Số lần đọc/download: 1588 / 58
Cập nhật: 2015-11-27 19:13:27 +0700
Chương 1: Pleiku-Tuy Hoà
R
ời phòng họp Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, tôi như ngợp trong một cơn địa chấn. Gió thổi tạt vào mặt toàn cát và bụi. Những ngọn cỏ hồng trong sân trực thăng của Bộ Tư lệnh ngã rạp về một phía. Tôi không còn tỉnh táo, không cất nổi tay chân, cả người bải hoải, chung quanh tôi mọi người vội vã. Họ là sĩ quan đơn vị trưởng các đơn vị biệt lập đồn trú trong thị xã Pleiku. Họ vừa cùng tôi tham dự phiên họp kinh hoàng này. Tôi cũng không muốn về nhà, mấy người bạn chắc giờ này vẫn xoa mạt chược. Kể từ hơn hai tháng nay, khi tôi phải thuyên chuyển khỏi Đà Lạt, vợ con tôi đã về Qui Nhơn với bên ngoại, tôi lên đây một mình tá túc cùng vài người bạn.
Mới bốn giờ chiều, nắng hôm nay cũng vàng mầu bệnh hoạn. Giờ này chắc không còn ai ở ngoài Biển Hồ. Chắc không còn ai dưới chân pho tượng Quán Âm trên đỉnh đồi. Không, chắc hẳn thế nào cũng có vài người lưới tép với những chiếc xuồng được biến chế bằng móp của họ khuấy động khoảng nước xanh êm ả trên mật hồ.
Không biết giờ này, những gì đã xảy đến cho thị xã Ban Mê Thuột. Sáu giờ sáng nay thị xã này hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, sau khi đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh gởi bản tin chót về Quân đoàn, yêu cầu oanh tạc thẳng vào Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23. Ông vẫn còn kẹt lại trong đó. Một số các đơn vị đồn trú ngoài thị xã, và đám đông dân chúng thoát đi về phía Nha Trang, họ băng rừng. Tất cả các đường đều bị chặn, có lẽ giờ này họ ở đâu đó trong những khu rừng núi trùng điệp. Bản tin yêu cầu oanh tạc lên đầu của đại tá Quang được nhắc lại nhiều lần trước khi im hẳn.
Tôi hình dung ra thi trấn này. Đây là nơi mười năm trước tói đã đến, đã ở lại đó. Đây là nơi tôi thực sự trưởng thành. Tôi nhớ rõ từng con đường, từng ngõ hẻm, từng quán ăn, rạp hát, từng tiệm sách. Đây là nơi có người yêu tôi và dĩ nhiên thiếu gì người ghét.
Bây giờ tôi bình yên ở đây, dưới chân pho tượng này, ngày kinh hoàng đã qua, đã chụp xuống thị trấn có một phần đời tôi trú ngụ. Tôi nhớ cái bàn giấy chỗ tôi ngồi làm việc phủ đầy bụi đỏ. Bởi tôi ký giấy tờ cho đơn vị ở mọi nơi, ở bàn bi-da, ở quán cà phê, ký ở nhà, ở ngoài phố. Thậm chí tôi còn ký giấy tờ cho đơn vị ở các cổng trường, chỗ tôi vẫn đậu xe mỗi buổi tan học, đó là chỗ những vạt áo dài trắng túa ra, tràn ngập thị xã buồn muôn thuở này. Từ bàn giấy đó qua khung cửa sổ, đằng sau là dẫy nhà khu gia binh đơn vị. Tôi nhớ đến người hạ sĩ già làm tài xế cho tôi trong suốt hai năm trời không được lái xe, bới lẽ tôi thích lái lấy. Ông ta chỉ có nhiệm vụ đổ xăng cho đầy mỗi buổi sáng, và tu bổ mỗi khi cần thiết. Tôi cầu mong ông ta có mặt giữa rừng giờ này. Rồi người lính phụ trách truyền tin, anh này chuyên sửa quần áo cho cả đơn vị, anh đã chết vào dịp Mậu Thân, vì một mảnh pháo ác nghiệt đã cắt tiện cái đầu rời ra khỏi cổ. Sau đó đơn vị lập cái miễu cho anh ta ngay kế ban quân xa. Bây giờ không biết những người lính cũ của tôi ai còn ai mất.
Dĩ nhiên tôi không thể không nhớ đến dàn hoa thiên lý nhà Thanh Tài, xế cửa trường trung học. Trong một đêm trăng sáng, mấy chị em Tài đã hát tiễn tôi đi. Không biết bây giờ những gót chân hồng đó có theo kịp những người dân chạy loạn hay đã ngừng lại và đổ xuống đâu đó giữa rừng già.
Tôi giật mình tỉnh dậy bởi những tiếng đạn pháo kích. Địch pháo vào phi trường, vào kho xăng chỉ vài trái rồi ngưng hẳn. Chỉ vài trái đủ làm dân quân tỉnh Pleiku này hoang mang, số đông sẽ mất ngủ tới sáng. Tin tức về Ban Mê Thuột đã lan tràn khắp nơi. Những trái pháo vu vơ đó quả là những trái đạn có tầm mức phá hủy cao. Nó làm cho nhiều người chết sững. Nó hủy hoại tinh thần ai yếu bóng vía. Trời đã quá nửa khuya. Trăng thượng tuần treo trên đỉnh những ngọn thông xao động bởi gió rừng. Men rượu hồi chiều làm tôi ngây ngất. Những binh sĩ lục đục bỏ hầm pháo kích vào ngủ lại. Tôi thấy không buồn ngủ. Sân doanh trại tự nhiên rộng hẳn ra. Một người lính già đốt lửa bằng lá thông vun lại trong góc lô cốt, ngay tại chỗ ông ta đang gác. Tàn lửa bay cao, tản ra như một bễ than lò rèn. Bóng ông ta hắt lung linh trên lô cốt tạo thành những hình thù kỳ lạ. Tôi trở về phòng, vô tình với tay lên kệ sách đầu giường và lấy được quyển truyện Một thời để yêu và một thời để chết của Remarque.
o O o
Ngày N - 4
Tin tức về Ban Mê Thuột mỗi lúc mỗi tuyệt vọng. Liên đoàn Biệt Động Quân, đơn vị được chỉ định tái chiếm vùng đất đã mất bị chặn đánh tan, khi còn cách thị xã hai mươi cây số. Bây giờ tin tức không còn là mật nữa, ở ngoài phố, ngoài chợ, trong các tiệm cà phê, quán hủ tiếu, đâu đâu người ta cũng nghe những tin tức khác lạ về thành phố đã mất.
Bỗng nhiên sinh hoạt trọng thị xã nhộn nhịp hẳn lên. Khu chợ trời hình như họp dài thêm ra, nó không còn lẩn quẩn trước rạp xi nê Diệp Kính và khách sạn Thống Nhất. Khắp nơi người ta khuân đồ ra bán, trong khi các tiệm buôn lớn lại đóng cửa im lìm.
o O o
Ngày N - 3, 6 giờ sáng
Sáng nay tôi thấy mình đứng ở cổng đơn vị cũ: đồn Quân Cảnh Pleiku. Tôi leo lên ngồi trên lô cốt ngay cạnh cổng chính đồn. Chính cái cổng này, và cái sân trải đá của đồn Quân Cảnh Pleiku là di tích của tôi ba năm về trước. Dạo đó tôi và Thiếu úy Võ Văn Oanh, người sĩ quan phụ tá của tôi cùng đáo nhậm đơn vị một lượt. Tôi cảm thấy thiếu thoải mái khi phải sử dụng chung một cổng chính với Tiểu Đoàn 2 Quân Cảnh. Nhân tiện thấy Oanh là một sĩ quan ngoại giao giỏi, tôi giao cho gã nhiệm vụ này. Vài tuần lễ sau Oanh đã biến đồn Quân Cảnh Pleiku thành một đơn vị sáng sủa, với một cổng đá có đắp nổi phù hiệu binh chủng, có cổng ngách dành cho người đi bộ, và trải nhựa cái sân đất đỏ đầy bùn trong mùa mưa. Một bức tường thấp ngăn đơn vị tôi tách biệt hẳn với Bộ Chỉ Huy Quân Cảnh Quân Khu. Dĩ nhiên đơn vị tôi vẫn trực thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân Cảnh. Nhưng tôi cũng có một khoảng nhỏ riêng tư trong tiểu đoàn, ít nhất cũng có vẻ một đơn vị biệt lập.
Dạo đó tôi chưa lập gia đình nên ở luôn trong đơn vị, từ khi có cổng riêng, và một lô cốt nổi ở góc sân đồn, dưới một cội thông già, mỗi sáng giờ đi học, mỗi chiều giờ tan học, tôi hay lên vọng gác đặt ở lô cốt, và phải trèo một cái thang khoảng chừng mười bậc. Ở trên cao này, tôi nhìn được suốt con đường đi ngang cổng đơn vị, con đường này là con đường chính để dẫn tới trường nữ trung học Pleime, và trường trung học tỉnh hạt Trần Quốc Tuấn. Buổi sáng nào cũng thế, tôi hút tẩu thuốc đầu tiên trong ngày ở đó. Vào những buổi sáng mùa đông, màn sương mỏng giới hạn tầm nhìn, tôi nghe tiếng cười đùa ríu rít, tiếng người nói lao xao trước khi nhận rõ mặt người, trước khi nhận ra rõ những vạt áo dài trắng tinh khiết lướt qua dưới chân tôi. Tôi làm đơn vị trưởng này gần ba năm, thấy họ lớn dần, từ những cô gái nhỏ, đẹp tự nhiên không son phấn, đến lúc họ lớn dần, biết chọn những mầu áo, kiểu quần, rồi lớn hẳn, rồi hòa nhập vào cái thị xã của quân đội này. Rất ít người tiếp tục học, bởi lẽ cái thời giá của những năm 70, 71, 72 đó, một sinh viên trọ học ở xa phải tốn chừng mười lăm tới hai mươi ngàn một tháng. Ngoại trừ con nhà giàu có, quyền thế, phần lớn họ ngừng lại ở ngưỡng cửa đại học, nhập vào với đời sống đầy bất trắc của một thành phố lớn mạnh bởi chiến tranh.
Sáng nay, ngày N - 3 của cuộc di tản bi thảm, đứng ở vị trí cũ tôi không còn nghe được tiếng nói lao xao, không thấy những tà áo cũ. Chỉ có tiếng ríu rít của bầy chim sà xuống, bay lên, trong cái sân mênh mông của chùa Phật Giáo Quân Đội, sát bên cạnh đồn Quân cảnh.
Ngày như đọng lại trên pho tượng Phật đứng chơ vơ giữa sân chùa.
o O o
Ngày N - 3, 10 giờ sáng
Trung tá Trần Đình Kha, Chỉ Huy Trưởng của tôi đi họp quân đoàn về, ra lệnh triệu tập ngay một cuộc họp đơn vị trực thuộc. Cuộc họp ngắn ngủi: Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ dời về Nha Trang, các bộ phận chính di tản bằng phương tiện hàng không do Sư Đoàn 6 Không Quân đảm nhiệm, quân dụng nặng di tản bằng đường bộ. Các đơn vị phụ thuộc tự sắp xếp sửa soạn xuống sau. Các đơn vị trú phòng giữ nguyên vị trí. Ông chỉ thị cho các phòng ban của Tiểu đoàn 2 Quân Cảnh sửa soạn di tản. Các đơn vị như đồn Quân Cảnh Pleiku, Đại đội 122 Quân cảnh Điều tra Tư pháp, và Tiểu đội Quân cảnh Điều tra Tư pháp Pleiku ớ lại. Riêng đồn Quân cảnh Pleiku tăng phái hoạt động ở phi trường. Bây giờ tôi là một sĩ quan ngồi chơi xơi nước, sau ba năm trưởng đồn Pleiku, hai năm trưởng đồn Đà Lạt. Phần tôi quá dễ.
o O o
Ngày N - 3, 1 giờ chiều
Tất cả các sòng mạt chược thường trực như nhà tướng Cẩm Tư lệnh phó Quân đoàn, tướng Tường Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, đại tá Nhu tân tỉnh trưởng, đại tá Sáng An ninh Quân đội, trung tá Hoàn Chiến tranh Chính tri, trung tá Lễ phòng Xã hội, cũng như tại nhà ông Biện lý, ông Dự thẩm đều thiếu tay chơi. Lý do là các bà vợ đã di tản, các tay thường trực hoặc bận công vụ, hoặc đã biến như một số các Tu bíp và các thầy cãi.
Đột nhiên tôi nổi giận, đột nhiên tôi hiểu tại sao Ban Mê Thuột mất, và số phận của Pleiku cũng lung linh như ngọn đèn trước gió.
o O o
Ngày N - 3, 2 giờ chiều
Phi trường Cù Hanh đầy nghẹt người. Dân chúng bị chận lại đứng dọc theo cổng phi trường, tràn ra cả khu vực buôn bán do Sư đoàn 6 Không quân thực hiện. Chúng tôi phải tăng cường nhân viên an ninh tại cổng phi truờng, tại các sân đậu phi cơ để kiểm soát người ra vào, cũng như hành khách lên phi cơ quân sự. Cảnh hỗn độn năm 1972, mùa hè đỏ lửa tái diễn. Giữa đám đông lo âu, áo quần nhàu nát, tôi bắt gặp những mái tóc làm kỹ, quần áo chưng diện của một số các phu nhân cấp lớn, vài sĩ quan tùy viên chạy lăng xăng. Tôi bắt gặp một số các em chiêu đãi của hội quán sĩ quan Phượng Hoàng, một số điếm cũng chưng diện và cũng có mặt trong danh sách ưu tiên di tản. Giữa những đám hành lý ọp ẹp của gia đình quân nhân là những bộ salon, những đồ gỗ quý được tháo rời ra và bọc trong những bao cát mới nguyên. Đột nhiên tôi nghẹt thở như bị ai đánh một trùy thật mạnh vào ngực. Tôi bỏ phi trường, giao nhiệm vụ cho thượng sĩ Hội thuộc đồn Quân cảnh Pleiku thay mặt tôi trực tiếp chỉ huy tổng quát đám quân nhân tăng phái. Tôi lái xe về tỉnh. Trên đường về, tạt qua nhà Kim Tuấn định rủ anh đi uống cà phê, nhưng cửa đóng im lìm.
o O o
Ngày N - 3, 4 giờ chiều
Chiều nay rảnh, lôi lái xe lang thang khắp tỉnh. Từ trung tâm thị xã, tới các con phố vắng. Thành phố như một con bệnh hấp hối.
Rồi quen đường cũ, tôi lái xe về phía quận Lệ Trung. Quốc lộ 19 bị đứt từ hơn tháng nay, con đường hầu như không có xe đò qua lại. Nắng chói chang trên mặt nhựa. Bây giờ là mùa xuân, những đồi cỏ chung quanh thị xã rực lên một mầu xanh, gió thổi những hàng lau ngã rạp, nhấp nhô như ngọn sóng. Con đường này tôi qua lại mỗi chiều, hầu như suốt hai năm liền, không ngày nào tôi không đi trừ những ngày đặc biệt. Dạo Ngô Văn Đinh Hợi còn ở đây, mỗi chiều trên chiếc xe bỏ mui, Hợi, Kim Tuấn, Thái Tăng An và tôi thường đi hết đoạn đường này. Bắt đầu từ cổng quân đoàn chúng tôi rẽ phải khi tới cầu số 3, rồi tiếp tục đi hết con đường vòng quanh thị xã do công binh Mỹ thiết lập, để quay trở về từ phía bắc của quận Lệ Trung. Hôm nay, lòng đường trống trải, trên xe chỉ có mình tôi. An và Tuấn còn ở đây nhưng mỗi người đã có những bận bịu riêng của họ. Hôm nay quả tình tôi mới thấy lửa đốt đồng thật đẹp.
o O o
Ngày N - 2, 7 giờ sáng
Chuông điện thoại reo hai ba lần mà không thấy trung sĩ nhất Bài, hạ sĩ quan trực nghe, tôi bước lại nhấc máy. Đầu dây bên kia là sĩ quan trực cấp tá của quân đoàn. Ông yêu cầu tôi cho binh sĩ túc trực ở phi trường quân sự và dân sự, chận tất cả các sĩ quan di chuyển lẻ tẻ, thu hồi giấy phép và sự vụ lệnh. Ông nhấn mạnh một điều đặc biệt là phải giữ lại các y sĩ của Quân y viện Pleiku và của Liên đoàn 72 Quân y. Ông cho biết nhiều thương binh đã chết vì thiếu máu, thiếu y sĩ trị liệu v.v...
o O o
Ngày N, 6 giờ sáng
Sáng nay tôi dậy sớm, cả đêm qua trằn trọc, chỉ chợp mắt được những giấc ngắn, đầy cơn mê sảng và đầy mộng mi. Giấc ngủ bị cắt quãng bởi những trái đại bác bắn đi, bởi những tiếng kẻng đổi gác chung quanh hàng rào phòng thủ. Mỗi lần thức dậy tôi đều thấy qua cửa sổ, thỉnh thoảng những trái hỏa châu lướt nhanh trên nền trời tối thẫm. Gần sáng không thể ngủ lại, vọng từ các phòng sĩ quan bên cạnh, những tiếng lách cách vang lên trong đêm tối, chắc hẳn họ đang dọn đồ đạc và vật dụng cá nhân. Chắc hẳn họ đang phân vân không biết mang đi những gì và thương tiếc những gì phải bỏ lại. Đêm qua yên tĩnh, cái yên tĩnh ngột ngạt của bầu không khí sắp sửa nổ tung vì bão tố. Tôi ngồi dậy, trời hãy còn lờ mờ tối, nhìn quanh phòng, hành lý đã gọn. Bây giờ hành lý của tôi nhẹ nhàng đến thế ư, nó vỏn vẹn trong một cái ba lô dầy: hai bộ quân phục, một bộ thường phục, những túi nhỏ ngang hông, lót xung quanh ba lô là những sách vở cần thiết. Thật ra chỉ là những cuốn sách tặng của bạn bè tôi, một tập bản thảo và một quyển sách hay mới mua để đọc dọc đường.
