Số lần đọc/download: 2815 / 91
Cập nhật: 2016-06-27 14:36:43 +0700
1
G
iữa cánh đồng phía nam Hà Nội nhô lên một lùm cây um tùm, rậm rạp. Ẩn trong đó là một ngôi đền nổi tiếng linh thiêng. Ngày rằm, mùng một, những người sùng bái tín ngưỡng lui tới tấp nập cúng lễ.
Ngôi đền nằm bên dòng sông Tô Lịch, con sông có hàng nghìn năm lịch sử, mang nhiều truyền thuyết thần kì. Chung quanh ngôi đền trải ra bạt ngàn một màu xanh tươi mát. Những rặng mía Lừ xanh thơm mùi mật, những luống bắp cải cuộn chặt màu xanh dịu dàng, những củ su hào tròn căng phủ phấn trắng xanh, những chiếc hoa lơ trắng sáp giữa vồng lá biếc xanh khoẻ khoắn. Từ khi tiếng súng vang động nội thành Hà Nội và ngày càng bùng lan dữ dội, đền Lừ tắt nguội đèn hương. Màu xanh chết dần trên cánh đồng hoang dại. Tin đồn về những bóng ma xuất hiện ở đền Lừ truyền đến các làng quanh vùng gây nên bao điều kinh hãi. Người ta nói, đêm đêm, nhất là những đêm mưa rét, từng tốp bóng ma lớn bé, đàn ông, đàn bà lũ lượt kéo về tụ tập quanh đền, lượn lờ nhảy múa hoặc ngồi dựa vào nhau khóc than thảm thiết. Người ta quyết đoán rằng đó là oan hồn của đồng bào chạy tản cư bị bom đạn giặc Pháp giết hại hiện lên báo oán. Người ta kể cho nhau nghe, vào lúc trời đã sáng rõ mặt người, vẫn còn những bóng ma đen trũi bò lên ngọn cây gạo cao tít sau đền, ngồi đung đưa như đánh võng hàng tiếng đồng hồ. Đền Lừ bỗng trở nên rùng rợn, xa lạ.
Đêm nay, ở đền Lừ bỗng lại xuất hiện nhiều bóng đen bí hiểm, trong đền thỉnh thoảng loé lên một tia đèn pin rất mảnh. Ánh đèn sáng khoảnh khắc, rọi nhanh lên tấm bản đồ trải dưới đất. Có những tiếng xì xào nho nhỏ... Từ cửa đền Lừ vụt ra năm bóng đen, nối hàng một, bước bì bõm trên bờ ruộng mấp mô láng bùn trơn tuột. Bầu trời như chiếc vung khổng lồ úp chụp màu đen xuống mặt đất. Mưa rây hạt đều đều, sang xuân rồi mà vẫn dai dẳng cái rét của mùa đông. Từng đợt gió lạnh ào về, xoáy vào những cột điện xiêu vẹo giữa đồng, phát tiếng rít vi vu đơn điệu, huyền bí. Phía Hà Nội hắt lên một quầng sáng điện đỏ bầm. Ở đó, chốc chốc lại rộn lên từng loạt súng máy ùng ục, xen lẫn tiếng nổ uỳnh oàng như trống cầm canh vang vọng.
Bóng đen đi đầu thỉnh thoảng dừng lại định hướng, mấy người sau lỡ bước xô giúi vào nhau. Đường bờ ruộng quanh co gấp khúc, bùn trơn nhầy nhụa, nhưng không ai lội tắt xuống ruộng trồng màu để chọn lối đi dễ dàng. Đôi lúc, một người trượt chân ngã lộn xuống một luống rau đã đâm vồng già cỗi, vội vùng ngay dậy, lấy tay nâng nhẹ những cây rau bị đổ để xoá dấu vết.
Đến một cái gò nổi chi chít mồ mả, bỗng người đi đầu dừng lại, cúi lom khom nhìn về phía trước, cả năm bóng đen cùng ngồi thụp xuống. Có tiếng khịt khịt mũi, tiếp theo là một giọng nói thì thào:
- Hình như có mùi thuốc lá thơm?
Im lặng giây lát...
- Thăm dò xem!
Một bóng đen đứng vụt dậy, dang tay vung mạnh về phía trước. Hòn đất rơi bịch xuống ruộng. Im lặng.
- Ngửi nhầm đấy, đi đi thôi! Chú ý đề phòng cả trạm cảnh giới của ta nữa đấy.
Năm bóng đen lại băng mình len lỏi giữa đám mồ mả, rồi mất hút như hoà tan trong đêm tối.
Dẫn đầu đội hình là một chú bé tóc húi cao dựng đứng. Chú có cái nốt ruồi đen bên mép, miệng lúc nào cũng như sắp cười. Đang đi dẻo chân, chú bị người đi sau kéo áo, hỏi nhỏ:
- Chức này, có phải lửa kia không?
Theo tay bạn chỉ, Chức thấy một đốm lửa xanh chập chờn phía trước. Ra vẻ dày dạn và từng trải, Chức nói:
- Ma trơi đấy! Lửa không nhảy múa thế đâu. Cứ đến gần là nó biến mất. Kệ nó!
Chức biết rõ cậu Tâm này còn tin có ma và rất sợ bóng tối, nên trả lời trêu bạn. Quả nhiên Tâm bước chậm lại, đi nép vào chú bé thứ ba, nói thầm:
- Thân ơi, ma mày ạ! Tao... đái ra quần rồi.
Thân đẩy tay vào lưng bạn:
- Đi đi! Mót thì nhịn chứ lị, chưa chi đã “quấn ra đài”.
Nghe Thân nói, Tâm thấy ngượng, hai mang tai nóng ran, cái ngứa lan tới đỉnh đầu...
Trong quá trình chuẩn bị cho chuyến đi đêm nay, Tâm cùng đồng đội đã cãi lí cả buổi về việc nên đi ngày hay đi đêm.
- Đi đêm là lén lút vụng trộm, nhỡ địch tóm được thì bảo thế nào cho nó tin? Cứ đàng hoàng xuyên quốc lộ số Một mà về, làm như những đứa trẻ lang thang lạc mất bố mẹ lại hoá hay.
Lí lẽ ấy của Tâm tưởng như đứng vững, nếu không có Chức nhảy vào cuộc tranh luận. Chức nói bốp chát:
- Tớ nói thật, dù là vì nhiệm vụ đi nữa cũng đừng vỗ ngực ta đây “dinh tê” về tề. Thế nhục lắm, giấu mặt vẫn hơn. Mấy lại cánh mình không phải chỉ tránh con mắt của địch. Tớ xin hỏi, đi ban ngày mà bị công an cảnh giới của ta bắt giữ thì cậu khai ra sao nào?
Thân nhìn vào Tâm, thêm vào một câu:
- Đằng ấy quên à, mang một chiếc bút chì xanh đỏ, một mảnh gương con mà còn bị du kích nghi là ám hiệu với giặc. Thế mà đằng ấy đòi công khai “dinh tê” ban ngày thì to gan thật.
