To read without reflecting is like eating without digesting.

Edmund Burke

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 3
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 2
Cập nhật: 2020-10-08 21:12:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
Hưng Đạo Vương lưu lại ở khu vực thuỷ trại của Chiêu Văn Vương ba ngày. Người đưa bọn Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu cùng vài chục quân kỵ đi thăm thú cả một vùng rộng lớn kể cả chiều dài lẫn chiều rộng. Chia tay Chiêu Văn Vương, Hưng Đạo Vương vỗ vào lưng "người anh em họ hàng" mà uý lạo rằng:
- Trông thanh nhã, tay cầm bầu rượu, vai đeo túi thơ thế này, mà rồi đây sẽ lập đệ nhất công trong cuộc chiến chống Nguyên Mông đó.
- Quốc Công Tiết Chế mới xứng với công đó. "Một người lo bằng cả kho người làm". Chiêu Văn Vương nhún nhường, chân thành đáp lại.
- Người lo mà không có người làm thì cái lo có hay ho đến đâu cũng chỉ là chuyện hão mà thôi! Hưng Đạo Vương cũng khiêm tốn đáp lại.
Ba thầy trò Hưng Đạo Vương, Phạm Ngũ Lão và Dã Tượng chỉ đem theo hai mươi quân kỵ nhằm thẳng hướng làng Phù Ủng huyện Ân Thi phi ngựa xuống.
- Ta muốn vào ra mắt sư phụ con - Hưng Đạo Vương nói với Ngũ Lão - Nhưng trước tiên ta phải vào thắp hương lễ Phật đã.
Tất cả quân lính Hưng Đạo Vương để phía ngoài, dặn dò không được làm kinh động đến xung quanh.
Dã Tượng đã chuẩn bị hương hoa và một trăm lượng vàng lá dâng lên bàn thờ Phật tổ. Hưng Đạo Vương kính cẩn quỳ ở giữa. Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng quỳ hai bên. Người lầm bầm khấn:
- Con là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hiện là Quốc Công Tiết Chế của Đại Việt. Hôm nay con đến chùa xin với Phật tổ phù hộ độ trì cho kế của con đã quyết được binh sĩ hết lòng thực hiện để phá được lũ giặc Nguyên Mông hung bạo, giữ cho dân chúng không bị rơi vào cảnh lầm than "nước mất, nhà tan". Lòng thành lễ mọn, Phật tổ chứng giám, phù hộ độ trì cho Đại Việt chúng con. Khấn xong Hưng Đạo Vương dập đầu xuống đất ba lần. Hai đệ tử của người cũng răm rắp làm theo.
Khi Hưng Đạo Vương đứng dậy thì sư cụ trụ trì ở chùa Bảo Sơn ở phía hậu cung đi ra. Ngũ Lão nhảy bổ ra ôm chầm lấy thầy, rồi gần như ngay lập tức quỳ dưới chân và nói:
- Ngũ Lão theo hầu Quốc Công Tiết Chế vào lễ Phật, chưa vào trình diện với sư phụ. Mong sư phụ ngàn lần thứ lỗi.
Sư cụ vóc hạc, dáng cao, trán rộng, mắt sáng, chòm râu dài trắng như cước, dáng vẻ còn rất nhanh nhẹn.
- Có thật thí chủ là Quốc Công Tiết Chế như đệ tử Ngũ Lão của ta nói không? Người cất giọng nói, tiếng vang như chuông.
- Dạ! Thưa sư cụ, chính phải ạ! Hưng Đạo Vương nhẹ nhàng đáp lại.
- Sao không cho lính vào báo trước để bần sư ra tận cổng chùa đón rước. Thật là thất lễ! Thất lễ.
- Bản vương có việc quân đi qua đây. Thấy địa linh tất sinh nhân kiệt nên trước tiên vào dâng hương lễ Phật tổ, sau đó vào yết kiến sư cụ.
- Chùa nghèo vì dân quanh vùng đến rất nghèo. Nhưng tấm lòng hướng về Phật tổ thì lại thật là giàu có.
- Bản vương mới nhìn qua đã rõ...
- Xin rước Quốc Công Tiết Chế vào phòng khách.
Ngũ Lão săng sái dẫn đường. Phòng khách của sư cụ là một trái ở sau chùa. Chỉ có một bộ bàn ghế gỗ gụ, không có tay ngai tựa lưng. Một chú tiểu bưng lên một khay trà ướp hoa ngâu. Chiếc ấm cùng bốn chiếc chén đều thô mộc, không có hoa văn, đậm màu da lươn. Dã Tượng đứng hầu phía sau Hưng Đạo Vương. Còn Ngũ Lão đứng chắp tay, hầu phía sau sư phụ.
- Sắp tới chiến cuộc chống Nguyên Mông chắc chắn sẽ diễn ra khốc liệt trên đất Đại Việt ta. Nhất là khúc sông Cái dài khoảng một trăm dặm từ của Đại Hoàng đến trước cửa thành Thăng Long. Hưng Yên ta gần như nằm ở đoạn giữa khúc sông này.
- Nam mô a di đà Phật! Sư cụ chắp tay trước ngực nói. Bần đạo đã ăn mày cửa Phật tám chín mươi năm rồi! Những chuyện thế sự không còn để ý tới nữa. Song nếu quả thực là giặc dữ có tràn xuống đất này thì cũng phải tay đao tay thước cùng với dân làng đuổi chúng đi để bảo vệ chùa thôi!
- Không! Bản vương nhất quyết không để cho chúng tràn xuống đây được! Nhưng trận chiến ở ngoài sông chắc chắn là rất dữ dội. Mong sư cụ động viên dân làng ra đánh trống, hò reo trợ chiến!...
- Nam mô a di đà Phật! Điều này thì bần tăng có thể làm được. Không cần Quốc Công Tiết Chế phải nhắc nhở.
- Bản vương xin đa tạ sư cụ!
- Không có gì! Dù là người tu hành đi nữa thì cũng phải biết phù cái thiện, xua đuổi cái ác.
- Nhân đây xin hỏi sư cụ một số điều, không biết có tiện không?
- Xin Quốc Công Tiết Chế cứ tự nhiên, điều gì bần tăng rõ, sẽ xin thưa lại hết.
- Hôm qua, bản vương có ghé vào thắp hương tại Đền thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ. Người đã chém bay đầu tên Việt gian bán nước Kiều Công Tiễn, kẻ đã ám hại tướng công Dương Đình Nghệ để dọn đường rước quân Nam Hán và xâm chiếm nước ta. Tướng quân Phạm Bạch Hổ cũng là tướng tiên phong cho Ngô Vương Quyền chặn đánh dữ dội quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng và giết chết thái tử Hoàng Thao, đập tan ý đồ xâm lược của quân Nam Hán. Vậy xin hỏi sư cụ tướng quân Phạm Bạch Hổ với đệ tử Phạm Ngũ Lão của sư cụ có "giây mơ - rễ má" gì với nhau không ạ!
Sư cụ cười sảng khoái đáp:
- Lúc trước Quốc Công Tiết Chế có nói "Đất linh sinh nhân kiệt". Hưng Yên là đất như thế. Bởi thế hơn hai trăm năm trước đây đã sinh ra Phạm Bạch Hổ. Còn nay thì sinh ra đệ tử của bần tăng là Phạm Ngũ Lão. Đơn giản thế thôi. Bần tăng quả quyết rằng họ chẳng có "giây mơ-rễ má gì" với nhau cả.
Hưng Đạo Vương cũng cười sảng khoái:
- Sư cụ giải thích thật chí lý! Chí lý!
- Quốc Công Tiết Chế đã hỏi, vậy tiện thể đây bần tăng cũng muốn hỏi lại một câu mong Ngài đừng trách là bần tăng "thóc mách" nhé!
- Xin sư cụ cứ hỏi. Việc gì không ảnh hưởng đến sự an nguy của Đại Việt, bản vương xin trả lời hết.
- Chả là đệ tử của bần tăng vốn không thạo về thuỷ chiến. Mà chiến cuộc theo như Quốc Công Tiết chế nói chủ yếu sẽ diễn ra trên dọc sông Cái. Vậy thì đệ tử của bần tăng trở thành kẻ vô dụng mất rồi sao?
- Sư cụ quả thật là quá lo xa.
- Dạ, không phải. Chả là khi xưa, bần tăng vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc mới lên ba. Nhờ ăn mày cửa Phật mà sống được tới bây giờ. Sư phụ của bần tăng là người học rộng, văn võ song toàn. Từ lúc năm tuổi bần tăng đã được sư phụ dạy chữ và dạy võ. Qua mấy chục năm khổ luyện cũng thu được kết quả không đến nỗi nào. Trước lúc lâm chung, sư phụ của bần tăng cầm tay mà trăng trối rằng: "Tất cả học vấn về văn võ của ta đã truyền hết cho con. Di nguyện của sư phụ là sau này con sẽ truyền lại được tất cả các thứ đó cho người có thể giúp được nước, cứu đời." Nay Ngũ Lão cũng có thể coi là thành tài. Ấy vậy mà cái tài ấy đành "xếp xó" thì sau này "hai năm mươi" gặp lại sư phụ, thử hỏi bần tăng sẽ nói năng với người thế nào đây?
- Có phải thanh đại đao và cây cung mà Ngũ Lão đang dụng là của sư phụ của Ngài trao lại? Hưng Đạo Vương hỏi.
- Dạ! Quả đúng là như vậy.
- Như vậy là "y phục xứng kỳ đức" rồi! Với thanh đại đao và cây cung này, bản vương chắc chắn là Ngũ Lão sẽ lập được kỳ công lớn.
- Nhưng...
- Bản vương hiểu được nỗi băn khoăn của sư cụ rồi! Ở đây chỉ có bốn người, đều là chỗ người nhà cả, bản vương sẽ nói đại đởn về kế phá Nguyên Mông mà bản vương đã nung nấu suốt hơn một tháng qua. Sư cụ là người học rộng, tài cao. Biết đâu có thể chỉ giáo cho bản vương được điều gì thì thật là "nhất cử lưỡng tiện".
- Dạ! Bần tăng không dám! Không dám!...
Hưng Đạo Vương rút từ túi áo ngực ra một tấm bản đồ bằng lụa trắng hình chữ nhật, chiều dài gần gấp đôi, chiều rộng trải trên mặt bàn. Người bắt đầu nói:
- Hiện tại 15 vạn quân của nguyên suý Toa Đô đang chinh phạt Chiêm Thành. Dù thắng hay bại cánh quân này sẽ men theo đường biển đánh phá vùng Nghệ An - Thanh Hoá của ta trước. Sau đó sẽ vào cửa biển Đại Hoàng ngược theo sông Cái để đến kinh đô Thăng Long. Sở dĩ Thoát Hoan đã được phong làm Trấn Nam Vương nhưng chưa khởi quân đánh Đại Việt vì còn chờ kết quả chinh phạt của Toa Đô. Song chẳng chóng thì chầy năm mươi vạn quân sĩ Thái tử Thoát Hoan sẽ tràn xuống nước ta.
Bước đầu ta phải lui về phòng ngự. Thậm chí cả kinh đô Thăng Long cũng phải để cho chúng vào "ở nhờ". Đại quân của ta sẽ lui về bên này sông Cái. Thoát Hoan muốn sang ta phải đánh quyết liệt, buộc hắn phải bật trở lại. Đồng thời các mũi vận lương của chúng ở cả hai ngả thuỷ bộ ta cùng phải "khoá chặt". Cái gì cướp được thì cướp. Cái gì không cướp được thì đốt và đánh chìm hết. Vùng Tây Kết gần cửa lục đầu giang vừa tiện cho việc nhận lương cả thuỷ lẫn bộ. Đất ở đấy rộng. Chủ yếu là đất đồi sẽ rất thích hợp cho kỵ mã của chúng tung hoành. Như vậy đại để có thể ví Thoát Hoan ở kinh thành Thăng Long là phần mình của con cua. Tây Kết nơi tập trung binh lực rất mạnh có thể ví như một chiếc càng cua. Cánh quân của Toa Đô ngược sông cái lên là chiếc càng thứ hai. Bước một khi Toa Đô từ Chiêm Thành ra, Thái sư thượng tướng quân Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đang cầm mười vạn quân Thanh Nghệ phải bám đuôi theo, đánh quyết liệt khiến cho chúng bị tiêu hao và mỏi mệt. Từ cửa Đại Hoàng trở ra Thăng Long thì việc này đã được giao Đô tướng Nguyễn Khoái, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng đội hàng binh Tống và đội đặc nhiệm của gia tướng Yết Kiêu. Nguyễn Khoái phải làm thế này, thế này. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phải dùng kế ly gián thế này, thế này... Gia tướng Yết Kiêu sẽ gây cho giặc sự kinh hoàng trong suốt ngày đêm như bị "quỷ ám" bằng cách này cách này... Đến bến Chương Dương trước cửa thành Thăng Long tất cả phải hợp lực quyết không cho chúng vào được thành. Thoát Hoan tất nhiên sẽ thả năm vạn kỵ binh Mông Cổ trong mười vạn tên thiện chiến nhất từ trong thành ra tiếp ứng cho Toa Đô. Đây là lúc dụng võ của Phạm Ngũ Lão. Ngũ Lão sẽ phục binh ở đây... dùng câu liêm thương chặt đứt vó ngựa Nguyên Mông và tiêu diệt chúng. Thoát Hoan muốn tung quân ra nữa thì cửa nam năm vạn quân của Quốc Tảng phải chặn chúng lại. Còn cửa Đông được giao cho năm vạn quân mã Quốc Nghiễm. Ngũ Lão sau khi tiêu diệt đội kỵ binh thiện chiến đó thì toàn bộ quân tràn lên thuyền của Toa Đô cùng Nguyễn Khoái Trần Nhật Duật phải "chặt đứt được chiếc càng cua này". Với Toa Đô, không bắt sống được thì phải giết chết, quyết không để hắn trốn chạy về Tây Kết. "Con cua Thoát Hoan" bị gẫy một càng, phải bỏ Thăng Long chạy về Tây Kết. Lúc đó toàn bộ hai nhăm vạn quân Đại Việt do Ngũ Lão làm tiên phong, bên phải có Quốc Tảng, bên trái có Quốc Nghiễm sẽ đánh thẳng vào cổng chính của Tây Kết. Thuỷ quân của Nguyễn Khoái từ cửa Lục Đầu giang sẽ xông lên trợ chiến. Với lực lượng hùng hậu như vậy chiếc "càng cua" thứ hai chắc chắn sẽ phải bị chặt đứt. "Con cua Thoát Hoan" chỉ còn "tám cẳng" thì chỉ còn cách "bò nhanh" về nước. Tất nhiên là quân ta sẽ truy kích đến tận ải Nam Quan. Ngũ Lão vẫn sẽ là tướng tiên phong trong cuộc truy đuổi này. Dĩ nhiên người Nguyên chắc chắn chưa chịu thất bại. Nhưng lần thứ ba bọn chúng sang thì chắc chắn là ta đánh dễ rồi. Song cũng phải bầy binh bố trận để đánh một trận tiêu diệt lớn... Trận này có thể diễn ra ở cửa sông Bạch Đằng. Đánh cho chúng phải dựng tóc gáy khi nghĩ đến chuyện phải sang Đại Việt xâm lăng một lần nữa... Đó là toàn bộ kế sách của bản vương chỉ có vậy. Mong sư cụ chỉ giáo thêm. Hưng Đạo Vương theo thói quen vừa cười vừa vuốt râu nói câu sau cùng.
Nghe xong sư cụ vội vàng đẩy ghế ra phía sau, đứng bật dậy nhanh nhẹn lạ thường của người già gần trăm tuổi. Người quỳ thụp trước mặt Hưng Đạo Vương và chân tình nói:
- Bần tăng tự tu có thể nói là đã gần như đắc đạo. Những lúc có việc còn phân vân trong tâm tưởng đã thấy Đức Phật hiện ra, chỉ rõ cho từng điều nên làm, từng việc nên tránh. Còn hôm nay thì bần tăng tận mắt trông thấy Đức Thánh Trần ở ngay trước mặt mình. Được nghe Đức Thánh giảng giải về kế sách phá giặc dữ. Quả thực là không uổng sống một đời. Còn Ngũ Lão, đệ tử của bần tăng được cầm roi, dắt ngựa theo hầu Đức Thánh thì còn vinh hạnh gấp vạn lần... Từ nay xin cho phép bần tăng được gọi bản vương là Đức Thánh Trần...
Hưng Đạo Vương vội vàng đứng dậy đỡ sư cụ đứng lên. Nhưng sư cụ vẫn sụp lạy tới ba lần. Hưng Đạo Vương nói:
- Chẳng qua là "kế mọn" có gì đáng kể đâu. Còn việc có thực hiện được hay không còn nhờ vào sự xả thân của tướng sĩ và sự đóng góp hết lòng của toàn thể dân chúng Đại Việt.
- Phải nói thật là hai vua Trần (chỉ Trần Thái Tôn và Trần Thánh Tông) quả thực là vua sáng. Khi xưa lúc Đức Thánh Trần cướp công chúa Thiên Thành từ tay Trung Thành Vương mà hai vua chẳng "trị tội" gì... Nếu không hôm nay làm gì có người cầm quân chống giặc dữ.
- Mọi người đều hiểu oan cho bản vương cả. - Giọng Hưng Đạo Vương trầm xuống. Họ chỉ thấy bản vương cướp công chúa Thiên Thành trong ngày rước dâu về nhà chồng mà không biết được rằng từ thuở thiếu thời mười sáu, mười bẩy, bản vương và công chúa đã yêu nhau như thế nào. Một người mà ngay cả đến người yêu của mình cũng không bảo vệ được thì còn nói gì đến việc cứu nước, cứu dân sau này... Ngoài hai mâm vàng trả lại đồ sính lễ, hai vua Trần còn phạt bản vương "bồi thường danh dự" cho Trung Thành Vương hai ngàn mẫu ruộng ở phủ Ứng Hoà- Hà Đông. Có nghĩa là toàn bộ điền sản của cả gia đình. Nhưng có hề chi... Nói đến đây Hưng Đạo Vương cười lớn - Cái chính là đã thực hiện được lời "thề non - hẹn biển" từ thuở thiếu thời với nhau. Chứ hai ngàn đến hai mươi ngàn mẫu ruộng cũng có xá gì. Và bây giờ thiên hạ cũng đều thấy "sự hy sinh" ấy đâu có uổng phí. Thiên Thành đã sinh cho bản vương bốn hổ tướng để bảo vệ Đại Việt... Đó mới thực sự là điều quan trọng.
Nói tới đây Hưng Đạo Vương đẩy ghế ra sau đứng dậy. Rồi người bảo:
- Thôi đã đến lúc bản vương phải tạm biệt sư cụ rồi. Quà không có gì nhiều, chỉ có một xúc lụa tơ tằm Vạn Phúc Hà Đông biếu sư cụ và một trăm lượng vàng cung tiến cho nhà chùa để tu sửa lại những chỗ đã bắt đầu hư hỏng.
- Tạ ơn Đức Thánh Trần. - Sư cụ chắp hai bàn tay xương xẩu nhưng vẫn còn rất cứng cáp và nói - Lụa thì bần tăng xin nhận còn vàng thì không dám vì quốc khố đang phải gánh vác công cuộc phòng chống giặc ngoại xâm.
Hai bên đùn đẩy nhau một lúc. Cuối cùng sư cụ đưa ra giải pháp:
- Thôi thì bần tăng thay mặt nhà chùa xin nhận một lượng tượng trưng cho Đức Thánh Trần vui lòng. Số còn lại thì bần tăng không dám.
Hưng Đạo Vương cả cười bảo:
- Ngài khí khái quá.
Rồi tất cả kéo ra bàn thờ chính. Cả bốn người vái lạy Phật Tổ, sau đó Hưng Đạo Vương sai Dã Tượng thu về chín mươi chín lượng vàng.
- Dạ, bẩm thưa cha! Cha cho phép con tối nay được ở nhà thăm mẹ. Sáng sớm mai sẽ trở về Vạn Kiếp ngay ạ!
- Được! Cha cũng có ý đó. Chưa kịp bảo thì con đã xin... Ta có quà cho mẹ con. Cũng là một tấm lụa tơ tằm Vạn Phúc. Và một trăm hai mươi quan tiền là tiền lương sáu tháng vừa qua triều đình trả cho chức Đô uý của con.
- Sao lương nhiều vậy cha? Ngũ Lão hỏi lại.
- Không nhiều đâu con. Nhiều quan lại trong triều còn lĩnh hơn con cả trăm lần - Hưng Đạo Vương giải thích rồi bảo Dã Tượng lấy từ trong hòm "công vụ" mang theo.
Ngũ Lão dắt ngựa vào sân. Vừa lúc đó mẹ Ngũ Lão cũng từ trong bếp bước ra. Hai mẹ con ôm trầm lấy nhau cùng nghẹn ngào trong nước mắt.
- Mẹ! Mẹ ở nhà có khoẻ không?
- Mẹ khoẻ. Chỉ lo cho con thôi.
- Mẹ thấy con cứng cáp thế này... Và còn cứng cáp hơn nữa nên mẹ đừng lo nghĩ gì... mà ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Ngũ Lão buộc ngựa vào một cây cau rồi cùng mẹ bước lên nhà. Chàng đưa tấm lụa Hưng Đạo Vương biếu cho mẹ và đặt một trăm hai mươi quan tiền lên bàn thờ, thắp hương cúng gia tiên và cha.
Mùi hương vừa ngào ngạt bay trong ngôi nhà tranh thì ngoài sân đã ồn ào, lố nhố cả trăm người đủ các thành phần nam, phụ, lão, ấu...
Tiếng mọi người nhao nhao, không còn phân biệt được tiếng ai vào với ai. Nhưng đại để là:
- Xem tân Đô uý Ngũ Lão bây giờ mặt mũi ra sao nào?
- Làng ta sau bao nhiêu đời nay mới có được một người làm quan to đến như vậy.
Xen vào đó cũng có những câu châm chọc, ghen tị:
- Kỳ này về, tân Đô uý Ngũ Lão sẽ đưa mẹ lên kinh sống cho sung sướng chứ?
- Đúng là đẻ con khôn...
Mọi người chỉ im lặng khi thấy hai vị chức sắc là chánh tổng và lý trưởng bước vào. Hai ông này cung kính chắp tay:
- Xin chào quan Tân Đô uý.
- Xin hai vị và bà con đừng làm vậy! Lúc nào Ngũ Lão này cũng là con dân trong làng, trong tổng - Đứng trên bậc thềm Ngũ Lão cung kính đáp lại.
- Tôi nói thế này, các vị bô lão và bà con nghe có phải không?... Chẳng mấy khi tân Đô uỷ ghé về làng. Bởi thế làng phải mở trâu, mổ lợn để khao tân Đô uý chứ!
Viên lý trưởng vừa nói xong thì tiếng mọi người nhao lên như ong vỡ tổ hưởng ứng.
Ngũ Lão lại chắp tay thưa:
- Kính thưa các vị chức sắc. Kính thưa các cụ bô lão và bà con. Ngũ Lão chưa có công tích gì với dân với nước. Sao dân làng lại phải giết trâu, mổ bò, mổ lợn để khao. Bởi thế Ngũ Lão mới có một đề nghị như thế này mong các vị chức sắc, các cụ bô lão và bà con chấp nhận cho. Ấy là Ngũ Lão mới được lĩnh sáu tháng lương. Vậy tôi trích ra hai tháng là bốn mươi đồng để khao các vị chức sắc các cụ bô lão và bà con.
Tiếng mọi người lại nhao nhao lên, người ủng hộ, kẻ phản đối cứ như là cảnh vỡ chợ. Cuối cùng thì hai vị chánh tổng và lý trưởng phải bàn bạc với nhau một lúc lâu rồi mới đưa ra quyết định:
- Ngũ Lão đã có lòng... bà con ta cũng nên ủng hộ.
Thế là sau một canh giờ rượu thịt đã được ê hề bầy ra ở giữa sân. Riêng hai vị chức sắc và các cụ bô lão cùng mẹ con Ngũ Lão được ngồi "chiếu trên" ở trong nhà. Phải tới gần nửa đêm tiệc mới tàn. Mọi người đã ra về vãn cả thì bỗng xuất hiện một thiếu phụ bồng trên tay một đứa con trai trên dưới một tuổi tiến vào nhà hỏi Ngũ Lão:
- Tân Đô uý có nhận ra tôi là ai không?
Sau một phút định thần Ngũ Lão vội reo lên:
- Chị Lưu! Chị cả Lưu đấy ư? Sao bây giờ mới lên tiếng?
- Tôi tưởng Ngũ Lão giờ đã là quan to của triều đình thì quên người con gái đáng thương này?
- Chị nghi oan cho Ngũ Lão rồi! Vụ cày một ngày xong năm mẫu ruộng cho thân phụ chị, cả đời này Ngũ Lão đâu dám quên.
- Không tôi muốn nhắc đến chuyện khác cơ!... Nhưng mà thôi bây giờ Đô uý thấy đó tôi đã có con bồng, con bế có kém ai?
- Anh ấy tối nay có sang đây không?
- Con hoang làm gì có bố... Nhưng mà mừng một cái là cháu rất khoẻ mạnh và mới một tuổi đã nghịch như quỷ sứ. Chị vừa nói vừa cười và trao đứa bé cho Ngũ Lão và nói nựng với con:
- Con ra với chú đi... Để lấy cái khước... Sau này cũng có thể làm được đến chức đô uý...
Phải nói là đứa trẻ rất bạo. Vừa sang tay Ngũ Lão nó đã đưa đôi bàn tay nhỏ xíu vuốt má, sờ mũi và béo tai chàng. Con đôi chân khá dài so với tuổi tôi của nó thì nhảy như choi choi.
- Chị xin giống ở đâu? Và có bị làng phạt vạ không? - Khi mọi chuyện đã trở nên thân mật Ngũ Lão cất tiếng hỏi.
Chị cả Lưu (dân làng vẫn gọi chị như vậy - vừa là tên và cũng là họ) cười xởi lởi:
- Bố bảo hai vị chánh tổng và lý trưởng vừa về dám động vào... lông chân của cái con cả Lưu này. "Không chồng mà chửa mới ngoan - Có chồng mà chửa thế gian thường tình". Dân gian đã có câu ca như vậy, chú thấy có đúng không?
- Chắc chị đanh đá quá nên họ ngại chứ gì? Ngũ Lão hỏi lại.
- Này! Đanh đá với to mồm thì họ có mà xé xác ra! Cái chính là thân phụ của chị bây giờ đường đường là một vị quan huyện... Thử hỏi trong cái làng này, cái tổng này... ai to hơn quan huyện nào. Không những chẳng bị phạt vạ mà ngày cháu "đầy tháng" hai vị còn có quà mừng. Thế bác thi cử vào hồi nào mà lại đỗ đạt để được bổ làm quan huyện? Ngũ Lão ngạc nhiên hỏi lại.
- Cần gì phải thi cử với chả đỗ đạt! Bây giờ cứ bỏ ra một trăm lượng vàng ròng và một ngàn thúng thóc là có cái chức ấy ngay. Còn quan phủ thì phải gấp ba lần thế!
- Chị nói thế nào ấy chứ? Làm gì có chuyện ấy?
- Này thẻ bài là do chính Quốc Công Tiết Chế nhà chú ký nhé. Chỉ có điều quan huyện như cha chị thì không được cấp triện thôi... Xuân thu nhị kỳ có lính lệ về làng rước kiệu đưa cha chị lên huyện. Tại huyện viên quan huyện chính hiệu tiếp đón các quan huyện không có triện. Ai nhiều tuổi như cha chị thì được gọi là "quan bác". Những người đồng tuế thì được gọi là "quan anh". Ăn chơi mấy hôm thì lính lệ lại khênh kiệu trả về chú đừng tưởng "có tiếng mà không có miếng" đâu nhé! Mấy tay lý trưởng chánh tổng xử lý oan sai với dân, cha chị cho người lên "tố" với "quan huyện thật". Lập tức lính lệ về lôi ra sân đình vật cổ nọc ra đánh mấy chục roi. Bởi thế bọn lý cũng "gờm" cái chức quan của cha chị lắm!
- À, ra thế! Bây giờ thì em đã hiểu. Thì ra Quốc Công Tiết Chế muốn huy động vật lực của các hào phú nên mới nghĩ ra cách "bán tước" đó. Chỉ có lợi chứ chẳng có hại gì.
- Thế chú có thích nghe nghị kể chuyện chị đi "mua giống" để sinh ra cái thằng "cún con" này không?
- Nếu chị thấy không có gì ngại thì em sẵn sàng nghe.
- Vốn là vào tiết thu năm ngoái, chị với đám gia nhân lên bến Bình Than mua than và củi cho cha chị đốt lò gốm. Hôm ấy trời mưa dầm dề đến não lòng. Từ trong quán nhìn ra chị thấy một chàng trung niên, áo tơi, nón lá ngồi bên con thuyền ngáp dài vẽ não nề lắm. Con chim ưng cực lớn gấp đôi con ngỗng ấy! Lông đỏ, mỏ quặp lúc nhảy lên nóc thuyền, lúc chuyền trên vai người đàn ông đó. Bên cạnh anh ta còn có thanh kiếm dài vỏ bạc. Chị ngắm kỹ thấy người này cũng có vẻ "tráng sĩ" lắm! Chắc thất cơ lỡ vật thế nào mới phải làm cái nghề đốt than thế này. Chị cho một viên đầy tớ ra mời anh ta vào quán. Anh ta đứng dậy, vươn vai một cái, dáng vẻ đờ đẫn lúc trước vụt biến đi đâu mất. Một người cao lớn, xách kiếm hiên ngang bước vào.
- Xin chào tráng sĩ. Chị lên tiếng trước. Tôi có đôi điều muốn làm phiền tráng sĩ có được chăng?
- Cần gì chị cứ nói - Giọng anh ta đanh gọn và rất sang, khác với vẻ mặt lem luốc cùng chiếc áo tơi, nón lá trên mình.
- Xin mời tráng sĩ cởi áo tơi rồi ngồi xuống, dần dà tôi xin thưa chuyện.
Anh ta cởi áo tơi, nón lá để gọn vào một góc và ngồi xuống ghế đối diện với chị, thanh trường kiếm vỏ bạc đặc trên bàn.
Chị bảo gia nhân rót một bát rượu lớn mời nhưng anh ta gạt sang một bên và bảo:
- Tôi không uống rượu bố thí khi chưa biết lý do.
- À, tôi muốn mua một thứ... không biết tráng sĩ có bán không? Chị rắn rỏi đặt vấn đề.
- Ngoài thuyền than và củi... Tôi còn có gì bán cho chị đây? Anh vẫn giọng sang sảng hỏi lại.
- Tất nhiên chúng tôi đến bến Bình Than này là để mua than và củi rồi. Thuyền than củi đó chắc chắn chúng tôi sẽ mua. Ngoài ra muốn hỏi mua thêm một vài thứ nữa của tráng sĩ.
- Thí dụ?
- Thí dụ như thanh trường kiếm này chẳng hạn. Chị hỏi không có ý đùa cợt một chút nào.
- Chắc chắn là chị không có đủ ngân lượng. Mà một ngàn lượng tôi cũng không thể bán được.
- Vậy tôi muốn hỏi mua con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp... thì giá bao nhiêu?
- Giá bình thường là ba mươi lượng. Nhưng chị chồng ra một trăm lượng tôi cũng không bán.
Nói xong anh ta vội đứng lên. Chị bèn cuống quýt chèo kéo anh ta.
- Anh hãy ngồi xuống một lát! Tôi hỏi mua thứ này, chắc chắn là anh... bán được. Nói tới đó mặt chị đỏ lựng lên. Chuyện hơi tế nhị một chút... Nhưng cũng phải nói thật ra thì anh mới hiểu... Tôi muốn mua... một đứa con của anh.
- Mua con... của tôi? Anh ta bỗng cười lên sằng sặc và ngồi xuống. Quơ tay lấy bát rượu uống một hơi cạn sạch.
- Tôi tuy hơi cứng tuổi một chút... Nhưng vẫn còn "con gái"... Tôi không muốn lấy chồng mà chỉ muốn có một đứa con trai... Nếu anh thuận tình bán cho tôi... Sau ba đêm tôi xin trả anh đủ một trăm đồng... Anh thấy đấy! Trông tôi đâu đến nỗi nào mà phải nói là đẹp gái nữa là đằng khác... Chỉ có điều hơi đanh đá một chút.
- Nếu cô còn trinh nguyên thật... thì như trước đây sau khi ngủ một đêm, tôi phải trả cho cô một trăm đồng... Nhưng hoàn cảnh của tôi bây giờ cô biết đấy! Bởi thế tôi đồng ý.
- Nhưng với một điều kiện thế này!
- Còn điều kiện lằng nhằng gì nữa?
- Đơn giản thôi! Sau khi "tiền chao cháo múc" xong việc "đường ai người nấy đi". Nếu có tình cờ gặp lại thì cũng coi như "nguời chưa từng quen biết".
- Ô!... Tưởng điều gì? Chính tôi cũng muốn đề nghị với cô như vậy!
- Bây giờ tôi xin đặt trước anh ba mươi đồng. Bẩy mươi đồng còn lại "xong việc" sẽ xin đưa nốt.
