Books are the bees which carry the quickening pollen from one to another mind.

James Russell Lowell

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Phiêu Lưu
Nguyên tác: “Michel Strogoff’
Dịch giả: Vũ Liêm
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 283 / 26
Cập nhật: 2020-07-19 20:13:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1 - Đêm Hội Ở Tân Cung
âu bệ hạ, một công điện mới.
- Từ đâu đến?
- Từ Tômxk.
- Đường dây đã bị cắt từ thành phố đó phải không?
- Bị cắt từ hôm qua, muôn tâu.
- Tướng quân hãy từng giờ đánh điện tới Tômxk và yêu cầu cho ta biết tin tức nhé!
- Xin tuân lệnh bệ hạ - Tướng Kixôp đáp.
Những lời trao đổi trên đây xảy ra vào hồi hai giờ sáng, giữa lúc đêm hội ở Tân Cung đang diễn ra huy hoàng náo nhiệt nhất. Trong đêm đó, ban nhạc của các trung đoàn Prêobragienxky và Paulôpxki không ngừng chơi những điệu vũ nhạc được chọn trong những điệu hay nhất như Pônka, Mazurka và những điệu Vansơ. Những cặp nam nữ nối tiếp nhau nhảy không dứt qua những phòng khách lộng lẫy của lâu đài được xây dựng cách “tòa nhà đá cũ” có mấy bước, nơi xưa kia đã từng xảy ra bao thảm kịch rùng rợn - Và... đêm nay, tiếng vang xưa trỗi dậy, dội vào trong các điệu đối vũ.
Ngài đại thống chế của triều đình cũng được hỗ trợ đắc lực trong công việc tế nhị của mình. Các công tước cùng những sĩ quan hộ vệ của các vị đại thần trực ban, các sĩ quan trong hoàng cung cũng tự mình tham gia, đôn đốc việc tổ chức vũ hội. Các công tước phu nhân, ngọc quý đầy người, các bà thị nữ với xiêm áo ngày hội mạnh dạn làm gương cho các bà vợ sĩ quan và viên chức cao cấp của “Kinh thành đá trắng” cổ kính. Vì vậy, khi tín hiệu của điệu nhạc “Pôlône” vừa nổi lên, thì tất cả quan khách, không phân cấp bậc, đều tham gia vào cuộc diễu hành nhịp nhàng đó. Trong khung cảnh trang trọng như đêm nay, thì vũ hội này mang một tầm cỡ quốc gia. Những chiếc áo dài có đính nhiều tầng đăng ten xen lẫn với những bộ quân phục lấp lánh huân chương dưới ánh sáng của hàng trăm bộ đèn chùm, được những tấm gương soi phản chiếu làm sáng rực lên gấp mười lần, trông thật ngoạn mục, chói ngời, lóa mắt.
