A man may as well expect to grow stronger by always eating as wiser by always reading.

Jeremy Collier

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1149 / 26
Cập nhật: 2017-07-24 16:14:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
uổi thơ chúng tôi gắn bó với đầm Vực như một người thân. Đầm Vực rộng mênh mông chạy ven chân đê làng. Tôi còn nhớ mấy năm về trước, cây cối còn mọc um tùm quanh bờ đầm. Chiều chiều, cò về phủ trắng trên những vòm cây cao. Nhưng rồi người làng rủ nhau đi lấy trứng cò. Sau đó họ bắt cò và cuối cùng họ tìm cách bắt cả lũ cò mẹ, cò bố. Đêm đêm, tôi nghe tiếng cò kêu thất thanh. Những lúc như thế tôi nghe tiếng bà lẩm bẩm: “Tai ác thế, có ngày trời phạt”.
Hết bắt cò, người làng lại thi nhau chặt cây ở ven bờ đầm. Lúc đầu họ chọn cây to, sau thì gặp cây gì chặt cây ấy. Bây giờ, bờ đầm chỉ còn lại những bụi dứa dại và tầm xuân. Và bầy cò mỗi ngày lại trở về thưa hơn. Cho đến một chiều, chúng tôi không còn thấy bóng dáng cánh cò nào nữa. Cũng lúc đó người ta phát hiện ra con cá thần xuất hiện trở lại sau bao ngày biệt tăm.
Một ngày, những người đàn ông xóm trại nhìn thấy con cá thần nổi lên và từ từ bơi quanh đầm như một con trâu. Ngay hôm sau, những người đàn ông xóm trại và trong làng kéo nhau ra bờ đầm. Họ giăng lưới và hạ vó bè để bắt con cá.
Con cá đụng lưới. Và nó không thoát được. Hàng chục tấm lưới bao quanh nó. Những người đàn ông hò hét vang mặt đầm. Họ kéo con cá lên một chiếc thuyền. Gần chục người đàn ông xúm vào gỡ lưới ra. Con cá dài gần bằng chiếc thuyền nan của dân xóm trại. Nó nằm im như chết. Chỉ còn đôi mang lớn thở phát ra những tiếng “hập, hập”. Khi lưới đã được gỡ ra hết thì con cá quẫy mạnh, gần chục người đàn ông xúm quanh nó bị hất tung lên trời và rơi xuống hồ nước. Tất cả những người đứng trên bờ tròn mắt kinh hãi. Con cá thoát lưới lao vun vút trên mặt đầm như một con tàu mở hết tốc lực. Tấm lưới bị xé tan dễ dàng như bọn trẻ con xé những tàu lá chuối để làm kèn.
Ma! Đúng là ma rồi!
Một người nào đó kêu lên thất thanh và vùng bỏ chạy. Những người khác cũng ù té chạy theo và kêu lên: “Ma! Ma!”.
Đêm ấy, dân làng tụ tập trên mặt đê. Dưới mặt đầm tối đen ầm ầm tiếng cá đập nước. Cả đầm nước sôi sùng sục bởi con cá. Người làng tưởng như thấy có cả một đàn trâu mộng đang đuổi nhau dưới đầm Vực.
Đêm ấy, bà tôi thắp hương lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái. Khi bà khấn xong, bố tôi hỏi:
- Bà khấn ai thế?
- Khấn ông cá chứ khấn ai. - Bà tôi thì thầm.
- Bà lạ thật.
- Cá thần đấy anh ạ. Không khéo năm nay lại vỡ đê thì chết cả làng.
Bố tôi gắt bà:
- Thần thánh cái gì. Ngày mai con câu nó về cho bà kho tương.
Bà tôi mắng:
- Anh đừng có dại mồm dại miệng.
