm đầu, cắm cổ chép mấy chục trang. Vì viết quá nhanh nên năm đầu ngón tay nhiều lúc cứng đơ, viết không thành chữ.
Nội dung bài học, Đế quốc Mỹ, Tên “Thục Dân Mới” vô cùng tàn nhẫn, đã bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy. Nó là con đỉa 2 vòi, nó bóc lột nhân dân Thế Giới cũng như nhân dân trong nước. Nó xấu xa, đểu cáng, tàn bạo! Nó gây ra chiến tranh để thủ lợi. Số lượng bom đạn ném xuống cả hai miền Nam, Bắc trong hơn 20 năm chinh chiến vừa qua, bằng tất cả số lượng bom đạn của Đệ II Thế Chiến cọng lại! Ây là chưa kể hóa chất khai quang tiêu diệt 70% hoa mầu của nhân dân hai miền.
Nhờ vào Đệ II Thế chiến, Đế Quốc Mỹ đã thu lợi hang trăm tỷ Mỹ kim. Nói tóm lại, Đế Quốc Mỹ, tên Thục Dân mới vộ cùng nguy hiểm. Nó, kẻ hiếu chiến, chuyên gây chiên tranh để thủ lợi! Nó, tên sen đầm Quốc Tế!
Đại ý bài học về Đế Quốc Mỹ gồm các điều chính như trên nhưng qua lời dẫn giải, nó trở thành căm thù, phẫn nộ, không thể dung thứ!
Buổi tối, tôi dò hỏi, mới được biết, giảng viên tên Bình, Đại Tá Quân Ủy, thuộc Cục Chính Trị Hà-nội được điều vào Nam phụ trách phần giảng huấn.
Sau hai buổi học, B Truởng và Lâm, bây giờ trở thành thư ký chung của B, đi hội tại căn nhà quản giáo để lấy “Mục đích yêu cầu” về thảo luận. Theo chương trình, chúng tôi sẽ phải thảo luận đề tài này trong một tuần, mỗi ngày 2 buổi, y như lần trước. Chỉ có khác, sau khi thảo luận, mỗi cá nhân phải viết “bản thu hoạch” theo những câu hỏi do “yêu cầu” đề ra.
Cuộc học tập thảo luận này nghiêm túc hơn buổi học tập trước nhiều. Tên cán bộ giáo dục bám sát và theo dõi kỹ hơn. B vẫn được phân chia làm 3 Tổ riêng rẽ. Vì biết vấn đề học tập này có tầm mức quan trọng nên anh em có vẻ hăng say thảo luận và mạnh bạo nói. Một phần, nhờ vào đề tài chỉ nói riêng về Đế Quốc Mỹ, nên anh em phát biểu thoải mái, nó không dính dáng gì đến mình! Ai cũng nghĩ vậy! Ngày qua ngày, mỗi nguời lần lượt kể tội Đế Quốc Mỹ, nào đem bom đạn vào Việt Nam để giết chóc dân lành, nào thuốc khai quang, nào cố tình chia cắt đất nước lâu dài. Nhưng đến khi câu hỏi được đặt ra: Đế quốc Mỹ đã bóc lột nhân dân ta như thế nào?, mọi người đều ngẩn mặt, cố suy nghĩ, tìm hiểu xem Đế Quốc Mỹ đã bóc lột nhân dân Miền Nam những thứ gì, bằng cách nào? Nó phá đồi và rừng cao su để làm xa lộ chăng? Nó cưa cây, mở rộng đường phố cho xe chạy, đã làm mất vẻ thẩm mỹ của Saigon chăng? Đúng rồi, nó mua đồ cổ từ Huế chở về Mỹ, tức là nó làm hại nền văn hóa cổ truyền của Dân Tộc ta! Nhưng khi mua nó có trả tiền, trả đắt là khác, đâu phải bóc lột? Còn sự mang các di vật đó ra khỏi Việt Nam, chắc được sự đồng ý của chính quyền lúc ấy, cũng phải đóng thuế, vậy nó bóc lột cách nào mà hay vậy?
Tên cán bộ giáo dục, có mặt liên tục, khi đứng khi ngồi, luôn luôn dòm ngó, làm tinh thần anh em căng thẳng, có người bấn qua, tố tùm lum, không có cơ sở gì ráo trọi! Người nào cũng phải nói. Mỗi khi nhận thấy có ai ít tham gia thảo luận, hắn nhắc nhở, đôi khi gay gắt:
- Các anh phải đi thẳng vào vấn đề và khẳng định. Đế quốc Mỹ “nà” kẻ thù số 1 của nhân dân ta. Nó “nà” tên sen đầm quốc tế. Nó “nà” tên hiếu chiến. Nó “nà” tên đầu xỏ Thực Dân Mới! Nó chủ trương chia cắt đất nước ta vĩnh viễn, biến 2 miền Nam, Bắc thành 2 vùng thù địch. Các anh phải “nên” án, phải nắm vững quy “nuật” tiến hóa của nhân loại đang tiến theo 3 dòng thác Cách Mạng.
