Books - the best antidote against the marsh-gas of boredom and vacuity.

George Steiner

 
 
 
 
 
Tác giả: Kim Nhật
Thể loại: Tùy Bút
Upload bìa: nguyễn quang
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:42:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
9 Bên Trời Đồng Nai Thưng
ỗi vui vẻ «thân tình» của một đêm muộn nói chuyện miền Nam, hả hê chuyện miền Bắc xã hội chủ nghĩa vẫn không ảnh hưởng chút nào đến cái định kiến ​​của Ban Chỉ huy B2 về tôi.
Chiều hôm sau, sau khi tắm rửa ăn cơm xong, tất cả về văn phòng. Ba Biếu, Tám Chi uống hít nhiều nước trà đoạn bỏ đi mất. Bảy Cảnh khệnh kclass, khề khà nhấp nháp từng chung trà nóng bốc khói, chấp tay sau hậu môn, đi đi, lại xung quanh bàn. Còn tôi, leo lên tầng nhìn Bảy Cảnh đi xung quanh.
Có đến hai phút phút nhạt nhẽo, im lặng như vậy trôi qua, bảy cảnh báo mới ngồi vào bàn thuốc rê lửa hút và gọi tôi:
- Anh Hùng nè! Lại đây ngồi uống nước chơi!
Tôi uể oải ngồi dậy, trượt xuống đất đi lại bàn. Bảy Cảnh vừa thút đưa về phía tôi, vừa hỏi:
- hôm nay anh khá rồi chớ? Làm việc nổi bật?
Tôi hiểu. Và tôi đang cười:
- Tôi đang mong được làm việc, anh Bảy!
- Tốt lắm! Hôm nay rồi, anh Ba chắc cũng đã trao đổi ý kiến ​​với anh về quyết định của Cục Chính Trị Rờ (R) chớ?
Tôi muốn được nghe chính cửa miệng Bảy Cảnh lần nữa, dù Ba Biếu đã nói cho tôi nghe rồi. Cái kiểu nói của Ba Biếu nó ngọt ngào quá, không sỗ sàng, sắc cạnh, «đốp chát» như Bảy Cảnh. Hiện tại, ở đây, tôi thích được nghe giọng nói đầy sâu sắc, «đốp chát» của Bảy Cảnh vì tôi hiểu đó là những lời nói thật. Không màu mè, thủ thuật chính trị.
Tôi trả lời:
- Sao anh? Xin anh cho tôi biết.
- Ý kiến ​​trúc đó là sẽ nghiên cứu và quyết định về cấp độ xả, chức năng cũng như sắp xếp công việc thích hợp cho anh. Bởi vì nhập vào bộ đội nên công việc mới dễ dàng được xác định rõ ràng.
- Anh nói đúng.
- Nhưng trường hợp anh thì khó đó. Vì anh ấy là cán bộ 9 năm. Coi anh như tân binh, ngang hàng với chiến sĩ, cái đó không tiện, thiệt hại cho anh. Ai có thể quản lý bất kỳ cấp độ nào, bất kỳ kích thước nào phù hợp với tình huống. Ví dụ như cán bộ a, cán bộ b, cán bộ c. Việc đó còn tùy thuộc vào thẩm định lịch sử, xác định của cấp địa phương, cộng với nhận xét về tư tưởng, lập trường, công tác của anh. Nghĩa là còn phải mất nhiều thời gian, không thể một ngày một buổi xong được. Anh hiểu chưa?
- Tôi hiểu.
- Nhưng tôi cũng cần đả thông tư tưởng anh mấy điều này. Thứ nhất, cuộc cách mạng hiện nay là cuộc cách mạng vô sản, do Đảng Lãnh đạo. Quân đội là cánh tay phải của Đảng, bảo vệ Đảng cũng như thực hiện đường chính sách của Đảng. Quân đội quan trọng như vậy cho nên Đảng phải nắm, lãnh đạo tuyệt đối. Quân đội không có một chính sách đặc biệt nào, một chế độ đặc biệt nào khác như bên Giải pháp Mặt trận phóng to. Ở đây, chỉ có mỗi chế độ độc nhất, Đảng không chấp nhận một tư tưởng nào khác ngoài tư tưởng vô sản, vô sản chuyên chính. Nó tĩnh nhất, bắt buộc phải tĩnh nhất, có như vậy mới là sức mạnh vô địch. Anh đồng ý chớ?.
Tôi hiểu rồi, tôi đồng ý tự động lâu rồi. Nó thuộc về nguyên tắc. Ít ra tôi cũng đã hiểu từ 9 năm kháng chiến trước đây.
Uống thêm một nước trà, mặt Bảy Cảnh nhăn lại.
- Thứ hai là cái này.. cái này... thuộc nguyên tắc tổ chức. Quân đội Đảng, bất kỳ ai mới vào cũng phải kinh qua một thử thách. Thử thách đánh giá ý tưởng giá trị, đánh giá sản phẩm có giá trị theo cách thức mới của chiến sĩ để dựa vào đó quyết định tương lai giá trị chính cho mỗi người. Đảng không chấp nhận tư tưởng công thần chủ nghĩa. Kháng chiến 9 năm, kháng chiến 10 năm hay kháng chiến 30 năm mà đã tồn tại, không có sự liên tục, như trường hợp anh, kháng chiến 9 năm.. nhưng 1954 anh bỏ về thành không sinh hoạt liên tục, không nhận được một công tác nào, tức anh đã xa cách mạng. Quá trình không liên tục, Party không thể kiểm soát được. Cũng không.. ai sơn bảo đảm trong thời gian đó mình hoàn toàn sạch sẽ với Đảng, cho nên những thành tích cũ, dù công lao có đến thế nào đi nữa, nó... nó... nó cũng không phải hiện tại, là bây giờ. Nên không đặt vào đó kể công, mà đòi hỏi, bất mãn này nọ. Tôi nói như vậy không phải là tôi bảo anh có tư tưởng đó, tôi chỉ lập lại một nguyên tắc chung. Tôi tin là anh không buồn, không cho là tôi đề cập đến riêng anh. Anh đồng ý chớ? Anh thông cảm chớ?
- Tôi hoàn toàn thông tin. Xin anh cứ yên tâm.
- Thứ ba là, trên phương diện tư tưởng, anh cứ xem như bây giờ, ta mới bắt đầu cho cách mạng. Đảng sẽ hỗ trợ, dang tay ra dìu bước. Anh sẽ tiến bộ, anh sẽ được hưởng mọi quyền lợi, đặc ân mà Đảng dành cho. hôm nay, tôi nhân danh Đảng ủy U.50, nói cho anh biết những điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng xác nhận với anh, trường hợp mẫu của anh cũng là một trường hợp đặc biệt, ngoại lệ. Chúng tôi sẽ cố gắng giúp đỡ anh trong việc nhận xét gửi về Cục Chính Trị để Cục Chính trị quyết định sớm hơn. Có như vậy anh mới làm việc dễ dàng, thuận lợi, danh chính ngôn thuận, phát huy được sáng kiến ​​và khả năng của anh. Cái gì đó lính không ra lính, quan không ra quan, kể cũng khó khăn cho anh lắm. Chúng tôi thông cảm và ghi nhận điều đó. Anh đồng ý chớ?
- Vâng!
- Vì vậy, trong khi chờ quyết định của Cục Chính Trị R, chúng tôi nghĩ công tác nào cũng là công tác cách mạng. Nhiệm vụ nào cũng là nhiệm vụ của Đảng giao cho... Kể từ ngày mnai, anh sẽ được U.50 ký quyết định giải quyết chuyển về công tác ở B195. Ở đó rất vui, có nhiều phương tiện bồi dưỡng cơ thể để có được sức chịu đựng với cơn sốt vào thời điểm đầu, chưa quen với hậu khí của anh.
Tôi không thể hỏi:
- Mà B195 làm nhiệm vụ gì vậy anh?
- PHÁT RỘNG, sản phẩm tự túc!
Tôi chớp mắt, uống nhanh chung nước trà và cố gắng cưỡi ngựa cho được tự nhiên...
° ° °
Như mọi bữa trưa, sáng nay tôi dậy sớm, thu lên đồ quần quần cho vào bồng bềnh. Tối qua, Bảy Cảnh cho biết sáng nay, sau khi ăn sáng, một cảnh bảo vệ B2 sẽ dẫn đường đưa tôi đến B195. B195 là trung đội, nhưng hiện tại quân số của B195 chỉ có 18 người: 4 nam; 14 nữ.
Nghe Bảy Cảnh báo, tôi hơi ngạc nhiên về đơn vị đó. 18 người mà chỉ có 4 nam thì mần ăn ra làm sao? Phá rừng cho cây, cây nào cây ai hàng ba người ôm, phải tìm bằng rựa, liệu cái đơn vị đó mấy năm mới tăng xong một mẫu Rác? Mà lạ, đàn bà con gái sao không cho họ làm công việc nhẹ nhàng phù hợp với sức khỏe khỏe và quán tính tình cảm công việc của họ? Quân y, quân trang, thu mua, quản lý, giữ kho vv.. thiếu công việc kia!
Tôi muốn hỏi nhưng đi hỏi Bảy Cảnh báo thì im lặng sung sướng hơn. Sao tôi không biết cách nào. Không hiểu thành phần thuộc tính gì nhỉ? Gia đình, nghề, học hành và ra làm sao mà đã tạo ra nên một người mẫu lúc nào cũng muốn gây khó chịu, đánh lộn với người khác.
Tôi xách ca, kềm và bình tấn xuống nhà ăn. Chủ thau khoai tây trắng nõn, ngao ngán nằm im trên bàn. Công thức sớm mai khoai mì, chiều thỏa thích, chiều khoái khoái là công thức cổ điển từ ngày tôi đến đây. Thịt nai, thịt giộc cũng đã hết hôm nay chiều qua. Thay vào đó là mắm ruốc xào đậu. Cái không khí sống đã làm cho tôi thấy mùi thơm, muốn chạy trốn nó, muốn rời xa nó. Hôm nay, cái hôm nay tôi lên đường đi ra khỏi B2, được đưa ra bằng món ruốc xào đậu đủ ăn với khoai mì sống càng nhanh càng làm cho tôi hái lên đường hơn nữa. Dẫu B195 có thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ được yên thân, thoải mái hơn ở đây.
Tôi đâu phải mẫu người chính trị, sống trong Bản Chính Trị làm sao nổi. Chưa về được Sàigòn, đi khỏi Ban Chính Trị ít ra cũng là một điều may.
Tôi ngồi vào bàn ăn với sự bình yên thảnh thơi mỗi ngày. Tôi không ngờ mình có thể bình tĩnh được như vậy. Gần như từ cái lúc tôi chọn thái độ dứt khoát, quay mặt lại, thì tất cả gần như vô nghĩa. Có lẽ trạng thái bình yên quá độ của tôi cũng gây ra một sự ngạc nhiên nào đó, nên Ba Biếu đã hỏi tôi trong bữa ăn:
- Anh Bảy đã nói chuyện về công tác với anh chưa, anh Hùng?
- Có! Có rồi anh! Anh Bảy nói khi hôm nay.
- Anh...Anh... có thấy khó khăn trở ngại gì không?
- Không!
- Anh vui,... chớ?
- Vui quá!
- Thật chớ?
- Cái đó! Sao lại không có thật hả anh Ba?
Và tôi cười, vui vẻ như thật. Ba Biếu cũng cười, nhưng cái cười nó «lạc điệu» làm sao! Nhìn vào miệng, đôi mắt đó tôi đọc thấy.... «Ơ, cái thằng này nó nói thiệt hay chơi cà? Tìm hiểu nó không nổi! Ai đời đi khám phá rừng làm Rung lao động béo thắng, trong khi nó chỉ quen chơi, quen sung sướng thì lạ thiệt. Lạ lắm! Rõ ràng mặt phẳng nó vui thật, không có một chút gì là tâm công tác. Chả lẽ không giác ngộ cách mạng cao rồi sao?»
Bất ngờ Ba Biếu hạ một câu:
- Tôi khen anh, tôi phục anh, anh Hùng!
Tôi trả lời, không nói.
Ăn xong, tôi lấy theo hai khoai mì một chút ruốc xào. Ba Biếu đưa ra giới hạn:
- Thôi đi anh! Đừng mang ruốc theo! Để tôi biếu anh một ít đường thẻ, mang theo đường ăn khoai mì uống trà, dễ chịu lắm. Tôi biếu anh một gói trà Con Cọp số 1 nữa.
Tôi hiểu lần này mới chính là lần đầu Ba Biếu thật tình, không đóng kịch, biếu tôi đường, trà vì cảm cảm, vì chân thành. Trà, đường vốn những con thú quý giữa rừng Đông Bắc, khu A.
Về văn phòng, cậu cảnh vệ đưa tôi đi đã chuẩn bị sẵn sàng, súng lên vai, bồng bềnh đã sẵn sàng chờ đợi ở bậc thềm. Ba Biếu hấp hối đi lấy đường và gói trà lại trong một bọc vải cao su, đoạn tự động mở ra của tôi ra, bỏ vào cột lại. Đồng thời, Ba Biếu cũng đưa cho tôi một máy đánh bóng giấy mảnh mảnh quyết định chuyển sang Hải Cà ký tên. Hải Cà là thủ trưởng U.50, cũng là bí thư Đảng ủy khu A.
Quyết định chỉ định bằng cách sử dụng phân nửa tờ giấy thông thường, không tham khảo điều này, điều chỉnh, không lý do thư viện để thôi thúc. Tắt dần. Quyết định cũng không đóng mod, đóng dấu.
Ba Biếu nuôi dưỡng thân mật của tôi:
- Dù sao, đây cũng chỉ là tạm thời. Một thử nghiệm thử nghiệm mức độ trung thực của anh ấy. Với anh, nó là thừa nhưng nguyên tắc là vậy. Chúc mừng anh bình an. Tôi sẽ hết sức theo dõi, giúp đỡ anh.
Tôi bước ra sân. Tôi quay đầu lại nhẹ nhàng rồi rảo bước theo bạn cảnh bảo vệ. Cậu ta tên Du. Tôi hỏi:
- Bạn à! Từ đây đến B195 xa lắm không Du?
- Xa, anh! Sớm thì đi ba giờ chiều tới. Trễ thì tối mò cũng chưa được biết đến.
- Chà!
- Anh coi, từ 195 ra đến bờ sông Đồng Nai có hai tiếng đồng hồ.
- Ủa! Nói vậy mình đi ngược lên ngọn sông Đồng Nai Thượng. Trên đường đi ra Bắc?
- Từ Bắc vào Nam chớ, anh! - Du cãi lại- Ra Khu 6 cũng di đường đó!
- Biết rõ bất kỳ lần nào mới có thể giảm xuống bằng cách sử dụng?
Bạn không hiểu tôi muốn nói gì, nên trả lời theo ý nghĩ của bạn ta:
- Đi hoài đừng gì anh! Đi tải Bình, tải thực phẩm về ăn. Tháng nào không đi lại? Bây giờ không mua được gạo, chớ khi mua được bình rồi, chuyện gì chớ chuyện đi tải là cơm bữa đó! Anh coi, đường đi tải thì xa, dọc đường ăn tăng dần về phía đơn vị hết gần phân nửa rồi. Loay hoay mấy ngày lại phải lo đi tải nữa.
Hướng dẫn tôi trôi qua, đi dần ra đường thống nhất, ngược về hướng Bắc..
Từ khu vực sông Mã Đà, tôi theo anh cảnh bảo vệ B2 đi ngược lên đồi Trà Bé, Suối Đá, đồi Bù Cháp của Đồng Nai Thượng.
Buổi sáng, sương dày như khói phủ. Tôi và Du vừa đi vừa nói chuyện về những giống chim lạ của rừng. Du có vẻ tuyết quá, biết nhiều quá, nói không ngừng. Còn tôi đúng là một anh «nhà quê', dù tôi đã sống ở nơi được coi là văn minh nhất: Thủ đô Sàigòn, chỉ biết hỏi và nghe.
Nhân lúc vượt qua cơn nghiện ở bếp B2, tôi nghe xa xa về phía ngọn nến có tiếng gõ mõm «cốc, cocktail» rất đều, rất trong. Tôi buột miệng nói với Du:
- Chà, ai làm gì như gõ mõ...
Bạn quay đầu nhìn tôi, cười hóm hỉnh:
- Đâu có ai anh! Con chim thầy chùa mà! Nó kêu giống như tiếng gõ mõ nên người ta mới đặt tên cho nó là chim thầy chùa.
- Cậu có tìm thấy con chim đó không?
- Sao không? Nó đèn ngủ, đuôi dài. Đầu lại có mồng như mồng gà trống. Con nhỏ bằng cườm tay nên bắt đầu lan rộng khắp thế giới. Ở xa mấy trăm thước, nó kêu mình nghe như kế hoạch. Thường thì nó chỉ kêu ban ngày, nhưng có khi ban đêm cũng gõ mõ liên tục, không chịu ngủ. Còn lại con chim chuông nữa. Anh có nghe nó kêu bao giờ chưa?
- Có, tôi có nghe nó kêu rồi. Đường như nó chỉ kêu ban đêm.
- Nói nó kêu ban đêm không thì sai. Nó thường kêu vào lúc trời cạch vạng tối và lúc phừng đông. Hồi cái lúc tôi mới đến khu A, đêm đầu tiên ngủ ở bờ sông Mã Đà, nghe nó kêu tôi tưởng đâu ở gần đấy có cái chùa nào, nên họ đánh chuông. Anh nghĩ coi, nó phản hồi giống như đánh đại đồng chung. Lúc này chậm lại rồi nhanh như chuông khôi phục. Tiếng nó trong, rền rền như tiếng chuông, lần đầu mà nghe, ai không kết nối.
- Ở rừng, nhiều giống chim lạ thiệt.
- Cô con chim đó chưa có gì là lạ đâu. Có nhiều con nó kêu còn lạ nữa kia, giống y như người nói vậy. Con chim thứ yếu «Bóp em đập», thứ này chỉ sống về ban đêm. Nó kêu sáng trong đêm, không nghỉ chút nào. Anh coi, hồi đầu hôm nay, anh nghe ở góc này như có người nói tiếng «Bóp, Bóp, Bóp em Bóp» thì ở góc kia, cách xa chừng ba trăm thước có tiếng trả lời: « Thôi, thôi, thôi chị thôi». Trăm lần không sai một, Niềm vui này «bóp em sức mạnh» thì cũng kia, «thôi chị thôi». Đó là hai con chim, một con trống một con mái. Hồi đầu hôm nay ở xa nhau, kêu sáng đêm, càng gần về sáng thì nó cùng xích lại gần. Đến chừng anh nghe hai con kêu gom lại một chỗ, sáng rồi đó.
Theo đồng bào Thượng ở buôn Lý Lịch, họ nói thì tích hai con chim đó là do người ta đầu thai. Con chim «bóp em lực» là chim trống. « Thôi chị thôi» là con chim mái. Hồi xưa, gia đình có hai anh em. Người anh cưới được cô vợ đẹp lắm. Chính vì cái đẹp đó làm hôm nay mờ mắt người em nên một người anh đi vắng, người em động lòng không đuổi nên ôm đại chị mà đá. Đúng lúc đó, người anh về nhà bắt gặp. cô vợ xấu hổ, không minh oan được với chồng chạy ra rừng hoàng cổ chết. Người em cũng có hận thù, xấu hổ với anh vẫn tự chết theo.
Trời thấy vậy, phạt hai người cho đầu thái làm hai con chim. Hễ đêm đến, gia đơn vật đủ mặt, Yên nghỉ thì hai con chim đó có hoàng tử kêu lên cho mọi người biết hành động xấu xa của mình lúc còn sống để trả lời người đời.
Du cười. Tôi cũng cười và làm ngáy về cái tích của đồng bào Tlượng đặt ra.
Du nói tiếp:
- Chưa đâu! Nếu chiều nay mình may mắn thì leo đồi Tam Cấp, hay đồi Trà Bé sẽ gặp con chim «chính trị viên» nó kêu cho anh nghẹ.
Tôi hỏi lại:
- Chim chính là gì?
- Công việc này đặt tên! Tại nó nói chính trị, nó làm công tác viên chính trị y như mấy ông quản trị viên nên gọi nó là chim chính trị.
- Nó nói chính trị như thế nào?
- Anh coi, leo đồi, thứ nhứt là đồi Tam Cấp, mang nặng mùi hôi ra hơi, mồ hôi ra như tắm, tàn rướn lên từng bước thì con chim đó, nó đậu ở trên cây nhìn xuống, ném đầu hẻm gặc lia liạ. Vừa nhẹ nhàng vừa nói y như tiếng người ta nói: «Khó khó giải quyết! Giải quyết vấn đề khó khăn”. Nó làm như sợ mình thối chí, sợ mình khó khăn, vượt khổ, không biết giải quyết khó khăn. Mình mệt mỏi thấy mẹ mà nó làm như cha mình, chịu nổi hông?
Vui chuyện trên đường, tôi quên đi những phiền muộn, thưa thớt. Chỉ non hai tháng trời, kể từ ngày rời Sàigòn, biết bao nhiêu biến chuyển đã táo bạo đến không ngừng.
Bây giờ tôi không còn là quân số của B2 mà là của B195 một đơn vị lạ hoắc, một B chuyên phá rừng trồng Tràng, sản xuất khoai mì, bắp và lúa mạch dùng làm thực phẩm dự trữ chiến lược sau này.
Đang đi, tôi chợt nghe có người nói chuyện ở phía rừng phía trước, bên phải. Có thể có một đường mòn mòn trong bất kỳ vị trí nào. Đi lần tới, đúng là con đường mòn và có ba người, 2 nam, 1 nữ cũng vừa ra đến.
Du bất ngờ reo lên:
- Ủa, Từ! Dịch vụ được đi đâu mà bây giờ lang thang ở đây sớm vậy?
Cậu thanh niên đi đầu khưỡng, hướng nhìn lên:
- Ờ!Du! Tao với hai vị trí này ở văn phòng U.50 trở về B5 đây! Too network!
- Gì mà quá mạng?
- Bị bắt! Từ chiều hôm qua tới giờ cảm thấy đói, cho gió thở, thức sáng đêm nay ở tại cảnh vệ B1.
