Số lần đọc/download: 3000 / 75
Cập nhật: 2017-07-11 14:13:25 +0700
Chương 1
N
hững chiếc xe ba gác nối nhau chở lợn ở lò mổ Phà Đen đến các chợ. Người chạy rầm rập, vác cả từng con lợn trắng nhễ nhại vào lẳn xuống quầy giữa chợ đương còn ồn ào.
Chỉ một lúc những tiếng động hối hả cuối cùng trong năm đã nhạt dần, rồi im. Các chợ Khâm Thiên, chợ Đuổi, chợ Hôm, chợ Cửa Nam, cảnh chen lấn quanh quầy thịt lợn lúc nãy đã tan hết.
Năm mới từ từ đến trên những bước tiếng giày, tiếng guốc đi thong thả khác lúc nãy, người ta bắt đầu chơi đón giao thừa.
Đêm ba mươi năm ấy, vừa sôi nổi, vừa dùng dắng. Đôi khi chần chừ. Tùy ở mỗi người vội vã hay ung dung, ở người thành phố hay người đợi tàu dòng dài ngoài ga Hàng Cỏ về Tết xa.
Từ năm về Hà Nội, Tết nào Trử cũng ở lại ăn Tết không về nhà. Trử cũng không nghĩ mình chưa có vợ. Trữ chỉ nhớ, mình còn có một người chị ruột. Không biết lưu lạc đâu, còn sống không. Khi nhỏ, ở bộ đội, rồi ở cơ quan trên Việt Bắc về.
Trử đã có một chương trình chơi giao thừa. Trử nghĩ thế. Phong phú và linh hoạt đấy. Người ta ăn mặc tinh tế. Đóng cái áo đại cán cài khuy cổ, hay “bị” để ý. Chợ Giời ở bờ hồ Thiền Cuông, ra đấy sắm Tết. Có hai vạn, vừa tậu được cái áo vét tím nhã nhặn. Thêm ba nghìn tiền chữa, đã biến được cái áo vừa phom. Tiện quá.
Càng khuya, người các phố càng đổ ra, chen chân trong làn sương và khói hương chảy lùa dưới những hàng cây hai bên hè nhộn nhịp đêm tất niên.
Người đông nghịt đi vòng hồ. Năm gần đây, cả đêm bị thiết quân luật. Tối đến, vùng hồ Hoàn Kiếm chỉ trắng nhởn bóng điện bóng nước. Không có người.
Hà Nội giải phóng, đền Ngọc Sơn trở lại nền nếp người đi giao thừa lễ đền và quanh hồ, nô nức người đi chơi suốt đêm.
Chân cầu Thê Húc, đống đá Tháp Bút, sang đền Bà Kiệu, lồi lõm những cây gạo, cây si, cây đa, dãy đèn le lói như đom đóm bám bờ ao đêm hè. Những ông thầy xem thẻ, đoán số, xem bói, không biết từ xó nào mò ra, xúm xít, nhấp nhem trong hốc tối. Tiếng xuýt xoa khấn khứa, tiếng đồng tiền gieo quẻ rè rè... Bao nhiêu ông thầy còn tiếc rẻ cố ăn mày lộc thánh được lúc nào hay lúc ấy dường như trôi cả về chỗ này. Người ta có cảm tưởng đâu đâu ở chợ Sắt dưới Hải Phòng, ở cây đa Cửa Quyền, ở đền Hàng Trống, ở đền Quan Thánh, các gốc đa, gốc đề, gốc si, gốc đại um tùm không còn ai ngõi đến cửa thầy, các thầy lần mò đến đây.
Người xúm quanh một ông thầy số ngồi trên thềm trước mặt. Thầy khoác tấm áo bông dài kín đến chân. Lù lù như cóc ngồi.
– Cụ cho quẻ tất niên nào.
Tiếng đàn bà, giọng đùa, như cắt nghĩa thêm câu vừa nói:
– Xóc thẻ giao thừa mãi cũng chán, năm nay bói tất niên một cái lấy may.
Ông thầy đáp lại một câu chào hàng giời ơi, như với mọi người:
– Đầu năm hay cuối năm cũng thế thôi, chư vị ạ.
Rồi hỏi, rồi nói dồn dập:
– Cô bao nhiêu tuổi? Quê ở đâu ta? Năm sinh tháng đẻ thế nào? Kể kỹ thánh mới ứng... Cái việc đường âm cũng không lờ mờ được đâu... Uế tạp này, tâm không thành này, quẻ bất linh.
Tiếng cười lại rinh rích:
– Cháu mà khai hết ra thế thì cụ còn phải bói gì nữa!
– Chủng chẳng cái con khỉ!
– Ấy năm mới sắp đến mà cụ lại văng ra thế.
Ông thầy bói chữa ngượng:
– Tôi không dám nhận tiền đặt quẻ của cô. Lạy thánh, phải có tên tuổi cẩn thận...
– Cháu hai mươi ạ.
– Giáp tỉnh, Ất phủ, Bính huyện, Đinh xã, Thìn thôn thế nào?
– Ai nhớ hết được!
– Tín chủ tên gì?
– My Lan.
– Thị kèo, thị cột nói cho rõ, chứ tên tân thời thì không được.
– Tên cháu thế mà.
Ông thầy vừa sợ gặp phải khách quấy, lại vừa muốn câu vào:
– Cầu tài, cầu lộc, hay cầu duyên?
– Cháu cầu tất cả.
– Cô đặt quẻ.