Tâm nín thinh và phút chốc xoay ngược hẳn lại quan điểm của mình, cậu ta tuyên bố:
- Không phải tớ sợ ma gì hết. Tớ sẽ xông pha đêm tối cho các đằng ấy biết tay.
Bây giờ là lúc thử nghiệm lời tuyên bố ấy, mà lại bị bạn đánh giá sợ ma đến đái ra quần thì chẳng còn thể thống gì nữa. Giá như lúc khác, Tâm gân cổ ngay: “Tớ mà sợ ma à, đừng khinh!”, nhưng bây giờ Tâm lặng im, bỏ mũ nồi gãi đầu sồn sột.
Bất chợt, từ phía trái hướng đi, vun vút lao lên ba quả pháo sáng. Hoàng Quyên đi sau cùng vượt lên vài bước nói như ra lệnh:
- Tản nhanh, ngồi xuống!
Ánh sáng loang loáng huyền ảo soi rõ mớ tóc bù xù hơi quăn và nét mặt bình thản của Quyên.
Tâm ngồi cạnh khẽ làu bàu:
- Đốt sáng cho đỡ sợ du kích chứ gì. Quân nhát như cáy.
Nói rồi Tâm lại gãi đầu.
Biết bạn vẫn giận vì câu nói đùa vừa rồi của mình, Thân nhích gần Tâm, làm lành:
- Mai vào trong ấy, tớ lại kiếm nhựa chuối xanh xát cho đằng ấy vài bận nữa là khỏi.
Tâm bị hắc lào bạch biến ăn trụi từng mảng tóc tròn xoe, suốt ngày cu cậu cứ sùm sụp chiếc mũ nồi trên đầu. Chẳng là hồi làm trinh sát mặt trận khu Mê Linh, Tâm thường ngâm mình dưới ao, đội bèo tây lên đầu để quan sát tình hình địch. Lúc về cậu ta chẳng chịu tắm gội sạch sẽ, nên ngứa ngáy sinh bệnh. Thương bạn, hằng ngày Thân vẫn lấy nhựa chuối tiêu xanh bôi chữa cho Tâm. Đôi bạn rất thân nhau, có miếng gì cũng chia đôi cùng ăn. Tâm mười hai, kém Thân một tuổi nhưng bé loắt choắt và thấp hơn bạn một cái đầu. Tâm phải bán báo kiếm ăn từ năm chín, mười tuổi, sau Cách mạng mới được cắp sách đến lớp bình dân. Thân là con một viên chức thất nghiệp nên chỉ được học đến lớp ba thì phải bỏ dở vì thiếu tiền đóng học phí. Thân trắng trẻo, hai má phúng phính như đắp bột.
Mấy quả đèn dù hạ thấp dần, từ sáng chói chuyển sang vàng ệch, đỏ lừ rồi tắt ngấm. Bóng tối choàng xuống rất nhanh.
- Đi thôi, Chức! - Tiếng Hoàng Quyên giục.
- Tớ cóc nhìn thấy gì cả. Tối om om như hũ nút ấy. - Chức nói và lấy tay vỗ vào mắt.
Quyên bước lên định dẫn đầu thì bỗng thụt hẫng một cái. Quyên cố rút chân này, chân kia lại lún xuống, người cứ thấp dần, thấp dần. Quyên khẽ kêu:
- Bỏ mẹ rồi, sa lầy các cậu ơi!
Chú bé đi thứ tư tên là Thụ, chạy lên nói:
- Đáng lẽ phải chờ một lát cho quen mắt hãy đi, đằng ấy chỉ được cái xông xáo.
Giọng Quyên từ bãi lầy vọng lên đĩnh đạc:
- Tớ sẽ rút kinh nghiệm sau, còn bây giờ các cậu phải kéo tớ lên đã chứ!
Chẳng cái gì có thể làm cho Quyên mất bình tĩnh. Mười sáu tuổi mà đạo mạo, chững chạc như người lớn.
Bốn chú bé níu lấy nhau làm thành một sợi dây vững chắc kéo bạn lên. Hì hục mãi, Quyên mới thoát nạn, khắp người bê bết những bùn đặc quánh, tanh lợm.
Mưa nặng hạt dần, nước ào ào trút xuống. Trời đất hoà chung một màu hắc ín. Quầng sáng điện biến mất. Năm người chụm lại giữa đêm mưa nhưng không ai cảm thấy rét.
Chức lên tiếng nói đùa:
- Cứ như trong chum thế này, khéo vào nhầm đồn “quan lớn” thì om xương.
Thụ át giọng liền:
- Cái thằng lém, lúc nào cũng tếu được!
Chung quanh tối như bưng, Hoàng Quyên lo lắng. Mất phương hướng lúc này thì gay thật. Cả tổ đã lọt vào giữa vùng tranh chấp ngoại thành; không thận trọng, rất dễ đụng phải đồn bốt giặc. Với trách nhiệm tổ trưởng, Quyên không thể để đồng đội đứng mãi ở đây. Trời sắp sáng, nhiệm vụ mở đường sẽ không hoàn thành.
Tiếng Quyên hỏi rắn rỏi:
- Các cậu nghĩ xem có cách nào tìm ra phương hướng không?
Tất cả im lặng. Mưa đổ nước xối xả. Gió thổi nhẹ. Làm sao tìm được phương hướng? Thân bột dè dặt nói:
- Có vườn cây to thì tuyệt. Cây to, các cậu biết chứ, sờ gốc khắc biết hướng đông, hướng tây. Thầy giáo tớ bảo thế!
- Thế thầy giáo cậu có dạy cách tìm chỗ có cây to để đến sờ gốc không? - Tâm bạch biến chèn ngang một câu làm Thân cụt hứng.
Nghe tiếng thằng em ruột của mình, Thụ lên giọng anh, mắng:
- Tâm, mày là chúa vặn vẹo. Thằng ranh!
Thụ và Tâm là con một gia đình lao động nghèo ở bãi Phúc Xá. Cũng như em, Thụ lăn lộn kiếm sống từ nhỏ. Nước da chú sạm đen màu khắc khổ. Mười bốn tuổi mà Thụ chưa hề một lần cắp sách đến trường. Sau Cách mạng, nhờ phong trào xoá nạn mù chữ, Thụ mới biết đọc biết viết.
Thấy đồng đội cùng bí, Hoàng Quyên nêu ý kiến:
- Khu vực này đều rất quen thuộc với chúng mình, chỉ phải cái trời tối quá. Tớ đề nghị, Chức ngồi lại đây giả làm tiếng ếch kêu giữ hướng tập hợp, còn tất cả toả đi thăm dò địa hình. Nhớ đừng lao vào chỗ nó vừa bắn pháo sáng. Khoảng nửa giờ sau, ta cùng quay về đây. Các cậu có đồng ý không?
Toàn tổ nhất trí. Quyên tiếp:
- Nghe cho kĩ kẻo nhầm nhé. Chức đâu, thử đi!