Du và tôi dừng lại, đứng đối diện với ba anh em chiến sĩ của B5. B5 tức Bản Quân Y, B1 là Bản Tham Mưu. Du xốc lại cây súng, ngạc nhiên:
- Sao vậy? Khó quá hạn?
Cô gái đội nón vải xanh, mập thù lù đứng cạnh lưỡi nói hớt:
- Đó là điều hiển nhiên! Anh Từ nói tổn thương khu ổ chơi đâu!
- Ai bắt được? Làm gì để cả ba người cùng bị bắt?
- Ăn trộm mì! Mì ở Trảng 15 mẫu, ông Hải Cà ổng bắt chớ còn ai!
Từ giải thích thêm:
- Số là mấy ngày nay đám lan cấp cho B5, đào hết trơn mi rồi. Mót đi mót lại còn cái rễ con. Xin rải Trảng khác, anh Ba Vinh B1 bảo chờ ông Hải đi công tác ở C101 về đã! Mầy còi, đói khát ra chờ ổng về, biết nhẹ nhàng nào? Đi đào của ảnh chụp, vùng này kiếm đỏ con mắt cũng không ra. Túng quá, chiêu tao a thần phù nhảy dù vô Sát mười lăm kiểu đào trộm.
- Hề chi! - Du nói- Nghe nói Mười lăm mẫu thuộc thành phần dự trữ chiến lược, đã phổ biến lịnh đào trộm rồi. Ông Hải Cà hỏi hả?
- Ừ! tại bà này nè!
Cô gái xì một tiếng:
- Xì! Đổ thừa cho người ta hoài! Tại anh chớ lại tôi hả! Tại anh nói chuyện om sòm. Đi ăn trộm phải im lặng, kínkhó đâu lại la lối om sòm, còn có gì kêu người ta tới bắt.
- Nữa! Cối! Tại chị chớ tại tôi! Làm được ba bao bố đầy nhóc, phải lên lưng cõng về thì nhẹ nhàng rồi. Đằng này chịch về, bảo ngồi nghỉ một lát. Bị nghỉ một lát nên đút đầu ra tới đường mòn thì gặp ông Hải Cà với hai vị trí không bảo vệ ngồi tràn, chờ sẵn ở đám mây rau bên kia đường.
- Hừ! Anh nói như vậy mà nghe được! Nhục thì nghỉ. Nếu anh không kể chuyện Tây du, Tôn Hành Giã đi ăn trộm đào, om sòm như cái ống loa thì còn muộn ông Hải Cà mới biết, rồi ngồi chờ mình ra để bắt đầu. Ở giữa đám mây, nhưng muộn màng mới biết.
Du cười:
- Căng! Căng ha! Host chưa có thủ lĩnh A chạy phía sau trời. Thế nào mực pa-ke cũng chạy tùm lum trên lý lịch cho mà coi. Câu hỏi và làm sao?
- Cung cấp mặt hàng xanh này hãy bắt đầu đừng làm sao! Nhưng ổng hét lên: «Ê! Chạy ở đâu? Reback, hai comment lại! Hiện tại đã chạy bắn súng xong»! Còn nay máu xanh mặt đã tàn chết trân, có phong độ cựa, nhúc nhích gì! Cánh bom tới hỏi: «Ăn trộm cái gì đó? Bỏ xuống để mở coi!»
- Cha cái chi vị lúc đó tốt! Rồi hướng dẫn về văn phòng hả?
- Chớ còn gì nữa! Dẫn tới văn phòng, bỏ ngồi chong chóng ngoài hè, không nói gì tới. Đồng đi ăn cơm. Trong khi món này không có cháo khoai mì mà ăn, đói nhăn răng ra, thấy ổng ăn cơm với cá trê nấu lá nan lát nhung.
- Thôi đi cha non! Cho xin đi cha! Cha nói cái kiểu đó, đi kho giữ muối đa! Cha mà đi phân bì vớiBữa tiệc. Bên có chính sách chính sách, các giải pháp khác nhau. Bộ cá mè một sao?
Từ tiếp tục, cột:
- Phân bì cái mẹ gì! Bạn hỏi, tao thấy sao nói vậy chớ phân bì gì! Ăn xong ổng ra lên lớp tôi nửa tiếng đồng hồ, nào là vô tổ chức, vô kỷ luật, không thúc đẩy hành động để chỉ thị của Đảng đề ra, làm phấn truyền thống giải phóng quân đội... Toàn là tội giết chết không hè! Nói thiệt, lúc đó tao cũng chạy thiệt. Nhưng tao dầu nghĩ gì, mình cũng không ăn trộm cho cá nhân mình, cả đơn vị cùng ảnh hưởng, chắc ổng giáo dục, ngậm la một hồi, bất quá cảnh báo, ghi vị lịch rồi cho mình về. Ai dè, ổng ra lịnh «Mấy chú ngồi đó! Bất kỳ Thủ tướng đơn vị nào đều nhận được điểm, nhận được một số chú thích, ngay lúc đó mới được nhận! Khoai mì thì rút ra bao ra giao cho cảnh bảo vệ B1 xử lý».
Cô gái cười:
- Có thể! Trưa hôm qua, nhờ cảnh bảo B1 khi không bị ảnh hưởng ba bảo kloai mì nên họ phản đối điều này; tha hồ ăn, bi bao nhiêu cũng được. If not time this doing sao nổi tiếng.
Du le oak, ngao ngán:
- Từ hồi đáp hôm qua tới giờ mắc kẹt ở cảnh bảo vệ B1? Vậy, từ kinh nghiệm thất bại nhanh chóng? Chư vị nào còn quýquéo vô địch mười bảy mẫu họa tiết là gan trời.
Coi bộ Từ còn ấm ức:
- Cho tới chiều hôm qua, hiện tượng kẹt ở cảnh bảo vệ B1. Nhưng tới bữa ăn thì được lịnh cho về. Mà trước khi bảo trì phải đi ra phòng thường trực ở đó, mỗi đứa trẻ phải viết xong bản kiểm tra mới để được tải. Ra tới tối ưu hóa phòng thông thường. Thằng nhóc Bo ở phòng thường trực nó ăn chiều hết rồi. Làm việc này thỏa mãn khát khao từ hôm qua tới nay. Ngồi viết bản kiểm tra nữa! Mười hai giờ đêm mới xong. Không mù, không thu...
- Thôi, cha nội! điểm nhận được. Cha ăn nói lang bang, cái đầu cha nó trùng xuống, tóc mọc không nổi đa! Hủy bỏ, tôi đã đi đến đây. Đi, lên B195 mà cứ đứng giữa đường nghe khó chịu, nửa đêm cũng chưa tới.
Bạn cười, tiếp tục bước đi. Tôi chỉnh sửa theo sau.
Leo lên dốc Trà Bé rồi đồi Tam Cấp. Chà! Doc long thế? Hai chân tôi lười biếng. Mùi xả ra như tắm, thở ra hơi. Dù vậy, nhớ bài chuyện Du kể ban sáng, tôi đưa mắt nhìn xung quanh xem coi có con chim «chính trị viên» nào «khó khăn giải quyết» hay không. Nhưng cũng thấy bóng bẩy đâu. Chỉ có những con mối càng lớn, dàn thành nhóm đông vô số kể, giác lá khô răng mạnh, đều hai bên vệ đường.
° ° °
Chiều tối thì chúng tôi sẽ đến căn cứ B195. Nói là căn cứ cho oai, thực ra chỉ mấy cái nhà cửa hàng bên sườn dốc con trượt nhỏ. Dẫn tôi vào nhà bếp, mắt đảo tới, đảo lui nhìn xung quanh như kiếm người.
- Nhà bếp, nhà ăn của B195 đây. Đâu mất hết cà rồi? Bộ ở đây thiên hạ đặc sản hết rồi sao, giờ này mà bếp lạnh tanh.
Đoạn Du chỉ mấy cái băng ngồi bằng những đoạn để ô ken lại:
- Ngồi xuống đó nghỉ một chút đi anh Hùng! Khát nước quá, anh có khát không?
Tôi gật đầu, ngồi viết lách. Du chạy lại lên lò Hoàng Cầm giở Sản phẩm nhẹ nhàng, xem nhẹ nhàng nào chứa nước sôi. Nhìn theo Du tôi cưỡi cười và tôi cũng thấy đói một cách lạ lùng. Ngày dài, không có gì ở đâu! Chỉ hai thú khoái mì tới bằng ngón tay cái, thay bữa cơm trưa cho đến giờ, vô địch sao thèm đói.
Nhà lạnh tanh. Đưa lại cho tôi một ca nước để nguội:
- Anh uống nước đi. Anh ngồi đây chờ tôi một lát!
- Cậu đi đâu?
- Tôi đi tìm Hải Minh một chút. Chắc chắn giờ này còn ngoài phạm vi, chưa quá! Hải Minh là thủ trưởng B195 đó.
Còn hơn 5 phút sau, Du quay trở lại với một cô gái quần xăn đến gối, rựa gánh vai, khăn rằn cột đầu rải. Cô ta nhìn tôi như một bà chủ nhà nhìn đến xin việc. Kiểu cách, run kỳ dễ làm sao. Cô ta nhìn tôi một lúc, chợt hỏi:
- Anh là tân binh mới tới hả?
Đúng là một câu hỏi trịch thượng vào hàng chị cả.
Tôi nghĩ thầm trong bụng, cô em có vẻ như «địa chủ» lắm. Mặt bạn sáng, đẹp như nữ sinh Sàigòn sao em ăn nói nghe khó thương quá hay em cũng lại đang «ấm ức» như tôi nên «ngổ» cho đỡ ức? Dù sao, tôi cũng lớn hơn cô em ít nhứt là nửa con giáp. Don't allow more than!
Tự động, tôi muốn phá lên cười nhưng tôi không cười cười, sợ họ ngạc nhiên, nên cái miệng tôi như mếu là cái chắc:
- Vâng!
- Anh tên gì? Từ đâu đến đây? Người tỉnh nào vậy?
Tôi cười thật sự. Bạn cũng phá lên cười:
- Trời đất! Đồng chí hỏi gì vậy, người ta làm sao trả lời cho phù hợp! Làm gì như... bà cung lửa. Lính cũ ăn lính mới hả?
Cô ta cũng cười theo, cười thật thoải mái, tự nhiên:
- Ừ, đó! Thôi thì... anh tên gì?
Đầu óc tôi theo cái đô vui nhộn. Cái miệng có duyên thiệt, nụ cười đáng giá ngàn vàng đừng chơi. Cái mũi dọc dừa thanh và cao. Đôi mắt lá răm đẹp lắm cô em ạ! Giữa rừng núi... ừ nhất định là đẹp hơn Phà Ca sơn nữ giữa rừng sim của giả Hà Huy Hà rồi. Nhưng cô em du côn quá...
-Ơ!Anh tên gì? Hùng nghe tôi hỏi hả?
- Dạ! Dạ tên Hùng. Vũ Hùng!
- Từ đâu đến đây?
- Dạ, Sàigòn!
ánh mắt cô ta tròn xoe, sửng sốt. Tiếng nói cô ta thấp xuống, lạc đi:
- Anh ở Sài Gòn?
- Sàigòn! - Tôi cài lại, gật đầu.
- Quê quán Sài Gòn?
- Không! Quê quán tôi ở Mỹ Tho
Du phải như không biết những điều chưa biết khác và thường xuyên biến đổi hoàn toàn, tiếp tục vẻ ngoài vui vẻ của cậu ta:
- Hết rồi hả đồng chí? Sao không hỏi luôn coi năm nay bao nhiều tuổi, vợ con chưa, cha mẹ tên gì, anh em mấy người, nhà cửa làm ăn ra sao, cho nó đủ bộ! Quả là công quốc!
Trong một thoáng, cô ta như kẻ mất hồn, ngơ ngác, trở nên tư tư:
- Dù hoài nghi! Hỏi chi hỏi một điều tương tự. Bộ binh sao anh Du!
Du ngon miệng tiếp theo
- Này, anh Hùng! Giới thiệu trước cho anh biết, 195... hì hì... cả hai tiểu nữ đó! Nam chỉ có 4 vị trí bị hủy. Coi chừng... anh chết đó! Ơ, anh Hải Minh đâu rồi chị?
- Ảnh dẫn anh chị em đi xẻ thịt bò rừng ngoài ruộng lúa.
Mắt Du sáng rở:
- Ủa! Bắn được bò rừng hả? Hướng dẫn! Hiện tượng này «quất» một bữa thịt bò cho đã! Trừ cái khoảng khoai mì ra mới được.
- Làm gì có khoai mì mà trừ với không trừ?
- Sao? Vậy mấy người trên này ăn Bình à? Hướng dẫn thiệt hại!
- Hướng dẫn cho anh chớ? Ăn đọc xàm mười ngày nay, phản tôi mắt thụt hết đây nè! Ở đó mà thỏa mãn.
Qua mấy câu trao đổi cô gái buồn bảo tôi:
- Đơn vị đi vắng hết rồi anh. Cọ xát nửa giờ nữa thì anh chị em về tới. Anh mang đồ theo tôi lên trên này.
Cô ta bước đi trước. Tôi và Du bước theo sau, Sơn về căn nhà trước kề sát thước.
Căn nhà trống rỗng như những ngôi nhà khác ở khu A. Ở giữa nhà cũng có một chiếc bàn dài làm bằng tre, cột chôn xuống đất. Giữa bàn, một bộ sứ sứ đánh rơi nhịp chiêng. Tôi để di chuyển đồ đạc xuống băng hà.
Cô gái nói:
- Nhà này của anh Hải Minh và mấy anh ở đó. Anh thảnh thơi trên kệ kia.
- Vâng!
- Anh đến Khu A bao lâu rồi?
- Gần một tháng rồi cô! ·
- Sao anh xanh dữ vậy?
- Số rét. Tôi vừa mới ở bệnh viện G2 ra chiều hôm nay.
Cô ấy nhìn tôi một giây:
- Anh mới ra Viện, sao không nghỉ hôm nay chờ thực khỏe vui đi?
- Ai biết rồi! Người ta bảo đi thì tôi đi. Muốn quay lại cũng không được.
Giọng cô ta buồn bã:
- Do đó, anh còn hơn tôi! Cái ngày tôi lên... tới phòng trực tiếp U.50, lúc đó còn đóng ở VênVên. Tôi đang sốt rét lập tức, tôi còn phải đi thẳng về đây. Tưởng tượng lần đó tôi đã...
- Cô đến đây năm nào?
- Year of! Tháng tám năm!
Như vậy cô ta đi trước tôi sáu tháng. Tôi mở bồng bềnh lấy quần xuống rửa sơ qua, thay đồ sạch sẽ. Cô ta có thể phá:
- Anh giai đoạn nghỉ đi. Hãy nhớ đừng tắm. Anh mà võ thì nước, chết liền.
- Cảm ơn cô! Tôi không tắm đâu! Tôi chỉ rửa sơ, lau mình, thay đồ sạch thôi. Xin lỗi, cô tên gì nhỉ?
- Quên, tôi tự giới thiệu anh. Tôi tên Hiền. Tên Hiền Nhưng dữ lắm! Còn anh, anh thứ mấy?
- Thứ tư, nhưng xin cô cứ gọi tên tôi. Vào đây, người ta hay gọi nhau bằng thứ. Nó đã trở thành một tập quán, thói quen theo kiểu ở nông thôn, bà con nông nông thôn hô với nhau.
- Gọi nhau bằng thứ, hay chứ anh? Nó có tính cách thân mật của gia đình. Tôi gọi anh bằng anh Tư. Anh Tư ở đây nghỉ nha! Tôi xuống bếp lửa lên lần nữa. Hãy sắp xếp để rồi đó. Bữa nay tôi làm chị nuôi, trực nhật. Tôi ở nhà không thì tôi cũng đi tải thịt rồi. Ở nhà còn một ít Bình, để tôi nấu cho anh một suất cháo thịt bổ dưỡng ngon nhé!
Tôi xu tay lia lịa:
- Đừng! Đừng cô Hiền! Tôi...tôi...
- Không! Bệnh mà! Anh là bệnh nhân mà! Gạo dự phòng dành cho những anh chị em nào bệnh. Tiêu chuẩn ở trên các chủ đề như vậy mà l
Hiền quay lưng bước đi:
- Suy cho anh ninh cháo thực ngon, để lót anh kể chuyện Sàigòn. Gia đình tôi ở đó... ·
Tôi biết ngay từ lúc Hiền hỏi tôi từ đâu đến đây. Phản ứng trả lời của Hiền dù chỉ trong thoáng chốc, tôi cũng mong đợi được nguyên cảm của nó. Và cũng từ phút đó, thái độ cả, thời kỳ của Hien biến mất, thay đổi thái độ đối xử với tôi ngay. Hiền không nói, nhưng bấy nhiêu đó đã nói quá nhiều. Sàigòn định nghĩa nhất liên kết đến Hiền nhiều...
Tôi muốn hỏi thêm Hiền một câu nhưng Hiền đã đi xa. Nàng tiếc nuối đi, vẻ mặt nhìn xuống đất, rựa vẫn vượn trên vai, lắc lư thân người mảnh mai, bé nhỏ, nhẹ nhàng nhịp bước theo lối xung quanh.
Tôi giai đoạn cuối, ôm đồ thoải mái xuống rửa ráy, thay đồ và rửa bát. Cái mệt mỏi đến đờ đẫn sau cuộc đi xa, nước lạnh làm tan biến đi nhiều. Trong người tôi thấy dễ dàng hơn.
Trở lên nhà, tôi leo lên thư giãn nhìn chung quanh suy nghĩ bâng quơ. Đồng Nai Thượng đây? Cũng toàn rừng và rừng. Cũng có màu xanh lúc xưa. Cũng không khí yên tĩnh, yên tĩnh đến u buồn, tip một cái sợ hãi bâng quơ bối rối với nỗi bâng khuâng phiền phức miền không căn cơ.
Ngày hôm nay, với cái sốt rét mới hết trong suốt, tôi phải thoải mái đón người. Ở B2 chắc người ta hài lòng lắm. Hài lòng vì đã tiếc tiền cho tôi. Hài lòng vì mình có quyền, nhất là đồng mãn được tình cảm giai cấp, đã thống trị, đã tạo ra tên định thức, hạ uy thế, hạ giá trị nó xuống ngang hàng với hạng bét thứ trong xã hội.
Vậy mà, ngoài mặt người ta vẫn làm ra vẻ quan tâm, chăm sóc đến tôi. Chính trị là vậy. Bây giờ thì xa lắm rồi. Xa sông Bé, xa đồng bằng, xa tất cả. Ngược lại, có lẽ từ nay tôi sẽ được vui vẻ hơn, thoải mái hơn về tinh thần. Tôi sẽ được sống trong quên lãng, đừng quên chính tôi, tôi cũng quên lãng không còn nhớ đến mình là ai, thuộc giai cấp nào, có gì để gió lành khoang cho mọi người? Và nhất là quá khứ. Một quá khứ trong mơ, nhiều hoa mộng.
Từ nay tôi sẽ được biến thành anh nông dân, không «tay cuốc, tay cày» thì cũng «tay cuốc, tay rựa». Tôi chợt nhớ, mình là mỗi mình. Không biết Bạn đâu mất?
Chắc chắn là Du la cà xuống bếp, tản xạ tán vượn, «quạt» chị nuôi của tôi đây. Kể như Du cũng vui thật. Hoàn toàn vui vẻ, không chút suy nghĩ thoải mái. Thả tự nhiên chấp nhận cuộc sống hiện tại của chính mình. Không cần biết, không cần quan tâm nhiều đến sự việc có thể xảy ra liên tục trong ngày, xem đó như một thứ tự nhiên, không phản xạ, không gây phiền phức. Thế nào cũng được. Sao cũng được. Đúng hết, mọi thứ đều đúng. Duy chỉ có mỗi một điều, sợ Đảng nhận xét xấu, sợ Ban Chỉ huy không hài lòng ghi lý lịch.
Chỉ có thế thôi à? Lạ thực. Đảng là gì nhỉ? Là một vị thần thánh vô hình hay cũng chỉ là người, có thể hiện diện bằng người với tất cả cái xấu, cái yếu, cáihèng và biến đổi luôn?
Tôi chợt nghe có tiếng cười nói của nhiều cô gái từ xa vọng lại lần với tiếng gió trên ngon cây rừng. Các nàng tiên trên Đồng Nai Thượng đi tải thịt đã về rồi đó. Tôi đang cười một mình. Đêm hôm nay, từ bệnh viện về, núp ngoài rừng, tôi nghệ cấp chỉ huy đã nói về «bản chất bện, tệ hại» của tôi, đạo đức thân thiện mà giờ đây hết chỗ đưa tôi đi sao lại đưa tôi về một nơi an toàn con gái, không cản tôi tác oai tac quái mạt thêm hay sao?
Rồi tiếng cười vui rộn rã nổi lên dưới bếp. Tiếng kim khí, dao thớt và chạm nhau, khua động không ngừng. Một chút sau, một thanh niên tuổi hiện ra ở khúc quanh tiến vào nhà. Anh ta mặc quân phục vải ta đen, da rám nắng với cây súng trường Mas ở trên vai. Tay cầm mấy tờ giấy. Ý bên cạnh anh ta là Hải Minh, chắc chắn đã gặp Du dưới nhà bếp trao thư từ giấy má của B2.
Tôi ngồi dậy. Bước đến sân, anh ta nhoẻn miệng cười:
- Chào anh! Anh vừa đến hả?
- Dạ, chào anh! Tôi vừa đến.
- Xin tự giới thiệu với anh, tôi là Minh, Hải Minh, phụ trách B195. Hôm nay, tôi đã nhận được thư báo của B2 là anh sẽ đến. Tôi có ý kiến. hôm nay đã được chào đón anh.
Hải Minh bắt lấy tay tôi, xong, mang súng phun lên cột:
- Nghe nói anh bị sốt nặng ở G2. Còn nhiều chứ, anh? Cối bộ anh xanh nhiều.
- Tôi mới ra bệnh viện hôm nay...
- Sao anh không nghỉ lại ít hôm nay cho khỏe vui đi?
Tôi cười:
- Anh Ba Biếu bảo đi thì đâu ở lại được. lại... tôi cũng muốn đi sớm.
- Có lẽ nhờ vậy mình lại gặp nhau sớm hơn. Thú thực với anh, ở đây thanh niên mình ít lắm. Không bằng cái lẻ của chị em! Có anh thêm đông, vui nhà vui cửa. Có ý muốn đánh lơ khơ tay tư, cũng đủ người.
