Số lần đọc/download: 1774 / 22
Cập nhật: 2015-10-05 14:43:00 +0700
Chương 1 Tôi gặp ngài Henri Curơtix
C
ó lẽ cũng khá lạ lùng, rằng sống đến cái tuổi năm mươi lăm, lần này tôi cầm bút là lần đầu. Tôi cũng chẳng biết tôi sẽ làm được cái gì từ câu chuyện của tôi, và rồi không hiểu tôi có đủ kiên nhẫn để đưa nó đến cùng hay không.
Bây giờ nhìn lại quãng đời đã qua, tôi thầm ngạc nhiên rằng tôi đã kịp làm nhiều việc và phải chịu đựng nhiều thử thách như thế. Cũng có thể tôi cảm thấy đời mình quá dài là do buộc phải sống tự lập quá sớm. ƠŒ cái tuổi trẻ con còn đi học ở trường, tôi đã phải làm việc để kiếm sống, bằng cách buôn bán các thứ lặt vặt ở thuộc địa cũ. Tôi đã buộc phải đi buôn, đi săn, làm việc ở các hầm mỏ, thậm chí cả đi đánh nhau. Và chỉ cách đây tám tháng, tôi mới trở thành người giàu có. Bây giờ thì tôi là ông chủ của một tài sản khổng lồ, chính tôi cũng không biết rõ nó lớn đến mức nào, nhưng tôi không tin rằng để đạt được điều ấy, tôi sẵn sàng chịu sống lại quãng thời gian mười lăm, hai mươi tháng gần đây của đời tôi, ngay cả khi biết trước rằng mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp và tôi sẽ giàu đến mức này. Tôi là một người khiêm tốn bình thường, không thích máu và bạo lực, và cũng xin nói thẳng rằng tôi đã ngấy đến tận tai các chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Tôi không hiểu tôi định viết cuốn sách này để làm gì, vì văn chương là nghề rất xa lạ với tôi. Mà tôi cũng chẳng dám tự cho mình là người có học, dù tôi rất thích đọc cựu ước (ÙPhần đầu của Kinh Thánh) và các truyện hoang đường của Ingôndơbi (Tên thật là Barham (1788-1845) nhà văn Anh nổi tiếng nhờ các truyện thơ Balát). Nhưng dù sao tôi cũng xin nêu lên những liù do đã khiến tôi viết cuốn sách này.
Thứ nhất là do ngài (Tiếng Anh là Sir một tiếng đệm chỉ những nhà quý tộc lớn. Trong toàn bộ tác phẩm, trước Henry đều có chữ Sir (ngài), nhưng để tránh nặng nề và trùng lặp nhiều, chúng tôi bỏ không dịch, chỉ gọi đơn giản là Henry. -ND) Henry Curơtix và thuyền trưởng Huđơ đã yêu cầu tôi làm điều ấy.
Thứ hai là hiện giờ tôi đang ở Durban, hoàn toàn chẳng có việc gì khác để làm, vì vết thương ở chân trái lại tái phát và bắt tôi phải nằm một chỗ. Tôi bắt đầu khổ sở vì nó kể từ khi con sư tử khốn kiếp kia vồ tôi. Giờ đây tôi càng cảm thấy đau hơn và đi khập khiễng hơn bao giờ hết. Chắc trong răng sư tử có một thứ chất độc nào đó, chứ không thì cớ sao các vết thương đã lành lại tái phát, và xin các bạn nhớ cho lặp đi lặp lại năm này qua năm khác và cũng vào một thời gian nhất định!
Trong đời, tôi đã bắn chết sáu mươi lăm con sư tử mà vẫn giữ được mình sống sót và nguyên vẹn, thế thì thử hỏi làm sao không bực mình khi con thứ sáu mươi sáu nào đó đã ngoạm vào chân tôi mà nhai như là nhai thuốc lá? Như thế là trái với quy luật tự nhiên của tạo vật, và tôi, ngoài các yêu cầu khác, tôi rất thích sự quy củ, nên đã hiểu điều này đã làm tôi khó chịu như thế nào!
Ngoài ra, tôi cũng muốn Hary, con trai tôi, hiện giờ đang làm việc ở một bệnh viện London để chuẩn bị trở thành bác sĩ, khi đọc câu chuyện này, có thể tạm thời nghỉ ngơi khỏi các công việc bận bịu của mình. Công việc ở bệnh viện có lẽ nhiều khi cũng làm người ta chán vì quá đơn điệu và buồn tẻ. Suy cho cùng, cả đến việc mổ tử thi cũng không thể hấp dẫn người ta mãi được. Tôi tin là Hary sẽ không chán khi đọc chuyện này của tôi, và ít nhất thì nó cũng sẽ làm cuộc sống con tôi đỡ buồn tẻ, dù chỉ một vài ngày, vì câu chuyện tôi sắp kể thuộc vào loại kì lạ, hấp dẫn nhất mà xưa nay hiếm khi xẩy ra. Các bạn sẽ cho là lạ nếu tôi nói rằng trong truyện của tôi không có một người đàn bà nào, trừ Phulata. À mà không! Cả Gagula nữa, mặc dù tôi không biết chính xác rằng mụ là phụ nữ hay phù thủy. Nhưng cần phải nói rằng ít nhất mụ đã một trăm tuổi, vì vậy, với tư cách là phụ nữ, mụ cũng chẳng là đối tượng hấp dẫn đối với đàn ông, thành ra không nên tính đến mụ. Vì vậy, tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng trong toàn bộ câu chuyện này của tôi không hề có một chiếc váy nào cả!
Nhưng đã đến lúc tôi phải được thắng vào xe chưa nhỉ? Đường ở đây xấu và lầy lội lắm, và tôi cứ có cảm giác như chiếc xe tôi kéo bị lún tới quá nửa bánh.
Trong những trường hợp thế này, nếu bò khỏe thì sẽ chẳng thành vấn đề, rồi sẽ kéo lên tất. Cn nếu bò yếu thì tất nhiên là đành chịu. Nào, tôi xin bắt đầu.
“Tôi, Alan Quotecmen, người quê Durban, ở Natan(Một tỉnh thuộc Liên minh Nam Phi ngày xưa.) một người tử tế dòng dõi thượng lưu, tôi xin thề mà nói rằng...” - Tôi đã bắt đầu lời khai của tôi như thế ở phiên tòa xét về cái chết bi thảm của Hiva và Venfogen. Nhưng mở đầu cho một cuốn sách bằng cách ấy thì có lẽ không ổn lắm. Mà nói chung, tôi có quyền hay có quyền tự gọi mình là người tử tế? Thế nào là một người tử tế? Tôi không rõ lắm. Trong đời mình, tôi đã gặp nhiều mọi đen... Không, tôi xin xóa chữ ấy, tôi không thích dùng nó! Tôi đã gặp nhiều người bản xứ thực sự là những người tử tế đáng kính. (Hary, con trai của bố, trước khi đọc cuốn sách này, con phải đồng ý với bố điều đó đã). Đồng thời tôi cũng biết không ít những người da trắng đểu cáng, tồi tệ, và họ chẳng bao giờ là người tử tế, dù có rất nhiều tiền. Ít ra thì sinh ra, tôi vốn là người tử tế, dù trong suốt cả cuộc đời mình tôi chỉ đơn giản là một anh buôn vặt, một thợ săn nay đây mai đó. Tôi có giữ được cái chất tử tế của mình không, tôi không biết. Điều ấy dành cho các bạn tự đánh giá. Nhưng có Chúa làm chứng tôi luôn cố để bao giờ cũng là người tử tế!