- Cách Mạng giải phóng Dân Tộc!
- Cách Mạng giải phóng Vô Sản Thế Giới
- và Cách Mạng đấu tranh của giai cấp công, nông trong “nòng” các Đế quốc!
Hắn nói như con vẹt. Tất cả chỉ là giáo điều. Nhưng sự hiện diện của hắn trong các buổi học tập làm chúng tôi cảm thấy vướng mắc, nhiều lúc bí quá phải nói bậy bạ cho xong chuyện, kết tội vô lý vẫn phải cố gắng tạo ra những bằng cớ, nếu không sẽ bị nó ghi tên vào cuốn sổ tay nhỏ, lúc nào cũng mang theo.
Sau một tuần lễ nói chán chê, bây giờ mới là lúc đi vào yêu cầu chính: viết thu hoạch. Bản viết phải trả lời tất cả những câu hỏi do yêu cầu đặt ra, do đó, dù muốn dù không, vô lý hay có lý, mọi người đều phải kết tội Đế Quốc Mỹ theo đúng dự tính của Cộng Sản!
Bài thứ hai về Ngụy Quyền cũng vẫn do tên Đại Tá Bình diễn giảng. Nội dung kết tội chính quyền Miền Nam trước đây đã cấu kết với Đế quốc Mỹ để phản lại Cách Mạng! Ngụy Quyền đã giam dân trong Ấp chiến luợc để kìm kẹp, bóc lột! Đạo luật10/59 của Ngô Đình Diệm đã loại Cộng Sản ra khỏi vòng pháp luật, tức “lê chiếc máy chém đi khắp Miền Nam để sát hại Cách Mạng!” Đã tạo ra bao nhiêu hình phạt, thuế khóa nặng nề để bóc lột hà hiếp nhân dân! Nói tóm lại, Ngụy Quyền là tay sai của Đế Quốc, do Đế Quốc tạo ra và sai khiến theo đúng đường lối của Chủ Nghĩa Thực Dân mới. Ngụy Quyền là một giai cấp ăn trên ngồi trốc, Việt gian bán nước!
Vấn đề sinh hoạt, thảo luận vẫn như trước. Anh em vẫn sinh hoạt nghiêm túc vì cho rằng cả hai bài đều không dính dáng tới mình. Nếu mình có chửi chính quyền Miền Nam cũ cũng chẳng có gì quá đáng, vì họ, một bè lũ tham nhũng, mua quan bán tước, vô tài bất tướng, chỉ ăn chơi phè phỡn, vợ lẻ con thêm, họ tích lũy tiền bạc đi ngoại quốc, xe hơi nhà lầu hưởng thụ sướng thân, ai chết mặc ai! Một lũ, chỉ biết nói phét khi có quyền, tung oai tác quái, khi hữu sự lại bỏ chạy như đàn chuột. Một lũ hèn nhát không xứng đáng lãnh đạo Quốc Gia!...
Tôi suy nghĩ một mình, nếu Miền Nam đừng có những vụ lộn xộn về chính trị, nếu ông Diệm không bị giết lãng xẹt, nếu công trình Ấp Chiến Lưọc thành công, tách cá ra khỏi nước, tách Cộng Sản ra khỏi dân thì đâu đến nổi nào!...
Tên cán bộ giáo dục thỉnh thoảng đứng lên đi đi, lại lại, hai tay khoanh sau lưng như nghiền ngẫm điều gì. Khi gần hết giờ sinh hoạt, hắn mới có ý kiến:
- Trong mấy ngày, tôi “nắng” nghe các anh học tập, thảo “nuận” về Ngụy Quyền. Tôi nhận thấy, đại bộ phận các anh đã tiến bộ, đã có những tư tưởng dứt khoát với chế độ cũ, nhưng cũng còn một số anh “nấn cấn”, việc phát biểu chưa rõ ràng, quyết “niệt”! Qua bài học, các anh nhận biết, Ngụy Quyền đã bắt các thanh niên hy sinh xương máu cho bọn chúng thụ hưởng, đã dâng Miền Nam cho Đế quốc Mỹ, đã cấu kết với Thực Dân Mới nhằm chia cắt vĩnh viễn Tổ Quốc ta. Tội ấy, vô cùng to “nớn”, “nịch” sử sẽ ghi nhận, nhân dân sẽ không quên! Các anh phải nắm vững mục đích yêu cầu để “nàm” cơ sở thảo “nuận”, học tập, có ích ngay cho bản thân. Các anh phải biết rõ điều đó chứ? Các anh phải triển khai nội dung vấn đề, với “ný nuận” sâu sắc, các anh quật ngã Ngụy Quyền ngay trên cơ sở của nó. Các anh phải căm thù “nên” án đạo “nuật” 10/59 đã sát hại bao nhiêu chiến sĩ Cách Mạng? Các anh phải...