- Khi trả lời tôi nghe cô Hiền cho biết anh bắn được con bò rừng. Lớn không anh?
- Cũng vậy. Chắc chắn được ở mức độ cân bằng. Chị em bây giờ họ vẫn đang luân phiên nhau tải vào. May là hôm nay có thịt để đãi anh. Thôi, anh nằm nghỉ nha! Tôi còn phải trở xuống ngó cho chị em họ ra thịt. Tối nay, ăn uống xong xuôi, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Anh ăn cháo nghệ! Để tôi bước vào đồng chí Hiền nấu cho anh...
- Đừng, anh! Phục anh chị ăn gì, tôi ăn ai mà!
- Cung cấp cho tôi một bộ xử lý chỉ. Anh còn đang bệnh, ăn không kham nỗi đâu. Tôi đi nghe anh!
- Dạ, anh bận anh cứ đi! Khách khứa cái gì! Từ nay tôi là người lính của anh mà!
Hải Minh cười, xua tay lia lịa:
-Ý chết tiệt! Đừng anh, anh đừng nói vậy chứ, anh!
- Chút nữa, khỏe không nhẹ tôi xuống bếp chơi với anh.
- Ừ, anh xuống cho vui.
Hải Minh bước đi. Tôi đang ở dưới. Và vì tôi mệt mỏi khi ngủ đi. Đến nhẹ nhàng, tỉnh giấc thì tối tự bao giờ.
Trên chiếc bàn tre, ai đã đốt sẵn một chiếc bánh đèn làm bằng vỏ chai Alcool de Menthe. Chiếc đèn chai, nhìn kỹ tôi mới thấy đó là cả một công việc, một sự sáng tạo thích thú. Miệng chai alcool vốn là một cái lỗi nhỏ xíu, được người ta dùi cho rộng ra rồi dùng một cái thùng đạn carbine chặna cho nhỏ lại đút vừa lọt khít chai. Thùng chứa được gỡ bỏ bom, nòng vào ống đồng trống bằng cách viết cây cọ, luồng thời gian bằng cụm chỉ sợi. Trong lòng thùng chứa một lò xo thép. Mỗi khi chốt nút chai thì ống đồng và thời gian thụt xuống. Mở sản ra, ống đồng lại tăng lên. Nắp chai được bọc bên ngoài lớp thau sáng có số nhỏ. Từ sai người ta cột một sợi xích xuống cái khoen ở cổ chai.
Như vậy, hãy dùng chiếc nhẫn này vừa khít, vừa có thể bỏ trong ba lô hay cài vào thắt lưng chuyển mà không sợ dầu hôi ra ngoài.
Tôi ngồi mân mê, ngắm nghía mãi chiếc đèn lồng. Tiếng dao băm thịt hòa trong tiếng cười đùa vui vẻ của đám đông dưới nhà bếp vọng lên khiến tôi thấy chủ tâm muốn hòa mình vào đám đông đó.
Bắt chước mấy anh em trước đây, tôi bẻ một lá dầu con mọc ở đầu nhà, cặp vào phía sau đèn làm tấm chắn gió để đèn không bị gió chao cũng như không bóng mắt.
Tôi hạ huyền thấp xuống, lom khom soi đường sợ có rắn, bậc thang xuống bếp. Từ ngoài nhìn vào, hàng sơn chị em ngồi cưỡi quần thành từng khóm bên những đống thịt to tướng, vừa xắt, vừa khít, vừa cười đùa vui vẻ. Ánh lửa trong lò bập bẹ, đèn sáng nhẹ bên ngoài giai đoạn, mẹo cho tôi cái không khí gia đình trong những ngày có giỗ hay bất cứ một đám tiệc nào ở miền quê. Không khí thực tế cúng dường vui vẻ, hồn nhiên làm sao.
Tôi chợt nghe một giọng nữ từ bên trong bếp vọng ra:
- Kỳ! Bóng bưng đèn xuống nhìn! Coi bộ là một nỗi buồn của mình. Sợ ma, sợ hãi nữa chịu sao phúc.
Và tôi cũng nghe tiếng Hiền:
- Sau cái lúc gian khổ nhất, se mình ăn bắp thay bình như lúc này, đến đây để xúm nhau chịu khổ cho vui. Số lạnh mới hết, mặt còn xanh như mặt giộc, không thông lại sốt nữa cho coi.
- Cha, bằm thịt nấu cháo cho người ta kia mà còn nói xà kè. Coi bộ dữ liệu hả? Chị nuôi tích cực và tốt bụng quá.
- Bà đừng nói bậy! Bà bệnh hay ai bệnh cũng vậy. Chị nuôi phải có hoàn phận săn sóc, nấu cháo cho người ta run!
- Suỵt, coi nhẹ người ta nghe.
Hải Minh quay đầu gọi lớn:
- Anh Tư ơi! Vô đây anh!
Tôi là người. Lạc thiệt! Tôi chưa nói chuyện với anh ta là tôi thứ tư, sao anh ta biết? Chắc chắn Hiền nói. Chỉ ba tiếng ngắn «anh tư ơi!» nhưng nó làm tôi cảm động không giống nhau. Tuy tôi nói với Hiền là nàng cứ kêu tôi bằng tên, đừng gọi thứ. Thực tế đó chỉ là một hình thức từ chối giao thức xã hội. Tôi là người Miền Nam mà. Phong tục tập quán của quê hương tôi màu đậm trong lòng tôi mà. Xưng hô với nhau, gọi nhau bằng thứ nó là một hình thức biểu hiện sự kính trọng, biểu hiện tình thân ái mặn nồng. Và ở trong khung cảnh này, trong rừng núi của chiến khu, nó vẫn thể hiện sự chấp nhận tình cảm chân thành, đón nhận «người chơi nhập cuộc».
Nếu Hiền, nếu Du hay ai khác ở đây lần đầu tiên gặp tôi đã gọi tôi bằng ngôn từ «anh Tư» đó, có lẽ sự rung cảm trong lòng tôi chỉ là một phút thoáng qua như sóng gió nhẹ. Nhưng với Hải Minh, một người lớn tuổi hơn tôi, mặt khác, trên phương diện «địa vị cách mạng» là cấp chỉ huy trực tiếp, là thủ trưởng của tôi, sự rung cảm «thấm» hơn nhiều. Nó nói lên một cách mạnh mẽ: « Tình tôi dành cho anh đó, chân thành lắm, không màu mè, không là một hình thức động viên chính trị».
Tôi bước vào nhà bếp với sự cảm động ngọt ngào.
Tôi run run nhảy lên:
- Chủ anh mấy chị dưới đây vui quá!
Hải Minh tay vừa xắt thịt, miệng vừa cười:
- Hì hì... anh coi giống nhà có giỗ không hè? Động dao thớt rùm beng.
Một cô lên tiếng, hóm hỉnh cãi lại:
- Không phải chỗ nào đón khách mới từ Saigòn đến đó!
- Sao lại khách ơi, bà? Người nhà chớ!
- Ơ! Ông kiên nhẫn khách thì... lính mới!
Hiền ngồi bên bếp cũng vui miệng thêm vào:
- Chà! Kẻ gọi bà, kẻ đáp ông! Chà! Ông bà vui dữ.
Cô gái kia đánh thuốc mê:
- Bỏ đi! Bỏ đi! Đồ quỷ! Đừng nói bậy. Đừng phá vỡ! Người ngoài nghe hiểu nhiều, nhà nước nghe có thể ngồi kiểm tra xương sống.
Hai Minh giải vây:
- Thôi mà! Cô bỏ đi. Để tôi giới thiệu. Đây là anh Tư Hùng. U.50 mới chuyển đến công việc với B195 của mình. Anh Tư Hùng là thành viên Luật khoa Siàgòn, đồng thời cũng là một bộ chiến tranh chống Pháp cũ từ năm 9. Trong khi chờ đợi Cục Chính Trị xác nhận cấp độ, chức năng, tạm thời như là cán bộ của U.50.
Mọi người đều nhanh chóng sạch sẽ. Tôi cũng bú tay cười theo. Tiếng chim non dịu dàng thì Hiền «phát biểu ý kiến» ngay:
- Anh Hải! Quân mà không cứ coi như chiến binh anh Hải!
- Nữa! - Hải Minh nói-. Cái bà này nữa! Gì mà quan với không quan?
Tôi chen vào:
- Chủ chị đùa cho vui mà anh!
- Từ nay trở đi, có anh, mình ở đây có thể tổ chức học văn hóa được rồi đó. Trước giờ chuyện học hành thiệt là è sáng, suy ra làm sao hết.
Hiền hỏi với câu châm ngôn:
- Vậy sao Ban Chính Trị bảo là các đơn vị trực thuộc U.50 đơn vị nào cũng phải xúc tiến phong học văn hóa bổ túc, ngoại trừ B195. B195 cần làm Rung cho tốt chứ chưa cần học?
- Nữa! Nữa!
Tôi lấy làm lạ hỏi:
- Gì lạ vậy anh Hai?
- Thế mới có chuyện cho chị em người ta thắc mắc. Nói cho ngay, giấy tờ công văn, chỉ thị không đá động gì tới nhưng hôm trước, Bảy Cảnh ở B2 nói với mấy đơn vị khác bảo B195 chừng nào lao động giỏi rồi hãy học.
- Biết thế nào là lao động giỏi? Bộ anh chị em mình ở đây được xem là không biết lao động sao?
Giọng Hải Minh thấp xuống:
- Chút nữa về trên nhà tôi nói anh nghe.
Sau khi ăn xong, tôi nhìn đồng, hồ tay mười giờ hơn. Tôi và Hải Minh lững thững kéo nhau về nhà trước, trong khi mọi người còn lại ở nhà bếp vui vẻ chuyện trò, «nói chuyện năm trên». Một số anh chị em còn kem thịt lụi, nướng ở miệng lò.
Để ca, khép lên chiếc bàn tre, Hải Minh trở lại vấn đề ban lân:
- Cái chuyện học văn hóa phiền lắm anh. Phần lớn anh chị em đưa ra đây là công việc được đưa ra bên A view không phải là thành phần cơ bản. Số còn lại là bần cố nông nhưng số này ít quá. Trình độ mỗi người không có ai hết. Động cơ tham gia cách mạng cũng không tĩnh nhất.
Tôi hơi lấy làm lạ:
- Như vậy hầu hết anh chị em đều có trình độ văn hóa khá, ít ra cũng lớp nhất tiểu học?
- Không! Không anh! Đa số được biết viết. Tuy nói là không phải thành phần cơ bản, thực sự anh em đó cũng không phải địa chủ, nông thôn hay tiểu sư thiết kế thức gì được trộm đến trường như những người khác. Anh không rõ bà con nông thôn của mình là gì. Những gia đình có ăn mảnh đỉnh thuộc lớp trung nông mới ở miền quê xa xôi xanh. Đâu có trường gần nhà để học. Xa lại không muốn cho đi, giữ ở nhà để giúp đỡ chân tay.
- Vậy thì anh chị em ở đây cũng nông dân cày ruộng, chân lấm tay bùn. Phân chia thành phần cấp độ tấn công dữ liệu.
- Nói chung, tuy trên danh nghĩa không giống như anh là tiểu tư sản trí thức, nhưng thực tế, những anh chị em ở đây nghĩ khác anh mấy.
- Ở đây có anh chị em nào trình độ văn hóa khác không anh?
- Hai chị hồi tỉnh với anh dưới bếp đó, một chị tên Hiền, một chị tên Ngân. Chị Hiền có tú tài một, tú tài Pháp đó. Chị Ngân học qua lớp đệ tam. Như vậy ngang bằng với cấp 8 lớp 9 miền Bắc. Một số ba chị em nữa thì đâu đệ thất đệ lục còn bao nhiêu đều lem nhem ở cấp 1. Cấp 1 miền Bắc, cấp bậc Tiểu học ở Nam. Nhưng mấy chị em khá họ không quen dạy học nên họ lọc bình tĩnh, mắc kích thước không chịu dạy. Ngược lại mấy anh chị em thân thiết lại thích học, tôi muốn tổ chức vài lớp văn hóa bổ sung mà làm không xuể, nên thôi. Bây giờ đã có anh, nhờ anh giúp đỡ.
Kể ra giúp anh chị em trong đơn vị được học, trau dồi thêm văn hóa cũng là một điều tốt nên làm. Tôi cũng thích như vậy. Vì công việc chính nó sẽ làm cho tôi vui hơn và hòa mình vào tập thể. Thân mật hơn, vui vẻ hơn trong nỗi đau thông cảm hoàn toàn giữa anh chị em cùng đơn vị. Nhưng công việc đó cũng có những trở ngại rất lớn.
Trước tiên là sách, tài liệu lấy ở đâu ra? Hướng dẫn như thế nào để thoát khỏi tội phạm «dạy theo phương pháp đế quốc, chương trình đế quốc», trái ngược với «đường giáo dục công nông» của Đảng chủ đề ra. Ấy là chưa kể, Bảy Cảnh bảo B195 nhẹ nào lao đông giỏi hãy học.
Tôi tràn ngập, trả lời Hải Minh một cách tham chiếu phản hồi của Hải Minh ra sao:
- Anh Hải à, có nhiều vấn đề khó khăn lắm! Mình tổ chức lớp học rồi sẽ ra sao?.
Hải Minh băn khoăn tôi muốn đặt việc phản hồi của B2 nên trả lời ngay:
- Đã là quân nhân cấp bé, cấp phó thứ hai, tôi có chuyện thăng tiến ở đâu. Cái lợi cho tập thể mình làm việc. Tổ chức học văn hóa có lẽ không phải là một tội phạm như phản động sao?
° ° °
Tôi giảm dần tiền suy nghĩ bâng quơ. Tôi đã nhớ đến cây đàn, đã thấy tư thế được kéo vĩ cầm vài đoản khúc của Chopin.
Ôi nhớ quá, B39 ơi! Người sao ác quá vậy?
Cây đàn vĩ cầm của tôi những người đã chuyển vận đến phương trời vô định nào? Con cái radio Transistor «chuẩn» nữa. Mấy tháng nay rồi, tôi như một thằng mù, suốt thằng bạn, không biết những gì đã xảy ra trên đất nước này cũng như trên thế giới.
Báo chí đã không, tin tức cũng không ghi chú, dù là thứ một chiều. Tôi nhớ đến câu nói của người xưa: «Kẻ sĩ một ngày không xem sách, soi cầu vồng thấy tối tăm». Hồ hồ tôi đã không đọc được vài tháng. Người bảo vệ: «Một ngày không xem tin tức, báo chí đã trở thành thành lạc hậu, quờ quạng như ông mù». Một ngày như vậy, câu hỏi của tôi đã đến vài tháng.
Mặt mũi tôi đã ra sao rồi? Tôi đã đui mù, câu lạc bộ sau cấp độ nào rồi? Một người rừng thứ ba?
Hải Minh kéo tôi về thực tại:
- Anh Tư! Lên đây anh? Uống nước chứ!
Tôi ngồi dậy, bộ bình trà sứt vòi, đen thủi đen thui, lăn lóc, ngã nghiêng trên bàn tre được Hải Minh thút nước sôi trong bình ton mới mang về tráng, rửa sơ bộ qua. Bộ bình trà nghèo quá. Chả bù bình trà có cả giải nước nóng của văn phòng B2. Từ chiếc bàn dài bằng cây bằng lăng xòe sơn bóng đến những lon lớn, lon nhỏ bảo vệ, bảo vệ, bảo cà phê, đường cát... Ở đây, Chiếc bàn tre chà chân, nang tre kết lại làm mặt, nang cao nang thấp, lồi như mặt ruộng cày mùa khô. Ngoài ra, trống rỗng, trống rỗng như một ruộng trồng trọt cụ thể..
Hải Minh đi lại hàng kệ treo thư giãn nhà để bồng bềnh quần áo và vật dụng, gọi ra một gói giấy cập nhật cũ, cười toe toét với tôi:
- Hì hì! Sang lắm anh! Người ta uống trà tàu, trà Blao, đôi khi còn có cả trà hoa nhài Phú Thọ, mang từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vào. Còn mình, mình uống trà Sâm Việt Nam.
Tôi nhìn mắt. Hai Minh mở giấy trước mắt tôi một ly cỏ cả rễ, lá to bản và dài, đốt cháy lem nhem:
- Anh Thử xem! Thơ lắm! Bảo đảm với anh Sâm Việt Nam chính hiệu con nai vàng mà!
Tôi hét lên, kê mũi vào. Không nghe mùi thơm cả, chỉ toàn mùi cỏ thơm. Nhìn nụ cười không tròn nhìn thoáng qua của tôi cũng hiểu được ra sao rồi. Hải Minh đưa lên mũi mình, hít mấy cái:
- Mùi cỏ hôi! Chào nhé! Nhưng bỏ vào nước sôi thơm thiệt anh. Thơm mát mà. Những thứ đó, ăn thứ thứ này còn thông tin nhỏ, vãi lông. Mát mẻ, chắc chắn là mát mẻ.
Hải Minh nhóm lấy một nhúm, vo tròn rễ, cả lá bỏ vào bình và châm nước sôi sục trong bình tấn ra. Nhìn cử chỉ thành sâu, quen tay và trịnh quan trọng của Minh làm tôi thấy thương Minh, gần Minh hơn bao giờ hết. Có lẽ trước đây, Minh cũng là một tay sành trà, ghiền là một loại khác, biết luyện miệng để thưởng thức trà pha đặc như nước cầu ngâm. Giờ, bên bờ Đồng Nai Thượng, chịu chịu uống nước «sâm Việt Nam chính hiệu con nai vàng».
Có hơn mười phút sau, Minh mới nâng bình lên lắc mấy cái:
- Lắc lắc cho nó ra rượu, anh Tư!
Đoạn Minh thám ra bốn chén chung:
- Đâu đó, bây giờ anh thử coi! Thơ mà! Đúng là «sâm Việt Nam chính biếu con nai vàng».
Chiều theo Minh, tôi nâng tầm chung lên ngang tầm.
Quả quýt. Mùi hỗn hợp với mùi cỏ cháy. Minh đưa lên một cái miệng:
- Đúng không anh?
Tôi gật đầu, cười:
- thơm, thơm mát thiệt.
Tôi cũng uống. Nhạt như uống nước lã đun sôi.
Hải Minh chuỗi gói giấy dầu, mở ra để nói chuyện thuốc rê và một cuộn giấy cập nhật cuốn y như giấy quyến rũ:
- Hút thuốc anh Tư!
Tôi cũng móc xích thuốc rê và cuộn giấy quyến rũ nhẹ nhàng trong túi tôi ra, bỏ rác lên bàn:
- Có giấy quyến rũ nè anh Hải! Hương giấy quyến rũ mới ngon anh.
Tôi đưa cuộn giấy quyến rũ cho Minh. Mắt Minh sáng lên:
- Thế là anh hát quá rồi. Anh coi, thuốc rê phải tư vấn bằng giấy quyến rũ mới đúng bài bản, nhưng cái đất này dễ gì kiếm được lá giấy quyến rũ, hút thuốc cập trình không biết sao! Có nhật trình, có thuốc rê, nhưng hơn thế nữa lúc này phải hút bằng bắp ngô, bằng xác trà phơi khô hay lá chỉ thiên thay thuốc rê, nó mới bông ngừng! Ghiền thuốc đau quá, anh Tư. Thuốc không mua được, ngáp dài ngáp vắn, mắt mở không ra. Làm như vậy mà. Nó nhạt phèo, nó hôi vẫn phải làm ngon. Chiến trường khu A nổi danh gian khổ như thế.
- Đến nỗi đau như vậy anh! Thuốc rê khó kiếm đến nỗi thế sao?
- Anh cứ hỏi anh chị em đây thì biết! Tiếp liệu của U.50 dưới đó, khi nào được thừa nhiều, các B dưới đó thừa mứa ra rồi mới còn đến thách này. Đi chia thực phẩm hàng tháng, ai có thể may mắn ngắm đúng chuyến đi mới đưa về, họa tiết có thể thu hoạch một chút đỉnh. Nếu không thì cũng đành thôi. Cho đến bây giờ cũng vậy. Nhưng vào lúc này thì điều này sẽ không xảy ra. Ngoại giao với trạm đường dây Suối Đá, ngoại giao với đồng bào Thượng ở Bù Cháp đem muối đổi thuốc rê, đổi gà, nhờ vậy mới có hút đây đừng. Đi đồng bằng, điều này gây ra bất cứ điều gì có thể xảy ra. Ai dẫn đường cho đi?
Tôi hiểu, và thông tin hoàn toàn phù hợp với Hải Minh. Trong cuộc đời, ghi một thứ gì, đam mê một thứ nào thật sự là khổ vì nó. Tôi không nhớ mình đã đọc ở đâu, đọc ở cuốn sách nào, người ta bảo bất kỳ một thứ đam mê nào đều mang ý nghĩa của nô lệ. Mình tự biến mình thành một thứ nô lệ cho đam mê mê, tự mình hành hạ thân xác mình đến chán chường.
Ghiền thuốc giữa núi rừng là một thứ đam mê đau khổ, đáng thương biết bao nhiêu. Nỗi đau của Minh, của những anh em ở đây từ trước đến nay sẽ là của tôi trong những ngày tới.
Ngày tôi mới rời Sàigòn, tôi vốn đã ghi tiền thuốc Ruby. Trong những ngày ở văn phòng B39 và Vườn Thơm, đến phòng tuyển mộ Tân Bình I4, tôi không thấy việc thiếu thuốc lá là quan trọng. Vì bất cứ lúc nào tôi cũng có thể mua được. Chung quanh nơi tôi ở, quán quán không thiếu chi.
Trước khi lên đường về khu A, Năm Rùa đã nhắc tôi, cụ thiết bị mua theo hai cây thuốc, tức 20 gói, bỏ trong bồng bềnh hút dần. Nhưng những ngày đi đường, không chỉ hút mỗi mình tôi mà còn có hai cậu cảnh bảo, còn có Năm đuôi, nên một cây hóa khói bay bổng về trời.