Trong đời, tôi đã buộc phải giết nhiều người, nhưng chưa lúc nào tôi để bàn tay tôi vấy máu người lương thiện. Tôi chỉ giết để tự vệ.
Theo tôi, đức Chúa toàn năng khi trao cho ta cuộc sống, ngài nghĩ rằng tự chúng ta sẽ bảo v lấy nó. Ít ra bao giờ tôi cũng hành động trên cơ sở của niềm tin ấy. Và tôi hy vọng rằng khi tôi chết, ngài sẽ tha lỗi cho tôi. Than ôi, trên đời này quá nhiều sự tàn bạo và phi đạo đức! Chính vì thế mà một người bé nhỏ như tôi đã phải tham gia vào nhiều việc đẫm máu. Tôi không biết tôi nghĩ như thế có đúng không, nhưng quả tôi chưa bao giờ ăn cắp, trừ một lần tôi đã lừa lấy đàn súc vật của một gã người Caphơ (Tên cũ gọi chung các dân tộc Đông Nam châu Phi). Và dù chính hắn cũng lừa dối tôi, cho đến nay tôi vẫn cảm thấy lương tâm bị cắn rứt.
Vâng, kể từ ngày tôi gặp Henry và thuyền trưởng Huđơ đến nay đã gần mười tám tháng. Chuyện xẩy ra như sau. Trong lần săn voi ở Banmangoato, ngay từ đầu tôi đã không gặp may, thêm vào đó, tôi lại bị sốt nặng. Vừa khỏe lại một chút, tôi tìm đến các mỏ kim cương, bán hết ngà voi cùng cỗ xe và những con bò kéo, thanh toán với bạn phường săn rồi ngồi lên xe thư đi tới Cap (Tên gọi tắt Keptao). ƠŒ Kêptao, tôi sống một tuần trong khách sạn, nơi mà nhân thể xin nói thêm, rằng người ta đã tính gian của tôi một số tiền khá lớn. Rồi tôi lang thang đi xem hết các danh lam thắng cảnh của thành phố. Tôi tới vườn bách thảo mà theo tôi mang lại rất nhiều ích lợi cho đất nước, tới xem cả toà nhà nghị viện mà tôi cho là hoàn toàn chẳng được tích sự gì. Tôi quyết định trở về Natan bằng chiếc tàu thủy “Danken”. Lúc này nó đang đậu ở cảng chờ tàu “Edinbua Caxla” sắp sửa từ Anh tới. Tôi mua vé, xuống tàu, và trong cùng ngày ấy, hành khách đi Natan chuyển ngay từ tàu “Edinbua Caxla” sang tàu “Danken”. Tàu nhổ neo rồi đi ra biển.
Trong số những hành khách mới xuống tàu Danken có hai người lập tức thu hút sự chú ý của tôi. Một người thuộc dòng dõi quý phái trạc ba mươi tuổi. Tôi chưa bao giờ gặp người nào to lớn như ông ta. Ông ta có mái tóc màu rơm khô, bộ râu rậm, khuôn mặt có những đường nét cân đối và đôi mắt to, sâu, màu xám. Trong đời, tôi cũng chưa thấy ai đẹp như thế, trông ông ta như một người Đan Mạch thời cổ. Nói thế tất nhiên không có nghĩa tôi biết nhiều về những người Đan Mạch cổ. Tôi chỉ biết một người Đan Mạch hiện tại nặng hơn tôi gần năm cân. Tôi nhớ có lần đã nhìn thấy đâu đó một bức tranh vẽ mấy ông quý tộc mà tôi cho là rất giống những người Dulux. Tay họ cầm những chiếc cốc bằng sừng, mái tóc dài buông xuống tận lưng. Bây giờ, nhìn con người này đang đứng cạnh cầu thang lên xuống, tôi cứ nghĩ rằng nếu ông ta để tóc dài hơn tí nữa, mang áo giáp bằng thép che bộ ngực đồ sộ của mình, đeo giáo và tay cầm cốc sừng, thì hoàn toàn có thể đứng làm mẫu cho một bức tranh như thế. Và trong thực tế (quả là một sự trùng hợp lạ lùng), sau này tôi biết được rằng trong cơ thể của Henry Curơtix - tên của con người cao to quý phái kia là thế, - đang chảy mạnh dòng máu của người Đan Mạch. Ông ta làm tôi nhớ tới một người nào đấy, nhưng cụ thể là ai thì tôi không sao nhớ nổi.
Còn người thứ hai đang đứng và nói chuyện với Henry thì lại thuộc một dạng khác. Ngay lập tức tôi đã nghĩ ông ta là sĩ quan hải quân. Tôi không biết vì sao, nhưng rõ ràng là sĩ quan hải quân. Tôi đã có dịp nhiều lần cùng đi săn với họ, và phải nói rằng họ là những người cực kì dũng cảm và đáng yêu, những người như thế thường rất hiếm. Họ chỉ có một thói xấu duy nhất là hay nói tục.
Lúc nãy tôi có tự hỏi: Thế nào là một người tử tế, một đấng quân tử? Bây giờ tôi xin trả lời: Đó là các sĩ quan của Hạm đội Nữ hoàng Anh. Tất nhiên trong số họ cũng có một ít trường hợp ngoại lệ. Tôi cho rằng biển cả bao la và gió mát mang hơi thở của Chúa đã rửa sạch trái tim họ, xua đi các ý nghĩ xấu xa khỏi tiềm thức và biến họ thành những con người chân chính. Nhưng thôi, ta quay lại câu chuyện bỏ dở. Hóa ra cả lần này tôi cũng đoán đúng. Ông ta quả là một sĩ quan hàng hải thật. Sau khi phục vụ một cách hết sức tận tình trong hạm đội của Nữ hoàng đúng mười bảy năm, đùng một cái, bất chấp cả nguyện vọng của ông ta, ông bị thải hồi và được xếp vào ngạch dự bị với chức vụ thuyền trưởng. Số phận của những người tận tuỵ phục vụ Nữ hoàng là thế đấy (Ở đây là Nữ hoàng Victoria (1819 - 1901).
