Medicine for the soul.

Inscription over the door of the Library at Thebes

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: 4Th Of July
Dịch giả: Quỳnh Nga
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 45
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1459 / 30
Cập nhật: 2016-06-17 12:49:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần I: Không Ai Quan Tâm
hưa đầy 4 giờ sáng. Tôi tỉnh như sáo từ trước cả khi Jacobi cho xe đậu trước Lorenzo, một khách sạn cho thuê phòng theo giờ ở Quận Tenderloin của San Francisco. Lorenzo nằm trên một con đường nom kinh khủng đến mức những tia nắng của mặt trời chắc cũng không dám rọi qua đây.
Ba chiếc xe cảnh sát đỗ bên lề đường, Conklin, viên cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường đang cùng Les Arou, một viên cảnh sát khác chăng dây đóng toàn bộ khu vực.
— Các anh đã tìm thấy gì chưa? - Tôi hỏi Conklin và Arou.
— Một thanh niên da trắng Trung úy ạ. Chưa đến 20 tuổi, mắt lồi, bị nướng chín rồi - Conklin nói. - Phòng 21. Không có dấu vết phá cửa. Nạn nhân nằm trong bồn tắm, giống như lần vừa rồi.
Mùi nước đái và mùi những bãi nôn ộc ra khi Jacobi và tôi bước vào khách sạn. Không nhân viên phục vụ, không thang máy cũng không có dịch vụ dọn phòng. Những công dân của màn đêm lại chìm vào bóng tối, trừ một ả điếm trẻ da tái xám kéo Jacobi vào một góc.
— Cho tôi 20 đô - tôi nghe ả nói, tôi có giấy đăng ký xe của anh ta.
Jacobi rút một tờ 10 đô để đổi lấy mảnh giấy đăng ký xe, rồi quay trở lại gặp nhân viên lễ tân để hỏi về nạn nhân: Có thuê phòng cùng ai không, có dùng thẻ tín dụng, có thói quen bất thường nào không?
Tôi lách qua một tay nghiện xì ke ở cầu thang để lên tầng hai, cửa phòng 21 để ngỏ, một tay cảnh sát non choẹt đang đứng canh cửa.
— Chào buổi tối, Trung uý Boxer.
— Sáng rồi Keresty ạ.
— Vâng, sáng rồi - cậu ta nói, ghi tên tôi rồi đưa tờ giấy cho tôi ký để có thể vào bên trong.
Bên trong căn phòng 44 mét vuông còn tối hơn ngoài hành lang, cầu chì bị nổ và những bức rèm trông chẳng khác nào những hồn ma lơ lửng trên khung cửa sổ trước ánh đèn đường rọi vào. Tôi cố gắng nhận biết cái gì là bằng chứng, cái gì không, cố không giam lên bất kỳ vật gì. Có quá nhiều thứ và quá ít ánh sáng.
Tôi bật đèn pin rọi xuống mấy cái lọ nhỏ đã vỡ, tấm đệm có vấy vết máu khô, vài đống rác và quần áo tung toé khắp nơi. Trong góc phòng có lẽ là một khu bếp, bếp điện vẫn còn ấm, vài món đồ dùng để chích hút lăn lóc trong bồn rửa bát.
Không khí trong phòng nặng nề, gần như là ngạt thở. Tôi quét đèn pin dọc theo đường dây điện chạy từ bồn rửa bát, qua cái xí bệt bị tắc, đến bồn tắm.
Ruột gan tôi thắt lại khi nhìn thấy xác cậu bé dưới ánh sáng đèn pin. Cậu bé trần truồng, gầy gò, tóc vàng, ngực còn chưa có lông, nửa nằm nửa ngồi trong bồn tắm, mắt lồi, bọt sùi ra từ miệng và mũi. Sợi dây điện dừng lại ở máy nướng bánh mỳ đời cũ đang chập chờn loé lên qua làn nước tắm.
— Khỉ ạ - tôi nói khi Jacobi bước vào phòng tắm. - Lại một vụ nữa rồi.
— Thằng bé bị nướng chín rồi - Jacobi nói.
Với tư cách là một sĩ quan chỉ huy của Đội điều tra các vụ giết người, tôi không còn phải làm phần việc của một thanh tra. Nhưng vào những lúc như thế này, tôi không thể đứng yên.