Đại sảnh đường đẹp nhất trong tất cả các phòng khách ở Tân Cung thật xứng đáng làm khung cho sự lộng lẫy huy hoàng của những vị tai to mặt lớn cùng những bà mệnh phụ trang điểm cực kỳ diễm lệ. Vòm nhà thếp vàng tuy đã phai mờ đôi chút vì đã bị phủ một lớp gỉ của thời gian vẫn ánh lên những điểm sáng như những vì sao lấp lánh. Những tấm vóc làm màn che gió và màn treo ở cửa với những nếp gấp tuyệt mỹ ửng hồng lên một màu sắc nồng thắm, tương phản mạnh mẽ với những góc cạnh của tấm màn nặng trĩu. Nhìn qua những tấm kính các cửa sổ rộng lớn, hình bán nguyệt, người ta thấy ánh sáng tràn ngập các phòng, nhưng được một làn hơi nước nhẹ nhàng tỏa ra làm dịu bớt đi, đứng bên ngoài trông như phản quang của một đám cháy nổi bật lên trong đêm tối mà trong khoảng một vài tiếng đồng hồ bao trùm toà lâu đài rực sáng này. Bởi vậy, sự tương phản đó làm cho những tân khách không tham gia khiêu vũ cũng phải chú ý. Khi họ dừng lại bên những khung cửa sổ, họ có thể nhìn thấy một vài tháp chuông với những cái bóng khổng lồ hiện lên đó đây trong đêm, mờ mờ ảo ảo. Bên dưới những bao lơn chạm trổ, họ nhìn thấy những lính canh đi lại, súng vác vai, đầu đội mũ chỏm nhọn có giắt một chòm lông chim, trông như ngọn lửa, dưới ánh sáng của những pháo hoa bắn lên từ bên ngoài. Họ cũng nghe thấy bước chân của những đội tuần tra gõ nhịp nhàng trên mặt đá lát đường, có lẽ còn nhịp nhàng hơn cả những bước chân đang khiêu vũ trên sàn nhà các phòng khách. Thỉnh thoảng có tiếng hô của lính gác lặp đi lặp lại từ trạm này qua trạm khác và đôi lúc một tiếng kèn đồng, xen vào hợp âm của dàn nhạc, cất lên những nốt lánh lót giữa sự hài hòa chung.
Dưới thấp hơn, trước tòa nhà, những khối đen sẫm nổi lên rõ nét dưới những luồng ánh sáng hình nón hắt ra từ các cửa sổ của Tân Cung. Đó là những con tàu xuôi dòng sông mà mặt nước lấp lánh dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn đèn hiệu mấp mé ở các bậc thềm đầu tiên.
Nhân vật chính của buổi khiêu vũ; người ra lệnh tổ chức đêm hội này; người mà tướng Kixốp tôn trọng như đối với các đấng quân vương, chỉ vận sơ sài một bộ quân phục sĩ quan khinh binh cận vệ. Đó chẳng phải là một sự trá hình, mà là thói quen của một người không thích sự diêm dúa bên ngoài. Cách ăn mặc của ông ta tương phản với những trang phục lộng lẫy của đám người nhộn nhịp xung quanh và chính vì thế mà nổi bật giữa đám tùy tùng của ông gồm những người Grudia, những người Cô-dắc, những người Lesghi, những kỵ binh với những bộ quân phục rực rỡ vùng Capcadơ.
Nhân vật này, thân hình cao lớn, thái độ hòa nhã, nét mặt bình thản, nhưng vầng trán nhuốm vẻ suy tư, đi từ đám đông này tới đám đông khác, ít nói, thậm chí chỉ lơ đãng nghe, hoặc những câu tào lao vui nhộn của đám tân khách trẻ tuổi, hoặc những lời lẽ nghiêm chỉnh hơn của những viên chức cao cấp hay của những thành viên trong các đoàn ngoại giao, đại diện cho các quốc gia chủ yếu của châu Âu bên cạnh ông ta. Hai hoặc ba trong số những nhà chính khách mẫn tiệp đó - có tài về xem tướng mặt - hình như nhận thấy trên sắc diện của chủ nhân có vài biểu hiện lo lắng băn khoăn gì đó mà họ không rõ nguyên nhân, nhưng không một ai dám tự cho phép mình được hỏi han ông ta về vấn đề đó. Dù sao thì ý đồ của người sĩ quan đội khinh binh cận vệ, không còn nghi ngờ gì nữa, là làm sao để những mối lo âu thầm kín của mình không được gây bất kỳ một trở ngại nào cho đêm hội này - Và vì ông ta là một trong những đấng quân vương hiếm có mà tất cả mọi người đều đã quen phục tùng, ngay cả trong ý nghĩ, nên những niềm hoan lạc của đêm vũ hội không một lúc nào bị giảm sút.