Thật không ngờ tôi đã đi qua mười hai năm quân đội, hồi tưởng lại ngày nào mới bước chân vào quân trường Thủ Đức. Thoáng đó đã mười hai năm qua đi, mười hai năm phí hoài tuổi trẻ, đời sống bị cắt rời ra từng mảng vương vãi đó đây. Từ những thành phố địa đầu, tới vùng đồng bằng sông Cửu, từ thị trấn cao nguyên, tới vùng duyên hải, đống quân trang đầy ắp của ngày mãn khóa buông vãi ở khắp nơi, đám hành lý cứ vơi dần, trong khi nỗi buồn mỗi ngày mỗi nặng, mỗi đè nghiệt ngã trên vai.
Bây giờ là sáu giờ sáng của ngày 16-3-1975. Một buổi sáng thứ bẩy đẹp, trời trong xanh, những đám mây trắng nõn như bông bay là là trên đỉnh núi xa xa phương bắc. Tôi mở cửa bước ra ngoài, gió thổi nhẹ, những cọng lá thông khô rơi lả tả trên thềm, mặt trời chưa lên nhưng đã tỏ mặt người. Có tiếng chim bồ câu gù từ cái chuồng chim của nhà đại úy Bách, người bạn cùng khóa 15 Thủ Đức, thuộc Tiểu đoàn Truyền tin Quân đoàn 2. Đột nhiên tôi liên tưởng đến giọng chim quen thuộc này. Hình như trong suốt đời tôi chưa hề thấy một con chim bồ câu nào gầy. Dù là bồ câu nuôi ở nhà, trong các công viên thành phố hay đồng loại của chúng, những con cu đất, cu gáy nhởn nhơ ngoài đồng nội, bầu diều của chúng thường nở phình ra, và âm thanh tắt nghẽn trong cái bầu diều đó. Ngay cả những con chim cu gáy, cái tiếng gáy buồn thảm vọng xa trong các buổi trưa hè của thời thơ ấu ngày nào còn vẳng bên tai, còn cái tiếng gù gù của những con chim bồ câu nuôi chật hẹp trong các chuồng sơn lòe loẹt càng phát nản. Âm thanh như một nỗi bực tức. Tôi không hiểu tại sao con người lại coi chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình? Bởi hình dáng, bởi đôi cánh, dù bởi gì chăng nữa tôi dám quả quyết không phải bởi âm thanh của nó. Cái âm thanh này chắc chắn chỉ làm hòa bình bay xa, và bởi lẽ đó, trên trái đất này có lúc nào ngơi tiếng súng. Những điểm nóng đó đây trên thế giới đang đe dọa sự an bình của con người.
o O o
Ngày N, 7 giờ sáng
Chia tay cùng Thái Tăng An và Nguyễn Phước ở Câu lạc bộ của Tiểu đoàn 20 Chiến tranh Chính trị, tôi lái xe ngang cổng sau của Bộ Tư lệnh Quân đoàn, ghé thăm mấy người bạn trong Trung tâm Hành quân để biết rõ hơn về tình hình, tôi không thể ngờ được với tình hình đó mà cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn vắng hoe.
Căn nhà lầu thênh thang trên đỉnh đồi, nơi phác họa, sắp đặt bao nhiêu cuộc hành quân trong suốt mười năm sau cùng của trận chiến, nơi những kẻ quyền uy khệnh khạng ra vào, nơi những sĩ quan áo quần thẳng nếp, huy chương đầy ngực, lúc nào cũng nghiêm trọng đó. Bây giờ họ ở đâu, cái hành lang sâu thẳm đột nhiên như dài vô tận.
Ra về bằng cổng trước của Bộ Tư lệnh, tôi bắt gặp trên đường chính một đoàn Thiếu sinh quân, với nón đỏ, cầu vai có ngù đỏ, quần áo trắng tinh, đi đều bước với đội hình diễn binh. Hàng đầu là những em nhỏ mười, mười một tuổi, cao dần, cao dần cho đến hàng sau cùng là những em sắp sửa ra trường. Khoảng chừng hơn một đại đội, không hiểu đám Thiếu sinh quân này đi làm hàng rào danh dự để đón ai tại phi trường? Có lẽ các xe GMC sửa soạn di chuyển nên các em phải đi bộ. Giờ này còn đưa với đón, dàn chào với lễ nghi quân cách. Bỗng nhiên tôi đau thắt ruột.
o O o
Ngày N, 9 giờ sáng
Đột nhiên thành phố như nổ tung ra, khắp nơi tiếng động vang lên, người chạy nhốn nháo, xe cộ ngược xuôi. Từ khắp nơi người ta đổ dồn về thành phố, sau những im lặng ngột ngạt, sau những chờ đợi nặng nề, khắp nơi người ta túa ra đường, quân và dân xa lẫn lộn, xe lớn, xe nhỏ, ba bánh, hai bánh. Lính đầy trên các xe be, dân đầy trên các quân xa, thành phố như một cái phễu xe khổng lồ, tất cả đổ dồn vào điểm tập trung đoàn xe phía bắc thành phố. Bây giờ thì đã có lệnh chính xác. Người ta quyết định bỏ Pleiku, triệt thoái quân đội về miền duyên hải. Con đường được chọn là Liên Tỉnh Lộ 7.
Như bầy ong vỡ tổ, như những con chim bị nạn cháy rừng, người ta hốt hoảng gọi nhau, hò hét, hầu như mọi nhà đều mở cửa, người lớn khênh ra đường những gì có thể khênh, trẻ con xách trên tay những gì có thể xách. Xe cộ đậu ngổn ngang trên mọi ngả đường.
Tôi đứng trên lô cốt mọi ngày. Sở 2 An ninh trước mặt, khu gia binh Tiểu đoàn Truyền Tin bên tay trái, bên phải là sở 2 Tuyên úy Phật giáo và nhà bảo sanh Quân đoàn. Nhộn nhịp chưa từng thấy, người ta chất đồ lên xe, những chiếc xe chất nặng tưởng như đây là lần hữu dụng cuối cùng. Máy xe phun khói khắp nơi, người ta như thiếu không khí để thở. Đây là cuộc triệt thoái kỳ lạ, chỉ có một lệnh vỏn vẹn: sử dụng Liên Tỉnh Lộ 7 để về Tuy Hoà. Dĩ nhiên về phía quân đội, các đơn vị trưởng có thể lo liệu cho đơn vị của họ một cách tương đối, về phía những người dân của thị xã này, rõ ràng họ hành động như trong một cơn mê sảng. Tôi đứng ngoài cơn mê sảng này. Nắng đã lên cao, từ lô cốt của đơn vị, qua cái sân mông mênh của Chùa Phật giáo Quân đội, tôi thấy xóm nhà tôn trên con đường dẫn vào cư xá sĩ quan Trần Quí Cáp im lìm, nhưng hình như những cửa sau đều mở, tất cả chỉ còn những cái xác nhà vô hồn.
Bây giờ là mười giờ sáng. Tiểu đoàn tôi đã sẵn sàng, đoàn xe đậu quay về hướng cổng chính. Tôi đảo qua các phòng, mười năm trước khi còn là thiếu úy tôi đã một lần ghé đơn vị này. Dạo đó gần Tết năm 1965, tôi thuyên chuyển tới đây vì lý do kỷ luật. Tiểu đoàn này mới thành lập, các phòng thông nhau, buồi chiều tiểu đoàn trưởng về sớm, binh sĩ các phòng kê lại bàn ghế châu đầu vào các sòng bài, mỗi ban hầu như có một sòng. Đủ loại, phé, sập sám, domino... Sĩ quan cũng tham dự tận tình. Thực ra đánh bài sau giờ làm việc cũng chẳng có gì là xấu, chỉ xấu một điều là đơn vị tôi đặc trách kỷ luật cho cả một quân đoàn, các toán tuần tiễu của chúng tôi dẹp các sòng bầu cua, tài xỉu, đuổi binh sĩ, dân chúng chạy tứ tung như đàn vịt xong rồi quay về cũng lại rúc đầu vào các sòng bài, có người quên ăn. Tôi chỉ ghé đây ít ngày chờ đi Ban Mê Thuột nhận trách nhiệm mới. Năm đó tôi đã đến Ban Mê Thuột với đúng mười đồng trong túi.
Hôm nay sau mười năm thành lập đơn vị, tôi đã đi đủ nơi, và trở về với lòng buồn thảm. Nhà xây thêm, phòng đẹp ra, đơn vị quy củ và khang trang. Bây giờ tôi sắp rời vĩnh viễn, lòng như chùng lại. Chỗ này đây, năm 1970, tôi đã chỉ huy một đơn vị nhỏ, chỗ này đây hầu như đã rửa mặt cho tôi sau nhiều năm lận đận bị chỉ huy bởi các sĩ quan chẳng ra gì. Chỗ này đây tôi rong chơi với bằng hữu: Kim Tuấn, Thái Tăng An, Ngô Văn Đinh Hợi, Nguyễn Bắc Sơn, Thế Vũ, Cam Nhị Thu v.v...
Những kẻ ở xa đến chơi ít ngày cho thỏa máu giang hồ vặt: Vũ Hữu Đinh, Phan Lạc Giang Đông v.v... Và những học trò của tôi, những học trò nghèo của trường công lập tỉnh hạt, đi về sáng chiều, thỉnh thoảng cười khúc khích khi đi ngang lô cốt, chỗ tôi vẫn đứng hút tẩu thuốc đầu ngày.
o O o
Ngày N, 12 giờ trưa
Thị xã Pleiku mỗi lúc một khuất sau lưng, trời nắng gay gắt, đoàn xe như một con rắn khổng lồ, bò chậm chạp trên mặt lộ bóng nhẫy. Đột nhiên phía trước mặt chừng non cây số, một đám người thấp thoáng. Từ xa tôi biết chắc đây là đám Thiếu sinh quân đã gặp buổi sáng lúc ra khỏi cổng Quân đoàn, vẫn nón đỏ trên đầu quần sóc dưới chân, đa số đều đã cởi trần, các em đã di hành lần cuối trong bộ quân phục đi phép đó, những vạt áo ka ki trắng vắt vai. Tôi giận run người, tôi ao ước được thấy ngay bây giờ những kẻ trách nhiệm các em, ông trung tá Phan Như Hiên, kẻ đã làm chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức lúc trường này còn là Liên trường Võ khoa, kẻ đã đến khám phòng tôi mười hai năm về trước khi tôi còn là một sinh viên sĩ quan, đại úy Phú, tiểu đoàn trưởng của các em đâu? Trước đây ông này cũng là một Thiếu sinh quân Vũng Tầu, ông ta có thể ngoảnh mặt với cái quá khứ của mình một cách bình thản thế ư? Các sĩ quan của trường đâu, họ đã dậy dỗ các em thế nào về nhiệm vụ của người lính, họ đã dẫn dắt các em như thế nào trong quân ngũ, bây giờ họ đâu cả rồi. Họ biến đi đâu hết cả.
Sáng nay tôi gặp các em lúc bẩy giờ rưỡi, bây giờ là mười hai giờ, các em đã vượt hai mươi cây số trong khoảng thời gian đó. Đa số các em đều là con cháu các quân nhân sắc tộc thiểu số đã hy sinh cho miền Nam này. Các em là dòng dõi của các sắc dân Mường, Mán... vùng Thượng du Bắc Việt, Radhe, Bahnar, Stieng vùng Cao nguyên Trung phần... Trong khoảng vài giờ đồng hồ vừa qua, các em đã bước đi sắt đá trên con đường bội phản. Các em đã làm chính tôi phải xấu hổ. Ở địa vị tôi là một em lớn trong số các em, chắc chắn tôi không có được sự bình tĩnh đó. Thế mà các em đã tập họp lại, vài em lớn dẫn dắt các em nhỏ, đùm bọc nhau, bình thản lên đường.
Tôi bảo người tài xế bỏ đội hình hàng xe, vượt lên trên các em một quãng, đích thân tôi đeo cái băng quân cảnh hành sự trên cánh tay, cùng với hai người lính giúp sức chặn đoàn xe lại. Tôi chia nhỏ các em mỗi toán năm bẩy em, có một em tương đối lớn, và dồn các em lên bất cứ xe nào còn trống. Tôi vẫn đọc quyển sách, mắt vẫn mở, mà hình như tôi không biết sách viết gì, gấp sách lại tôi cố dỗ một giấc ngủ. Nắng vẫn gay gắt trên đầu.
o O o
Ngày N, 5 giờ chiều
Ì ạch mãi rồi đoàn người cũng tới được đoạn dường đất đỏ, chỉ còn năm, bẩy cây số nữa sẽ vào Phú Bổn, xưa người ta gọi đây là Cheo Reo. Những chiếc xe dẫn đầu hẳn đã lọt vào thị xã, đoàn xe giảm tốc độ, ngang hông đoàn xe, những chiếc xe Suzuki, Honda hai bánh tuần tự lướt qua. Hầu như không có một chiếc xe hai bánh nào chở một người, phần lớn chở hai, đôi khi tôi bắt gặp một người lính lái, dĩ nhiên người vợ ngồi đằng sau ôm theo một đống hành lý, đứa con nhỏ ngồi trên bình xăng, kỳ lạ thay người lính vẫn đeo theo khẩu súng vắt vai, bụi đường còn đọng trên khóe mắt của những em nhỏ, vệt nước mắt chảy dài trên má.
Một cột khói bốc cao từ phía thị xã, kế đó là một tiếng nổ lớn. Rồi hàng loạt, địch pháo vào Phú Bổn. Chúng không cần bắn vào đoàn di tản, chúng bắn vào chỗ mà đoàn di tản sẽ đến. Con đường còn dài, còn quá nhiều chỗ lý tưởng để cho những nút chặn, những cuộc phục kích. Pháo vẫn nổ trong thị xã, đoàn người trên xe túa ra, người lớn, trẻ con khóc như ri. Họ ùa ra các cây lớn bên vệ đường, núp sau các gò đống. Trong chớp mắt đoàn người biến đi, chỉ còn trơ lại những chiếc xe và vật dụng ngổn ngang, bừa bãi.
Tôi lội sâu vào rừng, cách xa lòng đường khoảng một trăm mét, đột nhiên có một trảng lớn xuất hiện, cái trảng đầy cỏ tranh cao ngập đầu người. Nhô lên khỏi đám tranh là những túp lều xiêu vẹo. Những túp lều nhà binh, mà tôi đoán chắc đây là một địa điểm tỵ nạn mới thành lập. Nổi bật trong đám lều nhà binh này là vài chiếc lều trắng linh, trắng nõn nà, phải chi có dù đỏ, và vài tàu dừa kết hoa, thì cảnh này hệt như những nhà rạp đám cưới kết bằng dù. Đó là chỗ để bà con cô bác hai bên ngồi nhậu chung vui với đôi trẻ.
o O o
Ngày N, 10 giờ tối
Quân xa đậu chật sân vận động, dân xa đầy trên các ngả đường. Cheo Reo như tên một lời buồn, bỗng nhiên đón nhận một số dân đông gấp mấy lần dân thị xã, gồm dân chúng của hai tỉnh Pleiku, Kontum gom lại. Không một hiên nhà nào không có người, người ta gối đầu lên vỉa hè, lên những thanh gỗ, nằm co quắp trong các ngõ hẻm, nằm tênh hênh trên các lối đi, rúc trong các quán chợ, đầy người trong các lớp học, chập nghẹt trong nhà thờ, chùa chiền. Đêm như loãng ra, người như quắt lại. Đó đây những nhúm lửa được nhúm lên, người ta nấu ăn, những người lính trẻ tụ tập bên những cút rượu vừa kiếm được.