Lại thêm một đứa trẻ bị điện giật, nhưng tại sao chuyện này lại xảy ra? Cậu bé này là nạn nhân vô tình của một vụ bạo loạn hay đây là một vụ trả thù cá nhân? Trong tâm trí tôi chỉ có hình ảnh cậu bé quằn quại đau đớn khi dòng điện chạy qua người làm trái tim nó ngừng đập.
Nước dưới sàn nhà lát đá nứt nẻ dâng lên ướt ống quần tôi. Tôi nhấc chân lên và lấy chân đóng cửa buồng tắm, biết quá rõ tôi sắp sửa nhìn thấy điều gì. Bản lề cánh cửa rít lên vì có lẽ chưa bao giờ được tra dầu.
Một dòng chữ được xịt bằng sơn lên cánh cửa. Lần thứ hai trong vòng vài tuần qua tôi lại tự hỏi dòng chữ này muốn nói lên điều gì:
”KHÔNG AI QUAN TÂM"
Trông chẳng khác nào một vụ tự sát rùng rợn, ngoại trừ bình xịt sơn không thấy có tại hiện trường. Tôi nghe tiếng Charlie Clapper và đội khám nghiệm hiện trường vụ án vừa có mặt ở phòng ngoài đang bắt đầu lôi các dụng cụ pháp y ra. Tôi lùi lại để người ta chụp ảnh nạn nhân, rồi giật mạnh sợi dây điện ra khỏi tường.
Charlie thay cầu chì. - Ơn Chúa - anh ta nói khi ánh sáng tràn ngập căn phòng kinh khủng.
Tôi đang lục trong đống quần áo của nạn nhân mà không thấy chứng minh thư thì Claire Washbum, người bạn thân nhất của tôi và là bác sỹ pháp y trưởng của San Francisco bước vào.
— Khủng khiếp - tôi nói với Claire khi chúng tôi đi vào phòng tắm. Claire là chỗ dựa của cuộc đời tôi, cô ấy với tôi còn thân thiết hơn chị em ruột. - Mình như muốn nổ tung đến nơi.
— Có để làm gì đâu - Claire nói nhẹ nhàng.
Tôi cố nén, nuốt cơn giận đang trào lên trong cổ họng. Đã quá quen với nhiều thứ nhưng tôi sẽ không thể quen được với việc nhìn thấy những đứa trẻ bị giết hại.
— Mình chỉ muốn chấm dứt những việc này.
Dưới ánh đèn nạn nhân trông còn thảm hại hơn. Claire cúi xuống cạnh bồn tắm, cái thân hình khổng lồ của cô ấy choán một góc căn phòng tí hon.
— Phổi bị phù - cô ấy nói về đám bọt sùi ra từ miệng và mũi cậu bé. Cô lần theo vết bầm tím trên môi, xung quanh mắt. Thằng bé bị đánh trước khi bị điện giật.
Tôi chỉ vào vết rạch chạy dọc trên má. - Cậu nghĩ đây là gì?
— Mình đoán đó là thanh ấn trên máy nướng bánh mỳ. Có thể chúng đã dùng máy nướng bánh mỳ đánh vào mặt thằng bé trước khi chúng quẳng nó vào bồn tắm.
Cánh tay thằng bé đặt trên thành bồn tắm. Claire dịu dàng cầm nó lên lật sang bên. - Không bị cứng. Cơ thể vẫn còn ấm và đang tái dần. Thằng bé chết chưa đầy 12 tiếng đồng hồ, có lẽ còn chưa đầy 6 tiếng. Không nhìn thấy dấu vết gì. Cô ấy đưa tay vuốt mái tóc bết của cậu bé, nhấc môi trên bị bầm tím bằng những ngón tay đeo găng. Thằng bé lâu lắm rồi chưa được đưa đi nha sỹ. Chắc nó trốn nhà.
— Ừ - tôi nói. Rồi tôi lặng người đi một lát.
— Cậu nghĩ sao hả cưng? - Mình lại gặp phải một John Doe nữa rồi.