Trong khi đó, tướng Kixôp vẫn chờ người sĩ quan mà ông vừa chuyển bức điện từ Tômxk đánh về ra lệnh để rút lui, nhưng người sĩ quan vẫn cứ im lặng, Ông ta cầm đọc bức điện, vầng trán càng sa sầm. Tay ông như vô tình đặt vào chuôi kiếm, rồi đưa lên che mắt một lát khiến mọi người tưởng như ánh sáng làm ông bị chói và ông cần có bóng tối để tự nhìn mình rõ hơn.
- Như vậy là, - ông nói và kéo tướng Kixôp tới gần một khung cửa sổ - từ hôm qua chúng ta không còn liên lạc được với đại công tước, em trai ta ư?
- Không còn liên lạc được nữa, muôn tâu. Và thần e rằng chẳng bao lâu, những công điện không thể vượt qua được biên giới Xibir.
- Nhưng quân đội các tỉnh Amua và Irkuxk cũng như quân đội tỉnh Tranxbaikali đã được lệnh hành quân cấp tốc đến Irkuxk rồi kia mà?
- Lệnh đó đã được phát đi bằng bức điện cuối cùng mà chúng ta có thể chuyển tới bên kia hồ Baikan.
- Chúng ta vẫn còn liên lạc trực tiếp được với chính quyền các tỉnh Yênixêixk, Ômxk, Xêmipalatinxko và Tôbônxk từ đầu cuộc xâm lăng của địch chứ?
- Tâu hoàng thượng, vẫn còn liên lạc được và thần chắc rằng cho đến giờ phút này, bọn Tactar chưa vượt qua được sông Irtys và sông Ôbi.
- Còn về tên phản tặc Ivan Ôgarep, chúng ta có tin tức gì không?
- Không có tin gì cả, - tướng Kixôp thưa. - Cảnh sát trưởng cũng không biết được chắc chắn là hắn đã vượt qua biên giới chưa.
- Đặc điểm nhận dạng của hắn phải được gửi ngay tới Nigiơni - Nôpgôrôd, Pecmơ, Ekatêrinbua, Kaximôp, Tiumen, Ichim Ômxk, Elamxk, Kôlyvan, Tômxk và tới tất cả các trạm bưu điện mà đường dây còn liên lạc được!
- Lệnh của hoàng thượng sẽ được thi hành ngay tức khắc, - Tướng Kixôp đáp.
- Tất cả công việc này cần phải tiến hành thật lặng lẽ đấy nhé!
Bằng một dấu hiệu tỏ vẻ trân trọng phục tùng, sau khi khẽ cúi đầu, tướng Kixôp đi lẫn vào đám đông và rời khỏi các phòng khách. Không ai để ý đến sự ra đi của ông.
Người sĩ quan đứng thẫn thờ một lúc và khi trở lại nhập vào các nhóm quân nhân, các nhà chính khách đã được hình thành ở nhiều điểm trong các phòng, thì vẻ mặt ông, trước đó đã có lúc bối rối, bỗng trở lại bình thản như cũ.
Tuy vậy, sự kiện nghiêm trọng khiến có cuộc trao đổi ý kiến chớp nhoáng trên đây không phải là không ai biết như viên sĩ quan khinh binh cận vệ và tướng Kixôp tưởng. Điều đó, người ta không nói ra một cách chính thức, đúng thế, cũng như bán chính thức, bởi vì không có “lệnh’’ được công khai nói. Nhưng một vài nhân vật cao cấp cũng đã được thông báo tương đối chính xác về tình hình xảy ra ở phía bên kia biên giới. Dù sao họ cũng chỉ mới nắm được láng máng về những điều mà ngay cả những thành viên trong đoàn ngoại giao cũng không nói với nhau, thế mà có hai vị khách không mặc quân phục, cũng không mang huân chương trong buổi chiêu đãi ở Tân Cung, lại thì thầm trao đổi với nhau có vẻ như đã nhận được những tin tức khá chính xác.
