One does not fall “in” or “out” of love. One grows in love.

Leo Buscaglia

 
 
 
 
 
Tác giả: André Maurois
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Đăng Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 6
Cập nhật: 2022-04-16 15:32:19 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
ôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời.
Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người.
Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế.
Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ.
Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao.
o O o
Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú.
Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa.
Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925.
Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn.
Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời.
Trong ánh sáng ảm đạm như giông tố, tôi đi tới bờ sông đầy bùn nhớt nơi nhiều người đang chất những bao xi-măng lên một chiếc phà nằm trên cạn. Đường phố ầm vang tiếng ầm ĩ chát chúa của tàu điện và xe đầu kéo chạy hơi nước. Dọc vỉa hè sôi sục một khu chợ thảm hại bày bán dọc đường. Tôi đang bước vào lãnh địa một vùng dân cư khác.
Một cảnh sát chỉ đường cho tôi đi tới bệnh viện Saint Barnaby. Toạ lạc ven bờ sông, bệnh viện này đối với tôi trông như một nơi ẩn náu giữa bao nhà cửa bẩn thỉu và những bức tường kho hàng bít bùng. Như nhiều toà nhà London, nó giống một công trình lớn trong những bức tranh khắc lãng mạn, với những sọc dài màu trắng nhấn mạnh những vùng bóng đen dữ dội, nhưng đây đó lại được điểm xuyết sinh động lên bằng những sắc màu tươi sáng - màu xanh lục của mặt cỏ, màu xanh biếc của đồng phục y tá, màu áo choàng đỏ thắm của ba bệnh nhân mới hồi phục đang đi dạo chuyến đầu tiên. Bên trên những cánh cổng sắt là một tấm phướn lớn phô trương dòng chữ đại ý nói là bệnh viện Saint Barnaby được ủng hộ bằng nhiều khoản đóng góp tự nguyện và hiện đang thiếu hụt ba mươi ngàn bảng Anh. Tôi đi vào và hỏi người gác cổng xem có bác sĩ H. B. James nào làm việc ở đây không.
– Bác sĩ James? - Anh ta nói. - Đúng là có, thưa ông... Giờ này thì chắc ông sẽ gặp được ông ấy, ở khu nhà của bác sĩ nội trú... Đi thẳng qua dưới vòm đài tưởng niệm kia, nhà đầu tiên ở bên trái.
Tôi đi theo chỉ dẫn, và gặp một khu nhà nhỏ tách biệt, cũng làm bằng đá trắng đã sạm đen muội khói như vậy, nhưng bám đầy dây trường xuân và kim ngân. Một tấm biển dưới chân cầu thang cho biết tên của các bác sĩ, kèm theo mỗi cái tên là thông báo “Ở NHÀ” hay “ĐI VẮNG.” Trên đầu danh sách này tôi thấy ghi: “BÁC SĨ H. B. JAMES, TẦNG 1, PHÒNG 21. CÓ NHÀ.”
Tôi đi lên lầu và thấy tên bạn mình khắc trên tấm gỗ nhỏ gắn trước một cánh cửa. Bỗng dưng tôi đâm lo ngại - thực tế là gần như ngượng ngùng. Liệu anh ấy có hài lòng khi gặp lại tôi sau một thời gian lãng quên lâu đến thế không? Biết đâu sau vài câu lịch sự xã giao, tôi lại sẽ thấy mình cô đơn như cũ giữa rừng rậm u ám toàn ống khói và nhà ổ chuột này? Tôi gõ cửa và bất giác nắm lấy quả nắm cửa. Cửa không mở. Dường như cửa đã chốt chặt ở bên trong. Một tiếng nói, cái giọng gay gắt từng quen thuộc, cái giọng cứ như bị gió giằng xé khỏi đống sắt vụn rỉ sét, vẳng ra nghe sao lạnh nhạt đến lạ lùng:
– Xin chờ một chút.