Nói đến đây, tự nhiên hắn khựng lại như không nghĩ ra việc gì sẽ nói tiếp. Dòng tư tuởng của hắn bị cắt đứt. Mọi người ngồi im chờ đợi. Bỗng hắn nói:
- Các anh phải tiếp tục thảo “nuận” đi chứ!
Vừa lúc ấy, tiếng kẻng rền vang. Mọi người đứng nhanh dậy. Căn nhà tự nhiên ồn ào hẳn. Tiếng muỗng, gà-mên khua rổn rảng. Bữa cơm trưa, ai nấy ăn vội để ngả lưng vì mỏi mệt, dù cho sau mỗi giờ có nghỉ ít phút. Đôi lúc quá mệt, anh em muốn kéo dài thời gian nghỉ, nhưng tên cán bộ đã lưu ý ngay. Mọi người đều có cảm tưởng mình bị kiềm chế và bắt buộc phải làm theo những gì Cộng Sản muốn.
Bản thu hoạch kỳ này, sau khi làm xong phải thông qua Tổ trước khi nộp cho tên cán bộ giáo dục. Lần luợt mỗi người phải đọc bản thu hoạch do mình viết cho cả Tổ nghe để phê bình xậy dựng nếu có sơ sót. Một chiếc bẫy nữa lại mở ra, để nhốt kỹ con mồi. Nhưng cũng ít ai nhậy cảm để đoán biết ý đồ của Cộng Sản! Anh em chỉ nhận thức rõ ràng saubài học thứ ba: Ngụy Quân.
BàiNgụy Quân, vẫn do tên Đai Tá Bình lên lớp. Có lẽ đây là một giảng viên ưu tú của Cộng Sản, họ cần mang ra để áp đảo tinh thần đối tượng, cho đối tượng nhận thấy, không phải Cộng Sản chỉ gồm toàn hạng “răng đen, mã tấu!”
Với giọng nói đanh thép, tên Đại Tá Bình gắt gao lên án Ngụy Quân suốt buổi học. Tuy không ai nói ra, nhưng tôi tin, trong lòng tất cả mọi người, ít nhiều gì cũng thấy sượng sùng, nhột nhạt.
- Tất cả tội lỗi do các anh chịu trách nhiệm. Ngụy Quyền có mặt do Đế Quốc, nhưng Ngụy Quyền tồn tại được do Ngụy Quân! Nếu không có các anh, Ngụy Quyền không sống được một ngày. Các anh đã tạo nên nhiều tội ác, tàn sát các chiến sĩ Cách Mạng, giết hại dân lành, đốt phá nhà cửa, cướp bóc, hảm hiếp, tất cả đều do bàn tay đẫm máu của các anh gây nên! Binh sĩ, họ có bắn giết cũng do lệnh các anh! Họ không có tội gì cả! Tội của các anh trời không dung, đất không tha, tre trúc không ghi hết, nước biển Đông không rửa sạch! Các anh đã ý thức được chua?... Các anh thuộc giai cấp ăn bám, được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi, nắng không ưa, mưa không chịu, mát trời đi chơi! Giai cấp các anh là giai cấp đồi trụy, thoái hoá!...
Tất cả lớp học im như tờ. Hai mắt tên Đại Tá Bình sáng quắc chiếu rọi vào các học viên, như quất vào mặt mỗi con người hiện diện một ngọn roi vô hình, tuy không nhìn thấy nhưng vô cùng đau đớn!...
Buổi học tan trong không khí buồn thảm. Mặc cảm tội lỗi đã làm mọi người mất đi phần tự tin. Chúng tôi nhìn nhau như nhìn thấy niềm tủi hổ của chính mình. Tất cả chỉ vì thua trận! Ngược lại nếu do cơ trời xếp đặt, Miền Nam thắng thì vấn đề tù, hàng binh Cộng Sản cũng sẽ bị giáo dục như họ đã giáo dục chúng tôi hôm nay, nếu có khác, Miền Nam sẽ chỉ kết tội Đảng Cộng Sản chứ không kết tội cá nhân! Trong các buổi sinh hoạt học tập bài Ngụy Quân, được tên cán bộ giáo dục đặc biệt chú ý.Vì đây, mục đích chính, Cộng Sản muốn khai thác, nên vấn đề “mục đích yêu cầu” có phần kỹ hơn hai bài trước.
Từ phút đầu thảo luận, anh em ai nấy đều lộ về mặt nghiêm túc xen lẫn lo âu, vì đây bài học tự tố cáo tội lỗi mình. Mọi người chợt nhớ lại, buổi sinh hoạt thảo luận đầu tiên, tha hồ nói, tha hồ tự kết tội vì ai cũng coi như một trò chơi không nguy hiểm, dù có nói gì chăng nữa, gió cũng bay lên trời! Những lúc này chắc ai nấy đều giật mình vì những gì trót nói đã được ghi nhận, dù vắn tắt do thư ký Tổ đã trao cho tên cán bộ giáo dục cầm giữ trong tay. Do đó, trong buổi thảo luận hôm nay cũng như những ngày kế tiếp, nếu ai cố tình nói trái với những điều hôm trước, sẽ được anh em và tên cán bộ “xây dựng” ngay! Khi biết dại đã muộn!...