Làm thế nào, bằng con đường nào, nhờ có sự bặt thiệp như thế nào mà hai con người bình thường này lại biết cái mà những người khác vốn là những yếu nhân, cũng chỉ vừa mới ngờ tới? Người ta khó có thể tin như vậy. Hay là họ được trời phú cho cái tài tiên giác tiên tri? Hay là họ có một giác quan phụ cho phép nhìn thấy được tận bên kia chân trời của biên giới mà những con mắt người thường không thấy được chăng? Hoặc là họ có khiếu linh mẫn đặc biệt để khám phá ra những gì bí mật nhất. Hoặc là nhờ thói quen “sống cho tin tức và vì tin tức” ở họ đã trở thành bản chất thứ hai khiến tập tính của họ thay đổi chăng? Chúng ta hãy thử chấp nhận điều đó.
Trong hai người này thì một là người Anh, còn người kia là công dân Pháp. Cả hai đều cao, gầy. Một người da nâu nâu như dân miền Nam xứ Prôvăngxơ, một người da hung hung đỏ như một nhà quý tộc xứ Lancasir. Anh chàng người Anh thì kiểu cách, lạnh lùng, phớt đời, tiết kiệm cả cử chỉ và lời nói, hình như chỉ nói năng và cử động khi thật cần thiết. Ngược lại anh chàng người Pháp thì linh hoạt, hăng hái, diễn tả cùng một lúc cả bằng môi, bằng mắt, bằng tay... ý nghĩ của mình với hàng chục cách khác nhau, trong khi người đối thoại với anh ta hình như chỉ có một cách duy nhất không thay đổi và như cố định trong đầu là chăm chú nghe và nhìn. Những nét khác biệt bên ngoài này dễ dàng làm cho bất cứ ai, dù có cặp mắt quan sát kém nhất cũng phải chú ý; nhưng một người giỏi xét đoán vẻ mặt, khi nhìn gần hai người ngoại quốc này sẽ xác định dứt khoát là sự trái ngược trong hành động bề ngoài của họ nói lên rằng người Pháp rất “tinh mắt”, còn người Anh rất “thính tai”.
Thật vậy, cặp mắt - bộ máy quang học - của người này thường xuyên được sử dụng, nên đạt tới mức hoàn thiện lạ lùng. Võng mạc mắt ánh ta có độ nhạy tức thời như võng mạc những nhà ảo thuật chỉ qua động tác trang bài thật nhanh cũng nhận ra ngay được con bài nào, hay đơn thuần chỉ bằng sự sắp xếp một con bài mà người khác không tài nào nhận ra. Vậy là người Pháp này có một năng khiếu tuyệt vời mà người ta gọi là “trí nhớ bằng mắt”.
Người Anh, ngược lại, hình như đặc biệt sinh ra để nghe và hiểu. Khi bộ máy thính giác tiếp nhận tiếng của một giọng nói, anh ta sẽ không thể nào quên được và mười năm, hai mươi năm sau, anh ta vẫn có thể nhận ra giọng nói đó trong hàng nghìn giọng nói khác. Đôi tai anh ta tất nhiên không có khả năng cử động như tai các loài vật có những loa tai to; nhưng các nhà sinh vật học nhận xét là tai người chỉ “gần như” bất động nên ta có quyển khẳng định rằng tai của người Anh trên đây vểnh lên, cụp xuống, nghiêng nghé... để tìm cách thu nhận cả những âm thanh chỉ mới vừa thoáng vẳng đến.