Tôi nhớ lại một đứa trẻ khác với cái tên John Doe, một đứa trẻ lang thang đã bị ám hại ở một nơi cũng giống thế này khi tôi mới bắt đầu vào nghề. Đó là một trong những vụ án khủng khiếp nhất mà tôi từng gặp và mười năm sau cái chết của cậu bé vẫn ám ảnh tôi.
— Phải đưa thằng bé về chỗ mình để khám nghiệm thì mới biết thêm được - Claire đang nói thì Jacobi thò đầu vào.
— Người cung cấp tin tức cho biết có thoáng thấy một góc biển số chiếc Mercedes chúng ta cần tìm - anh ta nói - Màu đen.
Tại vụ án mạng bằng điện giật lần trước, người ta cũng đã thấy một chiếc Mercedes đen xuất hiện. Tôi ngoác miệng cười vì cảm thấy có tia hi vọng. Vâng, tôi đã biến việc này thành việc của riêng tôi. Tôi sẽ tìm được thằng khốn đã giết những đứa trẻ này và không để hắn kịp tiếp tục hành động.
Đã một tuần trôi qua kể từ cơn ác mộng ở Khách sạn Lorenzo. Phòng xét nghiệm vụ án vẫn đang xem xét hàng loạt những bằng chứng thu thập được ở phòng 21, và ba con số trên biển số xe mà người cung cấp thông tin nhìn thấy một là không đúng hai là chỉ là đoán mò. Còn tôi, sáng nào cũng tỉnh dậy cáu kỉnh và buồn bã vì vụ án này chẳng đi đến đâu.
Những đứa trẻ bị giết ám ảnh lấy tôi cả trong lúc lái xe đến quán Susie tối hôm đó để gặp mấy cô bạn. Susie là một quán ăn trong vùng, một nơi sáng sủa, ồn ào, với những bức tường được vẽ bằng những màu sắc vùng nhiệt đới sặc sỡ, phục vụ đồ ăn Caribê cay xè nhưng ngon tuyệt.
Nơi này vừa là nơi trú ẩn vừa là nơi họp mặt thường xuyên của Jill, Claire, Cindy và tôi. Để tán đủ mọi thứ chuyện, những chuyện chẳng liên quan đến cấp bậc hay vị trí ở cơ quan. Cùng nhau, chúng tôi đã phá án ngay chính tại nơi này.
Tôi nhìn thấy Cindy và Claire ở ô cửa - chúng tôi - trong góc. Claire đang cười vì Cindy mới pha trò, Cindy thường xuyên pha trò vì Claire có điệu cười rất tuyệt còn Cindy là một cô gái rất hài hước và cũng là phóng viên điều tra xuất sắc của tờ Chronicle. Còn Jill đã mãi mãi đi xa.
— Mình muốn cái mà cậu có - tôi nói khi gieo mình ngồi xuống bên cạnh Claire. Một chầu margarita đã được bày sẵn trên bàn với bốn cái ly, hai ly còn trống. Tôi rót đầy một ly và nhìn hai người bạn, và nhận thấy qua tất cả những gì chúng tôi đã cùng trải qua, gần như có một sợi dây vô hình kỳ diệu gắn liền chúng tôi với nhau. - Trông cậu như cần được truyền nước - Claire trêu.
— Mình thề với cậu là đúng thế đấy. Tìm tĩnh mạch cho mình đi. Tôi hớp một ngụm nước mát lạnh, kéo tờ báo đặt cạnh khuỷu tay Cindy, lật các trang báo cho đến khi tìm được bài báo ở trang 17 trong mục Metro: “ĐANG TÌM THÔNG TIN VỀ NHỮNG VỤ ÁM SÁT Ở QUẬN TENDERLOIN."
— Mình tưởng chuyện này nghiêm trọng hơn cơ đấy - tôi nói.
— Cái chết của những người lang thang thường không được đưa lên trang nhất - Cindy nói với giọng thông cảm.
— Lạ thật - tôi nói với hai người bạn. Thực ra chúng mình có quá nhiều thông tin. Bảy nghìn dấu vân tay. Tóc, sợi, cả đống ADN vô giá trị ở tấm thảm chưa được hút bụi từ thời Nixon còn là một đứa bé. Tôi ngừng chửi rủa để rút sợi dây chun buộc tóc và rũ mái tóc. - Mặt khác, từ hàng đống thông tin chỉ điểm từ khắp Quận Tenderloin, tất cả những gì bọn mình có là một manh mối vứt đi.
