Số lần đọc/download: 1122 / 8
Cập nhật: 2015-07-12 11:45:57 +0700
Chương 2
Đ
i qua Đệ nhất động chừng hai mươi cây số, còn có một cái động khác nữa cũng không kém phần nổi tiếng, đã hoá bảo tàng lịch sử có một không hai của tỉnh Quảng Bình. Cái động ấy mang biệt danh quân sự K18. Đó là cái hang đá ở cây số 16 trên đường 20, con đường huyết mạch ở phía Tây Trường Sơn, nối với đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử. Trong những năm chiến tranh, để mở con đường chiến lược này, đơn vị B67 Bộ Giao thông vận tải đã huy động quân đông tới mức, nói như một phóng viên thời ấy, thì “một mét đường một người”. Họ đã xẻ dọc Trường Sơn để phục vụ chiến dịch. Đánh hơi thấy con đường, giặc Mỹ cũng huy động đến tối đa sức mạnh quân sự mà chúng có được để hủy diệt. B52 ngày đêm chà đi, xát lại. Núi lở. Rừng cháy. Sông cạn. Suối khô. Núi đá bốc mùi vôi khê nồng nặc. Mặc dù thế, người, xe, đạn dược, vũ khí, thực phẩm vẫn như dòng lũ lớn, cuồn cuộn chảy qua đây, đổ vào chiến trường. Hàng vạn thanh niên xung phong đã lấy máu mình nuôi sống con đường. Người có thể chết, chứ con đường không thể chết.
ở cái cung đường khốc liệt, tưởng như chỉ có bom đạn, lửa cháy, máu đổ, ai ngờ lại nảy sinh một mối tình thật cảm động. Gọi là tình yêu thì hình như là chưa phải. Chàng lái xe đã phải lòng một cô gái mở đường. Cô gái đã băng qua bom đạn cứu xe anh trong một lần đường tắc. Thế rồi anh nhận ra cô là người cùng quê, thuở bé lại cùng học một trường. Và rồi tình yêu nảy sinh từ lúc nào không biết nữa.
Buổi sáng ngày 14 - 11- 1972, sương mù dâng cuồn cuộn. Cung đường âm u trong bầu sương núi và yên tĩnh đến rợn người. Trong khoảnh khắc ấy, ngỡ như không hề có chiến tranh. Chàng trai cùng ba người bạn lái xe tức tốc cắt rừng băng tới thăm đồng hương cùng bạn bè cô. ở chiến trường khốc liệt này, thật khó kiếm được một giây phút thanh thản như thế. Bởi vậy, họ vừa đi vừa chạy. Gặp nhau chưa kịp thở thì B52 đã ập đến. Tám người vừa táp vào hang đá thì bom đã xối và cả cánh rừng rung chuyển như động đất. Một khối đá lớn, nặng đến mấy vạn tấn từ đỉnh núi hồng hộc lao xuống, điên khùng bít kín của hang. Vũ Xuân Hoàng, anh bạn dẫn đường của tôi, người đã trực tiếp chứng kiến cảnh ấy, nhớ lại:
- Lúc đó, quả thật là không thể tưởng tượng được. Tất cả diễn ra nhanh quá. Không biết ở đâu lại nảy nòi ra cái khối đá ghê tởm như vậy. Ngay sau khi ngớt bom, đơn vị đã đổ lực lượng ra để phá sập, cứu người. Nhưng vị trí quá hiểm hóc như anh thấy đấy, chỉ có một con đường nhỏ hẹp vắt ngang sườn núi, một bên là vực sâu hun hút như thế này, biết xoay xở ra sao? Chúng tôi đã dùng hai xe ủi, buộc cáp, kéo khối đá ra. Nhưng khối đá vẫn câm lặng, không nhúc nhích, mà rốt cuộc, cả hai xe đều lăn xuống vực. Lái xe hy sinh. Chúng tôi bàng hoàng, bất lực. Chỉ còn cách đánh mìn phá cửa hang thôi. Nhưng dùng mìn với bộc phá quá bằng giết anh em. Người trong hang kêu cứu, rồi phấp phỏng hy vọng. Người ngoài hang chỉ còn biết khóc rấm rứt, vì hoàn toàn tuyệt vọng. Chưa bao giờ tôi ở trong một hoàn cảnh kinh khủng như thế. Trông thấy anh em chết đấy mà chịu. Bây giờ nghĩ lại còn thấy rùng mình. Chúng tôi có ác với ai bao giờ đâu mà sao giời lại ác với chúng tôi như thế cơ chứ. Cực quá. Thế rồi, chẳng ai bảo ai, chúng tôi dồn tất cả đường sữa mình có được, dành hết cho anh em. Rồi lái xe, rồi bộ đội đi qua, ai biết cũng để đường sữa lại. Ngay cả lúc trong hang không còn tiếng kêu nào nữa, có anh lái xe vẫn lấy hộp sữa cuối cùng của mình ở trong ca-bin, để vào đống sữa trước cửa hang, rồi mới lái xe đi. Chiến trường những năm đó, anh thấy đấy, khan hiếm lắm. Cái gì cũng khan hiếm. Đường sữa thật quý hơn vàng. Vậy mà ở đây, đường sữa chất thành đống. Chúng tôi luồn ống nhựa vào hang, rồi thay nhau rót sữa vào...
- Nhưng anh có dám chắc rằng, đường sữa đến được tới anh em không?
- Hả? Cái gì? Anh hỏi gì? Đường sữa liệu có tới được với anh em không ư? Trời ơi, sao anh lại có câu hỏi tàn ác như thế?