- À... Còn một chuyện nhỏ thế này...
- Lại còn cái gì nữa đây? Anh ta tỏ vẻ sốt ruột
- Chả là lúc đầu tôi đã có nói... Tôi còn "con gái". Nên sau đêm đầu tiên... Xin anh nghỉ cho hai ngày. Còn hai đêm sau...
- Tôi hiểu rồi! Nói thẳng ra là cô sợ đau chứ gì? Không biết chuyện đùa hay là thật đây. Nhưng mà đùa hay thật với tôi chưa bao giờ là quan trọng. Nhất là việc như thế này.
Chị móc hầu bao đặt lên bàn trước mặt anh ta. Anh ta không vồ vập mà rất bình thản vơ lấy và hắng giọng khá sang trọng quát:
- Chủ quán đâu! Bắt cho ta một chú vịt béo nhất. Rồi thả ra sân... làm mồi cho chú chim ưng của ta.
Viên chủ quán dạ một tiếng và chỉ loáng một cái một chú vịt bầu đã được thả ra sân. Từ trên mui thuyền chú chim ưng lông đỏ, mỏ quắp rang rộng đôi cánh xà xuống, nhanh như chớp hai chân đầy những vuốt sắc quặp lấy chú vịt, nhẹ nhàng bay trở lại nóc thuyền. Đầu tiên nó vật ngửa chú vịt ra. Mổ vào bụng lôi ra bộ lòng gan nuốt lấy nuốt để. Sau đó nó chậm rãi vặt lông ở mình và ở cánh. Vặt tới đâu nó xé ra từng miếng thịt lớn, ngửa cổ nuốt một cách ngon lành. Lần đầu tiên chị thấy một cảnh vừa man rợ, vừa lạ lẫm và thích thú như thế.
- Tuổi thọ của loài chim ưng này là bằng với loài người. Khoảng trên dưới bẩy mươi năm. Anh ta thấy tôi chăm chú nhìn thì giải thích. Khoảng bốn mươi tuổi, nó sẽ bay về rừng. Đập mỏ vào vách đá cho bung lớp sừng bên ngoài ra. Chờ năm bảy ngày sau chiếc mỏ mới được mọc lại. Nó bắt đầu lấy chiếc mỏ ấy rút từng chiếc móng vuốt ở chân ra. Khi móng vuốt mọc lại, nó bắt đầu rút hết lớp lông cánh lúc đó rất rậm rạp. Và chừng mười ngày sau, nó thực sự lột xác, bay trở về với một vẻ tráng kiện mới... và tiếp tục sống khoảng trên dưới ba mươi năm nữa. Tôi nuôi nó lúc nó mới bằng nắm tay cách đây hai mươi năm. Bởi thế nó sẽ là người bạn thân cận suốt cả cuộc đời tôi. Dù tôi có đói khát mà cô trả tôi, cả trăm lượng vàng tôi cũng không thể bán nó. MÓN MÀ CHIM ƯNG KHOÁI KHẨU NHÁT LÀ VỊT....
Đêm đầu tiên tôi hé mắt nhìn. Không biết của những người đàn ông khác thế nào, chứ của anh ta không khác gì chiếc chày dã cua. Nó liên tục dã vào bộ phận nhạy cảm nhất của cơ thể tôi. Tôi quằn quại đau đớn nhiều lúc tưởng chừng như tắc thở. Sau trận đòn thứ nhất tôi lồm cồm bò dậy, vớ lấy bình rượu tu một hơi hết sạch. Mượn ma men làm cho tôi lịm đi, để anh ta muốn làm gì tiếp thì làm.
Sau hai ngày nghỉ ngơi đến đêm thứ ba, cảm giác đã trái ngược lại hoàn toàn. Tôi có cảm tưởng chiếc chày dã cua của anh ta đã được bọc nhung. Êm ái vô cùng. Đã có lúc tôi nhổm hẳn người lên khiến anh ta cũng phải bật cười sằng sặc. Đến đêm cuối cùng cảm giác sung sướng đã lên tới đỉnh điểm. Đã có lúc tâm trí tôi đã lung lay và tự hỏi của nả có là cái gì, chỉ có mình ngu dại mới không chịu lấy chồng? Nhưng sáng ra, nhìn bộ mặt có phần hung ác của anh ta với chiếc mũi mỏ diều, hai cánh mũi mỏng khoét sâu đầy vẻ dâm đãng và chiếc miệng rộng với hai khoé môi thu lại rất gọn gàng đầy vẻ cương quyết và trịnh thượng đã khiến cho sự kiên nghị lúc đầu của tôi trở lại.
Cuộc chia tay thật chóng vánh. Tôi trả con thuyền và đống than, củi của anh ta với giá ba mươi đồng.
- Con thuyền này rất chắc chắn được phết sơn ta rất kỹ lưỡng nên khí đắt. Chứ chỗ than, củi có đáng là bao trị giá chỉ hai ba đồng.
Anh ta giải thích xong xuống thuyền thu dọn đồ dùng cá nhân, buộc vào chiếc tay nải khoác lên vai. Tay kia cầm chiếc kiếm dài, đầu cất cao (lúc này trời đã hửng nắng) sải những bước rộng rãi bằng đôi chân dài chắc nịch. Nghe tiếng huýt sáo con chim ưng lông đỏ mỏ quặp từ nóc thuyền liệng xuống đậu trên một bên vai anh. Còn cách mấy ngày thì đầy chín tháng tôi sinh ra con cún con này. Mới đẻ ra đã biết ngay là "giỏ nhà ai quai nhà ấy". Đầu tiên là đôi chân dài, rồi đến cái mũi, cái miệng, đôi mắt hơi lồi, giống anh ta như đúc. Cha tôi ngắm nghĩa nó hồi lâu rồi bảo: cái ngữ này không kèm cặp thì lớn lên dễ thành tướng cướp lắm đây!". Bế nó mệt lắm! Hai chân nhảy như con choi choi suốt ngày.
Chị cả Lưu là vị khách cuối cùng dời khỏi nhà Ngũ Lão. Ở đầu cổng đã có ba bốn gia nhân soi đèn lồng đưa chị về.
Trăng cuối tuần đã lên tới đỉnh đầu trước khi giục Ngũ Lão đi nghỉ, mẹ hỏi một câu thăm dò:
- Trong lúc còn đang yên hàn thế này, anh có ý trung nhân nào chưa thì đưa về đây cho mẹ mừng?
- Cũng sắp sắp có rồi mẹ cứ yên trí đi!
- Con cái nhà ai? Con ông cả, bà lớn là mất cháu đấy! Vì cái thân xác quê mùa này sao dám bước vào cửa nhà người ta.
- Mẹ yên trí mà! Cô ấy cũng là con nhà nông dân như nhà mình. Mặc dù bây giờ là con gái nuôi của Quốc Công Tiết Chế.
- Ối trời ơi! Cái đám cành cao, lá vàng ấy làm sao mà con với tới được?
- Mẹ đừng cả nghĩ làm gì cho mệt. Quốc Công Tiết Chế nhận con làm con nuôi. Luôn được ở bên người... được người dạy dỗ hàng ngày. Ngay như chuyến về đây. Phải như thế nào thì Quốc Công Tiết Chế mới cho theo hầu. Chứ có phải ai muốn cũng được đi đâu.
- Đấy là mẹ nói thế thôi! Mọi việc mẹ nghĩ đều do ông giời sắp đặt cả rồi. Có muốn cũng không được mà có từ cũng không xong.
Chợp mắt được một canh giờ, Ngũ Lão trở dậy đã thấy mẹ đang lọ mọ dưới bếp.
- Mẹ làm gì mà dậy sớm thế?
- Mẹ dậy luộc cho anh nồi khoai lang và nấu cho anh nồi nước chè tươi. Những thứ mà lúc ở nhà anh vẫn thích...
- Cám ơn mẹ! Đúng là những món ăn mà con đương thèm.
Rồi Ngũ Lão ra giếng múc nước rửa mặt và lấy nước cho ngựa uống. Con Tía bỗng dựng hai chân trước lên thành giếng, cúi cái mõm xuống rồi hý lên mấy tiếng rất khác thường. Ngũ Lão lôi nó ra buộc vào gốc cây thị rồi bê chậu sành nước lớn đặt trước mõm. Nhưng nó chỉ thọc mõm xuống rồi lắc lắc sang hai bên mà kiên quyết không uống. Thấy con Tía dở chứng Ngũ Lão vừa tát nhẹ vào mặt nó, vừa nựng: "Tía ngoan nào! Có chuyện gì làm mày không vừa lòng ư?" Nó lại quay đầu về phía thành giếng, dựng hai chân trước lên bồn chồn hý hai ba tiếng nữa. Ngũ Lão quay lại, nhìn xuống thấy lòng giếng tối om, toát lên một vẻ gì đó rờn rợn. Khi đào và xây thành giếng, Ngũ Lão đã cẩn thận xây thành lên khá cao tới trên ngực mẹ, khiến mẹ kéo gầu nước lên khá vất vả. Không phát hiện có gì lạ, Ngũ Lão quay lại mắng con Tía:
- Mày chỉ được cái nhiễu thôi!
Trong lúc Ngũ Lão ngồi ăn khoai và uống nước chè tươi thì bà mẹ dùng quạt nan quạt cho con. Ngũ Lão bảo:
- Bây giờ con đã có lương bổng của triều đình rồi. Mẹ nên đón mấy đứa con nhà chú hai lên ở cho vui cửa vui nhà. Chứ lủi thủi một thân một bóng thế này con thấy ái ngại quá!
- Từ ngày anh lên kinh, làm đến chức đô uý, hàng xóm láng giềng... kể cả các vị chức sắc trong làng, trên tổng thỉnh thoảng cũng có ghé qua... nên cũng không cảm thấy quạnh quẽ.
- Nhà chú hai đông con, mẹ cứ đón hai ba đứa lên nuôi đỡ cho chú thím ấy. Đứa nào muốn học chữ thì cho nó đi. Vừa san sẻ miệng ăn được cho gia đình chú thím ấy. Lại có người í ới lúc mẹ trái gió trở trời.
- Được rồi! Anh cứ đi đi! Ngay hôm nay mẹ sẽ xuống đón mấy đứa về.
Trời rạng sáng, Ngũ Lão đã lên yên, mẹ dặn với theo:
- Con phải sang chào sư phụ một câu chứ!
- Vâng, nhất định phải thế rồi... Hôm qua cùng tiếp Quốc Công Tiết Chế nên con chưa nói gì được với sư phụ cả.
Từ biệt sư phụ xong lúc đầu Ngũ Lão định phóng thẳng một mạch về Vạn Kiếp. Nghĩ thế nào, Ngũ Lão lại rẽ qua nhà.
- Con quên cái gì à? Thấy Ngũ Lão dắt ngựa vào sân, mẹ hỏi.
- Không, con muốn vào chào mẹ lần nữa. Ngũ lão tần ngần nhìn cái dáng gầy gò, tất tả một lúc lâu mới dắt con Tía ra đường. Mẹ níu vào vai Ngũ Lão nói:
- Mong sao ông trời phù hộ độ trì cho đất nước được yên hàn mãi như thế này!
- Dân ta tất thảy đều muốn như vậy. Nhưng cây muốn lặng, mà gió chẳng muốn đừng, chẳng chóng thì chày là giặc Nguyên Mông hung hãn sẽ tràn xuống nước ta. Nhưng mẹ yên tâm đi! Đã có Quốc Công Tiết Chế, Ngài đã có kế sách đánh đuổi chúng rồi.
- Phận nam nhi phải đi báo đền nợ nước là đúng rồi! Nhưng con cũng phải bảo trọng con nhé!
- Ở nhà mẹ cũng phải bảo trọng mẹ ạ!
Ngũ Lão không thể ngờ được rằng đấy là lần cuối cùng hai mẹ con được nói chuyện với nhau. Biết Hưng Đạo Vương có ý định gả quận chúa An Nguyên, có kẻ trong giới quý tộc đã nghĩ ra một độc kế hãm hại mẹ Ngũ Lão để phá bằng được...
7
Giữa trưa, Ngũ Lão phóng ngựa về đến đại bản doanh Vạn Kiếp. Không khí hôm nay tấp nập khác thường. Ngoài phu nhân và quận chúa An Nguyên, bốn con trai của Hưng Đạo Vương là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễm, Hưng Hiếu Vương Trần Quốc Uẩn, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện đều có mặt. Dã Tượng cho Ngũ Lão hay "hôm nay là ngày giỗ của Yên Sinh Vương Trần Liễu, cha đẻ Hưng Đạo Vương".
Thật "con nhà tông chả giống lông, cũng giống cánh", bốn người con của Quốc Công Tiết Chế đều cao lớn, vạm vỡ, từ dáng đi đứng đến các cử chỉ đều rất oai phong lẫm liệt. Hai người anh đều có vẻ mặt cương nghị và trầm tĩnh. Riêng Trần Quốc Tảng mặt đỏ, có phần bộc trộc và nóng nảy. Còn Quốc Hiện trắng trẻo, có vẻ lạnh lùng, khó hiểu. Quốc Tảng có vẻ hợp với Ngũ Lão hơn cả. Hưng Nhượng Vương đặt bàn tay nặng trịch lên vai Ngũ Lão vừa cười vừa hỏi:
- Đệ học cách ở đâu mà luyện binh nghiêm cẩn, tinh thông và lanh lợi như vậy?
- Sao huynh biết? Ngũ Lão hỏi lại.
- Ta lên đây đã mấy ngày rồi. Có người khen đệ rèn quân giỏi lắm! Đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Suốt cả một ngày ta đến chỗ quân doanh của đệ. Bởi thế ta mới hỏi đệ học ở sách nào?
- Dĩ nhiên là đệ cũng có đọc rất nhiều. Sách binh thư từ cổ chí kim. của Tầu cũng nhiều mà của ta. Nhưng đệ thấy dễ áp dụng nhất là cuốn "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" của Quốc Công Tiết Chế.
- Cái lưỡi ngươi uốn cũng dẻo lắm! Thảo nào cha ta mỗi lần nhắc đến ngươi đều "tâng lên tận mây xanh". Quốc Tảng có ý chế nhạo.
- Đệ từ nhỏ đến giờ chưa học được cách lấy lòng ai bao giờ. Có thể tại huynh thấy "bụt chùa nhà không thiêng" mà thôi. Ngũ Lão cứng cỏi đáp lại. Quốc Tảng tuy có hơi giận nhưng vốn tính bộc trực cũng bỏ qua, nhưng cũng vặn lại:
- Thế cách bầy trận "bát quái" mã quân của đệ thực hiện, ta phá nửa buổi không được thì trong sách của cha ta đâu có?
- À, cái "trò chơi" vặt vãnh đó, đệ "chế ra" từ sách nọ, sách kia theo lối "đầu Ngô, mình Sở" ấy mà!
- Được! Ta xin chịu đệ. Kỳ này về miền đông ta cũng phải rèn quân theo cách của đệ mới được.
- Ấy chết! Huynh mà nói vậy là ghép cho đệ cái tội bất kính, bất trung với Quốc Công Tiết Chế đó!
- Thôi! Anh em nhà các người "cãi cọi" thế cũng đủ rồi! Hưng Đạo Vương ra giọng giảng hoà - Vào lễ tạ ông nội đi, để còn ngả mâm xuống đánh chén.
Chiều phu nhân bảo Ngũ Lão đưa mình đi dạo, tất nhiên bên cạnh người có quận chúa An Nguyên. Đi được một lúc, phu nhân kêu đau đầu bảo thị nữ đưa về trước. Chỉ còn lại hai người. Ngũ Lão thấy mình quá kềnh càng so với tấm thân có chiều cao nhưng hơi ẻo lả của An Nguyên. Nàng khẽ tựa vào vai Ngũ Lão. Ngũ Lão thấy ngượng ngượng vì bờ vai vừa rộng vừa rắn chắc như một tấm gỗ lim, có thể làm cho An Nguyên không được êm ái.
- Chàng có biết thiếp sợ nhất điều gì không? An Nguyên thì thầm hỏi.
- Ngũ Lão này chỉ là anh nhà quê đan sọt có chút dũng phu làm sao biết được những điều thầm kín của quận chúa.
- Xin chàng đừng gọi thiếp là quận chúa! Thiếp thêm hổ thẹn. Thiếp cũng xuất thân từ con nhà nông dân như chàng, ở cùng làng với Quốc Công Tiết Chế. Cha mẹ thiếp mất sớm. Quốc Công Tiết Chế thương tình đem về nuôi, rồi nhận là nghĩa nữ. Cả Quốc Công Tiết Chế lẫn phu nhân đều đối xử rất tốt. Coi như con đẻ. Nhưng điều mà thiếp sợ nhất là bị gả vào nhà vương tôn quý tộc khác. Cũng đã có nhiều đám "rắp ranh bắn sẻ" (ý ướm hỏi) nhưng phu nhân phản đối quyết liệt. Chúng nó muốn lấy ông (chỉ Hưng Đạo Vương) chứ thiết gì cưới con An Nguyên. Thiếp nghĩ phu nhân đã nói đúng. Khi Quốc Công Tiết Chế còn sống có thể họ đối xử tốt với thiếp. Sau này, khi Quốc Công Tiết Chế "hai năm mươi" rồi họ sẽ quẳng thiếp vào sọt rác, như quả cam đã vắt hết nước... Cho tới khi lần đầu tiên chàng xuất hiện ở phủ, phu nhân đã đưa mắt cho thiếp. Và tự dưng hai má thiếp bỗng đỏ lựng lên...
- Vợ chồng là cái duyên, cái số. Là "cuộn chỉ ông trời se, cái que ông trời buộc". Nhưng mà... Lúc đầu Ngũ Lão định gọi hai từ Quận chúa, nhưng đã kịp thời đổi lại... nàng lấy ta thì suốt đời sẽ khổ đấy! Ta là võ tướng... quanh năm suốt tháng phải "nam chinh - bắc chiến"... Ấy là chưa kể sinh mạng lúc nào cũng như "trứng để đầu đẳng".
- Trai thời loạn. Thiếp khinh những người được gọi là "trang nam tử" mà giặc đến thì lại "núp dưới váy vợ"...
Ngũ Lão ngại ngần mãi mới dám đưa đôi tay dài và cuồn cuộn những cơ bắp vòng qua ôm lấy lưng An nguyên. Nàng khẽ rùng mình run rẩy. Ngũ Lão thật thà hỏi:
- Nàng lạnh à! Để ta mau đưa nàng về!
- Không!... Thiếp có lạnh đâu. Chẳng qua là... thiếp hồi hộp.. và sung sướng quá... đó mà.
Sáng sớm hôm sau, trong phòng trà của Quốc Công Tiết Chế ở Đại bản doanh Vạn Kiếp, trước khi "ai về nhà nấy" thì Quốc Tảng cất giọng nói oang oang:
- Thưa cha! Con nghe nói cái thằng Khánh Dư ở Vân Đồn... nó làm nhiều chuyện bậy bạ lắm! Với cương vị Quốc Công Tiết Chế được hai thánh thượng trao, cha hãy phái con và Dã Tượng... làm giám quân ra đó một chuyến xem sao?
- Tất cả những chuyện Khánh Dư làm cha đều biết cả. Nay con muốn đi một chuyến ra đó cũng là điều cần. Tuy nhiên con không được nóng nẩy quá!
Trở lại chuyện Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư được Quốc Công Tiết Chế cho thống lĩnh ba vạn thuỷ quân ra trấn thủ ở ải Vân Đồn thì như "mãnh hồ được trở về rừng xanh"
Vân Đồn là quan ải trọng yếu ở vùng đông bắc. Nằm trong khu vực vinh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh bây giờ. Đồng thời cũng là thương cảng sầm uất, nơi giao thương hàng hoá với các cửa hàng cửa hiệu lớn nhỏ, bao gồm cả các tụ điểm ăn chơi như lầu xanh, sòng bạc, trường gà... mọc lên như nấm. Số dân cư bản địa ăn hàng từ các thuyền buôn Trung Quốc để toả sâu vào nội địa, tạo nên một màng lưới, một hệ thống chân rết vô cùng đông đảo. Các thứ hàng hoá lái buôn người Hoa cần tải về phương bắc cũng do mạng lưới này cung cấp. Thật đa dạng, nhộn nhịp nhưng cũng không kém phần lộn xộn. Đã lập lại trật tự, lệnh đầu tiên của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư ban ra là " Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ (chỉ quân Nguyên Mông) nên các thương nhân không thể đội nón phương bắc, sợ khi giặc sang trong lúc vội vàng khó lòng phân biệt. Bởi thế nên đội nón Ma Lôi (Ma Lôi là tên một hương ở Hồng Lộ, hướng này có nghề đan cật tre làm nón rất khéo, nên lấy tên hương làm tên nón) ai trái lệnh sẽ bị phạt nặng bằng tiền, thậm chí bị phạt đánh đến năm mươi roi.
Trước lúc đó Khánh Dư đã ngầm cho người của mình đến hương Ma Lôi mua vét sạch tất cả số nón ở đây. Được cả chục thuyền lớn chở về còn đặt làm thêm vài thuyền nữa. Lúc đầu mỗi chiếc Ma Lôi giá chỉ nửa quan tiền. Sau lên đến trên một quan. Cung không đủ cầu, nên có lúc một chiếc nón đổi được một xúc lụa. Số lụa đổi được lên cả ngàn tấm.
Tiếp đó Khánh Dư cho mở các sòng bạc, trường gà. Chỉ có người có "máu mặt" mới được vào chơi. Các lái buôn người Hoa, người Việt có "máu me" đều bị nuốt vào đây thâu đêm suốt sáng. Không kể cá trò "cờ bạc bịp, riêng tiền "hồ" mỗi ngày cũng thừa vài ngàn đồng. Riêng trò đá gà, Khánh Dư có cả vài chục con. Gà của người khác đem đến chọi, nếu thua mất tiền cược là đương nhiên. Nhưng nếu có dấu hiệu chiến thắng, quân gia của Khánh Dư ra hiệu cho tay chân thả con chim ưng lông đỏ mỏ quặp ra. Thế là "vù" một cái, con chim ưng sà xuống cắp chú "gà nòi" của đối phương bay mất tăm. Thế là đành xử huề. Chú chim ưng rất tinh quái biết được gà nhà, gà lạ...
Riêng về khoản "ăn chơi" Khánh Dư không bao giờ lai vãng đến các quán lầu xanh. Mặc dù ở đó các chủ người Hoa "sưu tầm" được rất nhiều gái đẹp bốn phương với các "ngón nghề" phục vụ "thượng đế" tới bến. Để lấy lòng Khánh Dư mỗi lần có "đầu mối" các chú đều ân cần, niềm nở mời chào "miễn phí", nhưng Khánh Dư đều cự tuyệt thẳng thừng. Cái thú của Nhân Huệ Vương là các thiếu nữ trắng trong theo kiểu "hoa đồng nội". Vừa mắt cô nào là Khánh Dư trước dùng tiền bạc dụ dỗ, mua chuộc. Cách này không xong thì dùng quyền uy, vũ lực để khuất phục kỳ được.
Tất cả những việc làm trái với luân thường đạo lý đạo khi đó khiến khiến dân tình kêu ca, oán thán. Ngay cả khách buôn phương Bắc cũng không chịu đựng được. Bởi thế có người đã làm thơ mừng Khánh Dư lên tuổi bốn mươi trong đó có câu có ý chê bai, xỏ xiên là: "Vân Đồn kê khuyến diệc giai kinh". Có nghĩa là "Vân Đồn gà chó đến kinh". Song không phải chuyện gì Nhân Huệ Vương muốn là đều được. Vụ việc làm Khánh Dư bẽ mặt nhất là vụ với cha con ngư phủ. Số là một hôm Khánh Dư trên lưng con ngựa bạch dạo chơi trên phố. Qua cửa chợ chợt "giật mình" thấy một cô gái vận đồ đen với hai sọt cá tươi lớn. Cô gái có khuôn mặt trái xoan nhẹ nhõm với đôi mắt to đen dưới đôi lông mày lá liễu cong vút. Chiếc mũi dọc dừa cao ăn khớp với đôi môi chúm chín đỏ mọng ôm lấy hàm răng trắng lấp lánh đều tăm tắp. Cô niềm nở, nhanh nhẹn mời chào, lựa chọn và xâu cá lại cho khách bằng những chiếc lạt giang rất mềm dẻo mà chắc chắn. Từ xa Nhân Huệ Vương đã "tia" được "bông hoa lạ". Khánh Dư ghé tai nói nhỏ với một tên lính hầu. Tên này "vâng dạ" rồi tiến đến cổng chợ. Hắn nói với bố con ông lão ngư phủ " Nhân Huệ Vương muốn mua cả hai xảo cá. Nhưng muốn cô nương đây gánh dùm về phủ? Cô gái tủm tỉm cười, càng làm cho khuôn mặt thêm rạng rỡ, khiến Khánh Dư càng thêm mê mẩn. Song le câu trả lời của lão ngư đã khiến như một gáo nước lạnh dội xuống đầu Nhân Huệ Vương:
- Cha con tôi bán cá chứ không bán thân! Ngươi về nói với chủ ngươi như vậy.
Không chờ tên gia nô quay lại (Khánh Dư đã nghe thấy hết) liền thúc ngựa phóng đi.
Ngày hôm sau, đứng suốt cả buổi chợ sáng đến buổi chợ chiều, không có một khách nào lai vãng đến hỏi mua cá. Ông lão bảo con gái xâu từng con lại "cho không" những người đi chợ có vẻ "tầm tầm" không có nhiều tiền lắm. Thế là loáng một lúc, gánh cá đã được "tiêu thụ" hết. Nhưng đến ngày hôm sau, mặc cho cô gái đẹp như "tiên sa" luôn nở miệng tươi cười đon đả "lấy cá đi! Cá chim, thu, nụ, đé còn tươi rói đây! Nhanh chân đến lấy... biếu không đây!" Nhưng tịnh cũng không thấy bóng người nào lai vãng lại gần. Chiều tối một gã gia nô đến chỗ cha con cô gái, ân cần bảo:
- Cha con lão việc gì phải vất vả, nhọc lòng làm vậy! Nhân Huệ Vương mời cha con ông tới phủ... từ mai có bao nhiêu cá Nhân Huệ Vương mua tất...
Cô gái thì vẫn tủm tỉm cười, hàm răng trắng lấp loá sáng trắng dưới bóng hoàng hôn. Còn ông lão ngư phủ thì bảo:
- Ngươi về nhắc với chủ nhân của ngươi rằng. Nếu có tài tỷ thí võ nghệ với con gái lão. Nếu thắng con gái lão sẽ theo không.
Khánh Dư cho chuyện ấy là "hoang đường", mắng tên gia nô:
- Người có ăn phải "bùa mê thuốc lú" mà nghe nhầm không đấy!
- Dạ! Thưa chủ nhân... Con đâu dám nói sai với chủ nhân một lời.
- Được muốn vậy thì sáng mai ta tới đó xem sao?
Chợ đang đông thì Khánh Dư lững thững trên con bạch mã, cùng mấy tên gia nô tới, chàng bận võ phục trông rất gọn gàng và oai vệ.
Lão ngư phủ tiến lại gần và hỏi:
- Nhân Huệ Vương có dám nhận lời tỉ thí chăng?
- Lão không đùa bản vương đấy chứ? - Khánh Dư niềm nở hỏi lại.
- Ngài xem tôi đã ngần này tuổi đầu lại đi nỡm bản vương à?
- Thế cách thức tỷ thí thế nào? - Khánh Dư hỏi lại.
- Bản vương cứ việc dụng thanh trường kiếm của mình. Còn con gái lão phu thì dụng chiếc đòn gánh tre gánh cá!... Xin bản vương cứ trổ hết bản lĩnh của mình. Con gái tôi lỡ có thiệt thân tôi cũng không dám oán thán gì.
- Bản vương sao nỡ làm tổn thương tới thân ngà vóc ngọc của con gái lão ngư được! Song nếu bản vương thắng! Cha con lão có giữ đúng lời hứa như đã nói với gia nô của ta chăng?
- Dù cha con lão ngư có là dân... thấp hèn. Song quyết không bao giờ nuốt lời nói của mình.
- Thế thì xin mời! Khánh Dư lạnh lùng nói rồi xuống ngựa. Hai chân hơi xuống tấn. Một tay nắm chặt chuôi thanh trường kiếm, tay kia xoè ra chặn lấy mũi kiếm lúc đó đã đưa cao lên ngang mặt, theo thế "kiếm thủ" có ý nhường nhịn.
Cô gái vận đồ đen, sau khi vấn lại mớ tóc dài thật chặt và gọn ra sau gáy, dùng một chân hất chiếc đòn gánh bay lên. Rồi nhanh như chớp một tay nắm lấy một đầu và ra ngay một chiêu mỏ hàng nhằm trúng cổ Khánh Dư phạt tới. Chiếc đòn gánh lia như chớp khiến Khánh Dư hơi giật mình vội đưa kiếm ra đỡ. Những tưởng sau cú "ra kiếm" đó, chiếc đòn gánh trong tay cô gái sẽ bị chặt phăng làm đôi trước lưỡi kiếm chém sắt như chém bùn của Trần Khánh Dư. Nhưng không, chiếc đòn gánh đó dường như không phải bằng tre mà bằng một thứ vật liệu gì đó hết sức mềm, dẻo nhưng độ cứng không thua bất cứ loại thép quý nào. Sau đòn thứ nhất, chiếc đòn gánh lộn đầu thúc từ ngực Khánh Dư lên mặt. Khánh Dư phải lùi lại vung kiếm lên gạt ra. Lúc đầu Nhân Huệ Vương vốn "thương hoa, tiếc ngọc" chỉ thiên về phòng ngự. Chàng giở bài "kiếm pháp mai hoa" ra, lưỡi kiếm như hoa mai bay lấp loé, phủ khắp người. Giả sử lúc ấy có mưa rào đổ xuống thì người Khánh Dư cũng không hề ướt một giọt nước. Nhưng chiếc đòn gánh tre trong tay người đẹp lại như một con mãng xà đã thành tinh, trổ ra những đòn đánh mỗi lúc một hóc hiểm, một dồn dập khiến Khánh Dư phải đón đỡ đến toát mồ hôi. Biết gặp phải cao thủ không thể đùa rỡn với cái chết được. Nhân Huệ Vương bắt đầu tung ra những chiêu tấn công ác hiểm nhằm vào ngực, vào cổ đối phương mà phóng tới. Song Khánh Dư càng trổ hết tài nghệ ra bao nhiêu thì cô gái lại càng tỏ ra phấn chấn hơn. Khách đi chợ đã đứng thành vòng trong vòng ngoài. tầng tầng lớp lớp tận mắt chứng kiến trận "tao ngộ đấu" có một không hai tại vùng biển biên thuỳ này. Biết dùng sức không được bởi mỗi lúc Khánh Dư càng yếu thế hơn. Không có gì quý bằng danh dự và tính mạng của mình, cuối cùng Nhân Huệ Vương phải "nén lòng" giở ra chiêu "hồi mã gươm" vô cùng lợi hại của mình. Đối thủ dính phải chiêu này thì chắc chắn là mạng vong. Đầu tiên Khánh Dư vung thanh trường kiếm nhằm đầu đối phương bổ xuống theo thế "thái sơn áp đỉnh". Đối thủ chỉ có cách lùi lại. Khánh Dư vờ như bị lỡ chớn, mũi kiếm cắm xuống đất. Đối thủ, dù là cao thủ đi nữa tất nhiên triệt để lợi dụng "sơ hở" này để lia "hung khí" vào cổ phía bên kia. Chỉ chờ có vậy, bất ngờ mũi kiếm của Khánh Dư lộn ngược lên, xuyên qua ngực hoặc cổ đối phương. Song le, khi Khánh Dư cắm mũi kiếm xuống đất thì cô gái lại lùi lại. Bất ngờ và thật bất ngờ... móc từ cạp quần ra một vật đen tròn to hơn quả quýt một chút. Và ném về phía Nhân Huệ Vương. Quả quýt nở bay ra thành một tấm lưới trùm lấy toàn bộ người và kiếm của Khánh Dư. Cô gái cầm đoạn đuôi lưới giật mạnh một cái khiến Nhân Huệ Vương như bị trói chặt và ngã quay lơ ra đất. Chưa hết, cô ta cầm đầu lưới nhanh nhẹn chạy đến bên con ngựa bạch của Trần Khánh Dư. Nhẹ nhàng, khéo léo và rất thiện nghệ của một kỵ sĩ nàng nhảy lên lưng con ngựa quý và cực kỳ khôn ngoan, từ xưa tới giờ chưa ai có thể cưỡi được trên mình nó. Song lần này rất ngoan ngoãn con bạch mã dưới sự điều khiển thuần thục của cô gái rẽ đám đông đang vây quanh ra, kéo theo chủ nhân của nó quét lê trên mặt đất.
Sau khi đã phóng quanh các phố chính của thương cảng Vân Đồn, cô gái thúc ngựa trở lại cổng chợ.
Lão ngư nói với con gái:
- Thôi thế đủ rồi! Con hãy thả bản vương ra!