Phải công nhận là năng khiếu về nghe và nhìn của hai nhân vật nói trên đã phục vụ tuyệt diệu cho nghề nghiệp của họ, vì anh chàng người Anh là phóng viên của tờ “Tin điện hàng ngày” và anh chàng người Pháp là phóng viên của tờ báo nào hoặc của những tờ báo nào thì anh ta không nói và khi có người hỏi, anh lại bông đùa trả lời là anh cung cấp tin tức cho “cô em họ Mađơlen” của anh. Thật ra anh chàng người Pháp tuy bề ngoài có vẻ nông nổi, nhưng lại rất mẫn tiệp và sắc sảo. Anh thường hay nói năng lung tung - có lẽ là để che giấu ý muốn tìm hiểu sự thực - nhưng không bao giờ chịu bộc lộ ý đồ chính của mình. Chính sự ba hoa đó đã giúp anh kín tiếng. Có thể nói là anh ta chín chắn và kín cạnh hơn bạn đồng nghiệp ở báo “Tin điện hàng ngày”.
Với tư cách nhà báo, hai người tham dự đêm hội tổ chức tại Tân Cung tối 15 rạng 16 tháng Bảy là cốt để đưa tin sốt dẻo phục vụ thật hữu hiệu cho độc giả của họ.
Không cần nói là cả hai anh chàng đều hăng say với sứ mệnh của mình ở trên đời này. Họ thích lao vào việc đi săn những tin tức bất ngờ nhất. Không gì làm cho họ sợ hãi cũng như làm họ chán nản trong khi đi tìm thắng lợi. Họ có thái độ bình tĩnh, không bao giờ nao núng. Chính đó là lòng dũng cảm thực sự của những người yêu nghề. Là những tay đua ngựa vượt rào nhà nghề trong cuộc săn tin này, họ vọt qua rào, vượt qua sông, nhảy qua bờ đất với nhiệt tình vô song của những con ngựa nòi muốn chạy tới đích “hoặc đoạt giải nhất hoặc là chết!”.
Hơn nữa, những tờ báo của họ không bao giờ tiếc tiền đối với họ - đó là nhân tố thông tin mạnh nhất, nhanh nhất, hoàn hảo nhất mà người ta biết được cho đến nay.
Cần phải nói thêm, và đây là một vinh dự đối với họ, là cả hai đều không bao giờ tò mò nhìn và nghe những gì thuộc về đời tư và họ chỉ hành động khi nào có dính líu đến quyền lợi chính trị và xã hội của họ. Tóm lại, họ làm như người ta thường nói trong khoảng vài ba năm nay, “thiên phóng sự lớn về chính trị và quân sự”.
Nhưng, nếu theo sát họ, người ta sẽ thấy thường thường họ có một cách nhận định sự việc thật kỳ quặc, nhất là nhận định về những hậu quả của những sự việc đó, bởi lẽ mỗi người đều có “cách riêng của mình” để xem xét và đánh giá. Và cuối cùng thì không ai đang tâm trách cứ họ, vì họ làm việc thật nghiêm túc, hết mình bất cứ trong trường hợp nào.
Phóng viên người Pháp tên là Anxiđ Jôlivê. Còn Hary Blao là tên của phóng viên người Anh. Họ vừa mới gặp nhau lần đầu trong đêm vũ hội tại Tân Cung mà cả hai đều có nhiệm vụ viết bài tường thuật cho tờ báo của họ. Sự trái ngược nhau về tính tình, cộng với sự ganh ghét nào đó trong nghề nghiệp có thể làm cho họ phần nào kém thiện cảm đối với nhau. Tuy vậy họ không tránh nhau, ngược lại còn tìm đến nhau để thăm dò về những tin tức trong ngày mà mỗi người nắm được.
Chung quy đó là hai tay thợ săn, săn trên cùng một địa bàn, trong cùng những khu rừng cấm. Cái mà người này thiếu có thể bị người kia lợi dụng và chính lợi ích riêng thúc đẩy họ phải tìm gặp nhau và hiểu nhau. Vậy là tối hôm ấy, cả hai đều đi phục kích. Quả vậy, hình như có một cái gì đó đang lởn vởn trong không trung.
“Dù đó chỉ là một đàn vịt bay qua thì cũng đã xứng đáng cho nổ một phát súng rồi!” - Anxiđ Jolivê tự nhủ.
