Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Chương 2
C
hẳng thể nào là một sự nhầm lẫn hay trùng hợp. Chính cái tên cũng là tên vợ chàng: Marie d’Aubrey. Những đường nét của khuôn mặt đang chìm đắm trong một trạng thái mà người chồng biết rất rõ. Người đàn bà mà bảy mươi năm về trước đã bị án trảm là người thân của vợ chàng, có thể đó là ngoại của nàng nếu ta căn cứ theo năm tháng và cái vẻ giống đến lạ lùng của họ. Người đàn bà này cũng có cái nốt ruồi ở khóe miệng, y hệt như Marie và bà mang chiếc vòng đeo cổ xưa mà Stevens trông thấy hàng trăm lần trên cánh tay của Marie. Cái viễn ảnh được thấy nhà xuất bản đang làm cái việc tung ra một tác phẩm có in hình vợ chàng như là một bà chúa thuốc độc, chẳng thích thú gì. Phải chăng vì chuyện này mà Morley đã yêu cầu gặp chàng vào giờ đầu của ngày thứ hai? Không, hẳn nhiên là không. Nhưng dẫu sao...
Stevens gỡ tấm ảnh ra để quan sát kỹ hơn, và lòng chàng chợt dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Chàng không thể phân tích nó trong lúc này, nhưng tình yêu trọn vẹn và lớn lao mà chàng dành cho Marie đã tạo ra cho chàng cái cảm giác này. Bức ảnh được ghim trên một tấm bìa cứng và thời gian đã làm ố vàng đôi chỗ. Ở mặt sau, có địa chỉ của nhà nhiếp ảnh: Perricher và các con, 12 đường Jean-Goujon, Paris (quận VIII). Ở phía dưới, với dòng mực mà giờ đây đã xỉn màu, ai đó đã ghi: Em Marie rất, rất thân yêu của anh, Louis Dinard, 6 tháng giêng 1858. Là tình nhân hay chồng?
Điều gây bối rối nhiều nhất cho Stevens là vẻ mặt của người đàn bà đó. Bức ảnh không chụp phần dưới chân và hình bà ta nổi lên trên một tấm phông vẽ hình cây cối. Dáng đứng của bà không tự nhiên, như sắp ngã về một bên và bà tì tay lên trên một chiếc bàn tròn nhỏ có phủ một tấm khăn ren. Chiếc áo cao cổ của bà như được may bằng một thứ vải mỏng óng mịn và bà ta hơi ngước đầu về phía sau. Mặc dầu mái tóc vàng sậm đó được chải theo kiểu mà nay không còn hợp thời nữa, người phụ nữ này chính là Marie. Khuôn mặt nàng trực diện với ống kính, nhưng ánh mắt hơi nhìn về xa xăm, đôi mắt sáng với hàng mi dài của nàng có cái vẻ mà Stevens thường gọi là nét hoài cảm. Đôi môi hé mở một nụ cười dịu dàng và, mặc dầu chiếc áo, cái kiểu tóc, chiếc khăn ren và hậu cảnh như tạo nên cho bức ảnh một vẻ phai nhạt, cái ấn tượng mà bức ảnh mang lại thì khác hẳn.
Bối rối, Stevene nhìn xuống hàng chữ "lên đoạn đầu đài vì can tội sát nhân". Trường hợp này thật hiếm hoi.
Stevens muốn tự nhủ rằng đây chỉ là trò đùa của một kẻ kỳ quặc và bức ảnh này là của vợ chàng, nhưng chàng biết không thể nào. Và rồi, dẫu sao đi nữa, nếu đây là bức ảnh của bà ngoại Marie, thì sự trùng hợp ấy, tuy đáng kinh ngạc thật, những không có gì lạ lùng cả. Bà ấy đã bị xử trảm, cứ cho là như thế đi, nhưng rồi sau đó?
Mặc dầu họ đã thành hôn từ ba năm nay, Stevens vẫn chưa biết nhiều về những mối quan hệ của vợ và chàng không hề tỏ ra tò mò về những chuyện đó. Chàng biết nàng xuất thân từ Canada, nơi đó nàng đã sống trong một ngôi nhà cổ xưa, tương tự như ngôi nhà ở Despard Park. Họ đã quen nhau ở Pari và kết hôn trong vòng mười lăm ngày sau đó. Mộng mơ như trong tiểu thuyết, họ đã làm quen với nhau trong khuôn viên của một khách sạn xưa cũ, gần như hoang phế, cạnh phố St Antoine. Stevens chẳng còn nhớ con đường ấy... Xem nào, sở dĩ chàng đến khu phố đó là vì Welden, bạn của chàng, một giáo sư Anh văn và là người rất say mê những vụ án hình sự. Welden đã nói với chàng:
- Mùa hè này anh đến Paris chứ? Vậy thì, nếu anh quan tâm đến những nơi từng xảy ra những cảnh khủng khiếp, anh hãy đến số nhà này của đường nọ.