Mười gói còn lại, khi trở về đồng bằng, Năm Rùa lại đến tìm tôi, cười mơn, nói nịnh mấy câu lấy lòng để xin hai gói. Một cho anh ta một cho cậu cảnh vệ, «kỷ niệm» «lưu tình», «nhớ đến anh». Tôi nghe rất «chướng» vậy mà vẫn phải «tống khứu» hai gói. Thấy Năm Râu có hai gói Ruby, và biết tôi còn tám gói nữa, Bảy Cảnh nhìn ra rừng nói một câu bâng quơ:
- Thuốc ARA thuộc loại «đệ nhất anh hùng», mỗi khi uống trà có kẹo cầm tay, thiếu nó ý khác như lân thiếu pháo, như cá trê nướng thiếu nước mắm mác, như ăn dồi chó mà thiếu ba xi đế. Vì vậy mà có mùi khói Ruby phảng qua, hút ARA nghe như hút thuốc suy, lãng mạn lãng mạn nhách.
Tôi đã biết uống trà Blao, ăn kẹo, hút thuốc ARA của Ban Chỉ huy tôi, thì tôi phải biết thần lại bằng Ruby chứ. Thế là tôi nhận thêm một gói biếu đồng thủ trưởng Bảy Cảnh. Nhưng thủ trưởng của tôi đến ba người, biếu Bảy Cảnh phải biếu Ba Biếu, lấy thêm hai gói nữa. Rồi tới Tám Chi. Vị chi nửa chừng đủ đầu, thoáng cái giã từ ra đi.
Bốn gói còn lại chỉ đủ cho tôi hút mấy ngày đọc sách và ra đến tràn hoa màu. Đến bệnh viện G2 tôi chỉ còn bao giấy không. Tôi biết làm sao hơn? May là tôi bị sốt mê man, liệt kê không hút được.
Đến nhẹ nhàng cữ, cứngc đầu dậy, nhờ Mười Phương y sĩ Viện trưởng G2 thương tình, đặc cách giới thiệu với quản lý nên cũng được hai gói ARA, gọi là thay thế «mùi hương» cũ. Hết hai gói đó, thôi thì đành bỏ «xuống ngựa»,
Tôi bắt đầu chia thuốc rê, giấy quyến rũ như mọi người.
Tôi tưởng mình không hút nổi vì thuốc rê khói nặng, mà nặng thực. Hơi khói đầu tiên của nó đi qua cổ, tôi tưởng chừng nhẹ như ai xé cổ mình ra, như búa bổ sung vào đấm. Tôi châm một cái, rồi ho rũ rượi, nước mắt, nước mũi tràn ra rụa. Tôi ho đến nôn, đến đọc. Miệng đắng, cay và tanh, nước dãi mãi không ngừng. Cuối cùng tôi hoàn toàn thư giãn, mệt mỏi nhẹ bợ.
Tôi đầu hàng thuốc rê. Tôi nhất quyết định làm ơn, phen này nhất định bỏ thuốc. Thuốc rê ơi! Giã từ nhé! Tôi cho anh em nằm chung trại rê thuốc và lá giấy quyến rũ. Ngày hôm đó, tôi đã tìm thấy ngôn ngữ lạ. Và một cái gì buồn buồn trên mi mắt.
Tôi nhớ trước kia được nghe câu chuyện của một người cai thuốc lá. Mỗi lần nghiện thuốc, anh ta chứa một loại kẹo địa phương, uống một ly nước cốt, hoặc ăn một món gì đó. Kết quả anh ta bỏ phăng không có gì khó khăn.
Tôi nghĩ đó là một trải nghiệm hay, mình bắt thử xem sao. Tôi đến quản lý G2 thư giãn lại một ký ức đường. Tôi ăn đường liên miên, và uống nước không ngừng. Đến độ, tôi phải bỏ bữa trưa hôm đó và đi tiểu đến chân mỏi mệt. Tối lại, tôi đi ngủ sớm, ngủ trong giấc ngủ chớp nhoáng vì đói và nhớ thuốc lá.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy rất sớm, tự lúc mọi người chưa dậy. Trời hãy còn nhạt, chưa rõ mặt người. Tôi thức dậy với sự tò mò bình thường, đầu óc nhẹ tênh, ngồi không vững. Và cái miệng nó vừa khô, vừa nhạt một cách khó chịu, nước miếng chứa như đặc quánh lại.
Thuốc liều thuốc tăng dần đến tốc độ như cơn động kinh như mất hết sự tự nhiên thường ngày. Nó chú ý quáng, it people go. Tôi vói lên kệ, mở giấy lấy yên đường mía, đất lấy chu để, không nhẹ nhàng, rồi rồi Bình bình ton thút ra nửa ca nước nhẹ, uống sạch. Sau đó, tôi lại, chép lại đường.
Để «đấu tranh tư tưởng», tôi như hét lên trong đầu: «bỏ thuốc! Bỏ thuốc! Nhất định không hút thuốc! Hút thuốc lại là một, là không biết tự ái, không biết tự quan trọng. Không thể bỏ thuốc là không thể làm nổi những công việc khó khăn hơn. Ờ! Con trai không bỏ thuốc không phải con trai!»
Trời về sáng, ở rừng se lạnh, vậy mà tôi nghe hơi thở hơi thở sống lưng, rịn đầy cả mặt, cả chân tóc và nhớp nháp ở cổ. Anh em trong bạo thức dậy, chưa cuốn mùng đã từng là loại thuốc đầu tiên ngồi rung đùi ở mép giường, thưởng thức. Mùi khói thuốc rê bay ra, sao tôi nghe thơm lạ, quyến rũ lạ. Không còn hôi như trước đây. Làn khói xanh bay lên nhẹ nhàng, tản nhiệt, ôi sao là đẹp.
Nước mở rộng trong miệng tôi đầy đủ. Tôi sôi sục đi, luôn cả địa phương chưa tan hết. Chao ơi! Thèm lắm! Suýt chút nữa tôi đã bước sang giường xin thuốc thuốc. May, tôi đã áp dụng được. Thầy vì đi xin thuốc, tôi bước ra sân, đi thơ thẩn nhìn lên mấy ngọn dầu cao, sương phủ trắng. Copying, loop long. Trời, cực sao cực thế này. Ghiền thuốc lá nó có thể hành động hạ tôi đến thế nà sao?
Tôi cố gắng kiên trì cho tới lúc ăn cháo sáng, đến cả buổi ăn chiều. Tôi gần như muốn tránh hết mọi người, không muốn gần ai cả, nhưng cũng gần như muốn gần tất cả mọi người, nhất là những anh em có thuốc biết hút thuốc. Ý nghĩ trong đầu tôi là một cái gì đó vô cảm hòa quyện với nhau gay nhẹ nhàng, phiền co cấu không ngừng.
Những ý nghĩ đó, ngay lúc tôi bị đè xuống để tiêm thuốc vào mô, đau xé thịt vẫn cứ đập hình ảnh quay cuồng không thôi.
Nhất định phải bỏ thuốc, không được bỏ phải là con trai, là lì. Phải chắc chắn chứ! Chuyện đó tầm tầm thường trên mọi tầm tầm thường. Tôi tự động. Tôi «đấu tranh tư tưởng» với tôi.
Nhưng sau giấc ngủ dài, Quốc ngồi ở giường bên cạnh, hút thuốc phì phèo, nhẹ gói giấy bọc thuốc ra mời thì tôi không còn tự chủ được nữa. Ác thế! Sao anh mời tôi chi? Đáng lẽ phải không có lời mời mới. Trí tôi bảo đừng mà sao tay tôi như tay người lạ, mất hết bản ngã, chỉ còn có bản năng, hộp lấy cuộn giấy quyến rũ dòng tan, rứt thuốc một cách gọn gàng và tư vấn một cách thành phố bao quanh.
Tôi nghe lòng tôi dịu lại, yên tĩnh: «Cái này lỗi tại Qnốc nó mời, thôi thì hút một êm thôi. Thuốc rê nhẹ lắm, nặng lắm, hôi lắm, hút xã giao mà! Nhất định sau đó được mời, từ chối giải quyết. Cái lỗi này tại thằng Quốc đó!» Xin vui lòng như vậy tôi thấy tôi nhẹ nhõm. nhẹ nhàng, bình tĩnh hoàn toàn, phun thuốc.
Ngỡ là sẽ sặc sỡ sụa, dư dưài như ngày hôm qua vì khói thuốc rê, nên tôi chỉ hít vào một tí khói. Không nghe được cả. Hơi thở thứ hai của tôi kéo dài thật lâu. Trời ơi! Sao nghe ngon một cách lạ lùng. Một nỗi thống khoái, thư sướng vô tả, tê rần khắp cả châu thân. Đầu tôi bừng sáng vì say thuốc và cũng vì sung sướng vô tả. Cuộc đời thật đẹp vô cùng.
Tôi ngã xuống nằm xuống, yên mắt lắng nghe chất nicotin phủ vào phủ, tung hoành trong huyết quản tôi. Tôi lan man phải nghe một câu nói náo động:
- Tưởng sao! Thuốc rê ngon đến thế này, lại dễ tìm, lại rẻ, thôi thì cứ hút. Tội chi mà bỏ nhỉ! Nó có hại gì đâu! Hút thuốc, ghiền thuốc đâu là tật xấu, đâu có ai cười l
Thế là tôi xuôi tay đầu hàng. Những điều tôi không phải là sợ thuốc rê, mà trở thành kẻ thích thuốc rê nhiều hơn ai hết. Thuốc và giấy đã cho hết rồi, tôi liền nghĩ kế, lang thang xuống quản lý G2 kỳ lân chia được một rê và một tờ giấy quyến rũ nữa.
Không có gì để gói, để gọn gàng gọn gàng như anh em, tôi rứt một địa phương nhỏ, rọc giấy cuộn nhỏ để trần cho vào túi áo bà ba. «Chu» rồi! Còn bao nhiêu tôi xin một tờ giấy gói lại, để xuống cảm giác nhẹ nhàng.
Nhớ tới cảnh của tôi, nghe Hải Minh kể nỗi đau về nỗi thuốc lá ở đây tôi thông cảm vô cùng, sự thông cảm của người đồng cảnh ngộ. «Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu», là vậy.
Hai Minh chanh giấy quyến rũ, rứt thuốc tư vấn một lời đưa lên đèn. Cử chỉ đó chậm rãi, giá trị làm sao. Đưa lên miệng, Minh thở một hơi dài, mắt lim mờ, khói đâu mất hết. Mãi lúc sau, khói mới từ mũi, từ miệng tuôn ra từ từ, từ từ lan nhẹ lên không.
Minh phát biểu ý kiến ​​:
- Đã thiệt, anh Tư!
Tôi cười, nhớ tới cái ngày bỏ thuốc ở bệnh viện G2.
Bên ngoài có mấy anh chị em dưới bếp đi lên. Hai chiếc đèn flash hiện ra ở góc sân.
Minh hỏi vọng ra:
- Giải quyết xong ba cái thịt rồi hả?
Tiếng vọng vào:
- Xong rồi, anh Hai.
Minh quay sang tôi:
- Lần nào cũng thế, anh! Hễ bắn được bò rừng hay nai là ai người mệt mỏi đứ đừ. Anh nghĩ coi, bốn trăm ký thịt đâu phải ít gì. Bay ra cả nửa căn nhà. Khó khăn là mình không có gì để cứu, để chứa. Làm ăn liền một bữa, bất quá nhiều lắm là sáng kiến. Số còn lại muốn giữ ăn lâu, chỉ có hai cách: muối và phơi khô. Muối cũng quý giá ba ý. Vì không có hũ hũ gì, rồi để lâu có giòi, hôi ăn cũng không được, bỏ uổng.. Thành thử phần lớn phải phơi khô. Nhưng phơi khô, muốn cho ngon phải thái thịt ra từng miếng mỏng bằng bàn tay, nhúng nước muối trước khi chào ra nắng. Anh thấy đó, mười mấy người xúm thái thịt từ chớp tối tới giờ mới rồi. Ý là thái độ xong nước chưa phơi. Còn cái độ sáng mai xúm nhẹ ra rỏ...
Hiền, Du và hai cậu thanh niên nữa vào nhà, đứng lóng ngóng xung quanh bàn. Minh đi vào bên trong, ngồi vào bàn làm việc.
Minh bảo:
- Ngồi chơi, các đồng chí!
Du ngồi xuống cạnh tôi. Hai cậu kia ngồi với Minh. Chỉ có cột gốc dựa trên Hiền. Minh hỏi Hiền:
- Cô Hiền chắc chắn là nóng nghe chuyện Sàigòn lắm phải không?
Hiền cười:
- Vậy đừng anh Hai coi, nhà cửa gia đình quê quán tôi ở đó mà. Biết anh Tư Hùng mới ở Sàigòn ra, không nóng được.
- Ù, hỏi gì thì hỏi sơ sơ ba cái đi. Đã muộn rồi. Gần mười hai giờ muộn rồi. Còn bao nhiêu để mai, để mờ. Ảnh ở đây, mặc sức mà hỏi. Bây giờ hình ảnh đi đường xa còn mệt mỏi, lại muộn... Đồng ý chớ cô Hiền?
Du cũng cười xen vào:
- Ừ, muộn màng! Tui đồng ý để mai!
- Ơ! - Hiền nói- Cái anh này! Ai hỏi anh mà anh đồng ý lãng đãng vậy!
Chợ Du la lên:
- Máy bay! Máy bay nghe!
Nhanh như gió, đèn flash trên bàn tắt phụt. Không hiểu ai thổi mà nhanh thế. Long tai nghe thật kỹ năng mới nghe tiếng rì rì nhỏ xíu của phi cơ từ xa vọng lại
Hiền phần nữ:
- Anh Du phá đám hén? Máy bay ở đâu?
- Đó, mấy người lóng tai nghe cho kỹ coi!
Hai Minh nói:
- Ờ! Có tiếng máy thiệt hại. Lỗi tai anh chàng thiệt hại!
Rồi Hai Minh Cô gái rời khỏi bàn bước ra sân vườn lớn
- Vịnh máy chủ! Máy bay nghe! dưới lửa lửa, tắt đèn đi nghe! Máy bay gần tới rồi đó.
Có nhiều giọng nữ, ơi ới, lập lại:
- Máy bay! Máy bay!
Du laugh hinh hích:
- Ê! Tắt đèn, ai ở đâu ngồi yên đó. Không thể chuyển động, rục rịch gì đó! Ai rục rịch phong phú ba tháng ngồi.
Cơ sở ngôn ngữ tăng dần. Một lên bạn tiếng, tào lao:
- Cái thằng phi công này coi bộ chưa có vợ.
- Sao mầy biết nó chưa vợ?
- Biết quá đi chớ! Nếu nó có vợ thì bây giờ nó đâu có bay bậy vậy! Nó bay, nó để vợ nó ngủ với ai?
- Bạn nói theo thứ tự rồi. Thằng này có vợ nhà, vợ nó ghen. Hồi tối tới giờ nó đi chơi, bây giờ, bây giờ muộn nó về nhà ngủ thiết bị vợ nó nổi cơn tam bành lục cướp, hỏi đừng hồi phục tối đến giờ đi với con mặt tròn điêu khắc nào. Rồi vợ nó đạp xuống giường. Ức tình huống, cu cậu leo ​​lên máy bay, bay một vòng cho tức giận.
- Sao mày biết không?
- Thì tao mới nghe hai vợ chồng nó nói chuyện nhau đây!
- Ê! Xạo bạn! Chào! Chào! Nó bay ngang đầu đó. Đừng chơi ỉa bậy vài địa phương, cực lắm đa! Thứ tư này là Dakota giả mắm ruốc mà!
Tôi tư vấn một liều thuốc. Rõ ràng tiếng cơ bản của Dakota chậm rì. Hiện tại, cơ sở này đã được phát triển. Chắc chắn Hiền cũng không đủ ngẫu hứng để hỏi chuyện Sàigòn đêm nay.
° ° °
Ở buổi đầu tiên mới đến đã có thông cảm của Hải Minh và toàn thể anh chị em trong đơn vị, tôi thấy mình được an ủi rất nhiều, nhẹ nhàng đi mọi phiền muộn, làm dịu «cơn bão chính trị» đầy thù hận, xâu xé giữa lòng tôi.
Phần lớn những anh chị em ở B195 là những người cùng một tâm trạng, dù cảnh ngộ khác nhau nhưng cùng là món hủi bạc đãi tinh thần như nhau. Trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ này, không còn phương tiện giải trí nào khác, đành phải cam tâm chịu đựng, giúp đỡ nhau, chăm sóc thương yêu nhau. Tình thương đó trải ra, chan hòa, đều khắp.
Ngày ba buổi, không bình, không thực phẩm, chúng tôi chỉ được cung cấp muối tiêu chuẩn cho mỗi người 5 ký một tháng. Cho cả đến dầu hôi, mỗi người được cấp 2 đồng một tháng trong khi dầu 5đồng/1lít. Hải Minh cho biết tháng này chưa đáp ứng được, Đảng U.50 đã chỉ thị cho hay vì chưa tổ chức xong cơ sở thu mua và hệ thống vận chuyển nên dầu hôi cũng không còn. Từ nay, mỗi đơn vị phải tự động thu thập để phù hợp với hoàn cảnh mới.
Ở khu vực chúng tôi ở, vùng đồi cao, mọc rất nhiều. Kè là một loại cây như dừa nhưng tàu lá lại giống như cây chà là, lá cây mặt cật dùng để đan nón lá. Cung cấp trang phục như dừa đó, chúng tôi mỗi ngày cho người đi đến ngã cây, bó cành lá lấy những bắp vế non mềm và cổ hủ của nó đem về băm nhuyễn ra nấu ăn, thay cho bình.
Khoai mì, dù sao cũng thuộc loại ngũ cốc. Nó có chất bột. Ngán, khó ăn nhưng bổ dưỡng, nuôi cơ thể được. Người ta vẫn khỏe, còn sức lực. Đàng kè này là một món vô bổ, khó gấp gấp mấy khoai mì. Không thể để dạ dày trống rỗng, «đói đầu gối phải bò», đã qua ăn vậy chứ biết sao. Trong khi đó, những lúa thóc, bắp khô, khoai mì do chúng tôi sản xuất ra, mục tiêu phải được cho vào kho, giao cho Đảng ủy khu A đến nhận để...dự trữ!
Để tưởng thưởng công lao, chúng tôi chỉ được phép truất số lúa hoặc bắp ngô ra đủ dùng một bữa ăn liên hoan mà thôi, kêu gọi chào mừng mùa thu hoạch tốt. Theo định nghĩa chung của tập thể, quyết định số lúa, bắp không được cho ra ăn liên hoan. Phải dành dưỡng dưỡng «chiếu cố gắng» cho những anh chị em bị bệnh.
Đảng ủy khu A giải thích rằng, thực phẩm dự trữ, lúa, bắp của B195 sản xuất ra cũng như lúa, bắp của các loại C102, C104, C108 vv.. sản phẩm, có giá trị tương đương với các loại vũ khí đốt được của C110 (Ban quân khí và Bình công nghiệp U.50), tương thích với các công ty không sản xuất khác. Vậy thì, tại thời điểm các đơn vị khác không làm nhiệm vụ sản xuất bột ngũ cốc, họ sẽ ăn gì để sống? Vì vậy, có thể không có bất kỳ công việc nào về các đơn vị sản xuất bột ngũ cốc, hoa màu tự động sử dụng số bột ngũ cốc hoa màu.
Phải xác định sản phẩm bột ngũ cốc là một công việc đóng góp thứ hai cho Đảng, cho cách mạng miền Nam. Nó không phải của bất kỳ đơn vị riêng nào, cũng không muốn được xử lý. Ai hấp xử lý có nghĩa là ăn trộm, là tham ô, coi thường kỷ luật của Đảng, hòa bình chánh sách Đảng, tiếp tay với đế quốc Mỹ Diệm chống Đảng, chống lại cách mạng...
Phải thành thực nhận rằng, ở thế giới của Đảng này, «Đảng» là một thứ gì đó có giá trị khoáng chất, bất khả xâm phạm. Chỉ biết có phục tùng. Nó đã trở thành một biểu tượng, một thói quen. Một mảnh bất khả kháng thứ yếu. Nó là «sức mạnh vạn năng» mà tất cả mọi người chỉ biết phải tuyệt đối phục ngọc. Đó là kỷ luật tính, tổ chức tính kinh tế trong tư tưởng của mọi người như hơi thở, không thể thiếu. Trong thế giới đó, dù sao tôi cũng chỉ là một người, một chiếc lá trong đám lá khô bị cơn bão cuốn theo. Làm sao được?.
Thành ra, kè kè vẫn là kè đều đặn, liên tục.
Cũng có thể, chúng tôi vẫn còn thịt rừng dù không biết sẽ ra sao?
Tình trạng đó càng kéo dài càng làm cho sức khỏe của con người trở nên khỏe mạnh gần như bị tiêu hao dần dần mòn. Một số lớn kiệt sức, gầy yếu, xanh xa thêm thảm.
Cách chúng tôi hai giờ đường rừng, Đảng ủy khu A đã đặt một loại thuốc chữa bệnh G3 làm một y sĩ và hơn một năm y tá, nghiên cứu thương mại để phục vụ các đơn vị ở khu vực này, đặc biệt nhất là chiến dịch phục vụ cho các đoàn có thể đi theo đường dây, hàng ngày từ Miền Bắc trở về Nam.
Để giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng của chị em trong đơn vị B195, tôi bàn với Hải Minh, luân phiên đưa anh chị em đến điều dưỡng bồi dưỡng ở bệnh xá. Lúc đầu, khi chúng tôi gửi bệnh nhân đến, Ban Chỉ huy bệnh xá G3 tuy có khát nhưng vẫn thu. Sau G3 không nhận nữa, quyết định trả lời lý do: những anh chị em đó không phải sốt rét. Những thứ đó còn báo cáo về Đảng phản ứng A trách nhiệm B195.
Tôi đã tìm thấy tình huống thực sự tối ưu nên bàn làm việc của Minh sử dụng phương thức khác. Phương thức đó là dùng muối thừa trao đổi gạo của đồng bào thuộc dân tộc thiểu số Sa Tiên ở đồi Bù Cháp. Buôn bán đồng bào cách cơ sở của chúng tôi hơn một giờ đường rừng.
Mặt khác, chúng tôi tổ chức nhiều giải toán đi đào tỉa. Củ chụp là một loại khoai như khoai mỡ, khoai ngọt. Củ to bằng cổ chân, mọc thẳng, sâu trong lòng đất. Sâu đến bốn thước là chuyện thường xuyên. Cho nên của chụp rất dài, nếu không đào tới đâu ranh giới ở đó thì nó lại nảy ra điều gì đó giống như một đoạn tre dài xọc.