— Tệ thật, Linds - Cindy nói. - Sếp có thúc giục ghê không?
— Không hề - tôi nói, lấy ngón trỏ gõ nhẹ lên bài viết về nhưng vụ ám sát ở Quận Tenderloin. - Đúng như bọn giết người nói, không ai quan tâm.
— Đừng căng thẳng quá, cưng ạ - Claire nói. - Cậu luôn tìm được cách phá án mà. Lúc nào chẳng vậy.
— Ừ, nói về chuyện này thế là quá đủ rồi. Jill sẽ chẳng hài lòng nếu thấy tớ cứ rên rỉ thế này.
— Cô ấy luôn nói "Không vấn đề gì", Cindy búng ngón tay, chỉ sang chỗ trống của Jill. Chúng tôi nâng ly và cụng.
— Vì Jill - chúng tôi đồng thanh.
Chúng tôi rót đầy ly của Jill và chuyền tay nhau để tưởng nhớ đến Jill Bemhardt, một trợ lý công tố uỷ viên xuất sắc và người bạn tuyệt vời của chúng tôi, đã bị giết vài tháng trước. Chúng tôi nhớ cô ấy đến phát điên lên được. Một lát sau, người hầu bàn của chúng tôi, Loretta, mang thêm một chầu margarita nữa.
— Nom cậu thật vui vẻ - tôi nói với Cindy, cô ấy hào hứng kể cho chúng tôi nghe lý do. Cô ấy có bạn trai mới, một cầu thủ khúc côn cầu của đội Sharks ở San Jose, và cô ấy rất hài lòng với bản thân. Claire và tôi bắt đầu ép cô ấy cho biết thêm chi tiết trong lúc một ban nhạc bắt đầu chỉnh âm và ngay sau đó chúng tôi cùng ngân nga bài hát của Jimmy Cliff, lanh canh gõ thìa vào mấy cái ly.
Cuối cùng khi tôi đã được thư giãn với nhóm chè chén của mình thì di động reo. Jacobi gọi.
— Ra ngoài gặp tôi đi Boxer. Tôi chỉ cách có một ngã tư thôi. Chúng tôi lần được chiếc Mercedes kia rồi.
Lẽ ra tôi phải nói - Đi một mình đi. Tôi hết giờ làm việc rồi. Nhưng đây là vụ án của tôi, và tôi phải đi. Tôi rút tiền ra đặt lên bàn, hôn gió hai người bạn, rồi chạy ra cửa. Kẻ giết người đã nhầm. Có người quan tâm.
Tôi ngồi vào ghế trước của chiếc Crown Vic màu xám bên cạnh Jacobi.
— Đi đâu? - tôi hỏi Jacobi.
— Đến Quận Tenderloin - anh ta nói. - Người ta vừa nhìn thấy một chiếc Mercedes đen lượn lờ dưới đó. Khu đó làm gì có ai đi Mercedes.
Thanh tra Warren Jacobi đã từng là đồng sự của tôi. Anh ấy đã không ghen tị khi tôi được thăng chức, tuy anh ấy hơn tôi mười tuổi và có thâm niên hơn tôi bảy năm. Chúng tôi vẫn là đồng sự khi có những vụ án đặc biệt, và tuy anh ấy là cấp dưới, nhưng tôi vẫn rất tôn trọng anh.
— Tôi vừa làm vài ly ở quán Susie.
— Bia à?
— Margarita.
— Vài ly là bao nhiêu ly? - Anh ta quay cái đầu to lớn sang phía tôi.
— Một ly rưỡi - tôi nói, không khai nốt 1/3 ly tôi đã uống cho Jill.
— Cô thấy ổn chứ?
— Tất nhiên. Tôi ổn.
— Cô không lái được đâu.
— Tôi có định lái đâu.
— Có phích nước đằng sau đấy.
— Cà-fê à?
— Không, để nếu cô thấy cần thì có thể đái vào đó, bởi vì ta không có thời gian để dừng lại đâu.