Trời mấy bữa nay không mưa, nên không khí có phần oi bức. Ngồi trong nhà, vài người luôn tay gạt mồ hôi trán. Mới sáng sớm, nắng đã gay gắt. Không một ngọn gió.
Tên cán bộ giáo dục, tay cầm tập giấy cuộn tròn, để ghi nhận những lời phát biểu của anh em trước và cuốn sổ tay như thường lệ. Mọi người đã ngồi thành vòng tròn, nhưng chưa đi vào thảo luận.
- Các anh “động não” đi chứ? Tên cán bộ nói lạnh lùng.
Lâm với tư cách thư ký, đọc to bản mục đích yêu cầu, rồi mời anh em thảo luận câu hỏi thứ nhất!
Cuộc sinh hoạt, nói cho đúng cũng tương tự như buổi tự kết tội hôm trước, chỉ khác nó tỉ mỉ, chi tiết hơn về số lượng huy chương cũng như các cuộc hành quân. Tôi nhận thấy, hình như mọi người cố moi ra những sự kiện càng nhiều càng tốt, để chứng minh cho lời nói của mình đúng sự thực. Lâm ghi chép tóm lược các điểm chính rồi đọc lại cho đương sự cũng như toàn Tổ nghe. Dĩ nhiên, tên cán bộ giáo dục càng nghe kỹ hơn. Đôi lúc hắn giở cuộn giấy cắm cúi nhìn.
- Này anh Định, sao bữa trước anh nói, đã đốt 25 căn nhà, giết 25 con trâu, 7 con bò, hôm nay anh lại nói, đốt 20 nhà, giết 10 trâu và 5 bò, thế “nà” nghĩa “nàm” sao?
Sắc mặt Định tự nhiên đỏ gay:
- Dạ, bữa trước tôi lầm, nay suy nghĩ lại, nói cho đúng!
- Còn huy chương, anh nói, có 7 Anh Dũng Bội Tinh, gồm 3 ngôi sao bạc, 4 ngôi sao đồng, nay anh nói chỉ có 2 sao bạc và 2 sao đồng, sao thế nhỉ?
Giọng nói của hắn có vẻ mỉa mai, diễu cợt vì nghi Định cố tình nói rút đi để nhẹ tội!
- Dạ, tôi nghĩ, anh thư ký đã ghi không đúng lắm. Tôi có nói thế bao giờ? Tôi đâu dám giấu diếm điều gì vì Cách Mạng đã biết hết, biết rõ hơn chúng tôi nữa. Các bản Tướng Mạo Quân Vụ hãy còn y nguyên tại Bộ Tổng Tham Mưu làm sao nói khác đuợc?
Tên cán bộ lừ mắt nhìn Định, không nói gì. Anh em lại tiếp tục tự kể tội theo yêu cầu. Có vài người khi nhắc lại “quá trình tội lỗi” đã rơm rớm nước mắt! Giọng nói nghẹn ngào! Tôi chẳng biết họ cảm động thật hay đóng kịch?
Hôm nay, buổi sinh hoạt chót. Mọi người đều uể oải, thấm mệt. Tất cả những gì chứa chấp trong lòng đã vơi đi, tưởng như vậy con người sẽ nhờ đó nguôi ngoai cơn sầu muộn! Ai ngờ, sau khi đã nói hết tội lỗi, tự nhiên trong lòng lại buồn phiền, tủi nhục hơn khi chưa nói. Tất cả những vinh quang ngày trước, mọi người đều hãnh diện khi mang cấp bậc trên cổ áo, khi đeo những hàng huy chương rực rỡ trên ngực, hôm nay, mỗi thứ, trở nên một sỉ nhục, một hối hận không sao chối bỏ!
Tên cán bộ giáo dục đứng lên, nhìn khắp luợt:
- Sau những buổi sinh hoạt học tập, tôi có nhận xét chung như thế này. Có những anh thành thực tự nói ra “nỗi nầm” quá trình của mình, không giấu diếm, không cường điệu. Nhưng cũng còn một số anh học tập, trước sau không như một! Các anh sợ gì chứ? Nếu Cách Mạng không khoan hồng, muốn giết các anh, đã giết rồi, chẳng phải chờ đến hôm nay, qua “nời” thú tội dù đúng, dù sai! Các anh “nà” những người có tội đối với nhân dân và Tổ Quốc. Nhờ vào các anh, Ngụy Quyền mới tồn tại. Chiếc máy chém của Ngô Đình Diệm, nếu có “nê” đi khắp Miền Nam để sát hại những chiến sĩ yêu nước, cũng do các anh bảo vệ và thi hành. Mối thù này, Cách Mạng và nhân dân không bao giờ quên! Các anh không thể tránh tội bằng ngụy biện, bằng dối trá. Bàn tay các anh đã đẫm máu! Chỉ còn một cách để các anh có thể trở về với nhân dân, với Tổ Quốc, “nà” các anh hãy thành thực nói cho hết, chẳng những tội “nỗi” của mình, còn của bạn mình nữa! Các anh xây dựng “nẫn” nhau, để cùng tiến bộ!