Vùng tôi ở, bên này sông Đồng Nai, không có ảnh chụp phải sang bên kia sông, thuộc vùng đất Khu 6, miền Nam Trung Bộ mới có. Mỗi chuyến đi, về mất hai ba ngày trời. Giúp đỡ tình hình ăn uống được cải thiện dù thế nào đi nữa. Ngoài ra, hàng ngày chúng tôi tìm thêm chất tươi bằng cách gài bẫy bắt thú, đi săn và đánh cá ở sông Đồng Nai.
Vùng tôi ở bên này Đồng Nai Thượng là vùng có nhiều đồi thấp nhưng cũng có nhiều bàu rộng mô mo. Càng gần về bờ sông, chếch hướng tây bắc, anh chị em cho biết, mùa mưa đến, vùng nước ngập mo. Lau sậy chìm dưới nước như trên đồng cỏ hoang vu Đồng Tháp Mười. Mùa khô đến, nước hạ xnống còn trơ lại những bàu, đầy cá bóng, cá trê, cá lóc, cá rô, các loại cá đồng.
Cá ở đây, từ hàng trăm, hàng ngàn năm nay, không ai bắt nên mức độ sinh sản của chúng nhiều vô kể. Nhiều gấp mấy lần cá ở Đồng Tháp (Ba Răng, Hồng Ngự), ở Cà Mau (Rau Dừa, Cái Nước, U Minh Hạ vv..) Cá lại to. To to do not known to. Rêu cá bằng ngón tay, mọc dài năm ba phân. Năm rồi tức thì vào những ngày hè năm 1962, khi tổ chức cảnh quan của C110 (Ban Quân Khí và Bình công xưởng khu A) phát hiện các vùng bàu có nhiều cá, lập tức các đơn vị toàn khu A được phổ biến cho biết ngay lập tức, tổ chức các toán tự kéo đến đá bài, kéo nhóm để làm mắm, làm khô dự trữ thực phẩm cho đơn vị. Ngoài ra còn mang cá tươi về cho đơn vị ăn «sốt dẽo». Và, Đảng Khu A phái một tiểu đội mang đủ dụng cụ «đồ nghề» đến vùng bàu khai, chuyên làm mắm, làm khô để dự trữ, bán ra cho các đơn vị với giá rẻ: 3 đồng/1kí mắm, 5/1kí khô cá, cá bông và tổ chức ở Bình Mỹ đường 13, đi Sàigòn bán để gây tự túc.
B195, Hải Minh cũng phân công hai tổ tam tam sáu người, hai nam bốn nữ mang thùng thùng, tải muối đến vùng bàu làm cá. Bàu lớn, rộng mênh mông, dù tìm được những bàu nhỏ đi nữa, nước có cạn mấy đi nữa, mà dụng cụ không có, lấy thùng bàng nước thay giải giai thì kết quả là chuyện bàng đá vá trời. Kết quả là xách nước ra sông. Ấy thế mà, sáu anh chị em chỉ việc bơi đại xuống bưng, bàu cạn thu cá, vạch cỏ theo, mò những hang cá mòn lẵn, trong năm ngày cũng đã tặng về cho đơn vị vừa khô vừa mắm, vừa cá tươi hơn 200 ký họa. Câu chuyện không thường xuyên xảy ra. Cá bông, có con nặng gần 20 ký. Cá lóc nặng đến 5 ký tự, còn cá rô bằng bàn tay...
Năm nay mùa khô đã đến từ lâu, nhưng mực nước vùng bàu chưa cạn. Nghe anh chị em kể lại câu chuyện làm cá năm tôi thích vô cùng. Trước kia tôi từng sống qua Đồng Tháp, U Minh, Cà Mau, tôi đã từng đi cắm câu, đánh đìa, kéo lưới. Tôi ham vô nghĩa. Giờ nghe nói cá Đồng Nai Thượng, hãy cứ nôn nao nhìn cho đến mùa bàu cạn nước, đi cùng anh chị em một chuyến xem sao.
Tôi bàn với Hải Minh nên chuẩn bị cho mùa cá năm nay, chuẩn bị có chug mới bắt được nhiều cá, ít mất thì giờ hơn.
Tuy không thể so bì được với « Tiểu đội sản xuất mắm, khô» của U.50, họ có máy nước, có mạng lưới, có đủ đồ nghề của một bộ phận chuyên môn đánh cá, nhưng việc làm đến Ban Tiếp Trợ giúp mua cho vài tay lưới ngắn, một cái chài cá bằng lưới nylon bán đầy dẫy ở mấy cơn chợ Ông Lãnh chắc chắn không phải chuyện khó khăn gì. Tiền nông thì tiền khẩu phần mỗi ngày 3 đồng, thông suốt mấy tháng nay đơn vị đã tiêu tốn đồng nào đâu? Năm sáu màu bạc mua rồi.
Hải Minh hoàn toàn thành ý kiến ​​của tôi và nhờ Ban Tiếp Liệu mua về xong.
Để đối phó với nạn hết dầu hôi, nghĩa là hết ánh sáng giữa rừng tối om, học tập kinh nghiệm của đồng bào Thượng, chúng tôi xách rựa, xách búa ra mấy cây dầu đến ba bốn người ôm chưa giáp,tréo, khoét thành những bộ cây nhân tạo. Dầu từ trong thân cây sẽ gây ra phiền toái, mỗi ngày, một ít cây nhất cũng cho được nửa lít dầu.
Dầu đen ngòm,so sánh và bôi trơn khác dầu trai mù u chút nào. Dầu này, sau khi hỏi ra tôi mới biết rằng những lá lá tàu Chợ Lớn trước đây gọi là dầu đầu trong bán cho nhân dân dùng để nấu với chai địa trét ghe tím, sơn cột nhà, rui nhà cho chắc, lâu mục ở các vùng quê. Thì ra loại dầu mà chúng tôi «khó khăn ra sáng kiến» hôm nay lại là loại «dầu trong» ông bà ta từ xưa đã biết dùng rồi. Ngay cách lấy dầu cũng chỉ là sự học lại hồi mới mẻ gì.
So với dầu hôi, loại dầu trong này chậm bắt lửa, lại khói mù, lẹt. Ánh sáng của nó mờ ảo như những bóng tối trong các xóm lao động Sàigòn, câu đi câu lại hàng hoàng cung nhà qua một cái «công tơ» 5 «am-pe». Dầu cho vào chai thay cho dầu hôi, dầu không sao thu hút lên được cho nên muốn đốt nó chúng tôi phải thú nguy hiểm hoặc những chén bím, xé băng, hoặc lấy bông gòn làm tim thư giãn trong dầu, canh đầu lên mỏm, cho cháy để đốt cháy, có thể ra mới nhướng mắt số sát đèn đọc được một đoạn sách hay vài chữ về đêm.
Dầu hôi, giờ trở thành thành một vật quý giá. Còn bao nhiêu, chúng tôi sẽ dành riêng cho việc chuyển đổi vào hộp quẹt, bật lửa, tiết kiệm từng thời gian một.
Về cuộc sống mới của tôi, từ sau cái ngày đến B195, tôi dành ra phân nửa thì giờ đây để biên soạn tài liệu giáo dục khoa học, thiết lập chương trình, kế hoạch học tập cho đơn vị. Buổi sáng ở nhà soạn thảo tài liệu. Buổi chiều sau khi ăn cơm thì dạy học. Chiều cùng ra Rùng rừng, lao động với anh chị em.
Phụ kiện dạy văn hóa với tôi là một ban gồm có 4 người. Ngoài tôi còn Hải Minh, cô Hiền và cô Ngân. Cứ mỗi chiều, sau khi ăn, từ 12 giờ đến 2 giờ chiều là lúc các lớp học bắt đầu hoạt động. Sợ Đảng ủy U.50 trềnh tròn, kiểm soát nhiệt tình thường xuyên xử lý thời gian công tác để học văn hóa, chúng tôi đành phải «tranh thủ» bỏ giấc dài. Như vậy vừa được học, vừa không mất thời gian công chung.
Theo thời gian biểu, sáng ra 6 giờ gần 15 chúng tôi phải dậy. 6 giờ sáng. 6 giờ 30 ra Rùng. 11 về. 11 giờ 30 ăn chiều. 12 giờ học văn hóa đến 2 chiều. Sau đó lại ra rẫy đến 5 giờ 30. 6 giờ tối ăn cơm chiều. Xong là «hội ý» tổng hội tam tam, tự làm và ngủ vào 9 giờ 30 tối.
Chúng tôi vẫn hoạt động như mọi khi. ngày, coi như không phút nào tôi được miễn phí trong suốt. Hết công việc này đến công việc khác. Có lẽ nhờ thế, tôi không còn thì giờ suy nghĩ sâu sắc và những tia rứt, cào của nội tâm. Tư tưởng diễn thuyết bùng nổ trong hoàn cảnh mới.
Tôi vẫn biết cái mộng về Sàigòn, cái câu chấp nhận lời tranh luận phải còn lâu lắm mới có thể thực hiện được. Nếu người ta cứ bắt tôi ở nơi đây mãi mãi không có lần đi về đồng bằng lần nào, biết sao đây? Tôi may mắn có được số lượng đen để đến thế này...? Dù sao cũng phải có một ngày.. «Nhẫn sẽ thành công.» Tôi xem đó là một quy luật tự nhiên.
Hoạt động của tôi vẫn ổn định. Lớp học từ cấp 1 đến cấp 2 tiến bộ một cách tối giản, thực tế không làm gì cho tôi vui bằng. Các môn học của các lớp chỉ bao gồm luận văn, chính tả, toán hình và số học cho cấp 1 cấp tiểu học.
Ở cấp 2, cấp bậc Trung học đệ nhất gồm có Việt Văn và Toán Lý Hóa. Tài liệu giáo khoa hầu như là các sách giáo khoa xuất bản tại Sàigòn, ngoại trừ một số cuốn xuất bản tại Hà Nội, làm những cuốn cán bộ từ Bắc về Nam qua đường dây Ông Cụ, đi ngang đây tặng cho.
Tôi sợ nhất môn Việt Văn, vì nó « phản ảnh » đường hoàng giáo dục của chế độ vô sản. Nếu tôi cung cấp chương trình và phương pháp giảng dạy văn học Việt Nam theo phong cách Sàigòn, thì nhất định nó sẽ là hình ảnh đẹp nhất cho tôi. Chính trị mạng lai của tôi sẽ giải quyết vấn đề này. Giác ngộ hay không giác ngộ, Phản động hay không phản động giai cấp vô sản, lập trường giai cấp, tư tưởng như thế vv,.. đều có thể hiện qua các bài học và lý luận của văn học cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tôi sợ nhưng tôi không thể bỏ qua môn học này. Biết sao giờ? Thực tế vừa được dạy. Dù rằng tôi đã dạy đúng chương trình phổ thông cấp hai của Bộ Giáo Dục Miền Bắc.
° ° °
Càng ngày tôi càng đen ra, càng gầy thêm nhưng niềm tin ở trong lòng tôi lại càng lớn, càng cứng hơn bao giờ hết. Tôi cũng không ngờ sau mấy tháng đến đây, tôi đã luyện được cho mình một đức tính chịu đựng minh họa, bình tĩnh dị thường.
Cuộc đời giúp cho tôi không quan sát và trưởng thành một cách chính thống, trên phương diện hiểu biết và suy tư trong tâm tưởng mình. Sự yên tĩnh và nỗi lo chuyên môn đau khổ cùng cực của rừng Đồng Nai Thượng dạy cho nhiều việc, giúp cho tôi mở rộng tầm nhìn.
Loay hoay vài chốc đã đến tháng tám. Mau thật đấy. Mới đây, mới ngày nào đây, tôi rời Sàigòn giờ đã tháng tám rồi. B2 gửi đến cho chúng tôi một tài liệu học tập chính trị về ý nghĩa và lịch sử cuộc cách mạng mùa thu 19-8-1945, kèm theo đó là một thông hướng dẫn học tập, động viên chính trị, phát động thi đua trong đơn vị.
Trong thông tin hướng dẫn, có một đoạn mạnh mẽ về hậu phương lớn miền Bắc của tuyến đầu quốc gia, Miền Nam, đồng bào rừng thắt lưng bụng, hy sinh tất cả cho cuộc chiến chống Mỹ Diệm. Mỗi người đều thi đua làm việc bằng hai với những khẩu hiệu «Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm» «Ngày không giờ, tuần không thứ». Thanh niên phụ nữ, thi đua «3 khoan, 3 chống» vv..
Tôi thư giãn tài liệu xuống, cười một mình. Thi đua làm việc thế nào? Nhưng so ra, ở B195 này còn hơn miền Bắc nhiều. Không thi đua còn hơn thi đua. Hãy sống chúng tôi như thế. «ngày không giờ, tuần không thứ» mà còn thêm tháng không ngày, năm không tháng nữa kia.
May, B195 nhờ cái đồng hồ đeo tay của tôi có lịch ngày với công chịu khó nhớ tháng của tôi nên ít ra cũng biết được ngày tháng. Còn lại vài ngày nữa trong tuần lễ được phép. Đã không lịch treo, cũng không báo chí tin tức, radio cũng không ghi chú thì làm sao chúng tôi còn có ý thức đúng đắn về thời gian?
Nhân dịp này, tôi bình ra ý nghĩ: Làm cái lịch Tây. Nghĩ là làm liền. Tôi đi lấy giấy pelure mỏng của một xấp tài liệu cũ mà Hải Minh bỏ lăn lóc trên quần áo, cắt ra từng mảnh nhỏ bằng ngón tay cái, xem đồng hồ viết số ngày, tháng theo thứ tự, từ tháng tám cho đến tháng 12 năm 1963. Duy có thứ, tôi phải chạy hỏi cậu cảnh bảo vệ từ B2 tới, xem hôm nay là thứ mấy để bắt đầu cho lịch lịch thứ nhất của tôi.
Giúp thế, trước kia chúng tôi cứ bảy ngày nghỉ một bữa, không biết ngày nghỉ có phải chủ nhật không, từ giờ trở đi không phải nghỉ vào ngày khác.
Ngày chủ nhật sau đó, Hải Minh rủ tôi đi buôn Bù Cháp đổi thuốc lá trồng của đồng bào Thượng. Tôi vui vẻ nhận lời. Trong lúc Hải Minh lui cui xuống nhà bếp xúc vài lít muối để làm vật trao đổi, tôi lo rút quai dép và lấy khẩu súng trường Mas cho đạn vào ổ, che lên vai.
Chợ Hiền từ ngoài bước vào hỏi tôi:
- Anh đi đâu vậy, anh Tư? Chủ nhật anh không nghỉ sao?
Tôi cười:
- Chủ nhật cập nhật nên mới đi chơi!
- Anh đi đâu?
- Bù Cháp! Đi ngoại giao với đồng bào Thượng đổi thuốc lá Trảng.
Hiền ngạc nhiên:
- Anh đi có một mình thôi sao? Làm sao anh biết đường?
- Không! Có anh Hai Minh nữa!
Mắt Hiền sáng lên, bước sát bên tôi, ngoẹo đầu sang bên làm nũng như em gái nhỏ:
- Anh!Anh Tư! Anh cho Hiền đi với nhá! Hiền đi với nhá!
Tôi không mịn nhìn Hiền, tránh ánh mắt nàng:
- Đi thì... Tôi... tôi cũng muốn có Hiền đi cho vui nhưng Hiền hỏi anh Hai Minh đi!
Hiền vẫn nũng nịu.
- Anh hỏi cho Hiền hà! Nghệ anh?
Tôi bối rối đầu óc.
Như vậy là chúng tôi: tôi, Hải Minh và Hiền cùng đi đến buôn Bù Cháp. Hiền mừng nổi, vui vẻ như chim sơn ca. Hiền cho tôi biết, tủ thuốc quân y của dư nhiều thuốc sốt rét chloroquine và aspirine lắm. Dư vì chị em «trốn» uống thuốc phòng, sợ cái vị «đắng ngược» muốn gói của chloroquine. Thuốc này làm Ngân (được đơn vị cử làm chiến sĩ bảo vệ sinh học, giữ thuốc và phụ trách chăm sóc sức khỏe cho đơn vị, trong khi đơn vị chưa có tình thương, hoặc y tá phụ vô địch) cửa hàng giữ, nhiều thành viên cũ mèm muốn đóng bóng ra.
Tôi bình ý hay nghĩ là mang số thuốc kia «dân vận» đồng bào khỏe thì tốt quá. Bàn với Hải Minh, Minh cũng đồng ý và giao cho Hiền lấy thuốc, phụ trách việc cho đồng bào Thượng. Nhưng Hải Minh cười:
- Anh Tư coi! Tôi nói có sai đâu. Tháng nào buổi trình bày đơn vị, chị em mình cũng báo cáo uống thuốc phòng đều, uống thuốc phòng tốt. Vậy mà bây giờ lòi ra cái vụ thuốc dư nhiều quá đến nỗi cũ mèm, đóng đèn. Anh biết không, mời gọi xung quanh nhà bếp tôi cứ nghiện thuốc sốt lạnh liện hoài. Có lúc, mấy bà đó liêng lên nóc nhà, mình đang ngồi ăn, tự nhiên thấy trên nóc nhà rơi xuống cái độ. Tưởng gì mạch lại thì Nivaquine.
Trên đường đi, Hải Minh kể cho tôi và Hiền nghe về một số phong tục, tập quán của đồng bào Thượng ở những buôn bán mà Minh đã đi qua, nhất là trên dây Ông Cụ đường từ Hà-nội về Nam.
Khi đến vùng sông Ba, quân đoàn của Minh, một tối, đến gần một buôn Thượng thuộc Quốc Gia Kiểm soát. Đoàn đi, trà sắp hết mà thực phẩm, đồ dùng, thuốc hút, trà.vv. nhất là cái gì cũng không còn. Nghe đồng chí giao liên Thượng Bảo gần đấy có buôn đồng bào, có bán đủ thứ.
Nhất là nghệ nói có trà, có thuốc thơm, có gà, có bình, ai mắt sáng nổi lên. Ban Chỉ huy Đoàn quyết định mạo hiểm, dẫn dắt một tiểu đội súng yểm trợ, làm chính ủy viên hướng dẫn, theo anh giao liên vào buôn bán thực phẩm bằng tiền miền Nam.
Minh được chọn vào tiểu súng. Trong khi mọi người lo mua bán thì Minh được cắt gác ở một ngả ba đường. Chỗ đó có năm sáu cái nhà, đèn đuốc sáng choang. Trong nhà, nhà nào cũng có ba bốn thiếu nữ Thượng. Kẻ mặc áo màu hồng, người mặc áo xanh, son phấn lòe loẹt, nước hoa thơm phức hợp. Cô nào cũng đeo bông tai, đeo vàng lướt trên tay, chậm lo tiếng Thượng Ba Na làm Minh nghĩ hiểu được điều gì.
Đáng lẽ phải im lặng trong bụi, nơi này vẫn mê nhìn, không hiểu đây là cái gì? Minh thoáng qua thoáng lại ngoài đường, bị một cô nhìn thấy, chạy ra nuôi tay kéo áo vào. Giữa lúc đó ở nhà bên cạnh có hai dân vệ đeo súng đi ra sân. Minh chết điếng, không biết phải làm thế nào? Không có súng sợ hãi không thoát ra, rồi còn lại những đồng đội trong buôn, chạy lại càng chết sớm. Cô gái Thượng cười đùa, nói với Minh mấy câu, Minh không hiểu gì cả, nhưng linh tính báo cho Minh biết đây chính là những cô gái điếm người Thượng. Trong giây phút điếng người đó, Minh nín thinh đi theo để hai ông dân bảo vệ kia không để ý.
Đến trước nhà thì hai dân vệ đã khuất ngoài ba, giờ này Minh mới vùng lõi:
- Gì vậy mấy chị?
Đến như mấy cô gái Thượng thôn lân cận. Ngỡ lâng vì tưởng Minh là «khách» Thượng. Minh thở phào, nói một hơi, giải thích cho biết mình là «thông qua quản bộ», «thông qua cách mạng». Một cô chận vỡ Minh một câu bằng tiếng Việt lơ lớ:
- «Thằng cách mạng» nghèo hả? Lấy «thằng Quốc Gia» năm hào, «thằng cách mạng» nghèo, «ủng hộ» hai chiều thôi!
Đường chạy được phát ra. Trong nhà các cô gái Thượng la om sòm lên. Không biết sao, Minh bắn mấy phát súng báo động rồi xô giò lên cổ chạy về ngõ cũ. Báo hại tối hôm nay, cả đám cùng nhau thúc đẩy mạng. Và Minh về Đoàn được sản xuất một mẻ phê bình sữa bùn cười.
Từ mạn sông Ba về đến Đồng Nai Thượng, Minh cho biết đồng bào Thượng có rất nhiều dân lộc khác nhau không kể hết. Dân tộc thiểu số không còn đầy đủ một phần trăm người, sống trong vỏ trong một buôn nhỏ. Nhiều người buôn bán gần nhau nhưng lại khác dân tộc, khác tiếng nói, suy nghĩ ai hiểu ai cả.
Như ở sông Ba, hầu hết một vùng xung quanh khu vực này, toàn là dân tộc Ba Na. Dân tộc Ba Na là dân tộc đông đảo bậc nhất, có đến năm trăm ngàn người trong số các dân tộc thiểu số ở miền Nam. Kế đó là Ê Đê, Rha Đê. Quanh vùng Đồng Nai Thượng cũng có mấy dân tộc khác nhau như Bờ Rưng, Bờ Nông Rưng, Bờ Nông Ré, Sa Tiên, Châu Mạ, Lý Lịch vv..