Thật tình tôi không thể ngủ được, cả đêm qua chập chờn mộng mi, suốt một ngày dài ê ẩm trên xe, xung quanh tiếng nói chuyện rì rào. Tôi thấy rõ những điếu thuốc chợt lóe lên, soi tỏ những khuôn mặt đăm chiêu, bơ phờ.
Tôi ngồi dậy, leo lên ghế trọng tài của sân vận động, ở vị trí này, dưới ánh trăng mồng chín tôi quan sát được khắp chung quanh. Trong cái lờ mờ của ánh sáng này, hình ảnh đau buồn của chiến tranh dược soi tỏ. Có tiếng trẻ giật mình khóc khuya, có tiếng chó sủa từ các xóm kế cận. Tôi nghe có một tiếng chó tru dài, tiếng tru này vang lên mỗi khi cả bầy im lặng, nó y như tiếng của một ca sĩ chính trong khi cả bè phụ im lặng của một bản hợp ca tưởng chừng như bất tận.
Tôi ngẩng mặt nhìn trời, đêm sơn cước ở đâu cũng huyền hoặc, bầu không khí lung linh, vầng trăng rờn rợn. Sao đầy trời, lấp lánh như những viên kim cương bày trong tủ kính.
Bây giờ là nửa đêm của ngày 16 rạng ngày 17 tháng 3, người ta đã ký với nhau một văn kiện về hòa bình hơn hai năm về trước. Hai năm đã qua, hòa bình bay cao, như một trái bong bóng bơm quá căng, lên cao thật nhanh và sắp nổ trên trời. Cái giá của hòa bình đang đóng góp bằng máu của người lính đôi bên, máu của những người dân bất hạnh.
Thật tình tôi không ngủ, mắt vẫn mở, hình như tôi mê đi, tôi chợt tỉnh vì một cơn gió khuya, tôi bắt gặp cái bóng của chính tôi đổ dài trên sân tennis. Tôi trở về chỗ nằm, bầy chó vẫn tiếp tục bản hợp ca của chúng.
o O o
Ngày N + 1, 5 giờ sáng
Trọn đêm qua và giờ này là thời gian của Cheo Reo. Những người ra đi từ Pleiku và Kontum đã chọn phần số của họ. Những người đó hãy còn chập chờn trong các ngả đường, họ sẽ phải đi, bởi lẽ không có chỗ để trở về, họ vẫn còn ngủ li bì rải rác khắp trong thị xã.
Sáng nay thiếu tá Nguyện dậy sớm hơn thường lệ. Sớm hơn mọi khi còn ở tiểu đoàn. Sáng nay ông ta không có tách trà như mọi khi, bù lại cơn ho kéo dài hơn, cơn ho đủ để cho mấy người chung quanh phải trở dậy. Tôi biết rõ thói quen này đã lâu, từ ngày tôi và ông cùng học khóa sĩ quan chuyên nghiệp ở Vũng Tầu. Ông vẫn giữ được thói quen dậy sớm của người lớn tuổi, cũng như tôi vẫn giữ được thói quen thức khuya của thời trai trẻ. Dạo đó, và mãi cả về sau này, tôi vẫn không có thiện cảm với người sĩ quan già có hơn hai mươi năm binh nghiệp này. Khi tôi là chuẩn úy và ông là thiếu úy, học khóa sĩ quan đặc biệt Nha Trang ra, cái xuất xứ đã không làm tôi nể vì. Lại nữa trường gần biển, tối nào tôi cũng lò mò ngoài bãi tới nửa đêm mới về, cứ đang ngon giấc là y như bị đánh thức bởi những tiếng lách cách của ông ta. Bẵng đi mười năm. Cả hai gặp lại nhau nơi Tiểu đoàn 2 Quân cảnh này, tôi vẫn không thể nào có thêm thiện cảm với ông, người có cái khôn của một sĩ quan sắp giải ngũ, ông đang có những toan tính vụn vặt cho ngày về hưu. Bỗng nhiên cơn ho dài hôm nay, và thế ngồi bó gối đó khiến tôi thương cảm vô cùng.
Trong suốt mười hai năm quân đội, tôi chỉ kính trọng hai người trong số hàng chục vị chỉ huy trực tiếp. Ông Nguyện không phải là một trong hai người này, đôi lúc tôi còn coi thường những thủ đoạn vặt của ông, nhưng hôm nay lòng tôi chùng lại. Tôi nhỏm dậy nói chuyện với ông. Một già một trẻ trầm ngâm trong bóng tối. Chúng tôi trao đổi vài câu, cả hai vẫn lắng nghe những tiếng động vụn vặt của đồ đạc xếp lại, tiếng dọn dẹp, không phải của những người đang ngủ ngoài trời, bây giờ là của những người đang trú ngụ trong những ngôi nhà của thị xã nhỏ này. Họ dọn dẹp trong bóng tối, vì thành phố này hiếm điện. Lát nữa đây khi mặt trời lên, khi đoàn người tỉnh dậy để đi nốt quãng đường còn lại, tôi biết thêm một thành phố nữa sẽ bị cuốn đi, bởi một dòng cuồng lưu tạo bởi con người. Chúng tôi mới trải qua một phần ba con đường. Gần một trăm cây số đường tráng nhựa, không giao tranh, không trở ngại, không mô, không mìn. Ho, những người dân của thị xã Phú Bổn sẽ nhập vào với chúng tôi, đoàn xe sẽ dài thêm, và con đường cũng bắt đầu tồi tệ.
Ngày bắt đầu rạng dần, sao đã thưa, vài cơn gió sớm thổi tung những miếng giấy vụn trong sân vận động. Lác đác có những ngọn lửa hồng.
Trung úy Chánh, trưởng đồn Quân cảnh Phú Bổn cùng trung úy San, Tiểu đội Quân cảnh Tư pháp Phú Bổn đến xin lệnh triệt thoái. Ông Nguyện trở lại cương vị của ông bằng một cái lệnh không chính xác. Có thể hiểu là đồng ý, có thể hiểu là không. Tôi buồn vô hạn, những cái lệnh như thế đã đưa bao nhiêu người đến chỗ chết. Cái thương cảm dành cho ông nửa tiếng đồng hồ trước bỗng biến mất. Tôi nhớ đến mấy em Thiếu sinh quân hồi trưa, tôi nhớ đến người lính chở vợ bằng xe Honda, con nhỏ trước bình xăng và vẫn không quên khẩu súng. Tôi bỏ ra ngoài, đón hai người sĩ quan này ớ cổng sân tennis, nói với họ:
"Các anh phải sửa soạn đơn vị, giữ liên lạc thường trực với tiểu khu, Phú Bổn không thể đứng được, Ban Mê Thuột đã mất, người ta đã bỏ Pleiku và Kontum. Cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn còn bỏ huống hồ thị xã Cheo Reo này. Tôi biết chắc các đơn vị ở Phú Bổn sẽ rút ngay sau khi tụi tôi đi, các anh nên theo họ. Đừng quên binh sĩ và vợ con họ."
o O o
Ngày N + 1, 9 giở sáng
Đoàn xe đã nổ máy ba lần, chúng tôi vẫn chưa rời khỏi thị xã Phú Bổn được. Nắng hôm nay gắt hơn hôm qua, mới hơn chín giờ sáng mà đã oi nồng, con đường trước mặt thẳng tắp rồi mất hút trong đám cây rừng. Hôm nay đoàn xe trông thật kỳ dị, nó nham nhở, lẫn lộn giữa đám quân và dân xa, giữa mầu xanh ô liu là những chiếc xe be màu đỏ, xanh lòe loẹt, một vài chiếc xe du lịch, mặc dù bùn đất phủ đầy lớp sơn nhưng vẫn giữ được cái vẻ đỏm dáng của nó. Những chiếc xe Lambretta ba bánh phun khói mờ trời, và những chiếc xe Honda vẫn len lỏi di chuyển hai bên, ngay cả khi đoàn xe ngừng lại. Tôi đứng trên mui xe nhìn về phía trước, chung quanh bạt ngàn là rừng núi trùng điệp. Gió thổi những chiếc bạt xe nhà binh căng lên. Những chiếc chăn, khăn trải giường được căng lên che nắng bị gió hất lên, trông như những lá cờ hàng của một đoàn quân thất trận. Sau cùng chúng tôi cũng để Cheo Reo ở lại.
Con đường bây giờ không còn rõ hình dáng, có khúc mới được bồi thêm một lớp đá củ đậu, có khúc giữ nguyên hình dáng của một con đường mòn, không có dấu của lề. Giữa trưa đoàn xe ngừng lại ngang một buôn Thượng, có những căn nhà sàn mái tôn mới cất, tình trạng mặt đường có vẻ tốt. Cả tiếng đồng hồ vẫn không thấy phía trước chuyển động. Đây là một khu đồi cỏ, không một bóng cây chung quanh, không một dòng nước mát. Một vài người lính rời đoàn xe, lững thững vào buôn kiếm nước. Họ trở ra cho biết buôn bỏ hoang, nhiều người khác tiến vào, rồi trở ra với những trái đu đủ xanh, hay buồng chuối chín dở.
Bây giờ người ta túa vào buôn, cái buôn nhỏ có độ mười, mười hai nóc nhà bỗng nhiên bi lục lạo mọi xó xỉnh. Rồi người ta dẫn ra hai người Thượng già, thật già. Cả hai không biết nói tiếng Việt. Một người thông ngôn được gởi tới. Và sau cùng chúng tôi biết lý do tại sao buôn mới cất lại bị bỏ hoang: người Thượng di tản ngược chiều với chúng tôi, chẳng phải là họ về với phía bên kia. Song đã nhiều năm nay, một thiểu số đòi tự trị ở Cao nguyên, đòi lập một quốc gia riêng biệt cho người sắc tộc, đây là dịp họ nghĩ là tốt để thực hiện ý đinh đó. Bây giờ tôi không còn ngạc nhiên khi cả hai ngày nay bắt gặp nhiều toán người Thượng di chuyển ngược phía chúng tôi, có toán cả trăm người.
Hai giờ chiều, đoàn xe chuyển bánh, bỏ lại đằng sau cái buôn Thượng vừa trải qua một trận lụt người.
o O o
Ngày N + 1, 3 giờ 30 chiều
Một khu rừng tuyệt đẹp, những thân cây cao, to, lá như lá bàng. Con đường đổ dốc thoai thoải, bên phải là hàng triệu những tảng đá xanh lớn nhỏ, thỉnh thoảng một khối lớn như căn nhà đứng chênh vênh chờ đổ. Bên trái con đường là một dòng sông nhỏ, nước trong veo, chảy xiết. Bên kia sông là khu rừng tuyệt đẹp, chỉ có các thân cây lớn thẳng tắp, nhiều cây cao hàng chục thước, thân lớn hơn sải tay, lá khô phủ đầy mặt đất. Bây giờ là tháng ba, đang độ xuân về, đáng lẽ khu rừng đó phải xanh biếc, đầy bóng mát, đáng lẽ nó phải là nơi trú ẩn tốt cho những cánh chim rừng. Vậy mà cây cối đã chết đi, hàng loạt. Khu rừng chết vẫn còn đó, nó rụng lá dần, trơ lại những thân khô, nó còn đó đôi khi cả chục năm sau. Khi lớp thuốc khai quang đã mất hết hiệu lực, rồi cỏ bắt đầu mọc, những thân cây khô mục nát đổ xuống. Phải biết bao nhiêu lâu nữa khu rừng mới có được những thân cây cao dường đó.
Đoàn xe bây giờ không còn chạy, như một con rắn già kiệt lực, nó bò từng chập rồi lại ngừng để thở. Một người lính cho tôi biết còn chừng mười lăm cây số nữa đến quận Phú Túc. Như vậy từ sáng tới giờ chúng tôi đi được hơn ba mươi cây số. Đoàn xe bây giờ không còn đội hình, thật ra thì không còn thứ tự của lúc khởi hành. Làm gì có đội hình, đây chỉ là đơn vị trưởng các đơn vị cỡ tiểu đoàn tự lo liệu cho đoàn xe của họ, có chung một nỗi lo, một tần số làm việc, họ tự vá víu lại, thành một đoàn quân triệt thoái. Rồi dân chúng nhập vào, và bây giờ tôi không còn biết ai là người trách nhiệm cho hơn trăm ngàn người. Tôi biết ông xếp chúa của tôi, trung tá Trần Đình Kha, cũng có mặt trong đoàn triệt thoái này. Có thể có một, hai đại tá, nhưng những người này cũng chẳng bao giờ liên lạc được với những người có trách nhiệm là chuẩn tướng Phạm Duy Tất và chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.
Bây giờ là sáu giờ chiều của ngày 17-3-1975, đoàn xe ngừng lại giữa rừng, hai bên đường là những chồi cây nhỏ. Tôi ăn miếng cơm đầu của ngày hôm nay, suốt ngày tôi chỉ nhấm nước, một người lính mang lại cho tôi một gói cơm sấy và một hộp thịt. Tôi không cảm thấy đói, nên lại cất gói cơm vào ba lô. Tôi bỏ xe, xuống đường nằm ngửa mặt nhìn trời cao. Vài ngôi sao mọc sớm lung linh trên nền trời tím thẫm.
o O o
Ngày N + 1, 8 giờ tối
Hàng ngàn động cơ rú lên, hàng trăm cái còi inh ỏi, đèn xe sáng rực một góc trời. Tôi ngoảnh lại, ánh đèn xe tưởng như bất tận. Đêm nay có lẽ cả đoàn người sẽ phải ngủ lại quận Phú Túc. Để rồi sáng mai chúng tôi lại cuốn theo một số người, bỏ lại một quận lỵ hoang vắng.
Thấp thoáng hai bên vệ đường vẫn là những chiếc Honda đủ mầu, chúng lượn qua lượn lại để tránh các ổ gà, các mô đá, y như bầy thiêu thân lăn xả vào ánh đèn. Đường thật hẹp, có lúc tưởng chừng như xe tôi móc phải những chiếc ghi đông xe Honda, song kỳ diệu thay, tất cả trườn đi trơn tuột như một con lươn. Nhìn ngược lại tôi thấy đoàn xe y hệt một dòng suối bạc, nó như một con rồng lửa có cái thân thật dài trong các phim thần thoại. Hình như không xe nào cách xe nào quá ba thước, tôi cảm thấy như nghe được tiếng khóc của con nít trên chiếc xe đằng trước. Tất cả trôi về phía Phú Túc, hầu như không có gì có thể cản nổi.
Bỗng tôi thấy một người đi Honda nằm ngang cạnh lộ, cái xe Honda dúm đó bên đường, có lẽ anh ta đã lạc tay lái va vào một chiếc xe nào đằng trước. Chắc chắn anh ta bị thương nặng, cái tay vẫy cao trong ánh đèn. Anh ta nằm chúi đầu xuống, nhiều chiếc xe lướt qua, thật tình khó có thể ngừng lại với cái dòng xe này. Tôi chưa biết phải làm gì, cái tay cứ lớn dần, lớn dần dưới ánh đèn xe, có lúc tôi tướng chừng cái bàn tay đó sắp mò vào mặt tôi.
Còn bốn xe nữa tới xe tôi, tôi bảo người tài xế tìm cách đậu lại thì cùng lúc đó cách tôi ba chiếc, đột nhiên đèn thắng loé lên, một người nhảy xuống. Chiếc xe sau ngừng lại kịp, nhưng vài chiếc sau tôi thắng không kịp, những cản xe nhà binh va nhau tạo thành những tiếng kinh hồn. Cũng may tốc độ đoàn xe tương đối chậm, nên cũng không có gì đáng tiếc. Qua ánh đèn xe tôi thấy trung úy Nguyễn Bảy, người sĩ quan điều hành của tiểu đoàn tôi đang vực người bị nạn lên, một anh lính giúp sức, cả hai khênh người bi nạn lên xe. Có những tiếng chửi thề ròn tan của mấy tên lính vô lại trong tiểu đoàn.