Thế là hai nhà báo cùng nhau trao đổi trong lúc cuộc khiêu vũ vẫn tiếp diễn, sau khi tướng Kixôp đi được một lát. Họ trao đổi với tính chất thăm dò nhau.
- Buổi vũ hội này thật hấp dẫn, thưa ông - Anxiđ Jôlivê tưởng phải bắt đầu đi vào cuộc đối thoại bằng câu nói rất Pháp đó.
- Tôi đã đánh điện đi với hai chữ “tuyệt vời!” - Hary Blao lạnh lùng đáp. Trong tiếng Anh từ đó dùng để diễn tả sự thán phục đặc biệt của một người dân Vương quốc Anh.
- Thế nhưng - Anxiđ Jôlivê nói thêm - đồng thời tôi thấy cần lưu ý cô em họ của tôi là...
- Cô em họ của ông ư? - Hary Blao ngạc nhiên hỏi.
- Phải, cô em họ Mađơlen của tôi... Chính tôi liên hệ với cô ấy. Cái cô em họ của tôi thích được nhận tin tức nhanh và chính xác. Vì vậy tôi thấy cần phải làm cho cô ấy thấy là trong đêm hội này hình như có một đám mây đen đã làm tối sầm vầng trán của đức Vua.
- Tôi thì lại thấy vẻ mặt Ngài rạng rỡ, - Hary Blao trả lời với ý muốn che giấu ý nghĩ của mình về vấn đề này.
- Và tất nhiên là ông đã làm cho Ngài “rạng rỡ” trên những cột báo của tờ “Tin điện hàng ngày”.
- Đúng như vậy.
- Ông có nhớ, thưa ông Blao, cái gì đã xảy ra ở Zakret năm 1812? - Anxiđ Jôlivê hỏi.
- Tôi còn nhớ như là hồi ấy chính tôi đã ở đó, - phóng viên người Anh trả lời.
- Vậy thì chắc ông biết rõ là giữa buổi lễ tổ chức để chúc mừng hoàng đế Alêcxanđrơ, người ta báo tin là Napôlêông vừa vượt qua sông Niêmen với đội quân tiền vệ Pháp. Thế nhưng hoàng đế không rời bỏ buổi lễ, mặc dù mức độ cực kỳ nghiêm trọng của cái tin đó có thể đưa đến sự mất còn của nền đế chế. Ngài cũng không hề tỏ một chút lo lắng nào hơn là...
- Vị chủ nhân của chúng ta, - phóng viên Anh tiếp ngay - khi tướng Kixôp báo tin là đường dây điện tín vừa bị cắt giữa biên giới và Irkuxk.
- Ồ, ông biết chi tiết đó ư?
- Tôi biết chứ.
- Còn tôi, thật khó mà không biết được chi tiết đó, vì bức điện cuối cùng của tôi đã tới tận Uđinxk, Anxiđ Jôlivê nói với vẻ đôi chút tự mãn.
- Điện của tôi chỉ tới được Kraxnôiarxk - Hary Blao đáp lại với vẻ hài lòng không kém.
- Vậy ông cũng đã biết là lệnh đã được truyền tới quân đội tỉnh Nicôlaepxki rồi à?
- Vâng, thưa ông. Đồng thời người ta cũng đã đánh điện cho quân Côdắc ở Tôbônxk tập trung.
- Quả đúng như vậy, thưa ông Blao. Những biện pháp đó cũng chẳng lạ gì đối với tôi và xin ông tin rằng cô em họ đáng yêu của tôi sẽ nắm được tin đó ngay ngày mai.
- Cả họ nữa, những độc giả của “Tin điện hàng ngày’’ cũng sẽ biết đúng như vậy vào ngày mai, ông Jôlivê ạ.
- Đấy, khi mà người ta nhìn thấy được những gì đã xảy ra!...
- Và khi người ta nghe được những gì đã được nói ra!...