Đồng bào Thượng ở Bù Cháp thuộc dân tộc Sa Tiên. Vì vậy, với một số dân tộc thiểu số xung quanh buôn bán gần đây, đồng bào Bù Cháp tương đối văn minh hơn, vì khuyến khích còn tiếp xúc mua bán, đổi chác với người Kinh. Ấy thế mà... Minh kể cho tôi nghe:
- Cái lần đầu tiên tôi đem đến đổi thuốc trả năm mìn, chút xíu nữa tôi gói tới mật xanh. Đồng bào Bù Cháp, anh biết cái món ăn nào quý nhất không? Quý đến độ, bình thường trong buôn bán có hội hè lễ lộc cũng chưa đủ tiêu chuẩn cung cấp mà chỉ để dành phục vụ những khách hàng thật quý thôi. Lần đó, tôi sẽ hướng tới buổi ăn sáng, mười giờ nhẹ nhàng. Ông cụ già người Thượng nhà, sau khi gánh gần nửa gùi thuốc Trả ra đổi cho tôi một lít muối, mời tôi ở lại ăn cơm chơi. Anh biết cơm của đồng bào Thượng toàn là nếp, dù không phải nếp cũng loại dẽo gần như nếp. Cơm nấu trong ống thành ô xanh, đốt vỏ thơm thơm ngon lắm anh. Nghe thơm cơm, đủ chín nước miếng rồi. Nhưng khi tôi thấy con gái cụ bắt mấy con chà rang, chà rang là một loại giả bụng bình vành, có cơn nguy hiểm, ở lâu theo đó. Cô ta bỏ ống vô ô quế, như quế nem, rồi đổ vô nội đất, nấu canh lá bép thì tôi đã ngán ngẩm rồi. Ông cụ còn khỏe với tôi là có món này quý lắm. Xứ mấy khi có anh Đội đi buôn nên tặng quà anh Đội. Ông cụ đi lại bếp, mở một ống tre đóng nút kín. Bò hóng bếp, khói bếp đen thui tìm thấy nung.
Ồng cho biết đó là máu con min, tức là trâu rừng đó, vô ống treo để dành lâu lắm rồi. Quý nhất không có gì cả. Ông mở nút ống tre đưa lên mũi hít thở, mắt sáng nổi như thơm dữ lắm. Trời đất ơi, ổng cho tôi hít một cái, tôi muốn chết luôn.
Nó vừa tanh, vừa thúi, cái mùi độc hơn là mùi chết ma sình nữa. Máu để trong ống, nấu cho thúi, lâu ngày nó ngã màu xanh đen, rả nhẹt, nước tinh khiết... Cái món quý nhất để đãi khách như vậy. Đồng cho biết, mỗi lần ăn đâu phải trút ra ăn đâu, chỉ được lấy thanh kiếm vào ống tre vít lấy một chút xíu vào canh lá bép cũng đủ quý, đủ ngon.
Lần đó, nếu tôi không phải lãng phí, tôi đã ói đầy nhà. Túng quá, không biết làm sao, tôi làm bụng đau để từ chối bữa ăn quý giá của ông ta.Vậy mà cũng không tránh khỏi bị ông ta giận dữ.
Hiền nghe Hai Minh kể, cứ phun nước miếng lia lịa
- Thôi anh Hải? Ghê quá anh Hải! Nghe anh kể cũng muốn ói ra bây giờ nè!
Tôi hỏi thêm:
- Đồng bào Bù Cháp, họ có nuôi gà, nuôi heo gì không anh Hải?
- Có chớ! Họ nuôi loại heo mọi, nhỏ con nhưng thịt thơm ngon lắm anh. Gà cũng không thiếu thứ gì. Vì vậy họ lại thích ăn thịt rừng săn bắn được hơn là heo gà nuôi ở nhà.
- Mình không lui tới với họ bình thường, không giải thích,không hướng dẫn họ tiến dần lên như nếp sống của mình sao?
- Có chứ! Ở mỗi nơi buôn bán hiện nay đều có thể có các bộ vận động, các hoạt động phụ, đủ thời gian! Thôi rồi rồi anh! Bây giờ mình có đến, họ mời ăn cũng điệu nghệ lắm. Họ biết mình không quen “gu” của họ. Họ muốn mời mình ăn thì họ bắt gà giao cho mình, bảo mình tự nấu nướng nướng, không phải món bắt chà bông bỏ vô ống tự ô, quết nấu với lá bép hay thịt thúi cho thúi trong ống tre đâu. Chuyện đó là mấy năm về trước.
Trước kia đồng bào Thương ở buôn Bù Cháp, đàn bà con gái cũng ở trần như nhọng. Con gái 19, 20 cứ phây phây ở làn tắm chung với đàn ông con trai mà không gây rối kích thước cả.
Bây giờ, sống chung đụng ngày thường với người Kinh nên cảnh trên không còn nữa. Thường ngày họ cũng mặc đồ bà ba. Dù vậy, một số vẫn còn giữ thói quen che yếm và váy hồng.
Về đàn ông con trai, lúc nào cũng ở trần trụi trụi. P thở nắng ngoài rừng, ngoài rừng nên da như biểu tượng đồng đen, nổi đèn. Để che «đùm của quý», họ kiếm được một khúc côn ngang độ hai tấc, dài hơn thước cân, giống y như băng băng. Họ vây quanh hông gống như sợi trả thù da cho bản quân tập thời Tây. Ở giữa rún, họ chọn mảnh vải gióng xuống vòng sau sau và cột lại ở sống lưng.
Rượu họ uống là rượu «ịch», một thứ rượu cần. Họ tiến đủ thứ lá cây rừng, hàng ba nền thứ lá bỏ vào hủ, chế nước, rồi ủ men làm bằng rễ và vỏ cây rừng. Ủ như thế nhẹ hai ngày thứ sáu sau khi uống. Họ có một cấu trúc dài trong hủ. Thế là bà con anh em xúm lại tha hồ mà nút. Có khách đến nhà, họ cũng bê xu ra mời. Rượu lễ lạt, đăng đắng, cay cay, mát ra sao, thế mà say bò càn, ngã lăn ra sàn lúc nào không biết.
Đặc biệt, từ trước đến giờ họ không trồng hoa màu rau cải. Họ cũng không biết ăn những thứ đó. Họ chỉ trồng vỏ một loại lúa thứ, dẽo như nếp. Thấy bộ đội ăn rau, họ cười bảo:
- «Anh Đội» bằng nhau với con bò!
Chả là bò thì ăn cỏ. «Anh Đội» ăn rau giống như bò ăn cỏ. Sau đó «anh Đội» và con bò bằng nhau.
Thấy bộ đội ăn khoai mì họ cũng bảo:
- «Anh Đội» bằng nhau với con nhím!
Ăn bí, ăn dưa thì «bằng nhau với con chuột!» để diễn tả ý nghĩ của họ. Đối với họ, quý nhất là muối. Vì ở rừng nhiều khi không đến chợ được để đổi muối phải đốt tro cây dền hơi mằn mặn làm muối ăn. Ngược lại, họ rất ghét đường.
Có lần, Hải Minh mang theo mấy yên đường mía vào buôn để cho trẻ em Thượng. Theo lối suy diễn của Minh, trẻ con Việt một đứa trẻ trong số mười đứa trẻ thích kẹo, thích đường. Minh nghĩ trẻ con Thượng cũng vậy thôi. Nhưng khi Minh đưa một yên đường mía cho một chị chủ nhà thì chị ta bảo:
- Đường của «anh Đội» thú vị rồi!
Minh nghiêng, nghĩ hiểu, đưa đường lên mũi nhọn, nó vẫn thơm mà! Duy chỉ vì ra ngoài gió, đường sinh hơi nước nước chút chút thời gian. Minh chưa hiểu rõ thì chị ta bồi thêm một câu:
- Thằng con của «đồng bào» đang khóc nghe «anh Đội» nói cho đường sợ quá nín khóc rồi.
Về đời sống trẻ con ở đây thật đáng thương. Do tập quán cổ truyền, cũng như ánh sáng văn minh của nhân loại là một cái gì xa tít, ở tận tận đâu đâu nên đời sống phản khoa học, thiếu vệ sinh giết chết 95% trẻ con. Ngược lại, những đứa trẻ còn sống, thích ứng với hoàn cảnh sẽ trở thành một thứ đá, chai gỗ cứng thứ hai. Nắng gió, khí hậu của núi rừng không sao suy suyển được nó. Nó như thần tượng, lớn lên theo thời gian.
Ở rừng núi, vi trùng sốt rét là vua. Hài nhi được sinh ra với phương pháp sản khoa học bị mất vệ sinh, phần lớn bị chết vì vi trùng và vì lạnh trong những ngày đầu mở mắt chào đời. Kế hoạch đó là virus sốt rét.
Có lần, Minh đến buôn, thấy trước sân một nhà sàn, một đứa con trẻ kiềm ba tháng bị bỏ ngoài nắng, phía trên chiếc xe lá dầu, nằm dẫy dụa khóc cao. Minh hỏi thì sẽ nhận được câu trả lời:
- Nó bị lạnh, phơi nắng cho nó hết lạnh.
Được hỏi nếu nó nóng thì sao, «đồng tăng» thảnh thơi trả lời:
- Move ngâm nó xuống dưới, ngay lúc nào đó đã hết hiện tại.
Sự kiện ở đây, nói lên một cách hùng hồn tại sao đồng bào càng ngày càng ít người đi. Dân tộc bị «mòn» không phát triển nổi.
Đối với trẻ con Thượng, mới bốn năm tuổi đầu, biết đi biết chạy, biết nói vừa đủ là chúng bắt dầu sống «nếp sống của người lớn». Chúng có quyền «giống cha chúng, mẹ chúng. Hải Minh nhắc lại chuyện đây không lâu hôm nay, có mấy anh em đi đồng bằng về biếu cho Minh một gói thuốc thơm Ara. Nhân tư duy gà nấu cháo xay, Minh nhuyễn vào vận chuyển muối đổi gà.
Gặp một đồng bào nhà nhà, sẵn có thuốc thơm Minh lấy thuốc ra mời:
- Mời anh một liều thuốc thơm!
Anh chủ nhà mừng lắm, mắt sáng rực, nhận lấy thuốc. Giữa lúc đó vợ anh ta từ ngoài sân bước vào, nhà liền chỉ tay:
- Vợ tôi nữa! Vợ tôi một chút!
Minh lại vui vẻ móc ra một chút đưa cho chị. Nhưng anh chàng con mới bốn năm tuổi của anh ta, trên miệng đang ngậm một ống thuốc làm bằng gốc le dài ngoằng cũng rút ra, đưa tay chỉ lịa vào gói thuốc Ara của Minh. Nó sẽ lo với ba má nó rất nhiều tiếng Sa Tiên mà Minh không hiểu hết.
Minh tưởng cậu bé nhồi ống thông chỉ là một trò chơi nghịch ngợm, trẻ con nên thôi đừng ngờ mới lạ đã từng biết đầu tiên đã biết hút thuốc. Có thể thấy gói thuốc Ara đo đỏ, ngộ nó muốn xin chơi.
Minh cười với thằng bé. Nhà bảo trì của Anh:
- «Anh Đội»! Thằng con «đồng bào» một lần nữa.
Minh ngơ ngác, ngạc nhiên hết sức, nhưng cũng cười «cầu tài» khom xuống vuốt ve nó:
- Cháu còn nhỏ! Bây giờ cháu còn nhỏ. Chưa biết hút thuốc. Mai kia cháu lớn, «anh Đội» sẽ chọn cháu một đứa.
Anh chủ nhà cãi ngay:
- Không! Thằng con của đồng bào nó hút thuốc giỏi lắm. Nó biết hút thuốc.
Minh họa giả vờ không nghe được:
- Bây giờ cháu còn nhỏ lắm...
Anh chủ nhà lại Cướp lời
- Nó nhỏ nhưng nó cũng là một người. Nó cũng là một người. «Anh Đội» là một người, nó cũng là một người như «anh Đội». Bây giờ nó nhỏ, nhưng mai kia nó lớn bằng «anh Đội».
Thằng bé chiến đấu đầu ra vẻ tán thành lời cha nó nói. Túng quá Minh phải rút thêm một chút Ara đưa cho nó, mới tôi. Nó cười ngón chân, trúng mồi thuốc đang cháy của mẹ nó đưa ra khẩu súng, bập bập một cách thành rừng.
Nó hít mấy hơi khói, mũi ra có vòi, sung sướng một cách vô tả.
Rồi nó thôi lo một hơi, hơi thở như bình sản phẩm gì đó đoạn chạy xuống nhà, ra sân yêu cây ná nhỏ của nó, gắn tên bắn vung tí mẹt về gốc cây trước mặt.
Minh rung động cuộn. Quả là «một người». Lớn nhỏ bình đẳng như nhau!
Nhìn thằng bé bắn tên với cây ná bé tí, tuy nó nghĩ ra làm sao cả nhưng cũng đủ cho mọi người biết, đồng bào Thượng đã tập bắn ná từ thuở mới biết đi biết chạy. Trò chơi của trẻ con Thượng là tập bắn ná. Do đó, chả vô địch sao đến khi trưởng thành người Thượng ai cũng đều bắn ná bách bách bách, y như nhau.
Nhờ đó, họ săn thú rất tài tài. Với cái ná trên tay và nắm tên tẫm thuốc độc bằng mủ cây rừng bảo trong ống tre, họ hạ ai cọp, voi, nai, mang, mễn vv.. Thú rừng to mấy, mạnh mấy cũng chết. Sớm lắm vài phút đối với thú nhỏ, đút lắm một chút giờ đối với thú lớn.
Bắn được thịt, họ về gọi cả buôn xúm ra xẻ thịt mang về cùng ăn với nhau chứ không bao giờ ăn riêng một mình.
Mỗi người buôn có một người cầm đầu. Người đó là người già nhất. Họ nhiều nhất theo lệnh ông già này. Xin vui lòng ông già này được vui lòng buôn bán. Ông già này ghét, cả buôn đều ghét.
Nhà của đồng bào Thượng cửa hàng rời xa nhau, không như người Kinh, nhà này gần nhà kia. Đáng sống đời ở rừng nguy hiểm, thú dữ rắn rít chung quanh, đe dọa trực tuyến, phải sống gần nhau, kết nối đoàn thành sức mạnh để bảo vệ lẫn nhau mới có thể sinh tồn được. Nhưng vì tập quán, thói quen sống cô độc, yên tĩnh, không muốn người khác thămm khó, để ý đến nếp sống riêng của mình nên họ không thích ở sát nhà nhau. Họ sống sót trong những ngôi nhà sàn nhỏ, vừa là nơi ngủ, nơi ăn, nơi chứa đồ, không vách ngăn, an toàn gì cả. Ngủ cũng không mù, không mền. Họ rất hồn nhiên, đói thì ăn, gặp gì ăn ai, buồn ngủ cứ lăn ra ngủ...
° ° °
Chúng tôi nghe Minh kể chuyện về đồng bào Thượng một cách thích thú say sưa. Quả thực lần đầu tiên, tôi biết một cách tương đối đầy đủ. Trước đây, đọc qua các sách về địa lý, nhất là những tiểu thuyết đường rừng, những bài báo viết về đồng bào Thượng ở thượng du Bắc Việt, tôi đọc một cách bàng quan, mặc dù khác như đọc chuyện cổ tích.
Đi ngang qua một đám cháy, mướp bò xanh um, trái la list nằm dài trên đất, tôi thấy ham làm sao. Tôi mơ ước một nội dung nấu mướp nấu cá trê, cơm trắng nóng lạnh, ôi chao!
Tôi sáng tạo nước chiến đấu một cái. Ai đó thu hút cái bẫy này? Tôi hỏi Minh:
- Cha, mướp nhiều quá ta! Anh Hải! Ai bị đánh bẫy?
Minh trả lời:
- Của bạn đồng bào Bù Cháp đó!
- Ủa! Nói đồng bào Thượng họ không biết trồng Cánh, ăn rau cải, hoa màu mà!
- Chuyện đó chắc chắn là chuyện trước kia. Chớ bây giờ họ bắt mình. Không những trồng mướp, còn trồng bí, dâu, đậu, khoai mì nữa. Anh coi, họ còn biết nuôi heo, nuôi gà nữa đó!
Tôi chép miệng:
- Uớc mình có được một nội dung mướp thì tuyệt vời.
Minh cười:
- Xin thôi! Cái gì bắt đầu không khó đâu. Chút nữa, gặp đồng bào mình xin họ cho liền. Họ cũng không có thứ này. Họ trồng vì thích trồng hơn là cần ăn.
- Còn lại của B195 mình sao không trồng mướp như họ, anh?
- Có chớ! Nhưng chưa có trái.
Hiền cười, chen vào:
- Mà sao, kỳ! Chưa bao giờ Trảng mình tốt bằng Rung của họ. Họ bỏ phân, kiếm nước săn sóc gì hết. Còn mình thì phân hóa học, bổ sung nước ngày hai ba lần. Rẫy họ cũng không bị thú rừng khám phá như Tràng mình. Bộ học tập nào được phép thì sao?
- Cũng bối rối! - Minh nói- Ờ, anh Tư có nghe chuyện một cậu ở C110 được cấp dưỡng nắng nắng một ngày không?
Tôi lắc đầu, không hiểu:
- Không!
- Năm thanh niên, một cậu bé ở C110 cũng đi ngang ngang của đồng bào Bù Cháp phía dưới kia, thấy mấy cây ớt sai oằn, chín đỏ. Cậu ta tham tay hái lia lịa. Nhưng xong rồi thì thuốc gốc dưỡng nắng suốt ngày không đi.
Minh cười lớn:
- May là buổi chiều tối có bao nhiêu đồng bào Thượng đi rừng về ngang Trường, thương tình họ thoải mái cho đi không thì ổ biết sự ra sao. Một lần cho về già!
- Đồng bào Thượng họ bùa bùa anh Hai?
- Ờ! Họ tom bùa, khắc tay nào tham lam móc tay vào hái đồ của họ trồng thì chết đứng ở đó, trừ phi họ mở mới đi được. Nếu không, được phép! Vậy đừng độc bằng đồng bào Lý Lịch. Họ thư độc lắm. Ai ăn trộm hoa màu của họ thì được cùi, nhỏ phù mình mẩy, rụng từng đoạn tay. Phải đưa heo xin chấp nhận họ mới mở bùa.
Từ trước, tôi vốn nghe nhiều giai thoại về bùa ngãi của đồng bào Thượng nhưng ít khi nào tôi quan tâm đến. Giờ nhớ lại tôi đã giật mình. Cái chuyện giữa rừng núi hoang vu, không tìm thấy một người thấp thoáng thì hành động hái trái ớt, trái cà, trái mướp, có vẻ bình thường lắm. Người ta dễ bị khung cảnh xung quanh tạo nên ý nghĩ, cái này là của rừng, của thiên nhiên, ai cũng được. Thêm nữa, giữa lúc đói, khát thuồng thì cái câu hái «của rừng» thật dễ xảy ra ra biết bao nhiêu. Có khi nào người ta nghĩ đó là kẻ ăn trộm của người khác?
Có lẽ Hiền cũng nghĩ như tôi, bắt gặp một «đồng điệu» nào đó, Hiền cười hỏi:
- Anh Tư còn mướp nấu canh cá tre nữa hông?
Tôi cũng cười, thật thà:
- Hết rồi! Hết chủ đề rồi!
Qua hết đám cháy, chúng tôi theo con đường mòn đi vào khoảng rừng thưa, nhẹ ba phút, gặp ngay một ngôi nhà sàn nhỏ, mái lợp tranh thấp lè tè dựng bên gốc cây dầu to. Xa xa về phía tay trái ba bốn ngôi nhà khác cùng loại.
Minh cho tôi biết:
- Đây là nhà của vợ chồng Hơ Ring. Mình Thả đây đi! Hồ Ring tử tế lắm. Một lần trước tôi đều thả đây nhờ anh dẫn đường đi thăm đồng bào, đổi chác.
Minh tôt bước lên Chiếc thang cây. Trong nhà tối om, vắng hoe. Chắc chắn vợ chồng Hơ Hing ra rừng rồi cũng vậy. Nhưng khi khom lưng chui qua nhà, tôi thấy góc phía sau bếp, bên dưới ánh sáng mờ, hiện lên một người đàn ông ở trần dốc trục quay mặt, đưa lưng ra. Không có âm thanh cụ thể, không rõ ở bên cạnh. Tôi tưởng tượng nhẹ nhàng như thế là một người đã chết. Minh bước tới, sàn nhà rung lên:
- Hơ Ring ơi! Hơ Ring! Ngủ say vậy?
Hồ Ring quay người ra, trợm cồm ngồi dậy:
- Ai đó?
- Tôi đây! Hải Minh đây! Tới thăm Hơ Ring.
Tôi và Hiền đứng ngấp nghé ở cầu thang nhìn vào cùng chào chào anh thanh niên Thượng. Anh ta cũng đáp ứng lễ. Dáng anh ta béo bập bênh:
- Ừ! Ho Ring đau đầu. Ông bà rừng phạt đó.
- May quá. Chị Hiền kia có mang theo thuốc đau đầu cho Hơ Ring kia.
Anh ta lộ vẻ rạng rỡ nhìn Hiền. Hiền cho tay túi áo bà ba móc ra một bọc nylon nhỏ, cột túm những viên thuốc trắng. Hiền loay hoay mở dây thun cột.
Có lẽ thấy trong nhà vừa tối, vừa chật vừa, xoay trở khó khăn, cứ phải chết dí một chỗ, Minh bảo:
- Xuống sân cho mát. Xuống sân chị Hiền đưa thuốc cho Hơ Ring uống. Một chút nữa, hết đau đầu.
Tất cả đều trượt xuống đất ra sân. Dưỡng ánh sáng, bây giờ tôi mới nhìn ra mặt anh thanh niên Thượng. Trên lông mày và hai bên thái dương anh ta bôi thứ xanh rờn Hai mắt trắng dã, ngơ ngác. Anh ta cầm hai viên thuốc Aspirine đưa lên miệng bánh nhỏ ngon lành như bột bánh. Minh leo lên nhà lấy xuống cho anh ta một ống nước
Chúng tôi tiếp tục nhìn Hồ Ring không để ý chung quanh. Khi đột ngột quay lại phía sau lưng thì đã có năm, sáu người đàn bà đứng đó tự bảo giờ. Trên tay ai cũng bồng bềnh một đứa trẻ nhỏ. Họ Yên Tĩnh nhìn chúng tôi như những bức tượng gỗ. Hay thật đấy! Lúc này chúng tôi mới đến không thấy bóng bẩy ai, gần như ý tưởng ai thấy, thế mà vài phút họ đến đây một cách bí mật. Minh cười vui lòng đưa hai tay lên:
- Chào «đồng bào»! «Đồng bào» mạnh giỏi!