- Tôi sẽ chứng kiến được gì?
- Ở đây hẳn sẽ có người chỉ dẫn cho anh. Đây là một câu đố, để xem anh giải mã có bén nhạy không?
Stevens chẳng đoán được điều gì và cũng quên khuấy, không hỏi tiếp Welden. Nhưng chàng đã gặp được Marie, người cũng đến dạo chơi nơi chốn đó. Nàng nói hoàn toàn không hề biết cái nơi mà họ đã gặp nhau, mà do nhìn thấy một cánh cổng vòm cung dẫn vào một cái sân xa xưa, nàng tò mò đi vào. Chàng trông thấy nàng lần đầu tiên khi nàng đang ngồi bên mép của một bể nước đã cạn khô, ở giữa cái sân lót đã cỏ mọc. Sân được bao quanh ba phía bởi những hàng lan can và những phù điêu đắp nổi xưa cũ ở trên tường. Mặc dầu dáng dấp của Marie không có vẻ gì là người Pháp, chàng vẫn ngạc nhiên khi nghe nàng ngỏ lời với chàng bằng tiếng Anh.
Tại sao nàng không hề nói gì với chàng? Ngôi nhà này rất có thể là nơi mà Marie d'Aubrey của năm 1858 đã từng sống. Sau đó, có thể gia đình đã di dân sang Canada và Marie, kẻ nối dõi, đã đến đây vì tò mò, tham quan nơi mà bà cố lừng lẫy của mình đã sống. Cho đến cái dạo đó, cuộc sống của nàng hẳn phải ảm đạm, nếu xét qua những lá thư của người anh họ Machin hay dì Chose. Thỉnh thoảng, Marie có kể lại cho chàng về một giai thoại của gia đình nàng, nhưng Stevens chẳng hề quan tâm cho lắm. Trong khi nghĩ ngợi như thế, chàng nhận thấy rằng tánh tình của Marie có những khúc mắc bí ẩn và những cá biệt lạ lùng. Chẳng hạn, tại sao nàng không thể chịu đựng được khi trông thấy một cái phễu?
Stevens có cảm tưởng như bức ảnh của Marie d’Aubrey số một đang nhìn chàng với vẻ giễu cợt. Tại sao không đọc cái chương trên nhỉ? Ông Cross, sau khi đã cho tác phẩm của mình một cái tên rất khuôn sáo, như muốn gỡ gạc điều dở trong những chương sách, nếu ta nhận xét qua một tựa đề mang tên Vụ án của nữ chủ nhân chưa chết, nghe rất chướng tai.
- Asenic, Cross mở đầu bằng lối tấn công đột ngột, đặc trưng cho lối hành văn của ông, được gọi là độc dược của bọn ngu xuẩn và không bao giờ có sự phân loại tương xứng cho nó.
- Đó là ý kiến của ông Henry T.F.Rhodes, tổng biên tập tạp chí The Chemical Practitioner, và được chia sẻ bởi bác sĩ Edmond Lecard, giám đốc phòng thí nghiệm của sở công an thành phố Lyon. Ông Rhodes cho biết tiếp: Asenic không phải là thứ thuốc độc của bọn ngu xuẩn, và thật là sai lầm khi xem tính phổ biến của thứ thuốc độc này như một sự sáng tạo của những tên sát nhân. Thật hiếm khi một kẻ đầu độc lại thiếu trí tưởng tượng hoặc ngu ngốc, trái hẳn là đằng khác. Nếu Asenic vẫn là thứ được sử dụng phổ quát hơn cả, bởi vì nó vẫn là một thứ thuốc độc chắc ăn nhất.
Một mặt, các y sĩ sẽ rất khó khăn khi phát hiện một sự đầu độc bằng Asenic, trừ phi có lý do để tình nghi. Nếu thuốc độc được gia tăng liều lượng một cách khôn khéo, nó gây ra một triệu chứng hoàn toàn y hệt như một chứng đau dạ dày..
Đến đấy, Stevens ngưng đọc. Tâm trí chàng bị xâm chiếm đột ngột bởi hàng loạt những ý nghĩ và những dòng chữ chợt rối bời trước mắt chàng. Không ai có thể làm cho đầu óc chàng khỏi suy nghĩ... Miles Despard đã chết vì chứng bệnh dạ dày, cách đây hai tuần...
- Chào Stevens! có tiếng nói ở phía sau và chàng nhận ra rằng mình đã giật thót người.
Xe lửa chậm lại đến gần Ardmore.
Đứng ở hành lang tàu, giáo sư Welden hẳn phải nhìn chàng với vẻ ngạc nhiên, tuy khuôn mặt của ông với cặp kính và bộ râu, lúc nào trông cũng có vẻ như không hề biểu lộ điều gì. Điều này đã không ngăn ông khỏi nổi bật trong cương vị của ông và biểu lộ vẻ thân ái dẫu bản tánh tự nhiên của ông là dè dặt.