Sau cùng chúng tôi đến vòng đai của quận lỵ Phú Túc. Tôi mệt mỏi thiệt tình. Tôi thiếp đi trên xe, từ lúc trước khi đoàn xe ngừng lại. Lúc mở mắt ra tôi thấy một bãi cát im lìm, chung quanh tôi xe cộ đậu ngổn ngang, vẫn mầu trăng mênh mông đó, vẫn cái lạnh ngắt của đêm rừng. Đêm nay tôi thực sự thấm thía cái hay của bà Đoàn Thị Điểm trong Chinh Phụ Ngâm.
o O o
Ngày N + 2, 9 giờ sáng
Hôm nay thứ hai, 18-3-1975, ngày thứ ba của cuộc triệt thoái, chúng tôi đã ngốn được nửa đoạn đường. Hình như cam go chỉ mới bắt đầu. Trên bản đồ con đường còn lại cũng cả trăm cây số nữa. Nó xuất hiện trên bản đồ bây giờ không còn là một đường vẽ liền nữa, mà là những gạch nhỏ, đứt quãng. Rời khỏi bãi cát, chỗ nghỉ tạm đêm qua, chúng tôi thực sự bước vào quãng đường bị bỏ quên hơn chục năm qua. Mới ra khỏi quận lỵ chừng ba cây số, dấu hiệu của an ninh hoàn toàn biến mất. Ngoài vòng đai phòng thủ của quận lỵ, tôi thấy một xóm nhà, xóm vắng không một bóng người. Tôi biết chắc nó vẫn là chỗ trú ẩn của một số gia đình, những con chó lởn vởn, một con mèo ngồi sưởi trên nóc nhà, nghển đầu nhìn đoàn xe, rồi lại lim dim đôi mắt. Tôi thấy những lá cờ quốc gia mới sơn trên nóc, và trên một vài cánh cửa là những khẩu hiệu chống chính phủ, đả đảo Mỹ, Ngụy.
o O o
Ngày N + 2, 12 giờ trưa
Đột nhiên con đường biến mất, đoàn xe đang từ hàng một, bò chậm chạp trên mặt đường lồi lõm, bỗng nhiên mở ra một khoảng trống, một đồng cỏ bao la. Vài chiếc xe tách ra khỏi hàng, chạy trên lớp cỏ tranh ngã rạp đó, rồi những chiếc khác tách theo, bây giờ là cả một cuộc chạy đua băng đồng, hàng ngang. Một vài chiếc xe đương chạy bỗng sụp hố, những chiếc sau tách sang hai bên. Người trên xe bi nạn túa ra, đẩy phụ với sức máy, rồi người ta sử dụng bạo lực, nổ súng bắt những chiếc xe gần đó ngừng lại, đẩy, kéo xe họ khỏi hố, hoặc dồn người và đồ đạc lên những xe chạy được. Súng bắt đầu nổ từ một phe, bạo lực lan nhanh như lửa cháy đồng, trong chốc lát nó bao trùm đoàn xe, súng nổ khắp nơi, người ta bắn để cướp đường giành đi trước. Bạo lực khởi đầu như thế, khởi đầu bằng một nguyên nhân nhỏ nên cường độ chưa cao. Phải đợi đến lúc địa thế trở lại chật hẹp, lại có dấu vết con đường cái, hằng trăm chiếc xe bây giở bắt đầu ép vào giữa, ép vào phía xuất hiện của con đường. Bây giờ súng không nổ phát một, người ta bắn hàng tràng đại liên, không bắn chỉ thiên, mà bắn xả trên đầu. Thỉnh thoảng tiếng súng phóng lựu nổ về phía hai vệ đường trước mặt. Khói súng khét lẹt. Trẻ con khóc như ri, người sùng đạo cầu Chúa, niệm Phật, kẻ bạo lực bóp cò.
Bây giờ là ba giờ chiều của ngày 18-3-1975. Giao tranh chưa thực sự xảy ra, nhưng súng đã nổ, và có lẽ không một khẩu súng nào không lên đạn. Khắp nơi người ta nhìn nhau nghi kỵ. Khắp nơi người ta đề phòng lẫn nhau, kẻ bên cạnh có thể nguy hiểm. Kẻ thù ở xa chưa tới, và chiếc xe bên cạnh, nếu không biết thật rõ, nếu không cùng đơn vị thì phải coi chừng. Bây giờ không còn ai chỉ huy thực sự ở đây.
Tôi đã qua khỏi cái trảng cỏ cao tệ hại đó. Một nửa đoàn xe kẹt lại trong cái đồng cỏ mênh mông, bây giờ chúng tôi tiến thật chậm, chậm như một con ốc sên trên mặt đường. Đoàn xe giảm tốc độ tệ hại, trong khi bạo lực và hỗn loạn khởi đi với gia tốc nhanh.
Súng vẫn nổ đằng sau, chua chát thay tôi cảm thấy hơi mừng khi chỉ nghe những tiếng nổ ròn của đạn M.16, chưa có những tiếng nổ chát chúa của AK.
o O o
Ngày N + 2, 6 giờ chiều
Cả ngày nay chỉ di chuyển được mươi cây số, bây giờ chúng tôi ngừng lại ở bìa một ấp định cư. Một ấp Công giáo tương đối trù phú hơn hết kể từ lúc chúng tôi qua khỏi Phú Bổn. Những ruộng mía thẳng hàng, những nương ngô xanh ngát. Bạo lực như dịu lại cùng với nắng chiều sắp tắt. Xe tôi hình như lọt vào khoảng vài trăm chiếc chạy đầu, hầu như không có một chiếc dân xa nào lọt được vào đoàn này, nó lụi đụi đằng sau, bi bỏ lại đó đây trên đồng cỏ, ngổn ngang hàng trăm xác xe, vài kẻ đốt những chiếc xe du lịch đã nâng cao địa vị họ trong nhiều năm nay.
Tôi xuống xe, tìm một chỗ ngả lưng êm ả trong ruộng mía non bên đường. Đoàn xe bây giờ thực sự là trộn trấu. Lúc khởi đi, tiểu đoàn tôi và các đơn vị phụ thuộc có sáu mươi hai chiếc lớn nhỏ, qua cuộc chạy đua băng đồng đó, chung quanh tôi toàn những xe vẽ phù hiệu lạ, lác đác tôi bắt gặp vài binh sĩ dưới quyền. Cách tôi độ mươi chiếc là xe của trung úy Hóa, Đại đội trướng 24 Quân cảnh Tư pháp và trung úy Vui thuộc Tiểu đội Quân cảnh Tư pháp Kontum. Hình như họ có dự trữ khá nhiều lương khô quân đội. Cả hai vẫy tôi lại, mời dùng cơm chung. Những miếng cơm san sẻ lúc này quả tình là quí. Nhưng với tình trạng này, chỉ ba ngày nữa sẽ có nạn đói trầm trọng nếu không được tiếp tế lương thực. Tôi thấy Hóa chui vào xe, lục đục một hồi lâu rồi mang ra khá nhiều cơm sấy và đồ hộp. Tôi nói với hai người là phải dè sẻn hơn, và hỏi họ một ít trợ giúp cho mấy đứa trẻ trên xe tôi, vợ con của binh sĩ trong đơn vị. Hóa, Vui có vẻ ngần ngại. Tôi không trách gì hai anh. Nhưng lòng tôi chùng xuống.
Đằng sau xe tôi, trung úy Lộc già, vợ và tám con, mới giải ngũ chừng ba tháng, khi di tản hốt hoảng quay về đơn vị cũ. Vài người lính trong tiểu đoàn cũng có con nhỏ. Tôi nghe chúng khóc đã hai ngày nay. Tiếng khóc của con nít nó ngặt nghẽo, tưởng chừng như có thể làm đứng tim người mẹ. Khoảng thời gian năm phút kể từ khi tôi mở lời yêu cầu đó, tôi tưởng thời gian ngừng lại. Người tài xế trên xe Hóa, nói với tôi giọng giả lả:
"Xe của ông thầy gần đây, lúc nào tụi tôi ăn ông thầy xuống ăn chung cho vui."
Tôi nổi giận vì câu nói này. Một là tôi không xin cho tôi, tôi đủ sức chịu đựng, đủ tài xoay trở khi cần. Hai là tôi biết rõ họ có rất nhiều, lương thực đủ dùng cho cả tháng. Giữa lúc đó một người hạ sĩ quan khác của Hóa tới cho biết, vợ thượng sĩ Mạnh có thể đẻ non, đau bụng dữ dội, Mạnh đã đi công tác giải giao vài ngày trước khi di tản. Hóa là một sĩ quan tương đối có lòng, anh đứng dậy cùng người hạ sĩ quan đi về phía sau. Thấy vậy tôi cũng đi theo, mãi hơn một giờ sau tôi và Hóa tìm được một bà mụ trong ấp. Không thể đưa sản phụ về nhà bà ta được, mà nước đầu ối ra nhiều, Hóa, tôi cùng đồng ý phải kiếm một chỗ kín gió, chăng tạm vài tấm bạt, và đứa bé đã ra đời trong cái lều lộ thiên này. Tôi và Hóa ngồi ở xa xa chờ kết quả, cái kết quả mở đầu bằng tiếng khóc trong hoàn cảnh bi đát này. Một vài ngôi sao mọc sớm cùng với tiếng trẻ sơ sinh khóc oa oa trong cái buổi chiều chạng vạng kỳ quặc đó. Bà mụ cho biết đứa nhỏ tốt nhưng sản phụ hơi yếu. Khỏe làm sao được với cuộc hành trình này. Tôi không biết Hóa giải quyết nốt tình trạng ra sao. Nhưng khi về lại chỗ đậu xe, Hóa đưa cho tôi một thùng lương khô với giọng thật nhẹ:
"Cái này của tụi nhỏ."
Rồi anh ta tiếp luôn:
"Đây là của ông thầy. Miệng nói tay anh đưa cho tôi hai bao thuốc lá quân tiếp vụ."
o O o
Ngày N + 2, 7 giờ 30 chiều
Một toán Biệt kích của trung tá Lê Minh cải trang quân phục Việt cộng, dép râu, súng AK xuất phát từ phía trước mặt. Tôi nghe nhiều tin đồn xấu về những lính giả Việt cộng cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ. Cầu mong có Lê Minh ở đây. Anh ta là bạn cùng khóa cùng trung đội với tôi hồi còn là sinh viên sĩ quan. Trung tá ba mươi tuổi, đem xương máu của anh để đổi lấy những huy chương và những bóng mai trên cổ áo.
o O o
Ngày N + 3, 5 giờ sáng
Đoàn xe khởi hành thật sớm. Trời tối mịt. Đêm qua tôi ngủ thật ngon, cả ngày kinh hoàng vậy mà đêm tôi có những giấc mơ thật đẹp. Tôi thấy trẻ lại mười năm, bước vào lớp học. Những em nhỏ áo quần sạch sẽ đứng dậy chào, rồi lớp học bắt đầu trong những tiếng hoan ca. Phải chi tôi trẻ lại thật sự.
Chúng tôi vẫn ì ạch tiến tới, một binh sĩ cho biết tin tệ hại, đã xảy ra từ hai ngày trước. Binh sĩ này có mấy người bạn ở thiết giáp thoát chết trong trận phục kích phía sau đoàn xe, và đã phải chạy thục mạng mới bắt kịp đoàn xe. Trận đánh diễn ra khoảng giữa đường Phú Bổn và Phú Túc, ngay tại khu rừng đẹp với những thân cây khô. Thiết giáp đoạn hậu cho cuộc triệt thoái tệ lậu này. Theo lời mấy binh sĩ thoát chết kể lại, Đại tá Lữ đoàn trưởng đi cùng đơn vị, khoảng một trung đoàn địch bôn tập từ quốc lộ 19 sang, không bắt kịp đoạn đầu của đoàn di tản đã chặn đánh khúc sau. Vị trí thuận lợi cho cuộc phục kích, địa thế chật hẹp, chiến xa không thể xoay trở được, một số nhỏ chạy thoát kịp theo đoàn di tản phần lớn là M113, hầu hết những chiến xa nặng kẹt lại. Đại tá Lữ đoàn trưởng tự sát. Thêm vào đó hai tiểu đoàn Địa phương quân người Thượng cũng nổi loạn, chiếm tỉnh Phú Bổn, truy kích phía sau của đoàn tị nạn, nhiều dân chết, phía cuối đoàn xe bây giờ là địa ngục.
Tôi còn biết thêm một tin tệ hại không kém, cái tin kia đã dừng lại từ hai ngày trước, đã bị bỏ lại đằng sau. Tin tôi mới biết sẽ mang sự tệ hại đến cuối con đường. Tin cho biết là một số Biệt động quân thất trận khi giải vây Ban Mê Thuột, cùng với hậu cứ của các tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng đã bắt kịp đoàn người. Bây giờ họ là những ông vua con của từng đoạn đường. Họ nổ súng bừa bãi, cướp giật giữa ban ngày, họ tước đoạt bình thản bằng mũi súng của họ, không chừa một ai, già, trẻ, lớn, bé. Họ không chê một thứ gì từ đồng hồ, nhẫn, giây chuyền, tiền bạc, thậm chí họ còn tước cả những đôi giầy còn tốt của người khác đang đi, họ cướp ăn, họ giật uống.
Tôi biết chắc chỉ có một vài Biệt động quân làm ẩu. Nhưng bọn đào binh, bọn quân phạm, bọn vô lại của tất cả các đơn vị đã cố kiếm cho được những bộ áo ngụy trang của binh chủng này. Trời dần sáng, chúng tôi bắt gặp một dòng suối cạn, đường thật hẹp chỉ một xe có thể qua, bờ bên này thoai thoải, bờ bên kia dốc thật gắt lại có thêm một khúc quẹo ngặt nghèo. Xe qua từng chiếc, phải đợi cho chiếc này lên hết dốc chiếc khác mới có thể tiến lên. Một quân xa chở nặng, hư số phụ, tuột dốc lưng chừng đồi, rất may xe không có người và anh tài xế nhảy ra kịp, chiếc xe lật nhiều vòng. Cây cối ngã rạp, đồ đạc văng tứ tung, sau cùng nó nằm ngửa bốn bánh lên trời, một phần xe choán ngay lối lên dốc. Cần phải tránh một tai nạn tương tự, nếu không tất cả đoàn xe sẽ kẹt cứng.
Tôi không rõ ai ra lệnh, một vài quân cảnh tiến ra điều hòa lưu thông, họ hoạt động ở hai đầu dốc. Thượng sĩ Hạp, một nhân viên quân cảnh của trại giam Pleiku điều hành ở dốc cao, anh chận lại những xe có cần trục, để có thể kéo những xe khác không đủ sức leo, hễ có một chiếc xe cần trục khác tới thì chiếc trước được đi.
Một người lính biệt động quân ngồi nhờ trên xe trục công binh cho là đã bi Hạp xử ức, nên khi có xe khác thay thế gã đã nổ súng bắn Hạp. Anh chết tức khắc.
Bây giờ súc mạnh trong tay không phải là những người cầm súng. Ở đây có quá nhiều súng. Lẽ phải ở trong tay những kẻ dám giết người.
o O o
Ngày N + 3, 4 giờ chiều
Bây giờ chúng tôi lết từng chặng, từng chặng. Địa thế ngày càng tệ hại, nhiều lúc đoàn xe phải băng ngang cánh rừng chồi, vòng qua những khu vực lầy lội, tránh những tảng đá to, vượt qua những khe suối nhỏ. Hôm nay lác đác đã có những người đi bộ, chắc hẳn đã có nhiều xe cộ bỏ lại dọc đường. Hôm nay mặt trời thật gắt. Mấy đứa trẻ sau xe tôi đã phơi nắng vài ngày, da chúng đỏ như những con tôm luộc. Nhiều đứa sọp hẳn đi, chúng khóc bây giờ không còn ra tiếng, toàn thân rung lên, bờ môi tái ngắt. Có đứa như kiệt lực. Mấy tấm vải căng tạm đã không đủ che cái nắng quái ác này, càng không đủ với khí lạnh ban đêm. Tôi nhường ca bin xe cho hai em tương đối yếu nhất. Cũng không giải quyết được gì, các em đòi mẹ xem chừng còn khóc to hơn. Tôi quay về chỗ cũ, một em bậy ra xe, người tài xế cằn nhằn.
Trời chạng vạng tối, đoàn xe phải băng ngang một con suối lớn. Công binh chiến đấu phải ủi tạm một con đường. Rút kinh nghiệm về cái chết của Hạp, hôm nay không hiểu lệnh từ đâu, những người linh công binh mang băng đỏ ở tay phải, đề hở phù hiệu công binh nơi tay trái, họ điều hòa lưu thông khá hữu hiệu. Từng chiếc một bò nặng nhọc trên con đường vừa ủi xong, cây cối ngổn ngang bên đường. Những chiếc xe nặng, bánh lún sâu xuống lòng đất xốp, tạo những đường rãnh giữa mặt đường. Thỉnh thoảng xe ủi công binh lại phải cào lại mặt đường. Bây giờ không một ai còn nghỉ đêm. Dư âm của trận phục kích bọc hậu đoàn thiết giáp vô hình chung là động cơ thúc đẩy người ta tiến tới trước, bất kể ngày đêm. Đoàn xe như co mình lại chờ đợi.
Qua khỏi cái vực khốn nạn này, chỉ còn vài cây số nữa là tới quận lỵ Củng Sơn, một quận lỵ của tỉnh Phú Yên, từ đây vượt mười cây số nữa sẽ tới sông Ba, con sông hiền hòa, mở ra bát ngát ớ cửa bể Tuy Hoà. Qua sông Ba, con đường trên bản đồ lại trở thành một đường vẽ liền lạc, không còn những gạch đứt quãng. Tôi tính thầm trong bụng, nhiều lắm hai ngày nữa đoàn xe sẽ tới Tuy Hoà, bởi lẽ qua khỏi sông Ba, chúng tôi sẽ hiện diện trên thượng nguồn của đập Đồng Cam. Từ đó về quận lỵ Hiếu Xương hơn hai mươi cây số, con đường xe cộ vẫn sử dụng trong bao nhiêu năm nay, sẽ không còn những chướng ngại vật thiên nhiên như khi rời Phú Túc.
Bây giờ là tám giờ tối của ngày N + 3, xe tôi bắt đầu đổ dốc. Con dốc làm mọi người phải chóng mặt, không một ai ngồi lại trên xe, tất cả đều xuống đi bộ ngay sau xe mình. Tôi vẫn ngồi yên trên ghế trưởng xa, người tài xế già cắn chặt môi, anh để hết số phụ, đạp như gần lút thắng, mỗi lần nhấc chân phải lên, chiếc xe như chuyển mình lao xuống, anh lại gò người xuống, như trì cả sức nặng của toàn thân anh trên bàn thắng.
Dưới ánh đèn pha của xe sau rọi tới, bụi đỏ bốc lên mù mịt, xe như đi trên mây, đôi lúc tròng trành như thuyền lướt trên sóng. Giữa con dốc, một chiếc xe nằm nghiêng ở đáy vực, dấu vết của tai nạn ngổn ngang chung quanh. Người lính công binh trên đầu dốc cho biết có vài người chết, vì chiếc xe đứt thắng giữa chừng. Phần lớn là mấy người già quá, không muốn xuống xe. Tôi nhìn về phía đằng sau, qua một con dốc cao, công binh lại phải làm tạm con đường theo địa thế, nên giữa chừng con dốc, con đường quẹo về phía trái một góc hầu như chín mươi độ. Qua khúc quẹo này, ánh đèn pha của những chiếc xe sau bị khuất lấp, đêm nay trăng mười hai đã ở xế đỉnh đầu, tôi thấy những người lội bộ sau xe. Dưới ánh trăng tỏ, và trong đám bụi mờ bỏ lại đằng sau, trung úy Lộc già, vợ con ông ta, vợ con binh sĩ, bước thất thểu như những bóng ma kỳ lạ. Điều làm tôi đau lòng nhất, là hình như tôi cũng chịu hoàn cảnh với họ, chia sẻ với họ từng quãng đường, từng tiếng súng. Rõ ràng là tôi đã chung với họ không thiếu một thứ gì, thế mà giữa tôi với họ hình như vẫn có một khoảng cách. Tại sao lại có khoảng cách này. Chỉ trong một thoáng ngắn của bóng trăng đêm nay, cái hình ảnh lếch thếch của vài em nhỏ chạy lúp xúp cho kịp người lớn, những mái tóc rũ rượi của phụ nữ, tôi hiểu tại sao lại có sự cách biệt này, sự cách biệt không thể nào khỏa lấp nổi, khiến tôi không thể nào khổ đau như họ. Nó thật giản di: vợ con tôi không có đây, vợ con tôi đang ở một vùng an bình tạm nào đó.
Qua khỏi con suối, chờ mọi người lên đủ, người tài xế nhấn ga, chiếc xe lồng lên, nuốt khoảng trống để bắt kịp đoàn xe trước. Chỉ còn 5 cây số đường rừng để tới quận Củng Sơn. Tôi thấy quá nhiều người đi bộ, từng nhóm một, chạy dạt qua hai bên lề đường mỗi khi thấy ánh đèn xe. Tôi hiểu họ không có một chọn lựa nào khác hơn là bỏ xe xuống đi bộ, do con dốc thì ít, nhưng họ sợ hãi nhiều hơn. Họ không muốn kẹt lại đằng sau, ở đó mạng người bấp bênh vô cùng. Bấp bênh tới từ cả hai phía.
Đường trống phía trước mặt, tôi hạ lệnh ngừng xe, kêu gọi mọi người đằng sau thu gọn hành lý. Anh tài xế, tôi và một người lính dọn lại cái móc hậu đằng sau, toàn là quân trang quân dụng của tiểu đoàn. Tôi ra lệnh cho họ vứt bớt những thứ nặng không cần thiết. Bây giờ phải tiết kiệm mạng người, những máy đánh chữ, máy phóng thanh xách tay đó có ích gì đâu trong hoàn cảnh này. Bây giờ tôi không còn chọn lựa, bất cứ ai ở gần xe tôi, xin mời lên đi nốt đoạn đường.
o O o
Ngày N + 3, 11 giờ 45 tối
Đoàn xe ngừng lại giữa một cánh rừng chồi. Trăng bị che khuất, nền trời như đặc lại, tất cả đoàn xe tắt máy, tắt đèn. Có tiếng nhắc chừng đừng hút thuốc. Thật tình tôi buồn cười cho cái kiến thức quân sự này. Nó xứng tài làm tướng ở nước tôi, nếu người đó có may mắn. Đoàn xe dài như thế, ồn như thế, con đường không có chọn lựa nào hơn, nếu địch quân có ở đây, đủ để đánh thì chúng đã đánh mấy ngày nay. Có thể chúng đã có mặt, hoặc là quá ít, hoặc là chưa đủ điều kiện để ra tay. Tôi vẫn nghe những tiếng rì rầm, tiếng những cành khô gẫy. Dĩ nhiên không phải là do thú rừng. Thú rừng nào mà không bạt vía, mà không chạy xa đoàn xe kỳ lạ và náo nhiệt này. Tiếng động đó tạo bởi những người đi bộ, họ gánh gồng, bồng bế, đầu đội, tay xách, lặng lẽ tiến tới trước. Họ không thể dừng lại.
Đột nhiên có tiếng động cơ vẳng lại, có tiếng xích lớn nghiến trên mặt đường. Ai nấy đều đinh ninh là tiếng chiến xa. Rõ ràng tiếng động cơ đó có lúc tiến lại gần, rồi lại ra xa, tôi vốn nhạy cảm, nên có thể phân định phương hướng tốt, chắc chắn số chiến xa không nhiều. Nó tiến lại gần, gần đến độ nếu trăng không bị che lấp, chắc tôi đã nhìn thấy nó thấp thoáng sau những chồi cây thưa. Cho tới giờ chưa ai có thể biết đó là chiến xa của phe nào. Tiếng động cơ vẫn ầm ì, kéo dài cả tiếng đồng hồ. Có tiếng súng vẳng lại. Tiếng nổ súng lớn. Trận đánh chắc ở xa, bởi lẽ những lằn lửa đạn liên thanh xé màn đêm, hẳn là phải hàng chục cây số, phía trước mặt đoàn xe. Tôi biết chắc bây giờ địch đã chặn phía trước mặt. Trận đánh vẫn tiếp tục, tiếng xích chiến xa ngừng lại, bây giờ tiếng động cơ máy bay vọng lại, những đốm sáng nhấp nháy trên trời đêm.
Hai chiếc hỏa long xuất hiện trên vùng giao tranh. Đây là những chiếc phi cơ vận tải C47, C119, C123 biến cải, trang bị những khẩu đại liên sáu nòng. Tốc độ bắn hàng ngàn viên trong một phút. Khi khai hỏa nó rống lên như một con bò thần. Hai chiếc hỏa long bay vòng tròn trên vùng giao tranh, những lằn đạn lửa của chúng vẽ thành hai hình nón lật ngược. Cảnh thật đẹp, thật hùng vĩ, trong khi những lằn đạn từ dưới đất tạo thành những đường tiếp tuyến, cát tuyến cho hình nón. Bây giờ tôi thấy tận mắt hình vẽ của những bài toán không gian, những bài toán về phép quay của năm đệ nhất. Trước kia tôi vẽ chúng trên mặt phẳng của tờ giấy, để tưởng tượng ra cảnh này. Bây giờ bài toán nghiệm chứng trước mặt, nhưng cái đáp số của nó thì quả là ghê hồn. Hôm nay, quả tình tôi không muốn thấy cái nghiệm chứng của bài toán.
o O o
Ngày N + 4, 5 giờ 30 sáng
Tôi thiếp đi một giấc dài trong lòng xe. Khi tôi thiếp đi hai chiếc máy bay vẫn vẽ những hình nón của chúng. Thỉnh thoảng chúng đổi chóp, có nghĩa là đổi mục tiêu tác xạ, kỳ lạ thay những lằn tiếp tuyến hình như cũng toa rập theo phép tịnh tiến này. Hỏa châu thỉnh thoảng vụt nổ giữa trời cao, soi sáng một vùng trận địa. Tôi thiếp đi, tôi lại mơ vọng về quá khứ, xa hơn mười năm, mười lăm năm, bắt gặp các ông thầy toán rải rác trong mấy năm trung học, từ thầy Hà Đạo Hạnh gầy gò với chiếc Lambretta trắng, thầy Quán đầy trách nhiệm lương sư với chiếc Mobylette vàng, thầy Nguyễn Xuân Nghiên bên chiếc Taunus 17, Nguyễn Văn Kỷ Cương với chiếc Volkswagen xanh. Một điều lạ là các thầy không dậy học. Trong tay không có cục phấn, các thầy bỗng trở thành những xạ thủ đại liên tuyệt vời, đã bắn những lằn đạn lửa tượng hình cho các bài toán của các thầy.
Khi tôi tỉnh dậy, trời vẫn tối lờ mờ, tiếng xích chiến xa lại vang lên. Tôi muốn bỏ xe tiến lên xem chuyện gì phía trước. Chẳng lẽ lại là chiến xa địch, nếu có hẳn là đã có giao tranh bởi lẽ trước tôi cả đoàn xe vài trăm chiếc, ít nhất đoàn xe cũng kéo dài vài cây số trước mặt, nhất định những chiếc chạy đầu phải tiếp giáp với những chiếc thiết giáp này, tại sao không có tiếng súng nổ. Có những tràng M16 nổ chát chúa phía sau. Trời đã lờ mờ sáng, một đoàn độ hơn mười chiếc GMC, những người nổ súng đứng ở bên hông xe dẫn đầu, anh ta mặc đồ bông ngụy trang. Đoàn xe tách vào trong rừng chồi chạy cách lề đường trăm thước. Khoảng một cây số sau, lại có tiếng súng, trong khi những chiếc xe tuần tự lấn vào đường. Thì ra người anh em biệt động quân mở đường lấn. Chưa có máu lúc này. Phải đợi cả tuần lễ sau đoàn xe mới mở đường máu. Bây giở hãy lấn cái đã. Tôi vững bụng tiến về phía trước.
Tiếng chiến xa đêm rồi chỉ là hai chiếc máy ủi của công binh. Những người lính công binh chiến đấu đã công tác cả tuần lễ trước dọc theo con đường. Họ đã san bằng những chướng ngại. Và chướng ngại sau cùng của họ: sông Ba. Họ làm việc suốt đêm, ủi bãi để lập đầu cầu, song không thể nào lập nổi cây cầu, sông không sâu nhưng bây giờ là mùa nước lũ. Nước từ rừng, từ các triền núi đổ về, chỗ sâu nhất chỉ tới đầu gối, nhưng nước chảy xiết vô cùng. Lòng sông toàn cát và sỏi, thượng sĩ Quán công binh điều hành ở đây, trong lúc chờ vật liệu là những tấm PSB được gởi tới, ông đốc xuất binh sĩ dưới quyền sử dụng hai chiếc máy ủi kéo xe qua sông. Họ làm việc suốt dêm, mỗi lần kéo độ ba xe lớn, hay năm xe nhỏ. Tất cả các xe đều nổ máy sử dụng hết số phụ, xe ủi chỉ kéo phụ lực. Nhiều chiếc Jeep bị ngập nước chết máy giữa dòng, phải nằm lại chờ kéo riêng.
Bây giờ là bẩy giờ sáng, xe tôi sắp sửa xuống bờ sông hai lần, hai lần đều bị dội ngược lại bởi tiếng súng của người anh em biệt động quân. Người tài xế già nhìn tôi, người lính đi theo cũng nhìn tôi. Thật tình tôi không sợ phải đụng. Nhưng đụng làm gì khi qua con sông Ba này chúng tôi vẫn kẹt lại. Thượng sĩ Quán cho hay mấy ngày nay, Tiểu khu Phú Yên mở đường lên không được, hai tiểu đoàn địa phương quân không thể nhúc nhích nổi vì những cái chốt kinh hồn đóng dọc hai mươi cây số đường. Ít ra phải là năm chục cái chốt. Ông ta cũng chờ bắt tay với địa phương quân cả tuần nay.
Tôi bỏ xe lội bộ lên phía trước. Đã mấy ngày nay không tắm. Mồ hôi và bụi đường phủ một lớp như bồ hóng trên người. Chỗ xe đậu xuống bến sông khoảng chừng 300 thước. Tôi nghe tiếng trẻ cười đùa vang vọng một khúc sông. Mãi tới hôm nay tôi mới nghe loáng thoáng được tiếng cười. Ôi tiếng cười hồn nhiên của bầy trẻ thơ, như những tiếng chim líu lo chào nắng mới.
Năm nay ba hai tuổi, tôi vẫn chưa biết bơi, mặc dù hồi nhỏ nhà tôi ở ngay đầu phố Kho bạc Hải Dương, chỉ băng ngang một con đường là sang đền Kiếp Bạc, chỗ người ta lập đền thờ danh tướng Trần Hưng Đạo, ngay bên bờ sông. Trẻ con khắp phố đứa nào cũng bơi bì bõm từ hồi còn nhỏ, tôi cũng vẫn đi tắm sông mỗi chiều với chúng nó, vẫn bơi y hệt như một con chó quào quào trên mặt nước, không tiến, không lùi, rồi cứ chìm dần. Rồi lớn lên làm việc ở Vũng Tầu, ở Phú Quốc, ở Qui Nhơn, ở Nha Trang, chiều nào tôi cũng đi tắm biển, vẫn không biết bơi. Đôi lúc tôi cũng thèm biết bơi, nhưng cứ hễ ra biển tôi giỡn sóng một hồi rồi lên, ngồi phơi mình trên bãi, rồi về. Các anh tôi bơi cả chục vòng ao lớn, chị tôi bơi ngang sông Hải Dương như chơi. Tôi vẫn ì ạch một chỗ giữa dòng. Tôi tự an ủi sẽ cho con trai tôi tập bơi, nó sẽ là một tay bơi có hạng.
Sáng nay, nghe tiếng trẻ cười vang vọng lòng sông, tiếng xôn xao của người lớn, bỗng nhiên tôi thấy thèm biết bơi vô tận. Từ cao tôi nhìn được bao vùng, con sông chảy mạnh, quanh co len lỏi giữa những cao độ chập chùng. Nó rộng cũng nửa cây số. Ở bờ bên kia là một bãi cát vàng mênh mông. Giá không có đoàn xe nhà binh trên đường triệt thoái, tôi tưởng chừng đây như là một ngày hội của phiên chợ bên sông nào đó.
Khi tắm xong trở về, tôi thấy xe tôi đã tiến sát tới bến, người lính đi theo tôi bây giờ cũng mặc đồ bông. Nó nhoẻn miệng cười tinh quái với tôi, bên cạnh nó có thêm một vài khuôn mặt mới cũng áo bông, vẻ mặt thật cô hồn.
o O o
Ngày N + 4, 12 giờ trưa
Bãi cát bên kia sông Ba đầy xe, những tài xế mở nắp ca-bô, tháo các bugie ướt nước, lục đục cúi lau và kiểm soát lại các bộ phận thấm nước. Bãi cát dài mênh mông, trước khi con đường mở ra từ phía bìa rừng.
o O o
Ngày N + 4, 3 giờ chiều
Sau cùng xe tôi cũng qua được dòng sông cuồng nộ đó. Biết bao giờ tôi quay lại được bến sông này. Xe bò từng thước trên bãi cát, có lúc bánh quay tít, xe vẫn đứng yên một chỗ, mọi người xúm vào đẩy, cát bắn vào mặt đau rát, không một ai lơi tay, chiếc xe lết từng đoạn, từng đoạn, sau cùng cũng lên đến mặt đường. Đúng lúc đó địch pháo vài trái ngắn ngủi, nổ vu vơ giữa rừng chồi.