Tên cán bộ nói, hai bên mép sùi bọt trắng. Mắt hắn trợn trừng để tăng thêm vẻ quyết liệt cho gưong mặt quê mùa. Anh em không ai nói câu nào. Một không khí nặng nề bao phủ căn nhà. Tôi nhìn đồng hồ tay, chỉ còn 5 phút phù du nữa, hết giờ sinh hoạt. Nhưng 5 phút “thời gian tâm lý” dài ghê! Tên cán bộ không nói. Chúng tôi cũng ngưng tự kể tội. Cả hai, đều sống trong trạng thái chờ kẻng tan tầm!...
Tên cán bộ quay lưng bước ra khi tiếng kẻng vừa gõ. Chúng tôi vội vàng đứng dậy, vươn vai, ngáp dài!
Tôi nhìn ra ngoài, ánh nắng làm chói mắt. Có người không chịu nổi cơn nóng, tụt nhanh áo quần chạy ra ngoài xối nước. Đến giờ cơm, mọi người ăn uể oải. Bài học Ngụy Quân đã làm ai nấy thấm đòn và biết rằng, với tội lỗi ấy không dễ gì xóa bỏ! Cái hố cách biệt giữa những con người không cùng chung ý thức hệ thật rộng, thật sâu, cơ hồ chẳng cách gì lấp bằng được. Nhưng không phải bất cứ ai cũng có được nhận thức như vậy. Còn rất nhiều người vẫn tuyệt đối tin tưởng vào lời hứa hẹn của Cộng Sản: Nay mai, sau khi học xong 8 bài, họ sẽ được làm lễ mãn khóa tại căn cứ Sóng Thần, được trả tự do và “phục hồi quyền công dân”.! Họ sẽ trở thành người dân lương thiện, sống hiền hòa bên cạnh vợ con, nuôi sống gia đình bằng sức lao động của chính mình. Họ tự hứa, sẽ quên hết quá khứ, chỉ có hiện tại và tương lai là đáng kể!...
Trong 8 bài học tập, chỉ có 4 bài do tên Đại Tá Bình phụ trách, thực sự quan trọng. Đó là các bài: Đế Quốc, Ngụy Quyền, Ngụy Quân và Lịch Sử Đấu Tranh của Nhân Dân Việt Nam. Bài học lịch sử, lẽ dĩ nhiên, được nhìn và phân tách với nhãn quan Mác-Xít. Họ đề cao ý thức đấu tranh của Đảng Cộng Sản Đông Dương, còn các nhân vật lịch sử vĩ đại khác, chỉ được nhắc sơ qua như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, người Anh Hùng Áo Vải. Một bài khác, tương đối, cần cho sự hiểu biết, đó là bài Lao Động. Bài nay do tên cán bộ, người miền Trung dẫn giảng. Nhưng dù bài nào, với nội dung ra sao, chúng tôi cũng vẫn bị nghe những lời xỉ vả và dọa nạt như nhau:
- Các anh, hạng người ăn bám trên sức lao động của người khác. Các anh không lao động, tức không tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Các anh là hạng người vô dụng! Hạng người chuyên dùng bạo lực để hà hiếp kẻ khác, sống để thụ hưởng, tạo ra bao nhiêu tệ đoan cho xã hội! Miền Nam trước đây, chỉ sống nhờ vào sự phồn vinh giả tạo do Đế Quốc cung cấp!
Tất cả 3 giảng viên, may thay, không ai nói ngọng. Sau bài học cuối cùng: “Trách nhiệm và bổn phận của các Cải Tạo Viên Trong Đời Sống Mới!” mọi người đều hí hửng tin mình sắp được tha, cũng như trường hợp Bác Sĩ Hoàng và Đại Tá Cẩm, sau hơn 1 tháng đái ỉa trên giường, được Cộng Sản cho về, vì đã “học tập tốt, lao động tốt!”. Nghe đâu Đại Tá Cẩm còn được mời lên Tivi để ngỏ lời tri ân Đảng và Nhà Nước cũng như nhân dân đã tha tội chết!
Sau hơn 2 tháng học tập liên tục, theo lệnh trên, khu Đại Tá cũng như khu Trung Tá, phải đề cử người lên đọc cảm tưởng trước Ban Giảng Huấn và các cấp cán bộ, những gì đã tiếp thu sau 8 bài.