Tôi bật cười và với lấy phích cà-fê. Jacobi lúc nào cũng đùa bậy bạ. Khi chúng tôi đi đến phố Sáu ở phía nam của Mission, tôi nhìn thấy một chiếc xe theo đúng mô tả mà chúng tôi có đang đỗ ở bãi đỗ xe theo giờ.
— Nhìn kìa, Warren. Em bé của chúng ta kìa.
— Khá đấy, Boxer.
Ngoài việc huyết áp của tôi đang tăng vòn vọt thì phố Sáu chẳng có gì xảy ra. Đó là một khu phố với những cửa hàng cáu bẩn. Những người đi đường lang thang vô hướng đang lảo đảo trên đường và những người vô gia cư đang ngáy cạnh những đống rác. Một gã vô công rồi nghề lập dị đang xem xét cái xe bóng lộn.
— Tôi hi vọng cái xe này không quá gây chú ý - tôi nói. - Nó đứng đó chẳng khác nào viên kim cương để trong đống rác.
Tôi gọi về báo cáo vị trí của chúng tôi và tiến đến cách chiếc Mercedes khoảng nửa dãy nhà. Tôi gõ biển số xe vào máy tính, lần này tiếng cồng không kêu và máy tính đã cung cấp thông tin. Chiếc xe là của Tiến sỹ Andrew Cabot ở khu Telegraph Hill.
Tôi gọi cho Toà thị chính và yêu cầu Cappy kiểm tra thông tin về Tiến sỹ Cabot trên cơ sở dữ liệu của NCIC (Trung tâm thông tin tội phạm quốc gia) và chờ họ gọi lại cho tôi. Rồi Jacobi và tôi dừng lại chờ. Andrew Cabot có là ai đi nữa thì rõ ràng là hắn cũng thích đi chơi ở những nơi không ra gì. Thông thường đi theo dõi chẳng có gì là thú vị nhưng lần này thần kinh tôi đang căng lên như sợi dây đàn. Andrew Cabot ở đằng quái nào thế? Hắn làm gì ở những khu như thế này?
Hai mươi phút sau, một cái máy quét đường, to bằng một chiếc xe con màu vàng nhạt trông như một con Tatu có đèn nhấp nháy và còi kêu inh ỏi để dẹp đường, trườn sang bên phải lên vỉa hè như mọi đêm. Những người vô gia cư đứng dậy để tránh bàn chải quét đường. Giấy lộn cuộn tròn dưới ánh sáng tù mù của đèn đường.
Chiếc xe quét đường chắn tầm nhìn của chúng tôi trong một lát và khi nó đi qua, Jacobi và tôi nhìn thấy cùng lúc: cả hai cánh cửa trước của chiếc Mercedes đang đóng lại.
Chiếc xe bắt đầu chuyển động.
— Đến giờ diễn rồi - Jacobi nói.
Chúng tôi chờ mười giây đầy căng thẳng khi một chiếc Camry màu nâu xen vào giữa chúng tôi và chiếc Mercedes. Tôi gọi về trung tâm: - Chúng tôi đang theo dõi một chiếc Mercedes màu đen, biển số Queen Zebra Whiskey 26 Charlie, đi về hướng bắc trên đường Sáu về phía Mission. Báo cho các lực lượng trong khu vực hãy sẵn sàng. Ôi khỉ ạ!
Chúng tôi nghĩ sẽ ép được chiếc xe dừng lại một cách nhanh chóng nhưng đột nhiên vô cớ chiếc Mercedes rồ máy, để lại Jacobi và tôi hít đống bụi đường vừa được quét.
Tôi không tin vào mắt mình khi đèn sau của chiếc Mercedes biến thành hai đốm đỏ nhỏ xíu, bỏ xa chúng tôi trong lúc chiếc Camry lùi cẩn thận vào chỗ đỗ xe, chắn đường chúng tôi.
Tôi nhấc micro và hét vào hệ thống loa của xe, - Dẹp đường! Tránh ra chỗ khác!
— Khỉ thật - Jacobi nói.
Anh ta bật đèn nháy và còi hú lên inh ỏi, cùng lúc chúng tôi lao qua chiếc Camry, sượt qua đèn sau của xe.
— Quá hay, Warren ạ.