Họ vẫn đang làm việc tốt. Minh nói tiếp:
- Hơ Ring bị đau đầu. «Anh Đội» cho Hơ-Ring uống thuốc. Hiện tại Ring đã hết đau.
Một người đàn bà chuyển mình bước tới. Rồi tất cả các bước theo. Một người nói:
- «Anh Đội» cho «đồng bào» thuốc đau đầu như Hơ Ring!
À, thì ra họ thấy Hơ Ring được cho thuốc, họ cũng đến để xin thuốc.
Họ đưa ra loạt bài thuốc xin thuốc... đau đầu tốt nhất. Minh giải thích theo kiểu của Minh:
- Ho Ring đau đầu. «Đồng bào» không có đau đầu. «Đồng bào» không uống thuốc đau đầu được.
Một người nói:
- Săn chắc «đồng bào» không đau đầu. Mai kia «đồng bào» có cơn đau đầu. Săn chắc nay «đồng bào» không uống, mai kia «đồng bào» uống.
Cái gì chứa lý luận thảo luận theo kiểu này thì cứng. Không, ngày mai sẽ bị đau. Minh đành xuôi tay cười trừ. Và Hiền lại tủm cười, bốc khói cho mỗi người dùng thuốc Aspirine.
Ai cũng vui vẻ hả hê, mời chúng tôi đến nhà chơi. Thành thực mà nói, đi thì tôi muốn lắm nhưng trong lòng thấy sợ hãi, không yên. Thêm nữa, trời đã dài, trong bụng cồn cào vì đói. Tôi chủ đề một bữa ăn.
Hơn nửa giờ sau, nhờ công hiệu của thuốc Aspirine, Hơ Ring đã hết hạn đầu. Anh ta cho biết vợ anh ta đi rừng, ở nhà còn lại một mình. Dù vậy, anh ta sẽ lo cơm nước mời chúng tôi. Anh ta vui vẻ chạy đi một lúc mang về một con gà.
Cho đến hai giờ chiều thì chuyện cơm nước, đổi chác chúng tôi hoàn tất với sự trợ giúp của Hơ Ring. Khoảng 3 giây chúng tôi đã được đổi nửa chừng thuốc tràn, hai con gà giò và một mới mướp, khoai môn. Đúng là «một lợi ích vẻ vang».
Về đến nhà vừa đúng bữa ăn chiều. Anh em lục kéo xuống nhà ăn. Nhưng tôi chợt thấy Bảy Cảnh ở B2 đến với nhiều người khác. Thằng cha khó thương này đi đâu vậy cà?
Tôi nói nhỏ cho Hải Minh biết:
- Bảy Cảnh báo đến đó, anh Hải!
- Chìa khóa!
Qua đi, tôi nhường nhịn Hải Minh và Hiền bước lên trước. Bảy Cảnh đứng khoanh tay rế ở trước sân nhà ăn, cười giọng người cả:
- Hải Minh! Cậu trang ở đâu ra hai con gà giò ngon vậy?
- Chào anh Bảy! -Minh nói- Anh tới hồi phục nào anh Bảy?
- Không đúng lúc! Chờ hơi thở.
- Người này đi vô buôn Bù Cháp đổi thuốc Tràng với một ít thực phẩm tươi.
- Bạn ở đây một nhà dữ liệu! Có hay không có gì?
Minh ra vẻ ngạc nhiên:
- Hay gì thế? Anh Bảy!
- Phục nó kích hoạt, đi càn tới Suối Lớn. Bệnh viện G2 với Quân y tân hoàng hết rồi.
- Ủa! Hồi nào vậy? Có ai sao không anh Bảy?
- hôm nay kia! Được thông báo là tao sử dụng ở đây. Ghé thăm G3, rồi mới tới đây bữa nay.
Tôi chuyển tới, không ai có thể hỏi Bảy Cảnh báo:
- Chào anh Bảy!
- Ờ, chào anh! Chà! Anh Hùng độ này ra vẻ lao động đa năng!
Tôi cười không nói. Tôi đang hồi hộp, nóng muốn biết về chuyện bệnh viện G2 bị đột kích. Không biết chuyện gì đã xảy ra? Dù sao, trong những ngày điều trị sốt rét trước kia, tôi cũng quen được nhiều người, có cảm tình với họ, thương họ. Anh chị em đó có chiều gì đáng buồn. Tôi nhớ đến thằng cha Bảy quản lý. Ừ, nếu có chết thì thằng cha đó nên chết hơn để nó sống nó chỉ làm khó chịu mọi người.
Và tôi cũng nên cười nghĩ thằng cha Bảy Cảnh này sao để cho y sống chạy lên đây nhỉ? Mà chết thiên bảo hạ bảo bao nhiêu.
Bữa ăn chiều của B195 không vì chúng tôi mang thực phẩm về mà tạm thời tồn tại. Continue as normal. Nay không ăn thì mai ăn. Nhưng Bảy Cảnh báo, Bên cung cấp trên chúng tôi thì không đồng ý như thế. Khi chúng tôi đồng ý với nhau tạm thời cái nhiệm vụ tắm rửa, xách ca kềm xuống nhà bếp ăn với tập thể thì Bảy Cảnh nhăn mặt:
- Hải Minh! Ăn bay giờ sao cậu?
Minh trả lời một cách tự nhiên:
- Dạ! Ăn chặn anh Bảy! Ăn với thể tập cho vui.
- Vịnh! Vui gì cơ? Bò khô đem kho dai nhách, đất với hoa súng nhẹ nhàng ngẫu nhiên biết mấy. Làm giảm con gà..
Hải Minh Yên tĩnh, ở vào cái thế kẹt. Bảy Cảnh báo tiếp:
- Đãi khách mà!
Sau đó đã phải chờ đợi khách hàng. Bị bắt buộc phải miễn cưỡng, không thể tránh được.
Sau khi tôi và Hải Minh xuống tắm rửa xong trở lên nhà, Bảy Cảnh bảo:
- Hải Minh! Tôi với bạn làm việc riêng với nhau một chút coi!
Tôi biết câu nói đó là câu ra lệnh thích ứng tôi chỗ khác. Nếu chúng ta làm việc riêng với nhau thì tôi không có lý do gì để làm điều gì đó nhịp nhàng ở đây. Tôi đi xuống bếp. Giờ đây lò vắng hoẹ, chỉ còn lại một chị nuôi loay hoay làm gà, gọt mướp, mài khoai môn.
Tôi muốn được gặp vài anh em đi theo Bảy Cảnh báo để hỏi tin tức về trận chiến kích thích bệnh viện G2, Ban Quân Y và các đơn vị khác đóng gần Suối Lớn và Rác Năm Chất. Unknown những ai còn ai mất. Sau anh đó, ăn xong kéo nhau đi «quạt» chị em ở mấy nhà nữ rồi. Giờ này, tôi xuống đó, hỏi những chuyện « chuyện bên ngoài » thực kể cũng không hợp lý chút nào.
Nghĩ đến «quạt», lúc đầu khi tôi mới đến đây, một tối, tôi nghe một chị em nói:
- Chủ ông nội con nít đó đi ngang qua Cháy thấy mình nguy hiểm, họ nhào vô «quạt» dữ quá!
Tôi nhìn không hiểu. Về hỏi Hải Minh, xác định ra «quạt» là tiếng ồn ào chỉ những cuộc thỏa hiệp, thương mại «đấu lý tình cảm» giữa nam và nữ. «Quạt tưa tai» quạt đến rách cả tai thì kết quả là đến khả năng liệt rồi. Cũng như khi hai con voi đực và cái gặp nhau, cái hành động gây cảm giác, giải tỉnh của chúng bằng cách lấy hải tai tuần sát vào nhau phema, phải như để cảm mát cho nhau.
Tôi ngồi xuống bàn ăn. Hiền cũng vừa đến:
- Ủa! Anh Tư sao anh ngồi một mình ở đây?
- Bị đuổi!
- Anh nói...
- Thực mà! Bảy Cảnh muốn làm việc riêng với anh Hải Minh thì không đuổi tôi đi sao được.
Đột nhiên, Hiền hỏi:
- Anh Tư biết chùa Xá lợi chớ? Chùa Xá Lợi nào?
Hiền ngồi xuống băng, đối diện với tôi, thoải mái ra sau:
- Ở Sàigòn đó!Đường Bà Huyện Thanh Quan, bên hông trường Gia Long đó!
- Biết!
- Đêm 20 tháng 8 rồi, tức là cách nay ba bốn hôm, Trần Lệ Xuân cung xe thiết giáp tới bao vây, xua quân vô phá nát chùa, bắn chết hàng sư sư sãi. Còn lại toàn bộ sư sãi với đồng bào Phật tử đang tuyệt đối phản xạ đối với chế độ độc tài của gia đình Diệm Nhu đều bị bắt đi hết.
- Sao Hiền biết không?
- Chủ anh ở B2 mới nói. Họ nghe radio, đài Hà-nội loan tin...
Tôi cười:
- Nếu BBC cho vay tin chắc chắn, Bạch đài Hà-nội thêm mắm dậm muối... Đứng về phương phản phản truyền người ta hay phồng phồng, làm chuyện bất cứ một chút ít chút nào của đối phương.
- Nhưng có người ta mới vay tin đừng!
- Chắc chắn là đã có rồi. Sự kiện chắc chắn có, mà số lượng và chi tiết e không chính xác lắm. Nhưng theo tôi, dù sao cái lợi xe tăng tăng cường, tấn công sư sãi đang tuyệt thực, kết quả anh em Ngò Đình Diệm hết thời gian rồi đó. Hiền ạ! Phản ứng thế giới, phản ứng trong nước sẽ quan trọng vô tưởng.
- Anh còn nhớ cái phục vụ hồng hào mấy năm trước rồi ném bom xuống dinh Độc Lập chù? Chắc chắn kỳ này quân đội lại quần đảo nữa cho coi.
- Có thể lắm! Hôm trước Tết năm nay, lúc tôi ở Sàigòn thì tình hình căng thẳng giữa anh Diệm và nhân dân nói chung, cũng căng lắm rồi. Nơi nào, đi đâu cũng nghe toàn chuyện chống đối, than phiền hành động càng ngày càng quá quắt của Như và Trần Lệ Xuân. Đối với Phật giáo, sự kỳ kỳ tôn giáo, bất công quá đáng cũng gây phiền toái nên một không khí sôi sục rồi. Bây giờ biết đâu sự kiện mới mẻ này là thùng dầu đổ vào đống lửa?
- Chủ anh đó nói tình hình Sàigòn lúc này đen tối hổ kinh ghê. Trí thức, sinh viên học sinh xuống đường khảo sát với các sư biểu hiện tình huống hàng ngày. Giá lúc này mà mình còn ở Sàigòn chắc chắn là vui lắm.
Tôi không trả lời, Hien đăm chiêu nhìn ra sân.
Mới ngày nào đây mà tôi đã xa Sàigòn hơn sáu tháng rồi. Sáu tháng được biết là bao nhiêu biến thể dồn dập. Không dành riêng điều gì cho tôi mà cho cả Sàigòn nữa.
Chợ Hiền hỏi tôi:
- Lâu nay anh Tư có gửi thư gửi về nhà không, anh Tư?
Tôi đáp lại giọng buồn
- Không được, Hiền! Viết thì biết viết gì? Viết được gì? Có bài viết nữa, chắc chắn thư đã tới. Thôi, không nên viết nữa.
- Em cũng vậy! Xa gia đình một năm rồi, em thấy nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ mấy em vô cùng mà cũng đã quen nhớ thương thầm, không biết làm sao. Viết xong thư phải được trình duyệt. Ban Chỉ huy phải viết ngoài phong bì hàng chữ «Đã kiểm tra» và ký tên, thư mới được xem hợp lệ, giao liên mới chuyển đi. Nếu gửi ở các căn hộ hoặc nông thôn, chuyện mang, xách không đáng kể. Còn gửi về Sàigòn, phiền lắm. Đôi khi giấu kín, tránh bị kiểm soát kiểm tra đường dọc người ta có thể đi khai thác cho lĩnh nợ, nếu không, xét nghiệm, liên thuộc đến gia đình. Chưa nói đến việc lòng tự ái bị thâm thương, thư mình bị người ta bôi chỗ này, bỏ chỗ kia để không tiết lộ «bí mật» hoặc «gây ấn tượng không tốt cho cách mạng» vv.. ngay cả «mất lập trường, tư tưởng bi quan».
Hiền cũng nghĩ như tôi. Không viết là tốt nhất.
Khung trời ở đây là khung trời chưa biết. Nó không chấp nhận những thứ tình cảm gia đình, tình cảm cá nhân, riêng tư. Bởi vì loại tình cảm cá nhân riêng tư, không phải là tình cảm cách mạng, làm suy giảm sức chiến đấu, suya mòn ý chí đấu tranh. Và nó là động cơ diễn biến tư tưởng.. không phải là tâm công tác, khó khăn, khó khăn, phản hy sinh. Không bước chân đến khung trời này thì thôi, đến rồi thì mọi người, bất cứ ai cũng phải dọn dẹp tình cảm sang bên, không có quyền nghĩ đến nó.
Đảng không chấp nhận. Lý thuyết đấu tranh của Cách mạng không chấp nhận. Ở đây chỉ có Đảng, có tập thể, có công thức mạng, có đấu giá máu sắt duy nhất. Nguyên tắc là nguyên tắc bất di dịch.
Tôi biết từ lâu rồi, đâu phải đến bây giờ tôi mới biết. Cho nên, cũng lâu rồi, tôi chưa mở miệng hé môi nói bất cứ chuyện tình cảm nào của riêng tôi cho ai nghe dù có nhiều người tip chuyện hỏi đến. Nói ra hưởng lợi gì hết, nói ai thông cảm cho mình hết. Ngược lại nó còn được săn tai từ người này sang người khác, sau cùng nó trở thành một sự kiện cho Ban Chỉ huy, cho đảng, cho chính trị viên «nhận thử tư tưởng», ghi vào sổ tay và theo sự giá tư tưởng xuyên «quan điểm» của cá nhân đó, có thể trở thành một bài học chung cho tập thể trong một buổi học tập, hội thảo, kiểm tra xem nào, hay ra tùy ý là những thứ mình, ít,
Dầu rằng tại B195 này, may mắn, Ban Chỉ huy có mỗi một mình Hải Minh. Hải Minh cũng không phải là loại máy cán "đúc", được sản xuất trong hệ thống tạo chính, theo những loại máy cán khác mà tôi đã tìm thấy. Ngược lại là một nơi khác. By Hai Minh còn nhiều tình cảm, còn biết suy tư. Nói theo lý luận Đảng thì Hải Minh hãy còn «chưa tiến bộ', chưa bỏ được tình cảm tiểu tư sản, chưa được khóa lớp áo tiểu tư sản học sinh. Chính vì vậy mà Minh tham gia kháng chiến từ năm 1945, từ lúc đó còn thiếu nhi, năm 1951 được tập kết ra Bắc, được kết nối vào tập Đảng, được học giáo dục nhiều, Hải Minh vẫn là chuẩn úy của «quân đội nhân dân» miền Bắc, trong khi những kẻ phản kháng từ năm 1950, giờ đã là Trung. Mặt khác của Đảng, Hải Minh là một Đảng trưởng, không hơn không kém, nhưng được liệt kê vào loại thành viên thân thiện.
Tổng số ở đây chỉ có 3 người. Hai nữ một nam.
Nam là Minh, cũng là tổ trưởng. Tâm hồn Minh cũng vậy, xin Minh gần như muốn hoạt động gì, xem theo dõi ai, tư vấn «xây dựng» giúp đỡ phát triển ai. Minh không biết sử dụng thủ thuật chính. Minh sống bằng cảm xúc, bằng những lời nói thật.
Vậy mà, dành riêng cho tôi, từ ngày về đây, tôi vẫn như thế. Tôi vẫn ẩn náu, giấu kín những gì thuộc về mình, cố gắng sống theo một cách làm mẫu thăng bằng giống như những chiếc bình được đào tạo trong một lò chính thống. Tôi sợ tâm trạng. Tôi sợ những gì thuộc về tình cảm.
Ngay với Hiền, trong suốt mấy tháng qua, ai ngay cũng làm việc chung với nhau. Ngày nào cũng gặp mặt bàn bạc từ chuyện hướng dẫn anh chị em học tập văn hóa đến chuyện Truyền bái, chuyện tập thể vv. Nhưng chưa lần nào tôi hỏi Hiền về gia đình, về những kỷ niệm xưa. Tôi biết Hiền thăm tôi, hào tôi, có nhiều cảm tình với tôi nữa là khác, nhiều lúc muốn nói chuyện với tôi nhưng tôi cố tránh.
Hiền đẹp, đẹp hơn Duyên ở G2 nhiều. Một cái đẹp đẽ sa quý. Bộ quần áo bà ba, công tác lao động, làm cháy, dang nắng, gió gió vẫn chưa sao xóa được cung cách và những đường cong làm rung động bất cứ ai con trai nào đối diện với nàng. Nó vẫn tỏa ra một luồng gió cuốn hút thính.
Nhiều lần tôi phải quay mặt đi không nhìn Hiền. Không nhìn lâu vào đôi mắt đó. Tôi sợ. Tôi chạy trốn một cách thực tế mà tôi biết mình vốn đang chủ tâm muốn. Tôi cố gắng bỏ qua nhưng xin tôi cứ phải xoay xở không ngừng.
Tôi đúng là một con ốc sên mình vào vỏ, trốn ngoại cảnh. Trốn chạy một cách tiêu cực, rả rời, chịu khó để chờ một cơ hội. Nhưng những kiên thuẩn từ bên ngoài đến, kiên thuẩn nội tại chính giữa lòng tôi càng ngày càng lớn, càng dày không để cho tôi yên. Nếp sống mô hình đạo đức của tôi chỉ là một hình thức chống đỡ, một đạo đức giả để tạo cơ hội, mong cho cơ hội đến sớm hơn. Bất cứ lúc nào ai ở hoàn cảnh của tôi, dù có không quan trọng đến đâu cũng chỉ được thế là cùng.
° ° °
Chị nuôi mang gà, mang khoai môn, mướp, đi xuống thú. Nhà ăn chỉ còn mỗi mình tôi và Hiền. Hai đứa ngồi im trước mặt nhau.
Mãi một thời Hiền mới lên tiếng:
- Anh Tư! Sao anh lại bỏ học vậy anh Tư?
Tôi hỏi ngược lại Hiền:
- Thế còn Hiền, tại sao Hiền bỏ học vào đây?
- Em hỏi anh trước mà:
- Nhưng Hiền trả lời trước đi!
- Anh ăn gian lắm!
- Tôi thì nghĩ có gì lạ lắm lắm đâu. Nếu có điều gì đó không ổn thì Hiền kia! Hiền xuất thân ở môt gia đình được liệt vào loại đối kháng với giai cấp công nông. Hiền lại học ở một trường Pháp. Trường Marie Curie. Hải Minh nói với tôi như vạy. Đúng không?
Hiền cười buồn:
- Đúng anh! Anh Hải Minh trước đây cũng đã lần hỏi em, động cơ nào thúc đẩy em đi vào cách mạng, tham gia cuôc kháng chiến chống Mỹ Diệm? Em đã trả lời rằng vì em ghét Mỹ, ghét Diệm. Vì em khinh ghét, ghê tởm cái xã hội mục nát, đầy bất công, trái tai gai mắt tại miền Nam mà em đã và đang sống. Em đã trả lời giống y như vậy đối với tất cả những người đã hỏi em trước đây.
- Còn bây giờ?
- Với anh... với anh...
Tôi biết Hiền sợ. Tâm trạng của Hiền là tâm trạng của tôi. Tôi hiểu Hiền lắm. Tôi ngước nhìn Hiền, nhẹ nhàng:
- Thôi đi Hiền! Thế là đủ rồi. Tôi hiểu rồi!
- Em có người anh thứ hai tham gia kháng chiến chống Pháp, thoát ly gia đình từ năm 1945. Anh Hải tập kết ra Bắc và trở về Nam từ năm 1961. Anh cho người về liên lạc với gia đình. Em theo má em đến thăm anh ở Bình Dương. Anh Hai em kể chuyện em nghe mê lắm, thích thú vô cùng. Em lý tưởng hóa, thần thánh hóa con đường anh Hai em đã đi qua. Cho nên khi anh Hai em rủ em theo Đảng làm cách mạng, bảo em bỏ học là em bằng lòng ngay. Em bảo em trở về Sàigòn thu thập đồ đạc và hỏi ý kiến ​​Ba đã rồi anh Hai cho người về rước em sau. Tháng tám năm rực rỡ, anh Hải cho người về Sàigòn rước em lên Đất Cuốc. Anh em hàn huyên với nhau được vài ngày, anh Hải em gửi em cho Hải Cà ở khu A này. Khi anh Hai em đi rồi người ta đưa em về đây.
- Thế anh Hai em giờ ở đâu?
- Ở bên R.
- Sao Hiền không xin anh Hai đi theo về công tác chung có phải hay biết bao nhiêu không?
Hiền rơm rớm nước mắt:
- Anh Hải bảo anh Hải không có quyền. Vào đây đã có Party lo. Nơi nào cũng là kháng chiến, nơi nào cũng là tập thể. Tập thể sẽ chăm sóc, thương yêu, giúp đỡ còn hơn anh Hải nữa. Đừng có nặng nề tình cảm gia đình theo kiểu trẻ con, có như vậy mới tiến bộ. Giờ thì em lớn lên nhiều rồi, em không rồi. Thực tế của cuộc đời nó đã dạy cho em không. Em không phàn nàn gì anh Hai nhưng anh Hai tệ lắm. Anh Hai tưởng em vui sướng lắm, đâu ngờ...
- Hàng tháng anh Hải vẫn viết thư thăm hỏi, khuyến an ủi Hiền chứ?
- Trước kia, mỗi tháng đều có thư nhưng nửa năm nay em không viết thư cho anh Hải nữa thì anh Hai chỉ viết cho em hai cái thôi.
- Sao Hiền không viết thư cho anh Hải? Dù sao cũng là lòng thịt, anh Hải thương Hiền...
- Anh có biết tại sao Hiền không viết thư cho anh Hải không?