Cô gái nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, giật mặt đầu lưới một cái. Tấm lưới vội xoè ra. Cô thu lại vo thành "quả quýt" lớn, dắt vào cạp quần. Nhân Huệ Vương lồm cồm chống kiếm đứng lên. Đầu óc lơ mơ như tỉnh như mơ. Khi đã tỉnh hẳn thấy lão ngư khoanh tay đứng trước mặt. Râu tóc bạc như cước, dáng người nhỏ bé nhưng rắn rỏi. Đặc biệt giọng nói chắc nịch như tiếng chày gỗ thúc vào chuông đồng lớn.
- Ta nói cho ngươi hay! Thiên hạ nhân. Thiên hạ tài. Cao nhân ắt có cao nhân trị. Tiếc rằng triều đình không tuyển mộ nữ nhi vào lính. Bởi thế cha con ta tiếc chút tài ngươi có lúc sẽ giúp ích cho Đại Việt. Nên tạm tha cái mạng chó của ngươi lại. Nhưng chớ có tiếp tục chèn ép người ta quá đáng!
Nhân Huệ Vương đưa mắt cho mấy tên gia nhân có tài "chó săn" bám gót theo hai cha con lão ngư. Dăm bẩy ngày sau chúng về bẩm:
- Dạ! Thưa bản vương! Chỗ ở của hai cha con lão ở cách đây chừng năm dặm, trong một hồ nước sâu, đen thăm thẳm ăn thông ra vịnh. Phía bên kia hồ có một quả núi. Ở lưng chừng có một mái nhà lợp tranh đơn sơ. Vào đêm có ánh trăng dưới hồ nước đen sâu thăm thẳm thấy xuất hiện ba con giao long đen, ngụp lặn đùa rỡn với nhau rất vui vẻ. Còn vào các đêm mưa gió, dưới mái nhà tranh có ánh lửa bập bùng, hiện rõ hai vợ chồng già với cô con gái vừa xiên cá nướng ăn, vừa cười đùa với nhau rất tình cảm.
Nhân Huệ Vương quát:
- Đồ ăn hại! Làm gì có chuyện hoang đường đó! Song trong tâm trí Trần Khánh Dư lởn vởn một ý nghĩ: "Hay là quỷ thần xuất hiện để đe nẹt, răn dạy ta!"
Và từ đó các trò lộng hành của Nhân Huệ Vương có bớt đi. Nhất là các việc bắt ép con nhà lành. Song cái thói hay là cái thú "trăng hoa" thì không thể bỏ được. Khánh Dư bèn nghĩ ra một kế, sai gia nhân đến tiệm buôn lớn của Hoa rỉ tai rằng: "Muốn được làm ăn "nhất bản vạn lợi được xuôn xẻ may mắn nên chọn mỹ nữ còn trinh trắng dâng cho Nhân Huệ Vương". Vì cái "khoản" này thì người Hoa ở bậc "tiên sư" nên Khánh Dư không phải "lao tâm khổ trí" săn tìm "của lạ" nữa.
Lại nói Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đem theo gia tướng Dã Tượng cùng một chục tên lính nhanh nhẹn xuống Vân Đồn thanh sát việc luyện quân của Phó đô tướng Nhân Huệ Vương theo lệnh của Quốc Công Tiết Chế. Để đảm bảo bí mật, bất ngờ đoàn thanh sát của Quốc Tảng đóng giả làm cánh lái buôn đến ăn hàng thuốc bắc của các lái buôn người Hoa. Quốc Tảng dự định sẽ ăn nghỉ ở một nhà trò "tầm tầm" nào đấy ở một con phố nhánh. Nhưng vừa đặt chân đến tới hôm trước thì tơ mơ sáng hôm sau có một đội quân ăn mặc rất chỉnh tề đến:
- Bẩm Hưng Nhượng Vương và gia tướng Dã Tượng. Nhân Huệ Vương có lời mời đoàn thanh sát của Quốc Công Tiết Chế đến bản doanh của Phó đô tướng quân Trần Khánh Dư để làm việc - Tên này có vẻ là một tên đội, ăn nói rất kính cẩn và lưu loát.
Hưng Nhượng Vương hơi giật mình nhìn Dã Tượng. Dã Tượng nói thầm vào tai Quốc Tảng:
- Được ta cứ đến đó xem sao? Trước sau gì cũng phải tới đó mà.
Tại bản doanh của vùng biên ải Vân Đồn Trần Khánh Dư đã trống dong, cờ mở, lính đứng thành hai hàng với gươm dáo sáng loà sẵn sàng nghênh đón đoàn thanh sát. Chủ khách vừa phân ngôi tại vị, Khánh Dư đã nhanh nhảu nói:
- Hưng Nhượng Vương nhận sự uỷ thác lớn lao của Quốc Công Tiết Chế xuống thanh sát vùng biên ải quan trọng này, sao không đến ngay bản doanh để chúng tôi được trân trọng đón tiếp, lại nhọc lòng đến quán trọ tồi tàn đó làm gì?
- Chúng ta không muốn làm khinh động mọi người vì lúc ấy trời đã tối rồi. Hưng Nhượng Vương đáp qua quýt.
- Thế thì Hưng Nhượng Vương lầm rồi! Tướng sĩ ở đây lúc nào cũng túc trực ngày đêm để "nghênh đón" mọi tình huống có thể xảy ra.
- Vậy thì chúng ta muốn ra duyệt đoàn chiến thuyền ngay bây giờ, Nhân Huệ Vương nghĩ sao? Quốc Tảng bất ngờ đưa ra đề nghị đó.
Khánh Dư ngả người ra phía sau ghế cười ha hả rồi khảng khái đáp ngay:
- Xin mời Hưng Nhượng Vương!
Tất cả lên ngựa đi tắt ra cửa cảng Vân Đồn.
- Gọi "súy thuyền" đến đây! Khánh Dư ra lệnh.
Lập tức một tên lính đứng cạnh dùng cờ lệnh phất hai lần lên đầu. Loáng một cái con thuyền chỉ huy mầu trắng, kích cỡ không lớn lắm, chở chỉ khoảng dăm bảy chục người đã dong buồm phóng như bay vào bãi cát. Những tên lính trên thuyền nhanh nhẹn lao ván bắc cầu cho đoàn người lên thuyền!
- Xin mời Hưng Nhượng Vương! Khánh Dư làm một cử chỉ rất điệu bộ và lịch thiệp.
Thuyền vừa lướt sóng xa bờ chưa xa thì Quốc Tảng đã nói như ra lệnh:
- Ta muốn xem Nhân Huệ Vương tập hợp các chiến thuyền lại để chờ lệnh.
- Quân bay đâu! Có nghe thấy lệnh của Hưng Nhượng Vương không?
Lập tức một tên lính đứng ở mũi thuyền rút ra hai cây cờ xanh, đỏ ở bên sườnn, phất một bài lên xuống, qua phải qua trái hết sức nhịp nhàng như đang biểu diễn một bài múa. Trên mấy hòn đảo ở phía xung quanh, trên các điểm cao, lập tức có các tín hiệu cờ hưởng ứng. Chỉ bằng một phần hai mươi canh giờ, các chiến thuyền từ khắp các ngả nhộn nhịp hối hả nhưng rất có trật tự lướt sóng ra xếp hàng thành hình chữ nhất ở giữa vùng vịnh chờ lệnh khiến Hưng Nhượng Vương không khỏi thán phục. Nhưng với con mắt rất tinh tường của một vị tướng, Quốc Tảng hỏi luôn:
- Triều đình giao cho Phó đô tướng thống lĩnh ba vạn thuỷ quân. Nhưng với số lượng bốn trăm chiếc thuyền thế này chỉ độ hai vạn. Vậy còn một vạn nữa đi đâu?
- Quốc Công Tiết Chế đã từng dạy phải biết "vị binh ư nông" Bây giờ còn đang đang yên hàn, tôi rút ra một vạn quân, quanh vòng ba tháng một lần để đi đánh cá, nuôi trồng hải sản, lên rừng đốn gỗ đóng thuyền, chặt che rừng vót cung tên... và làm một số công việc khác. Khánh Dư ứng đối rất trôi chảy khiến Quốc Tảng không thể vặn thêm được gì về điểm này.
- Thế "hoa lợi" thu được Phó đô tướng dùng vào việc gì. - Quốc Tảng xoay qua việc khác.
- Một phần ba gửi về nộp cho triều đình - Có giấy biên nhận của quan coi sóc công khố. Số còn lại để nuôi quân và trang trải việc mua sắm các đồ dụng cho thuyền bè. Khánh Dư này không tơ hào một xu.
- Phải giống như vụ nón Ma Lôi chứ gì? Quốc Tảng mang chuyện "áp phe" cũ ra giễu cợt.
- Hừm! Làm tướng mà không linh hoạt thì có mà... đói dã họng ra à? Khánh Dư đốp chát thẳng thừng.
- Thôi được rồi, chuyện đó không quan trọng! Bây giờ ta muốn Phó đô tướng cho triển khai việc tấn công đoàn thuyền vận tải lương của giặc Hồ trong điều kiện có quân hộ tống rất đông đảo và tinh nhuệ.
- Quân bay! Hãy triển khai cho Hưng Nhượng Vương xem!
Các hiệu lệnh cờ từ "suý" truyền lại được phát ra và tại mỏm cao trên các dài, tín hiệu cờ lại được truyền tới từng đội chiến thuyền.
Hơn bốn trăm chiến thuyền đang xếp theo hình chữ nhật vội tản ra. Khoảng năm chục chiếc chở các chiến binh tinh nhuệ nhất với gươm giáo, cung tên đè sóng lướt như bay ra phía trước. Phía đối diện đã thấy có một đội thuyền khác mầu xông ra nghênh chiến... Hai đoàn chiến thuyền hoà vào nhau. Sau đó đoàn thuyền mang cờ Đại Việt vừa đánh vừa chạy, như cho chiến thuyền "Nguyên Mông" đuổi theo. Khi cuộc rượt đuổi đã khá xa, từ "suý" thuyền cờ hiệu lại được phất lên. Các đội thuyền nhỏ, mỗi đội chừng hai ba chục chiếc lao tới khu vực thuyền vận tải hàng của địch. Đủ các đội thuyền với nhiệm vụ khác nhau. Có đội chuyên dùng tên lửa tẩm dầu bắn vào thuyền tải lương của giặc. Có cả đội "hoả thuyền" lửa cháy rừng rực cứ thế lao thẳng vào "lòng địch".
Trận thao diễn thật sôi động và nhịp nhàng khiến Quốc Tảng phải khen thầm "thật cha ta nhìn không lầm. Dụng nhân như dụng mộc là thế này đây."
Cuộc diễn tập suốt từ sáng đến chiều tối, "suý" thuyền vừa cập bờ thì Quốc Tảng lại đề ra yêu cầu tức thì:
- Đó là tình huống đoàn thuyền vận lương của giặc đi qua giữa thanh thiên bạch nhật. Còn vào đêm tối trời thì sao?
Khánh Dư bèn cho thổi một hồi tù và, dài ngắn, cung bậc khác nhau. Thế là cuộc đôi chiến thuyền liền lập tức quay mũi trở lại. Tiếng tù và từ "suý" thuyền phát ra thế nào, tại vị trí "tiền tiêu" trên các hòn đảo phát lại như thế: khiến vùng vịnh âm vang một không khí thúc giục rộn rã. Và tất cả lại nghiêm chỉnh quay trở lại đội hình như buổi sáng, không có thuyền nào tỏ ra mệt mỏi sau một ngày diễn tập căng thẳng.
- Hưng Nhượng Vương có muốn xem ký hiệu đèn không?
- Có gì ngươi cứ trổ hết ra đây!
Thay tiếng tù và hiệu lệnh lần này được sử dụng là những chiếc đèn lồng đủ mầu sắc sặc sỡ, xanh, đỏ, tím, vàng. Theo cách phát từ "suý" thuyền các đội thuyền tiến, lui, rẽ phải, sang trái, tấn công hay rút chạy... theo một trật tự đã được tập dượt kỹ càng.
- Trong đêm giông bão, có lúc phải dùng tù và, có lúc phải dùng đèn để đối phương rối mắt, rối tai, không biết thế nào để chống đỡ. Trần Khánh Dư giải thích và nói tiếp. Thực túc thì binh cường. Hưng Nhượng Vương có thấy thuỷ quân của tôi mỏi mệt không? Sở dĩ có được như vậy bởi xuất ăn hàng ngày của họ vô cùng tốt. Tôi đảm bảo đội quân Thánh Dực bảo vệ hai Thái thượng do Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng cũng không thể tốt hơn.
Suốt ba ngày Trần Quốc Tảng theo Trần Khánh Dư đi kiểm tra từng trận địa phục kích, từng kho chứa quân lương, tên đạn... và cả các đội thuộc "binh chủng" "ngụ binh ư nông" Đi tới đâu Quốc Tảng đều tấm tắc khen thầm tài thao lược của Khánh Dư.
Rồi sáng ngày chia tay cũng đến. Tại sảnh lớn tại quân doanh Khánh Dư mở tiệc chiêu đãi đoàn giám binh do Hưng Nhượng Vương dẫn đầu. Rượu được vài tuần, Nhân Huệ Vương đưa ra một túi gấm mầu xanh, có đóng xi bốn góc trao cho Quốc Tảng:
- Đây là công văn trình mong Hưng Nhượng Vương chuyển dùm.
Quốc Tảng đưa mắt cho Dã Tượng. Dã Tượng đưa hai tay đón lấy, rồi cho vào bọc dấu trong người.
- Chẳng mấy khi có đoàn giám binh do đích thân Hưng Nhượng Vương quá bộ xuống đây. Bản vương cũng có chút quà mọn. Mong Hưng Nhượng Vương đừng nghĩ là Nhân Huệ Vương này có gì sai sót nên phải hối lộ.
- Quà cáp gì! Quốc Công Tiết Chế và chúng ta, dù không dư dả bằng ở đây, nhưng nói thật là cũng không đến nỗi thiếu thốn gì. Quốc Tảng khảng khái trả lời.
- Xin Hưng Nhượng Vương cứ thư thả... Quà này chỉ là các đồ kỷ niệm thuộc "cây nhà, lá vườn" chứ không phải bỏ tiền công quỹ ra mua sắm đâu mà Hưng Nhượng Vương phải lo.
Nói rồi Nhân Huệ Vương vỗ tay làm ám hiệu. Bốn tên lính khiêng ra một cây san hô đỏ lớn như một hòn non bộ, đặt ở các nhà quý tộc.
- Cây san hô này để kính biếu Quốc Công Tiết Chế. Mong Quốc Công Tiết Chế luôn phát sáng như cây san hô này.
Tiếp đó một tên lính hầu khác bưng ra một chiếc hộp bọc nhung. Khánh Dư mở ra bên trong hộp lót gấm Tây Xuyên Trung Quốc mầu xanh làm nổi bật ba chiếc vòng cổ bằng hạt trai đỏ, hạt trai đen và hạt trai tràm.
- Món quà này xin kính gửi tới quý phu nhân của Quốc Công Tiết Chế.
Rồi Nhân Huệ Vương lại vỗ tay. Lần này sáu tên lính hai tên một cặp khênh ra ba chiếc lu lớn bằng sành, đặt trong các sọt mây có lót rơm rất chặt chẽ, khi mang vác, di chuyển không thể làm ảnh hưởng tới các lu sành.
- Đây là năm mươi đôi cá ngựa đỏ, năm mươi đôi cá ngựa đen và năm mươi đôi cá ngựa trắng. Khánh Dư vừa giới thiệu quà vừa mỉm cười khoái trá. Đây đều là các đôi cá "đại tướng" dài hơn gang tay. Khách tầm "sành điệu" muốn mua một lượng một đôi cũng không có... Quà nay xin tặng Hưng Vũ Vương. Rượu cá ngựa mọi người đều nói rằng "ông uống bà khen!" Hy vọng Hưng Vũ Vương sử dụng sẽ làm hài lòng... công chúa Thiên Thuỵ...
Trần Khánh Dư phải nói thật luôn luôn thể hiện đúng với chất của mình. Hai món quà tỏ lòng cung kính bao nhiêu thì món thứ ba đầy tính khiêu khích diễu cợt bấy nhiêu. Và tất nhiên với Trần Quốc Tảng tính tình tuy có chút nóng nẩy nhưng lòng dạ trung thực, ngay thẳng không thể chịu nổi tài "khiêu khích" đó của Khánh Dư. Hưng Nhượng Vương liền quay lại, vớ cây đao của mình do tên lính hầu đang cầm, đứng bật dậy lia đao chém vỡ tan ba chiếc bình sành cá ngựa. Đến cả cây san hô đỏ, lẫn hộp ngọc trai, Quốc Tảng cũng vung đao chém vụn tất.
- Đồ tiểu nhân bỉ ổi! Ngươi định khiêu chiến với bản vương sao? Quốc Tảng giận dữ quát.
Trần Khánh Dư lúc này đã tuốt kiếm ra khỏi vỏ. Tuy nhiên vẫn ngồi trên chiếc tràng kỷ đối diện. Hai bàn tay cùng chống bên chuôi kiếm vừa cười vừa bảo:
- Ta cũng muốn tỉ thí với Hưng Nhượng Vương. Tuy nhiên, hôm nay không có hứng. Song ta cũng nói cho Hưng Nhượng Vương biết rằng về mặt kiếm thuật đến Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, tay thương số một của Đại Việt hiện nay cũng phải nhường ta hai, ba phần.
Nói rồi Trần Khánh Dư lên giọng quát lớn:
- Bay đâu! Tiễn khách!
Hưng Nhượng Vương định vung đao nhảy bổ sang thì bất ngờ quân phục rất khéo rất khéo từ bốn xung quanh đồng loạt bật dậy, gươm dáo sáng loà, chật như nêm cối khiến Quốc Tảng không thể lao sang chỗ Khánh Dư được.
- Quân bay! Chuẩn bị ngựa! Ta phải đi săn để giải mấy ngày căng thẳng vừa rồi.
Vốn cao hơn bọn lính một cái đầu, Quốc Tảng nhìn thấy rất rõ Khánh Dư nhẩy tót lên mình con bạch mã. Thanh trường kiếm đeo bên suờn, trên vai là con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp, trong dáng rất phong lưu và oai vệ khiến Quốc Tảng tức đến "nổ ruột". Nhưng hàng rào binh lính chặt như nêm cối nên Quốc Tảng chỉ còn cách đứng nhìn con ngựa bạch trên đó có Khánh Dư cùng đoàn tuỳ tùng và đàn chó săn mỗi lúc một dời xa.
- Thôi! Ta nên về gấp! Kẻo Quốc Công Tiết Chế ở nhà đang ngóng trông! Dã Tượng đưa ra lời khuyên. Quốc Tảng nghe theo. Ngay lập tức cùng đoàn tuỳ tùng trở về Đại bản doanh Vạn Kiếp.
Hưng Đạo Vương nhìn vẻ mặt còn hầm hầm tức giận của Quốc Tảng bèn hỏi luôn:
- Thằng Khánh Dư lại dở trò gì ra để lỡm con chứ gì?
Quốc Tảng lặng thinh không đáp. Dã Tượng thuật lại mọi việc. Hưng Đạo Vương bảo:
- Chắc thằng chân dài vẫn còn cay cú gần bốn năm phải đi đốt than đấy mà!
Dã Tượng trình công văn có gắn xi bốn góc trên chiếc túi gấm. Hưng Đạo Vương vuốt râu cười hóm hỉnh:
- Ta cam đoan trong đó không viết gì?
Quốc Tảng giật lấy chiếc túi gấm trên tay Dã Tượng, rút con dao găm bên mình rạch chiếc túi gấm. Một vuông lựa trắng tinh rơi ra. Quốc Tảng gầm lên:
- Thằng quá vô lễ với cha. Để con đem quân bản bộ của mình ra Vân Đồn bắt nó về đây cho cha trị tội. Hưng Đạo Vương vẫn vuốt chòm râu đen tủm tỉm cười và bảo:
- Con không nên nóng nảy thái quá! Công văn này trình như vậy là quá đủ và quá rõ. Thứ nhất vuông lụa trắng trình rằng mọi việc đều yên tĩnh. Thứ hai chưa có gì cần phải bẩm vào lúc này. Nếu có sự cố xảy ra xin cho hắn toàn quyền ứng phó. Thứ ba là hắn thề là mình vẫn trong trắng. Đặc biệt vẫn trung với nước với vua. Không có gì có thể lay chuyển được lòng trung đó.
- Cái thằng quỷ quái này, nó còn dám dở trò chơi chữ với cha... Mấy ngày ở ngoài đó, mặc dù không tiếp xúc, ra ngoài phố xá nhiều. Nhưng lòng dân đối với hắn có rất nhiều oán hận bởi sự hà khắc, lộng quyền của hắn. Thậm chí con còn nghe câu "Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh"
- Khánh Dư là kẻ lắm tài, nhiều tật. Nhưng thực sự là một viên tướng văn võ song toàn. Hẳn con còn nhớ chính hắn đã viết lời tựa cho cuốn "Vạn kiếp tông bí truyền thư" chứ. Phải nói thật là không tướng nào hiểu sâu sắc như hắn khi hắn viết lời tựa. Chỉ cần vài câu mở đầu đã toát lên điều đó: "Người giỏi cầm quân thì không bày trận, người giỏi bày trận thì không phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết..."
Đấy con người của Trần Khánh Dư là như vậy đấy! Ta tin chắc rằng, rồi trong các trang sử viết về đời Trần của chúng ta hiện nay, dù rất kiệm lời, nhưng trong số các con người làm nên lịch sử có tên Trần Khánh Dư với một dấu son chói lọi. Song hành với một vết mực đen. Nói tới đây Hưng Đạo Vương dừng lại một lát rồi hỏi Quốc Tảng:
- Có nên lưu lại Khánh Dư tiếp tục trấn thủ ở vùng biên ải quan trọng và đầy sôi động đó, hay rút hắn về, thay bằng tướng khác?
- Về mặt đánh thủy, Nguyễn Khoái chỉ giỏi chiến trên sông. Còn trên biển, Khánh Dư là số một.
- Con đã nói ra được điều đó là cha rất mừng rồi! Không vì oán thù, định kiến mà nói sai về người ta. Cha cũng đồng ý với con như thế.
Rồi người quát lớn:
- Quân bay đâu! Mang ấn kiếm của ta ra Vân Đồn phong cho Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư từ Phó đô tướng thuỷ quân lên Đô tướng thuỷ quân.
- Con chỉ sợ sau này... Khi đã phá tan giặc Nguyên Mông. Khánh Dư sẽ cậy có công lớn mà trở thành một con sâu mọt thành tinh, thành quái... hãm hại bách tính Đại Việt - Quốc Tảng thở dài than.
- Điều đó không phải cha không nghĩ đến - Giọng Hưng Đạo Vương trầm xuống - Nhưng mà điều đó cha con ta không thể cản được. Điều đó như là một sự đương nhiên ở Đại Việt ta, sau mỗi lần chiến thắng oanh liệt xâm lược. Không chỉ một Trần Khánh Dư mà lại có nhiều Trần Khánh Dư khác. Chúng kéo bè kết cánh, tìm đủ mọi thủ đoạn xấu xa, bỉ ổi thậm chí là trắng trợn, dối vua lừa dân... cố làm sao để vơ đầy lòng tham vô đáy của chúng... Con gần đây có nhiều sự đổi thay đáng mừng. Cha mong con sẽ là viên tướng dũng cảm trong việc chống quân Nguyên Mông trước mắt. Và trở thành vị vương tốt, quan giỏi, quan thanh liêm cho xã tắc sau này. Có Dã Tượng ở đây làm chứng cha tuyên bố xoá bỏ lời nguyền "khi ta chết, chỉ sau khi đậy nắp quan tài mới cho thằng Quốc Tảng đến viếng". Thời đó chẳng qua vì nóng nảy mà con nghĩ chưa chín, chưa thấu đáo mà thôi. Chứ còn cái tâm biết lo cho dân, cho nước của con sẽ có trời xanh chứng dám...
8
Năm 1284, mùa thu tháng tám vua Nguyên Mông Hốt Tất Liệt phong Trần Ích Tắc làm An Nam Quốc Vương và sai Sài Thung đem ba ngàn quân kỵ hộ tống Ích Tắc về Đại Việt nhận chức. Qua ải. Khả Li ở Lạng Sơn bị quân nhà Trần chặn đánh. Sài Thung bị bắn mù một mắt. Ba ngàn quân kỵ bị giết gần hết chỉ còn vài chục tên hộ tống Trần Ích Tắc cùng gia quyến chạy ngược lại phương bắc.
Hay tin Hốt Tất Liệt nổi giận phong cho Thái tử Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương đem theo năm mươi vạn hùng binh cùng nguyên soái Ô Mã Nhi và các tướng lừng danh từng đánh đông, dẹp bắc như Áo Lỗ Xích, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp, Trương Hiền, Lý Hằng, Lý Quán... và tên Hán gian Phạm Nhan (vốn rất quen thông thổ Đại Việt) làm tham quân kiêm hướng đạo.
Được tin hai vua Trần tổ chức họp các cụ bô lão ở khắp các miền về Điện Diên Hồng để trả lời câu hỏi nên hoà hay nên đánh. Hàng ngàn bô lão đều đồng thanh hô SÁT THÁT (có nghĩa là giết chết giặc Nguyên Mông). Được lời như cởi tấm lòng, hai vua Trần cùng Quốc Công Tiết Chế càng vững tâm hơn với chủ trương đã chọn của mình...
Trước khi vào trận chiến sống còn, Hưng Đạo Vương đã quyết định tác thành mối lương duyên giữa Phạm Ngũ Lão với con gái nuôi của mình là quận chúa An Nguyên, bởi mọi thứ đều đã "chín muồi"... Chủ hôn là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, hai phù rể là Yết Kiêu và Dã Tượng. Phía nhà trai sang rước dâu gồm quan phủ tỉnh Hưng Yên, quan huyện Ân Thi, Chánh tổng, lý tưởng làng Phù Ủng cùng rất nhiều nam, phụ, lão, ấu. Trong số đó tất nhiên có cha con chị cả Lưu và cháu bé chị "tậu" được ở bến Bình Than. Định qua rằm tháng tám thì ăn hỏi và rước dâu luôn.
Nhưng một tai hoạ bất ngờ đã đổ ập xuống đầu Phạm Ngũ Lão. Giữa buổi chiều ngày mùng 5 đích thân chánh tổng và lý trưởng làng Phù Ủng phi ngựa lên Vạn Kiếp báo hung tin mẹ Phạm Ngũ Lão bị sa xuống giếng chết đuối... Như bị sét đánh Ngũ Lão thét lên một tiếng xé lòng rồi ngất lịm đi. Gần nửa canh giờ mới tỉnh nhưng người rũ ra như tầu chuối héo, chỉ có xác chứ không có hồn... Rồi bất chợt chàng lồng lên, hai tay tự đấm vào ngực mình, gào thét "Ta thật ngu dại tại sao lại đào chiếc giếng đó chứ!... Mà con Tía, con Tía buổi sáng hôm đó đã linh cảm báo trước cho ta chuyện chẳng lành. Sao ta không nén lại ít phút, đạp đổ thành giếng và xúc đất lấp đi. Trời ơi! Chỉ có một chút xíu thời gian thôi, thì mẹ ta đâu đến nỗi này! Ối ông trời ơi! Ngũ Lão đã phạm tội gì mà ông lại nỡ hành hạ, giết hại mẹ ta... tàn khốc đến như vậy! Hỡi thần phật ở chùa Bảo Sơn, Ngũ Lão gần hai chục năm ăn mày cửa Phật đã phạm lỗi lầm gì mà bây giờ bị... quả báo như vậy...
Hưng Đạo Vương biết là có kẻ ngầm phá mối lương duyên này. Và thủ đoạn của chúng thật là tàn độc. Chúng nghĩ rằng mẹ Ngũ Lão mất thì ắt đám cưới sẽ phải lùi lại ba năm, cho đến ngày mãn tang. Để trả lời nghi vẫn đó là thực hay hư. Người đã phái thám mã tức tốc xuống nhà Ngũ Lão. Mới hơn nửa ngày chúng đã về tâu hết sức tường tận. Rằng thành giếng rất cao, mẫu thân Ngũ Lão không thể tự ngã xuống giếng được. Thứ hai ở sau gáy nạn nhân có một vết đánh của một vật cứng, hình tròn. Và ở bờ sông, dân làng phát hiện thấy một xác chết, vận đồ đen không phải người trong tổng.
Như vậy là mọi việc đã rõ. Nhưng Hưng Đạo Vương là người đa mưu, túc trí. Người không thể chịu bó tay trước một việc cỏn con nhưng vô cùng độc ác này. Quân lệnh như sơn người quyết định tổ chức đám cưới trước, ba ngày sau mới làm lễ phát tang. Phạm Ngũ Lão dù đau đớn đến tột cùng cũng không thể trái lệnh.
Đêm tân hôn, quận chúa An Nguyên nằm bên, và chỉ làm mỗi một việc là thấm nước mắt cứ tự nhiên ứa ra như suối của chồng. Những dòng nước mắt không trong mà có pha lẫn cả máu...
Ba ngày sau, mặc dù bận vô vàn công việc, nhưng đích thân Hưng Đạo Vương đã về làng Phù Ủng, đặt tay lên hòm áo quan đưa mẹ Ngũ Lão về nơi an nghỉ cuối cùng. Hưng Đạo Vương biết rất rõ có thế lực trong triều sợ Phạm Ngũ Lão thành rể của mình thì khác nào "hổ mọc thêm cánh" nên quyết phá đến cùng. Song le tình thế lúc này, năm mươi vạn quân Nguyên Mông đã áp sát biên thuỷ phía bắc nên Người phải nuốt giận cho con rể của mình. Lời trăng trối của cha không dám báo, hận của con trai không dám trả, bây giờ lại đến thù của con rể, tất cả Hưng Đạo Vương đều gạt sang một bên, để toàn tâm, toàn sức vào việc bảo vệ Đại Việt. Người đời xưa nay chỉ tháy Hưng Đạo Vương có quyền uy lệch nước. Ít người thấy Quốc Công Tiết Chế cũng có những TÂM TRẠNG cháy lòng...
Đắp cho mẹ "mồ yên, mả đẹp" Ngũ Lão vào chùa Bảo Sơn, dập đầu lạy sư phụ Hồng Quang lo hộ các nghi thức đưa mẹ lên chùa, cùng hai ngày 49 và 100 vốn rất trọng đại với người đã khuất của phong tục Việt Nam.
Sư cụ Hồng Quang nắm tay đệ tử, buồn giầu nói rằng:
- Chốn quan trường vốn hiểm ác! Con phải lưu tâm đề phòng. Giặc Nguyên Mông đã ở sát biên thuỳ rồi. Mọi việc của mẫu thân con, ở nha sư phụ và dân làng sẽ chăm lo chu đáo.
Phạm Ngũ Lão gạt nước mắt tạ ơn, lên ngựa, chia tay sư phụ trở về Vạn Kiếp.
Quốc Công Tiết Chế đã đón Ngũ Lão ở trước Đại bản doanh. Ngũ Lão chưa kịp xuống ngựa thì đã nhận được lệnh sang sảng của Người:
- Nay phong cho Phạm Ngũ Lão làm đô tướng. Thống lĩnh ba vạn quân làm tiên phong lên trấn giữ ải Chi Lăng. Hẹn phải giữ được quan ải trong mười ngày. Chín ngày mà để mất quan ải thì sẽ mắc tội chém.
Ngay chiều hôm đó, Phạm Ngũ Lão lĩnh mệnh dẫn quân đi ngay...
Lại nói nguyên soái Ô Mã Nhi dẫn mười lăm vạn quân Nguyên Mông làm tiên phong đánh thẳng xuống Đại Việt. Thế giặc như chẻ tre, chỉ hơn một ngày cánh quân kỵ Mông Cổ đã tới trước cửa ải Chi Lăng. Ô Mã Nhi hạ trại cách quan ải năm dặm. Một mình một ngựa đến trước cửa quan nói lớn lên rằng:
- Nay quân Thiên triều đã đến đây. Chúng ta chỉ mượn đường sang đánh Chiêm Thành. Bây giờ các người chỉ có hai lựa chọn: Chống lại thì chết. Mở cửa quan cho quân ta qua thì sống? Phạm Ngũ Lão giáp trụ uy nghi đứng trên quan ải nhìn xuống. Thấy Ô Mã Nhi quả là "danh bất hư truyền". Người to lớn như một vị hộ pháp. Mặt to, tai lớn, trán rộng, mắt hơi nhỏ nhưng đuôi con mắt dài và sắc. Mũi sư tử, hai má phính phớt hồng như má trẻ nhỏ, cộng với hai mớ tóc buộc trái đào theo kiểu "Natra thái tử" tướng trên thiên đình trong truyện Tây Du ký. Miệng rộng hàm vuông, với những chiếc răng chắc khoẻ. Ra trận mà chỉ có một mảnh giáp che ngực. Phía dưới để lộ ra cái bụng căng tròn trắng như lợn vừa cạo sạch lông. Không hiểu mặc quần hay mặc váy, chỉ thấy hai vuông vải rộng thùng thình che dưới chân. Hai cánh tay để trần cùng bả vai núng nính những thịt, vâm váp như hai cột đình. Tay phải cầm một thanh đao to bản, rất dày, chuôi ngắn. Cưỡi trên mình một con ngựa ô cao lớn, có đốm sao trắng ở giữa trán và bốn vó to trắng như tuyết.