Chúng tôi phóng vọt qua ngã tư ở phố Howard, tôi gọi Mã 33 để giữ đường truyền radio cho vụ rượt đuổi.
— Chúng tôi đang đi về hướng Bắc trên phố Sáu, phía nam của phố Market, đuổi theo một chiếc Mercedes đen, cố tìm cách dừng chiếc xe lại. Tất cả các lực lượng cảnh sát trong khu vực chú ý!
— Lý do của vụ đuổi bắt là gì, Trung úy?
— Điều tra một vụ án mạng.
Người tôi nóng phừng phừng. Chúng tôi sẽ ép chiếc xe đứng lại, và tôi cầu nguyện để chúng tôi không đâm phải những người đi đường. Tất cả các lực lượng cảnh sát nhận được thông báo qua radio vị trí của họ. Chúng tôi vượt qua Mission, với tốc độ ít nhất là 60 dặm một giờ.
Tôi ấn bàn chân vào bàn đạp phanh tưởng tượng khi Jacobi cho xe vọt qua phố Market, con phố lớn nhất và tấp nập nhất của San Francisco, đầy những xe buýt, xe điện Muni và đang tắc nghẽn giao thông.
— Rẽ phải - tôi hét vào tai Jacobi.
Chiếc Mercedes đổi hướng đi vào phố Taylor. Nó chỉ cách chúng tôi khoảng hai chiếc xe nhưng vẫn chưa đủ gần trong màn đêm để có thể nhìn thấy người lái và người ngồi cạnh.
Chúng tôi bám sát chiếc xe đi vào phố Ellis, đi về hướng Tây qua khách sạn Coronado, nơi vụ ám sát bằng điện giật đầu tiên đã xảy ra. Không lẽ đây là địa bàn hoạt động của tên sát nhân? Thằng khốn biết rõ khu vực này chẳng khác nào tôi.
Xe đỗ đầy hai bên đường và chúng tôi phóng đi với tốc độ 80, còi hú inh ỏi, rồ ga lên dốc, bay lên trong vài giây thất kinh trước khi rơi xuống sườn đồi phía bên kia - vậy mà chúng tôi vẫn để mất chiếc Mercedes ở phố Leavenworth khi xe và người đi bộ làm tắc ngã tư.
Tôi gào vào micro và thầm cảm ơn Chúa khi radio trong xe cất lên, - chúng tôi nhìn thấy nó rồi, Trung uý. Một chiếc Mercedes màu đen đi về hướng Tây trên phố Turk, chạy với tốc độ 75 dặm một giờ. Một đội nữa đã tham gia vào vụ đuổi bắt ở Hyde.
— Tôi đoán hắn đi về phía Polk - Tôi nói với Jacobi.
— Tôi cũng nghĩ như thế.
Chúng tôi để đường chính cho các xe của đội đặc nhiệm, và đi tắt qua Lâu đài Krim và Kram ở Fine Junk trên góc phố Turk rồi đi lên phía bắc về hướng Polk. Có khoảng một tá đường một chiều rợp bóng cây rẽ từ Polk. Khi chúng tôi đi qua Willows, Ellis và Olive, tôi tia bằng mắt thường từng con đường một.
— Nó kia rồi, đang chuồn kìa - Tôi hét lên với Jacobi. Chiếc Mercedes quặt sang Nhà hát Mitchell Brother, loạng choạng rẽ sang phải rồi phóng về hướng Larkin.
Tôi dùng cả hai tay túm chặt lấy hộc xe trước mặt trong khi Jacobi cố bám theo chiếc xe. Bất ngờ, chiếc Mercedes mất lái, lao vào một chiếc xe bán tải đang đỗ bên đường, và lao lên hè, đâm vào một hòm thư trên đường. Tiếng kim loại xé tai khi hòm thư đập mạnh vào khung gầm xe, chiếc xe dừng lại chổng ngược 45 độ, cửa xe phía bên người lái bị lật úp xuống cống.
Nắp capô bật tung, khói bốc lên khi bộ tản nhiệt của xe bị phá hủy. Mùi cao su cháy và một thứ mùi giống mùi kẹo táo từ hệ thống chống đông lạnh ùa ra không khí.