Như thường lệ, ông ăn mặc rất tao nhã và mang theo một chiếc cặp da, tựa như thứ của Stevens.
- Tôi không ngờ anh đi chuyến tàu này! ông nói, ở nhà khỏe cả chứ? Bà Stevens?
- Mời ông ngồi, chàng nói, nhẹ nhõm vì đã giấu được bức ảnh.
Vì Welden xuống tàu ở trạm kế tiếp nên ông ta chọn lối tì người vào thành ghế, trong khi Stevens nói tiếp:
- Vâng, tốt lắm, xin cám ơn ông. Gia đình ông cũng bình thường chứ?
- Vẫn thường thôi. Cháu gái của tôi hơi cảm cúm, mùa này thì vẫn thế!
Trong khi họ trao đổi với nhau những chuyện thông thường, Stevens không ngớt tự hỏi phản ứng của Welden sẽ ra sao nếu ông ta bắt gặp bức ảnh của vợ chàng ở trong tập bản thảo của Cross. Chàng hỏi đột ngột:
- Là người rất ham chuộng những vụ án hình sự nổi tiếng, hẳn ông có nghe nhắc đến một người phụ nữ chuyên đầu độc tên Marie d’Aubrey?
- Marie d'Aubrey? Marie d'Aubrey? Welden nhắc lại cái tên và rút điếu xì gà đang hút khỏi miệng. À! tôi nhớ rồi. Đó là nhũ danh của bà... Bây giờ, nghe anh nói tôi mới nhớ là đã quên không hỏi anh...
- Bà ấy bị xử trảm vào năm 1861.
Welden im bặt, chưng hửng thấy rõ.
- Như thế, chẳng phải là chúng ta đang đề cập đến cùng một người à... Vào năm 1861? Anh có chắc không?
- Ồ! tôi vừa đọc được trong một tác phẩm mới của Gaudan Croas. Hẳn ông còn nhớ, cách đây haỉ năm đã xảy ra một cuộc tranh luận về điều mà Cross nêu ra trong sách là bịa đặt hay không. Tôi tự hỏi nếu...
- Nếu Cross đã quả quyết thì là đúng đấy, Welden nói khi nhìn ra ngoài cửa trong lúc con tàu đang lao nhanh trở lại, nhưng đối với tôi thì điều này quá mới mẻ. Người phụ nữ tên Marie d’Aubrey mà chúng ta nhắc đến đã được biết nhiều hơn dưới cái tên của chồng bà. Người ta có thể nói, đây là một khuôn mặt siêu hạng của những bà chúa thuốc độc. Bộ anh không nhớ rằng tôi đã chỉ anh đi xem ngôi nhà của bà ấy ở Paris sao?
Đúng bà ấy đã trở thành bà hầu tước de Brinvilliers lừng lẫy và là một điển hình đáng kinh ngạc nhất về người phụ nữ quí phái, quyến rũ và phạm pháp. Anh nên đọc bài tường thuật về vụ án thật kỳ dị của bà! Vào thời đại của bà, người Pháp gần như đồng nghĩa với người-đầu-độc. Những trường hợp đầu độc đã được nhân rộng đến độ người ta phải thành lập một tòa án đặc biệt để xử bọn chúng... Nữ hầu tước de Brinvilliers đã xuống tay với những con bệnh ở Hotel-Dien. Tôi nghĩ bà ta đã sử dụng asenic. Lời khai của bà ta, đọc lên trong vụ án, là một tài liệu hiếm có về chứng thác loạn tâm thần dành cho những bác sĩ phân tâm hiện đại. Ngoài ra, nó còn chứa đựng những công bố thuộc phạm vi tình dục khá hấp dẫn. Hẳn anh đã biết rồi đấy!
- Vâng, Stevens đáp, hình như tôi có biết đôi chút về vấn đề này. Bà ấy chết vào năm nào nhỉ?
- Bà ta bị hành hình và thiêu vào năm 1676, Welden nói khi đứng dậy và phủi tàn thuốc xì gà rơi trên bộ đồ của ông. Thôi, tôi xuống đây. Nếu rảnh rỗi trong những ngày nghỉ cuối tuần, anh hãy gọi điện cho tôi. À, vợ tôi nhắn rằng bà đã tìm được bí quyết làm thứ bánh ngọt mà nhà anh muốn biết. Chào nhé, ông bạn.
Chỉ còn hai phút nữa là đến Cripen, Stevens xếp tập bản thảo vào tấm bìa và cất vào cặp. Sự rối rắm với bà hầu tước de Brinvilliers chỉ làm rắc rối thêm mà chẳng liên hệ gì tới vấn đề... Stevens vẫn suy đi nghĩ lại cái câu: Nếu thuốc độc được khôn khéo gia tăng liều lượng, nó gây ra những triệu chứng y hệt như căn bệnh dạ dày...