Buổi đọc cảm tưởng được tổ chức trọng thể. Đại diện các khu đều có mặt. Vị Đại Tá được đề cử thay mặt anh em cung cấp đã đọc một bài cảm tưởng “hèn hạ nhất Thế Giới”. Anh tự kết tội mình đã đành, còn kết tội chế độ, kết tội anh em:
- Thưa quý cán bộ, tên Đại Tá Bối đã chết rồi, chết một cách ô nhục! Bây giờ, người đang đứng trước mặt qúy vị đây, chỉ là một cải tạo viên, một con người đã ý thức được quá trình tội lỗi của mình và đồng bọn! Nó rất xấu hổ và nhục nhã, mỗi lần nhìn thấy mặt mũi mình trong gương!
Nói đến đây, hắn ôm mặt khóc nức nở...
Vị Đại Tá nói xong, đến một Trung Tá, tương đối anh này ít hèn hơn, tuy bài đọc cũng không đi ra ngoài mục đích do Cộng Sản yêu cầu.
Nói cho đúng, mọi bài đọc đều thông qua anh em, nhưng anh em vốn không tốt gì, chỉ nghĩ đến mình, làm mọi cách để mong sớm được tha, nên ai muốn viết sao, muốn đọc gì tùy ý, miễn không phải mình trực tiếp đảm nhiệm.
Vào những ngày tháng sau này, không hiểu Đại Tá Bối nghĩ sao về sự bốc đồng của mình lúc đó, cho đến hôm nay, không hiểu đã được Cộng Sản thả chưa? Nhưng tôi tin, thời gian và những nhục nhằn do Cộng Sản áp dụng trong các Trại Tập Trung Cải Tạo tại miền Bắc, chắc đã làm sáng mắt những ai còn mơ hồ, tin tưởng vào chính sách: “Truớc sau như một!”
Đầu tuần, anh em lại tiếp tục lao động. Lần này thực hiện công tác làm con đường lót đá. Con đường chạy dài từ cổng chính cuối Trại, dài khoảng 2 cây số. Mỗi B phụ trách chừng 20 thước. Vừa làm, anh em vừa bàn tán:
- Con đường này để đón quan khách thăm viếng!
- Đếch phải, nó được sử dụng cho đoàn Molotova đón tụi mình ra căn cứ Sóng Thần làm lễ mãn khóa!
- Cũng đéo đúng! Nó dùng cho tụi “cối” đi, đỡ bẩn chân lúc trời mưa!
Tiếng nói cười hô hố, vui vẻ, hình như mọi người đã quên đi những ngày tháng gò bó vừa qua. Thế mới hay, lao động tay chân, thoải mái hơn lao động đầu óc nhiều!
Những tảng đá to, nhặt quanh quẩn xung quanh Trại, mang về trải trên mặt đường. Cục nào quá to, dùng cuốc chim bổ vỡ. Trong vòng mấy ngày, con đường mới đã làm xong. Chiếc Molotova đầu tiên lăn bánh thoải mái. Tiếng đá kêu lạo xao duới từng vòng bánh xe. Tên lái xe, đạp ga lướt nhanh trên mặt lộ. Tiếp theo, một chiếc Toyota mầu trắng cũng vụt qua, trên có vài tên “cối xanh”, ngồi chỗm chuệ. Chắc cấp lớn! Trong những ngày trước, thỉnh thoảng cũng có vài chiếc ra vô, nơi khu “Bò Lục”. Hỏi ra, họ đến thăm vài người trước đây đã làm việc tại Camp-David, hòa hội 4 phe!
Trưa nay, sau khi vừa ăn xong, chúng tôi được lệnh sửa soạn sẵn giấy bút, chờ B. Trưởng hội ở Tiểu Đoàn sẽ về thông báo! Dưới ánh nắng, B. Trưởng có vẻ mệt mỏi vì đến giờ này chưa được ăn, lừ lừ đi vô nhà.
Mọi người bu quanh. B. Trưởng nói vội vã:
- Anh em ghi nhanh!
Ai nấy giấy bút sẵn trong tay. Tiếng đọc chậm rãi:
BẢN TỰ KHAI.
I: Sơ yếu lý lịch: Họ và tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, trú quán, ngày vào lính, sắc lính, nơi đào tạo, số quân, cấp bậc, chức vụ, đơn vị cuối cùng.
II: Bản thân: quá trình hoạt động từ năm lên 6 tuổi tới ngày 30-4-75. Học trường Tiểu học, Trung học, Đại học nào? Giáo viên tên gì? Bạn với những ai? Nói rõ chi tiết: ngày vào lính, nơi đào tạo, các đơn vị đã qua, các chức vụ đã giữ. Ngày, tháng thăng cấp. Các cuộc hành quân? Các loại huy chương? Ai chỉ huy? Cố vấn tên gì, cấp bậc? Tài sản tích lũy?