Trong sự im lặng sau đó, tôi nghe tiếng những bước chân hấp tấp, tiếng lách cách của những vòng khoen trượt đi khi một bức màn vội vã kéo lại, một tiếng kêu eng éc giống tiếng con vật nhỏ nào đó bị kẹp chặt hay bị va đập do sơ ý, và rồi tiếng lanh canh của ly cốc bị xô đẩy vào nhau. Tiếng nước chảy vào bồn, nhẹ nhàng tới mức khó chịu. Đứng trước cửa, tôi chờ, lòng bồn chồn vô cớ. James đang làm gì trong đó? Có phải tôi đã cắt ngang một ca giải phẫu, một đợt băng bó, một cuộc khám nghiệm? Lẽ nào lại thế! James đâu phải bác sĩ phẫu thuật, và đằng nào đi nữa thì anh ấy cũng đâu thể nào đưa bệnh nhân về phòng riêng của mình. Hay là James đang thức dậy muộn sau ca trực đêm? Tôi có phá giấc ngủ của anh ấy không?
Cuối cùng tiếng nước chảy đã ngừng, những bước chân tiến về phía tôi, và quả nắm cửa xoay dưới bàn tay tôi, và qua cánh cửa mở hé tôi nhìn thấy mái đầu của người bạn bác sĩ. Anh ấy thậm chí còn hốc hác hơn thời chiến tranh. Đôi mắt, với những nếp trũng sâu dưới ổ nhãn cầu như thế, đang ánh một vẻ lo lắng cố che giấu; trên gương mặt ấy có nét gì đó phờ phạc mà tôi thấy là khổ sở vô cùng. Anh ngần ngừ mất một lúc mới lục lọi trong trí nhớ một ký ức phù hợp với người khách viếng bất ngờ này, rồi mỉm cười và mở rộng cửa. Tôi thấy anh đang khoác chiếc áo blouse trắng.
– A, bạn tôi! Anh đang làm cái đếch gì ở London này? Thật không thể ngờ là sáng nay lại gặp anh ở đây!
Căn phòng bày biện đơn sơ: một chiếc giường cá nhân, hai chiếc ghế, một ghế bành lớn bọc da, và mấy hàng kệ tủ, một số chất đầy sách, số còn lại ẩn sau một tấm màn vải bạt màu xanh lá cây, chắc chắn đó là bức màn mà tôi đã nghe tiếng kéo trượt trên thanh sào. Ở một góc là chiếc bồn rửa tay đầy nước xà phòng. Trên thành lò sưởi là vài bức ảnh chụp một phụ nữ trẻ nào đó. James mời tôi ngồi vào ghế bành rồi chìa hộp thuốc lá ra mời, nhưng anh cứ đảo mắt nhìn quanh với vẻ lo âu tới mức tôi tự hỏi không biết có người thứ ba nào ẩn nấp trong phòng này không. Rồi anh cố gắng bắt chuyện, với vẻ quan tâm đúng là giả vờ của một người đang làm gì mờ ám thì bị gián đoạn và đang cố gắng giữ thái độ tự nhiên.
– Chà, chà! - Anh nói. - Rõ ràng là khi anh thành một sử gia thì coi bộ anh đã bỏ rơi tôi... Tôi đã đọc cuốn sách mới nhất của anh rồi, mặc dù anh không gửi tặng tôi... Viết được lắm. Tôi nào ngờ anh lại có năng khiếu ấy... Nhưng ngoài sách vở ra thì lâu nay anh thế nào?
Tôi đã đến đây lòng đầy vui mừng được gặp lại một người tôi từng yêu quý, cũng là một người từng mang đến cho tôi niềm hứng thú trí tuệ say sưa nhất. Nhưng tôi thấy bực tức và khó chịu vì nỗi vui mừng của mình đã bị phá hỏng hoàn toàn. Tôi thấy rằng James và tôi hầu như không có gì để nói với nhau. Chúng tôi từng thân thiết nhau như những người thuộc cùng một hàng ngũ đã chấm dứt tồn tại từ lâu. Trong cái tâm hồn lứa 1918 của chúng tôi chẳng còn lại chút gì. Nỗi khổ não chung của chúng tôi về hậu quả chiến tranh, tình cảm chung của chúng tôi dành cho những bạn bè bị thương tật, là những cảm xúc đã chết giống như những tế bào ngoài bề mặt đã tạo thành những thân xác phàm tục này.