– Ba trăm này, cụ!
– Cầu cả ba thì phải năm trăm. Nhưng thôi, xem cho cô cũng là quẻ lấy may. Sắp giao thừa rồi, mà từ chặp tối tới giờ...
Ông thầy nhét mấy tờ bạc vào trong ngực áo. Rồi một tay vuốt cái đĩa đồng tiền, một tay moi điếu thuốc cháy dở lúc nãy, sờ đóm, châm, rít một hơi.
Đốm thuốc bừng đỏ trên mặt ông thầy.
Mấy chú bé từ đám đông phía ngoài loạng quạng đến.
– Cháu châm nhờ điếu thuốc...
Vừa hỏi, thằng bé vừa châm quả pháo vào đốm lửa điếu thuốc ở miệng ông thầy. Mấy người đứng đấy, thấy ngòi pháo cháy xòe xòe, bối rối, lùi giạt ra, chưa kịp kêu.
Nhưng ông thầy đã tóm được quả pháo trên mặt, quăng ra, quát: “Tiên sư cha...” Bọn trẻ con kêu ầm trong tiếng pháo nổ.
– Thầy bói giả mù, anh em ơi!
Trong khói khét lẹt thuốc pháo, những tiếng cười ré lên. Lũ lau nhau ở đâu bâu đến thêm, sấn vào.
Trử xô ra, dang tay:
– Thôi thôi, không nghịch thế.
Đám trẻ lùi lại.
Cái cô xem bói tên là My Lan quát to:
– Thằng Lâm đấy à!
Bọn trẻ lẩn vào đám người ồn ào qua.
Ông thầy vẫn sờ quanh, một tay giữ lên ngực áo bông, trong có túi tiền. Ông chửi toáng, quên cả đoán số. Cô My Lan kia cũng chẳng thiết bói toán gì nữa. My Lan bước ra đường.
Những chiếc xích lô tất tưởi tải đến vỉa hè hàng ôm cành cúc tần, cành nhãn, cành duối, đủ thứ cành lá bờ rào mà anh xe đã bẻ vội ở các bụi ven sông Tô Lịch phía cống Đõ. Để bán cho khách hái lộc.
Trử hỏi tự nhiên như đã quen biết:
– Cô không vào đền à?
Người con gái cũng nhận ra anh chàng ấy vừa cản lũ trẻ con nghịch pháo. Cô buộc lại nút khăn, theo thói quen, rồi mỉm cười, đáp:
– Thưa, không ạ.
Rồi, cũng tự nhiên, cô nhìn lại Trử và hỏi:
– Ông không xuống Hải Phòng à?
Trử cảm thấy cái áo mua ở chợ giời của mình đã hiệu nghiệm. Cô này tưởng mình là người dùng dắng di cư rồi sót lại. Trử toan nói: “Ở đâu chẳng thế”, nhưng Trử ngượng lưỡi.
Trử chỉ hỏi lại:
– Sao cô không đi?
– Chúng nó bảo trong ấy lạ nước lạ cái, khốn khó đấy.
Người con gái đi vào bóng tối thấp thoáng.
Thật thì My Lan đã xuống Phòng rồi.
My Lan là một cô gái nhảy. Người như cô mà trở lại Hà Nội cũng lạ. Nhưng việc đời thật lắm nỗi. Thời buổi làm ăn càng đen đủi, giao kèo với các chủ khó được đăng lại. Mấy năm không thể chen chân ở thành phố chỉ toàn đi “biên thùy”, khi lên Thất Khê, khi ra Tiên Yên.
Con người càng trải những cảnh ngộ éo le nhiều khi ý nghĩ mỗi lúc một khác nhau. Năm trước đi “biên thùy”, thấy những trại quân, những đồn ải ở Thất Khê, Đông Khê, ở Tiên Yên, Hà Cối, tưởng Việt Minh ẩn nấp trong rừng không thể làm gì nổi. Thế mà, đùng một cái, Tây chạy như vịt. Từ đấy, My Lan nghĩ khác, My Lan thấy dù cho thằng Tây và cái súng ghê gớm mấy, nhưng nó đi đồng đất nước người, ru rú trên mỏm núi hay trong đống gạch, còn bên Việt Minh thì người ta ở đâu cũng được. Thằng Tây như cơn mưa, không bao giờ mưa mãi.
My Lan đã xuống Hải Phòng nghe ngóng. Khối đứa rủ My Lan. Thế nào đây? “Kháng chiến” không có “đăng xinh”! Nhưng nay Lan không đi. My Lan không trở lại những ngày ê chề nữa.
Bãi rác ngập ngụa lầy lội. Những người khốn khổ ở đấy. My Lan ở đấy. Thế là My Lan cứ ở đấy.
Một hồi còi dài nổi trên nóc Nhà hát thành phố, báo giao thừa đến. Những tràng pháo đón xuân rào rào khắp các nhà. Chuông chùa, chuông nhà thờ chen nhau dóng như từ thinh không dồn dập.
Tiếng Bác Hồ trầm ấm lạ lùng.
My Lan ngước mặt, lẩm bẩm:
– Lạy cụ, giao thừa rồi.
Bỗng nhiên, nhãng hẳn những bâng khuâng ngổn ngang lúc nãy.
Rồi lại chen đi trong đám đông đang tràn ra đường. Có lúc My Lan nhìn lại. Nhưng anh chàng khi nãy đã lạc đi lối nào mất. My Lan để mắt tìm lần nữa. Không thấy.