III: Liên hệ gia đình: Tên tuổi vợ con, ông bà nội ngoại, bố mẹ, anh em, vợ con họ làm nghề gì, hiện ở đâu?
IV: Bản thân có giúp gì cho Cách Mạng? hoặc trong gia đình có những ai tham gia Cách Mạng?
V: Phải thành thật khai báo, nếu khai man, đương sự sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hết!
Sau khi đọc xong, B. Trưởng nằm sóng soài ra ván. Anh em người nào mặt cũng ngẩn ra.
- Bao giờ nộp, B. Trưởng?
- Trong 3 ngày. Bắt đầu từ mai. Lát nữa phát giấy, mỗi nguời 8 tờ!......................
Lâm đến bên tôi:
- Chết cha rồi ông ơi? Khai 4, 5 đời thế này thì bỏ cha! Khai rồi, mấy ông chưa tin, bắt khai lại, cái đó mới chết!
- Ai bảo buông súng? Tôi đã giải ngũ từ năm 74, nên đếch có trách nhiệm gì về vấn đề này, bây giờ cũng gánh chịu hậu quả như nhau!
Ngay buổi chiều hôm đó, tên cán bộ giáo dục đi cùng tên quản giáo đến, lưu ý chúng tôi phải làm bản Tự Khai theo đúng thời gian ấn định.
- Tôi nhắc “nại”, Cách Mạng không bắt các anh phải cường điệu, nhưng nghiêm trị những ai gian dối, cồ tình giâú diếm tội “nỗi”, các anh rõ chứ?
- Dạ, rõ!
Hai tên đi ra. Anh em, ai ngồi chỗ nấy, bắt đầu suy nghĩ, hồi tưởng ghi vào giấy nháp những gì do ký ức cung cấp.
Mậu hỏi tôi:
- Chết cha! Làm sao biết tên ông bà nội, ngoại, và còn làm nghề gì nữa? Mình xa nhà từ thuở nhỏ, có bao giờ nghe nói đến! Còn họ hàng, anh em, sao đây ông?
- Biết đâu khai đó! Tôi cũng như ông, chẳng biết tên ông bà nội, ngoại, họ hàng cũng không! Có mấy đứa cháu cũng không biết tên nữa là!... Mình còn nhớ được tên bố mẹ, vợ con đã may lắm rồi! Biết sao viết vậy!
Buổi tối nay, ít người ra sân. Trăng hạ tuần lên muộn. Những vì sao lấp lánh trên cao đẹp như những hạt kim cương. Vũ trụ bao la, sao cuộc sống của con người lại hạn định trong một chu vi quá nhỏ hẹp? Chính trị đã chia rẽ và làm khổ con người trong mọi hoàn cảnh. Ai cũng biết kiếp người hữu hạn, cõi đời khổ ải, nhưng mỗi khi nhân danh nó để đấu tranh, con người lại đưa nó vào khổ não khác có phần khe khắt hơn lúc trước!
Tôi ngồi một mình suy nghĩ vẩn vơ, quay mặt nhìn vùng ánh sáng cuối chân trời. Tất cả những người thân yêu đều có đấy, nhưng chắc chắn không ai đoán được những gì tôi đang gánh chịu. Giấc ngủ đêm nay không yên. Nó chập chờn, khắc khoải vì trong đầu vương vấn những câu hỏi của bản Tự Khai, rất khó giải đáp ổn thỏa!
Sau buổi ăn sáng vội vàng, mọi người cắm cúi viết. Bản Tự Khai này, không ai có thể giúp đỡ nhau vì mỗi người có hoàn cảnh riêng. Tôi viết từ sáng tới chiều thì xong, vì trường hợp của tôi rất giản dị: Bố mẹ chết hết, ông bà nội ngoại không nhớ. Họ hàng thân thiết không có, chỉ có vài anh em và vợ con. Vợ tôi, con một, nên đỡ hẳn gánh nặng phải khai. Đơn vị tôi phục vụ từ Phòng 5 Tổng Tham Mưu tới Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, nên không có gì rắc rối. Còn huy chương toàn loại ăn giỗ như: quân phong, quân kỷ, Tham Mưu, Kỹ Thuật, Lục Quân Huân Chương. Chỉ có chiếc Bảo Quốc Huân Chương hạng 5, còn có đôi chút giá trị! Nhưng tất cả các huy chưong nói trên, đều được cấp theo thâm niên công vụ, không có cái nào được trả bằng xương máu. Khi còn tại ngũ, tôi ít dám mang, dù ngày Đại Lễ, vì sợ anh em cười, “lính văn phòng làm le”. Nay tôi thấy có người khai, riêng huy chương đã đầy 2 trang, vì mỗi chiếc Anh Dũng Bội Tinh, phải khai rõ vì sao được trao, tại mặt trận nào? Có người nói:
- Mỗi Anh Dũng Bội Tinh, 1 năm cải tạo đó, anh em!