Không ai bị thương, nhưng ảnh hưởng của vài trái pháo này thật lớn. Nó cho mọi người biết địch có mặt ở đây. Không biết chúng sẽ tấn công lúc nào.
o O o
Ngày N + 4, 6 giờ chiều
Cây cầu nhỏ, ván gỗ, trụ xi măng, sườn sắt, bề ngang vừa đủ một xe lớn. Cây cầu bắc ngang dòng nước chảy xiết, dòng nước người ta đã khơi về từ sông Ba, nó chảy song song với con đường vài cây số thì tới đập Đồng Cam, cái đập đã mang lại sự phì nhiêu cho những cánh đồng phía tây nam tỉnh lỵ Tuy Hoà. Đoàn xe ngừng lại tại đây, xe tôi cách xe đầu đoàn chừng một cây số, cứ vài phút tôi lại thấy những xe sang sông sau ùa tới. Xe tôi đậu ngay đầu cầu. Địch đóng chốt trước mặt. Con đường bây giờ tương đối tốt, tuy mặt đường không tráng nhựa, nhưng đó là con đường người ta vẫn sử dụng từ hai mươi năm nay. Nếu không có những chốt phía trước, thì nhiều lắm là hơn một tiếng nữa tôi sẽ có mặt tại Tuy Hoà, ăn một tô phở, kiếm vài người bạn, kiếm một quán nào đó, kiếm rượu, kiếm những con sò nổi tiếng của đầm Ô Long.
Dọc theo bờ biển, khác với những thị xã khác như Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Rang thay đổi bộ mặt trong khoảng mười năm sau cùng của trận chiến. Sự thay đổi hào nhoáng bề ngoài nhưng bên trong đầy dẫy những tệ trạng, Tuy Hoà vẫn giữ được cái vẻ đẹp bình lặng của nó. Tôi còn yêu Tuy Hoà qua sự biết ơn của thị xã này với thi sĩ Tàn Đà Nguyễn Khắc Hiếu và nhà văn Y Uyên. Một tên đường dành cho thi sĩ, người hơn nửa thế kỷ trước vì cơm áo đã tha phương cầu thực đến đây. Một pho tượng cho nhà văn trẻ tuổi vì tai trời ách nước, đã có lần làm việc vài năm ở đó. Y Uyên cùng lớp với tôi vài năm ở Nguyễn Trãi, khi sang Chu Văn An anh chọn ban C, còn tôi lựa ban B. Anh lớn hơn tôi ba tuổi, nên hồi đó không bao giờ anh ta chịu quen với tụi lỏi. Rồi lớp chúng tôi lớn lên, mỗi người mỗi ngả. Khi nghe tin anh chết, tôi ở mãi ngoài Trung không thể về đưa tiễn anh đến chỗ cuối cùng. Sau này mỗi lần qua Tuy Hoà, tôi đều có ghé thăm pho tượng mà thị xã Tuy Hoà đã dựng để ghi nhớ anh. Bây giờ tôi ngồi đây, con đường thẳng tắp trước mặt, chỉ có hai mươi cây số ngắn ngủi nữa, nhưng Tuy Hoà xa thật xa, xa như một niềm tin đã mất.
o O o
Ngày N + 4, 9 giờ tối
Xếp của tôi, trung tá Kha, đã leo lên trực thăng từ hai tối trước, chỗ quận Củng Sơn, bây giở ông phó Nguyện cũng bỏ tiểu đoàn sang tá túc nơi đoàn xe biệt động quân. Cả tiểu đoàn bây giờ chỉ còn tôi, xe nằm mỗi nơi một chiếc, chưa kể những chiếc đã bỏ lại dọc đường, người thì mỗi người một ngả. Tôi về tiểu đoàn này như một sĩ quan ngồi chơi xơi nước, chờ thời, bỗng nhiên lãnh một quả ra gì, một quả di tản có một không hai trong quân sử. Xếp chúa phải về trước để lo doanh trại cho đơn vị ở Nha Trang, lý do chính đáng, nhưng xếp phó lại di tản cá nhân, ông làm gương cho trung úy Giỏi, ban nhân viên, ti nạn bên Thiết giáp. Kể từ sau hôm thượng sĩ Hạp bi bắn chết, ngoại trừ những gì không thể che giấu được của binh chủng còn phơi ra, tôi thấy binh sĩ của tôi bây giờ cũng có áo bông, nón đi rừng, hoặc là ở trần khoác ngoài một chiếc áo giáp. Mạnh ai nấy tìm một chỗ yên thân. Một số binh sĩ bơ vơ đến tìm tôi, góp nhặt lại bây giờ có độ mười chiếc xe lớn nhỏ, khoảng chừng bốn mươi lính và ít ra một trăm rưởi đàn bà con nít. Xe đậu lung tung. Tôi nói với họ:
"Ban ngày các anh có thể đi đây đi đó, nhưng tối đến, phải tập họp kín đáo bên cạnh xe tôi, đàn bà, con nít có thể ớ tại xe, nhưng các anh phải có mặt ở xe tôi mỗi tối lúc tám giờ. Không thể biết đến bao giờ đoàn xe có thể khởi hành. Phải đoàn kết lại. Tôi nghĩ đến việc phải gác chiếc cầu này. Nó mà sụp thì tám phần mười đoàn xe sẽ kẹt lại. Có bốn mươi người lính chỉ để cho hai vọng gác hai đầu cầu, cách nhau chừng hai mươi thước. Tôi có đủ quân số để lo vụ này."
Đêm nay trăng mười hai đã treo cao trên nền trời.
o O o
Ngày N + 5, 8 giờ sáng
Quân vận và Quân nhu bán cơm sấy, thịt hộp, sữa, thuốc lá Quân tiếp vụ với giá cắt cổ. Người ta chen lấn nhau mua. Độ khoảng nửa tiếng sau tôi nghe liếng súng nổ. Người ta chạy túa ra. Mấy anh em đồ bông có nhiều chiến lợi phẩm. Thật tình lúc này mà bán lương khô với giá cắt cổ là một hành động đáng bị trừng tri nặng, song tôi cũng không tán thành hành động còn lại. Càng không tán thành nữa, các anh em đó mang đến xe nào có nhiều phụ nữ.
Bây giờ thì có quá nhiều biệt động quân. Có một điều hơi dễ phân biệt. Biệt động quân thật từ trên đầu xuống nón nâu, quân phục binh chủng, có phù hiệu. Còn giả thì hoặc là có quần, không áo. May ra có đủ bộ thì cũng không thể có nón nâu. Đào đâu ra nón nâu lúc này. Những người anh em biệt động quân giả này mới đáng tởm. Họ lùng cảnh sát tước khí giới, làm nhục giữa đám đông, chọc ghẹo phụ nữ một cách thô bỉ. Mới ngừng lại một ngày tưởng chừng như đã tới ngưỡng cửa địa ngục. Cả đêm qua tôi ngủ những giấc ngắn. Chốc chốc xe đổ về một toán từ phía sông Ba. Đêm qua xe tôi đậu ở đầu cầu, đằng sau khoảng chừng chục chiếc, sáng nay phía sau nối dài, cả trăm chiếc.
Vài người lính trong tiểu đoàn nói có vài ngàn chiếc chưa qua sông. Nắng hôm nay thật gắt. Mặt trời như một bó lửa khổng lồ. Không một ngọn gió, hơi người nồng nặc trên các xe. Mới có chín giờ sáng mà tưởng chừng như quá ngọ. Tôi tìm chỗ tắm, cái dòng nước thượng nguồn của đập Đồng Cam này, nước đổ về từ sông Ba, nước tập họp từ trên rừng nên còn mang mùi ngai ngái của lá. Mùa nước lũ, nước chảy xiết và lạnh như nước đá. Tắm xong, tôi tìm một bóng mát ngả lưng.
Con đường nhô cao khoảng chừng ba thước. Bên trái là những thửa ruộng còn trơ gốc rạ, vài ruộng bắp còn non, xa xa ẩn hiện những mái nhà. Nhiều người tiến vào trong xóm. Tôi ngừng lại tại một khoảng đất đầy những cây chuối hoang, tôi tước một ít tàu khô, làm một chỗ nằm thoải mái. Bây giờ không còn trông thấy đoàn xe, tôi lạc vào một thế giới khác, có tiếng đập của quả tim tôi, mỗi lúc một to, át cả tiếng lao xao của đám đông vẳng lại từ mặt đường. Rồi tôi thiếp đi.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy trước mặt một người lính biệt động quân thật. Chắc chắn phải là thật, cái nón nâu lót trên một hòn đá gối đầu, bộ quần áo rách bươm, thật tình tôi yên lòng bởi lẽ anh ta không đeo súng, cũng không thấy dao, không thấy những trái lựu đạn. Tôi ngồi dậy dợm đi về xe, cùng lúc người lính này cũng nhỏm dậy, thấy tôi anh nhoẻn miệng cười. Tôi thấy bỏ đi thì kỳ, nên đành ngồi lại. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Khó có thể đoán nổi tuổi, sương gió đã làm mặt anh ta xạm lại, thêm vào đó lại bệnh đậu mùa, nên mặt anh bị rỗ khá nhiều. Nhưng anh có đôi mắt thật đặc biệt, thật đẹp, thật buồn, thật xa vắng. Cả hai im lặng, tôi tẩn mẩn xé mấy tầu lá khô, anh ta nhâm nhi một cọng cỏ.
Đột nhiên anh ta đứng dậy lấy ra một con dao nhỏ, loại dao bấm Trung cộng, anh ta tiến về phía trái, dừng lại bên một bụi trúc nhỏ. Lui cui một hồi, anh ta trở về chỗ cũ, trên tay có vài gióng trúc. Anh loay hoay đánh dấu trên thân đoạn trúc, rồi dùng mũi dao để tiện lỗ làm một cái ống tiêu. Khoảng nửa tiếng sau anh kê gióng trúc lên miệng, thổi vài hơi. Dáng chừng như chưa vừa ý, anh lại tẩn mẩn làm cái khác, đến lỗ thứ ba, ống trúc bi dập, tét làm đôi. Anh vẫn không tỏ một chút gì trên nét mặt, anh kiên nhẫn gò người trên gióng trúc sau cùng, anh cẩn thận xoáy từng mũi dao, sau cùng ống tiêu hoàn thành, anh thổi thử vài hơi gật gù đắc ý. Tôi nằm xuống ngửa mặt nhìn trời, hồn lắng xuống chờ tiếng tiêu của anh. Năm phút sau vẫn yên lặng, hé mắt ra tôi thấy anh thui cái ống tiêu một cách từ tốn. Mãi tới lúc đó anh ta mới nói với tôi:
"Phải thui thì tiếng mới trong."
Rồi tiếng tiêu cất lên, khi trầm khi bổng. Tôi nhớ một đoạn của Kim Dung viết về tiếng tiêu của Nhậm Doanh Doanh trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, diễn tả tiếng tiêu ngưng lại lúc bách điểu chia ly, trăm hoa tàn tạ, gió lặng, tuyết tan, vũ trụ ngưng trong cảnh tịch mịch đó. Tôi cho là tiếng tiêu của Doanh Doanh cũng hay đến thế này là cùng, bởi lẽ Doanh Doanh là một nhân vật do trí tưởng tượng phong phú của Kim Dung tạo nên. Tiếng tiêu của người lính Biệt động quân này có lúc làm tôi bay bổng chín từng trời, có lúc dồn dập như đoàn xe hàng trăm chiếc hàng ngang chạy băng trảng cỏ, có lúc cuồn cuộn như nước sông Ba, có lúc thê lương như tiếng khóc của đứa bé chào đời ngoài đồng trống. Tôi quên hết quá khứ với những mong ước thời trai trẻ, quên hết hiện tại nóng hổi của đoàn triệt thoái kỳ lạ hôm nay, tôi quên cả tương lai vất vả. Hình như tôi vẫn ngủ, tiếng tiêu vẫn mơ hồ lẩn quất bên tai.
o O o
Ngày N + 5, 3 giờ chiều
Trực thăng mang sắt PSB đến sông Ba, không thấm vào đâu với nhu cầu của công binh, song cũng đủ cho một lằn đường trên bãi cát. Khi bay ngang qua chỗ cây cầu gỗ nhỏ, có người khênh ra một cái băng ca, người phi công động lòng trắc ẩn sà xuống, vài người khênh người bi nạn lên, rồi người ta ùa tới, phi cơ phải cất cánh khẩn cấp. Bây giờ chắc không có ai dám đáp xuống đám đông hỗn loạn này.
Buổi chiều bọn trẻ ùa xuống nước. Chúng la hét, nghịch ngợm ồn cả một vùng. Bóng mấy người vợ lính lui cui với bầy con nhỏ.
o O o
Ngày N + 5, 5 giờ chiều
Gặp Thái Tăng An giữa cầu. An vẫn giữ được nụ cười tươi. Tôi theo An về xe anh, vẫn có ly cà phê buổi chiều. An là loại người cần cà phê hơn cơm, ngày một bữa cơm đủ rồi nhưng cà phê phải ba cữ. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Huế, anh vẫn vẽ mỗi khi rảnh rỗi. Anh nói, nếu thoát về được sẽ ghi lại trên khung vải những hình ảnh đặc biệt của chuyến đi này.
o O o
Ngày N + 5, 7 giờ tối
Đài BBC loan tin về cuộc di tản của chúng tôi. Phải công nhận là bản tin xác thực. Trong phần bình luận, luận điệu của đài này có vẻ thiên tả. Nó không được vô tư. Tôi văng tục. Tuy nhiên trong phần tin chiến sự quân khu 1, tôi nghe được một chút tin về tướng Trưởng đã mang vợ con từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Ông quyết giữ Huế và Đà Nẵng bằng mọi giá.
Bây giờ là mười giờ tối của ngày 22-3-1975. Đêm nay là đêm thứ sáu của cuộc hành trình. Tôi đứng trên mui xe, nhìn bao quát cả vùng. Trăng hôm nay thật sáng, sáng dị thường, sáng đến độ tôi có thể thấy những con dơi chao muỗi chợt tới, chợt lui giữa bầu trời sữa. Suốt đêm qua và cả ngày nay tôi thấy xe cứ ùn ùn kéo đến, cái đuôi mỗi lúc một tăng trưởng. Rồi người đi bộ, gánh gồng bồng bế nhau tới, có người già chống gậy, có em bé còn ẵm ngửa, phần lớn đều nghèo, chắc chắn là nghèo, hoặc là bắt đầu nghèo. Chập tối nay, xướng ngôn viên của đài Đông kinh đã mệnh danh cho đoàn người là những người "bỏ phiếu bằng chân". Tôi có mặt trong đoàn người này, khởi đi từ cao nguyên trung phần, quân và dân ba tỉnh Pleiku, Kontum, Phú Bổn xuôi về miền duyên hải. Cái gì chở họ ở nơi sẽ đến?
o O o
Ngày N + 6, 6 giờ sáng
Ngày thứ ba ngừng lại ở đập Đồng Cam. Sáng nay dậy sớm, mãi tới hôm nay tôi mới để ý đến một cái chòi vịt, người nông dân chủ chòi ở đây, vẫn lầm lũi dậy sớm cùng với ánh sáng mặt trời, một đàn vịt chừng hơn ngàn con vịt nhỏ, bằng nắm tay, những con vịt lội ngược dòng nước xiết, trong khi kẻ chăn lững thững đi trên bờ.
o O o
Ngày N + 6, 8 giờ sáng
Song song với dòng nước, song song với con đường là hai quả đồi nhỏ. Một đồn địa phương quân án ngữ trên đỉnh ngọn đồi. Sáng nay địch quân đã có mặt ớ đỉnh đồi còn lại. Chúng sử dụng súng cối bắn qua đồn, quân trú phòng ở đồn này phản pháo lại. Tôi nghe rõ tiếng depart của cả hai bên. Tôi thấy rõ những trái đạn nổ trên cả hai ngọn đồi. Mỗi bên bắn vài trái rồi thôi. Đoàn người đứng xem một cách vô tư.
Rõ ràng là địch quân chưa muốn đánh vào đoàn người. Chúng chỉ muốn cầm chân chúng tôi tại đây. Với hàng trung đoàn làm chốt trong đoạn đường hai mươi cây số cuối cùng. Với cái đích pháo kích sáng nay. Rõ ràng ý định của địch là muốn bắt sống, hoặc tiêu diệt trọn vẹn chúng tôi. Điều đó tôi nghĩ chúng có thể làm được, nếu tiểu khu Phú Yên không mở đường được, nếu đoàn người cứ ở lại đây, không tiếp tế, không lương thực.
o O o
Ngày N + 6, 4 giờ chiều
Đủ mọi tin đồn bao phủ đoàn xe. Tin có kích thước lớn như miền Nam còn từ Phan Rang trớ vào, một vùng trái độn từ Phan Rang trở ra giao cho Mặt trận Giải phóng, tin kích thước nhỏ xảy ra trong đoàn người như phụ nữ bị hiếp dâm.
o O o
Ngày N + 6, 11 giờ đêm.