Lính cung thủ định dương cung lên bắn, nhưng Ngũ Lão nghĩ chắc chắn Ô Mã Nhi đã có đề phòng nên giơ tay ngăn lại.
- Thế nào? Chúng bay suy nghĩ xong chưa? Còn nếu không tin sức mạnh của quân thiên triêu thì có tên nào xuống đây đấu với ta năm chục hiệp. Nếu cầm cự nổi, thiên triều sẽ rút binh ngay. Bằng nếu thua sớm thì hãy mở cửa quan. Ô Mã Nhi lại lớn tiếng thách đấu.
- Ngươi đừng khoác lác, huênh hoang quá! Có ta xuống tiếp chiến với ngươi đây! Sau một phút suy nghĩ, Ngũ Lão quyết định chấp nhận lời thách đấu.
Hai cánh cửa sắt nặng chịnh cửa quan ải được mở ra. Cầu treo được hạ xuống. Phạm Ngũ Lão trên mình con Tía lao thẳng ra. Mặt đối mặt với Ô Mã Nhi.
- Tướng kia hãy xưng chức danh, tên họ. Ô Mã Nhi quát. - Ta không thèm đấu với kẻ vô danh tiểu tốt, làm bẩn lưỡi đao báu của ta. Ô Mã Nhi quát.
- Ta họ Phạm, tên Ngũ Lão. Là đô tướng xuất thân từ thợ cầy kiêm nghề đan sọt. Được Quốc Công Tiết Chế cử lên trấn thủ ải này. Nếu muốn phá được quan ải, ngươi phải qua xác ta trước. Ngũ Lão dõng dạc đáp.
Ô Mã Nhi bỗng ngửa mặt lên trời cười sằng sặc, rồi hắn đáp:
- Hào khí Đông A của nhà Trần các ngươi tan hết đâu rồi, mà lại sai một tên Muzich ra đấu với ta!
Ngũ Lão ngớ ra không hiểu hai từ Muzich là gì thì Ô Mã Nhi đã mau mồm, mau miệng giải thích - Muzích theo nghĩ tiếng Nga la tư là đồ nhà quê, gọi có ý diễu cợt khinh miệt. Rồi hắn giải thích thêm. Mười tám năm trước nguyên soái Toa Đô và ta đi chinh chiến ở Nga la tư bên trời Tây. Bởi thế bọn Đại Việt mới chiến thắng được quân Nguyên Mông chúng ta. Nay ta và nguyên soái Toa Đô đã quay lại phía đông, như ngươi thấy đấy, chỉ hơn một năm đã quét sạch nhà Nam Tống, khiến vua tôi của họ phải ôm nhau nhảy xuống sông xuống biển chết đuối cả chục vạn người... Người về gọi vương tôn, công tử nào danh giá hãy ra đây! Ta không thèm đấu với ngươi.
Ngũ Lão sau khi nghe hắn huyên thuyên một hồi về tiếng Nga la tư lẫn chiến công hiển hách của hắn thì cũng phá ra cười và bảo rằng:
- Ngươi nói mượn đường Đại Việt để để đánh Chiêm Thành. Kế "mượn đường diệt Quắc" của Bàng Quyên từ thời Xuân Thu chiến quốc đã quá "xưa" rồi! Còn ở Đại Việt ta có câu "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh". Vậy một tay thợ cày sức vóc như ta làm sao lại đứng nhìn được! Để thanh đại đao trong tay ta nói cho người hiểu thêm.
Nói rồi Ngũ Lão nhanh như chớp lia một đao chém ngang qua chiếc cổ to bự như cổ trâu mộng của Ô Mã Nhi. Quân lính đứng trên quan ải tưởng đầu Ô Mã Nhi sẽ lăn lốc lốc dưới đất vì thấy lưỡi đao của Ngũ Lão đã sấn tới nơi mà Ô Mã Nhi vẫn chưa động tay đón đỡ gì. Nhưng thật nhẹ nhàng, nhanh nhẹn đến bất ngờ, cánh tay nung núc thịt to chắc như cột đình của hắn đã vụt giơ lên gạt nhẹ một cái. Sắt thép chọi với sắt thép khiến cả hai cây đao đến toé lửa. Sức mạnh của Ô Mã Nhi quả là kinh hồn, khiến con Tía phải hý lên một tiếng, đồng thời dựng hai vó trước lên để triệt tiêu một phần. Hai cánh tay rắn chắc của Ngũ Lão cũng có phần tê dại. Biết gặp phải đối thủ quá mạnh, Ngũ Lão nghĩ chỉ có lăn xả vào đánh mới giữ được thế cân bằng. Bởi thế chàng liền khởi thế công, vung đao phạt qua trái, rồi lại lộn qua phải, lúc đánh thốc từ ngực lên mặt đối phương. Con Tía cũn theo sự điều khiển của Ngũ Lão, di chuyển hết sức uyển chuyển, nhanh nhẹn quanh cơ thể "con quái vật" Ô Mã Nhi. Thanh đao chuôi ngắn trong tay nguyên soái Ô Mã Nhi cũng tỏ ra có sức vươn rất dài với sự biến hoá mau lẹ đến khôn cùng. Vừa gạt lưỡi đao của Ngũ Lão đã lập tức phạt chéo sang đập trả luôn. Mới đầu Ô Mã Nhi còn vừa đánh vừa đùa theo kiểu "mèo vờn chuột:". Nhưng rồi thấy thanh đao của Ngũ Lão nguy hiểm như một con mãng xà đã thành tinh, cứ nhằm vào những chỗ hiểm yếu nhất của cơ thể hắn mà phóng tới thì hắn đã chợt nghĩ. "Cái thằng Muzích này không thể đùa dai được rồi". Thế là hắn bắt đầu trổ thần oai, vung lên những đường đao nhanh như ánh chớp và mạnh như sấm sét. Lúc này cả người lẫn ngựa của Ngũ Lão cũng đã như 'bốc" lên, ăn miếng trả miếng rất linh hoạt. Chả mấy chốc đã hết năm mươi hiệp Ngũ Lão giật ngựa lùi lại và bảo:
- Đã sang hiệp thứ năm lăm rồi! Ô nguyên soái hãy giữ đúng lời hứa chứ?
Ô Mã Nhi cũng dừng tay và lại ngửa cổ lên trời cười sằng sặc và đa sự rằng:
- Ôi! Tên Mu zich thực thà kia. Đại Việt làm hàng xóm với Trung Quốc đại lục cả ngàn năm rồi mà không hiểu câu châm ngôn của "láng giềng tốt" là "Quân tử nói đi là là quân tử dại! Quân tử nói lại là quân tử khôn" à? Ngươi có giỏi thì đấu với ta năm mươi hiệp nữa. Phải nói thực là lâu lắm rồi ta mới gặp được đối thủ rất đáng nể như ngươi.
- Đánh thì đánh! Năm mươi chứ một trăm hiệp nữa ta cũng xá gì? Ngũ Lão hăng hái đáp lại, và lại thúc con Tía sấn tới, vung đao chém tới.
Cả hai cùng hăng hái trổ hết tài năng và sức mạnh ra, quyết đánh thắng thua. Ba mươi hiệp nữa trôi qua. Vẫn chưa phân kẻ thắng, người thua. Bỗng Ô Mã Nhi chém bậy một đao rồi giật ngựa, quay đầu chạy. Ngũ Lão quát to:
- Người định dùng kế đà đao chứ gì? Ta đâu có sợ! Rồi thúc ngựa đuổi theo. Nhưng kế đà đao hai ngựa phải đuổi sát nhau, rồi bất ngờ kẻ chạy trước chém quặt lại. Đằng này ngựa của Ô Mã Nhi chạy xa tới ba chục thước và trên lưng không thấy Ô Mã Nhi đâu. Ngũ Lão vội chợt tỉnh, dừng ngựa lại. Đúng như dự đoán của chàng, Ô Mã Nhi xoay người tụt dưới bụng ngựa. Khéo léo lấy cung ở bên sườn ra, lắp tên. Rồi bất ngờ nhỏm nghiêng người kéo giây cung. Mũi tên xé gió nhằm giữa ngực Ngũ Lão vút tới. Nhanh như chớp Ngũ Lão kịp thụp người, hai tay ôm lấy cổ ngựa. Và khi mũi tên vừa xé qua mang tai thì hai tay của Ngũ Lão cũng đầy đủ cung tên rồi. Ngũ Lão giương cung, đặt tên, chờ đúng lúc Ô Mã Nhi ngồi thẳng dậy, ngoảnh lại xem "chiến quả" của mình thế nào thì Ngũ Lão buông giây. Mũi tên của Ngũ Lão cũng căng không kém gì mũi tên của Ô Mã. Phải nói là tướng thiện chiến mới thoát khỏi mũi tên đó. Ô Mã Nhi nhanh như chớp lộn ngược xuống bụng ngựa. Nhưng mũi tên thì vẫn bay thẳng, xé rách đôi tai phải của con ngựa ô của tướng giặc. Con ngựa đau quá, lồng lên mang cả Ô Mã Nhi trên mình, phi thẳng về trại nhà.
Lính Đại Việt đứng trên quan ải theo dõi trận đấu, nhiều lúc đứng tim, nín thở trước các đòn đánh ác hiểm và như vũ bão của Ô Mã Nhi cũng như những miếng đánh trả hết sức dũng mãnh của Phạm Ngũ Lão nhất là pha "đấu cung" căng thẳng vừa rồi. Bây giờ thì hàng ngàn lính sung sướng, nhiều người đưa cả gươm, cả dáo lên trời và đồng thanh hô to: SÁT THÁT! SÁT THÁT!...
Phạm ngũ Lão phóng ngựa vào trong quan ải trao dây cương con Tía cho tên giám mã rồi vừa thở dốc vừa quát lớn ra lệnh:
- Chuẩn bị chống máy bắn đá!
Tất cả rồn rập chạy vào phía trong. Và những dàn sắt có bánh xe đẩy, phía trên xếp các khúc gỗ lim, gỗ nghiến dày đến cả gang tay được đẩy ra. Có cả mái lim di động che chênh chếch, cho tường quan ải. Sau trận chiến này lửa bất phân thắng bại với Ô Mã Nhi đã khiến cho ba vạn lính Đại Việt thêm tin tưởng vào Phạm Ngũ Lão. Các mệnh lệnh của chủ tướng phát ra được lính thi hành răm rắp.
Những tảng đá to bằng chiếc cối đá lỗ từ phía trại Ô Mã Nhi được máy bắn đá "choảng" xuống, tạo nên sự thử thách đầu tiên với các dàn sắt trên có đặt các thớt gỗ nghiến, gỗ lim. Những chiếc cối đá "lỗ" dồn dập giáng xuống. Các thớt gỗ lim, gỗ nghiến rung lên bần bật, nhưng không có dàn sắt nào bị sụp xuống. Sau trận "mưa cối đá lỗ" chừng nửa canh giờ thì trận "oanh tạc" đột ngột dừng lại. Gần như nửa trái núi đá được "bồi đắp" cho cửa quan cao vồng lên.
- Chuẩn bị chống giặc đánh thành.
Ngũ Lão vừa hô xong đã thấy hàng vạn tên vác thang mây, gươm, mã tấu cùng cung tên như một đàn kiến khổng lồ xông đến cửa quan.
- Cung thủ bắn tên!
Ngũ Lão vừa ra lệnh thì hàng trăm mũi tên bay xuống. Những thằng giặc Nguyên Mông đầu tiên đã ôm ngực, ôm bụng, thậm chí ngã bật ngửa ra trước quan ải. Nhưng lớp này chết, thì có cả chục lớp khác lao lên. Chúng đã gác được thang mây vào tường thành và thoăn thoắt trèo lên.
- Ném đá xuống! Bắn tên lửa tẩm dầu xuống!
Ngũ Lão liên tục ra các mệnh lệnh.
Đá của chính quân Nguyên Mông bắn tới, giờ lại được lính Đại Việt hò nhau đẩy xuống. Những tên lính kỵ Mông Cổ từ phía sau đã liên tục bắn tên lên thành, hỗ trợ cho bọn lính bộ leo lên. Đã có những người lính Đại Việt trúng tên đổ gục xuống.
- Rút xuống phía dưới! Chuẩn bị gươm và mã tấu!
Những tên lính Nguyên Mông đầu tiên vừa leo lên mặt quan ải đã bị chém rụng xuống như chém chuối. Nhưng bọn chúng dường như không biết "cái chết" là gì! Vẫn cần mẫn và dũng cảm vô song, cây đao của Ngũ Lão lia hết đợt này đến đợt khác, xác giặc đổ xuống hào từng đống, từng đống một. Đã có những tên lọt được lên mặt thành. Những cây gươm cong vung lên rất thiện nghệ, khiến lính Đại Việt phải lùi lại hoặt dạt ra. Ngũ Lão vừa chiến đấu vừa hò hét ra lệnh, vừa phải bao quát. Ở những chỗ gay cấn nhất Ngũ Lão đều có mặt. Những tên lính Nguyên Mông dũng cảm và thiện chiến nhất, dù đã chiếm được một khoảng trống trên mặt thành, đều không trụ được trước những đường lia ngọt sớt của thanh đại đao trong tay Ngũ Lão!
- Dầu sôi! Dầu sôi đổ xuống! Tên lửa bắn theo!
Những chiếc thang mây cháy rừng rực, đổ gục kéo theo những tên lính bị bỏng nặng, bò lê, bò càng dưới chân quan ải.
Đoạn hào rộng và sâu như một khúc sông nhỏ đã lấp đầy xác giặc.
Sau một canh giờ đợt công kích thứ nhất của giặc đã tạm lui.
Sau khi ra lệnh chuyển những người đã chết và bị thương xuống phía dưới, Ngũ Lão ra lệnh tiếp:
- Chuẩn bị xếp các bè chuối rừng tươi lên mặt quan ải!
Những chiếc "cối đã lỗ" đã được ném vội đi. Và bây giờ thay thế lên trục là các bè chuối rừng tươi. Binh lính Đại Việt vừa "lợp xong mái nhà" thì cũng là lúc các thùng dầu sôi sùng sục được bắn tới.
- Tất cả vào chỗ nấp!
Tuy nhiên các thùng dầu không thể bắt lửa, bởi các bè chuối tươi đã "triệt tiêu" một phần sức nóng. Sau nửa canh giờ "oanh tạc" kiểu mới, hàng vạn quân Nguyên Mông lại hò nhau vác thang mây xông lên. Xong lần này thì quá dễ cho lính Đại Việt.
Tường quan ải còn ướt sũng dầu, được bùi nhùi lửa quăng xuống. Thương thay cho những tên lính đi đầu giẫy giụa trong ngọn lửa và thiêu cháy còng queo. Sau hai lần "tổng công kích" không có kết quả. Ô Mã Nhi cho giở chiêu thứ ba ra. Lần này là một thần công cổ thụ bọc sắt được hàng trăm tên lính cũng bọc giáp sắt từ đầu đến chân đẩy ra. Đến đoạn hào dẫn vào chân thành, một chiếc cầu phao được ngả ra. Hàng vạn lính lại tiếp tục công thành để hỗ trợ cho tốp lính đẩy cây lim cổ thụ đầu bọc sắt nhọn thúc vào cổng quan. Mỗi lần cây gỗ được rút ra và lao vào là hai cánh cửa sắt rất dày của quan ải lại rung lên bần bật.
Đá ném xuống, tên bắn xuống tới tấp. Nhưng những tên lính đẩy xe có khiên sắt, áo giáp sắt bảo vệ nên dường như chỉ như "muỗi đốt gỗ". Hai cánh cửa sắt đã bắt đầu lung lay bản lề. Trước muôn vàn nguy cấp Phạm Ngũ Lão đã ra lệnh:
- Đổ dầu sôi! Đổ thật nhiều dầu sôi! Bắn tên lửa xuống.
Dầu như tưới như tắm lũ lính được bọc sắt, bắt lửa cháy lên đùng đùng. Những cây đuốc sống bỏ chạy tán loạn, rồi gục xuống, chết trong đau đớn. Cây gỗ khổng lồ cũng bén lửa cháy từng đoạn... Ô Mã Nhi lồng lộn gầm lên ra lệnh lui quân.
Sau một ngày thử lửa, Ngũ Lão và ba vạn lính Đại Việt đều "bở hơi tai". Chưa kể hơn một ngàn lính bị thương và hơn một ngàn lính tử trận. Ngũ Lão sai giám quân tập hợp các đầu lĩnh các đội lại. Tất cả khoảng hơn một trăm người. Sau khi khen ngợi, động viên tất cả mọi người, Ngũ Lão nói:
- Nếu cứ tiếp tục thế này, chúng ta không thể trụ nổi sau năm ngày. Mà lệnh của Quốc Công Tiết Chế là phải giữ được ải trong mười ngày. Bởi thế quân phải chia làm ba đội. Một đội nghỉ ngơi lấy sức, hai đội giữ quan ải. Riêng Ngũ Lão tôi, ăn nghỉ ngay trên quan ải.
Mọi người không ai có ý kiến gì.
Ngũ Lão gọi riêng quan coi lương thảo và hậu cần lại hỏi:
- Các thổ hào địa phương đã cấp đủ lương thảo, tên bắn và bè chuối cho ta chưa?
- Bẩm thống tướng! Rất đầy đủ ạ! Riêng Nguyễn Lĩnh còn hăng hái xin đưa quân lên giữ ải.
- Quốc Công Tiết Chế đã tính toán như thần. Không có các đầu lĩnh địa phương... thì không thể giữ nổi quan ải trong ba ngày. Còn với Nguyễn Lĩnh ngươi nói với ông ta, đêm nay đưa người đến tập kích... và nếu đốt được một góc nhỏ của trại giặc thì cũng rất tốt... Vấn đề là gây thanh thế... Và làm cho giặc Nguyên Mông hoang mang...
Phạm Ngũ Lão vừa nói với viên quan coi lương thì Nguyễn Lĩnh và Nguyễn Địa Lô đến. Thật là mừng hơn bắt được vàng. Phạm Ngũ Lão thần ra ngoài đón hai vị đầu lĩnh. Hai vị này không đi người không, mà đem theo đến cả chục người khênh cho mấy đầu nai, rượu và các thứ đồ nhắm khác, Nguyễn Địa Lô giọng oang oang:
- Phạm Tướng quân đánh một trận hay quá! Chúng tôi trên sườn núi theo dõi suốt cả ngày. Chờ bây giờ yên ả mới xuống! Tiện có rượu và thịt nai khô đây! Chúng ta làm vài bát rồi bàn việc cũng không muộn.
- Ấy chết! Xin các đầu lĩnh cho hai chữ "đại xá" cho. Lúc này làm gì có tâm trí đâu mà ăn mới uống được. Vả lại còn quân lính nữa... Cả ngày chiến đấu giữ ải, người chết người bị thương cũng khá nhiều. Cơm chỉ có hai nắm với muối vừng, muối lạc. Ta chè chén lúc này thật là bất tiện.
- Phong tục của chúng tôi ở đây là thế! Phải có bát rượu để mở đầu câu chuyện - Nguyễn Lĩnh đế thêm vào.
- Nếu vậy thì mỗi người một bát thôi nhé! Còn thịt nai... chuyển xuống nhà ăn... chuyển tới các binh lính bị thương ăn...
- Thôi thế này cũng được! Vị quan coi lương tán đồng vào hùa với Ngũ Lão.
Sau khi mỗi người uống cạn một bát rượu Phạm Ngũ Lão vào việc luôn:
- Ngày mai... à không "có thể là ngay bây giờ lúc giặc Thát sẽ cho máy bắn đá, bắn dầu sôi... bắn sâu vào quan ải. Nếu như thế kho tàng lương thực sẽ bị cháy rụi, phá huỷ hết. Ngay cả ngựa nữa... cũng sẽ bị thương vong. Bởi thế ngay bây giờ tôi nhờ hai vị đầu lĩnh đưa người tới chuyển các lính bị thương trước, rồi đến kho tàng, ngựa nghẽo... lùi sâu vào quan ải khoảng hai mươi dặm. Bây giờ đang là mùa đông, mưa phùn gió bấc còn phải giữ cỏ cho khô, lương không bị ướt... Các vị có thể giúp được không? Nếu cần thì nói với quan coi lương huy động thêm vài trăm người của quan triều đình cùng bắt tay vào làm ngay...
- Làm ngay thì không kịp! Ít nhất là phải một canh giờ nữa chúng tôi mới huy động được người. Nguyễn Lĩnh nói. Nhưng cùng với khoảng ba trăm lính của Phạm tướng quân chúng tôi bảo đảm đêm nay sẽ làm xong mọi việc tướng quân giao.
- Thế thì tốt quá rồi! Nhưng sớm được phút nào, hay phút ấy!... Còn một việc nữa, từ nửa đêm đến gà gáy... làm sao các vị đầu lĩnh cho các tay thợ săn linh lợi, đột nhập vào các trại của Ô Mã Nhi, đốt lửa ở một số nơi... Nhất là các kho lương thực của chúng thì rất tốt. Gây thiệt hại là một phần, cái chính là làm cho chúng mệt mỏi, dẫn đến hoang mang...
- Chúng tôi đã chuẩn bị mấy đội cảm tử theo lời dặn của Quốc Công Tiết Chế rồi! Đêm nay sẽ tiến hành luôn. Anh em trèo núi, luồn rừng như con sói, con hổ... chúng nó không thể ngờ và trở tay, đối phó kịp.
Mọi người vừa bàn tới đó thì trước quan ải đuốc đốt sáng trưng. Ô Mã Nhi ngồi xe, xúm xít xung quanh có đến hàng trăm tên xúm vào đẩy. Đứng ngoài tầm tên bắn thì bọn chúng dừng lại. Một tên bắc loa gọi lớn:
- Nguyên soái Ô Mã Nhi của thiên triều mời tướng quân Phạm Ngũ Lão ra nói chuyện.
- Ô nguyên soái về nghỉ đi! Chúng ta không có chuyện gì để nói với nhau nữa. Bây giờ chỉ có thể nói bằng cung tên, giáo mác, đao kiếm mà thôi! - Phạm Ngũ Lão đứng trên quan ải quát vọng xuống.
- Xin Phạm tướng quân đừng làm mất cái tình của nguyên soái chúng tôi! - Tên phát loa vẫn lải nhải.
- Ngươi nói với Ô nguyên soái hãy về đi! Thích thì đánh tiếp ngay bây giờ... Không thì ngày mai lại quyết một trận tử chiến nữa. Phạm Ngũ Lão nói tiếp.
- Ngươi đã cạn tình như vậy thì đừng có mà hối hận đấy!
- Ô nguyên soái và các ngươi nghĩ rằng đang đứng ở ngoài tầm cung của ta chăng? Ta có thể lấy mạng Ô nguyên soái ngay lúc này. Nhưng như các ngươi nói... còn có chút tình nên mũi tên của ta chỉ bắn vào tay vịn của xe đẩy Ô nguyên soái mà thôi!... Các ngươi hãy xem đây! Nói rồi Phạm Ngũ Lão dương cung, kéo căng hết giây nhằm đúng vào tay ngai của xe Ô Mã Nhi và buông giây. Mũi tên lao vun vút. Chưa đầy một cái chớp mắt đã cắm ngập vào tay vịn bằng gỗ của chiếc xe. Ô Mã Nhi và đám tuỳ tùng cả kinh hò nhau đẩy xe ngược trở lại.
- Phạm Ngũ Lão! Khá khen cho ngươi! Nhưng ngươi hãy đợi đấy! Quan ải của ngươi dù có là cổng trời thì trong ngày mai ta cũng phá nát được. Sau khi đã lùi xa, đích thân Ô Mã Nhi cầm loa gọi lại.
Trên quan ải, Phạm Ngũ Lão và binh lính được một đêm yên ả. Nhưng phía trại Nguyên Mông lửa rực cháy ở khắp nơi. Các đám cháy không lớn lắm. Nhưng cứ xảy ra chỗ này một ít, chỗ kia một ít. Đến khoảng canh ba thì rực sáng cả một góc trời. Trại cỏ cho ngựa bị đốt ủ từ trong lõi, âm ỉ suốt một canh giờ. Đến lúc bùng lên thì không tài nào có thể dập tắt được.
Tờ mờ sáng, binh lính vừa ăn sáng xong thì máy bắn dầu sôi từ trại Ô Mã Nhi xối xả trút sang. Đúng như dự đoán của Pham Ngũ Lão, hôm nay chúng bắn sâu vào trong quan ải. Đã có một số đám cháy bùng lên. Nhưng lương thảo, ngựa và các đồ dùng thiết yếu như cung tên đã đượcc chuyển ra xa. Phạm Ngũ Lão ra lệnh cho quân lính không cần dập lửa dể tránh thương vong, trừ chỗ nào quá quan trọng. Sau trận dội lửa chừng nửa canh giờ là trận oanh kích bằng "cối đá", "đạn bắn" lúc lên mặt quan ải, lúc sâu vào phía trong, không theo một "trật tự nào". Trừ Phạm Ngũ Lão và một số lính đứng bên ngoài cảnh giới. Tuyệt đại đa số đều núp vào các vị trí an toàn. Sau năm trận "oanh kích" tơi bời là tiếng hò reo dậy đất của hàng vạn binh lính đen đặc cả thung lũng trước mặt quan ải. Tiếng trống trận phía sau cũng thúc lên rộn rã. Hết chiếc thang này bị chém rơi xuống thì lập tức lại có hàng loạt chiếc thang khác được móc vào tường thành. Hôm nay đa số lính công ải là lính Mông Cổ đầy vẻ hung hãn.
Đã qua một ngày thử lửa Phạm Ngũ Lão có phần điềm tĩnh hơn, ít quát tháo lớn mà thường ra lệnh bằng các động tác chỉ chỏ. Chỗ nào nguy cấp lắm thì đích thân Ngũ Lão xách đao chạy đến. Chỉ vài đường đao là "trật tự được vãn hồi". Binh sĩ có gầy rộc đi, nhưng vẻ rắn rỏi, tự tin hơn. Như nước triều dâng, lính Nguyên Mông hết lớp này bị đẩy xuống, lớp khác lại ào ạt xông lên. Đến quá giờ ngọ, Ô Mã Nhi mới đánh chiêng thu quân ăn trưa.
Sau hơn một canh giờ yên ả, quan ải lại sôi lên với các trận bắn đá và dầu sôi. Và điệp khúc xung phong công ải lại tiếp tục diễn ra.
Tối, đèn đuốc trước quan ải được quân Nguyên đốt sáng như ban ngày. Và bọn chúng đã đổi chiến thuật công kích không ngưng nghỉ đến tận canh ba. Phía bên này, Ngũ Lão đã lường trước nên cho lính quay vòng nhịp nhàng. Chỉ mình chàng là ăn, nghĩ và chiến đấu suốt ngày đêm trên quan ải. Người đen xạm, tanh tưởi bởi mùi máu và mồ hôi. Ba nắm cơm với mấy ống bương nước đã cho Ngũ Lão tỉnh táo, dũng mãnh và dẻo dai đối chọi với đủ mọi tình huống tấn công của kẻ thù.
Ba ngày. Rồi năm ngày trôi qua. Hai hố mắt to trũng sâu xuống. Hai gò má nhô cao, nhọn hoắt chỉ còn da. Nhưng càng đánh Ngũ Lão càng thấy tỉnh táo vô cùng. Hai đầu lĩnh Nguyễn Địa Lô và Nguyễn Lĩnh buổi chiều tối thường tạt qua. Trao đổi và nhận nhiệm vụ từ Phạm Ngũ Lão. Họ cũng thường mang các ống giang chè làm và các miếng thịt nai khô vừa nướng lại. Nhưng Ngũ Lão thường nhường cho các người lính xung quanh. Thi thoảng chàng mới cầm một khúc chè lam và một miếng thịt nai. Nhai thong thả như để tận hưởng hết vị thơm dẻo của gạo nếp nấu trong ống giang và vị đậm đà, ngon ngọt của thịt thú rừng.
Qua ngày thứ chín thì có lệnh từ Đại bản doanh Vạn Kiếp Quốc Công Tiết Chế ra lệnh, sáng ngày thứ mười thì tập trung tất cả những gì có thể đốt được, thì chất chật trong quan ải. Tơ mơ sáng, Ngũ Lão cho bộ binh rút trước. Kỵ binh rút sau. Ngũ Lão cùng năm mươi kỵ binh châm lửa đốt quan ải rút sau cùng.
Quốc Công Tiết Chế và Dã Tượng, Yết Kiêu đón Ngũ Lão ở ải Nội Bàng (vùng giữa Bắc Giang bây giờ). Không có thời gian trao đổi nhiều, Hưng Đạo Vương sau khi uý lạo, khen ngợi thì lệnh cho Ngũ Lão:
- Con đem quân về Vạn Kiếp nghỉ ngơi. Ở Đại bản doanh chỉ còn một vạn. Bảy vạn cha mang lên đây. Để cha thử sức với bọn chúng một trận xem sao?
Vượt qua ải Chi Lăng, hơn mười vạn quân của Ô Mã Nhi tràn xuống Nội Bàng như nước vỡ bờ. Hưng Đạo Vương dàn quân ra ngăn cản. Nhưng quân kỵ của Ô Mã Nhi không chỉ tấn công trước mặt mà toả ra đánh vòng từ bốn phương tám hướng. Đất đồi khá bằng phẳng khiến các vó ngựa bị kìm hãm ở Chi Lăng thả sức tung hoành. Các kỵ sĩ Mông Cổ với những thanh gươm cong, thường đứng trên bàn đạp rồi chém bổ xuống khiến binh lính nhà Trần không tài nào chống đỡ được. Hơn một vạn lính chết trận. Hơn một vạn bị bắt làm tù binh. Bọn giặc bắt cởi áo ra, thấy ai có thích chữ Sát Thát là chém chết ngay tại chỗ. Gần năm vạn quân Trần còn lại bỏ chạy tán loạn. Hưng Đạo Vương cùng Dã Tượng phải liều chết mới tháo chạy được về phía sông Lục Nam. Nhưng tới nơi thì thuỷ quân cũng đã tháo chạy hết từ lúc nào. Hưng Đạo Vương định đi men theo sườn đồi về Vạn Kiếp. Dã Tượng thưa:
- Yết Kiêu chưa thấy Quốc Công Tiết Chế về thì chắc chắn là chưa đi đâu!
Hưng Đạo Vương cùng Dã Tượng và mấy tên lính hầu men theo bờ sông ra Bãi Tân, thấy chỉ còn trơ trọi một chiếc thuyền của Yết Kiêu cắm đợi.
Hưng Đạo Vương cảm động nói:
- Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trục cánh ấy thì cũng chỉ là chim thường thôi.
Yết Kiêu đưa Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp, thấy xác người, xác ngựa chết la liệt ở trước Đại bản doanh. Phạm ngũ Lão ra rước Người vào trong trại. Lính theo sự chỉ huy của Phạm Ngũ Lão đang đào hào và đóng cọc làm hàng rào che chắn kiên cố bên ngoài.
- Không ngờ kỵ binh của bọn chúng lợi hại thế! Lần đầu tiên Hưng Đạo Vương than. Vả lại quân ta gần hai mươi năm không tham chiến nên cũng có phần nao núng.
- Số tàn binh gần ba vạn chạy về đây, con đã cho gom cả lại. Biên chế theo đội ngũ mới. Một quân từ Chi Lăng về ghép với một tàn binh. Số quân hiện giờ cũng trên năm vạn. Nếu giặc đến, ta cố thủ cũng có thể trụ được năm, bẩy ngày. Phạm Ngũ Lão thưa với Hưng Đạo Vương.
- Bọn chúng sẽ không muốn mất thời gian đánh vào đây nữa đâu! Hưng Đạo Vương đáp. Chúng sẽ đánh thẳng xuống Thăng Long... Không biết hai Thánh thượng đã kịp rút chạy chưa? Giọng Người trầm hẳn xuống.
Một đêm dài giá rét trôi như về tận trong Đại bản doanh ở Vạn Kiếp. Mọi người đều im lặng, ưu tư. Rạng sáng tiếng quân reo, ngựa hý vang động cả một vùng. Phạm ngũ Lão vác đao nhảy bổ ra. Ồ, thì ra quân mình.
Đầu tiên là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đem năm vạn quân từ vùng Đông Triều đến. Tiếp đó là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễm. Gần trưa là Minh Hiếu Vương Trần Quốc Uẩn và Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện. Mỗi người đều dẫn theo năm vạn quân. Hưng Đạo Vương cười lớn mà rằng:
- Thế là lại có đủ sức để chọi với giặc dữ rồi!
8
Lại nói mặc dù đã có sự chuẩn bị trước, nhưng vua tôi nhà Trần không thể ngờ được quân Nguyên Mông lại tiến nhanh đến vậy. Chưa đầy một ngày hơn mười vạn quân tiên phong của nguyên soái Ô Mã Nhi đã từ ải Nội Bàng tràn xuống đến Gia Lâm, đóng trại và dựng một lá cờ lớn. Hai mươi vạn quân của Thái tử Thoát Hoan tiến theo đóng ở vùng Yên Viên. Mười lăm vạn quân còn lại đóng ở Tây Kết gần cửa Lục đầu giang, để đón hàng tiếp tế thuỷ bộ đến rất tiện.