Đang khi sức khỏe tràn trề, có khả năng, thừa kinh nghiệm và hiểu biết thì họ bị quẳng vào cuộc đời giá lạnh và đầy thù hằn mà không một đồng xu dính túi. Cũng có thể họ sẽ chấp nhận điều đó, nhưng tôi thì dù sao tôi cũng thích kiếm sống bằng nghề săn bắn hơn. Tôi cũng sẽ ít tiền như họ, nhưng số phận sẽ không đến nỗi quá trớ trêu như thế. Tên ông ta tôi dò tìm trong bảng danh sách những người đi tàu là Huđơ, thuyền trưởng Giôn Huđơ. Đó là một người khỏe mạnh, không cao nhưng vạm vỡ, tóc màu đen, có vẻ ngoài khá nổi bật. Ông ta ăn mặc vô cùng cẩn thận, râu cạo nhẵn thín và bao giờ cũng mang chiếc kính một mắt ở mắt phải. Tôi cứ có cảm giác như chiếc kính mọc và dính ngay vào mắt, vì ông ta mang nó mà không cần dây, gọng, và chỉ cởi ra những khi cần lau bụi. Tôi nghĩ một cách thơ ngây rằng cả khi ngủ ông ta cũng mang nó. Nhưng không, tôi nhầm. Sau này tôi biết được rằng khi ngủ, ông ta cất nó vào túi quần cùng với hai bộ răng giả cực đẹp, đến nỗi nhiều khi làm tôi phải vi phạm điều răn thứ mười của Chúa(Điều răn thứ mười khuyên không nên ghen tị với người khác), chả là vì răng của tôi không lấy gì làm tốt cho lắm. Nhưng tôi lại đi quá xa về phía trước mất rồi!
Chẳng bao lâu sau khi nhổ neo, đêm ập đến và thời tiết bỗng trở nên xấu hẳn. Gió thổi mạnh từ đất liền tới, xuất hiện sương dày ẩm ướt, và tất cả các hành khách buộc phải rời boong tàu. Chiếc tàu đáy bằng của chúng tôi chở chưa đủ nặng nên nghiêng khá mạnh, nhiều khi tưởng như sắp lật sấp. Nhưng thật may là điều ấy đã không xảy ra. Không thể đứng trên boong được nữa, tôi xuống đứng bên cạnh buồng máy ấm áp, và vì không có việc gì để làm, tôi nhìn vào chiếc máy nhỏ đo độ nghiêng của tàu. Chiếc kim chậm chạp hết quay lên rồi lại xuống, phụ thuộc vào con sóng lớn hay bé.
- Thế mà cũng máy với móc! chỉ sai bét! Tôi bỗng nghe có ai nói bên cạnh, giọng giận dữ.
Quay lại, tôi thấy đó là người sĩ quan hăng hái mà trước đấy tôi chú ý quan sát.
- Thật ư? Sao ông lại nghĩ thế?
- Nghĩ à? Chẳng có gì phải nghĩ cả! Rồi ông ta nói tiếp khi tàu lấy lại thăng bằng sau một cơn sóng mạnh. Nếu quả thật tàu nghiêng đến cái độ mà cái máy tuyệt diệu này chỉ, thì từ lâu ta đã bị lật úp. Nhưng thử hỏi còn có thể chờ gì hơn ở những gã thuyền trưởng các tàu buôn! Họ là những người cẩu thả đến không thể tin nổi!... Đúng lúc ấy thì có tiếng cồng báo hiệu giờ ăn trưa, làm tôi rất vui mừng, vì phải nghe một sĩ quan của hạm đội Anh mắng chửi các thuyền trưởng tàu buôn thì quả là điều không sao chịu nổi. Xấu hơn điều ấy chỉ có thể là nghe một thuyền trưởng tàu buôn bộc lộ ý kiến thẳng thắn của mình về các sĩ quan của hạm đội Anh!
Tôi và thuyền trưởng Huđơ đi xuống phòng ăn, và ở đấy chúng tôi đã thấy Henry Curơtix đang ngồi sẵn sau bàn. Thuyền trưởng Huđơ ngồi xuống cạnh, còn tôi thì ngồi đối diện. Tôi và thuyền trưởng Huđơ nói về chuyện săn bắn. Ông ta đặt cho tôi nhiều câu hỏi, còn tôi thì cố trả lời một cách đầy đủ nhất. Một lúc sau chuyện chuyển sang đề tài săn voi.
- Thế là các ông gặp may nhé! Một người nào đấy ngồi gần tôi nói. Nếu có người nào đấy biết kể một cách chính xác cho các ông nghe về loại voi, thì đó chỉ có thể là người thợ săn Quotécmên này.
Từ nãy tới giờ lặng lẽ ngồi nghe chúng tôi nói chuyện, vừa nghe mấy tiếng cuối cùng, Henry khẽ rùng mình.
- Xin lỗi - Ông ta nói bằng giọng trầm thấp, đúng như cái giọng của một người có bộ ngực khổng lồ như thế phải có. Thưa ông, có phải ông là Alan Quotecmen không ạ!
Tôi đáp rằng quả đúng như thế.
Henry không còn quay về phía tôi nữa, nhưng tôi vẫn nghe ông khẽ nói thầm: “Chà! May quá!”.
Sau bữa ăn trưa, khi chúng tôi đi ra khỏi phòng ăn. Henry mời tôi vào phòng ông hút thuốc. Tôi nhận lời, và chúng tôi cùng thuyền trưởng Huđơ vào phòng Henry. Đó là một căn phòng tuyệt đẹp, rộng, có cửa nhìn thẳng lên boong, một thời đã từng là hai phòng riêng biệt, nhưng bị người nào đấy trong số các nhân vật quan trọng của ta khi dùng tàu này đi dạo quanh bờ biển, đã tháo bỏ bức tường ngăn che, nhưng sau lại quên lắp vào chỗ cũ. Trong phòng có một chiếc đi văng với một chiếc bàn con trước mặt. Henry nhờ người phục vụ mang tới một chai uýtki, rồi cả ba chúng tôi ngồi xuống bắt đầu hút thuốc.
- Thưa ông Quotécmên, Henry nói với tôi khi người phục vụ mang rượu tới và thắp đèn. Năm kia, cũng vào khoảng thời gian này, hình như ông đang ở một làng nhỏ bé có tên là Bamangoato, phía bắc Transvaan phải khôn
- Vâng, tôi ở đấy. Tôi đáp, hơi ngạc nhiên vì sao con người không quen biết này lại biết rõ như thế về cuộc hành trình lang thang của tôi, mà tôi cho là chẳng có gì đáng để ý đến.
- Ông bán hàng ở đấy à? - Huđơ hỏi tôi, vẻ chăm chú.
- Vâng.
Henry ngồi đối diện tôi trong một chiếc ghế đan, tay tì vào bàn. Ông ta nhìn thẳng vào mặt tôi bằng đôi mắt xám tinh tường của mình, và tôi có cảm giác như cái nhìn của ông để lộ một thoáng lo lắng khó hiểu nào đó.
- Ơ đấy ông không gặp người nào tên là Nevin à?
Sao lại không, tất nhiên là tôi gặp! Ông ta cho đỗ xe cạnh xe tôi và ở đấy hai tuần để đàn bò kéo được nghỉ ngơi trước khi đi sâu vào nội địa. Cách đây mấy tháng, tôi có nhận được thư của một ông luật sư nào đó yêu cầu tôi báo tin về Nevin. Tôi lập tức báo cho ông ta những gì tôi biết.
-Vâng, Henry nói. - Ông ta đã gửi bức thư của ông cho tôi. Trong thư ông nói rằng có một người tên là Nevin đã rời Bamangoato từ đầu tháng năm bằng xe bò kéo với một người đánh xe và một người dẫn đường Caphơ tên là Jim; rằng Nevin có nói là ông ta định và nếu có thể, sẽ đi tới tận, điểm buôn bán cuối cùng của xứ Motabl. Ơ đấy ông ta bán xe và đi bộ tiếp. Ông cũng bảo rằng quả thật ông ta đã bán xe, vì sau đó sáu tháng, ông có thấy ông ta ở nhà một nhà buôn Bồ Đào Nha nào đó. Người này có kể lại với ông rằng ông ta đã mua cỗ xe của một người da trắng mà ông ta không nhớ tên, và có lẽ người da trắng ấy cùng với người hầu bản xứ đã đi sâu vào nội địa để săn bắn.