Với cái thằng tôi vừa bước vào căn phòng, người tên James sống ở đây là một người hầu như hoàn toàn xa lạ, chẳng khác một kẻ qua đường tình cờ tôi có thể chặn lại trên phố Piccadilly. Tôi cảm thấy cách duy nhất để có thể dò tìm trở lại những tầng lớp sâu xa hơn và chắc chắn hơn trong lòng người bạn xưa là tôi phải thú nhận sự thất vọng của mình.
– Kỳ thật, James à, - tôi nói - nhưng anh còn nhớ buổi tối chúng ta ở Ypres khi anh nói với tôi về sự phân ly nhân cách khi điên loạn không? Tôi cảm thấy có điều gì đó rất giống như thế ngay lúc này! Tôi đến chỗ anh để tìm một bản ngã không còn tồn tại, và tôi hy vọng mơ hồ có được một thoáng điên loạn để biết đâu nhờ thế mà tôi vui mừng khi gặp lại anh...
Một lời như thế hẳn phải khiến người tên James mà tôi từng biết sẽ bắt đầu ngay một cuộc luận đàm vừa uyên bác vừa hài hước. Nhưng anh chỉ mệt mỏi nhún vai, châm điếu thuốc, và ngồi phịch xuống một chiếc ghế, mắt vẫn lo lắng nhìn quanh.
– À, vậy đó! - Anh thở dài. - Lâu lắm rồi tôi đã thôi không còn lo nghĩ về những chuyện phân ly hay thăng hoa... Tôi chăm sóc cho những người bệnh ung thư với người bệnh tim và gặp vấn đề về phổi... Cảng London thỉnh thoảng cũng gửi đến tôi những người đồng bào của anh đấy, mấy thủy thủ...
Ngay lúc đó, từ sau bức màn xanh lại vẳng ra cái âm thanh mà anh đã từng nghe thấy sẽ không bao giờ quên - tiếng nhốn nháo của một con chuột, một âm thanh sột soạt, mau lẹ, được nhấn mạnh bằng tiếng móng vuốt cứng của những bàn chân. Tôi đột nhiên hình dung tới cái công sự tôi từng ở chung với James trong một đường hầm xe lửa.
– Chà! - Tôi vừa nói vừa cười. - Anh nuôi chuột đấy à? Đó là một điều gợi lên nhiều kỷ niệm chung của chúng ta!
– Chuột? - Anh vừa nói vừa đứng dậy với vẻ mặt khó chịu. - Anh nghĩ sao mà lại bảo là có chuột trong bệnh viện? Anh bị ảo giác gì rồi, anh bạn... tôi dám nói thế đấy, tôi rất tiếc, nhưng chúng ta không thể ở đây được... Tới giờ tôi phải đi kiểm tra một vòng khoa bệnh của mình rồi. Anh có muốn đi cùng không? Có thể anh sẽ thấy hay ho.
Bây giờ thì tôi lúng túng hết sức.
– Anh có chắc là tôi sẽ không làm phiền không? -Tôi nói. - Lúc khác tôi quay lại cũng đâu khó gì.
– Không, - anh đáp, giọng lẫn lộn hảo ý lẫn vẻ châm biếm. - Không, anh không làm phiền tôi đâu...
Anh bước nhanh tới bồn rửa tay, và lấy một ít nước xà phòng và lau sạch một vết đỏ dây trên thành bồn.
Người Cân Linh Hồn Người Cân Linh Hồn - André Maurois Người Cân Linh Hồn