- Cris-pen! có tiếng người gào lên khi chuyến tàu dừng lại.
Khi Stevens đặt chân xuống thềm ga, không khí mát lạnh của ban đêm xua đi những ám ảnh đang bao phủ đầu óc chàng. Chàng bước xuống những bực thềm bằng xi-măng và đi về phía một con đường nhỏ. Nơi này tối om vì cửa hàng bán thuốc vẫn còn khá xa, nhưng Stevens đã trông thấy những ánh đèn xe và cái bóng thân quen của chiếc xe hơi của chàng.
Marie, ngồi ở bên trong, mở cửa xe. Nàng mặc một chiếc áo dài tay trên chiếc váy màu nâu sẫm, khoác ngang vai một chiếc áo măng tô màu nhạt. Hình ảnh của nàng làm vỡ tan vẻ tinh quái gây ra bởi bức ảnh, nhưng vì chàng nhìn nàng đăm đăm, nàng ngạc nhiên nói:
- Ủa, anh đang mơ hay sao mà sững sờ thế?
Rồi nàng bật cười:
- Em chắc anh đã uống rượu rồi, trong khi em, thèm muốn chết một ly cốc tai nhưng vẫn chờ anh để chúng ta cùng say với nhau!
- Anh không hề say sưa, chàng nói với vẻ nghiêm trang. Anh đang suy nghĩ vài điều...
Chàng nhìn qua người vợ, để tìm hiểu cái thứ ánh sáng lờ mờ đang óng lên trên mái tóc của nàng. Chàng trông thấy những chiếc máng bằng đá cẩm thạch và những bức màn nhung đen. Ánh sáng hắt ra từ cửa tiệm và in bóng một người đàn ông đang đứng bất động, có vẻ như đang nhìn về phía con đường.
Trời! Stevens buột miệng. Giờ mới thấy J. Atkinson!
- Em không nghĩ rằng anh say rượu, Marie nói, nhưng nếu chậm trễ, anh sẽ làm buồn lòng Ellen. Chị ấy đã chuẩn bị cho chúng ta một buổi cơm tối với những bí quyết...
Vừa nói nàng vừa nhìn qua bờ vai của chàng và thấy chiếc bóng bất động ở sau khung cửa kính.
- Atkinson? Ông ta đang làm gì thế?
- Chẳng có gì lạ, nhưng đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy có người ở trong cái tiệm này. Trông ông ta có vẻ như đang chờ ai.
o O o
Với vẻ thoải mái thường lệ, Marie cho xe rẽ vào con đường khác và lao nhanh về đại lộ King. Stevens có cảm tưởng như ai đó đang gọi tên mình, dẫu sao, Marie đã nhấn ga và tiếng máy xe không cho phép chàng quả quyết như thế. Chàng quay lại nhìn nhưng vì thấy con đường vắng tanh nên chàng không nói gì với vợ. Thật là một niềm an ủi cho chàng khi lại được ngồi cạnh Marie, thật bình thường, thật vui tươi, và chàng phải tự nhủ, có thể nào vì mệt mỏi mà chàng có những ảo giác như thế.
- Nè anh? - nàng nói, sự dịu dàng trong không khí xung quanh anh là có thật - Gần gốc đại thụ cạnh hàng rào, có biết bao là hoa nghệ tây và trưa nay, em còn thấy cả những khóm hồng dại. Ồ! thật tuyệt vời!
Nàng thở mạnh, ngửng đầu ra sau.
- Anh mệt à? nàng hỏi.
- Không.
- Thật chứ?
- Đúng, anh nói em rồi!
- Ted, anh yêu, anh đừng có nói như thế! nàng nói, vẻ hơi cụt hứng. Em hiểu rồi, anh cần có một ly cốc tai thật ngon. Ted... tối nay chúng ta không đi chơi chứ?
- Anh hy vọng rằng không. Tại sao?
Marie nhìn thẳng về phía trước, hơi nhíu đôi lông mày
- Chiều này, Mark Despard đã nhiều lần gọi điện thoại kiếm anh. Anh ấy muốn gặp anh. Anh bảo rằng rất cần gặp nhưng không hề giải thích gì thêm rồi gác máy. Em nghĩ chắc là chuyện liên hệ đến ông bác Miles. Anh ấy có vẻ kỳ cục. Ở đầu dây...
Nàng nhìn chàng với một vẻ mà chàng rất quen thuộc. Khuôn mặt của nàng như được thắp sáng bởi một ngọn lửa sâu kín và mang một vẻ đẹp thật toàn hảo.
- Anh không đi chứ Ted, phải thế không?