Bố tôi không nói gì. Ông lẳng lặng mang hết số cước dự trữ bện lại. Rồi bố tôi mang bộ lưỡi câu chùm lớn nhất chưa dùng đến bao giờ ra giũa thêm cho sắc. Bố tôi âm thầm chuẩn bị để bắt
Trưa ngày hôm sau, bọn trẻ con xóm trại chúng tôi kéo nhau lên mặt đê vừa bàn tán về con cá thần vừa chờ đợi nó nổi lên. Nhưng mặt đầm hôm đó lặng phắc và trong đến rợn người. Và chúng tôi phát hiện ra ở giữa đầm chập chờn một vầng đen lớn. Vầng đen ấy cứ chập chờn, chập chờn mãi. Chúng tôi vừa sợ hãi vừa tò mò muốn biết cái vầng đen ở giữa đầm kia là cái gì. Buổi chiều chúng tôi hỏi bà về cái vầng đen ấy. Bà tôi im lặng một lúc lâu mới nói khẽ: “Đấy là ngôi chùa dưới đáy đầm”. Tôi hỏi: “Sao lại có chùa ở dưới đấy hở bà?”. Bà tôi bảo: “Có cháu ạ. Có cả sư nữa!”.
Rồi bà tôi vừa ngoáy trầu vừa kể cho chúng tôi nghe về ngôi chùa ở dưới đáy đầm Vực.
Trước kia ở chân đê ven bờ đầm Vực có một ngôi chùa nhỏ. Một nhà sư già trụ trì ngôi chùa cùng một vài chú tiểu. Hàng ngày bà tôi thường ra chùa tụng kinh và quét dọn giúp nhà chùa sau khi đã tạm xong công việc đồng áng.
Vào một năm, nước sông Đáy lên cao. Cứ sau một giấc ngủ ngắn tỉnh dậy, dân làng đã thấy nước lên đến cả mét. Bà tôi đội nón, khoác áo tơi lá ra sông. Rồi bà tôi đến chùa tìm vị sư già cầu xin nhà sư tụng kinh cầu trời rút nước. Nếu không, đê vỡ thì cả làng không chết vì nước cũng chết vì đói.
Vị sư già sắm lễ, tụng kinh suốt ngày đêm. Trong tiếng mưa rền rĩ là tiếng mõ và tiếng tụng kinh đều đều bền bỉ của nhà sư. Cả đêm ấy, bà tôi không ngủ được. Vừa mờ sáng bà đã chui ra khỏi lều trên mặt đê nhìn xuống sông. Bà tôi sợ hãi nhận thấy nước chẳng những không rút chút nào mà còn dâng lên. Bà tôi chạy xuống chùa. Vị sư già vẫn ngồi như thế từ hôm qua. Tiếng mõ và tiếng tụng kinh vẫn bền bỉ trong tiếng mưa gió gào thét. Đến sẩm tối thì nước đã lên mấp mé mặt đê. Bà tôi cùng nhiều dân làng đứng trên đê khóc. Dưới chân đê phía cánh đồng, tiếng mõ và tiếng tụng kinh của vị sư già vẫn đơn độc vang lên.
Khoảng canh ba, những người làng dọn lên mặt đê ở bỗng nghe một tiếng “ầm” khủng khiếp vang lên. Và sau đó là tiếng réo ù ù như từ trên trời đổ xuống. Đê vỡ. Những người lớn ôm lấy con cái khóc như
Sáng hôm sau, bà tôi không nhìn thấy làng đâu nữa. Tất cả đã chìm vào trong nước. Cả ngôi chùa nhỏ cũng biến mất. Bà tôi chạy đi tìm vị sư già, nhưng không thấy. Nước đã cuốn ngôi chùa nhỏ cùng vị sư già xuống đáy đầm Vực. Chỉ còn lại mấy chú tiểu. Vào giữa đêm, vị sư già đã ra lệnh cho các chú tiểu lên mặt đê. Nhà sư ở lại một mình gõ mõ tụng kinh cầu cho nước rút.
Sau này, người làng cũng không tìm được thi thể nhà sư. Vào những ngày nước trong trời đẹp, người làng vẫn nhìn thấy bóng ngôi chùa dưới đáy nước. Bà tôi bảo, vào những đêm thanh vắng, bà tôi vẫn nghe thấy tiếng mõ và tiếng tụng kinh của nhà sư già dưới đáy nước đầm Vực vọng lên.