Mắt Hiền đỏ hoe, nhìn ra khoảng rừng thưa nhạt nắng:
- Lần đó, anh Hai em viết thư mạnh mẽ em mạnh mẽ, nặng đầu tiểu tư sản xấu xa. Bên công tác Khu A cho anh Hai biết như vậy làm anh Hai xấu hổ, tạ mình vì có một đứa em không đáng đáng vào mạng. Mà em đã có lỗi gì? Tình cảm gia đình, tình anh em ruột thịt đâu có còn thân thiết đối anh Hai em nữa. Vậy thì em còn viết thư làm chi? Có bảo giờ anh Hai an ủi hay săn sóc cho em đâu. Viết thư là để «đả thông tư tưởng», giáo dục ý thức cách mạng, cam đảm điều này nhiệt điều kia... Em đi vào cách mạng như vây đó anh Tư!
Giọng Hiền trở thành nên không làm sao được:
- Có lúc em tưởng mình là cô bé mất mẹ trong tác phẩm của Guy de Maupassant. Mất mẹ, xa mẹ là mất hết nửa phần hồn. Ở đây tồn tại như cô độc mỗi mình em. Ai vẫn có thể hiểu được mình, giúp mình được không?
Tôi không ngờ được nghe câu chuyện của Hiền theo chiều hướng đó. Chuyện buồn của tôi. Chuyện của Hiền còn buồn hơn. Tôi là con trai, từng quen đi đây đi đó, từng quen chịu đựng, có thể đảm bảo bền với một căn bản hiểu biết tương đối về con đường tôi đã, đang và sẽ đi.
Hiền chỉ là một cô gái tròn mắt ngây thơ, con ngựa bước vào đời chính trị, nàng làm sao đủ sức nhìn xuyên qua lớp rực rỡ hào quang của lý tưởng đấu tranh để tìm thấy những vết son nham nhở, những mặt mặt xấu, những phũ bongg tàn che dấu ở phía sau?
Không chỉ riêng Hiền bị loé mắt bởi hào quang lý tưởng cách mạng vô sản. Cả giới học sinh, sinh viên Sàigòn vô số kể như Hiền. Cho đến cả trí thức, những đồ trí tuệ bảng cao ngạo hơn người còn bị cuốn theo. Con gái nhỏ của con người không có gì...
Tôi gọi Hiền nho nhỏ:
- Hiền! Hiền! Có thể lên được chứ Hiền. Hiền không sống cô độc trong sự phiền toái sau cơn đau đầu. Còn có... tôi. Còn... anh nữa Hiền a. Anh bị người ta bắt buộc, rún ép gia đình, anh phải hy sinh cho gia đình vào đây thì sao? Có gì phải khóc. Ở đâu có gì chậm lại. Đời mình đâu phải đến đây là hết. Còn nhiều cơ hội, do mình tạo nên... Cầm bằng một chuyến du lịch xa, một chuyến thám hiểm mạo hiểm, khám phá thám hiểm mới mẻ mà mình chưa biết. Có gì đáng tuyệt vọng? Bắt anh đi. Hãy xem bình thường mọi chuyện, thảnh thơi trước mọi chuyện. Cuộc đời mình, tương lai mình đều làm mình phấn đấu. Nó đâu phải ở đây. Nó ở một khung trời khác. Mình nên xem đây là một chuyến nghỉ hè, một chuyến du lịch để mở rộng tầm mắt. Có gì đáng buồn đâu Hiền ạ. Xem anh nhé! Anh có nỗi buồn đâu.
Mắt Hiền long lãnh, thiết tha nhìn tôi. Tôi thấy lòng mình chao động mạnh, chơi bình yên trong đáy mắt của Hiền. Đôi mắt buồn và đẹp làm sao. Tôi leo xuống, trốn một cách bối rối.
Hiền vừa lau nước mắt vừa cười:
- Em nghe anh. Em không buồn nữa. Lâu nay, em thấy anh là lạ, em sợ quá Anh không ghét em chứ?
- Không! Anh đâu có phản Hiền. Anh chỉ sợ... bị Hiền ăn hiếp!
Hiền đánh nhẹ vào tay tôi, vô địch:
- Anh nói! Anh ăn sexy thì có.
- Ở Sàigòn, nhà Hiền ở đâu?
- Công Lý! Còn anh?
- Cũng Công Lý.
- Anh ra đi, ngoài gia đình, anh có còn để... thương để nhớ, để sầu cho... ai nữa không, anh Tư?
- Không! Làm gì còn ai nữa, Hiền?
- Em trốn tin anh đâu.
- Thiệt mà!
- Ai chứ mấy ông sinh viên thì khó tin lắm.
Tôi cười:
- Đúng là Tào Tháo! Nếu có, anh sẽ từ chối điều gì!
- Ai biết rồi! Anh có thiệt hại? Chắc chắn vậy?
- Ừ! Chắc chắn phần trăm! Anh đâu phải loại luyện nói láo, Hiền?
- Em tin! Vậy anh nói chuyện cho em nghe đi!
- Chuyện gì thế?
- Chuyện của anh! Về anh!
- Anh thì biết bao nhiêu chuyện. Nếu Hiền muốn nghe, lần sau anh kể cho nghe. Ở đâu đó trong vòng mười phút, một hai giờ đã hoàn thành. Cho anh lại nợ. Chị nuôi dưới cùng bên cạnh! Nơi này phải là nơi mình có thể nói chuyện riêng tư.
Hiền đứng dậy:
- Em cho anh nợ đó. Giờ em đến phụ với chị nuôi một chút. Chắc chắn anh đã đói meo ra rồi.
Hiền vui vẻ bước đi.
Vì chờ Hai Minh và Bảy Cảhh làm việc riêng với nhau nên đến bảy giờ trầm tối mới ăn xong bữa cơm chiều. Không biết hai người làm việc với nhau thế nào, cũng như Hải Minh báo cáo với Bảy Cảnh ra sao, thái độ của Bảy Cảnh đối lập với tôi thay đổi chắc chắn. Trước kia, Bảy Cảnh, đắng học, gay gắt, khó thương với tôi bao nhiêu, bây giờ thân mật, vui vẻ bấy nhiêu.
Ăn xong, lên nhà ngồi uống nước «sâm rừng» của Hải Minh, Bảy Cảnh gọi tôi:
- Tư Hùng!
Tôi hết sức ngạc nhiên, không ngờ y lại dùng tiếng ồn đó. Lý ra, tôi tên Hùng, thứ tư, y gọi Tư Hùng chỉ là chuyện thông thường, không có gì lạ. Nhưng tập quán sinh hoạt ở khu chiến đấu, đâu phải ai cũng được gọi thứ kèm theo tên. Người ta chỉ gọi thứ khi có tình cảm có tình yêu nang thân mật, chấp nhận một «tư thế nhập cuộc» ngang hàng, không phân biệt, không ác cảm. Nhất là kẻ có địa vị, cấp chỉ huy gọi người dưới, gọi luôn thứ với tên bao giờ cũng có cân nhắc, tính toán, đâu phải vô tình gọi cho vui. Hồ hồ giữa Bảy Cảnh và tôi vốn đã có một ác cảm, một thành kiến ​​trúc không được phân biệt từ ngày dưới đồng bằng tôi về B2. Nó có thể được thực hiện qua tình cảm đấu tranh cấp độ nào đó.
Nhưng, Bảy Cảnh bây giờ đã gọi tôi bằng hai tiếng Tư Hùng, rõ ràng là tình cảm và thái độ của y đối với tôi đã chuyển hướng. Tôi biết sự chuyển hướng những báo cáo miệng của Hải Minh về quá trình công tác, sinh hoạt, tư tưởng của tôi trong những ngày công tác ở đây. Quả thế có nhiều thuận lợi cho tôi rồi đó.
Bảy Cảnh tiếp:
- Được nghe Hải Minh báo cáo về quá trình công tác cũng như sự tiến bộ của anh ở đây, tôi có lời khen anh. Chuyến đi này về U.5O, tôi sẽ báo cáo lại với Đảng bộ tiến trình đó.
Bảy Cảnh cười lớn, vui vẻ:
- Tư Hùng nè! Nói thiệt với anh, tôi không ngờ anh có thể tiến bộ như vậy. Bây giờ anh thành nông dân rồi. Anh thấy công việc lao động tốt chứ? Có lao động thực lực mình mới hiểu được giá trị của lao động. Nó thay đổi phong cách, nó cải tạo được tư tưởng để đến gần Đảng hơn, phục vụ đắc lực cho Đảng và cho giai cấp. Nói thiệt anh đừng giận, nông dân giảm tôi có cái nhược điểm là có thành kiến ​​trúc cấp, nhưng cũng nhờ có thành kiến ​​giai cấp mới có đấu tranh. Tôi cũng chúc mừng cho anh, nhờ Đảng anh được tiến bộ...
Tôi cũng cười. Nhưng Bảy Cảnh báo làm sao hiểu được ý nghĩa của cái cười đó. Đảng tôi tiến bộ ư? Đảng là cái gì nhỉ? Và làm sao biết được rằng tôi làm việc không ngừng nghỉ. Không nghỉ dài. Khi thì dạy anh chị em học văn hóa, khi thì ra bạo làm việc cực mạnh với mọi người, chỉ vì tôi muốn làm việc để quên, để đủ chiến đấu chiến đấu, chờ cơ hội sổ lồng, chấp nhận mọi lúc trước đây của y. Nói cách khác, tôi đã đóng một vai kịch mà tôi diễn nhiệt thành để cho y và những người khác bị lừa, suy nghĩ tĩnh thành, tiến bộ, sẵn lòng nâng đỡ tôi, giúp tôi phương tiện tiện lợi sớm rời khỏi khung trời ác này.
Tôi càng ép xác, càng tích cực công tác thì càng nhiều người càng dễ bị đánh lừa, thế thôi, Bảy Cảnh ạ! Xin vui lòng cho tôi biết, tôi cần biết điều gì khác hơn là ở đâu. Tôi sẽ còn dạy Hiền làm như tôi đã làm, nghĩ như tôi đã nghĩ nữa đấy.
Tôi nói với Bảy Cảnh báo:
- Cảm ơn anh! Anh khen làm tôi ngượng. Tôi đóng góp lời góp ý nhiều... nếu có thể làm được gì cũng nhờ tập thể đó thôi.
- Sao lại cảm ơn tôi, Tư Hùng! Bậy nè! Ừ! Vấn đề học văn hóa cho anh chị em B195, tài liệu mình ở đây hiệu quả thiếu cơ sở, không có thật. Anh với đồng chí Hiền chịu khó ra, hoan nghinh lắm biên tập. Nhưng anh cho tôi mượn «giá án» mà anh đã biên tập cho tôi xem thử coi.
Tôi nghiêng không hiểu:
- Giáo án là gì anh Bảy? Tôi không hiểu.
- Ồ! Đó là từ thường dùng ở miền Bắc xã hội nghĩa là gì. Giáo án tức là bài của thầy giáo để dạy học trò. Ở tiểu học, trung học, đại học cho tất cả các lãnh vực khác ngoài lãnh vực văn hóa, như chính trị, quân sự, kinh tế v,v.., Phúc có bài viết là có giáo án. Những dự án đó anh còn chần chừ?
Thì ra giáo án là những bài soạn để dạy. Tôi gật đầu:
- Dạ còn! Anh Bảy!
- Nếu vậy sáng mai anh cho tôi mượn. Không nhẹ nhàng tôi ở tiến dài «tham quan» mấy lớp học bổ túc văn hóa của anh cho biết. Tôi không nói chắc chắn anh cũng biết là phương pháp giáo dục tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa ta khác chắc chắn với phương pháp thổi của đám đế quốc tư bản. Rồi quan niệm giáo dục Mác Xít hoàn toàn trái ngược với quan niệm giáo dục tư bản. Đối với ta, quan trọng nhứt là vấn đề tư tưởng, đường lối. Tư tưởng của ta là tư tưởng công nông, đường lối ta là đường hoàng vô sản, nó phải dứt khoát, rõ ràng hiện đường đường giai cấp, đường giáo dục dân tộc. Trí thức của chúng ta là công thức công nông, văn hóa hóa của ta phải «sắc như lá lúa, thiết thực như khoai khoai». Nói nôm na, nó phải đi đúng đường lãnh đạo Đảng. Anh hiểu tôi nói gì không? Anh đã nhận được vấn đề chứ?
Không phải bây giờ tôi mới biết vấn đề dạy văn hóa cho anh chị em B195 là cột rối. Tôi biết ngay từ khi bắt tay vào công việc. Tôi đã xác định với Hải Minh và Hải Minh đã hào hứng cổ võ tôi đó sao?
Vấn đề giáo dục văn hóa hóa trong 9 năm chiến đấu chống Pháp (1945 - 195l) lúc đó còn ở Miền Tây tôi phải nghe không biết bao nhiều lần chương trình của Lê Đức Thọ, Hà Huy Giáp, Lưu Quý Kỳ xuyên qua các buổi học tập chính trị hàng tuần, dành riêng cho tất cả có thể bộ, nhân viên của cơ quan cấp Nam Bộ và Trung ương các Cục Miền Nam, đóng ở U Minh Hạ. Rồi trong những cuộc hội nghị có tính cách chuyên đề về văn hóa, giáo dục, tuyên truyền của Trung Ưong Cục và Sở Tuyên Văn Nam Bộ tổ chức. Nhất là trong lần Trung Thương Cục quyết định đóng cửa các trường trung học kháng chiến «Nguyễn văn Tố», «Thái văn Lung», «Huỳnh Phan Hộ» vào tháng 10 năm 1950 vì các trường đó bị kết án mất lập trường giai cấp, đường giáo dục sống chết tư bản, quốc gia đế, trái với đường hoàng chính sách Đảng. Những lo lắng về rối rối, mắc míu của vấn đề giáo dục, vì vậy tôi không hiểu sao có thể hiểu được.
Nhưng tôi trình bày, thảo luận với Bảy Cảnh ở đây, vấn đề này hiểu biết mà trước đây người ta truyền đạt cho tôi liệu hữu ích gì? Bảy Cảnh báo có thể biết điều gì, hiểu điều gì về văn hóa, về giáo dục ngoài chuyện giở nguyên tắc Đảng, đường đấu tranh giai cấp của Đảng. Phiền! Phiền! Phiền Lắm và cũng ưu đầu lắm.
Thôi thì, cứ im lặng, mặc cho Bảy Cảnh báo lên lớp thao thao bất tuyệt cho sướng miệng y.
- Dạ hiểu anh Bảy! Xin anh cứ nói, tôi xin nghe.
- Thôi, để mai! Sau khi đọc qua các giáo án và tham quan lớp học, tôi sẽ góp ý kiến ​​chỉ thị cho anh sau. Mặt khác, để chuyến đi này về B2 tôi lục lại xem có cuốn sách hoặc tài liệu gì anh cần tôi gửi lên cho. Ờ! Lâu nay anh chống sốt?
- Dạ, cũng đỡ! Số đối với tôi giờ như chai lì rồi. Số thì xuống uống thuốc. Hết sốt bò dậy làm việc với anh chị em. Nó thấy tôi lì quá nó ra sợ hãi.
- Lâu nay anh có viết thư về gia đình hay có được tin tức gia đình không?
Tôi lắc đầu:
- Dạ, không!
- Tôi thấy viết thư về Sàigòn thì hơi khó. Nhưng nếu anh muốn chúng tôi sẽ có cách giúp anh.. An toàn lắm. Bảo đảm lắm. Anh đừng chống...
- Cảm ơn anh...
- Có gì mà cảm ơn. Anh xem đó là công việc của mạng. Luôn luôn chăm sóc cho bộ máy. Chính sách của Đảng rõ ràng như vậy. Anh viết thư thì chúng tôi giao cho những anh chị em trong cơ sở thu mua, khi đến Sàigòn mua hàng sẽ mang đến tận nhà cho anh. Anh đừng chống.
Tôi lại cười, lắc đầu cảm ơn Bảy Cảnh lần nữa. Thực ra viết thư cho gia đình biết tin mình vẫn mạnh cần thiết lắm chứ, tôi muốn lắm chứ. hôm nay Bảy Cảnh báo tốt cho tôi, chăm sóc đến tôi. Không hiểu ngoài lý do tôi «ngoan lân' biết phục tùng, tích cực công tác, xung phong thủy mẫu ra còn có một ẩn ý, ​​một thủ đoạn dò xét nào khác?
Người ta thường định nghĩa chính trị là thủ đoạn, là Bélng, vô lương. Thương đó ghét đó, hoan hô cũng giết liền ngay đó v...v...nghĩa là hết mặt, tráo trở lại tay như cái bánh phồng. Bảy Cảnh báo là người quản trị chính là Đảng viên Khu A. Con người, tính tình của tôi vẫn chưa biết gì. Tôi làm sao vẫn có thể tin được. Và nguyên tắc tôi đã đặt ra cho mình là «Không tin ai cả, không tin gì cả» phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Vì vậy tôi mới thoát được vô số cam bẫy người ta chăng ra trên đường tôi đi.
Biết đâu những lời lẽ lẽ trong thư tôi viết cho gia đình ý là một sự kiện cụ thể để người ta thẩm sát, đo lường tư tưởng, lập trường tôi. Không viết là tốt nhất.
Tôi còn đang suy nghĩ thở, Bảy Cảnh tiếp:
- Anh Tư Hùng nè, ở gia đình, hai bác chắc đã già rồi chứ?
- Dạ, ba má tôi tuổi đã ngoài bảy bảy rồi.
- Chà, tội ông già già! Anh đi hai bác nhớ biết bao nhiêu. Nhớ thương nhưng cũng hiền lành xóm làng. Mà còn em anh ở gần cũng giúp đỡ. Hình như anh còn một cô em gái và một cậu em trai?
- Dạ!
- Ờ! Sao lúc này anh đi không đưa em cùng vào cách mạng một lần? Sàigòn, cái xã hội đó chỉ làm hỏng con người bổ sung.
Găng đây! Y đã bắt đầu «thử lửa», giở trò chơi mới «truy» tôi ở đây.
Tôi chậm trả lời, thuốc từng chữ cho thích hợp với «không khí chính trị»:
- Hai đứa nó đòi đi theo tôi đó, anh Bảy ạ. Nhưng tôi đã thấy điều tương tự xảy ra một lúc như vậy thật bất tiện. Phần thì sẽ chơi giác giác rồi làm khổ ông già bà già. Phần này thì tôi chưa biết ý tưởng về tổ chức đưa ra sao nên tôi bảo đảm tiến độ tính sau.
- Còn tính sau nữa! Cách mạng, Đảng bao giờ cũng cần tham gia đông đảo quần chúng của chúng tôi, luôn hoan hô đón tiếp một cách nhiệt thành. Anh bậy quá! Nhân dịp này anh viết thư về gia đình đi! Tôi sẽ gửi cho. Anh nhớ viết mấy câu cho hai em của anh... À! thế này! anh muốn...
Bảy Cảnh báo người dậy, chồm tới trước, mắt sáng nổi:
- Nếu anh muốn, tôi sẽ báo cáo với Đảng ủy, cho người liên hệ với hai em của anh. Ruốc hai anh chị đó vào đây một thể. Chà! Ba anh em đều công tác Khu A, gần nhau vui biết mấy. Anh đồng ý với ý kiến ​​đó chớ?
Tôi cười. Đồng ý bất kỳ con chó nào được. Và có lẽ đây cũng là một dịp có thể bất ngờ «bắt nọn» tư tưởng, lập trường của tôi đối với Đảng. Tôi trả lời y như thật:
- Dạ, đồng ý quá chứ anh Bảy! Anh biết chắc chắn là tôi đưa cả hai tay hai chân.
- Thì mai anh viết thư đi. Tôi cố gắng thu thập nhanh chóng dùm cho.
- Nhưng..
- Hổ có nhưng hết! Mình phải biết tranh thủ...
- Nhưng lúc tôi đi, tôi có giới thiệu các em với Bảy Tân ở B39, nhờ Bảy Tân thu thập đưa ra chiến khu hoặc giới thiệu công tác hợp pháp với các cơ sở nội bộ. Bây giờ, sáu tháng này chắc chắn họ còn gì ở nhà? Nếu còn đi nữa, chúng cũng thuộc về tổ chức nào. Muốn gì thì cũng phải có ý kiến ​​quyết định của địa phương phải không anh Bảy!
- Ờ! Ờ!....
Mặt Bảy Cảnh báo ra. Tôi đọc thấy trên đôi mắt đó một cái gì đó vội vã, tiếc rẻ, ngẫu hứng nửa chừng. Điều tôi nói có lý quá mà! Tổ chức nguyên tắc đúng quá! Còn lại mở miệng vào đâu?
Đối với bất kỳ bộ máy chiến đấu nào khi đã tham gia chiến khu, ngoài công tác thường ngày của mình, vẫn phải có một bộ phận tuyên truyền kéo dài, giáo dục gia đình mình, thân nhân mình, đồng bào địa phương mình gặp, ủng hộ Đảng, ủng hộ cách mạng chống Mỹ Diệm. Đó là nguyên tắc. Nhất là đối với gia đình thân nhân ở vùng Quốc Gia Kiểm soát, ngoài việc tuyên truyền giáo dục còn có tiết mục móc nối thân nhân vào chiến khu. Đơn vị cấp độ phải theo dõi, đôn đốc thực hiện công việc đó. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng, hoặc những lý do trở lại chính đáng như đường xa, liên lạc khó khăn vv..
Cá nhân nào trong điều kiện có thể được từ chối nhiệm vụ có nghĩa là thiếu trung thành với Đảng, đáng nghi ngờ, cần phải kiểm tra lại, điều tra nghiên cứu lại, có những giải pháp tranh luận thích ứng. Trường hợp tôi cũng vậy. Ngoài việc thực hiện nguyên tắc tổ chức dựa trên câu chuyện trên, Bảy Cảnh báo còn đo lường đánh giá, nhận xét bổ sung về lòng trung thành với «Hướng dẫn miền Nam» của tôi ra sao. Nó sẽ quyết định phần «tương lai chính trị» của tôi, ít nhất là vào thời điểm này.
Tôi đã làm một cách hợp lý. Tôi thoát khỏi chuỗi người ta chăng ra một cách nhẹ nhàng. Khổ một mình tôi chưa đủ sao còn kéo hai em tôi lao vào nữa chứ?
Bóng Tối Đi Qua Tập 2 Bóng Tối Đi Qua Tập 2 - Kim Nhật Bóng Tối Đi Qua Tập 2