- Tất cả đều đúng như thế, - Tôi nói.
Tiếp đến mọi người cùng im lặng.
- Thưa ông Quotécmên, bỗng Henry lên tiếng. Tôi nghĩ có thể ông không biết hoặc không đoán biết nguyên nhân nào đã đưa người... đưa ông Nevin đến quyết định làm một chuyến du hành lên phía bắc?
- Tôi có nghe đôi điều về chuyện này. Tôi đáp rồi ngồi im vì không muốn đả động đến đề tài ấy.
Henry và Huđơ đưa mắt nhìn nhau, rồi Huđơ gật đầu một cách đầy hàm ý.
- Thưa ông Quotécmên. - Henry nói. - Tôi muốn kể cho ông nghe một câu chuyện và xin ông khuyên bảo, có thể là giúp đỡ nữa. Luật sư của tôi có đưa bức thư của ông cho tôi, và nói rằng tôi hoàn toàn có thể tin tưởng ở ông. Theo lời ông ta thì mọi người ở Natan đều biết và kính trọng ông. Ngoài ra, ông ta còn nói rằng ông là người biết giữ bí mật.
Tôi cúi xuống uống một ngụm rượu uýtki pha loãng để che giấu sự lúng túng của mình, vì tôi là người khiêm tốn hay cả thẹn. Henry nói tiếp:
- Thưa ông Quotécmên, tôi cần phải cho ông biết sự thật: Nevin là em trai tôi.
- Ồ, tôi giật mình thốt lên.
Bây giờ thì tôi hiểu Henry làm tôi nhớ đến ai khi lần đầu mới gặp. Nevin có khổ người nhỏ hơn, râu đen, nhưng đôi mắt vẫn màu xám và tinh nhanh như thế. Mặt của hai người cũng có nhiều nét giống nhau.
-Nevin là em út và là em duy nhất của tôi, Henry nói tiếp và chúng tôi bắt đầu xa nhau cách đây độ năm năm. Trước đấy, chúng tôi chẳng bao giờ xa nhau, dù chỉ một tháng. Nhưng năm năm về trước, một tai họa đã đổ xuống đầu chúng tôi: tôi và Nevin đã cãi nhau gay gắt (điều ấy đôi khi vẫn xảy ra, ngay cả với những người ruột thịt). Lúc ấy tôi đã xử sự không công bằng lắm.
Đến đây, như để khẳng định rằng quả đúng như thế Huđơ gật đầu lia lịa. Đúng lúc ấy tàu của chúng tôi nghiêng hẳn về một bên, và cái đầu luôn gật gật của ông thuyền trưởng in rõ trong chiếc gương ở ngay trên đầu tôi.
Tôi nghĩ chắc ông biết, Henry nói tiếp, rằng khi một người chết mà không để lại di chúc và không có tài sản nào khác ngoài đất đai, cái mà ở nước Anh gọi là bất động sản, thì tất cả quyền thừa kế được trao cho người con cả. Ngẫu nhiên đúng lúc chúng tôi cãi nhau thì bố chúng tôi chết, và cũng không để lại di chúc. Thành ra em tôi không được hưởng một tí gì, không đồng xu dính túi và cũng chẳng nghề nghiệp. Tất nhiên tôi phải có nghĩa vụ giúp đỡ, nhưng lúc ấy quan hệ giữa chúng tôi căng thẳng đến mức tôi phải xấu hổ mà nói rằng... (Ông thở dài một cách chua xót) rằng tôi đã chẳng làm gì để giúp em tôi. Không phải vì tôi muốn xử tệ, mà muốn em tôi là người đầu tiên chủ động hòa giải, nhưng em tôi đã không làm thế. Xin lỗi vì tôi đã bắt ông phải nghe quá chi tiết như vậy, nhưng đối với ông, mọi cái cần phải được sáng tỏ. Có đúng thế không, ông Huđơ?
- Tất nhiên là thế, ông thuyền trưởng đáp. - Tôi tin là ông Quotécmên sẽ không để ai biết chuyện này.
- Vâng, vâng. Tôi nói, các ông cứ yên tâm.
Cũng cần phải nói thêm rằng tôi rất tự hào là người biết giữ bí mật.
- Vậy là, Henry kể tiếp, lúc ấy em tôi chỉ có mấy trăm đồng bảng (Đơn vị tiền tệ Anh) ở nhà băng. Không nói với tôi một lời nào, em tôi lấy số tiền ít ỏi đó rồi lên đường đi Nam Phi dưới cái tên giả Nevin, với ước mơ điên rồ mau chóng trở thành giàu có. Điều này mãi sau này tôi mới biết. Ba năm trôi qua. Tôi không biết tin gì về em trai, mặc dù có viết thư mấy lần. Tất nhiên em tôi không nhận được chúng. Càng ngày tôi càng lo lắng thêm về số phận của em tôi. Tôi là người hiểu rõ thế nào là tình cảm ruột thịt, thưa ông Quotécmên.
- Vâng, hẳn thế. - Tôi khẽ đáp và chợt nghĩ về Henry, con trai tôi.
- Tôi sẵn sàng chịu mất cả nửa gia tài của tôi để được biết rằng em tôi còn sống, khỏe mạnh và tôi có thể gặp lại!
- Nhưng để làm được điều ấy thì hi vọng không thôi chưa đủ, ông Henry ạ. - Thuyền trưởng Huđơ vừa nói tiếng một, vừa nhìn Henry.
Thế đấy, thưa ông Quotécmên, càng ngày tôi càng muốn biết em tôi còn sống hay không, và nếu sống thì làm thế nào đưa được về nhà. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để tìm kiếm, và kết quả là nhận được bức thư của ông. Các tin tức tôi thu thập được đều đáng mừng, vì qua chúng, tôi biết rằng cách đây không lâu Georg, em tôi, còn sống. Nhưng những gì xảy ra tiếp theo thì còn là một điều bí mật. Nói tóm lại, tôi quyết định tự mình đến đây để tìm Georg, và thuyền trưởng Huđơ đã đồng ý cùng đi với tôi.
Ông biết đấy, ông thuyền trưởng lên tiếng. Dù sao thì tôi cũng chẳng còn việc gì khác để làm. Các huân tước cầm đầu bộ tư lệnh hải quân đã đuổi tôi khỏi hạm đội để chết đói với đồng lương chỉ còn một nửa. Còn bây giờ, thưa ông, xin ông hãy nói cho chúng tôi tất cả những gì ông biết về con người mang tên Nevin nọ.
Tôi cho thuốc vào tẩu, thong thả chưa muốn trả lời vội.
- Thế ông đã nghe được những gì về cuộc hành trình tiếp theo của em tôi? Đến lượt mình, Henry hỏi.