Tình hình vô cùng nguy cấp. Chập tối vua Trần Nhân Tông muốn sai người sang trại giặc để dò tin tức mà chưa biết chọn ai. Chi hậu cục thư là Đỗ Khắc Chung bước ra tâu:
- Thần là kẻ ti tiện không có tài gì xin đi!
Vua mừng lắm nói:
- Biết đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ ngựa ký.
Rồi bèn sai Đỗ Khắc Chung đem thư đến trại Ô Mã Nhi xin giảng hoà. Ô Mã Nhi hỏi như trách mắng:
- Vua nước ngươi vô lễ, sai người thích chữ "SÁT THÁT", khinh nhờn quân thiên triều, lỗi ấy to lắm. Lại sai tên Muzich Phạm ngũ Lão đón đánh quân ta ở ải Chi Lăng. Cái thằng nhà quê ấy đã bắn rách tai ngựa quý của ta. Cái tội ấy là to lắm.
Thấy Đỗ Khắc Chung không hiểu chữ Muzich là nghĩa thế nào Ô Mã Nhi cười bảo:
- Muzích theo tiếng Nga la tư là đồ nhà quê, gọi có ý diễu cợt, coi khinh. Sở dĩ ta và nguyên soái Toa Đô vốn nhiều năm chinh chiến ở tận xứ tuyết bên trời Tây nên hiểu rất rõ ngôn ngữ ấy.
Đỗ Khắc Chung lựa lời mềm dẻo nhưng cứng cỏi đáp:
- Chó trong nhà cắn người lạ vì không phải là chủ nó. Do lòng trung thành tức giận họ tự thích chữ SÁT THÁT. Quốc vương tôi có biết đâu. Tôi là người hầu gần, sao việc ấy lại không có - Rồi giơ cánh tay vạch áo cho Ô Mã Nhi xem.
Ô Mã Nhi giận dữ nói:
- Đại quân ta ở xa đến đây, nước ngươi sao không trở ngược dáo, đến ra mắt, mà lại dàn quân chống cự lại. Càng con bọ ngựa chống lại bánh xe, rồi sẽ ra sao?
Đỗ Khắc Chung bình tĩnh đáp:
- Hiền tướng không theo kế sách của Hàn Tín bình nước Triệu ngày xưa, đóng quân ở đầu địa giới, đưa thư đến trước, nếu không chịu hoà hiếu mới là có lỗi. Nay đem quân bức nhau, tức như người ta nói: "Muông thú cũng phải đánh lại, chim cùng phải mổ lại" huống chi là người. Ô Mã Nhi vờ dịu giọng:
- Đại quân nước ta mượn đường nước người để đánh Chiêm Thành, giống như khi xưa ta và nguyên soái Toa Đô mượn đường nước Tiểu Nga la tư (tức Ukraina bây giờ) để đánh Bảo gia lợi (tức Bungagi) và Hung gia lợi (tức Hunggari ngày nay). Song vua tôi xứ Tiểu Nga cũng đem binh chống lại. Kết cục là kinh đô Kiev tráng lệ với các mái nhà thờ dát vàng, cung điện dát ngọc bích đều biến thành gạch vụn cả. Bản thân từ vua đến các vương công quý tộc đều biến thành nô lệ. Đây, người hãy xem bức tranh này thì rõ. Nói tới đây, Ô Mã Nhi sai lính hầu đưa ra mấy bức tranh vẽ trên thảm và trải rộng trước mặt Đỗ Khắc Chung - Đó là một bức tranh mầu khá đẹp - Đấy ngươi thấy chưa, từ vua đến các quý tộc đều phải lấy đầu để quân ta kê ván lên làm sàn nhảy. Còn phía trên là quân thiên triều đang khiêu vũ với các thiếu nữ Tiểu Nga khoả thân, da trắng, mắt xanh, tóc vàng, đẹp không kém gì tiên nữ. Ngươi có muốn chiêm ngưỡng không? Rồi không đợi Đỗ Khắc Chung có đồng ý hay không, Ô Mã Nhi vỗ tay mấy cái lập tức có bốn năm thiếu nữ vấn váy ngắn đến bẹn, để lộ ra những cặp đùi trắng nõn nà, trông ngon như khúc giò lụa. Theo ta thì sống, chống ta thì chết. Nếu vua ngươi quả thật muốn hoà thì sang đây gặp nhau thì trong nước yên ổn, không xâm phạm mảy may. Còn nếu cứ chấp nê thì trong khoảng giây phút núi sông sẽ hoá đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ mục. Cũng như thằng Muzich Ngũ Lão ấy ta muốn mời hắn ra nói chuyện, hắn đã thẳng cánh dương cung bắn vào tay vịn xe đẩy của ta. Thật là vô lễ. Nhưng nếu hai bên hoà hiếu, nến hắn nhận làm tiên phong, trước đánh Chiêm Thành, sau tràn xuống Lục chân lạp (vùng Đồng bằng Sông cửu Long bây giờ) rồi thủng Chân Lạp (tức Campuchia ngày nay) rồi ngược lên nước Ai lao, và vượt sông Mê Kông sang Xiêm La và xuống Mã Lai... và tiến xa hơn nữa. Nói cho nó biết, nếu được như thế, một tước vương cho hắn, vua nước ta chẳng hẹp hòi gì mà không ban... Ngoài kia, gió đông bắc, mưa phùn rét lắm. Trong lều trại bằng lông cừu của ta, ngươi có thấy ấm không? Đột ngột Ô Mã Nhi hỏi Khắc Chung, rồi lại tự trả lời - Nhưng nếu ngay phút này, Thái trở ra lệnh ta sẽ cất quân vượt sông Cái (tức sông Hồng) tiến vào hoàng thành Thăng Long ngay!
Đỗ Khắc Chung đáp:
- Tôi sẽ xin về tâu lại với vua tôi.
Khi Đỗ Khắc Chung đi rồi, Ô Mã Nhi nói với thủ hạ:
- Người ấy đương lúc bị uy lực áp chế mà sắc mặt vẫn tự nhiên. Thậm chí còn thích thú, ngắm đùi mấy cô đầm Tiểu Nga la tư. Không hạ chủ nó làm chính, không nịnh hót ta là Nghiêu. Về văn như thế cũng coi là giỏi. Về võ có Phạm Ngũ Lão. Đại Việt có những người như thế chưa dễ lấy được - Rồi sai người đuổi theo nhưng Đỗ Khắc Cung đã biến vào bóng đêm.
Trở lại Kinh thành, Đỗ Khắc Chung nói lại tất cả mọi chuyện với hai vua Trần. Giữa lúc bấn loạn thì thấy công chúa An Tư bước ra:
- Hưng Đạo Vương có lần nói với ta "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng". Bây giờ chưa có danh tướng nào chặn được giặc. Ta xin sang trại Thoát Hoan làm "thư dãn loạn nước" nước vậy.
Hai vua Trần ưng thuận sai kẻ cận thần là Đào Kiên cùng hai thị nữ đưa An Tư sang trại Thoát Hoan.
Lính hầu vào bẩm với Trấn Nam Vương Thoát Hoan. Vốn đã quen với việc được dâng mỹ nữ nên Thái tử Thoát Hoan truyền cho vào. Bước vào căn lều cao rộng, đèn đuốc sáng trưng, quân thị vệ gươm tuốt sáng loà, nhưng công chúa An Tư vẫn ngẩng cao đầu, bước những bước kiêu sa đến trước mặt Thoát Hoan và nói:
- Thái tử đã biết cả ngàn con gái Mông, Hoa, Kim, Hạ, Liêu... Hôm nay Thái tử thử xem mùi vị con gái Đại Việt thế nào? Nói rồi nàng cởi chiếc áo choàng bằng da thú trắng vứt xuống sàn và ra hiệu cho Đào Kiên và hai thị nữ quay về. Thoát Hoan có phần ngây ngất trước vẻ đẹp kiêu sa mà rắn rỏi của An Tư. Hắn tiến đến định đưa đôi tay dài ôm lấy thân thể tròn lẳn với cặp tuyết lê căng trong thì An Tư lùi lại và nói, giọng kiên quyết:
- Xin Thái tử dừng cho một phút - Rồi nàng cởi phanh ngực váy áo ra, để lộ cặp vú bánh dày tròn căng với hai núm vú hồng hồng nhỏ như chũm cau, chứng tỏ còn trinh trắng - Tiếp theo, nàng làm một động tác nhanh đến bất ngờ là rút phăng con dao cong chuỗi ngọc áp sát vào bầu vú trái của mình.
- Thái tử hãy nghe tiện nữ nói một lời. Bây giờ Thái tử đã là Phò mã của Đại Việt. Bởi thế tiện nữ xin với Phò mã hãy ra lệnh cho tướng sĩ rằng: "Thăng Long phi chiến địa. Bởi thế ngày mai vào thành, ta cấm tướng sĩ không được cướp phá, hãm hiếp đàn bà, con gái. Ai trái lệnh ta chém". Nếu Thái tử không ra lệnh ấy An Tư xin chết ngay trước mặt Thái tử.
Nhìn lưỡi dao sắc lẹm đặt ngay dưới bầu vú căng tròn đã khiến Thoát Hoan động lòng "thương hoa - tiếc ngọc".
Thoát Hoan thét lớn:
- Quân bay đâu! Truyền khắp các trại lệnh của ta. Ngày mai vào Thăng Long tướng sĩ không ai được cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp đàn bà, con gái. Ai trái lệnh. Chém!
Được lời như cởi tấm lòng. An Tư vội vứt con dao găm chuôi ngọc xuống đất rồi ngả người đổ vào vòng tay đang chờ sẵn của Thoát Hoan.
Mặc dù chưa có tý kinh nghiệm nào, nhưng đêm ấy An Tư hầu hạ Thoát Hoan hết lòng. Trời đã sáng rõ, nhưng An Tư vẫn nũng nịu kéo Thoát Hoan nằm xuống tấm nệm da cừu ấm áp:
- Còn sớm mà! Thái tử đã vội gì! Hai thánh thượng đang chờ Thái tử - Phò mã trưa nay sang dự yến tiệc ở điện Kính Thiên trong Hoàng Thành... À, thế nào? Gái Đại Việt có bằng các gái khác hay không?
- Cũng như nhau cả thôi! Thoát Hoan khoái trá đáp. Nhưng nàng được cái khéo chiều chuộng... Ta lấy làm ưng ý lắm.
- Nhưng có thực sự mãn nguyện không?
- Mãn nguyện! Mãn nguyện chứ!
Quá giờ ngọ đại quân của Thoát Hoan mới tiến vào Hoàng Thành. Nhưng tất cả đã vườn không nhà trống. Không thấy hai vua Trần ra đón như lời của An Tư đêm qua. Nhưng Thoát Hoan cũng không tỏ ra giận dữ gì. Ô Mã Nhi thì nói:
- Hai vua Trần có chạy tới đâu thì ta cũng sẽ đuổi theo tới đó.
An Tư đã dùng tấm thân ngà ngọc, trong trắng của mình để hoàn thành kế "dãn binh". Nhưng tiếc thay hai vua Trần không tận dụng đêm dài vàng ngọc đó để lên thuyền chạy xuống Thiên Trường, ra biển vượt vào Thanh Hoá mà lại nghe lời Đỗ Khắc Chung dùng thuyền Ngự ra vùng Ngọc Sơn Móng Cái để đánh lạc hướng. Còn thuyền nhỏ chạy ra vùng Tam Trì thuộc Ba Chẽ - Quảng Ninh.
Tên Hán gian tham quân kiêm hướng đạo, ranh ma tâu với Thoát Hoan:
- Ngộ biết rồi! Thuyền rồng ra Móng Cái để đánh lừa thôi. Thuyền nhỏ ra Tam Trì... mới là thuyền chở hai vua Trần chạy trốn.
Thoát Hoan nghe theo, liền cử tướng A Bát Xích đem năm ngàn quân kỵ, phóng như bay ra hướng Ba Chẽ.
Trở lại chuyện Hưng Đạo Vương vừa ổn định được số binh sĩ do bốn con trai đem đến thì nhận được tin cấp báo của thám mã như thế, như thế. Quốc Công Tiết Chế tái mặt cả sợ. Vỗ tay xuống án thư quát lớn:
- Đứa nào hiến kế để hai vua Trần chạy trốn ra Ba Chẽ nên đem chém. Kế cũ là theo dòng sông Cái, rồi vượt biển vào Thanh Hoá cơ mà!
Rồi lập tức sai Phạm Ngũ Lão điểm ba ngàn quân kỵ tinh nhuệ nhất đi cứu giá hai vua Trần. Đồng thời sai Trần Quốc Tảng đem ba vạn quân ra chẹn đường về Thăng Long của A Bát Xích và đón đánh quân tiếp viện nếu có. Phạm Ngũ Lão thúc con Tía dẫn đầu đoàn kỵ binh nhằm hướng Quảng Ninh phóng tới. Phóng suốt từ gần trưa ngày hôm trước tới giờ sửu ngày hôm sau thì thấy phía trước mặt đèn đuốc sáng trưng, tiếng quân hò reo vang động cả một góc trời. Thì ra năm ngàn kỵ binh của A Bát Xích đang vây bắt hai vua Trần trên một ngọn đồi thuộc vùng Ba Chẽ. Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng sai giám binh Đỗ Hành giữ gìn bảo vệ hai vua. Còn mình đích thân chỉ huy tám trăm quân thánh dực giao chiến với năm ngàn quân Mông Cổ. Trận đánh đã diễn ra hơn một canh giờ. Thế của quân Trần đã có phần nao núng. Bỗng thấy hậu quân của A Bát Xích rối loạn. Rồi thấy một tướng cao lớn, múa đao cắt đôi đội hình quân Mông Cổ đánh thốc lên đồi. Tướng ấy xông xáo tới đâu quân Mông Cổ rẽ ra đến đấy, như phi ngựa vào chốn không người. Theo sau là đội quân kỵ vô cùng dũng mãnh.
- Có viện binh rồi. Trần Bình Trọng reo lên và thúc ngựa múa thương đánh thốc xuống.
- Có Phạm Ngũ Lão đến đấy! Xin hai thánh thượng chớ lo. Ngũ Lão cũng thét lớn.
A Bát Xích là tướng Mông Cổ vô cùng thiện chiến, cũng đã từng theo Ô Mã Nhi và Toa Đô chinh phục tại châu Âu. Nhưng A Bát Xích cũng đã biết võ nghệ và sức khoẻ phi thường của Phạm Ngũ Lão ở ải Chi Lăng mấy ngày trước nên lui quân tháo chạy. Phạm Ngũ Lão thúc quân đuổi riết hơn hai mươi dặm, giết gần năm trăm quân địch, bắt được vô số ngựa không còn chủ, rồi mới quay lên đồi.
- Tội Ngũ Lão đến cứu giá muộn, đáng muôn chết! Ngũ Lão dập đầu cúi lạy hai vua Trần.
- Ôi! Ngũ Lão có mặt ở đây là trẫm an tâm rồi! Vua Trần Nhân Tông vỗ về - Rồi người hỏi tiếp - Có gì ăn được không?
- Dạ! Bẩm... Ngũ Lão nói rồi móc từ ngực ra một vắt cơm nắm trộn muối vừng, bẻ đôi rồi quỳ hai chân xuống đất, mỗi tay dâng một nửa nắm cơm cho Thái thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông.
Cơm khô và cứng nhưng vua Trần lại khen:
- Cơm dẻo và muối vừng thơm quá! Có nước uống không?
- Dạ! Bẩm!... Nói rồi Ngũ Lão ra chỗ con Tía tháo từ cổ ngựa ra một túi da dê. Lắc thấy còn được một nửa vội dâng cho Thái thượng hoàng trước, rồi đến vua Trần sau.
- Không có Ngũ Lão đến kịp thời thì hai thánh thượng nguy mất! Không biết kẻ nào tiết lộ hướng chạy của hai thánh thượng nhỉ? Trần Bình Trọng đứng bên nói.
- Quốc Công Tiết Chế nghe thám mã phi ngựa về báo đã thét lớn: "Kẻ nào đưa ra hạ sách này, nên chém đi!" Ngũ Lão nói.
Đỗ Khắc Chung vừa đói, vừa khát, vừa sợ, nghe thấy Ngũ Lão nói thế thì mặt cắt không còn hạt máu. Song không thấy hai vua Trần nói gì thì có phần vững dạ. Nhưng từ đó đem tâm thù Phạm Ngũ Lão và thì thầm trong bụng: "Rồi có ngày ta sẽ cho thằng Muzích đan sọt này biết tay".
Phạm Ngũ Lão bàn với Trần Bình Trọng:
- Bảo Nghĩa Vương có chơi với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Từ đây đến Vân Đồn khoảng gần một trăm dặm. Việc bảo vệ hai thánh thượng xin cứ giao cho giám quân Đỗ Hành và Ngũ Lão. Bảo Nghĩa Vương hãy đem hơn trăm quân kỵ khoẻ nhất phóng ra Vân Đồn. Nói với Nhân Huệ Vương điều cho hai nhăm thuyền chiến lớn và khoảng năm trăm thuỷ thủ thạo nghề đi biển, tập kết ở vùng Hạ Long... Rồi đưa hai thánh thượng vượt biển vào Thanh Hoá sớm lúc nào hay lúc ấy.
- Cũng không còn cách nào khác! Ta tin vào thanh đao của ngươi đó!... Nhưng quân địch cho thêm tiếp viện quay trở lại thì làm thế nào? Trần Bình Trọng đáp.
- Quốc Công Tiết Chế đã sai Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đem ba vạn quân chặn quân tiếp viện và đón đánh bại quân của A Bát Xích, không để chúng trở về Thăng Long báo tin cho Thoát Hoan...
- Như vậy thì ta yên tâm được rồi! Nói xong Trần Bình Trọng sụp lạy hai vua Trần, dẫn theo một trăm quân kỵ nhằm hướng Vân Đồn phi như gió lốc.
Phạm Ngũ Lão sai lính vơ cỏ khô trên đồi, trải thành đệm để hai vua Trần nằm. Rồi sai lính vào thôn xóm lân cận tìm mua gạo và thức ăn nấu nướng cho hai thánh thượng ăn. Riêng mình và ba ngàn binh lính Ngũ Lão sai giết các con ngựa bị thương của giặc, mổ lấy thịt nướng ăn, số còn lại phân phát cho mỗi người một hai cân làm lương khô. Giám quân Đỗ Hành người cao lớn, vốn cùng quê Thiên Trường Nam Định nên mới được xung vào đội quân Thánh Dực. Đỗ Hành vốn rất mến mộ Ngũ Lão nên nói:
- Tướng quân còn trẻ mà sao việc gì cũng tháo vát vậy.
- À, vốn là một năm nay được ở gần Quốc Công Tiết Chế nên được người dạy dỗ, chỉ bảo cho nhiều. Ngũ Lão thật thà đáp.
Làng mạc ở cách đây khá xa. Quân lính không tài nào tìm mua được gạo. Có một bác nông dân già, hay tin đem đến một niêu cơm, dâng lên hai vua Trần. Cơm thổi vội nên hơi khô, tuy nhiên vua Trần vẫn khen:
- Cơm sao mà dẻo và thơm thế!
Sau khi hai thánh thượng "dùng bữa" xong. Ngũ Lão quỳ bên cạnh thưa:
- Dạ! khởi bẩm hai thánh thượng. Tình hình ở Vạn Kiếp bây giờ đã rất vững... vững như bàn thạch rồi ạ! Bốn vị vương con của Quốc Công Tiết Chế đã đem hai chục vạn quân về. Cộng với số quân còn lại là khoảng hai nhăm hai sáu vạn. Số quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là năm vạn. Số quân của đô tướng Nguyễn Khoái cũng là năm. Đều là quân tinh nhuệ cả... Như vậy là ta có ba nhăm, ba bảy vạn đủ để Quốc Công Tiết Chế địch với năm mươi vạn của giặc Hồ (chỉ quân Nguyên Mông) Quốc Công Tiết Chế có bẩm với hai thánh thượng là... sau kiếp nạn này... chỉ đến mùa hè sang năm là... Quốc Công Tiết Chế sẽ rước hai thánh thượng trở lại kinh thành Thăng Long... thôi ạ!
Hai vua Trần nghe Phạm Ngũ Lão trình bày. Nhưng trong lòng thì còn đang ngổn ngang hàng trăm nỗi lo, nên gần như chỉ "Ờ! ờ! ờ.." cho qua chuyện. Trời mùa đông, nắng hanh, ngày ngắn nhưng hai vua cảm thấy dài như vô tận. Đến giờ Dậu thì Trần Bình Trọng cùng một trăm quân kỵ thở hồng hộc quay ngựa trở về.
Phạm Ngũ Lão nhanh nhảu chạy xuống đón và hỏi:
- Mọi việc thế nào?
- Có hai nhăm thuyền lớn và năm trăm thuỷ thủ khoẻ mạnh. Hơn một canh giờ nữa... hẹn nhau ở vùng vịnh Hạ Long. Trần Bình Trọng vừa thở dốc vừa đáp.
- Như vậy là tốt quá rồi! Phải đưa hai thánh thượng đi ngay thôi! Ngũ Lão đáp rồi cắm cổ bước gấp lên đồi, hô quân lính tập hợp đội ngũ.
Trần Bình Trọng bẩm với hai vua Trần:
- Dạ! Bẩm thưa hai thánh thượng! Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư tán: "Mong hai thánh thượng tha cho tôi chết. Bởi Khánh Dư không thể bỏ quan ải trọng yếu do Quốc Công Tiết Chế sai trấn giữ để đi theo hộ giá hai thánh thượng được, nhất là nay giặc Hổ (chỉ quân Nguyên đã đánh sang). Thuyền, lương thực, nước uống và lính tinh nhuệ thần đã bàn giao cho Bảo Nghĩa Vương đầy đủ như chỉ dụ của hai thánh thượng"
- Thôi được thế là tốt quá rồi - Vua Trần Nhân Tông đáp. Thực ra khi nghe tin hai vua Trần có mặt ở Tam Tri Trần Khánh Dư đã rụng rồi hết vía. Chuyện bỏ quan ải đi phò giá hai vua là việc trọng, không ai có thể trách cứ được. Nhưng liệu vài chục, thậm chí vài trăm chiến thuyền của Đại Việt thì so bì thế nào được với những thuyền lớn của rợ Hồ. Rủi gặp nhau ở vùng biển lạ thì chỉ có mà... Trời thì rét căm căm, ở đây chăn ấm nệm êm. Rượu ngon, gái đẹp... Sơn hào, hải vị, không thiếu gì. Không có vua này thì lập vua khác. Sau khi đã cân nhắc đủ mọi nhẽ, Khánh Dư mới "tạ sự" ra như thế để thoái thác trọng việc.
Mùa đông, tháng mười, dưới ánh trăng đầu tuần lạnh lẽo đoàn quân do Trần Bình Trọng và Phạm Ngũ Lão ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm hộ giá hai vua Trần ra vịnh.
Hai nhăm chiến thuyền đã quay đuôi vào bờ nghênh đón. Phạm Ngũ Lão cõng thái thượng hoàng Trần Thánh Tông xuống thuyền trước. Khi quay lại đã thấy Đỗ Khắc Chung đang lập cập dò từng bước một dưới các bậc đá ghập ghềnh, trên lưng cũng đang cõng vua Trần Nhân Tông. Thấy vậy Ngũ Lão nói với nhà vua:
- Xin thánh thượng cứ ngự trên lưng Đỗ Khắc Chung. Thần tuy bất tài cũng xin cõng cả hai xuống thuyền.
Miệng nói tay làm, Ngũ Lão quay lưng lại bốc cả hai người bước đi phăm phăm. Đến đầu thanh ván bắc xuống thuyền bập bềnh. Ngũ Lão co chân nhảy vọt xuống, nhẹ như cánh chim.
Vua Trần Nhân Tông có ý muốn giữ Ngũ Lão ở lại dưới thuyền cùng Trần Bình Trọng hộ giá vào Thanh Hoá nhưng Đỗ Khắc Chung đã bấm vào vế nhà vua. Vua biết Khắc Chung có ý can ngăn, nên phân vân không biết thế nào, đành nín lặng. Lúc thuyền đã rời bến Khắc Chung nói nhỏ: "Ngũ Lão bây giờ đã là con rể của Quốc Công Tiết Chế. Nhỡ Quốc Công Tiết Chế có lòng đổi thay, thì ngay cả đến Trần Bình Trọng cũng không phải là đối thủ của hắn"
Trước lúc chia tay, Ngũ Lão nói với Trần Bình Trọng:
- Sự an nguy của hai thánh thượng nhờ tất cả vào ngọn thương vô địch của Bão Nghĩa Vương đó!
Trần Bình Trọng khảng khái đáp:
- Nhờ ngươi về báo với Quốc Công Tiết Chế rằng Bình Trọng này có thịt nát, xương tan, gan óc lầy đất cũng không để giặc Hồ đụng được đến một sợi lông chân của hai thánh thượng.
Vua Trần Nhân Tông cảm hứng ngâm hai câu thơ để động viên chính mình và động viên sĩ tốt:
- Cối kê chuyện cũ người nên nhớ/ Hoan Diễn còn kia chục vạn quân.
Nghe xong Ngũ Lão vỗ tay khiến quân sĩ cũng vỗ theo, rồi cùng reo reo ầm cả lên:
- Hai Thánh thượng vạn tuế! Vạn vạn tuế.. Mong hai thánh thượng bảo trọng! Kính chúc hai thánh thượng thượng lộ bình an!
Hai mươi lăm chiến thuyền chở theo một ngàn ba trăm binh lính và hơn một trăm ngựa chiến
Giám quân Đỗ Hành đi trước. Trần Bình Trọng cùng hai vua Trần đi ở thuyền giữa. Buồm căng gió đông bắc gối sóng, lướt như ngựa phi trên biển cả. Tới tang tảng sáng thì tới của sông Cái, dẫn vào phủ Thiên Trường. Trần Bình Trọng cho đoàn thuyền quây lại và hỏi:
- Ai dám ở lại chặn giặc cùng ta.
Tám trăm quân Thánh dực đều hô to "Sát thát".
Trần Bình Trọng giữ lại năm trăm người cùng tám chiến thuyền. Số còn lại giao cho giám quân Đỗ Hành hộ giá hai vua chạy vào Thanh Hoá. Vua Trần Nhân Tông cầm tay Trần Bình Trọng, nước mắt lưng tròng nói:
- Ngươi không khác gì Kỷ Tín cứu chúa Lưu Bang khi xưa!
Tám chiến thuyền cùng năm trăm quân ngược lên Thiên Trường. Đến bãi Mạn Trù, Bình Trọng cho ghé thuyền lên, sai quân lính dựng lều trại. Có cắm cờ long, phụng như có hai vua đang nghỉ chân ở đó.
Trở lại chuyện A Bát Xích bị Phạm ngũ Lão đánh tan, là viên tướng rất từng trải, khôn ngoan nên biết quay lại đường cũ ắt có quân chặn nên nhằm hướng Tây Kết, cắt đường phi ngựa tới. Về tới nơi A Bát Xích sai thám mã phi ngựa cấp tốc về Thăng Long báo cho Thoát Hoan việc hai vua Trần có thể vượt biển trốn vào Thanh Hoá. Thoát Hoan muốn sai Ô Mã Nhi đem chiến thuyền lớn đuổi theo, thì Lý Hằng, Lý Quán bước ra thưa.
- Giết gà việc gì phải dùng đến dao mổ trâu. Hai mạt tướng xin đi! Quyết bắt được hai vua Trần mới nghe.
Hơn một trăm chiến thuyền với năm ngàn quân xuôi theo sông Cái (tức sông Hồng). Đến giữa giờ mão (khoảng 9 giờ sáng) thì Lý Hằng, Lý Quán phát hiện thấy cờ long, phụng cắm trên bãi Mạn Trìn bèn cho thuyền dừng lại. Tham quân kiêm hướng đạo Phạm Nhan nheo mắt quan sát rồi nói:
- Trong đám quân kia không có hai vua Trần!
Lý Hằng bảo:
- Bọn chúng chỉ có một dúm! Ta cứ lên chỉ loáng một cái là tóm sống tất cả. Có hai vua Trần thì tốt. Không có đuổi sau cũng không muộn.
Rồi hô năm ngàn quân nhất tề xông lên. Năm trăm quân Thánh dực xếp thành năm khối vuông. Ở giữa là trại có cắm cờ long, phụng. Trần Bình Trọng thúc ngựa ra tận mép nước thách Lý Hằng, Lý Quán cùng vào giao chiến. Hai tướng giặc không nói không rằng cùng thúc ngựa, múa đao xông vào. Ngọn thương của Trần Bình Trọng lúc hăng hái, lúc ngập ngừng lui dần vào trong. Khi Lý Hằng, Lý Quán vào đến giữa trận thì năm khối vuông quây chặt lấy chúng. Một nửa quay mặt ra ngoài chống với năm ngàn quân giặc. Lúc này ngọn thương của Trần Bình Trọng mới thể hiện là đệ nhất Đại Việt. Lúc đâm vào giữa ngực Lý Hằng, lại trổ sang phải nhằm vào mặt Lý Quán như một mãng xà mổ tới. Hai tướng bị quấn chặt vào các đường thương của Trần Bình Trọng và hàng trăm quân vây quanh biết là bị mắc kế "điệu hổ ly sơn" muốn thoát ra, để hô quan lính xuống thuyền đuổi theo hai vua Trần, nhưng không tài nào thoát ra nổi. Trần Bình Trọng càng đánh càng hăng, mặc cho số quân cứ mỗi lúc một vơi dần. Nhưng giờ tỵ, giờ ngọ đã qua mà các khối vuông có ngót đi, nhưng ngọn thương và số quân của Trần Bình Trọng vẫn cứ bám riết lấy cả hai tướng giặc, không tài nào bứt thoát ra được. Hăng tiết Lý Hằng, Lý Quán quyết "ăn thua" với Trần Bình Trọng mà không nghĩ đến việc đuổi theo hai vua Trần nữa. Mà thực tế cũng không tài nào thoát ra để xuống thuyền được.
Trời nắng hanh, tiết trời tuyệt đẹp của những ngày đầu đông, khi năm trăm quân lính đã gục cả xuống, bản thân Trần Bình Trọng đã bị mấy vết thương ở suờn, ở đùi nhưng ngọn thương vẫn tung hoành giữa đám giặc dữ. Bọn chúng không thể hiểu nổi một chàng trai có dáng dấp thư sinh hơn là một võ tướng mà gân sức lại dẻo dai đến lạ kỳ như vậy. Cuối cùng bị một mũi tên bắn vào hạ sườn. Trần Bình Trọng mới gục xuống. Bọn giặc định phóng dáo để giết chàng thì Lý Hằng giơ tay ngăn lại. Hằng sai lấy bàn ghế từ dưới thuyền lên, rồi đích thân dìu chàng lên ghế. Hằng bưng nước mời Trần Bình Trọng uống. Bình Trọng lấy tay gạt phăng âu nước trong tay Lý Hằng. Nhưng Hằng vẫn kiên trì nhỏ nhẹ khuyên chàng:
- Người còn trẻ tuổi, tài cao, trí dũng song toàn. Nếu theo về với nhà Nguyên thì vinh hoa, phú quý không thể kể xiết. Thậm chí còn hơn cả ta bây giờ...
Trần Bình Trọng đã khảng khái quát vào mặt giặc:
- Ta thà làm quỷ nước nam còn hơn làm vương đất bắc.
Rồi cố thu hết sức còn lại, đứng bật dậy nắm lấy ngọn dáo của tên lính đang chĩa vào mình, đâm xuyên qua bụng.
Trần Bình Trọng ngã ngửa ra. Hé mắt thấy mặt trời mùa đông đã gác về phía tây. Miệng chàng khẽ mỉm cười. Chàng đoán lúc này chắc chắn hai vua Trần đã vượt biển vào đến Thanh Hoá, nơi Chiêu Minh Vương Thái sư Trần Quang Khải đang nắm giữ mười vạn quân tinh nhuệ.
Trần Bình Trọng chết lúc mới hai mươi sáu tuổi. Để lại công chúa Thuỵ Bảo goá bụa lần thứ hai...
Trần Bình Trọng vốn dòng dõi vua Lê Đại Hành. Thời đầu nhà Trần ông cha có công lớn trong việc gây dựng triều chính và chống Nguyên Mông lần thứ nhất nên được đổi quốc tính, mang họ vua...
Lý Hằng, Lý Quán quay thuyền về báo lại sự tình với Thoát Hoan. Thoát Hoan chưa kịp trách cứ thì Ô Mã Nhi đã nói thêm một lần nữa:
- Được rồi! Hai vua Trần chạy trốn tới đâu, ta sẽ đuổi theo tới đó!
9
Năm mươi vạn quân Nguyên đóng trại suốt từ Tây Kết qua Từ Sơn (Bắc Ninh) xuống Yên Viên, Gia Lâm và Thăng Long. Hưng Đạo Vương để Minh Hiếu Vương Trần Quốc Uẩn và Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện cùng mười vạn quân ở lại đại bản doanh Vạn Kiếp chống với mười lăm vạn quân của A Bát Xích, Tích Lệ Cơ Ngọc và Phàn Tiếp ở Tây Kết. Gần hai mươi vạn quân còn lại Người rút về mạn bắc sông Cái, đối diện với Thăng Long cùng năm vạn quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và năm vạn quân của Đô tướng Nguyễn Khoái chống với ba lăm vạn quân của Thoát Hoan ở kinh thành Thăng Long và vùng phụ cận.
Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi, Trương Hiển, A Lạt, A Lý, Hải Nha cùng bọn Lý Hằng, Lý Quán dùng thuyền lớn ghép lại thành cầu phao vượt sông Cái sang đánh nhau với quân Trần. Nhiều trận chiến ác liệt đã diễn ra. Mùa đông nước sông Cái cạn, quân Nguyên bắn tên xuống nước. Chỗ nào tên không nổi lên thì biết là chỗ ấy cạn thúc ngựa vượt qua. Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Nghiễm phải căng sức ra chống đỡ với quân giặc.
Có lần Ô Mã Nhi đã ghép thuyền gần vượt được sông thì Nguyễn Khoái từ phía bắc thả thuyền xuôi xuống. Hai bên đánh nhau hết sức dữ dội. Ô Mã Nhi đấu với Nguyễn Khoái hơn năm mươi hiệp mà không đánh đỡ được gã mặt đen, râu quai nón, mắt nhỏ, cằm bạnh, người tròn to như một gốc lim cổ thụ. Ô Mã Nhi vừa đánh vừa nghĩ thầm: "Tưởng là Đại Việt chỉ có một tên Muzích Phạm Ngũ Lão, giờ lại nẩy nòi ra thằng này. càng thêm khó gặm...". Vừa nghĩ tới đó thì có tiếng Phạm ngũ Lão gọi to:
- Hiền huynh Nguyễn Khoái! Có Ngũ Lão đến trợ chiến đây!
Ô Mã Nhi cả sợ nếu bị hai tướng Đại Việt giáp công hai mặt nên vội rút về. Nguyễn Khoái đánh cắt đôi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi, quân Nguyên phần bị giết phần bị ngã xuống sông lạnh, chết đuối vô kể.
Sau trận ấy hai bên gần như cắm binh cầm cự.
Nhưng những ngày đông rét mướt tưởng dài như vô tận. Ngựa không có thóc đã đành, cỏ khô cũng thiếu. Còn khẩu phần cho lính cũng rút đi một nửa. Nhiều đêm đi tuần Ngũ Lão thấy lính đốt lửa suởi, lại ngửi thấy mùi khét. Hoá ra đói quá, binh lính phải lấy lại da ngựa, da trâu đã thuộc khô nướng ăn. Ngũ Lão cũng sà xuống. Hơ đôi bàn tay lạnh cứng trên bếp lửa. Binh lính cắt cho chàng một miếng da bằng bàn tay. Ngũ Lão đưa lên miệng thấy chan chát và dai ngoách vô cùng. Nhưng nhai kỹ cũng thấy đường được. Hai hàm răng phải cố nghiền cho miếng da khô mềm ra rồi mới dám nuốt xuống dạ dày trống không. Hai gò má nhô cao khiến cho hai má hóp lại. Chỉ có đôi mắt to dưới đôi lông mày lưỡi mác của chàng là vẫn bừng lên ánh sáng kiên nghị. Đói, rét... khổ sở trăm bề, nhưng Ngũ Lão luôn giữ tác phong nghiêm chỉnh, lúc nào cũng ăn vận võ phục gọn gàng. Lính dưới quyền Ngũ Lão cũng một mực giữ quy củ như thế. Bất kể sáng, trưa, chiều tối hay đêm khuya, chỗ nào giặc đánh sang mà quân Đại Việt có phần núng là Ngũ Lão cùng đoàn quân của chàng có mặt. Thấy bóng chàng là bọn giặc hò nhau rút chạy.
Trong khi đó thì ba ngàn hàng binh Tống vẫn án binh bất động. chỉ luyện tập ở trong trại. Xuất ăn vẫn như bình thường. Quân phục sạch sẽ tinh tươm, sắc mặt rất "trơn lông, đỏ da". Tướng Triệu Trung thì sốt ruột vô cùng, luôn vào bẩm với Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cho xuất trận.
Lần nào Vương cũng quát:
- Quốc Công Tiết Chế dặn rồi: "Nuôi lính ba năm dụng một giờ" hãy về mà sơn sửa thuyền bè cho bóng đẹp. May cờ hiệu nước Tống cho tinh tươm. Hễ còn đòi ra đánh nữa là... chém!
Tống tướng Triệu Trung ôm đầu lủi thủi ra về, không hiểu cơ sự ra làm sao?
Ô Mã Nhi bàn với Thoát Hoan:
- Không ngờ quân Đại Việt mạnh mẽ và ngoan cường thế! Thế trận cứ giằng co mãi thế này... rất bất lợi cho quân ta. Bởi đường vận lương luôn bị cướp phá. Tuyến từ Lạng Sơn xuống cũng rất khó khăn. Mười phần chỉ còn được hai ba. Đi đường biển cũng bị chặn cướp rất rát. Mười thuyền cũng chỉ trót lọt như vậy. Quân lính đói đã bắt đầu giết ngựa để ăn thịt rồi!
Thoát Hoan bảo:
- Ta cũng đã tính nát nước rồi... mà chưa có cách nào phá được quân Đại Việt. Thôi thì đành đợi sang hè. Ta đã hẹn trước với Toa Đô rồi... Hè Toa Đô sẽ đánh từ Chiêm Thành ra. Trước tiên chiếm châu Ái, châu Hoan.. Rồi ngược sông Cái ra... Hội quân ở Thăng Long. Đến lúc ấy mới đủ sức đánh bại quân Đại Việt.
Ô Ma Nhi dạ, lui ra. Quay về lều vui đùa, hú hí với lũ "đầm non" Tiểu Nga la tư (tức Ukraina bây giờ). Ô Mã Nhi không thích ở trong cung điện. Chỉ thích ở trong lều trại bằng da dê. Phía dưới trải lông cừu. Vừa ấm áp, vừa khô ráo tránh được cái lạnh và nhất là sự ẩm ướt rất khó chịu của cảnh mưa dầm, gió bấc. Nhiều tối Ô Mã Nhi đem đám "đầm non" lên Hồ Tây. Vào quán gió, uống rượu chân sâm cầm, ăn món cá chép om dưa hoặc ba ba nấu với thịt ba chỉ, chuối xanh và đậu phụ. Mấy cô đầm Tiểu Nga thì thích món bún ốc với nước chấm vừa cay, vừa chua lại vừa ngòn ngọt. Ăn uống no say, Ô Mã Nhi chỉ đánh một chiếc khố nằm lăn ra sàn, xung quanh là các cô đầm mặc váy ngắn đến bẹn, như lũ lợn bột rúc vào nách chú "lợn sề" bụng to đùng, trắng ởn của Ô Mã Nhi. Chưa hết, có lúc hứng lên, Ô Mã Nhi còn ôm cây đàn hình tam giác, chuôi khá dài, gần giống với chiếc đàn đáy của Đại Việt - theo tiếng Nga la tư gốc là đàn BALALAICA, tấu lên một vài bản nhạc dân gian rất rộn rã. Những lúc đó, những cô gái Tiểu Nga, như các tiên nữ giọng trầm, hai má đỏ như hai trái táo tây chín. Mắt xanh, da trắng, tóc vàng với cặp đùi dài, non tơ hấp dẫn như một cây giò lụa cùng vỗ tay nhẩy múa những điệu rất vui nhộn. Không bao giờ Ô Mã Nhi ngủ ngoài lều. Khoảng canh hai, khi đã "ăn no, rượu say" Ô Mã Nhi đem lũ đầm non trở về lều, căng bằng da dê, dưới có trải lông cừu bắt đầu hành lạc cho đến tận gần giờ ngọ hôm sau...
Cả quân Nguyên Mông lẫn tướng sĩ nhà Trần đều đỏ mắt trông cho mùa đông chóng qua, mùa hè chóng tới. Còn thời gian thì dù ai đó có mong hay ai đó không đợi thì nó vẫn cứ trôi. Và tháng tư những tia nắng hoe vàng đầu tiên đã hé rạng. Rồi tháng năm trời nóng như đổ lửa đã ập xuống. Như lời hẹn trước lúc xuất mười lăm vạn quân với một ngàn chiến thuyền vượt biển vào đánh Chiêm Thành năm 1282, ba năm sau dù chiếm được Chiêm hay không thì Toa Đô cũng sẽ đem binh ngược ra bắc, hội với Thoát Hoan ở kinh thành Thăng Long thành hai gọng kìm nguy hiểm kẹp quân Trần vào giữa mà Trần Hưng Đạo gọi là hai chiếc càng của con cua khổng lồ đã thành tinh. Và thời khắc đó đã đến.
Cuối tháng tư, đầu tháng năm năm 1285, đại quân của Toa Đô đánh vào Thanh Hoá. Chương Hiến Hầu Trần Kiện là con của Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, một phần biết sức yếu, thế cô không thể chống lại được, phần nữa bất mãn với chính sách chống Nguyên của nhà Trần nên đã đem ba vạn quân hàng giặc. Rồi dẫn đường cho Toa Đô đánh Trần Quang Khải. Toa Đô cùng hàm nguyên soái với Ô Mã Nhi, nhưng tính cách thì khác hẳn. Toa Đô cao chừng hai mét (thước tây bây giờ) nặng khoảng một trăm bốn chục ki lô gam, tính tình điềm tĩnh, ít nói mà thay vào đó là hành động. Lúc lâm trận, đầu đội mũ sư tử, giáp trụ đàng hoàng (chứ không ăn mặc tuềnh toàng và lắm lời như Ô Mã Nhi), tay phải cầm một quả truỳ gai nặng chừng một tạ, có dây xích sắt nối vào cổ tay. Với sức khoẻ kinh hồn và võ nghệ vào loại thượng thặng không kém gì Ô Mã Nhi, mỗi khi quả trùy tung vào đâu là ở đó có người vỡ sọ, dập thây. Hai vua Trần cùng Trần Quang Khải, đem mười vạn quân, dàn trận đón đánh Toa Đô ở ngoại thành Thanh Hoá. Nhưng với sức Toa Đô quá mạnh, cộng với sự dẫn đường của Trần Kiện, hai vua Trần cùng Trần Quang Khải bị thua, phải lui binh để bảo toàn lực lượng. Trong vòng nửa tháng chiếm luôn được cả thành Nghệ An, tạo thành thanh thế rất lớn. Nhưng mục đích của Toa Đô không phải là chiếm vùng Thanh Nghệ (Hoan - Ái) mà cái chính là ra hội quân với Thoát Hoan.
Mười lăm vạn quân Nguyên Mông cùng một ngàn chiến thuyền lớn vượt biển kéo vào cửa Đại Hoàng (cửa sông Hồng) nhằm hướng kinh đô thẳng tiến. Thoát Hoan hay tin cử Ô Mã Nhi đem theo hơn chục thuyền nhẹ cùng tham quân kiêm hướng đạo Phạm Nhan đi đón Toa Đô. Do hành tung bí mật, bất ngờ của Ô Mã Nhi dễ dàng chọc thủng phòng tuyến của quân Trần, gặp được Toa Đô ở cửa sông Cái.
Lúc này theo kế sách đã được định trước hai vua Trần cùng Trần Quang Khải đánh tập hậu vào đoàn chiến thuyền của Toa Đô gây cho giặc khá nhiều tổn thất. Toa Đô nhờ Ô Mã Nhi đánh chặn hậu, còn mình tự lĩnh ấn tiên phong tiến lên phía trước. Đến cửa Hàm Tử đại quân Trần bắt đầu xuất trận. Đầu tiên là Đô tướng thủy quân Nguyễn Khoái. đem năm vạn quân chặn đánh quyết liệt. Tiếp đến là quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Đêm đêm các thổ hào ở hai bên bờ sông cũng liên tiếp tập kích. Đặc biệt Yết Kiêu với đội "người nhái" cảm tử, mỗi ngày đánh đắm từ bốn mươi đến năm mươi chiến thuyền, khiến cho quân giặc vô cùng khiếp hãi. Cách đánh của Yết Kiêu hết sức độc đáo là khoét lỗ dưới đáy thuyền rồi bịt giẻ có nối với một sợi dây. Khi khoét mỗi thuyền được khoảng chín mười lỗ thì giật dây. Nước từ các lỗ ào ào, chỉ trong khoảnh khắc, thuyền bị đánh chìm. Đòn hiểm này đánh vào các thuyền chở lương thảo hoặc chở ngựa khiến cả Toa Đô lẫn Ô Mã Nhi đều vô cùng tức giận và sợ hãi. Một lần chúng dùng lưới đánh cá bắt được Yết Kiêu. Đưa lên thuyền Ô Mã Nhi hỏi:
- Chúng bay có bao nhiêu người tài giỏi như ngươi.
- Độ ba bốn chục - Yết Kiêu đáp. Song họ đều là người nhà của tôi. Nếu nguyên soái muốn chiêu dụ chỉ cần cấp cho mỗi người vài cân vàng là dụ được.
Ô Mã Nhi đang gật gù tính toán, nhân lúc có sơ hở, Yết Kiêu tung mình như một chú cá quẫy (mặc dù chân tay đang bị trói) lặn xuống sông mất tăm. Ô Mã Nhi sai cung thủ bắn tên xuống, nhưng như "tăm cá" Yết Kiêu đã mất dạng. Và đêm đó bốn chục chiến thuyền lại bị đánh chìm.
Hoang mang về tinh thần, thiệt hại về vật chất (chiến thuyền) nhưng cuối cùng đoàn quân của Toa Đô cũng đã tiến tới được bến Chương Dương, trước kinh thành Thăng Long, xuôi về phía nam chừng năm dặm. Tại đây kế hoạch chặt đứt "càng cua" khổng lồ Toa Đô của Hưng Đạo Vương đã diễn ra bằng một trận ác chiến phối hợp nhịp nhàng giữa thuỷ quân và lục quân.
Đầu tiên là đoàn chiến thuyền với năm vạn quân của Trần Nhật Duật. Ở phía bên trái có ba ngàn hàng binh Tống do Triệu Trung, tay cầm trùy lớn, dựng cờ Tống lớn dẫn đầu. Các binh sĩ Tống người nào cũng tề chỉnh trong bộ quân phục Tống mới tinh, cờ xí Tống bay phần phật. Người người đều béo tốt, "trơn lông, đỏ da" một tay cầm gươm hoặc cầm dáo, tay kia thì cầm loa. Và cuộc chiến của các chiến binh Tống bắt đầu bằng các tiếng loa đĩnh đạc, đàng hoàng:
- Hỡi các binh sĩ người Hoa, người Liêu, người Hạ, người Mãn, người Kim... Đất nước Trung Quốc đã được giải phóng... Triều Tống đã được lập lại... Vua Tống sai Triệu Trung và chúng tôi đến đón anh em đây! Hỡi anh em. Hãy quay gươm, dáo lại! Đừng làm tôi tớ cho bọn giặc Hồ hung ác... Hãy cùng sát cánh với quân nhà Trần tìm diệt lũ sài lang Nguyên Mông.
Trong hàng ngũ quân Toa Đô có sự xôn xao. Trong số mười lăm vạn quân thì có tới năm vạn là hàng binh Tống. Họ theo Toa Đô chinh chiến đã ba năm. Không hay biết gì về tình hình của nước nhà. Nay trước những tiếng loa kêu gọi thống thiết như vậy, từ lúc đầu còn hoài nghi... cuối cùng họ tin là thật.
Toa Đô tức giận sai quân tập trung cung bắn vào đoàn chiến thuyền "quân Tống". Hàng vạn mũi tên bay sang như châu chấu. Nhưng những tấm mộc đã được dựng lên ở trước cả các mái thuyền. Và tiếng loa vẫn cứ phát ra mỗi lúc một thống thiết...
Mặc cho đội thuyền đang có sự lộn xộn, Toa Đô vẫn thúc chiến "suý thuyền" tiến lên. Trần Nhật Duật nói với Triệu Trung:
- Người ra đấu với Toa Đô vài chục hiệp xem sao?
Triệu Trung vâng lệnh thúc thuyền tiến lên. Rồi từ mũi thuyền "quân Tống" Triệu Trung nhảy vọt sang "suý thuyền" của Toa Đô. Hai quả truỳ, một gai, một trơn được tung ra. Nhưng những đòn đánh của Toa Đô thật ra chát chúa. Triệu Trung chỉ lo chống đỡ đã toát mồ hôi, chứ không đánh trả được đòn nào. Mới được hơn mười hiệp đã loạng choạng ngã xuống thuyền mình để "lính Tống" chèo lui.
Giữa lúc đó có một đoàn thuyền xông đến. Chiếc đi đầu cắm một cây cờ lớn thêu sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân" Trần Nhật Duật nhận ra tướng trẻ tuổi chừng mười sáu, mười bẩy chính là Hoài văn hầu Trần Quốc Toản, cậu thiếu niên đã bóp nát quả cam ở Hội nghị Bình Than năm nào. Do bực tức không được hai vua Trần mời vào dự họp. Trần Quốc Toản đã về nhà, bán hết gia sản, tập trung các thiếu niên cùng trang lứa được hơn một ngàn người, nhờ thầy huấn luyện cung, thương, đao, kiếm. Chính đoàn quân thiếu niên do Trần Quốc Toản cầm đầu cũng đã tham chiến, đeo bám và đón đánh đoàn chiến thuyền của Toa Đô suốt từ của Hàm Tử (phía trên Thiên Trường, dưới huyện Khoái Châu, Hưng Yên hiện nay) về đến đây.
Hai thuyền chạm nhau, Trần Quốc Toản vung kiếm nhằm thẳng đầu Toa Đô bổ tới. Đang mải thúc quân sĩ, Toa Đô quay lại, vung cây truỳ gai lên đỡ. Thanh gươm của Trần Quốc Toản cong lại. Còn tấm thân của cậu thiếu niên chưa đến tuổi trưởng thành văng ra mấy mét. Toa Đô tung xích, cây truỳ gai nhằm thẳng vào Trần Quốc Toản đập xuống. Nhanh như cắt người bõ già, cũng là thầy dạy võ của Trần Quốc Toản vội lao xuống, đưa tấm lưng hứng lấy quả truỳ của Toa Đô. Tấm lưng của người nát vụn ra. Tranh thủ Trần Quốc Toản xoay mấy vòng rơi xuống thuyền của mình. Nhưng chàng thiếu nhiên vẫn không chịu bỏ cuộc. Chàng hô các "dũng sĩ" trẻ bỏ gươm, dáo lấy cung nhất tề nhằm vào Toa Đô nhả tên. Nhưng đối với viên hổ tướng từng "nam chinh bắc chiến" thì những mũi tên đó chỉ là "lũ châu chấu đá voi". Chiếc truỳ gai trong tay hắn huơ lên, tên rơi lả tả xuống mặt thuyền. Một vài dũng sĩ của Đại Việt xông lên, cùng lúc vung gươm, đao, lăn xả vào hắn chém tới tấp. Song chỉ loáng một cái, tất cả đã tan thây dưới cây truỳ "quỷ sứ" của hắn. Và chiếc "suý thuyền" của hắn vẫn phăm phăm đè sóng, đè lên các thuyền nhỏ của Đại Việt tiến lên. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật thấy thế thì vô cùng sốt ruột. Người hô lớn:
- Nguyễn Khoái đâu! Để ta đốc chiến cho. Ngươi hãy nhảy lên kiềm chế bớt sự hung tợn của Toa Đô lại.
Nguyễn Khoái vâng lời, nhẩy từ chiến thuyền Đại Việt này sang chiến thuyền Đại Việt khác, rồi nhảy phát lên "suý thuyền" của Toa Đô. Vốn sải tay đã dài, lại mới nối thêm một đoạn xích nên cây truỳ của Toa Đô lúc đầu khiến Nguyễn Khoái khá lúng túng. Lừa lúc cây truỳ vừa quăng vụt ra xa, Nguyễn Khoái sấn lại gần, lia đao nhằm ngang người Toa Đô phạt tới. Nhanh nhẹn đến không ngờ, Toa Đô đã thu xích lại, tung quả truỳ ra đón đỡ. Thế là hai bên xoắn lấy nhau. Tiếng truỳ tiếng đao vang lên chan chát, nhiều lúc toé lửa. Đánh được gần năm chục hiệp mà không bên nào hạ được bên nào. Nguyễn Khoái càng đánh càng hăng khiến Toa Đô vô cùng sốt ruột.
Lợi dụng thời cơ đó các chiến thuyền "quân Tống" hoà vào các chiến thuyền Nguyên Mông. Tiếng gọi người thân, tiếng gọi đồng hương vang dậy cả một khúc sông. Năm vạn lính Hoa nằm trong đội quân mười lăm vạn của Toa Đô dường như đã buông gươm, quăng dáo. Một số đã quay lại kịch chiến với lính Mông Cổ.
Còn Trần Nhật Duật thì cũng nhân thời cơ đó đốc chiến rất hiệu quả. Các chiến thuyền của Đại Việt như đã hoà vào đoàn chiến thuyền khổng lồ của Nguyên Mông.
Trấn Nam Vương Thoát Hoan mỏi mắt trông chờ đoàn thuyền của Toa Đô thì bây giờ, đứng trên toà địch lâu của kinh thành Thăng Long, thấy trong quân đã có biến, và cả đoàn thuyền khổng lồ mỗi lúc một bị chia cắt nhỏ ra bèn tung quân ra ứng cứu. Năm vạn kỵ binh Mông Cổ mở tung cửa thành phía nam ào ạt tiến ra. Đoàn kỵ binh như một cơn lốc cuốn tiếp cận được các chiến thuyền của Toa Đô, chắc chắn sẽ thổi bay các chiến thuyển nhỏ bé của Đại Việt. Nhưng tất cả đã nằm trong sự tính toán chính xác đến từng ly, tưng tí của Hưng Đạo Vương. Khi năm vạn kỵ binh Mông Cổ vừa ra khỏi thành thì phía đông năm vạn quân của Trần Quốc Nghiễm từ trận địa mai phục phía ngoài đê áp vào. Phía nam năm vạn quân của Trần Quốc Tảng cũng áp tới. Mười vạn quân của hai vị vương không công thành mà chỉ tạo một chiếc nút, nút chặt hai cổng đông và nam để Thoát Hoan có muốn phái quân ra tăng viện cũng không có đường... Trong khi đó, năm vạn quân của Phạm Ngũ Lão đào hào chờ sẵn. Khi năm vạn kỵ binh Mông Cổ đang ào ạt xông ra, lọt vào trận địa đã được bí mật từ các chiến hào và hố cá nhân thò lên, giật đứt chân các vó ngựa Mông Cổ. Hàng ngàn rồi hàng vạn kỵ sĩ bị ngã ngựa, lộn cổ xuống đất. Nhiều tên bị xác ngựa đè lên không thể rút chân đứng lên được. Tiếng ngựa hí vang động cả một góc trời. Khi các kỵ sĩ Mông Cổ đã đồng loạt ngã ngựa thì năm vạn đại quân Việt như ở dưới đất độn thổ lên. Lúc này những thanh câu liêm thương dài đã được thay bằng đoản đao và kiếm. Các kỵ sĩ Mông Cổ khi còn trên lưng ngựa thì quả thực là các chiến binh vô địch trong thời đại đó. Chả thế mà họ tiến từ Á sang Âu, xuống cả vùng Trung Cận Đông và lại lộn trở về Á. Đến đâu cũng như là tiến vào chỗ không người. Nhưng khi họ đã bị quật xuống mặt đất thì lại hoàn toàn ngược lại. Các chiến binh Mông Cổ to béo trở thành những "bị thịt" dưới mũi kiếm, nhát đao của các chiến binh Đại Việt.
Tiếng ngựa hý đau đớn, tiếng hô "Sát Thát" vang động cả một góc trời. Trấn Nam Vương Thoát Hoan cay đắng chứng kiến tận mắt đoàn quân con cưng của mình bị "xả thây" mà đành bất lực. Còn Toa Đô mặc dù đang bị Nguyễn Khoái xoắn lấy đánh, không dời ra nửa bước, nhưng là viên tướng dày dạn trận mạc mấy chục năm, thì nghe tiếng hô, tiếng kêu và đảo mắt nhìn vào phía bờ sông là đã hiểu ra tất cả. Toa Đô không dám ham đánh nữa. Hắn vung bậy một truỳ rồi nhảy vào trong thuyền. Sai lính dắt ra con ngựa "hoàng long câu" phi dưới nước như phi trên đất bằng. Bỏ mặc hơn chục vạn quân, nhảy lên lưng ngựa, tung truỳ ra tứ phía mở đường phi sang bờ sông bên kia, dự tính tìm đường về Tây Kết.
Lúc này năm vạn quân của Phạm Ngũ Lão, sau khi đã diệt gọn năm vạn kỵ binh Mông Cổ thì thét vang hai tiếng "Sát Thát" ùa cả lên thuyền. Nguyễn Khoái chặn Phạm Ngũ Lão lại và nói lớn:
- Toa Đô chạy rồi! Để ta hỗ trợ cho đệ, để đệ vững tâm bắn Toa Đô! Đừng để hắn chạy thoát.
Nguyễn Khoái vừa chỉ tay cho Phạm Ngũ Lão hướng Toa Đô đang chạy, rồi vung đao tạo thành vòng tròn an toàn cho Phạm Ngũ Lão, để Ngũ Lão "chỉ việc chú tâm" vào việc tiêu diệt Toa Đô. Ngũ Lão tháo cung ở bên sườn, thò tay rút tên ở trên lưng, kéo hết dây. Con ngựa chở Toa Đô trên lưng lúc chồi lên, lúc sụp xuống. Ngũ Lão vẫn kiên trì đứng choãi chân, căng hết cung mà chưa buông dây. Hàng trăm con mắt đổ dồn vào đường tên của Ngũ Lão. Thân hình cao lớn của Toa Đô vẫn nhịp nhàng chồi lên, sụp xuống. Khoảng cách đã xa tới gần ba trăm bước chân. Ngũ Lão vẫn tập trung tinh lực, chờ tới lúc vó ngựa của Toa Đô đặt bước đầu tiên lên bờ sông. Toàn bộ cái gáy của hắn lồ lộ hiện ra gần như bất động. Ngũ Lão thả dây cung. Mũi tên xé gió lao đi vun vút. Chưa đến một chớp mắt thì đã cắm xuyên qua gáy tên tướng giặc hung hãn vào loại bậc nhất thời bấy giờ. Mọi người đều tưởng hắn đã bật ngửa trở lại, ngã tòm xuống sông. Nhưng không! Hắn vẫn thúc ngựa phi lên mặt đê, đem theo cả mũi tên cắm xuyên qua gáy và mất hút dần sau chân đê.
Trần Nhật Duật kinh hoàng trước sức chịu đựng phi thường của hắn. Người bèn sai hơn chục tên lính bên cạnh lấy ngựa khoẻ, dắt lên bờ phi đuổi theo. Toa Đô đeo cả mũi tên xuyên qua gáy phi ngựa đến gần thị xã Hưng Yên bây giờ, mới ngã lăn ra chết, cách bến Chương Dương hơn ba chục dặm. Lính Đại Việt theo vết chân ngựa đuổi theo, bèn chặt lấy đầu Toa Đô đem về. Còn con ngựa quý của hắn thì không tài nào bắt nổi phải phóng dáo giết chết.
Trở lại bến Chương Dương lúc này, năm vạn hàng binh Tống trong đội quân Toa Đô đã "bó dáo" quy hàng. Còn lại mười vạn tên đang bị chia cắt thành từng nhóm, trước vòng vây ngày một thít chặt của quân Đại Việt, Ô Mã Nhi ở "đoạn hậu" thấy tình thế nguy cấp, liền nhảy lên một chiếc thuyền của Đại Việt. Hắn lia đao một vòng, hai chục lính Đại Việt đều chết lăn trên thuyền hoặc rơi tòm xuống sông. Rồi vớ lấy mái chèo hai cánh tay vâm váp như hai cột đình, xuôi dòng sông Cái, hướng ra biển. Khi Phạm ngũ Lão và Nguyễn Khoái xuống tới nơi, thì thấy chiếc thuyền chở hắn chỉ nhỏ bằng quả bưởi. Nguyễn Khoái nói:
- Có đuổi theo cũng không kịp. Thôi để hắn làm mồi cho cá biển cũng được.
Phạm Ngũ Lão dè dặt hơn:
- Cái thằng quỷ này chưa biết thế nào? Trên đường trốn chạy, hắn sẽ cướp thuyền buôn, hoặc thuyền đánh cá, để lấy lương thực, nước uống chèo thuyền về Ung Châu hoặc Liên Châu...
Lời tiên đoán của Phạm Ngũ Lão quả nhiên là đúng. Một mình trên con thuyền nhỏ nhoi không lương thực không nước uống. Ấy vậy mà qua ba ngày, ba đêm liên tục hắn đã cho thuyền cặp bến ở thành Ung Châu. Bỏ mái chèo, bước lên bờ, vươn vai cười sảng khoái, trước sự kinh hoàng của binh lính Nguyên Mông, như ma như quỷ hiện hình về...
Thoát Hoan cay đắng nhìn đoàn chiến thuyền hùng hậu với mười lăm vạn quân cùng hai hổ tướng bị quân Đại Việt đánh tan ngay trước mặt. Toa Đô thì bị bắn chết. Còn Ô Mã Nhi thì chưa biết thế nào? Mười vạn quân của Trần Quốc Nghiễm và Trần Quốc Tảng ở hai cửa Đông và Nam vẫn chỉ vây chặt, chứ không công thành.
Ruột gan rối bời, cái điều mà hắn chờ đợi và hy vọng gần suốt một mùa đông dài, cuối cùng lại có kết cục thê thảm ngay trước mặt. Từ toà địch lâu, Thoát Hoan bước vào hoàng cung ra lệnh cho bọn A Lý, A Lạt Hải Nha, Tích Lệ Cơ Ngọc, Lý Hằng, Lý Quán... chuẩn bị mở cửa bắc, vượt sông chạy về Từ Sơn (Bắc Ninh). Đóng trại liên hoàn với Tây Kết chờ viện binh từ phương bắc xuống.
Yết Kiêu bắt sống được tên Hán gian Phạm Nhan, giải tới trước mặt Hưng Đạo Vương. Hắn hoa chân múa tay nói:
- Ngộ có ba đầu. Chém đầu này mọc đầu khác.
Hưng Đạo Vương quát lôi ra chém. Một lát sau quân lính xách ba chiếc đầu như đầu búp bê vào. Hưng Đạo Vương và Phạm Ngũ Lão thấy lạ cùng bước ra. Ngũ Lão cười bảo:
- Chẳng qua là người học được phép "độn đầu" chứ làm quái gì có phép nào! Để ta chẻ đôi người ngươi ra, xem ngươi có thoát chết được không?
Ngũ Lão vừa tuốt gươm thì Phạm Nhan đã van xin rối rít.
- Ngộ biết ngộ vạn lần đáng chết! Nhưng sau khi ngộ chết rồi, xin Quốc Công Tiết Chế sai lính thắp cho ngộ một nén hương và chút lễ vật gì để xuống âm phủ không phải làm ma đói.
Hưng Đạo Vương vốn căm ghét tên Hán gian này cực độ. Người phóng giầy đá thẳng vào ngực hắn và quát lớn:
- Cúng! Cúng cho ngươi vấy máu... đàn bà...
Cùng lúc lưỡi gươm của Phạm Ngũ Lão chém xuống, xả thân hình cổ quái ra làm hai mảnh.
Về sau trong lúc vui vẻ, cao hứng, Phạm Ngũ Lão đã bộc bạch với Hưng Đạo Vương:
- Sao lúc ấy cha... chua ngoa thế!
Hưng Đạo Vương cười ha hả mà rằng:
- Mọi người tin ta là Thánh. Đức Thánh Trần. Nhưng thực ra ta cũng chỉ là một con người bình thường thôi. Ta rất căm giận những kẻ bán nước, đi làm chó săn cho giặc.
Hưng Đạo Vương rước hai vua Trần trở lại Thăng Long, đúng như lời hứa vào giữa mùa hè 1285. Vua Trần Nhân Tông thiết triều. Bọn hữu ti (lính hầu bên cạnh nhà vua) khênh ra một hòm gỗ. Nhiều vị quan tái mặt. Vua Trần Nhân Tông phán:
- Những lũ phản quốc đã bị trị tội và sẽ bị trị tội. Còn trong chiếc hòm này có nhiễu biểu xin hàng của các quan trong lúc nước nhà nguy nan. Thật có, giả có. Để mọi người an tâm phụng sự Đại Việt, Trẫm sai đốt ngay tại sân rồng.
Hữu ti lại đem thủ cấp của Toa Đô dâng lên Vua Trần Nhân Tông rơm rớm nước mắt, cởi áo ngự đang mặc bọc lấy đầu Toa Đô mà nói rằng:
- Kẻ làm tôi phải như thế này.
Ý nói tới sự tận tuỵ phục vụ Hốt Tất Liệt của Toa Đô để các quan lấy thế mà noi theo. Rồi sai người đem chôn tại phía nam kinh thành.