Đêm nay đài BBC và Đông Kinh đều nói tới hai cái túi người khổng lồ ở Đà Nẵng và Nha Trang, Cam Ranh. Thế là tướng Trưởng đã bỏ Huế. Dân Huế, Quảng Tín, Quảng nam, Quảng Ngãi, đổ dồn về Đà Nẵng. Dân Tuy Hoà, Qui Nhơn đổ dồn về Nha Trang, Cam Ranh. Chiến sự vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng sôi động không kém. Tôi nghĩ đến những người dân xứ Quảng, những đồi cát chập chùng ven biển và những cơn gió Lào.
Cả quân khu 1 chỉ còn Đà Nẵng thoi thóp hỗn loạn. Hàng triệu người đã bỏ tất cả ra đi về miền Đất Hứa. Nhưng Đất Hứa sau cùng chỉ là những đám mây trôi nổi trên trời. Từ ba tối nay tôi đã nhường ca bin cho hai em nhỏ bị sốt. Tôi ngủ trên một cái võng làm bằng một cái vải bạt nhà binh, mắc giữa hai cản xe. Tôi nằm quay đầu về con nước, trăng lồng lộng trên trời, phản chiếu lấp lánh trên dòng nước chảy mạnh thành những vết sáng loang loáng. Từ lúc nghe tiếng tiêu của người lính biệt động quân tôi tỉnh táo vô cùng.
Có tiếng khuấy nhẹ nước đâu đây, có tiếng phụ nữ, tôi hướng về tiếng động, chừng ba chục thước trước mặt tôi một cậu bé chừng mười tuổi đứng yên lặng trên bờ. Hai thiếu nữ nhô đầu khỏi dòng nước, chắc chắn phải là thiếu nữ thanh tân, bởi tôi thấy rõ hai mái tóc dài. Có lẽ cậu bé đứng canh chừng cho hai chị tắm. Chắc chắn họ phải rất trẻ, bởi nếu không họ đã tắm ban ngày cùng với vợ con binh sĩ. Phải là thiếu nữ thanh tân mới e thẹn như thế. Tôi đã được xem hình chụp bức họa Les Baigneuses nổi danh thuở xưa, vô tình hôm nay tôi được chứng kiến những Baigneuses của thời tao loạn, tắm giữa dòng nước thiên nhiên, dưới ánh trăng lồng lộng. Trước mặt là những chốt của tử thần, sau lưng đường về nhà cũ đã hết. Dĩ nhiên là họ tắm có áo quần, nhưng quả tình là đẹp. Tiếc thay không có Thái Tăng An ở đây, anh đã lỡ một cơ hội gợi hứng cho một bức tranh đẹp. Hãy tắm lẹ lên các em, mặc dù thâm tâm tôi muốn các em tắm tự nhiên, thoải mái, khỏa thân trong dòng nước bạc. Tôi không phải đạo đức thật, lại càng không phải đạo đức giả, song trong cảnh trăng nước này, các em lại tắm với áo quần thì tôi thấy có một cái gì bất ổn. Tôi chỉ muốn chiêm ngưỡng một nhan sắc, không hề có một chút dục tính nào trong khung cảnh này.
Tôi ngủ ngon, trăng cao ở trên trời, trong giấc ngủ tôi nghe được tiếng tiêu của người lính nọ, tiếng tiêu dồn dập, háo hức, với hình ảnh hai cô bé tắm khỏa thân trong trăng nước.
o O o
Ngày N + 7, 3 giờ 30 sáng
Có tiếng nổ lớn ở phía sông Ba, rồi những tiếng súng nhỏ vang lên đệm nhịp. Từ nóc xe tôi nhìn thấy những luồng đạn lửa, thỉnh thoảng có những tiếng nổ lớn cùng với ánh lửa bùng ra. Đích tấn công đoạn cuối chưa qua sông. Chắc chắn không phải là pháo kích, không có tiếng nổ depart, những tiếng nổ lớn đó phải là lựu đạn, bộc phá. Chúng tôi qua sông đã ba ngày. Đoạn cuối này hầu như phần lớn là dân chúng, không có ai chỉ huy.
o O o
Ngày N + 7, 6 giờ 30 sáng
Từ rạng sáng nhiều toán người đã tới, họ đã đi ngay sau khi cuộc đột kích chấm dứt. Trận đánh chỉ kéo dài mười lăm phút. Một số xe bị phá hủy, một số người chết và bị thương. Một số khác qua sông ngay trong đêm, lầm lũi đi giữa rừng. Lác đác đã tới đây, từng tốp. Có người ngừng lại ở cuối đoàn xe, nhiều người nét mặt sợ hãi còn vương trên đôi mắt, hốt hoảng tiến lên, ngừng lại ở đầu đoàn xe. Cả ngàn chiếc còn kẹt lại bên kia sông Ba.
Có tiếng xì xầm trong bụi lau trước mặt, những cây lau rung rinh. Sợ địch quân có thể tấn công bất ngờ như đã làm trước đó, tôi vẫy hai người lính, cùng rón rén lại gần. Một cảnh thương tâm trước mặt, một em nhỏ chừng mười ba tuổi nằm trên cáng. Cáng được cột bởi những cây gậy đi rừng, rõ ràng là một cáng hướng đạo. Em bé chân trái bị mảnh đạn cắt gần lìa đầu gối, máu ướt đầm lớp quần áo buộc quanh vết thương, đôi mắt em thất thần, em vẫy ba người bạn lại, hai em chừng mười bốn và một em chừng mười một. Em nói với các bạn một cách rõ ràng cương quyết:
"Minh, Ngọc, hãy bỏ tao lại đây, hãy đi với mọi người. Chắc tao không thể sống được. Mang theo tao tụi mày sẽ không thoát khỏi đây."
Tôi thấy vẻ ngập ngừng của hai đứa lớn. Tôi tiến lại gần và nói với tất cả:
"Các em đi trước đi. Để em bị thương ở lại đây, tôi có bác sĩ lo hộ."
Tôi đã nói dối. Tôi biết chắc em bị thương không thể sống nổi. Cái chân trái gần cụt hẳn, máu ra như suối cả mấy tiếng đồng hồ rồi. Tôi biết một bác sĩ Thiết giáp, tôi nhớ xe ông ta cách xe tôi chừng trăm thước. Tôi bảo người lính đi tìm, rồi hối hai em Minh và Ngọc phải đi ngay đi. Em nhỏ nhất bây giờ mới tiến lên mở ba lô lấy một chiếc chăn mỏng, đắp lên người bạn bất hạnh. Cả ba lùi lại tôi thấy các em chào nhau bằng kiểu chào hướng đạo. Ba đứa trẻ quay đi, nước mắt dàn dụa. Bóng ba đứa lúp xúp trên mặt đường. Dường như mọi người còn ngủ cả. Chập sau vị bác sĩ tới, ông ta nói với tôi kín đáo, em nhỏ không thể cứu nổi, mạch đập loạn lắm rồi. Vả lại ông ta cũng chằng có gì để hành nghề cả, ông chỉ có được một mũi an thần cho nó dịu bớt cơn đau. Chỉ còn có thể để giúp em bình yên đi vào giấc ngủ sau cùng.
o O o
Ngày N + 7, 8 giờ sáng
Đoàn người đã ngừng lại đây bốn ngày. Sáng nay sau khi những người đi bộ từ sông Ba tới cho biết đích xác tình hình phía sau, một số người nôn nóng, họ mạo hiểm, mặc thường phục, chạy xe Honda, Suzuki, Vespa đi trước. Có chừng hơn trăm chiếc xe, khoảng độ trên hai trăm người. Họ tập họp thành đoàn, khởi hành thật từ tốn. Cứ y như là một cuộc đi cắm trại vùng quê. Tôi có vài người lính trong đám người mạo hiểm này. Nhiều người phía đầu đoàn xe, leo lên cao nhìn bóng họ xa dần xa dần.
Có tiếng súng đại liên ở trước mặt, tiếng AK nổ thật ròn. Súng nổ liên hồi trong vòng mười phút. Chập sau vài kẻ mạo hiểm trở về, địch đã xả súng bắn vào những người này không thương tiếc. Chúng chờ cho cả đoàn lọt vào ổ phục kích mới khai hỏa, không có vụ bắn dọa. Chúng bắn chí tình. Súng đại liên có sẵn yếu tố tác xạ bắn như mưa bấc từ phía sau, phía trước ập lại, súng nhỏ bắn tự động ngang hông. Vài kẻ chạy lẹt đẹt sau cùng thoát nạn. Trung sĩ nhất Mười, người lính cũ của tôi thoát nạn, anh là một trong những kẻ dẫn đầu, khi địch quân khai hỏa, anh bò nhảy đại xuống nước, núp vào một bụi lau. Anh thấy rõ chi tiết của cuộc thảm sát. Những kẻ bị thương nặng bị thanh toán ngay tại chỗ, vài người bị thương nhẹ bị bắt sống mang đi. Xác chết kéo dài cả cây số, xe cộ nằm tênh hênh giữa đường. Mười chờ cả tiếng đồng hồ sau, anh nương theo những bụi lau ven bờ, quay ngược về chỗ cũ.
o O o
Ngày N + 7, 10 giờ tối
Đài BBC loan tin Đà Nẵng di tản, địch đã vào Quảng Ngãi từ hai ngày trước. Phía nam cao nguyên, Lâm Đồng bị uy hiếp nặng nề. Giọng bình thản của người xướng ngôn viên tả cảnh Đà Nẵng, khiến tôi tưởng như đang nghe đọc truyện ở địa ngục.
o O o
Ngày N + 8, 7 giờ sáng
Hôm nay là ngày thứ chín của cuộc hành trình. Tôi đã ngừng ở đập Đồng Cam được sáu đêm năm ngày. Khoảng thời gian này tôi nghiệm thấy cái vô nghĩa của kiếp người. Sống được trong khoảng thời gian này đã khó, sống cho ra người, một con người đúng nghĩa còn khó hơn. Tôi thấy tội nghiệp cho tôi, tội nghiệp cho mọi người, cho cả người cán binh bên kia chiến tuyến.
Mấy tối nay, qua các đài phát thanh ngoại quốc, tôi thấy rõ tất cả đều là lừa bịp. Bàn cờ đã đến hồi kết thúc, người ta sắp xóa đi đánh ván khác. Rõ ràng miền Nam sắp trở thành một quân cờ thí.
o O o
Ngày N + 8, 4 giờ chiều
Một chiếc trực thăng bay thật thấp trên đầu đoàn xe, tôi nhìn rõ Kim Tuấn và Võ Sum trên đó, Sum thò cả nửa người ra ngoài, anh thu hình đoàn người ti nạn, Kim Tuấn phía sau, với tay ra ngoài liệng xuống những ổ bánh mì trong các túi ni lông. Rán đi các bạn ta, hãy thu hình cho trọn đoàn người, hãy nhớ kỹ từng khúc. Hãy nói to với mọi người về hình ảnh mà các anh đã thấy.
o O o
Ngày N + 8, 10 giờ đêm
Đà Lạt vừa mất. Lâm Đồng đứng như một ốc đảo giữa rừng. Đài BBC nói đến các hình ảnh đẹp của sinh viên sĩ quan Võ bi Đà Lạt. Họ đã làm trắc diện và đoạn hậu cho quân dân ở đây xuôi xuống Nha Trang. Đoàn di tản này tương đối có kỷ luật và tổ chức chặt chẽ nhất.
Lại thêm một thành phố thân yêu nữa mất đi. Cầu mong cho những người thân và bằng hữu ở đây tới được chỗ an lành. Kể từ hôm nay, trọn quân khu I đã mất, quân khu II chỉ còn lác đác vài tỉnh duyên hải. Bây giờ Qui Nhơn là ải địa đầu, chiến trận khốc liệt tại quận Bồng Sơn, một quận lỵ trù phú nằm trên quốc lộ 1, với những rừng dừa cao vút và thẳng tắp ở đây đang hứng chịu những lằn đạn oan nghiệt.
o O o
Ngày N + 9, 4 giờ chiều
Hai phi tuần A37 ào tới như một cơn lốc. Tôi thấy rõ những trái bom rơi xuống từ phi cơ. Bom đánh trước mặt đoàn xe chừng hơn cây số. Tôi nghe rõ tiếng phòng không của địch bắn trả. Mãi tới hôm nay mới có không yểm. Điệu này ngày mai chúng tôi có thể dọt. Tôi nói với người tài xế già:
"Ông coi lại xe cộ trong buổi chiều nay, rán đừng chết máy giữa đường."
o O o
Ngày N + 9, 6 giờ chiều
Gặp bác sĩ Cao Huy Tích, thuộc Quân y viện Phú Bổn, xe của anh hư, tôi mời về xe tôi bất cứ lúc nào. Đúng lúc này gã họ Thái lại tới tìm tôi san sẻ một chút cà phê vừa kiếm được. An nói có lẽ ngày mai mà không dông được, thì ngày mốt anh sẽ tính đi bộ cùng một số nhỏ những lính thuộc tiểu đoàn 20 Chiến tranh Chính tri. Họ có một hướng dẫn viên người địa phương. Cứ men theo sông Ba khoảng vài cây số, có một con đường mòn, đường đi tắt của những người nông dân trong vùng này lội bộ đến Tuy Hoà. An nói với tôi, nếu muốn hãy đi cùng anh, không thể chở đợi đây lâu hơn. Tin tức ngày càng tồi tệ. Tôi trả lời anh tôi còn hai đêm để quyết định việc này. Tuy trả lời vậy, song tôi biết chắc tôi sẽ không tham dự việc này.
o O o
Ngày N + 10, 8 giờ sáng
Hôm nay là ngày 27-3-1975. Chúng tôi dời Pleiku được mười một ngày. Nằm ở đập Đồng Cam này vừa đúng một tuần. Tôi vẫn chưa thấy cái đập tuy rằng nó ở cách chỗ chúng tôi chừng ba cây số. Có tiếng động cơ trực thăng lại gần, chúng xuất hiện từ xa như những chấm đen, lớn dần, lớn dần rời bất thần chúng xả những làn khói trắng về phía sau, trong khi những hỏa tiễn lao về phía trước.
Đám đông bỗng hỗn loạn, người chạy ngược xuôi, trong chớp mắt không một ai còn ở mặt đường. Đêm qua người ta đã xì xào về đoạn đường hôm nay. Hàng ngàn động cơ như rú lên cùng một loạt. Cùng lúc đó trên trời xuất hiện thêm hai phi tuần A37. Người phi công gan dạ bay thật thấp, tôi thấy rõ cái mũ tròn và bộ đồ bay màu da cam, anh vẫy chào đoàn xe phía dưới, rồi vọt cao lên trời, lên cao mãi nhỏ như một con én, bỗng chúc đầu lao xuống. Tôi thấy những cụm khói nhỏ bên hông tầu, những cụm khói của đại bác phòng không nở ra những bông hoa trắng trên nền trời xanh bát ngát. Phi cơ vẫn lao xuống với tốc độ phản lực, xuống thấp sát những ngọn cây trên đỉnh núi, một trái bom thoát khỏi thân tầu, cùng lúc với chiếc phi cơ vọt thẳng lên trời.
Từng trái một, hai chiếc A37 như không biết có những khẩu phòng không dưới đất, đạn đan như lưới trên trời, những bông hoa trắng nở ra liên hồi. Như một cuộc biểu diễn của các tay bay lão luyện, mấy chiếc trực thăng cũng góp mặt, chúng chợt tới, chợt lui như những con dơi chao muỗi, chòng chành như những con thuyền giữa sóng lớn, ở cao độ thấp hơn, phóng những hỏa tiễn xuống vị trí địch.
Trái bom cuối cùng đã thả, hai chiếc A37 vọt lên trời như những chiếc pháo thăng thiên, hai người phi công gan dạ vòng về cuối đoàn xe, họ bay ngay trên đầu mọi người, họ vẫy cánh chào từ biệt ở phía trước mặt, rồi lên cao, và khuất lấp giữa trời.
Bây giở là 8 giờ 40 phút, một chiếc trực thăng bay sà sát trên đầu chúng tôi, người xạ thủ đại liên nhô nửa mình ra khỏi thân tầu, rõ ràng anh khoát tay về phía trước. Máy xe vẫn nổ, phải chăng đây là hiệu lệnh lên đường. Có sự nhúc nhích phía trước, rồi đoàn xe cựa mình tiến tới, từ giã xóm nhỏ bên đường. Giã từ cái chòi vịt im lìm, giã từ người nông dân chủ chòi lầm lũi bên con nước xiết. Đại bác nổ rền từ phía trước, đây là những khẩu đại bác phòng không của chúng tôi, cũng may có được vài xe thiết giáp phòng không dẫn đầu, mấy người xạ thủ tác xạ vào bất cứ chỗ nào khả nghi, từng tảng đá lớn tung lên, từng ngôi nhà tranh bốc cháy. Tôi biết có nhiều ngôi nhà cháy oan, có nhiều người vô tội chết.