Cũng sau vụ vỡ đê năm ấy, giữa dòng sông Đáy và đầm Vực có một lối thông ngầm. Có lẽ vì thế mà khi nước sông trong thì nước đầm trong, nước sông đục thì nước đầm đục. Cũng từ ngày đó, thi thoảng vào đêm khuya, người ta lại nghe thấy tiếng khỏa nước giữa đầm. Một số người kháo nhau đó là ma đầm Vực. Nhưng bà tôi quả quyết đó là tiếng khỏa nước của nhà sư già. Sau này, người ta phát hiện một con cá lớn nổi lên. Bà tôi cho đó là cá thần. Còn những người đàn ông xóm trại lại tìm mọi cách để bắt con cá. Nhưng bao nhiêu lưới đều bị phá rách, bao nhiêu bộ lưỡi câu chùm đều bị mất tăm.
Sau cái đêm bện cước và giũa sắc thêm bộ lưỡi câu chùm, bố tôi dậy sớm ra đầm câu cá. Cần câu của bố là phần ngọn của một cây tre đực. Bố tôi đứng trên bờ đầm vứt lưỡi câu xuống nước. Hai cánh tay ông bắp nổi cuồn cuộn. Những người đàn ông xóm trại đều có hai cánh tay cuộn bắp như bố tôi. Họ sinh ra trên xóm trại ven sông. Mới ba tuổi, họ đã làm quen với sông nước và nghề chài lưới.
Mỗi lần bố tôi phất cần câu, cước xiết vào nước kêu chiu chiu. Chỉ lát sau, hầu hết những người đàn ông xóm trại đều mang câu chùm ra đầm cùng săn con cá. Hàng chục bộ lưỡi câu chùm to, sắc, cắt ngang dọc đáy đầm.
Chợt bố tôi kêu lên: “Trúng rồi”. Sợi cước bỗng căng lên và cứng như một sợi dây thép. Bố tôi choãi chân, ngả người về phía sau giữ cần câu. Ông hối hả cuộn cước vào. Con cá bị trúng lưỡi câu như phát điên. Nó lao vút lên khỏi mặt nước. Con cá khổng lồ văng mình lên đen bóng dưới nắng buổi sáng. Khi nó rơi xuống thì cả một cột nước lớn dựng lên. Rồi nước đổ xuống mặt đầm như người ta đổ cá. Những người đàn ông xóm trại đều vứt cần câu của họ chạy về phía bố tôi. Bố tôi bị con cá kéo lê trên bờ đầm. “Rắc”. Cần câu gãy. Bố tôi vội nắm lấy sợi dây cước. Con cá lại phóng mình lên mặt nước, kéo bố tôi ngã sấp xuống. Bố tôi vội đứng dậy. Trong lúc lúng túng, ông cuộn cả một đoạn cước chùm móc sâu hơn vào mình, nó lao như điên. Vô tình, sợi cước trở thành lưỡi kéo sắc và khỏe vô cùng cắt đứt hẳn hai ngón tay bố tôi. Bố tôi kêu thét lên, ngã vật xuống. Sợi cước tuột khỏi tay ông và biến mất vào lòng đầm.
Những người đàn ông đưa bố tôi về nhà. Bà tôi vội giã cây lá dấu đắp vào vết thương cho bố tôi. Từ đấy bàn tay bố tôi mang tật. Nhưng bố tôi và những người đàn ông xóm trại vẫn không hề từ bỏ khát vọng bắt được con cá. Bố tôi nghĩ đến con cá là nghĩ đến mối thù hận và nghĩ đến một viên ngọc nào đấy trong bụng cá, mà nhờ nó có thể thay đổi cuộc sống nghèo khó của gia đình tôi. Ông Bương nghĩ đến con cá là nghĩ đến một bữa rượu túy lúy với lòng cá. Những người khác nghĩ đến con cá như là một con quỷ mang theo những điều dữ. Còn chúng tôi, lũ trẻ xóm trại mỗi lần nghe nói đến con cá là trong ký ức tơ non của chúng tôi lại hiện lên hình ảnh một đêm trăng với cột nước rực rỡ kỳ ảo khi con cá lướt trên mặt đầm, cùng với sự bí mật đầy thổn thức của ngôi chùa và vị sư già dưới đáy đầm nước.
Bí Mật Hồ Cá Thần Bí Mật Hồ Cá Thần - Nguyễn Quang Thiều Bí Mật Hồ Cá Thần