- Tôi biết được một điều mà, - Tôi đáp, - cho đến nay tôi chưa hé lộ cho ai biết, rằng em trai ông đã lên đường đi tìm kho báu của vua Xolomon (Vua của dân tộc Ixraen, 1020-980 trước Công nguyên).
- Kho báu của vua Xolomon? - Cả hai người nghe xong cùng thốt lên. - Nhưng nó nằm ở đâu?
- Tôi không biết, - Tôi nói. - Tôi chỉ nghe người ta đồn đại về nó. Thật ra thì đã có lần tôi nhìn thấy đỉnh của những ngọn núi mà phía bên kia là kho báu của vua Xolomon, nhưng giữa tôi và những ngọn núi ấy là cả một sa mạc rộng tới một trăm ba mươi dặm, và như tôi được biết, chưa hề có người da trắng nào, trừ một người duy nhất, vượt qua nổi sa mạc ấy. Hay tốt hơn để tôi kể các ông nghe truyền thuyết về kho báu của vua Xolomon mà tôi đã nghe được? Nhưng các ông phải hứa với tôi rằng nếu không được tôi cho phép, các ông sẽ không nói lại với bất kì ai, được không? Tôi có những liù do chính đáng để yêu cầu các ông điều ấy.
Henry gật đầu đồng ý, còn thuyền trưởng Huđơ thì nói:
- Tất nhiên, tất nhiên!
- Vâng, tôi xin bắt đầu, - Tôi nói. - Chắc các ông cũng biết rằng làm nghề săn voi là những người thô lỗ và thực tế. Họ không quan tâm gì hơn ngoài những việc sinh hoạt hàng ngày và các phong tục của thổ dân Caphơ. Kể ra đôi lúc trong số họ cũng có người thích thu thập các truyền thuyết của người bản xứ, để qua đó cố hình dung phần nào lịch sử của đất nước đầy bí hiểm mà mình đang sống. Chính từ một người như thế, lần đầu tiên tôi được nghe về kho báu của vua Xolomon. Điều này xẩy ra cách đây gần ba mươi năm, trong chuyến săn voi đầu tiên của tôi ở xứ Motablâ. Người ấy tên là Ivan. Một năm sau thì anh ta chết. Một con trâu bị thương đã húc anh ta, tội nghiệp. Anh ta được chôn gần thác nước Dămbêdi. Tôi nhớ một lần vào ban đêm, tôi kể cho anh ta nghe về cái mỏ quặng kì lạ mà tôi gặp trong khi săn sơn dương, Cudu ( (2) Các loài khác nhau thuộc họ sơn dương.) và Cany (2) ở khu vực mà giờ được gọi là Lideburg thuộc Tifranxvaan. Tôi nghe nói cách đây không lâu các nhà công nghiệp vàng lại lần nữa khám phá ra khu mỏ này, nhưng tôi đã biết về nó từ nhiều năm trước. ƠŒ đấy, xuyên qua núi đá dựng đứng, người ta làm một con đường rộng dẫn vào mỏ hoặc hầm ngầm. Trong hầm chứa những đống thạch anh có hàm lượng vàng đã chuẩn bị sẵn để nghiền...
“Hừ, - Ivan nói. - Để tớ kể cho cậu nghe một chuyện khác còn kì lạ hơn nhiều”.
Rồi anh ta bắt đầu kể cho tôi nghe rằng thật ra, xa tít trong nội địa, có lần ngẫu nhiên anh ta đã gặp một thành phố hoàn toàn đổ nát. Theo anh ta thì đó là Ophirơ, thành phố được nhắc đến trong Kinh Thánh. Cần phải nói rằng mãi sau này, khi Ivan đã chết không ít người có học hơn nhiều đã khẳng định ý kiến anh ta là đúng. Tôi nhớ tôi đã nghe tất cả những điều ấy một cách say sưa như nghe một câu chuyện kì thú, vì lúc ấy tôi còn trẻ; và câu chuyện về nền văn minh cổ và các kho báu mà những nhà phiêu lưu người Iuđê và Finiki đã tìm thấy ở đó khi đất nước lại một lần nữa rơi vào tình trạng mông muội tàn nhẫn, đã kích thích trí tò mò của tôi. Bỗng nhiên Ivan hỏi tôi:
“Cậu đã bao giờ nghe nói về các dãy núi Xulâyman ở phía tây bắc vùng đất Masuculumbue (Một tỉnh ở Nam Phi) chưa?”.
Tôi đáp rằng tôi chưa nghe gì cả.
“Thế thì thế này nhé, - anh ta nói, - chính ở đấy có các kho báu của vua Xolomon. Các kho báu chứa đầy kim cương”.
“Do đâu mà cậu biết?” - Tôi hỏi.
“Do đâu à? Lại còn do đâu nữa! Xulâyman chẳng phải là gì khác ngoài chữ ”Xolomon“ đọc chệch mà thành. Hơn nữa, chính một mụ thầy lang ở Manica đã nói với tớ điều ấy. Mụ ta nói rằng bộ lạc sống bên kia núi là một nhánh của bộ lạc Dulux (Một bộ lạc da đen sống ở Đông Nam châu Phi trở thành hùng mạnh vào đầu thế kỷ XIX.), nói bằng tiếng Dulux, nhưng người ở đấy đẹp hơn và cao to hơn những người Dulux. Họ có những nhà pháp thuật vĩ đại, học được các phép lạ từ người da trắng khi “thế giới còn đang hỗn độn, tăm tối”; những nhà pháp thuật này biết được bí mật về các kho báu chứa đầy các hòn đá óng ánh”.
Tất nhiên lúc ấy tôi cho câu chuyện này chỉ đáng buồn cười, dù nó làm tôi chú ý, vì các mỏ kim cương còn chưa được khám phá. Còn anh chàng Ivan tội nghiệp thì chẳng bao lâu sau bỏ đi nơi khác và chết như tôi đã nói. Suốt hai mươi năm tiếp theo tôi hoàn toàn không nhớ gì tới câu chuyện của anh ta.
Nhưng sau đấy hai mươi năm. Đó là một quãng thời gian dài, thưa các ông, vì săn voi là một nghề nguy hiểm và ít ai sống qua nổi chừng ấy năm. Vâng, sau đấy hai mươi năm tôi lại được nghe cụ thể hơn về dãy núi Xulâyman và về đất nước bị che khuất phía bên kia. Lúc ấy tôi đang ở một làng nhỏ có tên là Xitandi, nằm ngoài địa phận Manica. Đấy là một chỗ không tốt lắm: Ăn thì chẳng có gì, mà thú để săn bắn cũng không có nốt. Tôi bị sốt nặng và cảm thấy trong người rất khó chịu. Một hôm có một người Bồ Đào Nha tới làng. Đi theo ông ta chỉ có một thằng hầu. Cần phải nói rằng tôi biết khá rõ về bọn người Bồ Đào Nha ở Delegoa(Cảnh và vịnh cùng tên ở Đông Nam bờ biển Châu Phi.) - Trên đời này không có ai xấu xa hơn chúng, những kẻ béo lên nhờ máu và sự đau khổ của nô lệ.