- Ai là người đã bắn chết Toa Đô? Vua hỏi.
Phó đô tướng Đỗ Hành quyền chỉ huy quân Thánh Dực tâu:
- Khỏi bẩm thánh thượng! Người đó là Phạm Ngũ Lão.
Ngũ Lão vội quỳ lậy trước sập rồng tâu:
- Muôn tâu hai thánh thượng! Công đầu phải thuộc về Quốc Công Tiết Chế, người đã đem tất cả tâm lực bầy binh bố trận, dẫn Toa Đô vào cửa tử. Người thứ hai là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Người thứ ba là Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái. Còn thần chỉ là người cuối cùng buông dây cung thôi ạ!
Vua Trần Nhân Tông rất lấy làm ưng ý, phán:
- Bây giờ chưa phải lúc "tranh công, đổ tội". Nhưng trẫm đều biết cả. Gần năm mươi vạn quân Nguyên Mông còn đang ở phía bắc. Để làm nức lòng tướng sĩ trẫm tạm phong thưởng riêng cho Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái chức Hổ oai tướng quân, tước hầu. Gọi tắt là Hổ hầu. Tất cả các quan có mặt đều nhất tề hô:
- Thánh thượng thật anh minh.
Hưng Đạo Vương bước ra tâu:
- Muôn tâu hai thánh thượng! Con cua đã thành tinh Thoát Hoan đã bị chặt gẫy một càng là đạo quân của Toa Đô. Nay còn một càng nữa là Tây Kết đã đến lúc phải chặt nốt. Lúc đó chỉ còn chiếc mai và tám cẳng xem Thoát Hoan chạy đi đâu?
- Việc này từ đầu trẫm đã giao cho Quốc Công Tiết Chết toàn quyền khu xử - Vua Trần Nhân Tông đáp.
- Vậy thì nay lệnh cho quân sĩ nghỉ ngơi ba ngày để lấy lại sức và chỉnh đốn quân mã.
Sai hổ hầu Phạm Ngũ Lão đem năm vạn quân, đánh vào trại giữa do tướng Mông Cổ A Bát Xích trấn giữ. Sai Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễm đem năm vạn quân đánh trại bên tả do tướng Mông Cổ Tích Lệ Cơ Ngọc trấn giữ. Sai Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đem năm vạn quân đánh trại bên hữu do tướng Mông Cổ Phàn Tiếp trấn giữ. Sai hổ hầu Nguyễn Khoái đem năm vạn thuỉy quân từ lục đầu giang đổ bộ lên, đánh tập hậu vào ba trại trên để tạo thế gọng kìm và gây thanh thế cho ba đạo quân phía trước.
Tất cả các tướng sĩ còn lại chuẩn bị, sau khi chiếc càng cua Tây Kết bị chặt đứt thì tổng công kích truy đuổi quân Thoát Hoan đến cùng. Giết hoặc bắt sống được Thoát Hoan được thì càng tốt.
Tất cả các tướng có mặt đều "dạ ran".
- Ta lấy thế Nhân thay cường bạo - Vua Trần Nhân Tông nói tiếp. Nay trẫm có chiếu rằng, tất cả kẻ địch khi đã bỏ dáo tháo chạy, thì không ai được truy đuổi, giết chóc hoặc bắt giữ.
- Thánh thượng thật là nhân từ. Từ cổ chí kim thật là hiếm có. Tất cả các quan đều đồng thanh hô.
9
Phạm Ngũ Lão đem năm vạn quân đánh trại A Bát Xích. A Bát Xích cố thủ không ra giao chiến mà sai quân bắn tên ra như mưa rào. Quân Trần không thể phá được cổng trại. Vây đánh từ sáng đến trưa thì thấy phía sau trại nổi lên những tiếng "sát thát". Biết là Nguyễn Khoái đã đến trợ chiến, Phạm Ngũ Lão xuống ngựa giao cho giám mã, thân dẫn năm trăm tráng sĩ, một tay cầm mộc lớn đỡ tên, một tay cầm đại đao, áp sát cửa trại. Những nhát đao, nhát búa được vung lên. Cổng trại bửa ra một lỗ hổng lớn. Vừa lúc đó tên giám mã đã đem con tía đến. Ngũ Lão nhảy lên mình ngựa xông vào. Đi bên cạnh là Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng. Ngũ Lão quát nhỏ:
- Quốc Toản, đệ đi lùi lại phía sau huynh.
Nhưng Quốc Toản cùng một toán thiếu niên đã hăng hái vọt lên. A Bát Xích dương cung bắn liền hai phát, một phát xuyên qua ngực Quốc Toản. Quốc Toản gục xuống trên mình ngựa. Ngũ Lão gầm lên một tiếng như xé phổi thúc ngựa lao thẳng tới A Bát Xích vung đao chém xuống. A Bát Xích vừa đánh vừa lùi, vẫy quân vây chặt lấy Ngũ Lão. Lòng căm thù dâng lên ngùn ngụt. Ngũ Lão vung đao lia tứ phía. Xác giặc đổ gục như chém chuối. A Bát Xích vung đao đối địch. Là một tướng có nhiều kinh nghiệm trận mạc, chỉ kém Toa Đô và Ô Mã Nhi một hai bậc, nên trận chiến giữa hai người diễn ra ác liệt. Song Ngũ Lão đang đà hăng hái khiến A Bát Xích biết nếu càng đánh lâu thì bất lợi càng thuộc về hắn. Sau khi chém một đao chí mạng nhằm vào đầu Ngũ Lão, A Bát Xích quay ngựa bỏ chạy. Ngũ Lão quyết đuổi theo. Khi chỉ còn cách đầu ngựa A Bát Xích đúng nửa thân ngựa, thì bất ngờ A Bát Xích quay người, chém vật lại theo kế đà đao. Với tướng khác, nhát chém ấy chắc chắn sẽ xẻ đối phương ra làm hai đoạn. Nhưng đây là Phạm Ngũ Lão. Chàng đã đề phòng rất cẩn thận, nên khi cây đao của A Bát Xích vừa quặt lại thì đã gặp lưỡi đao của Ngũ Lão đánh chặn lại. Tiện tay, Ngũ Lão phớt lưỡi đao chếch lên. Cánh tay trái của A Bát Xích dính lưỡi đao bay khỏi cơ thể với cả một phần bả vai. A Bát Xích đau đớn nằm rạp xuống mình ngựa, thúc ngựa chạy trốn. Nhưng con tía đã sấn đến sau lưng, Ngũ Lão lia một nhát đao xả A Bát Xích làm hai đoạn.
A Bát Xích chết lăn dưới chân ngựa, nhưng đám quân Mông Cổ vẫn ngoan cường chống lại quyết liệt, gây thương vong cho quân Trần rất nhiều. Phạm Ngũ Lão quay ngựa lại. Nhằm những chỗ quân Nguyên co cụm phóng thẳng ngựa lao vào. Xác giặc dưới lưỡi đao của chàng đổ như ngả dạ. Vừa lúc đó quân của Nguyễn Khoái cũng phá toang cửa sau, ào ạt xông vào. Nguyễn Khoái không cưỡi ngựa, vung đao chém bên tả rồi bên hữu. Thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái quát to:
- Hiền đệ! Tập trung quân truy đuổi Thoát Hoan đi. Bọn tàn quân này ngoan cố lắm, để Khoái mỗ này giải quyết cho.
Được lời như cởi tấm lòng, Ngũ Lão tập hợp đội ngũ, tiến lên phía trước và quay đầu lại nói lớn:
- Cám ơn hiền huynh!
Thấy trại chính của A Bát Xích đã bị phá, hai trại bên của Tích Lệ Cơ Ngọc và Phàn Tiếp cũng mở cửa, tìm đường thoát thân. Ba đạo quân của Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Nghiễm và Trần Quốc Tảng thật sự là ba dòng thác lũ, chà sát quân Nguyên Mông chết hại không sao kết xiết. Nhiều kẻ đã giương dáo quy hàng.
Hay tin Tây Kết đã bị thất thủ. A Bát Xích đã bị Phạm Ngũ Lão giết chết, Thoát Hoan rụng rời, hết vía thúc quân tháo chạy toán loạn. Lúc này hai đạo quân của Trần Quốc Uẩn và Trần Quốc Hiện, từ Vạn Kiếp mới trổ ra đón đánh quyết liệt. Bọn Lý Hằng, Lý Quán, A Lạt, Trương Hiền trước sau kèm chặt Thoát Hoan, mở đường máu chạy trốn. Qua ải Chi Lăng, dân binh của Nguyễn Lĩnh và Nguyễn Địa Lô từ hai bên sườn núi bắn chéo cánh sẻ xuống. Quân Nguyên Mông chết rất nhiều. Lý Hằng, Lý Quán phải lấy ống đồng để Thoát Hoan chui vào, rồi sai lính thiết kỵ kéo suốt hai chục dặm mới thoát ra được khỏi ải Chi Lăng.
Phạm Ngũ Lão thúc quân đuổi riết, suốt ngày đêm. Đến ải Khả Ly (thuộc tỉnh Lạng Sơn bây giờ) thì gặp cánh quân của Trần Quốc Hiện đã tới trước. Trước cửa ải, thấy hàng ngàn người gồm đủ mọi thành phần: quân lính, dân thường, phụ nữ và trẻ em đều không có vũ khí bị quân của Hưng Trí Vương giam giữ.
Phạm Ngũ Lão thúc ngựa vượt lên, ra lệnh cho bọn lính:
- Hảy thả tất cả họ ra!
Trần Quốc Hiện thúc ngựa ra chặn đường và quát lại:
- Ngũ Lão, ngươi đừng có vượt quyền!
- Ta không vượt quyền! Đây là chiếu chỉ của Thánh thượng không ai được làm trái. Ngũ Lão cứng cỏi đáp.
- Binh pháp có câu: “Tướng ở ngoài có quyền không phải tuân theo lệnh vua”. Trần Quốc Hiện đáp lại.
Đó là những lệnh hồ đồ. Còn đây là cả lượng khoan dung trời biển của Thánh thượng! Ai dám trái lệnh ta chém! Ngũ Lão giận dữ quát.
- Ta biết sức lực và võ nghệ ta không địch lại ngươi. Nhưng sở dĩ ngươi có được như ngày hôm nay là nhờ ai? Nhờ ai? Nếu cha ta không ưu ái, nâng đỡ cho ngươi từ một thằng nhà quê đan sọt trở thành Hổ hầu như bây giờ. Lại nữa, ngươi còn là em rể ta - Trần Quốc Hiện quát lại.
- Quốc Công Tiết Chế đã dạy: “Quân pháp bất vi thân”. Ai không nghe lệnh vua ta chém tất. Nói rồi Ngũ Lão giơ đao thúc ngựa xông vào đám quân của Quốc Hiện.
Biết không thể đánh lại, Quốc Hiện ra lệnh cho toán quân đó dãn ra. Đoàn người bị giam giữ ồ lên như thác lũ, vượt qua cửa ải Khả Ly. Trong đám đông đó có hơn chục cô gái da trắng, mắt xanh, tóc vàng, mặc váy ngắn đến gần bẹn, quay ngựa lại xổ ra một tràng tiếng như chim hót. Rồi họ đưa tay lên trán, xuống vùng bụng, rồi qua vai phải và vai trái. Sau đó là xì ra một loạt tiếng chim nữa. Phạm Ngũ Lão đứng ngây người không hiểu họ nói gì và các cử chỉ ấy có ý nghĩa gì. Thì bất ngờ có một thiếu phụ quay ngựa lại và cởi bỏ chàng mạng che mặt ra. Ngũ Lão bất ngờ, theo phản xạ, thét lên:
- Công chúa An Tư!
- Phải! An Tư đây!
- Ôi! Công chúa quay trở lại Đại Việt là đúng lắm! Ngũ Lão nói.
- Không! Tấm thân ô uế này còn mặt mũi nào nhìn thấy bàn dân Đại Việt nữa! An Tư gần như nức nở.
- Không! Công chúa không phản bội theo giặc. Công chúa đã dám hy sinh cả tấm thân ngọc ngà của mình để làm kế dẫn binh, cho hai hoàng thượng đi… lánh nạn. Công chúa có công lớn. Cả dân Đại Việt biết mà! Ngũ Lão nói một thôi dài, như sợ An Tư trốn chạy mất.
- Không! Trong bụng của An Tư hiện giờ đã mang cốt nhục của Thoát Hoan bốn tháng rồi! Dù thế nào thì “thuyền cũng phải theo lái…”
Ngũ Lão thở dài, lắc đầu.
- Ngũ Lão có biết vì sao An Tư quay lại không?
- Không! Làm sao mà biết được!
- Vì Ngũ Lão đó! An Tư muốn Ngũ Lão hứa với An Tư một điều.
- Một à? Mười điều công chúa yêu cầu Ngũ Lão đều xin hứa!
- Nếu vậy thì tốt… An Tư ước rằng nếu có kiếp sau. Kiếp sau Ngũ Lão vẫn là anh nhà quê đan sọt. Còn An Tư chỉ là cô gái hái dâu. Vậy thì chàng đan sọt Ngũ Lão có chịu cưới cô gái hái dâu đó không?
- Nếu quả có kiếp sau! Và nếu quả như lời công chúa nói thì chàng đan sọt Ngũ Lão sẽ lấy cô gái hái dâu đó.
Ngũ Lão đã hứa như vậy lầ An Tư yên lòng ra đi rồi! Nàng mỉm cười mà nước mắt chứa chan.
- À này! Vừa rồi mấy cô gái người Tiểu Nga nói gì vậy. Ngũ Lão chuyển sang chuyện khác.
- À, các cô ấy bảo: “Gửi lời cám ơn lớn lao đến tướng quân”.
- Còn các động tác của họ có ý nghĩa gì?
- Họ cầu chúa của họ ban phước lành cho Ngũ Lão đấy!
Nói rồi An Tư thúc ngựa đi. Nhưng mới được một đoạn, nàng đã quay đầu ngựa lại.
- Ngũ Lão này! Người Nguyên họ chưa cam chịu thất bại đâu! Rồi họ sẽ cất quân sang đánh báo thù. Mong Ngũ Lão hãy bảo trọng! Nói xong An Tư lại quay đầu ngựa, thúc đi.
- An Tư! Nàng cũng phải bảo trọng - Ngũ Lão gọi với theo.
An Tư dừng ngựa, quay lại nói:
- Cuối cùng thì Ngũ Lão đã chịu gọi ta là An Tư. Chứ không còn gọi là công chúa nữa rồi! Kiếp này như vậy là ta đã toại nguyện rồi… Nói xong, nàng gạt nước mắt phóng ngựa đi thẳng.
Chính sử Việt Nam về sau không có chữ nào nói về số phận An Tư ở phương bắc. Nhưng theo một nhánh gia phả của Trần Ích Tắc có ghi: “Công chúa An Tư đã sinh hạ cho Thái tử Thoát Hoan được hai người con trai”. Còn theo chính sử Nguyên Mông. Sau khi vua Hốt Tất Liệt băng, Thái tử Thoát Hoan không được lên ngôi. Lý do không phải Thoát Hoan bị Đại Việt đánh cho đại bại tới hai lần. Mà theo truyền thống Mông Cổ, con cả phải tự đi mở đất mới (nói chính xác là đi xâm lược nước khác) và lên làm vua ở đó…
Ngũ Lão vừa định thúc ngựa quay đi thì có ba bốn kỵ binh lại gần, đứng vây quanh chàng.
- Có chuyện gì thế? Ngũ Lão hỏi.
- Dạ! Bẩm tướng quân… Chúng tôi có chút quà mọn biếu quận chúa. Nhờ tướng quân chuyển giúp. Một tên nhanh nhảu đáp.
- Quà gì? Ngũ Lão hơi sẵng giọng.
- Dạ! Không có gì! Chỉ có một chiếc áo lông cáo đỏ. Chắc của mấy cô tiểu Nga la tư vứt lại vì bây giờ đang là mùa hè.. Mùa đông quận chúa mặc vừa nhẹ, vừa ấm… lại chống được trời nồm.
- Quy định của ta về chiến lợi phẩm thu được thế nào?
Ngũ Lão cố ôn tồn hỏi lại.
- Dạ! Bẩm tướng công đã dạy. Tất cả phải tập trung rồi chia đều cho anh em. Nhớ không được quên các thương binh và gia đình tử sĩ. Cái gì ta không chia được thì bán đấu giá… lấy tiền chia… Còn với tướng quân đã có lương bổng của triều đình… không phải chia bất cứ thứ gì.
- Sao bây giờ các người lại không nghe lệnh ta?
- Dạ! Bẩm! Chỉ có chút quà nhỏ.. Có tính chất tình cảm… nhờ tướng quân chuyển dùm cho quận chúa!
- Các người có biết trái tướng lệnh thì sẽ bị xử ra sao không?
- Dạ! Bẩm có ạ! Nặng thì chém đầu. Nhẹ thì đánh đòn!
- Đã biết thế sao còn vi phạm. Cút ngay! Lần này ta nể tình các người vừa vào sinh, ra tử mà tha cho. Không cút nhanh, ta dùng roi ngựa quật cho khắp lượt bây giờ! Giọng Ngũ Lão đanh thép nhưng lại rất có tình. Bọn lính cúi chào Ngũ Lão rồi "thở dài” thúc ngựa quay đi.
Chỉ trong một khoảnh khắc không dài mà Trần Quốc Hiện được chứng kiến hai sự việc xảy ra với Phạm Ngũ Lão. Quốc Hiện thúc ngựa đến sát bên Ngũ Lão đặt một bàn tay nặng chịch lên vai chàng. Rồi chân thành nói:
- Bây giờ ta mới lý giải được vì sao cha ta và anh Quốc Tảng lại quý ngươi đến như vậy!...
10
Hưng Đạo Vương biết chắc là thế nào quân Nguyên Mông sẽ còn kéo sang đánh báo thù. Người ra lệnh các đạo quân phải bổ sung quân lính bị thương tật hoặc đã hy sinh. Ngũ Lão hiến một kế với Quốc Công Tiết Chế:
- Trong thiên hạ vẫn không thiếu gì người tài! Cha nên mở hội thi võ ở Giảng võ đường. Biết đâu chả kiếm được hào kiệt.
Hưng Đạo Vương lấy làm tâm đắc lắm. Mùa thu, tháng tám năm 1285, Người mở hội thi võ trong ba ngày. Cũng kén được vài chục viên tướng vào hạng dụng được. Nhưng người kiệt xuất thì không thấy.
Đến sáng ngày thứ ba, ở cổng có loa báo cáo:
- Có đề hạt ở phủ tri trâu vùng Tây Bắc là Nguyễn Chế Nghĩa xin vào ứng thí!
Tiếng loa từ bên trong Giảng võ đường phát ra:
- Xin mời đề hạt Nguyễn Chế Nghĩa vào ứng thí.
Đó là chàng trai trẻ, dáng người mảnh khảnh, mặc quần áo chàm. Vai đeo túi thổ cẩm, thúc một chú ngựa miền núi không cao lớn lắm phi vào. Vừa lúc đó trên bầu trời, có đàn vịt trời bay qua, buông tiếng kêu. Chàng trai trẻ bèn lấy cung, với tên ở sau lưng bắn liền ba phát. Ba con vịt trời rơi bịch xuống. Con nào cũng bị tên xuyên qua cổ.
Quân lính vội lượm lên trình Quốc Công Tiết Chế. Người lấy làm hài lòng lắm, hỏi tiếp:
- Về thương pháp của ngươi thế nào?
- Dạ! Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế. Thảo dân cũng không biết nói thế nào? Có ai ra tỉ thí với thảo dân độ dăm bảy chục hiệp thì… Quốc Công Tiết Chế mới rõ được ạ!
Hưng Đạo Vương hỏi:
- Ai muốn ra thi võ với Nguyễn Chế Nghĩa?
Không ai trả lời. Người muốn trêu đùa Khánh Dư nên quay sang bảo.
- Tướng thuỷ quân thử ra so tài với Chế Nghĩa xem sao?
- Như ta đây là Nhân Huệ Vương đô tướng trấn thủ ở một vùng quan ải trọng yếu nhất nước, lại đi so tài với một tên “thổ mừ” sao?
- Sao ngươi khinh người quá đáng như vậy? Hưng Đạo Vương trách. Trước đây ngươi cũng đã xúc phạm Ngũ Lão. Nay Ngũ Lão một bước lên tước hầu, chẳng phải là bài học nhỡn tiền đó sao?
- Ta có là kẻ đốt than đi chăng nữa cũng là quý tộc. Còn Ngũ Lão dù có là Hổ hầu hay gì gì đi nữa thì vẫn là tên nhà quê đan sọt mà thôi. Khánh Dư cũng không vừa.
- Ngươi là người văn võ toàn tài. Nhưng không thấu hiểu câu ca dao: “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi nhà chùa đi quét lá đa/ Bao giờ trời nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét chùa” đó sao? Mới gần đây thôi cha ông chúng ta cũng chỉ là các ngư phủ tầm thường. Thời thế tạo anh hùng, ngươi mới trở thành quý tộc. Ngươi phải nên hiểu rằng “Chở thuyền cũng là dân. Mà lật thuyền cũng là dân” Hưng Đạo Vương giải thích một thôi một hồi.
- Vị vương gia kia không phải là coi thường thảo dân. Nguyễn Chế Nghĩa cũng không vừa, Chế Nghĩa chỉ lên võ đài nói - Mà sợ không địch nổi ngọn dáo này!
Trần Khánh Dư tức sùi bọt mép quát:
- Thằng “thổ mừ oắt con” kia! Rồi có ngày ta xé xác ngươi ra cho quạ rỉa - Nói rồi hầm hầm bỏ võ đài bước xuống, quát giám mã dắt con bạch mã ra. Hưng Đạo Vương ngạc nhiên hỏi lại Chế Nghĩa:
- Ngươi đã giao đấu với Nhân Huệ Vương hồi nào?
- Dạ! Bẩm, chưa lâu. Mới cách đây chừng nửa tháng.
- Vị vương đó vi phạm luật. Săn thú trong mùa sinh sản. Thảo dân theo trách nhiệm ra yêu cầu thì suýt bị vị vương đó chém mất đầu. May mà thảo dân có chút bản lĩnh mới giao đấu với vị vương đó năm bẩy chục hiệp, bất phân thắng bại ạ!
Hưng Đạo Vương vô cùng ngạc nhiên hỏi lại:
- Ngươi không nhớ nhầm đấy chứ?
- Dạ! Bẩm vị vương đó chân dài có đường gươm tuyệt luân, thiên hạ ít người địch nổi ạ!
- Vậy bây giờ ngươi có dám so tài với Phạm Ngũ Lão vài chục hiệp chăng? Hưng Đạo Vương hỏi tiếp.
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế, Ngũ Lão là hổ hầu, e rằng thảo dân chỉ cự được dăm ba chục hiệp là cũng thôi.
- Được! Cứ thử cho bản vương xem bản lĩnh và thương pháp của người ra sao, để còn có cơ sở mà bổ nhiệm. Đao thương vô tình. Bởi thế trước lúc giao đấu mũi dáo của Chế Nghĩa đã được bịt gỗ lại. Còn Ngũ Lão chỉ được dùng sống đao.
- Tiền chủ hậu khách. Xin mời hổ hầu hiền huynh ra đao trước. Chế Nghĩa nói.
- Ta lại muốn nhường đệ trước ba thương. Ngũ Lão đáp.
- Vậy thì đệ không khách khí nữa! Vừa dứt lời Chế Nghĩa đã phóng thẳng mũi thương vào ngực Ngũ Lão. Ngũ Lão vừa né tránh thì mũi dáo lại như con mãng xà phóng thẳng vào yết hầu, nhanh như chớp. Ngũ Lão vẫn không đưa đao lên đỡ, mà né người qua một bên. Lập tức mũi thương lộn xuống, nhằm trúng bụng mà trổ tới. Đó đã là thương thứ ba rồi nên Ngũ Lão đưa đao ra gạt. Nhưng Chế Nghĩa đã thu thương lại rất nhanh, đâm ngược lên. Ngũ Lão biết là gặp phải tay không vừa nên bắt đầu trổ đến oai, vừa đánh đỡ, vừa vung đao đánh trả. Chế Nghĩa không hề nao núng, ăn miếng trả miếng rất nhanh. Hưng Đạo Vương trên võ đài vỗ tay cổ vũ cho Chế Nghĩa và hô lớn:
- Thương pháp của người này không kém gì thương pháp của Trần Bình Trọng năm xưa.
Được ngoài ba mươi hiệp Ngũ Lão trổ thần oai, Chế Nghĩa khôn ngoan không đưa thương ra đón đỡ, mà luôn né tránh rồi nhằm các khe hở ở nách, ở bụng phóng dáo tới. Tuy nhiên cũng chỉ được hai chục hiệp nữa, Chế Nghĩa bắt đầu thở gấp, Hưng Đạo Vương ra lệnh khua chiêng dừng trận đấu.
- Thương pháp của đệ lạ lắm! Ngũ Lão khen.
- Thần oai của huynh quả thật đệ không trụ nổi. Chế Nghĩa thật thà đáp lại.
- Nhưng tài thần tiễn của đệ thì thiên hạ vô địch!
- Cũng không thể so với gan sức của huynh được. Một nửa ba trăm bước thì tên của đệ đã không bắn với tới được. Ấy vậy mà ba trăm bước, huynh vẫn bắn xuyên qua gáy Toa Đô thì chẳng khác nào Hậu Nghệ bắn mặt trời khi xưa.
Tất cả đều cười vang. Hưng Đạo Vương phán:
- Nguyễn Chế Nghĩa! Ta phong cho ngươi chức Đô uý, người có nhận không?
- Dạ! Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế! Chế Nghĩa tham gia giết giặc Nguyên Mông đâu có vì chức tước, lợi lộc.
- Được nếu vậy thì ba ngày nữa, ngươi theo Phạm Ngũ Lão về Vạn Kiếp, để Ngũ Lão truyền bảo quân phong, quân kỵ cho ngươi. Còn các tướng - Hưng Đạo Vương nói tiếp - Sau ba ngày dạo chơi ở kinh thành, ai về vị trí đó, thao luyện binh sĩ, chuẩn bị đón đánh quân Nguyên Mông sang báo thù.
Tất cả tướng sĩ dạ ran…
Phạm Ngũ Lão rủ Nguyễn Khoái cùng Nguyễn Chế Nghĩa dạo chơi khắp kinh thành. Ngũ Lão và Nguyễn Khoái đánh quần nâu áo vải của người thợ cầy, còn Chế Nghĩa thì vận áo chàm, vai đeo túi thổ cẩm. Cả ba la cà khắp phố xá kinh kỳ. Lúc cuốc bộ, lúc lên thuyền dạo khắp ngõ ngách của phố phường. Gần xẩm tối, Nguyễn Khoái nói:
- Đi đã hoa mắt! Rạc cẳng rồi! Phải vào quán nào kiếm chén rượu, không khát khô cả họng đây này!
Ngũ Lão cười lớn nối với Chế Nghĩa:
- Hiền huynh không thích gì ngoài rượu đâu! Thôi bây giờ ta thuê thuyền lên thẳng Hồ Tây. Trên đó có quán bán nguyệt có món rượu ngâm chân sâm cầm và cá chép vẩy vàng, khắp nước không đâu sánh bằng.
Trời vừa sập tối thì ba vị khách ngồ ngộ bước vào quán. Quán có hai tầng. Tầng một là hầm để rượu. Tầng hai hình bán nguyện vươn hẳn ra mặt nước. Chủ quán là một người đàn ông đã đứng tuổi vẻ thờ ơ hỏi:
- Các vị cần gì?
- Chúng ta muốn thuê cả quán tối nay - Ngũ Lão nói.
- Giá mắc lắm! Các vị có chịu nổi không?
- Mắc là bao nhiêu? Ngũ Lão hỏi - Tính bằng tiền hay bằng ngân lượng?
- Tiền hay ngân lượng đều được cả. Nhưng rất mắc.
- Một túi vàng cốm này có được chăng? Chế Nghĩa lôi từ túi thổ cẩm ra một túi cát mầm vàng, nặng chừng một ký.
Chủ quán vốc ra xem, thấy các hạt kim loại sáng ánh thì bàn tín, bán nghi bảo:
- Nếu các vị có tiền thì tốt.
- Được. Có ngay! Năm mươi quan có đủ không? Ngũ Lão nói.
- Xin quý vị đặt trước.
Ngũ Lão móc trong túi áo nâu ra năm mươi quan tiền mới cứng đặt vào tay chủ quán, không quên nói thêm:
- Chúng ta bao cả quán tối nay đấy nhé! Thiếu bao nhiêu, chúng ta bù thêm.
- Dạ! Cũng tạm đủ ạ! Có thiếu thì cũng in ít thôi.
- Khoảng một hai chục nữa là cùng.
Ba người đặt đít xuống thẳng sàn gỗ cẩm lai sặc sỡ sắc mầu như tranh vẽ. Nguyễn Khoái đã quát chủ quán đem rượu ra:
- Mang ra vài vò trước! Các món ăn tính sau. Lai rai đến hết đêm cơ mà.
- Dạ, vâng! Có ngay! Có ngay!
Một đứa trẻ chừng mười bốn, mười lăm bưng ra một vò sành, to gần bằng thùng gánh nước và ba chiếc bát sứ. Nguyễn Khoái tranh lấy rót ra và hít hà khen rượu ngon và nặng, cắm tăm được.
- Mời hai hiền huynh - Chế Nghĩa bưng bát rượu lên ngang mặt nói.
- Mời mọc mẹ gì! Cứ uống đi! Nguyễn Khoái vừa nói vừa uống hết veo bát thứ nhất, rồi lại tự rót ngay tắp lự cho mình bát thứ hai.
Phạm Ngũ Lão vừa nâng bát lên miệng thì phía cửa ngoài có tiếng ồn ào. Rồi chủ quán mặt tái mét bước vào, lắp bắp thưa:
- Dạ! Dạ! Xin ba vị thứ lỗi cho, đi quan khác. Có cháu Nhân Huệ Vương và đồng bọn đòi vào… Chúng nói các vị không đi thì chúng đốt quán - Dạ! Chúng không doạ suông đâu! Chúng nói là làm đấy!
- Cái gì cũng phải có tôn ti trật tự. Ai đến trước thì thuê trước. Ngoài ra còn có vương pháp nữa chứ? Đốt là đốt thế nào? Ngũ Lão vặc lại.
- Dạ! Bọn này cậy quyền. Cậy tiền, cậy thế không gì là chúng không dám làm đâu ạ! Quán mới mở lại. Mấy tháng trước đây, thi thoảng Ô Mã Nhi có đưa mấy cô đầm nhí Tiểu Nga la tư đến ăn uống phè phỡn. Có ghi sổ đến cả chục lần mà đã thanh toán được đồng nào đâu? Nay bọn này mà đốt quán thì gia đình tôi chết đói hết.
- Có chúng ta ở đây, ông không phải lo. Nếu chúng dám đốt thật thì ta đền cho ông cái sừng tê giác đen này. Nguyễn Chế Nghĩa vừa nói vừa rút ra từ trong túi thổ cẩm một chiếc sừng cong, đen bóng đặt xuống sàn. Nó không chỉ giá vài ngàn lượng vàng mà có thể đổi được một tước hầu đấy! Đây là của gia bảo của ông cha ta để lại.
Ở ngoài tiếng ồn ào càng nổi lên dữ dội. Đã có vài ba khuôn mặt non choẹt nhưng trông dữ dằn và ngông ngạo thò vào. Một tên quát lớn:
- Hai thằng Muzich và một tên thổ mừ cút ra khổi quán ngay! Chúng mày đừng làm bẩn chỗ nhậu nhẹt của các ông chúng mày đây!
Nguyễn Khoái vừa tợp xong bát rượu thứ ba thì đùng đùng nổi giận, gầm lên một tiếng và đứng bật dậy. Ngũ Lão biết nếu để Nguyễn Khoái lao ra ắt phải có vài ba án mạng.
- Hiền huynh cứ ngồi xuống và uống tiếp đi! Đệ để ta khu xử với bọn chúng - Ngũ Lão nói.
Vừa thấy cái bóng to lớn xù xì trong bộ quần áo nâu của thợ cầy thì tất cả nhao nhao lên:
- Thằng nhà quê! Đồ Muzích cút đi! Trả quán cho các bố mày!
Ngũ Lão vẫn điềm tĩnh đáp:
- Quán này chúng ta đã trả tiền bao trọn tối nay rồi! Nếu cần các em đi quán khác.
- Đồ nhà quê! Đồ Muzích! Ai là em của chúng mày hả? Sau câu “hả” là một trận mưa gậy đập xuống đầu, xuống vai Ngũ Lão. Ngũ Lão gồng người cho chúng đập chán tay, gãy gậy mới thủng thẳng đáp:
- Thế nào? Đã đủ hả giận chưa? Bây giờ đi tìm chỗ khác được rồi chứu?