Tuy câu nói đùa, nhưng nhiều người nghe cũng hơi chột da! Những ai trong binh nghiệp, bị thuyên chuyển nhiều nơi, việc khai báo rất vất vả. Đông con, nhiều anh em, họ hàng cũng vậy! Nhiều người phải xin thêm giấy, khai tới 3,4 chục trang chưa hết!
Sau 3 ngày, mọi người phải đọc bản Tự Khai trước Tổ, dĩ nhiên, có sự hiện diện của tên cán bộ giáo dục, để bổ khuyết những gì thiếu sót hoặc không đúng với lời tự thú trong lúc học tập hôm trước. Giữa lúc anh em đang sinh hoạt, tên cán bộ bỗng nói:
- Tôi “nưu” ý các anh, bên khu Đại Tá có những anh khai man, giấu diếm như anh Z, có mấy ngôi nhà cho Mỹ thuê, không khai. Chúng tôi đã nhanh chóng tìm ra và cảnh cáo anh Đại Tá Z. Anh đã thú nhận tội “nỗi” và đã khai “nại” Vậy, rút kinh nghiệm, các anh chớ nên “nấn cấn” để khỏi phải khai đi, khai “nại”, mất công các anh, mất thì giờ của chúng tôi, vô ích!
Các bản Tự Khai sau khi thông qua Tổ, gom lại, trao cho tên cán bộ giáo dục. Mọi người thở phào nhẹ nhõm dù sao cũng đã xong chuyện. Vấn đề hiện nay chỉ còn chờ lễ phóng thích. Nhưng họ có biết đâu, chính họ đã tự kết tội, đã tự ký tên vào bản án tử hình, cho phép Cộng Sản muốn thi hành bản án đó lúc nào họ muốn! Chiếc bẫy cuối cùng, Cộng Sản đã khóa chặt, giam kín những con mồi ở trong không cách nào vuột khỏi!...
Chúng tôi lao động cầm chừng vài bữa. Vào một trưa chúng tôi được lệnh, đúng 2g00 chiều mang hết tư trang ra con lộ đá mới hoàn thành để điểm nghiệm.
Những tấm nylon đủ mầu được trải ra bầy quần áo, xà-bông, kem đánh răng, khăn mặt, lon, ca, muỗng, những hũ chao, những gói mì, thuốc lào, điếu cầy, giầy dép và giấy bút v.v... trông như ngôi chợ trời.
Một lũ Việt Cộng đi khám xét, chúng giở tung áo quần, nắn vuốt từng thứ rất kỹ lưỡng để xem có ai giấu diếm giấy tờ hoặc vàng bạc. Mỗi người phải làm 2 tờ khai tư trang, vật dụng, mình giữ một, Việt Cộng giữ một. Cuộc điểm nghiệm mất chừng 2 tiếng. Chúng tôi quấn đồ, thu dọn, sắp xếp lại cũng mất chừng nửa tiếng. Làm vừa xong trời đổ mưa. Anh em ào ra sân vừa tắm vừa hứng nước giặt giũ.
Buổi tối,sau cơn mưa, trời mát, chúng tôi ngồi nói chuyện. Tất cả đều dự đoán, sắp có chuyện gì xẩy đến và căn cứ Sóng Thần với lễ mãn khóa được số đông tin tưởng.
Xế trưa hôm sau, B. Trưởng báo cho anh em, chuẩn bị hành trang để tối nay chuyển trại. Mọi người đều vội vã thu vén vật dụng. Nước đựng trong các thùng đạn được đổ hết để mang theo dùng. Tên Việt Cộng đeo quân hàm Thượng Sĩ, có mặt ở đó, nói:
- Các anh không cần mang theo gì cả. Nơi sắp đến, có đầy đủ tiện nghi chứ không như đây đâu. Các anh để “nại” những thứ đó cho người tới sau dùng.
Tất cả đều nghe lời, chỉ mang theo túi áo quần như khi mới đến.
Chúng tôi được lệnh ăn cơm sớm hơn thường lệ.
Khoảng 6g chiều, đoàn Molotovà tiến đến. Đoàn xe này dài bằng đoàn xe đưa chúng tôi tới đây mấy tháng trước. Lệnh tập họp được phổ biến. Chúng tôi xếp hàng hai theo tên quản giáo dẫn ra chiếc xe đã dành sẵn cho từng B. Chưa được lệnh lên xe, chúng tôi đặt hành trang trên mặt đá lổn nhổn dọc theo bên hông xe, chờ đợi! Những đốm thuốc lập lòe đó đây, xen kẽ tiếng nói thì thầm đứt, nối!....
--------------------------------
1 Viết cảm tưởng và ý nghĩ của mình sau khi xem. Cộng Sản dùng từ ” Thu hoạch” với nghĩa rộng, sau mỗi bài học tập, kết quả của công tác trồng trọt, làm ruộng cũng thâu hoạch v.v..