Jacobi cho xe đỗ lại, chúng tôi chạy về phía chiếc Mercedes, súng lăm lăm trong tay.
— Giơ tay lên - Tôi hét lên. - Ngay lập tức!
Hai người ngồi trong xe dính chặt vào túi khí. Khi túi khí bắt đầu tháo hơi, tôi mới thấy mặt họ. Hai đứa trẻ da trắng, một đứa khoảng 13, đứa kia 15, và chúng đang khiếp đảm.
Khi Jacobi và tôi tiến đến chiếc Mercedes, súng nắm chặt trong hai tay, hai đứa trẻ bắt đầu gào khóc.
Tim tôi đập thình thịch, và giờ tôi bắt đầu phát điên. Tiến sỹ Cabot rõ ràng không có trong xe, trừ phi ông ta ở độ tuổi của Hoogie Howser. Hai đứa trẻ này một là bị điên hai là thích đua xe, ba là ăn trộm xe - hoặc có thể là cả ba.
Tôi chĩa súng vào cửa xe phía người lái.
— Giơ tay lên. Đúng rồi. Chạm vào trần xe. Cả hai.
Nước mắt tuôn trào trên gương mặt đứa trẻ lái xe và tôi kinh hoàng nhận ra đó là một bé gái. Tóc cắt ngắn, đỉnh đầu nhuộm hồng, không trang điểm, không đeo khuyên: một phiên bản từ tạp chí Tuổi 17. Khi con bé giơ hai tay lên, tôi nhìn thấy những mảnh kính vỡ bám đầy áo phông màu đen. Tên của con bé khắc trên dây chuyền đeo cổ.
Tôi thừa nhận tôi đã quát con bé. Chúng tôi vừa phải trải qua một vụ rượt đuổi nguy hiểm chết người.
— Cháu định làm cái quái gì thế hả Sara?
— Cháu xin lỗi - Con bé khóc rống lên. Tại vì cháu chỉ có giấy phép tập lái xe thôi. Cô chú định làm gì cháu?
Tôi nghi hoặc. - Cháu chạy trốn cảnh sát vì cháu không có bằng lái? Cháu bị điên rồi à?
— Thế nào bố cũng giết chúng mình - đứa trẻ kia nói, một cậu bé gầy gò cao lêu nghêu bị sợi dây an toàn cột chặt vào ghế.
Thằng bé có đôi mắt to tròn màu nâu và vài lọn tóc vàng rơi xuống trước mặt. Mũi nó đang chảy máu, có lẽ vì bị túi khí đập vào. Nước mắt chảy ròng ròng trên má.
— Xin cô đừng nói cho ai biết. Cứ bảo xe đã bị mất cắp và để chúng cháu về nhà. Cháu xin cô. Bố cháu sẽ giết chúng cháu mất.
— Tại sao? - Jacobi hỏi chế nhạo. Tại vì không thích hình trang trí mới trên mui của chiếc xe trị giá sáu mươi nghìn đô của ông ấy à? Giơ tay lên để cô chú có thể nhìn thấy và từ từ ra khỏi xe.
— Cháu không ra được. Cháu bị mắc ke-e- ẹt rồi - Thằng bé khóc. Nó lấy mu bàn tay quệt ngang mũi, máu be bét đầy mặt. Rồi nó nôn thốc lên thành xe.
Jacobi lẩm bẩm, - ôi khỉ thật - bản năng phải giúp thằng bé trào lên trong chúng tôi. Tôi cho súng vào bao. Phải cùng chung sức chúng tôi mới giật được cánh cửa phía bên người lái ra. Tôi chui vào và tắt máy, sau đó chúng tôi lôi thằng bé ra khỏi xe và giúp nó đứng lên.
— Cho cô xem giấy phép tập lái nào, Sara - tôi nói. Tôi muốn biết bố nó có phải là Tiến sỹ Cabot không và liệu bọn trẻ có lý do chính đáng để sợ bố chúng không.
— Đây - Sara nói. Trong ví cháu.
Jacobi gọi xe cứu thương khi cô bé thò tay vào túi áo trong, lôi ra một vật bất ngờ và kinh hoàng đến mức máu trong tôi đông lại.
Tôi hét lên, "SÚNG!" chỉ một tích tắc trước khi nó bắn tôi.