Nhưng con người này lại khác xa những tên tôi thường gặp. Ông ta làm tôi nhớ tới những người Tây Ban Nha lịch sự mà tôi thường gặp trong sách. Đó là một người cao, gầy, có đôi mắt đen và bộ ria mép xoăn bạc trắng. Chúng tôi chuyện trò với nhau một lúc. Ông ta có thể nói được tiếng Anh, tuy sai bét, còn tôi cũng hiểu đôi chút bằng tiếng Bồ Đào Nha. Ông ta nói rằng tên ông ta là Hoxe Xenvext, và rằng ông ta có một khoảng đất ở Vịnh Delegoa. Ngày hôm sau, khi lên đường cùng anh hầu người lai, ông ta đã ngả mũ chào từ biệt tôi bằng một động tác đẹp nhưng ít nhiều cổ lỗ.
Tạm biệt ông, - Ông ta nói. - Nếu có lúc nào đó ta còn gặp nhau thì lúc ấy tôi đã là người giàu nhất thế giới, và tôi sẽ không quên ông”.
Điều ấy làm tôi vui lên đôi chút, dù tôi còn quá yếu để mỉm cười với ông ta. Tôi thấy ông ta đi về hướng tây, về phía sa mạc mênh mông và tôi tự hỏi phải chăng ông ta là một người điên, và định tìm gì ở đấy?
Một tuần sau tôi khỏi bệnh. Một tối nọ tôi ngồi trước chiếc lều bạt nhỏ mà tôi vẫn mang theo bên mình, và gặm nốt chiếc đùi cuối cùng của con gà ốm nhom mà tôi phải đổi bằng một tấm vải, mà tấc vải ấy lẽ ra đáng giá hai mươi con như thế. Tôi ngước nhìn mặt trời đỏ rực đang chìm dần trong sa mạc, và bỗng nhận thấy có một người nào đấy đang bò trên ngọn đồi phía trước, cách tôi khoảng ba trăm mét (Trong nguyên bản tác giả dùng các đơn vị đo lường riêng của Anh, để bạn đọc dễ hình dung, khi dịch, chúng tôi đổi sang các đơn vị đo lường quốc tế quen thuộc, tức là thành mét, kilômét, kilôgam, vân vân...). Cứ theo quần áo mà xét thì đó là một người châu Âu. Lúc đầu người ấy bò bằng bốn tay chân, sau đó đứng dậy, lảo đảo đi được mấy mét. Rồi ông ta lại ngã và bò tiếp. Đoán rằng người này gặp chuyện gì đó chẳng lành, tôi liền cho một trong những người thợ săn của tôi chạy ra giúp đỡ. Một chốc sau người ta đưa ông ta tới. Hoá ra... các ông thử nghĩ xem đó là ai?
- Tất nhiên là Hoxe Xenvext! - Thuyền trưởng Huđơ kêu lên.
Vâng. Hoxe Xinvext! Hay nói chính xác hơn là bộ xương bọc da của ông ta. Do bị sốt, mặt ông ta ngả màu vàng, và ông ta gầy đến nỗi con ngươi của đôi mắt to màu đen như muốn tuột ra khỏi hố mắt. Xương của ông ta nồi hẳn lên sau lớp da vàng như nghệ, còn tóc thì bạc trắng.
Nước, hãy vì Chúa mà cho tôi ít nước!” - Ông ta rên rỉ, đôi môi khô nứt nẻ, lưỡi thì sưng rộp và đen sì.
Tôi cho ông ta uống nước có pha lẫn ít sữa, và ông ta uống một hơi hết ít nhất là hai lít. Tôi không dám cho uống thêm. Sau đó ông ta lên cơn sốt, ngã xuống và bắt đầu nói mê về dãy núi Xulâyman, về kim cương và sa mạc. Tôi đưa ông ta vào lều và làm những gì có thể làm được để ông ta đỡ đau đớn. Tôi biết trước thế nào ông ta cũng chết. Gần mười một giờ đêm, ông ta đỡ hơn chút ít. Tôi cũng nằm xuống nghỉ và ngủ thiếp. Rạng sáng hôm sau tôi tỉnh dậy và nhìn thấy thân hình gầy gò, kì lạ của ông ta trong ánh sáng mờ mờ. Ông ra ngồi, nhìn đăm đăm về phía sa mạc. Bỗng nhiên những tia nắng đầu tiên soi sáng cả một vùng bằng phẳng rộng lớn đang trải ra trước mặt chúng tôi, rồi lướt qua các đỉnh xa nhất của dãy núi Xulâyman cách chúng tôi hơn một trăm dặm.
- Kia, nó kia! - Người Bồ Đào Nha sắp chết kêu lên, chìa cánh tay dài, gầy khô của mình về phía trước.
- Nhưng chẳng bao giờ tôi còn có thể đi được tới đấy, chẳng bao giờ. Và cũng chẳng bao giờ có ai làm được điều đó. - Rồi bỗng ông ta im lặng như thể đang suy nghĩ điều gì. - Này anh bạn. - Ông ta quay sang tôi, nói. - Anh ở đây à? Tôi thấy mắt tôi đang lóa lên và tất cả như tối sầm lại".
- Vâng, tôi ở đây. - Tôi nói. - Ông hãy nằm xuống nghỉ cho khỏe".
- Chốc nữa tôi sẽ nghỉ. - Ông ta đáp. - Tôi sẽ có nhiều thời gian để nghỉ, nghỉ suốt đời! Tôi sắp chết! Anh đã đối xử với tôi rất tốt. Tôi sẽ trao cho anh một tài liệu. Có thể anh sang được bên kia cũng nên, nếu anh vượt qua nổi cái sa mạc đã làm hại tôi và thằng hầu tội nghiệp của tôi”.
- Rồi ông ta sờ sờ trong ngực và rút ra một cái túi trông như chiếc túi đựng thuốc lá may bằng da sơn dương. Nó được cột chặt bằng một sợi dây da mà ở đây chúng tôi gọi là rimpi. Ông ta định cởi dây nhưng không được, đành đưa cho tôi. “Anh hãy mở nó ra” - Ông ta nói. Tôi làm theo và rút từ túi ra một mảnh vải rách đã ngả màu vàng, trên đó có vẽ những hình gì đó và những dòng chữ có màu như màu gỉ sắt (FXem bản đồ ở đầu sách.). Bên trong còn có một tờ giấy.
Ông ta nói tiếp rất khẽ, vì sức đã kiệt.
Trên tờ giấy có ghi tất cả những điều có trên tấm vải. Tôi đã phải bỏ ra nhiều năm để tìm hiểu những cái này. Anh hãy lắng nghe tôi. Ông cụ tổ xa xưa của tôi là một người tị nạn chính trị từ Lixbon, một trong những người Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân lên bờ biển nước này. Cụ đã viết tài liệu này trong khi hấp hối ở dãy núi mà cả trước đấy, cả sau này chưa hề in dấu chân người da trắng. Tên của cụ là Hoxe Xinvext, sống cách đây ba trăm năm. Người nô lệ đứng chờ cụ ở bên này núi đã tìm thấy xác cụ và mang các thứ này về Delegoa. Từ ấy đến nay nó vẫn được giữ trong nhà, nhưng không ai cố đọc để hiểu nó, cho đến lúc chính tôi làm điều ấy. Việc này đã bắt tôi trả giá bằng chính cuộc sống của mình, nhưng nó có thể giúp người khác thành công và trở thành người giàu nhất thế giới - Vâng, giàu nhất thế giới! Có điều anh không được đưa tờ giấy này cho ai, mà phải tự mình đi đến đấy!”.