Hoàng đăm đăm nhìn tôi, ánh mắt bỗng bạc ra. Rồi anh sụp xuống:
- ừ, mà đã chắc gì... Mười bốn ngày sau thì tiếng kêu cứu trong hang lịm tắt. Chúng tôi vẫn tiếp tục rót sữa. Mấy ngày sau còn rót sữa. Rót như một nỗi ám ảnh. ừ, mà đã chắc gì sữa tới được với anh em. Cái hang tối thế, sâu thế, ngoắt ngoéo thế, mà khối đá chắn cửa lại to thế. Biết đâu, mình lại chẳng rót sữa vào một hốc đá nào đó. Trời ơi!..
Nói rồi, Hoàng khóc. Khóc rấm rứt như một đứa trẻ bị đòn. Chiến tranh ngỡ như vừa xảy ra, chứ không phải là chuyện của mấy chục năm trước. Thật đáng sợ khi phải nhìn một người đàn ông khóc, với những giọt nước mắt của tuổi xế chiều.
Bây giờ thì cái hang định mệnh ấy đang ở trước mặt tôi. Vách đá sừng sững, xám ngắt một màu tê tái. Ngổn ngang những chân hương cháy dở. Người ta cắm hương quanh tấm bia đá tưởng niệm. Người ta còn treo gương lược, cài bồ kết lên vách đá. Tiếng ve rừng sôi lên từng đợt, rồi đột ngột nấc nghẹn. Rồi lại bất ngờ oà lên, nghe như xé ruột gan. Dưới kia, vực khe rậm rì cây lá. Có tiếng suối mờ tỏ đâu đó trong làn sương khói u u minh minh. Con đường 20 chìm ngập trong cây rừng và cỏ dại. Thời gian đã phủ lên nó vẻ thâm u, hoang dã vốn có của đại ngàn. Nhưng những người lính nằm lại đây thì vẫn không bị thời gian vùi lấp. Bộ Thương binh Xã hội và chính quyền tỉnh Quảng Bình đã quyết định khoan đá, mở cửa hang, đưa di hài anh em về nghĩa trang liệt sĩ huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Thứ trưởng Bộ thương binh Xã hội Nguyễn Lương Trào cùng đoàn tuỳ tùng của ông đã băng rừng, lội suối vào đây, đặt hoa, thắp hương và báo cáo trước các anh linh liệt sĩ về quyết định của Bộ và tỉnh Quảng Bình. Sau đó, tiếng mìn mở đầu công trình đã phát nổ. Một đại đội công binh đảm trách công việc đã cắm lều, dựng bạt ngay tại đây và lao động quần quật suốt hai tháng trời liền mới đục xong được cửa hang. Vũ Xuân Hoàng bùi ngùi:
- Khi cửa hang lộ ra một khoảng tối sẫm, có ai đó kêu lên: “Cửa mở rồi!” Và đột ngột cất tiếng gọi: Mai ơi! Tỏ ơi! Lương ơi!.. Thế là cồn lên những tiếng gọi. Họ gọi tên những người ở trong hang. Rồi im lặng. Im lặng đến lạnh người. Thực tình, lúc đó, tôi chỉ mong trong hang không có gì cả. Nghĩa là tuyệt nhiên trong hang không có một mẩu xương nào. Thế nghĩa là anh em đã thoát ra được. Chuyện ở K18 chỉ là lời đồn đại, là cơn ác mộng của những người lính trận mà thôi. Và quả thật, cái hang trống vắng đến hoang lạnh. Đập vào mắt tôi lúc ấy là một quầng sáng xanh ảo. Đó là đống tro đã tắt. Tôi đưa tay gạt lớp tro phía trên thì trời ơi, người. Xương người cùng với những lọn tóc dài, những đôi dép râu đã mòn vẹt quai gót mà vẫn còn dính bê bết những đất. Cả một khối xương chồng lên nhau. Có lẽ trong những giây phút hiểm nghèo nhất, lúc trút hơi thở cuối cùng, những người lính đó đã ôm riết lấy nhau, che chở cho nhau. Người chết che chở cho người chết. Không biết họ nghĩ gì trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình? Anh em trong đội thu gom hài cốt liệt sĩ đã nâng niu sàng lọc từng vốc đất để nhặt từng mẩu xương vụn. Khi rảnh xương cuối cùng được đưa vào túi ni-lông, thì bất chợt tôi như nghe thấy tiếng kêu: “Cứu con với, mẹ ơi”!
- Trời! Có người! Có người!
Cậu lính trẻ rụng rời kêu lên. Chúng tôi bàng hoàng quay lại. Dường như ai cũng nghe thấy tiếng kêu cứu ấy. Chúng tôi vội vã rọi đèn pin, lục tìm khắp các xó xỉnh trong hang, nhưng chẳng thấy gì, ngoài những giọt nước mắt của các nhũ đá nhỏ âm thầm trong bóng tối.
Ngoài kia là đại ngàn trùng điệp. Những đỉnh núi xanh mờ chìm khuất trong bóng hoàng hôn tím sẫm, bí ẩn.
- Này, liệu có còn những K18 nào nữa trong những dãy núi kia không?
Nhà báo Trịnh Bá Ninh quay lại hỏi tôi. Câu hỏi ấy, chỉ Trường Sơn mới có thể trả lời được. Nhưng Trường Sơn chỉ im lặng xanh. Xanh như không hề có máu đổ. Xanh như là chẳng có chuyện gì...
1997