Thời gian trôi thật chậm, mỗi giây dài lê thê, nhưng đúng là tất cả mọi việc diễn ra trong chưa đầy một phút.
Tôi chùn người lại, người tôi bị hất quay nghiêng sang một bên khi viên đạn xuyên vào vai trái. Rồi một viên nữa dội vào đùi. Còn chưa kịp hoàn hồn, chân tôi khuỵu xuống và ngã dúi dụi. Tôi với tay về phía Jacobi và nhìn thấy nét kinh hoàng in trên mặt anh ta.
Tôi chưa ngất. Tôi nhìn thấy thằng bé bắn Jacobi - Bằng... bằng... bằng... Rồi nó đi tới, đá vào đầu người đồng sự của tôi. Tôi nghe tiếng con bé nói, - Đi thôi Sammy. Đi khỏi đây thôi.
Tôi không cảm thấy đau, chỉ thấy giận điên người. Tôi tỉnh táo hơn bất cứ lúc nào. Chúng đã quên tôi. Tôi với khẩu 9mm Glock, vẫn còn ở thắt lưng, cầm lên và ngồi dậy.
— Bỏ súng xuống - tôi hét, chĩa súng vào Sara.
— Mẹ mày - nó quát lại. Khuôn mặt nó hằn lên vẻ sợ hãi trong lúc nó nhắm khẩu 22 và bóp cò ba lần. Tôi nghe tiếng đạn bắn vào vỉa hè xung quanh tôi.
Rất khó để có thể bắn trúng mục tiêu bằng súng lục, nhưng tôi đã làm điều mà tôi được đào tạo. Tôi nhắm vào phần rộng nhất, chính giữa ngực con bé, và bóp cò hai lần: Bùm... bùm... Khuôn mặt Sara nhăn lại khi nó ngã sụp. Tôi cố đứng dậy nhưng chỉ quỳ được bằng một đầu gối.
Thằng bé với khuôn mặt máu me bê bết vẫn cầm súng lục trong tay. Nó chĩa vào tôi.
— Bỏ súng xuống! - Tôi hét.
— Mày vừa bắn chị tao!
Tôi nhắm, lại bóp cò hai lần: Bùm... bùm... bùm... Thằng bé rơi súng, cả thân hình rũ xuống.
Nó gào lên khi gục xuống đất.
Im lặng chết người bao trùm lên phố Larkin. Rồi có tiếng động. Xa xa có tiếng nhạc rap. Tôi nghe tiếng thằng bé rên khe khẽ. Tôi nghe thấy tiếng còi cảnh sát ngày càng gần.
Jacobi hoàn toàn không động đậy. Tôi gọi tên anh ta nhưng không thấy trả lời. Tôi rút di động đeo bên hông và cố hết sức, tôi gọi.
— Hai cảnh sát bị bắn. Hai dân thường bị hạ. Cần cấp cứu. Cử hai xe cứu thương. Ngay lập tức.
Người điều vận hỏi tôi: vị trí, số phù hiệu, lại vị trí: - Trung úy, cô không sao chứ? Lindsay, trả lời tôi đi.
Tiếng động lúc tăng lúc giảm. Tôi làm rơi di động và gục đầu xuống vỉa hè. Tôi đã bắn trẻ em. Trẻ em! Tôi đã nhìn thấy những khuôn mặt kinh hoàng của chúng khi ngã xuống. Trời ơi, tôi đã làm gì thế này?
Tôi cảm thấy một dòng máu nóng chảy xuống cỏ và xung quanh chân. Tôi liên tưởng lại tất cả mọi việc, lần này bắt bọn trẻ áp sát vào xe. Khoá tay chúng lại. Khám xét người chúng. Tôi thông minh. Tôi làm đúng bổn phận.
Chúng tôi đã ngu ngốc một cách không thể chối cãi, và giờ tất cả chúng tôi sẽ phải chết. Thật nhân từ, bóng tối bao bọc lấy cơ thể tôi và tôi nhắm mắt.
Ngày 4 Tháng 7 (Women's Murder Club #4) Ngày 4 Tháng 7 (Women's Murder Club #4) - James Patterson, Maxine Paetro Ngày 4 Tháng 7 (Women