Sau đấy ông ta lại bắt đầu mê sảng và một giờ sau thì tắt thở.
Cầu mong cho linh hồn ông ta được yên nghỉ nơi chín suối! Ông ta chết một cách bình thản, và tôi đào mộ thật sâu để chôn ông ta, trên mộ có lèn những tảng đá to để chồn cáo khỏi moi xác lên. Rồi tôi lên đường rời khỏi nơi đó.
- Thế tờ giấy kia thì sao? - Henry hỏi tôi sau khi đã lắng nghe một cách rất chăm chú.
- Vâng, vâng, tờ giấy viết gì vậy? - Thuyền trưởng Huđơ hỏi thêm.
- Được, nếu các ông muốn, thưa các ông, tôi sẽ nói các ông nghe. Tôi chưa hề đưa nó cho ai xem, còn ông lão lái buôn người Bồ Đào Nha luôn say nhè, người đã dịch nó sang tiếng Anh cho tôi thì chỉ ngay sáng hôm sau đã quên sạch những gì lão dịch. Mẩu vải thật tôi để ở nhà, ở Durban, cùng với bản dịch của Đôn Hoxe, nhưng tôi có đây bản dịch tiếng Anh và bản đồ chép lại, nếu nói chung có thể gọi đó là bản đồ được. Đây, nó đây. Còn bây giờ thì hãy nghe tôi đọc: tôi, Hôxêđa Xinvertơra, lúc này đang hấp hối vì đói trong một hang động nhỏ, nơi tuyết không bay vào được, ở bờ dốc phía bắc đỉnh núi gần nhất về phía nam, một trong hai ngọn núi mà tôi gọi là Cặp vú của Nữ hoàng Xava. Tôi viết những dòng này bằng máu của chính mình vào năm 1590, bằng một mẩu xương nhỏ trên mảnh vải xé từ chiếc áo tôi đang mặc. Nếu người nô lệ của tôi tìm thấy tấm vải này khi đến đây, và mang nó về Delegoa, tôi nhờ bạn tôi là (tên bị nhòe không rõ) báo cho nhà vua biết về điều tôi đang viết để Ngài phái quân đội đến đây. Nếu quân đội của Ngài vượt qua nổi sa mạc, núi, và đánh thắng những người Cucuan dũng cảm cùng các phép phù thủy ghê gớm của họ (để làm được điều này cần mang theo thật nhiều linh mục), thì Ngài sẽ trở thành ông vua giàu nhất từ thời vua Xolomon tới nay. Tôi đã tự mắt nhìn thấy một khối lượng khổng lồ các viên kim cương trong kho báu Xolomon, ở sau Thần chết Trắng, nhưng vì sự phản bội của Gagula, một mụ chuyên làm nghề săn bắt phù thủy, tôi đã chẳng mang được cái gì khỏi đó, và may lắm mới thoát chết. Ai muốn đi tới kho báu Xolomon, xin cứ theo con đường tôi vẽ trên bản đồ rồi trèo lên theo các sườn núi phủ tuyết phía bên trái vú Nữ hoàng Xava cho đến tận đỉnh mới thôi. ƠŒ sườn núi phía bắc sẽ bắt đầu con đường vĩ đại do vua Xolomon xây dựng. Theo đường này, đi ba ngày sẽ tới nơi vua Cucuan ở. Phải tìm cách giết chết Gagula. Hãy cầu nguyện cho linh hồn tôi được yên nghỉ. Vĩnh biệt, Hoxe Xinvext".
Khi tôi đọc xong và chìa ra bản sao tấm bản đồ được vẽ bằng cánh tay run rẩy của ông già người Bồ Đào Nha, máu thay mực, thì mọi người im lặng một hồi lâu. Hai người bạn mới của tôi rất đỗi ngạc nhiên.
-Vâng, cuối cùng thuyền trưởng Huđơ lên tiếng. - Tôi đã hai lần đi vòng quanh thế giới, đặt chân tới khá nhiều nơi, nhưng cứ để người ta treo cổ tôi lên, nếu có lúc nào đó tôi đã được nghe hay được đọc một câu chuyện kì lạ thế này.
- Đúng, một chuyện rất kì lạ, thưa ông Quotécmên. - Henry nói thêm. - Tôi hi vọng rằng ông không đùa chúng tôi chứ? Tôi biết rằng người ta đôi lúc vẫn tự cho phép mình làm những điều như thế đối với những người lạ.
- Nếu ông thực tình nghĩ như thế thì, thưa ông Henry Curơtix, có lẽ ta kết thúc mọi chuyện ở đây thì hơn, - Tôi nói giọng bực bội rồi gấp tờ giấy cho vào túi, nhỏm dậy định bước đi. - Tôi không thích người ta xem tôi là một trong những anh chàng khoác lác luôn lấy việc dối làm tiêu khiển và luôn khoe khoang với những người mới từ xa đến về những chuyện săn bắn phiêu lưu, kì lạ mà trong thực tế không hề có.
Bằng một động tác an ủi, Henry để bàn tay to khỏe của mình lên vai tôi.
- Ngồi xuống đã, ông Quotécmên. - Ông ta nói. - Và hãy thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng biết rằng ông không định lừa dối chúng tôi, nhưng chắc ông cũng đồng ý với tôi, rằng câu chuyện ông vừa kể lạ lùng đến mức nếu tôi có chút hoài nghi thì cũng là điều dễ hiểu.
-Các ông sẽ được thấy bản đồ thật và mảnh giấy khi chúng ta tới Durban, - tôi nói, sau khi đã lắng dịu. Rồi ngẫm lại, tôi thấy Henry đã nói đúng. - Nhưng tôi còn chưa nói gì về em trai ông. Tôi biết người đầy tớ của ông ta, tên là Jim. Jim cùng đi theo chủ. Đó là một anh chàng người bản xứ rất thông minh, quê ở Beauana, và là một người thợ săn giỏi. Tôi gặp Jim vaò buổi sáng khi ông Nevin chuẩn bị lên đường. Anh ta đứng bên xe, thái thuốc để hút tẩu.
"Jim, - Tôi hỏi, các anh định đi đâu đấy? Săn voi à?”.
“Không, thưa ông chủ, - Anh ta đáp. - Chúng tôi đi tìm cái gì đấy còn quý hơn ngà voi nhiều”.
“Cái gì? - Tôi hỏi vì tò mò. - Vàng à?”.
“Không, thưa ông chủ, - Còn quý hơn cả vàng”. Rồi anh ta cười.
Tôi chẳng hỏi câu nào thêm vì không muốn tỏ ra tò mò, và bằng cách ấy hạ thấp giá trị của mình. Tuy nhiên, những lời anh ta nói đã làm tôi rất quan tâm.
Bỗng Jim ngừng thái thuốc.
“Thưa ông chủ”. - Anh ta nói.
Tôi làm ra vẻ không nghe thấy.
“Thưa ông chủ”, - Anh ta nhắc lại.
“Vâng, có gì thế, anh bạn?” - Tôi lên tiếng.