Thấy người Ngũ Lão như tượng đồng thau, cũng đã có tên thấy chờn chờn. Nhưng tên cầm đầu, đứng ở phía xa, chênh chếch vối Ngũ Lão đôi chút thì tỏ ra chưa chịu, quyết muốn “ăn thua” một chuyến. Nghĩ rồi, hắn lặng lẽ lấy cung, rút tên nhằm vào giữa bộ ngực vâm váp của Ngũ Lão bắn thẳng vào một phát. Nghe tiếng tên ra đánh “tách”, Ngũ Lão vội né người, thuận tay bắt được mũi tên. Rồi không nén nổi giận, Ngũ Lão nhằm về hướng đứa vừa vắn, nhằm vào vai trái phóng mũi tên đến.
Thằng khốn “ối!” lên một tiếng ôm lấy vai chạy bổ ra đường, kêu ầm ĩ:
- Ôi có kể giết người! Có bọn cướp Muzich giết người!
Bọn đàn em cũng chạy xuống theo và cùng đồng thanh la. Có ánh đuốc lớn tiến đến cùng đội quân Thánh Dực do phó tướng Đỗ Hành đi tuần thấy chuyện huyên náo thì vội chạy đến. Thấy mũi tên còn cắm trên vai đứa cháu gọi Nhân Huệ Vương là cậu ruột thì Đỗ Hành vội lao lên quán. Nhưng rồi Đỗ Hành không ngờ thốt lên:
- Hai vị hổ hầu và tân Đô uý! Sao lại ngồi đây và ăn vận thế này!
- Chả lẽ chúng ta không có quyền ngồi đây và ănv ận thế này sao? Ngũ Lão vặc lại.
- Hổ hầu hiểu lầm ý tôi rồi! Ý tôi muốn nói là các vị ăn mặc như thế khiến bọn con cháu nhà quý tộc hiểu lầm nên tỏ ra hỗn láo. Để tôi ra bảo và đuổi chúng nó đi!
Nói rồi Đỗ Hành phăm phăm chạy xuống. Một tay đặt ở đốc đao, tay kia chỉ vào mặt mấy thằng mất dậy:
- Chúng mày có biết là đang vuốt râu hùm không? Ba vị trên kia đâu phải là hai thằng nhà quê và một đứa thổ mừ. Đó là hổ hầu Nguyễn Khoái, hổ hầu Phạm Ngũ Lão và tân Đô uý Nguyễn Chế Nghĩa đó. Cút ngay, không tao cho lính bắt giam chúng mày lại bây giờ.
- À, ông nhớ lấy nhé! Để rồi tôi sẽ báo với cậu tôi. Ông dám dùng quân Thánh Dực vào hùa với bọn muzích để bắt nạt con em quý tộc! Ông đừng có mà hối, mà chối đấy!
Mặc dù vai còn đau nhức nhưng thằng mất dạy vẫn già họng đe doạ. Sau khi ra vẻ cứng, chúng vội vàng kéo nhau chạy về phủ Nhân Huệ Vương.
Lúc này Trần Khánh Dư đang “chén tạc, chén thù” với Đỗ Khắc Chung cùng các “chiến hữu” trong phe cánh và một lũ người đẹp đến mê hồn. Thằng cháu ôm cánh tay chạy vào, khóc rống lên:
- Cậu ơi! Hãy báo thù cho cháu!
- Đứa nào dám bắn tên vào vai mày thế này! Để tao lột xác hắn ra. Trần Khánh Dư gầm lên.
- Dạ! Thưa cậu thằng nhà quê đan sọt và thằng muzích Nguyễn Khoái, cùng thằng thổ mừ Nguyễn Chế Nghĩa. Chúng nó chiếm quán gió bên hồ Tây của chúng cháu. Chúng cháu đòi lại thì bị chúng hành hung ạ!
Đang nổi giận phừng, tưởng có thể xông ra xé xác kẻ đã dám “mạo phạm” tới cháu mình, đột nhiên, rất đột nhiên Trần Khánh Dư đổi giọng, rít qua kẽ răng:
- Mày là đồ ngu! Mày có biết bây giờ là thời thế nào không? Là thời thế phải chống giặc Hồ. Bởi thế phải cần đến cái “cổ cày, vai bừa” cái “vai u, thịt bắp” của bọn nhà quê. Mày hiểu chưa? Chỉ một mình giới quý tộc chúng ta thì làm sao chống được giặc. Hãy đợi đấy! Vài năm nữa yên hàn trở lại, lúc đó bọn nhà quê kia hết thời, mới đè đầu cưỡi cổ, trừng trị chúng nó được… May mà nó chỉ phóng tên vào vai mày! Chứ có phóng xuyên qua cổ họng mày thì lúc này cậu chỉ có mà “biết khóc đưa mày ra đồng” chôn thôi!...
Trở lại chuyện Đỗ Hành trở vào quán, hỉ hả nói với ba người:
- Tôi đuổi chúng nó đi rồi!
Rồi gọi chủ quán đến giới thiệu các vị thực khách, rồi không quên nói thêm:
- Hôm nay ông có mang hết cả mấy vò rượu chân sâm cầm cùng các món ăn ngon nhất ra đây, đãi ba vị này, không lấy tiền cũng là phúc lớn được gặp một lần trong đời đó.
Người chủ quán “dạ! dạ!” liên hồi.
Ngũ Lão mời Đỗ Hành cùng ngồi uống cho vui. Nhưng vừa bưng bát rượu lên, Đỗ Hành đã hắt ra sau và quát lớn:
- Không bê hết các vò chân sâm cầm ra đây, ta cho lính phá quán bây giờ.
Mới uống được một tuần, Đỗ Hành đã cáo từ:
- Xin mời hai vị hổ hầu và tân Đô uý cứ lai rai suốt đêm. Tôi còn phải thúc quân đi tuần. Kinh thành mới giải phóng, cũng có nhiều chuyện cần giải quyết lắm.
Đứng lên Đỗ Hành gọi chủ quán ra một góc, dúi vào túi áo ông ta một trăm đồng và nói nhỏ:
- Nhớ hầu hạ ba vị thượng khách cho chu đáo. Sáng mai, tôi quay lại, thừa thiếu thế nào sẽ thanh toán sau.
Đỗ Hành đi rồi, thái độ của chủ quán tỏ ra kính cẩn hơn hẳn. Ngoài mấy vò rượu chân sâm cầm, ông ta giới thiệu một loạt đặc sản của hồ Tây và bảo:
- Nếu chưa vào quán gió, chưa ăn các món này với rượu sâm cầm thì coi như chưa tới kinh thành Thăng Long.
Rồi ông ta bắt đầu kể về những ngày được tiếp (và phải tiếp Ô Mã Nhi) như thế nào.
- Lần đầu tiên trông thấy hắn tôi đã giật nẩy mình tưởng là quái vật bước vào quán, với chiếc áo lông cừu to trùm từ đầu đến chân. Chả là lúc đó vào giữa mùa đông mà. Khi “chiếc chăn” lông cừu được vứt xuống sàn, chiếc bụng trắng hếu to như chiếc trống cái hiện ra, rồi mới đến hai cặp vú chảy sệ như vú bò sữa. Khuôn mặt tròn trĩnh với cặp mắt sắc, cái miệng với hai hàm răng khoẻ lúc nào cũng cười cười. Theo sát hắn là một lúc “hồ li tinh” mắt xanh, mũi lõ, da trắng, tóc vàng vận áo bành tô bằng lông cáo đỏ, nhẹ và ấm. Khi những chiếc áo bành tô được trút ra, chao ôi là nhưng cặp đùi trắng ngần, dài đến sát bẹn làm loá cả mắt. Cái món mà Ô Mã Nhi thích nhất là kiếm cho hắn một con ba ba to bằng cái mâm đồng lớn. Cắt ra chừng hai lít tiết hoà vào rượu để hắn uống. Lũ con gái tiểu Nga la tư thì chỉ nốc rượu trắng, chứ rất sợ món tiết ba ba. Rượu vào. Ô Mã Nhi ôm lấy cây đàn BA LA LAI CA, gần giống như chiếc đàn đáy của ta, dạo mấy nốt, rồi bất ngờ chơi một bản nhạc rất bốc. Thì thoảng lại vỗ tay vào hộp đàn. Lũ tiểu yêu vây quanh múa như điên, như cuồng, những chiếc váy xoay tròn ra, để lộ rõ những chiếc quần lót bé tẹo, mỏng dính màu trắng muốt. Cả tôi và lũ hầu bếp cứ trố mắt ra nhìn Ô Mã Nhi với đôi chân vòng kiềng do đi ngựa từ nhỏ to như hai cột đình, ấy vậy mà nhảy rất khéo và dẻo mới lạ chứ. Mấy lần sau đã hơi quen quen Ô Mã Nhi còn bắt nhảy cùng. Chúng tôi xéo vào chân lũ tiểu Nga la tư kêu đau oai oái.
Sau chầu rượu là tới bữa ăn. Ô Mã Nhi khoái khẩu nhất là món ba ba nấu ốc, đậu phụ, thịt ba chỉ và chuối xanh. Còn lũ con gái tiểu Nga la tư thì thích món cá chép vẩy vàng om dưa, chấm với bún. Khi đã no say rồi Ô Mã Nhi nằm ườn ra sàn, lũ con gái Tiểu nga chèo lên người lão, đùa nhau chí choé, lúc chồi lên lúc tụt xuống như đàn lợn bột, tranh nhau bí tí con lợn nái. Không bao giờ chúng ân ái với nhau ở trong quán. Hình như hắn chờ đến lúc trở về lều. Thoát Hoan thì ngủ trong cung điện. Còn Ô Mã Nhi và lũ con gái tiểu Nga thì chỉ ngủ ngoài lều da dê, dưới lót đệm lông cừu - Hắn vào quán hơn mười lần, mà chưa thanh toán được lần nào. Sau mỗi lần hắn bảo đưa quyển sổ nợ ra, vẽ vào đó một con ó lớn, ngồi trên lưng một con ngựa nhỏ. Nghe nói sau trận Chương Dương hắn một mình một thuyền trốn ra biển và làm mồi cho cá mập rồi thì phải. Thôi thế cũng là thoát một cái nợ.
- Hắn chưa chết đâu! Nguyễn Khoái lè nhè đáp - Nghe thám mã từ Liên Châu báo về, hắn vẫn còn sống nhăn răng và thề sẽ sang đánh báo thù.
- Ôi! Thế thì quán tôi lại đến sập tiệm với hắn.
- Ông khỏi lo! Phạm Ngũ Lão vừa cười vừa chỏ vào Nguyễn Khoái - ông cứ đãi ông này một chầu say tuý luý vào, ông ta sẽ đuổi Ô Mã Nhi không cho vào kinh thành.
- Đúng! Lần này hắn có sang, chắc chắn là ta và đệ sẽ phải “làm lông” hắn. Nguyễn Khoái cười đáp.
- Nếu quả đúng như thế thì tối nay, tôi sẽ không lấy tiền các vị.
- Việc đuổi hắn, thậm chí là “làm lông” hắn như hiền huynh ta nói là việc của triều đình giao cho chúng ta. Còn việc chúng ăn uống ở đây thì phải trả tiền sòng phẳng.
- À, vừa rồi vị khách - lão chủ quán định gọi Nguyễn Chế Nghĩa là “thổ mừ”, may chữa lại thành -… trẻ tuổi có khoe chiếc sừng tê giác gia truyền. Bây giờ có thể cho tôi ngó qua một tý được chăng?
- Được chứ! Nói rồi Nguyễn Chế Nghĩa thò tay lấy ở chiếc túi thổ cẩm vẫn đeo trên nách trái ra một chiếc sừng gốc to như gốc măng, nhưng không mọc thẳng, mà đến nửa chừng thì bẻ cong cong xuống. Rồi chàng giải thích. Đây là sừng con tê giác già đến bẩy mươi năm. Thường loài tê giác chỉ sống được khoảng trên dưới sáu chục năm. Sừng tê tốt phải là sừng của con bốn chục tuổi trở lên.
- Công dụng thế nào mà các vị vua chúa “tôn sùng” nó thế?
Viên chủ quán hiếu kỳ hỏi.
- À, thực ra công dụng của nó cũng thường thôi! Chủ yếu là do đồn thổi mà nên. Tuy nhiên đầu tiên, công dụng của nó là sát độc. Trước khi con tê giác uống nước nó thường lấy sừng thả xuống, ngoáy một lúc cho nước tiến các tạp chất bẩn hoặc các loại lá độc như lá ban, lá lim, rồi mới uống. Công dụng thứ hai chữa mụn nhọt sốt cao. Chỉ cần mài ra một chút nước trắng như nước vo gạo trẻ con mụn nhọt hoặc sốt cao uống vào là khỏi liền… Còn các vua chúa thì đồn rằng, mài sừng tê ra uống hàng ngày có thể ân ái với cả chục mĩ nhân một đêm mà không hề mệt mỏi. Bởi thế các triều đình phong kiến phương bắc thường bắt ta phải cống sừng tê cho bọn họ.
- À, ra thế! Hèn nào mà Ô Mã Nhi có cả một tá cô đầm non tiểu Nga, mà vẫn khoẻ như vâm…
- Ấy là chuyện đồn thổi thôi! Nguyễn Chế Nghĩa giải thích tiếp - Đệ chỉ cần dâng chiếc sừng tê này cho hai thánh thượng là lập tức được phong tước hầu liền - Phạm Ngũ Lão nhắc lại lời nói khi mới vào quán.
- Thánh thượng dùng làm gì? Nguyễn Chế Nghĩa hỏi lại.
- À, một là để dùng… Hai là để làm cống phẩm. Dù thế nào thì… dù ta có thắng Nguyên Mông cả chục lần đi nữa thì muốn “quốc thái dân an” hàng năm vẫn phải triều cống cho họ. Mà Hốt Tất Liện trông thấy chiếc sừng tê này của đệ, chắc là mắt phải sáng lên. Nghe nói thời Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, mang về bao nhiêu là đồ quý hiếm. Ấy vậy mà vua Hán Quang Vũ đem vứt hết chỉ giữ lại độc chiếc sừng tê mà thôi. … Bởi vậy, đệ phải giữ cho khéo, không dễ bị mất trộm lắm đấy, nhất là đất kinh kỳ này…
- Thôi để ngày mai, đệ nộp cho Quốc Công Tiết Chế!
- Phải! Đúng đấy! Để Quốc Công Tiết Chế sung vào kho báu vật quốc gia.
- Nhưng đệ không nhận tước hầu đâu nhé! Làm trai phải lập công danh ở nơi chiến trường, chứ dựa vào cái sừng tê thì… hèn quá.
- Đúng! Đệ nghĩ như vậy là phải. Ngũ Lão nói.
- Nghĩ gì? Phải gì? uống đi! Uống đi lúc này mới là phải - Nguyễn Khoái lè nhè đế vào.
Phạm Ngũ Lão ra hiệu cho Nguyễn Chế Nghĩa đừng để ý gì đến lời nói của Nguyễn Khoái, rồi tỉ tê hỏi:
- Thế đệ kể lại trận tao ngộ với Trần Khánh Dư nửa tháng trước đây xem thế nào?
- Vâng! Đấy là trận đấu sinh tử lần đầu đệ giáp mặt. Nếu bản lĩnh kém một ly, một lai thì bữa nay đã không được hầu rượu hai huynh rồi!
Bưng bát rượu chân sâm cầm lên tợp một ngụm, và gắp một cái chân ba ba, định đút vào miệng, nghĩ thế nào, Nguyễn Chế Nghĩa lại đặt vào lòng bát, và trầm ngâm nhớ lại. - Khi đó đệ đi tuần rừng theo lệnh của quân tri châu. Vì mùa thu là mùa sinh sản của thú rừng, cấm săn bắn. Ấy vậy mà ở góc rừng đó, tiếng chó săn sủa, cùng nhiều tiếng huyên náo suốt từ sáng sớm. Khi đệ vào đến cửa rừng cũng là lúc đoàn người đi săn đi ra. Đi đầu là một vị cưỡi ngựa trắng, đội mũ có cắm lông công, trên vai nghễu nghện một con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp to hơn con ngỗng lớn
- Ai cho các người vào săn vào mùa này? Đệ hỏi. Đáp lại không phải là tiếng trả lời, mà nhanh như chớp một nhát trường kiếm ngang người đệ. Như người khác chắc chắn là mất mạng rồi. Đệ phải nằm ngửa hết cỡ, lưng sát xuống lưng ngựa, nhưng vẫn cảm thấy hơi lạnh của đường gươm lướt qua mặt. Theo phản xạ, đệ thò tay rút cây thương gài dọc theo thân ngựa. Vừa nhô người lên thì nhận ngay đường gươm chém vật lại. Đệ đưa thương lên gạt. Đường guơm quá mạnh khiến người đệ chúi xuống. Biết là gặp phải cao thủ, đệ giật ngựa lùi lại và trổ thần oai ra đánh trả. đường thương của đệ khi lên, khi xuống lấp lánh như ánh hoa lê bay trước mặt đối phương. Lúc vờ lộn ra sau, nhưng ngay tức thì xỉa thẳng vào mặt. Có lúc đệ xỉa ngọn thương vào hai bên nách khiến đối phương phải giật ngựa tránh liên hồi… Nhưng đường gươm của đối phương cũng thật uyển chuyển và dũng mãnh. Khi vừa nhằm vào cổ chém xuống, đệ vừa tránh được lập tức lật cánh chém ngược bên mang tai. Đệ càng đánh càng hăng vì lâu lắm không được gặp đối thủ ngang tầm, ngang sức. Quần nhau chừng ngoài năm chục hiệp đối thủ có phần hơi núng, bèn giật ngựa lùi lại và bảo:
- Ngươi là ai mà thương pháp không kém gì Trần Bình Trọng năm xưa?
- Ta là đề hạt ở vùng này! Được lệnh của tri châu đi bắt những kẻ săn trộm như ngươi!
- Không được vô lễ! Đến tri châu của người trông thấy ta ỏ đây, cũng phải quỳ mọp dưới chân con bạch mã này!
- Vậy thì ngươi là ai?
- Là ai thì ngươi sẽ biết sau! Ta chỉ có một yêu cầu thế này: nếu người về làm thuộc hạ cho ta thì rượu ngon, gái đẹp… sơn hào hải vị… Tiền, vàng… sẽ không thiếu thứ gì!
- Về làm thuộc hạ cho ngươi ư? Không bao giờ. Mà ngươi có nằm mơ chuyện đó cũng không xẩy ra… Nhưng sắp tới ta sẽ về kinh, ứng thi làm lính cho Quốc Công Tiết Chế để phá giặc Nguyên Mông.
- Được! Không uống rượu mời thì… phải uống rượu phạt! Bay đâu- Hắn ta chỉ huy bọn lâu la chừng dăm chục đứa - Hãy cùng ta bắt sống thằng này lại! Không bắt được thì giết! Không tha!
Đệ liếc mắt nhìn lên cây dẻ gai ở bìa rừng, trên đó lũ sóc đang chuyền từ cành này sang cành kia, nhằn quả. Thương thay cho chúng nó phải làm vật hy sinh. Đệ bèn lấy cung, lắp một lúc ba mũi tên nhằm về hướng cây dẻ gai. Giây cung nhả ra, ba con sóc đều bị tên xuyên qua đầu rơi xuống. Và ngay lập tức đệ lại lắp ba tên khác, chĩa cung vào ngực quan thầy của bọn chúng quát lớn:
- Đứa nào xông lên! Tính mạng của chủ chúng mày cũng sẽ như các con sóc này!
Tất cả đều thất kinh, im như thóc. Đệ giật ngựa bước lùi mấy bước, rồi rẽ vào đường mòn, phóng mất hút vào rừng… Đến hôm ra thi võ đệ mới rõ người cưỡi ngựa trắng đó chính là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Vị quý tộc ăn chơi khét tiếng ở kinh thành, mà ngay ở chốn “rừng xanh, núi đỏ” cũng nghe danh.
Phạm Ngũ Lão thở dài mà rằng:
- Quý tộc cũng có dăm bẩy loại… Thân phận chúng ta chỉ biết xả thân vì Đại Việt… Sau này yên hàn rồi thì ai về nhà nấy, sống cuộc sống như ngày xưa.
- Anh em nhà các ngươi cứ đa sự mãi! Ăn chả chịu ăn. Uống chả chịu uống. Để mình ta thế này… buồn chết. Nguyễn Khoái cắt ngang câu chuyện của hai người.
Ba người cùng bưng bát rượu lên. Không cụng bát như chúng ta bây giờ. Mà làm động tác như vái nhau rồi đưa bát lên môi.
- Rượu chân sâm cầm thật là tuyệt. Sau này, đại phá xong Nguyên Mông, thi thoảng chúng ta cùng ra đây, nhâm nhi một tối cũng thấy đã lắm! Nguyễn Khoái nói tiếp.
- Nhất định rồi! Đệ sẽ xin mỗi năm mời hiền huynh và đệ ra đây một lần. Ngũ Lão nói.
- Thế thì quá ít. Nguyễn Khoái chê. Phải mỗi tháng một lần. Hoặc ít ra là xuân, hạ, thu đông… mỗi mùa một lần mới đúng chứ!
- Hiền huynh muốn sao, đệ đây cũng xin chiều đủ. Duy chỉ mỗi ngày một lần thì đệ xin chịu. Ngũ Lão đáp cả ba cùng khoái chí cười phá lên.
Rạng sáng. No nhưng không ai say. Cả ba cùng đứng lên. Ngũ Lão gọi chủ quán ra thanh toán tiền. Vị đó ở dưới tầng hầm lật đật chạy lên, xoa xoa tay vào nhau nói:
- Tướng quân Đỗ Hành đã đặt cho quán một trăm đồng rồi! Vẫn còn thừa ba chục. Khi nào ngài ấy qua. Chúng tôi sẽ đưa lại. Còn năm chục tiền đặt tôi xin được trả lại hổ hầu.
- Ờ, cái tay Đỗ Hành này cũng được đấy nhỉ! Nếu không có hắn tối qua, không khéo ta ra đấm chết vài thằng oắt con mất dậy đó.
- Hiền huynh chỉ được cái “khẩu xà” thôi! Đệ đã thấy huynh bạt tai đá đít ai bao giờ đâu. Ngũ Lão nói.
- Ừ, nhưng tối qua ta tiếc quá! Chúng dám bảo chúng ta là gì ấy nhỉ?... À, là lũ muzích… tiếng Nga la tư là đồ nhà quê. Mẹ chúng nó chứ! Không có nhà quê… thì lấy đâu ra kinh thành. Không có dân nhà quê.. à dân muzich bán mặt cho đất, bán lưng cho trời… thì lũ chúng nó cứt cũng chẳng có để mà đổ vào miệng… Lần đầu tiên Phạm Ngũ Lão thấy Nguyễn Khoái xổ ra một tràng, mà lời lẽ cũng sắc sảo ra trò, bèn đùa:
- Đúng là rượu vào lời ra!
- À, mày lại… muốn bênh chúng nó hả?
- Đệ đùa đây! Vui nên muốn trêu huynh một chút! Bây giờ huynh thuê thuyền về thuỷ trại chứ?
- Ừ, còn các đệ?
Hai đệ thuê xe ngựa về phủ Quốc Công Tiết Chế! Đang phải ở rể. Đất của cái chức hổ hầu thì đã dược triều đình cấp rồi. Nhưng chưa có thời gian và tiền bạc để cất dinh thự riêng.
Nguyễn Khoái:
- Huynh cũng được cấp một miếng như đệ nhưng huynh không lấy. Huynh chỉ muốn về quê, có mấy mẫu ruộng, một căn nhà ba gian hai trái. Thích nhất là có cái lò nấu rượu. Còn thanh đao thì treo trên tường. Có giặc đến, triều đình cho gọi là xách đao đi…
- Ôi! Đúng là “bách nhân, bách tính” các cụ nói chẳng có gì sai bao giờ. Nguyễn Chế Nghĩa nói xen vào.
Ba người chia tay.
10
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa gọi một chiếc xe ngựa. Người đánh xe chỉ có một tay. Ngắm bộ dạng một ông nhà quê, một ông “thổ mừ” lại đòi về phủ Quốc Công Tiết Chế thì “bán tín bán nghi” bảo:
- Giá năm hào. Có tiền thì hãy lên xe!
Xe chạy được một đoạn Phạm ngũ Lão hỏi:
- Một tay bị mất ở đâu?
- Ở Tây Kết!
- Đánh trại nào?
- Trại thì cũng là lính Mông Cổ cả. Chúng chiến lại rất hăng.
- Đây cũng đánh ở Tây kết về.
- Trại nào?
- Trại giữa.
- Ô! Trại ấy thì chúng nó còn dữ dằn nữa.
Cách phủ Quốc Công Tiết Chế nửa dặm, Ngũ Lão bảo dừng xe.
Người đánh xe nói:
- Tôi biết ngay là các người nói về phủ Quốc Công Tiết Chế cho sang… Nếu cũng đánh ở Tây Kết thì đây không lấy tiền đâu!
Ngũ Lão móc trong ngực ra tờ bạc năm đồng mới cứng.
- Mới sáng ra đã đưa tiền to thế này, định đánh đố nhau à? Làm gì có đủ tiền mà trả lại. Thôi, khi khác…
- Cứ cầm cả đi! Cùng lính tráng với nhau cả.
- Không! Tôi không dám cầm đâu! Ai lại đi bắt chẹt khách thế này!
- Anh không thấy chúng tôi vừa ở “quán gió” ra à? Người ta đã đưa thì anh cứ cầm cho người ta vui lòng. Chế Nghĩa nói xen vào.
- Thôi cũng được! Lần sau gặp lại. Các anh cứ bảo tôi chở đi khắp kinh thành, tôi cũng không lấy thêm tiền đâu!...
Suốt cả năm 1286 và nửa đầu năm 1287, thám mã liên tục báo về triều đình Đại Việt vô vàn các tin tức khác nhau. Lúc thì năm mươi vạn quân gồm các xứ Lưỡng Quảng cùng Tứ Xuyên cùng với quân Nguyên Mông sẽ đánh xuống. Lúc thì là quân Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên cộng Sơn Đông… Không khí chiến tranh lúc nào cũng căng như dây đàn. Triều đình Đại Việt quyết định thả năm vạn hàng binh Tống về làm nhiều đợt theo từng vùng quê, vì biết rằng nhà Nguyên sẽ không tái sử dụng lại số lính này.
Biết là chiến tranh lần nữa là không tránh khỏi. Vua Trần Nhân Tông cho vời Hưng Đạo Vương vào triều và hỏi:
- Giặc Nguyên Mông lại sang lần nữa thì làm thế nào?
- Lần trước quân ta chưa quen chiến trận, nên lúc đầu có bị bất lợi. Lần này thì dễ hơn trước nhiều. Quân giặc đã thua đau nên tinh thần cũng không còn được như trước. Chí của chúng cũng đã nhụt cả rồi. Còn quân ta, đã qua chiến trận, lương thảo cũng dồi dào hơn. Xin bệ hạ cứ yên tâm.
Vua Trần Nhân Tông thấy Trần Hưng Đạo nói thế liền giao toàn bộ binh quyền cho Người như lần trước.
Năm 1287, đầu mùa đông, tháng 10 quân Nguyên Mông lại tràn sang. Rút kinh nghiệm lần trước, kỳ này Hốt Tất Liệt chủ yếu là dùng quân Mông Cổ. Cụ thể là ba mươi vạn quân chuẩn bị đi đánh Nhật Nhĩ Mãn thì giao cho Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng một loạt các bại tướng lần trước thống lĩnh. Tiêu diệt xong Đại Việt sẽ bổ sung thêm một ít quân nữa, rồi đánh Nhật Nhĩ Mãn sau.
Quân Nguyên Mông vẫn tiến xuống bằng hai hướng. Hơn hai chục vạn do Thoát Hoan và Ô Mã Nhi chỉ huy đi theo đường Lạng Sơn. Còn gần chục vạn do Tích Lệ Cơ Ngọc cầm đầu cùng sáu trăm chiếc thuyền lớn vượt biển thì theo đường vịnh bắc bộ để tiến vào của Bạch Đằng.
Nguyễn Khoái xin cho căng xích, dựng cọc lên để đánh. Hưng Đạo Vương lệnh hãy khoan. Người họp các tướng lại và phân như sau:
- Nhờ Thái sư thượng tướng quân Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải lĩnh quân Thánh Dực hộ giá hai thánh thượng ở Thăng Long. Phụ tá là phó đô tướng Đỗ Hành.
Sai Phạm Ngũ Lão đem năm vạn quân trấn thủ kinh thành.
Sai Nguyễn Chế Nghĩa đem ba vạn quân đóng ở phía tây kinh thành, vùng Đông Ngạc, Cổ Nhuế.
Sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đem năm vạn thuỷ quân, đóng ở sông Cái, sát với kinh thành.
Ba đạo quân này hỗ trợ cho nhau để bảo vệ Thăng Long lần này quyết không cho giặc vào được kinh đô.
Hổ hầu Nguyễn Khoái đem năm vạn thuỷ binh ém tại vùng cửa sông Bạch Đằng chờ lệnh.
Vùng Vân Đồn vẫn giao cho đô tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đảm trách như cũ.
Sai Trần Quốc Uẩn và Trần Quốc Hiện, mỗi người lĩnh năm vạn quân giữ vùng Vạn Kiếp.
Riêng Hưng Đạo Vương dẫn theo mười vạn tinh binh cùng các tướng Trần Quốc Nghiễm, Trần Quốc Tảng, Dã Tượng và Yết Kiêu lên ải Nội Bàng chặn giặc. Nguyễn Chế Nghĩa xin làm tiên phong, rồi sau đó trở về cố thủ phía tây kinh thành sau được Hưng Đạo Vương đồng ý.
Ô Mã Nhi đem theo Lý Hằng, Lý Quán cùng mười vạn quân làm tiên phong, ồ ạt tiến xuống Nội Bàng.
Hưng Đạo Vương cũng dàn mười vạn quân ra đối địch. Lý Hằng cưỡi ngựa ra trước trận, thách tướng Đại Việt ra giao đấu. Nguyễn Chế Nghĩa xin ra. Hưng Đạo Vương đồng ý. Nghĩa đánh với Lý Hằng ngoài năm chục hiệp, thấy Hằng có vẻ hơi núng, Lý Quán vỗ ngựa xông vào trợ chiến. Chế Nghĩa hăng hái địch với hai tướng, càng đánh càng hăng, tỏ ra không thua kém một ly, một lai nào. Quân hai phía hò reo vang trời. Ô Mã Nhi thấy nhiều tiếng hò reo. Sốt ruột phóng ngựa từ trong trại ra. Vẫn con ngựa ô bị Phạm Ngũ Lão bắn rách tai năm xưa. Nó vừa khôn ngoan, vừa nhanh chân theo chân Thoát Hoan chạy thoát được về Trung Quốc lần vừa rồi. Vừa trông thấy Ô Mã Nhi chỉ phong phanh một miếng giáp che ngực, Nguyễn Chế Nghĩa bèn bỏ cả Hằng lẫn Quán, phóng ngựa chạy chếch về bên phải trận quân Trần. Rồi khéo léo và hết sức nhanh nhẹn, lấy cung lắp tên, quay người nhằm tay tả Ô Mã Nhi bắn tới. Ô Mã Nhi bị bất ngờ, nhưng cũng vẫn theo phản xạ, hơi né người về một bên, cánh tay trái không cầm đao đưa ra bắt mũi tên. Song tên của Nguyễn Chế Nghĩa vốn nhỏ và ngắn, nên Ô Mã Nhi bắt trượt. Mũi tên căm vào vai phải, xuyên qua lớp thịt nục nạc vào sát tận xương khiến hắn suýt ngã ngựa. Hưng Đạo Vương thấy thế liền thúc quân đánh tràn sang. Nhưng các đội kỵ binh Mông Cổ đã được tung ra đánh chặn lại. Hai bên kịch chiến được một phần tư canh giờ thì quân Đại Việt không thể địch nổi kỵ binh Mông Cổ quây tròn từ bốn hướng. Nhưng rút kinh nghiệm lần trước Hưng Đạo Vương khua chiêng thu quân từ từ vào trong ải. Bốn tướng Nguyễn Chế Nghĩa, Trần Quốc Nghiễm, Trần Quốc Tảng và Yết Kiêu ở lại đánh chặn. Dã Tượng hộ vệ Hưng Đạo Vương chạy vào quan ải.
- Nguyễn Chế nghĩa lần đầu tiên xuất trận, địch nổi cả Hằng, Quán phải nói là rất tài, thương pháp còn có phần hơn cả Trần Bình Trọng năm xưa. Hưng Đạo Vương khen. Ngoài ra còn lập được công lớn là bắn bị thương Ô Mã Nhi, làm nhụt nhuệ khí quân giặc, đáng được thăng lên đô tướng. Nhưng mà… kỵ của Mông Cổ quả là… vô địch thiên hạ thời nay.
Nói rồi, Người cho rút quân để Nguyễn Chế Nghĩa về trấn tây bắc Thăng Long. Còn mình với các tướng lui về tả ngạn Sông Hồng, mạn Hải Dương, Hưng Yên như lần trước. Mũi tên của Nguyễn Chế Nghĩa không tẩm thuốc độc, không tính mạng Ô Mã Nhi đã lâm nguy. Về trại hắn tự lấy dao găm rạch bả vai rút tên ra, rồi mới sai người băng bó. Hôm sau, hắn ra lệnh tấn công Nội Bàng, nhưng quan ải đã rỗng…
Chim Ưng Và Vịt Chim Ưng Và Vịt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Vịt