- Ộp, uôm... ếch ộp! Ộp uôm... ếch ộp! - Chức khum tay lên miệng làm luôn một tràng y như thật.
Lúc này mọi người mới thấy tài vặt của Chức lém quả là lợi hại. Mà Chức tài thật. Cậu ta cất tiếng gáy, gà gáy theo dồn dập; cậu ta sủa, chó đua nhau “gâu gâu” inh ỏi.
Quyên hỏi:
- Rõ cả chưa?
Mọi người cùng đáp:
- Rõ!
Bốn bóng đen tản về bốn ngả, biến mất. Chức ngồi co ro giữa đồng không vắng lặng, khum bàn tay che vành tai nghe động tĩnh. Nhớ lại cuộc họp toàn đội Bát Sắt tuần trước, trong lòng Chức rộn ràng, phấn chấn...
Hơn hai chục đội viên Bát Sắt cùng đội trưởng Xuân Phương (1) đã ngồi tề chỉnh dưới mái đình làng Huỳnh Cung (Thanh Trì, Hà Nội), nhưng cuộc họp vẫn chưa bắt đầu. Vài đội viên được cử canh gác không cho người lạ vào đình. Điều đó làm ai nấy thầm đoán sẽ có một sự kiện quan trọng trong cuộc họp này. Bỗng cả đội dồn mắt nhìn một cán bộ mặc quần áo nâu, đeo kính trắng, sắc mặt hồng hào, nhanh nhẹn bước vào. Tiếng xì xào nổi lên:
- Anh Cả...
- Anh Cả về chủ trì cuộc họp.
Mọi người lắng nghe như nuốt từng lời anh Cả:
- Các em thân mến, việc quân ta rút khỏi thủ đô là nhằm bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Thành phố Hà Nội từng thấm máu đồng bào và chiến sĩ ta, đang bị kẻ thù giày xéo. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm đường trở lại, nắm nhân dân, dựng cơ sở, chuẩn bị cho ngày về giải phóng mai sau. Trước mắt, phải có một con đường riêng biệt, chọc thẳng vào ngoại ô phía nam, tạo ra một lối đi kín đáo, thuận tiện cho việc dẫn đưa cán bộ đi về hoạt động. Nó là mạch máu của trái tim kháng chiến truyền vào cơ thể thủ đô tạm bị chiếm. Công việc mở đường vinh quang ấy, đoàn thể trao các em đảm nhiệm.
Các chú bé nhấp nhổm thích thú. Chức muốn reo lên vì sung sướng. Anh Cả nói tiếp:
- Đoàn thể cử năm em đi trước tìm đường, các em còn lại hãy chuẩn bị sẵn sàng, hễ có lệnh là lên đường ngay được. Ai đi, rồi các em sẽ rõ. Nhưng tất cả đều phải tuyệt đối giữ bí mật, đó là kỉ luật số một và cũng là lời thề đầu tiên của đội ta.
Chức không sao quên được giờ phút thiêng liêng lúc tuyên thệ. Chức cùng đồng đội trong tổ mở đường giơ cao nắm tay, đọc năm lời thề danh dự của đội viên thiếu niên công an Bát Sắt. Giờ đây Chức như còn thấy âm vang những tiếng “Xin thề! Xin thề!” trang nghiêm.
Có tiếng động cơ ầm ì vọng tới. Chức căng mắt nhìn phía trước không xa, những vệt sáng kéo dài nhoà trong mưa, chập chờn di động. Theo thói quen trinh sát, Chức nhẩm đếm. Vừa đúng mười hai xe giặc.
- Cúc cu! Cúc cu!
Nghe ám hiệu, Chức vội khum tay lên miệng:
- Ộp uôm... ếch ộp! Ộp uôm... ếch ộp!
Một bóng người nhào tới, thở hổn hển:
- Tuyệt lắm. Đường đây rồi, lém ơi!
Giọng Quyên như reo vui. Thụ, Tâm, Thân lần lượt quay về. Quyên mừng đến xúc động, nói lắp bắp:
- Đường Mai Động, Thanh Nhàn đấy. Đúng trăm phần trăm! Qua đường đá là nghĩa trang Hợp Thiện, qua nghĩa trang đến làng Lạc Trung bên phải, làng Quỳnh Lôi bên trái. Các cậu chịu chưa nào?
Mọi người nhận ra địa bàn hoạt động của đội quân báo thiếu niên khu Mê Linh - Đề Thám mà mình đã từng tham gia trước đây ít ngày.
- Chuẩn bị vượt đường!
Sau lời Quyên, cả tổ nhanh nhẹn xốc tới. Mặt đường rải đá hiện lên mờ trắng. Các chú ém mình trườn sát lề đường. Quyên vươn người phất tay, từng bóng đen thu tròn người lăn qua đường, tuyệt nhiên không để lại một dấu vết khả nghi.
Nền trời sáng lên đôi chút. Tổ mở đường đã về đến cửa ngõ thủ đô. Ai cũng thấm mệt, bụng đói cồn cào, quần áo ướt sũng dính chặt vào da thịt.
Tâm nắm tay Thân hỏi nhỏ:
- Cậu có đói không? Bụng tớ óp ghê quá.
- Đói lắm. Nhá gạo rang đi.
Tâm nắn túi gạo rang đeo bên sườn rồi bảo bạn:
- Tớ bị ngã như đập mẹt, bùn và nước mưa làm cho nó mủn ra như cháo ấy, nuốt trôi sao được.
- Thế thì nhịn. Lúc này phải như anh Bát Sắt mới được.
Giọng Quyên nghiêm nghị nhắc nhở:
- Từ đây, không nói chuyện!
Chức im bặt, bước đi phăng phăng. Có tiếng Tâm khịt mũi. Một mùi hôi nồng nặc khó chịu làm Chức sững lại. Thụ và Quyên ở đằng sau vượt lên. Trước mắt các chú, một cảnh thương tâm ghê rợn: hàng chục xác người trương to nằm ngổn ngang chắn lối. Tâm nép sát vào Thân. Tiếng Hoàng Quyên âm ấm chắc nịch:
- Đồng bào mình chạy tản cư bị giặc Pháp giết hại đấy. Chúng ta ghi lấy thù này mà dũng cảm lên!
Chức đứng ngây người, môi cắn chặt muốn bật máu. Chợt nghĩ đến cái chết thảm thương của bố do bị Tây đánh ngày nào, Chức vung mạnh tay về phía trước, dằn giọng:
- Đi đi thôi!
Nói rồi Chức lẳng lặng bước qua đám xác chết. Đồng đội lặng lẽ theo sau. Mưa ngừng hạt. Đằng đông báo hiệu trời hửng bằng một dải mây hồng mảnh mai như lụa. Đàn vạc ăn đêm quay về tổ cất tiếng kêu mệt mỏi trên không.
Năm chú dừng lại bên một cái hồ, mặt nước phẳng lì như gương, phủ một màn sương bồng bềnh trắng đục.
Chức đảo mắt quan sát, rồi thình lình véo vai Thân một cái đau điếng:
- Bớ này Thân bột, hồ bơi Quỳnh Lôi! Chiếc cầu ván nhảy vẫn còn kia kìa.
Thụ thúc cùi tay vào sườn Chức, gắt khẽ:
- Quỷ lém, sao mồm đằng ấy cứ ông ổng lên thế!
- Đừng làm ồn. Đứng lố nhố ở đây không lợi đâu. - Quyên nói. - Chức vào làng trước xem xét tình hình, còn chúng ta phân tán trong vườn chuối kia chờ Chức ra.
Chức nhìn đồng đội, mỉm cười:
- Đừng sốt ruột đấy nhé. Hễ có tiếng gà gáy, tức là trong làng không có Tây và tớ thì vẫn còn nguyên xi.
Quyên xua tay:
- Đừng có chủ quan, đùa lắm vào là dễ mất cảnh giác. Cậu có thể gáy ba lần cũng được, chúng tớ chờ cậu.
- Xin tổ trưởng cứ yên tâm.
Nói xong, Chức tạt ngang, vạch rào, xuyên vườn đi tắt vào xóm. Được một lúc, tiếng gà gáy vọng ra gióng giả: “Cúc cù cu cu... Cúc cù cu cu... Cúc cù cu cu...” Hoàng Quyên cười:
- Cái thằng đến lạ, lúc nào cũng vui như tết.
Thân nhìn Tâm, thích thú nói:
- Bình an vô sự...
Lát sau Chức quay ra, ôm theo một bọc to tướng. Chức đứng nghiêm báo cáo:
- Tất cả đều yên tĩnh. Có nhà cửa tử tế. Tôi nhặt nhạnh mấy bộ quần áo để chúng mình cải trang. Mấy lại mặc ướt thế này thì đến phải gió cả lũ.
Chức mở cái bọc, đếm vừa đúng năm bộ quần áo rộng hẹp, ngắn dài đủ cỡ. Một cuộc tranh luận nổ ra. Tâm lắc đầu:
- Chưa chi đã đi “hôi” của đồng bào, sai bét cả. Mang trả đi!
Thân lườm Tâm:
- Rõ cụ non chửa. Nhiệm vụ trên hết, coi như là ta xin của đồng bào vì công tác thì đã sao?
- Thằng Tâm là hay lôi thôi. Có lấy cái gì đắt tiền đâu mà ồn lên, toàn đồ tàng tàng cả. - Thụ vừa nói vừa lừ lừ nhìn Tâm.
Nghe đồng đội tranh cãi, Chức đâm băn khoăn:
- Nếu các đằng ấy không tán thành thì tớ mang trả vậy. Tớ có dám lấy trong hòm, trong tủ đâu. Moi mãi ở dưới đống tường vách đổ đấy chứ. Nhìn xem, cái nào cũng dính những đất là đất.
Quyên từ nãy im lặng lắng nghe, giờ mới lên tiếng dàn xếp:
- Đúng ra thì kỉ luật của đội không cho phép đụng đến tài sản của đồng bào. Nhưng quả thật quần áo lúc này rất cần cho bọn mình. Cần cho sức khoẻ, cần cho công tác. Đừng bàn cãi nữa, ta ra hồ rửa ráy và thay quần áo thôi. - Quyên nói và nhìn xuống quần áo của mình bê bết những bùn.
Chức dẫn đồng đội vào làng.
Đường làng vắng chân người, mặt đường những tảng rêu mốc thếch quăn lên. Nước mưa đọng vũng chân trâu sủi màu vàng đục như một thứ váng mỡ gạch cua lâu ngày. Trên kẽ tường nứt nẻ của một ngôi nhà gạch sụt mái, mọc tròi ra những mầm cây dại xanh non, mềm oặt. Một dãy khung nhà lá cháy dở, cột kèo đen thui xiêu vẹo. Chiếc cổng gỗ nhà ai còn nguyên vẹn hai cánh, đổ kềnh giữa lối đi, mặc cho cỏ hoang, dây leo trùm kín. Từng vết đạn xé toác những thân cây bưởi, cây mít, cây na vô tội. Một cây xoan thẳng tắp bị mảnh đạn phạt ngang, khúc ngọn gãy gục lủng liểng; lớp vỏ còn dính với đoạn gốc không đủ sức truyền nhựa nuôi cây, làm cho cành lá chuyển màu héo khô tuyệt vọng.
Không một mái rạ còn lại nào vương khói bếp. Bên cạnh một bể nước cạn, chiếc gáo dừa treo trên cọc tre mọc đã nứt đôi, cọc tre sần sùi những nốt mốc vàng hoe lấm tấm. Khắp nơi không có dấu hiệu của hơi ấm sự sống. Không khí lạnh lẽo phủ xuống làng Quỳnh Lôi vốn đông vui, trù phú trước kia. Năm người bước vào ngôi nhà hoang khuất sau rặng rào râm bụt lởm chởm. Tất cả im lặng ngồi xuống nền nhà ẩm ướt, duỗi chân xoa nắn như vừa cất được một gánh nặng đường dài.
Quyên bảo đồng đội:
- Các cậu cần ngủ ngay cho lại sức. Tớ và Thụ gác. Cậu nào đói, ăn tạm lương khô. Trưa lên phố, có gì ta
kiếm sau.
Tâm, Thân và Chức chọn góc nhà khô ráo ngả lưng. Vừa đặt mình, Tâm đã ngáy như kéo gỗ. Thân ôm lấy
Chức rủ rỉ nói chuyện:
- Chức này, lúc qua chỗ xác chết cậu có sợ không?
- Không.
- Cậu bạo thật.
- Có quái gì mà bạo. Cứ coi như đấy là những người thân của mình thì chẳng còn sợ gì nữa.
Im lặng một lúc, Thân lại đột ngột hỏi:
- À Chức này, cậu có biết “đoàn thể” là gì không?
Điều này Chức không rõ, nhưng chú vẫn thủng thẳng đáp:
- Đoàn thể ấy à, là những người lớn, tài giỏi, đang chỉ huy cả nước đánh Tây, như Bác Hồ chẳng hạn. Đoàn thể Trung ương ở tít tận chiến khu, những rừng là rừng. Bí mật ghê lắm.
Thân bột tặc lưỡi, rồi lại hỏi:
- Thế trẻ con gan dạ, không sợ Tây như bọn mình thì có được là đoàn thể không?
- Xuỳ... Trẻ con mà đòi! Tớ đã bảo chỉ người lớn thôi. Hiểu chưa?
- Anh Kim Đồng, anh Bát Sắt thì sao?
Chức bắt đầu bí, cứ liều đáp:
- Lớn tí nữa mới ăn thua.
- Cậu bảo Bác Hồ có phải tổng chỉ huy đoàn thể không?
- Chả Bác thì ai. Bác giỏi số một nước ta cơ mà. Thôi nhé, đằng ấy làm như hỏi cung tớ không bằng. Cứ noi gương anh Kim Đồng, anh Bát Sắt thì thế nào cũng được vào đoàn thể. Bây giờ ngủ đi, mắt tớ díp lại rồi, tớ chả nói nữa đâu.
Thân bột nằm im, gác chân quặp lấy Chức. Chú nhớ lại rành rọt câu chuyện về anh Bát Sắt do anh Xuân Phương kể trước toàn đội...
Cuối năm bốn nhăm, trên chuyến tàu chở bộ đội vào Nam giết giặc, có một chú bé trốn ở toa than. Bác công nhân đốt lò bắt được chú, dẫn đến toa chỉ huy. Người chỉ huy đoàn tàu tóc đã điểm bạc ái ngại nhìn chú bé trạc mười hai tuổi, mặt mũi áo quần nhọ nhem những than, bên hông đeo chiếc bát sắt cũ, đứng khóc thút thít. Ông rót cho chú bé ca nước từ bi-đông của mình. Chú uống ừng ực, một hơi cạn hết rồi lại khóc. Ông lại moi túi dết lấy nắm cơm, bẻ đôi, đưa chú bé một nửa. Mắt chú bé sáng lên, chú cầm cơm nhai ngốn ngấu ngon lành. Chú đã nhịn đói, nhịn khát một ngày đêm trên toa than.
- Cháu trốn lên tàu của bộ đội để làm gì? - Người chỉ huy hỏi.
Chú bé sa sầm mặt, quệt nước mắt, giọng quả quyết:
- Cháu không phải Việt gian đâu.
- Biết rồi... Nhưng sao lại lẻn lên tàu quân sự?
- Cháu không lẻn. Cháu chỉ trốn người kiểm soát tàu thôi - chú bé vừa nói vừa khóc sụt sịt. - Bố mẹ cháu chết cả rồi. Đi móc cơm lính Nhật ăn thừa chôn ở bờ sông bị nó bắt được đánh chết. Cháu chẳng còn ai, chị cháu cũng chết đói. Quê cháu ở mãi dưới Thái Bình cơ.
Trong óc người chỉ huy đoàn tàu quân sự bỗng hiện lên cảnh chết đói thảm khốc hồi tháng ba. Khắp Hà Nội la liệt những xác người khô quắt, chôn không xuể. Ông xúc động kéo chú bé vào lòng, ân cần hỏi:
- Thế bây giờ cháu muốn gì?
- Cháu xin đi theo bộ đội. Cháu biết thổi cơm, làm liên lạc, mang vác nặng cũng được.
Sau ít phút hội ý, ban chỉ huy quân đoàn quyết định thu nhận chú bé vào đoàn quân Vệ quốc Nam tiến. Trong một trận chiến đấu ở Huế, đơn vị chú bé bị địch bao vây tại khu Gia Hội. Chú được trao nhiệm vụ vượt vòng vây, mang báo cáo lên cấp trên. Hoàn thành nhiệm vụ, quay về, chú lạc đơn vị. Bốn bề đều có địch. Chú đang băng qua mấy bức tường đổ, bất thần chạm trán một toán địch. Chúng hò la đuổi bắt. Chú liên lạc chạy tạt ngang, núp dưới chân tường, tay nắm chặt quả lựu đạn đã mở chốt. Lũ giặc ùa tới, chú vung tay: “Ầm!” Bọn giặc rống lên thất thanh, đè lên nhau giãy giụa trong máu. Chú liên lạc lao vút qua đám xác giặc. Một loạt tiểu liên bay tới; chú khựng lại lảo đảo. Tốp giặc chạy sau ào lên. Chú quay người dồn hết sức còn lại, tung nốt quả lựu đạn vào giữa bọn chúng, rồi từ từ khuỵu xuống. Chú liên lạc hi sinh, bên hông vẫn đeo chiếc bát sắt cũ quen thuộc - vật kỉ niệm chú đem theo từ thủ đô Hà Nội. Chú tên là gì, chưa ai kịp hỏi. Từ sau cái chết dũng cảm ấy, người ta gọi chú là “anh Bát Sắt”...
Nghe xong chuyện, tất cả đội viên trong đội đều nhất loạt đề nghị anh Xuân Phương cho đội được mang tên ấy: “Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt”...
Thân đi vào giấc ngủ từ lúc nào. Đôi môi chú phảng phất một nụ cười rạng rỡ.
Quyên và Thụ ngồi nép mình bên hàng rào râm bụt, gác cho các bạn ngủ yên giấc. Hai người trao đổi thầm thì về những công việc phải làm sắp tới. Quyên nói:
- Từ bây giờ chúng mình sẽ tự lo liệu lấy cuộc sống hàng ngày. Tiền chẳng có mấy, kiếm được miếng ăn không dễ dàng đâu. Anh Cả nói tiền Đông Dương lúc này hiếm lắm, cần dành dụm từng đồng vào việc mua hàng cần thiết cho kháng chiến. Vả lại chúng mình đóng vai những đứa trẻ lang thang đói khổ thì phải tự kiếm lấy mà ăn mới đúng. Ăn đã khó, còn ngủ nữa chứ. Làm gì có nhà cửa, giường chiếu, gối chăn đàng hoàng được. Mình thấy rất lo. Thụ đã ít nhiều dày dạn, hãy cố gắng giúp bạn vượt qua những thử thách buổi đầu.
Bằng giọng đầy tự tin, Thụ điềm tĩnh nói:
- Đằng ấy nên lo những việc lớn hơn. Ví như rồi đây gây dựng cơ sở như thế nào? Móc nối với nhau ra sao? Giữ mối liên lạc và dẫn đưa cán bộ về sao cho an toàn? Còn cái khoản ăn ngủ thì quá lo làm gì cho già người. Chúng mình là con nhà lao động, chỉ có mỗi thằng Thân là học trò, nhưng là cảnh học trò rau cháo, lăn vào đâu mà chẳng kiếm được miếng ăn ở cái đất Hà Thành này.
- Việc lớn tất nhiên đã có cách, nhưng việc nhỏ mà không tự thu xếp ổn thì sao có thể vững tâm để làm việc lớn. - Quyên chậm rãi nói.
Thụ xoè hai bàn tay trước mặt:
- Cơm ở đây, tiền cũng ở đây tất. Gồng thuê gánh mướn, lao công dọn dẹp, mò tôm, bắt cá, bán báo, đánh giày, lạc rang nóng giòn... Từng ấy thứ việc, tha hồ. Còn ngủ thì leo lên trần các nhà vắng chủ, mỗi thằng một cái bao tải chui vào là xong. Hoạt động chứ có phải đi du lịch đâu. Muốn đàng hoàng, chờ ngày độc lập sẽ hay. Tớ nói có đúng không?
Quyên rất tin bạn, song chú không ngờ Thụ có thể sẵn sàng chịu đựng gian khổ đến mức như vậy. Nhận
trách nhiệm tổ trưởng tổ công tác nội thành, điều Quyên lo nhất là tinh thần đồng đội khi sống trong thành phố tạm chiếm. Ý kiến của Thụ làm Quyên sung sướng đến ứa nước mắt. Chú ôm ghì lấy vai Thụ không nói lên lời.
Một đôi chim khuyên liệng tới đỗ nhẹ xuống ngọn xoan bị đạn tiện gãy. Đôi chim đung đưa theo cành cây đã héo khô mềm lả, ngúc ngoắc cái đầu nhỏ xíu, cất tiếng hót lanh lảnh.
Thụ chúm môi huýt sáo gọi chim rồi bất giác say sưa nói:
- Giá chúng mình được như chim nhỉ. Ta tung cánh bay đến muôn nơi theo ý muốn. Thoắt đến, thoắt đi, vượt mọi lưới khám, khiến bọn Tây và lũ Việt gian mật thám ức phát điên lên.
Quyên bấm mạnh vào vai Thụ:
- Từ ngày sống chung với nhau, hôm nay tớ mới thấy cậu mơ mộng một tí.
Ngừng một lát, Quyên nói tiếp, giọng sảng khoái:
- À, mà chúng mình chẳng có cánh là gì. Vừa đêm qua ngồi bên anh Cả, sáng nay ta đã luồn sâu vào tận tim gan kẻ thù. Chim nào có được đôi cánh thần tiên như ta?
Đôi bạn tâm đắc chụm đầu bên nhau cười khúc khích.
*
* *
Năm chú bé theo nhau chui thoăn thoắt qua các lỗ tường đục, nhà nọ xuyên nhà kia. Các chú đều mặc quần áo rộng quá khổ, mỗi chú cầm tay một chiếc gậy khua lung tung phía trước để xua rắn. Những ngày đầu nổ súng, nhân dân Hà Nội tự phá vỡ tường nhà, tạo ra lối đi thông suốt dãy phố nọ sang phố kia mà không cần ra ngoài đường. Từ lối đi này, giặc Pháp đã bị ta giáng nhiều đòn bất ngờ không kịp trở tay.
Đến một căn nhà đổ sập nghẽn lối, Hoàng Quyên quay lại bảo đồng đội:
- Đây là đầu ô rồi, ta ra đường đi công khai. Cứ đàng hoàng mà bước, phải đi như trẻ lang thang thật sự. Chức ghi nhớ những điểm đóng quân của địch nhé.
Ngay đầu ô Cầu Dền vẫn còn một chiến luỹ cao sừng sững chắn ngang. Các chú kéo nhau leo qua. Chiến luỹ được dựng lên bằng đất và các đường ray tàu điện. Phía trước chiến luỹ là một hố sâu, đầy nước, xa nữa trên mặt đường nhựa nham nhở úp la liệt nồi đồng, niêu đất, chum vại... di vật nghi trang đặt mìn cản giặc của chiến sĩ tự vệ thành.
Đường phố vắng vẻ một cách khó chịu. Hoạ hoằn mới có hai người dân hớt hải đi lại, dáng lấm lét, sợ sệt. Hai bên đường, cây cối, cột điện đổ nghiêng ngả. Lòng đường nhựa bị cày xới, đường tàu điện bị bóc tung từng đoạn. Gạch ngói vỡ vụn ngổn ngang khắp nơi.
Bỗng từ ngõ Chùa Vua, ba tên lính Tây đột ngột hiện ra. Chúng mặc đồ dạ xám, mũ ca-lô đỏ đội lệch. Thằng nào cũng xách lủng củng những đồ đạc đi hôi được: quạt máy, bàn là, bếp điện, giày ủng... Chúng quấn đầy cổ những vải, lụa len, dạ, cả quần dài và áo lót phụ nữ. Tụi lính giương những cặp mắt đục lờ đờ, quàu quạu nhìn đám trẻ, rồi phá lên cười sằng sặc.
Các chú thản nhiên đi qua mặt chúng. Bước được một bước, Chức lém còn quay lại nhổ phì một cái, bĩu môi khinh bỉ.
Đặt chân lên phố Huế, Thân thấy trong lòng bừng bừng rạo rực. Những kỉ niệm thân thiết rộn lên. Phố Huế đây rồi! Nhanh thật. Mới ngày nào mình cùng các bạn khua vang trống ếch trên đường phố rực cờ hoa. Kia là hiệu cắt tóc Bình Minh, mỗi tháng hai lần chị Bích Hạnh dắt mình tới đó, ông thợ cạo hói trán tha hồ vặt đầu, véo tai. Sao hồi ấy mình sợ cắt tóc thế nhỉ? Kia nữa - cửa hàng chữa đồng hồ Thanh Bình, chiếc đồng hồ bằng gỗ to tướng, tròn xoe không còn nữa. Ngay cạnh là nhà bán gạch ngói Vạn Thắng, lúc nào đi qua cũng ngửi thấy hăng hăng mùi đất nung. Và đây, ngõ Đông Xuyên sâu hun hút, nơi mình sống với gia đình bao nhiêu năm. Cây bàng đầu ngõ chưa bị quật đổ, quả nó trước kia chín vàng thơm phức, đập hột lấy nhân ăn bùi và béo ngậy. Không biết giờ này bố mẹ, anh chị ở đâu? Chắc là nhớ thằng Thân út ít này lắm đây. Hôm chạy tản cư, các anh chị bắt Thân phải về quê cùng bố mẹ. Chú vờ ngoan ngoãn vâng lời, nhưng đi quá chợ Mơ, nhân lúc lộn xộn, Thân bỏ trốn quay lại làm liên lạc cho tự vệ chiến đấu khu vực chợ Hôm.
Mọi người dừng chân hồi lâu bên Hồ Gươm. Tháp Rùa cổ kính vẫn uy nghi đứng đó, nhưng sao lẻ loi, chới với lạ thường. Bóng tháp soi mình xuống mặt nước xanh đen sủi ngầu bọt bẩn. Quanh hồ, rác rưởi ngập ngụa chất đống. Bất giác, Thân buông tiếng thở dài. Còn đâu nữa cảnh đèn sao nhấp nháy muôn màu và những thuyền rồng kết hoa bơi lượn. Chao ôi, cái ngày rằm tháng Tám đáng ghi nhớ ấy...
Trong lúc Thân bột say sưa nghĩ về dĩ vãng, Thụ đau đớn nhìn mặt hồ, chợt chỉ tay bảo Quyên:
- Tăm tôm càng, đằng ấy thấy chưa? Nguồn sống là đấy!...
Chức lém đã có trong tay một chiếc mê rổ từ lúc nào. Chú xắn quần, xăm xăm định lội xuống nước, miệng liến thoắng:
- Tuyệt thật, tuyệt thật! Tớ phải thử một mẻ xem.
Quyên ngăn Chức lại:
- Hãy khoan, chờ lúc quay về đã nào. Việc của chúng mình lúc này là phải đi đủ một vòng thành phố đã.
Đám trẻ lang thang đi dọc Hồ Gươm, tiến về phía bắc Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Bạc... Đâu đâu cũng cảnh nhà xiêu, mái sập, in hằn dấu vết tàn phá của chiến tranh. Đầu Hàng Buồm vẫn nguyên vẹn một ụ súng đắp nổi bằng những bao đường đen, bột lọc; nắng mưa làm cho cái ụ súng hiếm có ấy chảy nhão ra, ruồi bu đen đặc.
- Phố Hàng Đường! - Chức reo lên với cảm xúc nóng bỏng.
Hiệu Mỹ Hoà, nơi đóng quân của đội Quyết tử đâm bom ba càng mà Chức đã nhiều lần lui tới, nay chỉ còn là một đống gạch bề bộn. Quầy hàng lồng kính bày bánh nướng, bánh dẻo trước kia, đã bị ngói rơi phá sập, kính vỡ văng đầy mặt hè.
Các chú vào chợ Đồng Xuân, nhìn ngơ ngẩn cảnh hoang tàn trong khu chợ rộng lớn. Mái tôn thủng lỗ chỗ trang kim, tấm vặn queo, tấm rơi lưng chừng lung liêng. Các gian hàng ngổn ngang bàn ghế gãy, bồ sọt thủng nát. Dãy phản thịt đây kia, nơi các chiến sĩ thủ đô quyết tử đã từng vật lộn với những tên lính Tây to béo, vung mã tấu chém chúng như phạt chuối.
Khó nói hết được niềm xúc động lâng lâng tự hào xen lẫn nhớ thương, uất ức của mỗi người khi họ trở về hoạt động trong thành phố quê hương thân yêu đã rơi vào tay giặc!
Trên đường quay về, mỗi chú bé đã có trong tay một thứ đồ dùng. Chức lém kiếm đâu được cả cái riu còn khá tốt. Chức là người đầu tiên lội xuống hồ Gươm. Chú đẩy riu về phía trước, đi men theo bờ và nhấc lên mẻ đầu tiên mấy chục con tôm càng bằng ngón tay cái. Cả bọn hùa nhau xuống hồ dùng thúng, mẹt, rổ, rá vớt tôm. Chỉ một loáng đã được lưng rổ to. Những con tôm càng nhảy lao xao, tánh tách.
Như người nội trợ giỏi, Thụ lẩm nhẩm tính toán:
- Từng này bét ra cũng đến bốn năm cân tôm. Đắt như tôm tươi cơ mà! Làm một tuần liền, bán đi thừa sức sắm đồ nghề. Cặp báo, hòm đánh giày, thùng đựng lạc rang... có đáng bao nhiêu. Tiền còn lại thì chi mỗi ngày cho mỗi đứa một đồng, tha hồ mà no bụng.
Chức đẩy riu tôm, mắt nhìn về phía tháp Rùa. Chú nói nhỏ với Thân đang khua nước oàm oạp bên cạnh:
- Đằng ấy thử nghĩ xem, lúc này mà trên đỉnh tháp Rùa có một lá cờ đỏ sao vàng tung bay thì khoái biết mấy!
Thân ngừng tay, đưa mắt nhìn bạn như muốn bảo: “Cứ mò tôm đi, chuyện ấy sau hẵng hay”. Như không để ý, Chức cứ lẩm nhẩm một mình. Hình ảnh một lá cờ Tổ quốc chói lọi đã choán hết tâm trí chú bé.
Mọi người đang mải mê xúc tôm, bỗng Tâm ngẩng lên, nói cộc lốc:
- Bọn Tây!
Một chiếc xe cam-nhông nhà binh phóng đến phanh rít bên lề đường. Từ khoang lái bước xuống một mụ đàn bà béo núng nính, quần lĩnh bóng nhẫy, mặt bự phấn son. Chiếc cổ nung núc những thịt của mụ quấn hai vòng dây chuyền vàng choé. Trời rét như cắt, mụ chỉ mặc độc một cái áo phin mỏng tang, lồ lộ tấm áo nịt màu hồng bó chẽn bên trong. Mụ vừa chui ra, hai tên lính Tây từ thùng xe liền nhảy xuống chĩa súng về phía lũ trẻ.
- Mấy nhãi ranh kia mò gì dưới đấy, hả? - Mụ béo khuỳnh tay chống nạnh the thé quát hỏi.
Năm chú bé, vẻ sợ sệt, len lén leo lên bờ đứng nép vào nhau. Thụ mạnh bạo lên tiếng:
- Chúng tôi kiếm ăn.
- Ái chà chà! - Con mụ rít lên, giọng chua khé. - Mày dám ăn nói với bà như thế ư? Thằng lỏi kia! Bọn bay dễ không biết cả thành phố này đã thuộc về ai hay sao? Quân lộn xộn mất nết. Bà truyền cho mà biết, một ngọn cỏ ở đây cũng là của các quan Tây. Chúng mày là đồ ăn trộm. Hiểu chưa? A-lê về bốt!
Thụ nghĩ căm trong bụng vô cùng. Con mụ nói mà chẳng ngượng mồm. Điệu bộ mụ ta giống hệt thằng đội xếp mắt lươn đã vô cớ đánh Thụ một trận nhừ tử ở cửa chợ Hôm hồi trước Cách mạng. Chỉ khác nhau, mụ là đàn bà và trong tay thiếu một cây dùi cui cao su mà thôi.
Hoàng Quyên bước lên một bước, lễ phép thưa:
- Bẩm bà lớn, em nó trót nói hỗn, xin bà lớn tha cho. Chúng con bị lạc cả bố mẹ, phải dựa vào nhau để
kiếm miếng ăn. Bà lớn rủ lòng thương.
Chức vờ run run hai đầu gối, mắt lấm lét nhìn mụ béo, làm vẻ nói không ra hơi:
- Bẩm quan bà xin làm phúc xá tội cho chúng con.
Mụ béo buông tay khỏi hông, giọng dịu đi một chút:
- Ờ ờ, hai thằng này ăn nói khớ đấy.
Nói rồi mụ nhìn rổ tôm càng nhảy lao xao, hất hàm:
- Có bán không, bọn bay?
- Bẩm bà lớn, có chứ ạ! Tôm tươi nguyên chất - Tâm bạch biến gãi đầu, nhanh nhảu đáp.
- Bao nhiêu tiền bà sẽ trả. Nhẽ ra thì bà tịch thu tất tật cơ đấy. - Mụ béo nói giọng ngọt xớt.
Không biết nên lấy mấy đồng là vừa giá, Tâm nhìn Thân, Thân lại nhìn Chức, Hoàng Quyên đưa mắt cho
Thụ. Thụ buông một câu gọn lỏn:
- Năm chục đồng!
Mụ béo ra điều lởi xởi:
- Ừ, bà trả đủ năm chục.
Nhưng liền đó, mụ đã làm các chú tưng hửng và lo ngại. Mụ bảo:
- Đem tôm ra xe, rồi về cả đồn mà lấy tiền.
Thân vội thưa:
- Bẩm bà lớn cho xin luôn tiền ở đây ạ. Chúng con còn phải lo kiếm miếng ngày mai.
- Về chỗ quan lớn cũng khối việc, lại toàn thức ăn ngon. Về đồn bây giờ bà sẽ cho ngay mỗi thằng một cái bánh tây và một hộp thịt bò. Lần sau mò được tôm mang đến, bà sẽ trả tiền tút suỵt. Bà là người nhà quan đồn trưởng, bà đâu thèm quỵt lũ bay.
Nghe mụ béo nói, Quyên hiểu ngay mụ là vợ một thằng quan Tây chỉ huy một đồn nào đó gần đây. Mụ ta đang cần lao công tạp dịch, mang ô tô đi lùng mà không bắt được ai. Nội ngoại thành đều vắng tanh vắng ngắt, lấy đâu ra người. Vớ được lũ trẻ lang thang này, nhất định mụ sẽ tìm mọi cách lùa về bằng được mới nghe. Hai tên lính Tây lăm lăm súng đứng kia, không dễ gì chạy thoát với chúng. Quyên thoáng nghĩ rất nhanh: Đây cũng là dịp tốt để biết tình hình địch. Chú nhìn đồng đội một lượt rồi nói:
- Chúng mày ạ, tao thấy về đồn hầu hạ bà lớn là hơn cả. Chúng mình có việc làm, được ăn ngon, lại khỏi lang thang mỏi chân. Sau này thằng nào tìm thấy gia đình, xin với bà lớn, chắc sẽ được về ngay thôi.
Mụ béo hí hí:
- Ờ, về ngay, rất dễ. Bà chỉ nói với quan một câu là các bay được cấp giấy đi mọi xứ sở. Làm hết việc ở chỗ bà thì lại đi mò tôm, bắt cá bán cho bà, chả đi đâu mà thiệt.
Như đã ngã giá xong xuôi, đám trẻ lang thang hí hửng lục tục lên xe. Chức bê lễ mễ rổ tôm đặt cẩn thận
vào ca-bin, ngay dưới chân mụ.
Chiếc xe chạy xuôi về Bạch Mai, thỉnh thoảng nhảy chồm chồm như phải bỏng. Nó lắc lư một cách khó nhọc, lượn vòng vèo tránh những ổ gà và chướng ngại còn rải rác trên mặt đường nhựa.
Đến chợ Mơ, xe quặt sang đường Đại La, bò thêm một quãng rồi đỗ trước cổng bốt Mai Động. Một tên lính da đen đứng gác bên chiếc lô cốt to bè, giương cặp mắt trắng dã nhìn lũ trẻ lố nhố trên thùng xe. Vừa thấy mụ béo thò đầu ra ca-bin, hắn cười nhăn nhở rồi vội nhắc cây tre chắn ngang cổng. Chiếc xe phóng thẳng vào sân bốt.
Bốt Mai Động giống như cái trại nuôi bò sữa loại nhỏ. Ba dãy nhà lính thấp lè tè bao quanh một khoảng đất vuông chật hẹp. Chính giữa khoảng đất gọi là sân bốt ấy, chọc thẳng lên trời một đoạn bương dài, nứt toác, trên ngọn lòng thòng sợi dây buộc rũ xuống lá cờ tam tài bạc phếch. Khắp sân, rác bẩn, ruồi nhặng vo ve, mùi hôi lợm giọng.
Đúng như dự đoán của Hoàng Quyên, mụ béo là vợ thằng Tây già quan một chỉ huy bốt Mai Động. Mụ thay chồng đi bắt phu về sửa sang trại lính, để dễ bớt xén tiền công sá.
Ngày đầu tiên các chú đã phải làm cật lực từ sáng đến tối mịt, với công việc dọn dẹp nhà ở, giặt giũ chăn màn, áo quần cho vợ chồng mụ béo.
Ngày thứ hai, tất cả đi kéo xe bò dọn rác. Đến ngày thứ ba thì mụ bắt đầu chia các chú thành từng nhóm. Quyên và Thụ dọn rác. Chức lém được mụ béo tin cẩn giao việc phụ nấu ăn cho lính. Thân và Tâm chuyên giặt giũ, quét dọn, hầu hạ trong nhà lão đồn trưởng.
Hoàng Quyên đã quyết định mọi người phải tuân theo và làm thật tốt những công việc do mụ béo xếp đặt. Các chú nhanh chóng gây được lòng tin của mụ béo. Mụ ta khoản đãi các chú không được hậu hĩ như đã hứa, nhưng ăn uống hàng ngày cũng chẳng đến nỗi nào. Mới có vài buổi mà Chức lém đã hai lần thủ được gà quay chia cho đồng đội.
Thực hiện sự phân công của Quyên, hết ngày thứ ba, Chức đã vẽ xong một bản đồ chi tiết, trong đó ghi rõ nơi đặt ụ súng, nhà kho, nhà ở và quân số địch ngủ đêm trong từng căn trại.
Đã đến lúc phải ra đi. Quyên bí mật chỉ thị cho từng người...
Trời vừa sáng, Chức đã đến năn nỉ với mụ béo:
- Bẩm bà, thầy quản bếp muốn có bữa ăn tanh cho lính nhưng nhà thầu không dám nhận, vì tôm cá hiếm lắm. Bà cho phép chúng con đi xúc tôm càng, chỉ từ giờ đến trưa là được hàng yến.
Mụ béo lẩm bẩm tính: Mười cân tôm càng giao cho nhà bếp, có thể kiếm tới năm trăm đồng bạc. Thấy món bở, mụ chẳng cần suy nghĩ, gật đầu lia lịa và lên giọng nhân đức giả:
- Ờ, phải đấy. Nghĩ khổ cho mấy chú lính bị nhà thầu ăn chặn cả. Bọn bay chịu khó xúc nhiều nhiều vào nhưng về phải nhớ giao cho bà kiểm soát, nghe chưa?
Mụ đinh ninh rằng lũ trẻ lang thang đói khổ đã bén mùi bánh tây thịt hộp, sẽ chẳng dại gì rời bỏ chốn này.
Được lệnh bà quan đồn, năm chú bé xách rổ, vác giậm hăm hở lên đường... Về đến ngôi nhà hoang làng Quỳnh Lôi, mọi người lăn ra cười như nắc nẻ. Chức lôi ra từ trong cái giậm một con gà luộc béo ngậy. Chú vung tay nói như diễn thuyết:
- Tớ đem theo món quà lưu niệm của bà lớn để tặng lại các cậu. Phải liên hoan một bữa, để ghi nhớ cái ngày chúng ta bước vào trận tuyến mới.
Tâm và Thân vỗ tay đôm đốp hoan hô Chức lém.
Chú thích:
(1) Tên thật là Nguyễn Xuân Sinh, đã anh dũng hi sinh trong trụ sở Phòng nhì của địch tại nhà thờ Liễu Giai (Hà Nội) năm 1950.