“Thưa ông chủ, chúng tôi đi tìm kim cương”.
“Tìm kim cương? Thế thì các anh không được đi về phía ấy, mà phải về phía mỏ”.
“Thưa ông chủ, ông đã khi nào nghe nói về núi Xulâyman chưa ạ?”.
“Có gì!”.
“Thế ông có nghe rằng ở đấy có kim cương không?”.
“Tôi có nghe người ta kể một vài câu chuyện ngu ngốc về điều ấy, cậu Jim ạ”.
“Không phải chuyện ngu ngốc đâu, thưa ông chủ. Ngày xưa tôi có biết một người đàn bà từ phía ấy đi về đây, về Natan, cùng một đứa con nhỏ. Chính bà ta đã kể cho tôi nghe. Bây giờ bà ta đã chết rồi”.
“Ông chủ của cậu sẽ làm mồi cho chim ưng, Jim ạ, nếu ông ta không từ bỏ ý định đi đến đất nước Xulâyman. Cả cậu cũng thế, nếu lũ chim ấy tìm thấy cái gì đó ăn được trong bộ xương vô tích sự của cậu”, - Tôi nói.
Anh ta chỉ cười.
“Có thể như thế, thưa ông chủ. Nhưng con người trước sau rồi cũng chết, mà tôi thì muốn thử tìm hạnh phúc nơi đất mới. Vả lại, ở đây chẳng bao lâu nữa sẽ chẳng còn con voi nào để săn”.
“Thế cơ à? - Tôi nói. - Được, cứ chờ đấy, rồi ông già mặt trắng (Ý nói thần chết) sẽ tìm lấy cái cổ màu vàng của cậu lúc ấy cậu sẽ nói khác cho mà xem”.
Nửa giờ sau tôi đã thấy cỗ xe của ông Nevin chuyển bánh. Bỗng Jim quay lại chạy về phía tôi.
"Thưa ông chủ, - anh ta nói, - Tôi không muốn ra đi mà không từ biệt ông chủ, vì có lẽ ông chủ nói đúng. Chúng tôi sẽ chẳng còn bao giờ quay lại”.
“Nghĩa là ông chủ của cậu định đi tới núi Xulâyman thật à, hay cậu nói dối, Jim?”.
"Không, - Jim đáp. - Quả đúng thế ạ. Ông ấy nói rằng bằng bất kì giá nào, ông ta cũng sẽ trở thành giàu có. Nếu vậy thì tại sao ông ta không thử làm giàu bằng kim cương?”.
"Chờ tôi một lát, Jim, - Tôi nói. - Cậu hãy cầm mẩu giấy tôi chuyển cho chủ cậu, có điều cậu phải hứa là sẽ không đưa cho chủ cậu chừng nào chưa tới Ainaiti”.
“Được,” - Jim đáp.
Tôi lấy một mẩu giấy và ghi lên đó: “Người nào định đi tới kho báu của vua Xolomon, hãy trèo lên theo các sườn núi phủ tuyết phía bên trái vú nữ hoàng Xava cho đến tận đỉnh mới thôi. ƠŒ sườn núi phía bắc sẽ bắt đầu Con đường vĩ đại do vua Xolomon xây dựng”.
"Jim, - Tôi dặn, - Khi đưa mảnh giấy này cho chủ cậu, hãy nói với ông ta là phải theo đúng lời khuyên này. Đừng quên là cậu không được đưa nó bây giờ, vì tôi không thích ông ta quay lại hỏi những câu hỏi mà tôi không muốn trả lời. Còn bây giờ thì đi đi, đồ lười, xe đã đi khá xa rồi đấy".
Jim cầm mảnh giấy rồi chạy đuổi theo xe. Đó là tất cả những gì tôi biết về em trai của ông, thưa ông Henry. Nhưng tôi e rằng...
- Thưa ông Quotécmên, - Henry ngắt lời tôi. - Hiện nay tôi đang đi tìm em tôi. Tôi sẽ đi theo tới tận núi Xulâyman và nếu cần, có thể xa hơn thế. Tôi sẽ đi chừng nào tìm thấy mới thôi, hoặc tới khi biết được rằng em tôi đã chết. Ông có đi cùng tôi không?
Như đã nói, tôi nghĩ tôi là một người thận trọng, lại ưa thật yên tĩnh và khiêm tốn, nên đề nghị này đã làm tôi ngạc nhiên và ít nhiều sợ hãi. Tôi cho rằng thực hiện một chuyến du hành như thế thực chất là tự mình đi tìm cái chết. Thêm vào đó, không nói đến các mặt khác, tôi còn phải giúp đỡ con trai tôi, và vì vậy tôi không thể cho phép mình chết nhanh như thế.
- Không, cảm ơn, thưa ông Henry. Tôi không thể nhận lời được, - Tôi đáp. - Tôi đã quá già để tham gia vào những việc điên rồ như vậy, những việc mà chắc chắn sẽ mang đến một sự kết thúc không hơn gì cái kết thúc của anh bạn Xinvextơ đáng thương của tôi. Tôi có một đứa con trai đang cần sự giúp đỡ của tôi, và tôi không có quyền đánh liều cuộc sống của tôi.
Henry và thuyền trưởng Huđơ tỏ vẻ rất thất vọng.
- Thưa ông Quotécmên, - Henry nói. - Tôi là một người giàu có và kiên định trong các ý kiến của mình. Nếu ông đồng ý giúp đỡ tôi, ông có thể yêu cầu bất kì một sự đền bù nào. Số tiền đó sẽ được thanh toán trước khi lên đường. Đồng thời, nếu không may chúng ta chết, tôi sẽ lo trước để con trai ông được giúp đỡ một cách thỏa đáng. Tôi nói thế ông cũng đủ hiểu sự có mặt của ông cần thiết với tôi đến nhường nào. Nếu chúng ta may mắn đến được kho báu Xolomon và tìm thấy kim cương, thì số kim cương ấy sẽ chia đôi giữa ông và thuyền trưởng Huđơ. Tôi không cần. Tôi nghĩ khó lòng mà đến được đấy vì hầu như ta hoàn toàn không có tí hi vọng nào để làm được điều đó, nhưng tôi tin rằng dọc đường chúng ta có thể kiếm được ngà voi, và các ông cứ chia đều với nhau. Ông có thể đặt điều kiện cho tôi, ông Quotécmên ạ. Thêm vào đó, tất nhiên tôi sẽ chịu hết mọi phí tổn của chuyến du hành.
- Thưa ông Henry,- Tôi nói.- Chưa bao giờ tôi nhận được một đề nghị hào phóng như thế, và một thợ săn, một nhà buôn nghèo như tôi cần phải biết nắm lấy cơ hội này. Nhưng từ trước tới nay tôi chưa gặp phải một công việc lớn thế này, nên tôi cần có thời gian để suy nghĩ kĩ õ. Ít ra thì tôi cũng sẽ cho ông biết quyết định của tôi trước khi chúng ta tới Durban.
- Rất tốt, - Henry nói.
Sau đó tôi chúc hai người ngủ ngon rồi đi về phòng mình. Đêm hôm ấy tôi nằm mơ thấy kim cương và Xinvenxtơ, người đã chết từ lâu.