Làm sao hơn được trong lúc đây là đoàn xe chạy chết. Đoàn xe khởi đi như một con thú dữ, địch bám sát hai bên đường, chúng tôi bứng từng chốt, đại bác 37 1y, bốn nòng bắn trực xạ cho những mục tiêu trong vòng ba trăm thước. Đoàn xe chạy tới đâu, ghi dấu khói lửa hai bên vệ đường đến đó. Địch chôn nhiều mìn trên đường, khoảng hai cây số đầu tiên, chúng tôi bứng đi được một chốt lớn. Địch pháo vào đoàn xe, bây giờ chúng đã biết đoàn người quyết đi, đã biết chúng tôi cố mở đường máu trở về, và dĩ nhiên địch quyết ngăn lại bằng mọi giá.
Một trái 82 ly rớt trên mặt đường phía sau xe tôi chừng năm chục thước, trái đạn nổ ngang hông một xe Jeep, hai người chết ngay, vài người bị thương. Làm sao chúng tôi có thể mang những người chết theo, người chết được đặt bên vệ đường, xe sau tiến tới, chiếc xe Jeep được hất ra khỏi lề. Từng chốt một, những chiếc thiết giáp mở đường ngừng lại, những người lính biệt kích tiến lên, họ thanh toán nốt mục tiêu, ghi dấu những trái mìn phát hiện bằng những tờ giấy được chặn bởi một cục đá. Họ dò mìn bằng đôi mắt, bằng kinh nghiệm, làm sao tránh khỏi những trái mìn chôn giấu kỹ. Bây giờ làm gì có thời gian sử dụng máy dò mìn, vả lại địch cũng mới bôn tập tới đây, chúng cũng không có đủ thời gian để chôn giấu kỹ.
Bây giờ đập Đồng Cam thấp thoáng trước mắt, nằm vắt ngang dòng nước. Con đập thật nhỏ, thật cũ, những thành cầu sắt bắc xung quanh nên trông giống một cây cầu hơn là một cái đập. Qua khỏi đập là một thôn xóm nhỏ, những mái nhà lá nằm sát nhau, nổi bật trên cánh đồng, địa thế bây giờ chỉ còn những trái đồi nhỏ, sát hai vệ đường là cánh đồng cỏ lát. Súng nổ ran phía trước, và chiếc thiết giáp đầu đoàn bò chậm chạp trên cầu.
o O o
Ngày N + 10, 11 giờ sáng
Bốn cây số đã qua với một tiếng đồng hồ. Địch pháo trước mặt, đoàn xe ngừng lại. Chiếc thiết giáp chạy ở phía đầu đoàn xe quay nòng qua trái, tôi thấy rõ một tòa cổ miếu nằm thênh thang giữa đồng bi bứng hẳn lên, thấp thoáng xa xa, bóng của những người lính biệt kích thoăn thoắt hai vệ đường, đoàn xe tiến tới từng thước đất, từng thước đường.
Đường cái quan tương đối rộng, xe Honda họp thành hai trắc diện dị kỳ.
o O o
Ngày N + 10, 11 giờ 30
Xe tôi đã qua khỏi đập Đồng Cam, dòng nước bây giờ mở rộng sau cái đập, chừng năm chục thước bề ngang, nước chảy lờ đờ, những đám lộc bình trôi hờ hững. Tôi ngửi thấy mùi thối của những xác chết lâu ngày, cùng với sự xuất hiện của những căn nhà đầu tiên, vài căn đang cháy dở, cái thôn xóm nghèo chừng năm mươi nóc gia, bỗng nhiên mang cơn đại họa. Bây giờ mùi thối đã bớt đi, bởi những căn nhà cháy khét lẹt. Cuối thôn con đường quẹo phải, một cây cổ thụ che khuất tầm nhìn, mùi thối lại xông lên nồng nặc. Qua khỏi khúc quẹo con đường mở ra trước mắt, hàng trăm chiếc xe Honda, Suzuki, Vespa nằm rải rác trên một đoạn đường một cây số. Người chết khắp nơi trên khúc đường này. Đây là những kẻ mạo hiểm của ba ngày trước, những người mang tính mạng ra đánh một canh bạc cuối. Họ đã tính sai về lòng nhân đạo của những người bên kia.
Nắng như đổ lửa trên đầu, hơi người chết xông lên khiến cho nhiều người lộn mửa. Tôi trông thấy chiếc Vespa trắng của trung sĩ nhất Khánh, một người lính cũ của tôi. Không biết Khánh có thoát nạn không? Chúng tôi ngừng lại giữa những xác người ngổn ngang. Nhiều xác đã trương lên, nhiều xác đã bắt đầu chảy nước vàng. Mấy người biệt động quân giả lại một lần nữa có dịp trở thành những con thú, họ gỡ những chiếc đồng hồ tay của người chết, họ bỏ xe hơi xuống đi bộ kiếm những xe còn tốt của người đã chết.
o O o
Ngày N + 10, 1 giờ trưa
Ba xác chết trôi lững lờ trên dòng nước, một xác trương to và trắng như một con heo cạo. Kỳ lạ một điều là hình như chúng tôi không thể vượt khỏi ba xác chết này, bởi lẽ chúng tôi vừa chạy vừa bứng chốt đằng trước. Cứ khoảng hai cây số một chốt lớn, ngừng lại chờ thiết giáp và biệt kích dọn xong con đường. Khoảng thời gian chờ đợi này, ba cái xác cứ tuần tự lướt qua.
o O o
Ngày N + 10, 2 giờ 30 chiều
Đoàn xe tới một làng tương đối trù phú, có vài ngôi nhà gạch ngói đỏ tươi, có những cây cau cao đang trổ trái. Làng ở bên kia dòng nước, tôi thấy những chiếc cầu nhỏ để dân chúng xuống tắm giặt. Địch bắn từ bìa làng, hàng ngàn cây súng trên đoàn xe đáp lễ, M79 đệm nhịp như pháo cối. Ít nhất cũng nửa làng ra tro. Dòng nước vẫn chảy thẳng, ba cái xác người lơ lửng trôi xa.
Bây giờ chúng tôi quẹo trái về quận Hiếu Xương, mười ba cây số được đánh đổi bằng sáu tiếng đồng hồ, chỉ còn ba cây số nữa chúng tôi bắt tay được với địa phương quân, họ có hai tiểu đoàn ở đây, mở đường hơn tuần lễ không được. Gặp họ kể như chúng tôi thoát hiểm. Trận đánh giảm cường độ, bây giờ chỉ còn súng nhỏ nổ từng chập. Người ta không còn xả súng bắn bừa vào những chỗ khả nghi nữa. Lác đác dọc dường, dân địa phương xuất hiện, những người dân hiền hòa ở đây, bầy ra vệ đường từng lu nước lạnh, từng mẹt trái cây, và thức ăn tạm cho người chạy giặc đỡ đói lòng.
Có một lúc im tiếng súng, tôi nhìn về phía sau, đoàn xe bị cắt ra làm nhiều quãng, xe hai bánh và người đi bộ lũ lượt trên đường, trám vào các quãng trống đó nên đoàn xe hầu như vẫn liền lạc. Bọn lính trên xe tôi nói cười huyên náo.
Một trái khói tím trước mặt, một tràng M16 nổ vu vơ, mấy chiếc xe đầu đoàn ngừng lại, rồi một chiếc xe Jeep tách ra đậu ven đường, vài người lính biệt kích từ trên xe bước xuống, họ tiến vào một khoảng trống có nhiều ngôi mộ cổ, những ngôi mộ có tường bao quanh như một lăng tẩm nhỏ. Vài phút sau họ trở ra, một người lính biệt kích khoát tay, cả đoàn xe từ từ chuyển, chiếc xe Jeep vẫn đậu ở đó, mấy người lính biệt kích đứng tản mát chung quanh, trong khi vị chỉ huy của họ ngồi bất động trên xe Jeep.
Đột nhiên chiếc xe Jeep nghiêng đi, cùng với một bó lửa tỏa ra, xe bốc cháy, một trái B40 bắn sẻ đã kết liễu vi sĩ quan biệt kích. Sự kiện xảy ra như chớp mắt, trước mặt xe tôi chừng năm chục thước. Xác người sĩ quan đổ xuống, nửa thân trên nhô hẳn ra thành xe. Những người lính biệt kích chồm dậy, họ túa vào mấy ngôi mộ, đạn rít bên tai, đạn cầy dưới đất. Họ xung phong vào địa thế trống trải, thượng liên đích nổ ròn tan. Một người lính biệt kích đang chạy, bật ngửa về phía sau, anh bi thương ở chân, lăn người hai vòng, núp vào một bờ đất nhỏ, trong khi các bạn anh bọc vòng hai cánh. Nhiều tiếng M79 nổ, từ phía sau mấy ngôi mộ. Ba người áo đen từ trong mấy ngôi mộ chạy ra, nhưng không chạy được xa, ngã vật xuống bởi những làn đạn của những tay súng lão luyện. Chúng ngã xuống cùng lúc với một trái lựu đạn nổ trên đầu.
Trận đánh diễn ra không đầy năm phút, kể từ lúc trái B40 nổ, cho tới khi những người lính biệt kích trở về khiêng xác vị chỉ huy của họ xuống, mui xe Jeep vẫn cháy âm ỉ.
Những người lính biệt kích này, đã theo chúng tôi suốt đoạn đường. Đêm đêm, họ vẫn âm thầm đi kích để bảo vệ cho đoàn xe. Chỉ còn một cây số nữa là bạn. Trong 6 tiếng đồng hồ liên tục, những người này đã giẫm nát những chốt địch.
Bây giờ là bốn giờ rưỡi ngày 28-3-1975. Vĩnh biệt người sĩ quan biệt kích vữa nằm xuống, vĩnh biệt người chết dọc đường, vĩnh biệt những người đã nằm xuống cho chúng tôi kéo dài hơi thở. Khoảng bao lâu nữa chúng tôi sẽ thiếu khí trời. Tôi nhớ đến tiếng tiêu của người lính biệt động quân, cái vô nghĩa của kiếp người, trong một sát na ngắn ngủi.
Có thể tối nay, những người dân Sài Gòn, những người dân ở các vùng yên bình tạm bợ sẽ được nghe một mẩu tin nhỏ trên các đài phát thanh hoặc trên màn ảnh nhỏ: "Quân và dân ba tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn đã đến được Tuy Hoà."
o O o
Ngày N + 10, 6 giờ chiều
Đám đông dân chúng thị xã Tuy Hoà tụ tập bên đường, họ hoan hô chúng tôi, những biểu ngữ chăng la liệt giữa các hàng cây, giữa các trụ đèn, và giữa những con ngựa gai chặn đường vào thị xã. Đoàn xe rẽ phải để đến địa điểm tập họp trong phi trường quân sự ớ đây sẽ có ủy ban tiếp đón. Ở đây sẽ cung cấp nhiên liệu, lương thực để tiếp tục chuyến đi về Nha Trang. Ít ra ở dây cũng có người tỉnh táo. Không thể để cho đoàn người vào Tuy Hoà. Những người lính biệt động quân giả sẽ làm nát thành phố.
Một người lính quân cảnh ngoắc xe tôi ngừng lại. Thiếu úy Huy, trưởng đồn quân cảnh Tuy Hoà tiến đến chào. Anh mời tôi về đồn quân cảnh Tuy Hoà. Xếp chúa Trần Đình Kha chờ tôi ở đó. ông cho biết đại cương: Bộ Chỉ huy Quân cảnh chỉ định tôi nhiệm vụ mới, thay thế thiếu tá Đèo Ngọc Thanh Chỉ huy trưởng trại Tù binh Qui Nhơn, ông Thanh là một trong vài sĩ quan làm tôi quý mến. Xuất thân khóa 8 Đà Lạt, đại úy từ năm 1962, lúc đó đại lá Kinh, Chỉ huy trưởng binh chủng bây giờ còn là trung úy. Thiếu tá Thanh đi phép Ban Mê Thuột và kẹt tại đó.
o O o
Ngày N + 10, 9 giờ tối
Tôi đứng cô đơn trên thành cầu, sau lưng là thị xã Tuy Hoà, một cây số trước mặt là ngã ba, nơi trước đó 4 giờ đồng hồ, chiếc xe đầu đoàn rẽ phải vào quốc lộ 1, bên trái không đầy cây số là bờ biển. Gió từ đại dương thổi về, lộng trên tóc tôi, quần áo bay phần phật. Xe cộ vẫn ùn ùn kéo tới. Người ta đã mở mấy con ngựa gai trên đường rẽ vào thành phố, một vài xe tách đám đông ngược về hướng tôi. Tất cả vẫn trôi đi, trời đã tối mịt, và đoàn xe tưởng chừng dài như vô tận. Tôi chận một chiếc Honda vừa trờ tới. Tôi hỏi người lính lái xe như một người ngoài cuộc. Người lính nhìn tôi trong một thoáng giây, rồi anh nói nhẹ như một cơn mơ:
"Xe còn dài lắm, ít ra cũng tới nửa khuya mới hết. Nếu kể cả người đi bộ thì phải tới sáng mai."
Tôi quay mặt ra biển. Đại dương gầm thét xa xa, trời tối như mực. Hôm nay là ngày 28-3-1975, miền Nam Việt Nam đã đứng vững như một quốc gia hơn hai mươi năm. Người ta đã ký với nhau một hiệp ước hòa bình. Hơn hai năm trước gập Phan Nhật Nam bên kia bờ Thạch Hãn, tôi và Nam cũng có mặt thi hành việc trao đổi tù binh của văn kiện này. Đã lâu không gặp Nam, tối đó về Huế tôi rủ Nam đi nhậu. Chúng tôi chọn một quán vắng trên bờ sông Hương. Hôm đó trăng cũng sáng vằng vặc. Bình thường cả hai chúng tôi đều là loại chịu nói, lại có rượu vào nên nổ như pháo rang. Nam hỏi:
"Ông là lính trừ bị, hòa bình rồi sẽ giải ngũ. Vậy thì giải ngũ ra ông làm nghề gì?"
Tôi đần mặt ra, thật tình chưa bao giờ tôi nghĩ đến vụ này. Nam phá lên cười và tiếp:
"Mẹ kiếp. ông làm quân cảnh, mà ông lại làm thơ, ông lại mê văn nghệ, ông nhậu như hũ chìm, tôi sợ giải ngũ ông không có sức để đạp xích lô."
Đêm đó Nam rủ tôi về chỗ anh trọ. Anh nói lung tung về hòa bình, anh vẽ ra thật nhiều viễn ảnh, song tôi thấy viễn ảnh nào cũng đen tối, cho dù hòa bình thực sự có về với chúng tôi. Thế mà hòa bình không về. Kể từ hôm mất Ban Mê Thuột đến nay, vỏn vẹn mười sáu ngày, Miền Nam thu nhỏ lại một chiều dài năm trăm cây số. Bây giờ Bình Đinh là ải địa đầu. Thị xã Qui Nhơn nằm trong tầm đại bác của địch. Bắc quân đang dốc toàn lực hàng chục sư đoàn Nam tiến. Chúng dốc toàn lực vào các trận đánh qui mô, bỏ sở trường là chiến tranh du kích, để đánh những trận địa chiến, bởi lẽ chúng biết chắc sẽ thắng.
Trời đã quá nửa khuya. Ngoảnh mặt lại tôi vẫn thấy thỉnh thoảng một ánh đèn xe lạc lõng xuất hiện nơi ngã ba, ánh đèn quét một vùng rộng trước mặt. Hai bên đường, những người bỏ phiếu bằng chân vẫn đi lầm lũi. Tất cả xuôi Nam. Họ sẽ tới đâu khi ván bài đang cạn nước. Mai này tôi ngược ra phía bắc. Qui Nhơn bây giờ là ải địa đầu. Mai này tôi tới đó không biết có cơ hội trở về cây cầu đang đứng hôm nay?
Trăng hai mươi mọc muộn nhô lên. Tôi rời lan can cầu, ngồi vào tay lái chiếc xe Jeep vừa mượn của đồn quân cảnh Tuy Hoà. Tôi chưa muốn về nghỉ. Thành phố không một bóng người. Tôi quyết định đến thăm Y Uyên, một người đã chết. Biết đến bao giờ tôi mới lại được ngắm lại chân dung anh qua pho tượng nhỏ của thành phố đáng yêu này?