- Một chiến dịch lý thú cần theo dõi, ông Blao ạ!
- Tôi sẽ theo dõi, thưa ông Jôlivê!
- Vậy thì rất có thể chúng ta sẽ lại gặp nhau trên một mảnh đất có lẽ kém an toàn hơn là cái sàn của phòng khách này.
- Kém an toàn hơn, đúng thế; nhưng…
- Mà cũng đỡ trơn trượt hơn! - Anxiđ Jolivê vừa đáp vừa kịp níu giữ bạn đồng nghiệp, giữa lúc anh chàng này mất thăng bằng suýt ngã vì sàn trơn khi bước lùi.
Và sau đó hai nhà báo chia tay nhau, cùng hài lòng biết rằng chẳng ai trội hơn ai. Thật vậy, cả hai cùng ngang tài trong cuộc đua.
Giữa lúc đó, cánh cửa các phòng thông sang phòng khách đều nhất loạt mở rộng. Ở đây có kê nhiều chiếc bàn to, trên mặt bàn bày đầy các món sơn hào hải vị trong những bộ đồ sứ quý, những bát đĩa bịt vàng. Trên chiếc bàn chính giữa dành riêng cho các ông hoàng, bà chúa và thành viên các đoàn ngoại giao, lóng lánh một chiếc khay vô giá, sản phẩm của những hãng ở Luân Đôn và xung quanh kiệt tác về kim hoàn đó là hàng ngàn bộ bát đĩa tuyệt mỹ được các hãng ở Xevrơ sản xuất. Tất cả những thứ ấy chói lên dưới ánh sáng của những bộ đèn chùm. Đám khách mời của Tân Cung bắt đầu tiến sang các phòng ăn. Ngay lúc đó, tướng Kixôp, vừa trở vào, bước nhanh đến gần người sĩ quan khinh binh cận vệ.
- Thế nào? - Ông này vội vàng hỏi cũng như ông đã hỏi lần trước.
- Các bức điện không thể vượt quá Tômxk được nữa, tâu bệ hạ.
- Cần một người đưa thư ngay tức khắc!
Người sĩ quan rời phòng khách lớn, bước vào một phòng rộng kế tiếp. Đó là một văn phòng với bàn ghế sơ sài bằng gỗ sồi già. Văn phòng này ở một góc Tân Cung. Một vài bức họa, trong đó có bức ký tên Hôraxơ Vecnê* treo trên tường. Người sĩ quan như đang bị thiếu dưỡng khí, mở toang cửa sổ và đi ra bao lơn hít thở không khí trong lành của một đêm tháng Bảy tuyệt đẹp.
Dưới mắt ông, ánh trăng tràn ngập bức tường thành kiên cố bao quanh, trong đó nổi lên hai nhà thờ, ba lâu đài và một kho quân dụng. Xung quanh thành lũy đó hiện lên rõ rệt ba thành phố: Kitai, Bêlôi, Zemlianôi. Đó là những khu vực mênh mông dành cho người Âu, người Tactar hay người Trung Hoa mà những vọng lâu, những gác chuông, những tháp của giáo đường đạo Hồi, những vòm tròn của ba trăm nhà thờ với mái bầu màu xanh có cắm thánh giá bằng bạc, nhô cao hẳn lên. Một con sông nhỏ, dòng chảy khúc khuỷu, đây đó lấp lánh ánh trăng khuya. Tất cả hợp thành một bức khảm kỳ lạ những nhà cửa nhiều màu sắc lồng trong một cái khung rộng tới mười dặm.
Con sông đó là sông Maxcơva, thành phố đó là Maxcơva, thành lũy kiên cố bao quanh là Kremli và người sĩ quan khinh binh cận vệ khoanh tay trước ngực, vầng trán suy tư, lắng nghe văng vẳng tiếng ồn ào từ Tân Cung dội vào thành phố cổ Maxcơva, đó là Nga hoàng.
Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm - Jules Verne Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm