I divide all readers into two classes; those who read to remember and those who read to forget.

William Lyon Phelps

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 3
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 2
Cập nhật: 2020-10-08 21:12:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
... Năm 1282, mùa thu, tháng 8 vua Nguyên Hốt Tất Liệt sai nguyên soái Toa Đô đem đoàn chiến thuyền 1.000 chiếc cùng 20 vạn quân tinh nhuệ từ Ung Châu, vượt biển vào đánh Chiêm Thành. Tin dữ được truyền về kinh đô Thăng Long. Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông vô cùng sốt ruột cho triệu Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở điền trang Vạn Kiếp năm lần bẩy lượt mà Quốc Tuấn không về. Cuối cùng vua Trần Nhân Tông phải sai quan Chi luận cục thủ Đỗ Khắc Chung đến Vạn Kiếp để vời Trần Hưng Đạo, Khắc Chung có tài ăn nói biết cách "lựa gió thả diều" nên được hai vua Trần yêu lắm, luôn cho ở bên cạnh.
- Ta đang chuẩn bị đâu có đó rồi! Công việc con dang dở một khắc nên chưa về chầu đó thôi. Quốc công Tiết chế nói với Khắc Chung như vậy.
Và ba ngày sau, Trần Hưng Đạo cùng đoàn tuỳ tùng gồm Yết Kiêu và Dã Tượng khởi hành về kinh. Buổi sáng, nắng vàng, gió nhẹ, tiết trời dịu mát khiến đoàn người cùng với ngựa bước đi rất hăm hở. Bỗng đội quân dẹp đường dừng lại, rồi viên hiệu uý chạy ngược về, quỳ một chân trước đầu voi Hưng Đạo Vương tâu:
- Bẩm Quốc Công Tiết chế! Phía trước, giữa đường có một tên nhà quê, đóng khố ngồi đan sọt. Quân lính chĩa loa vào tai, thét lui vào nhường đường cho voi của Quốc Công Tiết Chế đi. Nhưng hắn cứ lì ra. Đến khi một tên lính cầm giáo đâm và bắp vế máu chảy lênh láng. Song hắn vẫn điềm nhiên chăm chú vào việc đan sọt như không có chuyện gì!
Trần Hưng Đạo thấy chuyện lạ bè ra lệnh:
- Đưa bản vương lên đó xem sao?
Dã Tượng ngồi trên đầu voi, lấy búa gõ thúc cho voi tiến lên.
Vừa nhác thấy voi của Quốc Công Tiết Chế đến gần, người đan sọt vội vụt đứng lên, sụp lạy trước đầu voi và tâu lớn:
- Thảo dân tội đáng muôn chết! Mong Quốc Công Tiết Chế tha mạng!
Trần Hưng Đạo nhìn xuống thấy tấm lưng to lớn như cánh phản, hai bờ vai cuộn lên hai bắp thịt lớn thì liền phán:
- Cho phép ngươi đứng dậy nói!
Được lời như cởi tấm lòng, chàng thanh niên cao lớn vạm vỡ đó đứng lên, hai tay chắp trước ngực, lưng hơi cúi lom khom, bắp vế bên trái máu vẫn tuôn ròng ròng, chờ câu hỏi của vị chủ soái:
- Ngươi ăn gan hùm, gan báo hay sao mà dám to gan, lớn mật cản đường của bản vương? Hưng Đạo Vương vừa vuốt chòm râu dài đen nhánh mới chấm tới ngực cất giọng sang sảng hỏi.
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế! Thảo dân đâu dám to gan, lớn mật cản đường Đại vương. Chẳng qua là đang mải nghĩ xem làm thế nào để... chặn được giặc Thát đang lăm le tràn xuống thôn tính Đại Việt ta. Mong Quốc Công Tiết Chế tha mạng...
Câu trả lời có vẻ van vỉ, nhưng giọng rất chững chạc đường hoàng. Tuy nhiên đoàn tuỳ tùng cùng quan văn Đỗ Khắc Chung cùng cười ầm ra ý chế nhạo.
Riêng Quốc Công Tiết Chế thì không cười, người vẫn vuốt bộ râu khá dày, đen nhánh, đôi mắt to đen chợt sáng lên nhấp nhoáng ngắm nhìn khuôn mặt chữ điền, da trắng, môi đỏ, trán rộng, mũi cao, mắt to, lông mày lưỡi mác thì mười phần đã cảm thấy ưng ý cả mười. Rồi người bảo:
- Vậy ngươi nghĩ thế nào?
- Bẩm Quốc Công Tiết Chế giặc Thát tuy mạnh. Nhưng nếu ta biết lấy nhu chế cương. Lấy đoản binh đánh trường trận. Dùng các các tướng giỏi gìn giữ vững các nơi hiểm yếu. Rồi dùng kế "vườn không nhà trống" để đánh tiêu hao địch. Chẹn kỹ đường vận lương của chúng. Chờ đến khi chúng có biến ta tung toàn bộ tướng sĩ đánh một trận quyết liệt là có thể đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi...
Một tiếng cười ròn tan nổi lên chúng nhìn ra thì đó là tiếng cười của Đỗ Khắc Chung:
- Đến trẻ con ở kinh thành Thăng Long đều biết những câu ngươi vừa nói là của Hưng Đạo Vương tâu với hai vua Trần về kế sách chống giặc. Ngươi nghe lỏm được ở đâu mà dám "đánh trống qua cửa nhà sấm", không sợ bị mất đầu sao? Tướng giỏi giữ nơi hiểm yếu là ai? Là ngươi chắc?
Hưng Đạo Vương bỏ ngoài tai lời của Khắc Chung quay ra nói với Dã Tượng:
- Ngươi bảo người lấy thuốc dấn dịt vào vết thương ở bắp vế cho hắn.
Tiếp đó Người hỏi:
- Người có bản lĩnh gì trong thập bát ban võ nghệ?
- Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Thảo dân không dám tự khoe, trong 18 thứ binh khí đó, thảo dân đều thành thục cả. Nhưng quen thuộc nhất là sử đại đao.
- Thế còn tài bắn cung? Người hỏi tiếp.
- Bẩm, thảo dân có thể "trăm bước bắn xuyên cành liền" ạ!
- Ngươi cũng tài "võ mồm" đấy nhỉ? Đỗ Khắc Chung lại nói lời chế nhạo chen vào.
Anh chàng đan sọt hơi quay mặt đi, như không nghe thấy lời khích bác của viên quan văn. Tất cả những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt ấy không qua nổi đôi mắt tinh tường của Hưng Đạo Vương. Người chỉ tay ra những ngọn tre đang la đà phía tay phải, cách chỗ mọi người đang đứng chừng hai trăm bước chân, bên kia cánh đồng bảo:
- Ngươi có thể bắn chẻ đôi các ngọn tre kia không?
- Dạ! Bẩm... cho mượn cung tên ạ!
Quân lính mang cung tên tới. Chàng đan sọt dương gẫy liền ba cây cung và nói:
- Bẩm!... Cung mềm quá! Quốc Công Tiết Chế có thể cho thảo dân dụng cung của mình được không ạ!
- Ngươi có mang theo cung tên theo à? Người hỏi lại.
- Bẩm! Thưa vâng ạ!
- Ngươi để đâu?
- Bẩm! Thảo dân dể sau bụi tre này ạ!
Chàng đan sọt chỉ vào bụi tre rất dày ở ven đường.
- Ngươi lấy ra đi! Rồi bắn thử ta xem!
Dã Tượng cùng bốn năm người lính nữa định theo, Hưng Đạo Vương lắc đầu ra ý không cần.
Chàng đan sọt đem ra một cây cung lớn và một ống tên. Rồi chàng cung kính thưa:
- Quốc Công Tiết Chế cho phép thảo dân chứ ạ! Hưng Đạo Vương gật đầu thay cho câu trả lời. Không cần ngắm, chàng đan sọt dương cung ba lần. Tên đi căng, và sau tiếng bật của giây ba ngọn tre đang la đà trong gió thu đều bị toác ra làm đôi. Mọi người vỗ tay reo ầm cả lên. Riêng Hưng Đạo Vương chỉ nói vừa phải:
- Được! Được lắm!... Rồi người hỏi tiếp - Thế còn tài sử đao, ngươi có thể cho bản vương xem tiếp được chăng?
- Dạ, bẩm!... Xin tuân lệnh của Quốc Công Tiết Chế ạ!
Dã Tượng đưa đến mấy cây đao lớn. Chàng đan sọt múa vài đường rồi cúi người bẩm:
- Dạ! Thưa!... Đao nhẹ quá! Thảo dân thấy... hẫng hụt không dụng được ạ!
- Chắc ngươi dấu thanh đao của mình trong bụi tre chứ gì? Hưng Đạo Vương hỏi.
- Bẩm!... Quả có như thế ạ!
- Ta cho phép ngươi vào lấy ra đây!
- Bẩm! Vâng ạ!
Từ sau bụi tre chàng đan sọt vác ra một cây đại đao, ánh thép biêng biếc xanh. Đỗ Khắc Chung thấy thế vội thét lớn:
- Quân bay đâu? Hãy bảo vệ Đại Vương!...
Hưng Đạo Vương vẫn vuốt chòm râu đen nhánh điềm nhiên vỗ vào thanh gươm đeo bên sườn đáp:
- Với thanh gươm này, gần hai mươi năm trước ta đã vào đám quân Thát cả chục vạn như vào chốn không người. Ta tự bảo vệ được!
Chàng đan sọt dùng hai tay đưa cây đại đao cho Dã Tượng. Dã Tượng cung kính dâng lên Hưng Đạo Vương. Thật bất ngờ trên bành voi, Người cầm cây đại đao nặng chịch một cách rất nhẹ nhàng. Rồi với chỉ một tay, Người cầm cán đao chém gió bên phải rồi bên trái. Người hỏi chàng đan sọt:
- Ngươi có rõ lai lịch của cây đại đao này không?
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế! Thảo dân không được rõ ạ! Chỉ biết sư phụ giao cho dùng... thế thôi ạ!
- Vậy để ta nói cho ngươi hay! Đây là cây đại đao có từ thời Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng ở đất Đường Lâm - Sơn Tây. Tại một sườn đồi, ba ngày liền bị sét đánh xuống. Bố Cái Đại Vương mới cho người đào lên xem thì thấy hai thỏi thép nặng. Người cầm lên biết là thép quý bèn mời thợ rèn giỏi tới rèn hai cây đại đao. Cây cán dài này là Dương đao. Còn cán ngắn là Âm đao - hiện Đỗ tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái đang dùng. Vậy là song đao hợp bích là điềm lành đây... Người có biết chính cây Dương đao này, dũng tướng Phạm Cự Lượng đã xả tướng Tống Hầu Nhân Bảo trước ải Chi Lăng lúc người theo Lê Đại Hành lên biên ải chặn giặc.
Sau khi giảng giải cho mọi người một lúc, Hưng Đạo Vương bảo:
- Bây giờ thì người thử đi vài đường cho Bản vương coi!
Chàng đan sọt đỡ lại cây đao từ tay Dã Tượng, rồi dựng ngược thanh đao, quỳ một chân xuống làm động tác chào rồi bất thần nhanh như sóc đứng lên, một tay múa cây đao vù vù. Ánh đao xanh biêng biếc khi quay trái, lúc quay phải, lúc lộn ra phía sau, khi chém bổ về trước, mỗi lúc một nhanh. Cuối cùng chỉ ánh đao quấn quanh thần thể vạm vỡ của chàng, giá như lúc ấy có mưa rào ánh đao che phủ khiến thân chàng không thể bị một giọt mưa nào rơi vào. Mọi người kể cả Hưng Đạo Vương đều ngẩn mắt ra nhìn. Xong bài biểu diễn bằng động tác rất gọn gàng chàng đan sọt thu đao lại cúi gập người. Chào Quốc Công Tiết Chế.
- Thế còn trên lưng ngựa ngươi có sử được đao thuần thục như vậy không?
- Dạ! Bẩm!... Trên lưng ngựa là sở trường của thảo dân ạ!
- Dã Tượng, ngươi hãy dắt một con ngựa chiến ra đây! Hưng Đạo Vương ra lệnh.
Một chiến mã mầu xám tro khá cao lớn, với đầy đủ yên cương được dắt tới. Chàng đan sọt không nắm giây cương lên bàn đạp mà tung lên không rồi quay người nửa vòng đặt mông chính xác trên yên. Động tác lên ngựa xưa nay chưa từng thấy khiến Hưng Đạo Vương lần đầu tiên bật lên tiếng khen:
- Tuyệt vời! Thật là có một không hai!...
Nhưng khi chàng trai giật cương, thúc bàn đạp vào sườn thì con chiến mã run cầm cập không thể cất bước được. Chàng nhẹ nhàng xuống ngựa bẩm với Hưng Đạo Vương:
- Dạ! Bẩm!... Nội lực của thảo dân khí mạnh... khiến con ngựa này không chịu nổi ạ!
Hưng Đạo Vương hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, Người bảo:
- Chắc ngươi có ngựa quý đang thả đâu đây chứ gì?
- Dạ! Bẩm!... Không có gì qua mắt được Quốc Công Tiết Chế.
- Ngươi hãy gọi nó tới đây cho bản vương coi.
Chàng đan sọt cho tay lên miệng huýt một tiếng sáo dài. Đáp lại tiếng huýt của chàng là tiếng ngựa hý vui mừng đáp lại. Rồi trong chốc lát một chú ngựa lông tía, cao lớn, ngực nở, bụng thon, mông lớn, chân thẳng phi nhẹ nhàng như lướt bốn chân trên mặt đất tới trước mặt mọi người. Chàng đan sọt nói nhẹ với con tuấn mã:
- Không được vô lễ! Quỳ xuống trước mặt Quốc Công Tiết Chế ngay!
Con tuấn mã nhẹ nhàng khuỵu hai vó trước, cái cổ to dài mềm mại chúi xuống đất. Hưng Đạo Vương khen:
- Đến con vật ngươi cũng biết dạy lễ nghĩa... thật là giỏi.
Chàng đan sọt gài cung bên sườn, đeo ống tên sau lưng cầm đao lên ngựa phi về trước. Rồi vừa điều khiển ngựa khi nhanh khi chậm, khi đang phi nước đại chợt đứng khựng lại, ngoặt sang phải, rẽ sang trái vừa dùng hai tay múa cây đại đao vù vù như gió cuốn. Đường đao của chàng khi chém về phía trước lúc lộn ra phía sau, ngoặt phải, quay trái, biến hoá khôn lường. Rồi chàng cài đao vào bao, dọc theo thân ngựa, nhẹ nhàng lấy cung, vòng tay rút tên, vừa phi ngựa vừa nhằm các ngọn tre đang lắc lư trong gió, bắn liền mấy phát. Mỗi lần chàng ra tên là một ngọn tre bị chẻ đôi ra.
Biểu diễn xong, chàng xuống ngựa, một chân khuỵu xuống, một tay đặt trước ngực, đầu hơi cúi xuống, chờ lệnh phán của Hưng Đạo Vương. Vừa vuốt râu, vừa ngắm nghía bộ ngực nở, sáu múi ở ổ bụng cuộn lên, lưng ong, đùi dế khiến người rất ưng ý, bấy giờ Người cất tiếng hỏi:
- Tráng sĩ, tên họ là gì? Quê quán ở đâu?
- Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Thảo dân họ Phạm tên Ngũ Lão. Người làng Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Cha thảo dân mất từ lúc thảo dân mới mười tuổi. Hiện ở với mẹ già. Làm nghề cầy ruộng thuê. Lúc nông nhàn thì làm thêm nghề đan sọt...
- Phải chăng ngươi là dòng dõi dũng tướng Phạm Cự Lượng?
- Nhà thảo dân sống nhiều đời ở làng Phù Ủng, không có gia phả... Cả dân làng cũng như thảo dân đều không rõ. Nhưng thảo dân nghĩ... chắc là không phải. Vì theo như mẹ thảo dân bảo ông nội và bố của thảo dân đều nhỏ bé và không thích chuyện võ nghệ. Chỉ có thảo dân nảy nòi ra như thế.
- Không sao! Ta chỉ hỏi vậy thôi! Hưng Đạo Vương từ tốn đáp. Rồi Người hỏi tiếp - Bây giờ ngươi có muốn theo về kinh, đầu quân chống giặc Thát không?
- Dạ! Bẩm! Đó là sở nguyện của thảo dân ạ!
Nhưng mong Quốc Công Tiết Chế thư cho năm hôm... để thảo dân về quê lợp lại mái rạ và đào giếng cạnh nhà cho mẹ. Giếng làng ở xa nhà. Thảo dân lấy việc quảy nước để rèn sức. Bây giờ thảo dân được Quốc Công Tiết Chế cho đi theo dắt ngựa thì phải đào giếng cho mẹ ạ!
- Này ta hỏi thật! Có phải vừa rồi ngươi dùng "khổ nhục kế" để đuợc gặp ta có đúng không? Hưng Đạo Vương vừa cười vừa hỏi.
- Thảo dân đáng tội muốn chết! Quả là có chuyện ấy ạ!
- Thế nên tên lính không đâm giáo vào bắp vế ngươi mà đâm thủng bụng ngươi thì... ngươi tính sao?
- Dạ! Bẩm... Quân của Quốc Công Tiết Chế là quân nhân nghĩa... Vừa rồi anh ta chỉ mới chích nhẹ mũi giáo.. Chứ đâm thì chắứ thảo dân đã không thể đứng lên được ạ!
- Người đứng dậy đi! Hưng ĐạoVương ra lệnh.
Ngũ Lão đứng thẳng lên, nhưng đầu vẫn hơi cúi giữ lễ.
- Nhà Tống đất rộng, người đông mà còn bị giặc Thát nuốt chửng. Còn Đại Việt ta, đất hẹp, người thưa... Ngươi nghĩ thế nào?
- Dạ! Bẩm... Nhà Tống đã đến thời mạt vận... còn Đại Việt ta vận khí đang lên. Có Thái hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông là vua sáng. Có Quốc Công Tiết Chế là tôi hiền. Anh em hoà thuận. Trên dưới một lòng phụ tử thì lo gì giặc mạnh ạ!
Binh pháp có câu "Biết mình biết người trăm trận trăm thắng". Vậy ngươi biết gì về giặc Nguyên Mông? Hưng Đạo Vương tiếp tục đưa ra câu hỏi mặc dù cuộc gặp "không hẹn" trước đã gần nuốt trôi một canh giờ. Voi ngựa và cả người đã thấy mỏi chân, gõ móng xuống đường cồm cộp.
- Dạ! Bẩm... Quân Nguyên Mông có đội kỵ binh hàng chục vạn. Rất thiện chiến, cưỡi ngựa giỏi, bắn cung tài. Một lính kỵ có tới hai ba ngựa nên việc hành binh rất thần tốc. Ở những vùng rộng lớn thì đấy là thế rất mạnh của họ. Còn ở Đại Việt ta, đất hẹp lại bị chia vụn ra bởi các ao, hồ, sông, suối, đầm lầy... thì cái mạnh ấy không thể trổ ra được.
- Thật là nhận định "tuyệt cú", có một không hai! Hưng Đạo Vương bỏ vuốt râu, vỗ tay reo lên tán thưởng.
- Còn về tướng cầm quân Thái tử Thoát Hoan ít mưu lược, chỉ dựa dẫm vào tướng sĩ. Các tướng Nguyên Mông như Lý Hằng, Lý Quán, Trương Hiển, Phàn Tiếp, A Lỗ Xích, Tích Lệ Cơ Ngọc... có kinh nghiệm trận mạc nhưng cũng không dễ gì đánh thắng được các tướng của ta. Nhưng đáng sợ nhất là hai tên "soái" Toa Đô và Ô Mã Nhi. Toa Đô cao gần hai mét, nặng một tạ tư. Chuyên sử một cây truỳ gai, có xích móc vào cổ tay. Mỗi khi truỳ của hắn nhắm tới đâu là chục mạng người đổ gục tới đó. Tên này lỳ lợm nhưng ít quyền biến cơ mưu vào loại "thiên lôi chỉ đâu đánh đấy". Ô Mã Nhi thấp hơn nhưng nặng tới tạ sáu, nung núc những thịt nhưng di chuyển chẳng lặc lè chút nào. Ô Mã sử thanh đao chuôi ngắn, to bản chém sắt như chém bùn. Tên này quyền biến cơ mưu, khá sảo quyệt. Đánh bộ đã giỏi mà đánh thuỷ cũng rất tài. Để chứng tỏ rằng ta đây không phải là kẻ dũng phu, trước lúc giao tranh hắn thường lý sự dài dòng con cà, con kê với đối thủ, như an ủi rằng người chết dưới tay ta đấy là do người tự tìm đến, chớ có oán hận gì. Song le Ô Mã có "tứ tuyệt" là khi có rượu ngon và gái đẹp bên cạnh thì "trời chỉ bé vằng vung", trong quân doanh của hắn luôn lúc nhúc cả chục gái đẹp, chiến lợi phẩm hắn đem từ xứ tuyết Tiểu Nga về. Những cô gái này đẹp như tiên nữ giáng trần. Mắt xanh, da trắng, tóc vàng. Tuổi mới mười lăm, mười sáu. Váy liền áo chỉ ngắn đến bẹn.... Nghe Ngũ Lão nói đến đây khiến Quốc Công Tiết Chế cũng phải phì cười. Đôi mắt đen láy của Người cũng lóng lánh đưa qua lại chứng tỏ rằng ta cũng còn "xuân sắc" lắm.
- Người kiếm ra nhưng chuyện đó ở đâu mà nghe kỳ vậy Hưng Đạo Vương vừa cười thú vị, vừa hỏi.
- Dạ! Bẩm!... Từ lúc đại Tống bị Nguyên Mông tiêu diệt. Có tới chục vạn dân cư và binh lính người Hán chạy sang Đại Việt ta lánh nạn. Việc này chắc Quốc Công Tiết Chế biết rõ hơn cả thảo dân. Và chuyện Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật tuyển cả lính Tống bại trận trong đó có tướng Triệu Trung xung vào gia binh của ngài.
Quốc Công Tiết Chế cũng rõ như ban ngày. Còn những chuyện trên là do chính Triệu Trung đã nói với thảo dân trong mấy lần ở quán rượu phố huyện.
- À, thì ra ngươi cũng ranh mãnh gớm! Hưng Đạo Vương nửa khen nửa bỡn cợt.
- Dạ! Bẩm!... Thảo dân chỉ làm theo sự chỉ dạy của sư phụ! Người bảo muốn biết giặc Nguyên Mông thế nào cứ đi uống rượu với tàn binh Tống sẽ rõ.
- Vậy sư phụ ngươi là ai?
- Dạ! Bẩm!... Sư phụ của thảo dân là nhà sư Hồng Quang trụ trì tại chùa Bảo Sơn làng Phù Ủng ạ!
- À ra thế! Bây giờ bản vương hỏi tiếp. - Như Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng Tả quân Thánh Dực (đạo quân tinh nhuệ bảo vệ vua, có đấu lại được với hai tên "soái" này không?
- Dạ! Bẩm!... Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng tuổi trẻ, tài cao, trí dũng, đảm lược đều đủ cả. Thương pháp của Bảo Nghĩa vương vốn được truyền từ đằng ngoại là vua Lê Đại Hành là thiên hạ vô địch. Nhưng về gân sức cũng không thể sánh được Toa Đô và Ô Mã.
Ngươi có biết là làm giảm nhuệ khí của tướng sĩ là mắc tội gì không? Đỗ Khắc Chung sau một hồi im lặng, vội cướp lấy cơ hội quát lên. Phạm Ngũ Lão vờ như không nghe thấy gì, tiếp tục bày tỏ với Hưng Đạo Vương:
- Tuy nhiên Đại Việt ta có một tướng đủ tài đao pháp và gân sức để chọi với Toa Đô, Ô Mã là Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái.
- Thế còn ngươi? Hưng Đạo Vương ngắt lời.
- Dạ! Bẩm!... Nếu so Khoái Đô tướng là chúa sơn lâm thì thảo dân chỉ là sói, cầy thôi ạ!
Hưng Đạo Vương cả cười, lại đưa tay vuốt chòm râu đen và nói:
- Ta có hỏi ngươi tự so với Đô tướng đâu? Ta muốn hỏi ngươi tự so với Toa Đô, Ô Mã thì thế nào?
- Dạ! Bẩm!... Thảo dân chưa chạm trán với hai đứa chúng nó thì làm sao có thể trả lời được ạ! Song chắc chắn có điều... khi lâm trận, thảo dân chỉ biết vì giang sơn Đại Việt mà lăn xả vào đánh. Dẫu có chết cũng không từ nan!...
- Có khí phách lắm! Khá khen cho ngươi... Hưng Đạo Vương, nói. Giờ ta phong cho ngươi làm Tiền quân Đô uý. Chức này chỉ dưới Phó Đô tướng một bậc. Vậy từ nay khi xưng hô với bản vương ngươi phải xưng là Tiền quân Đô uý, chứ không còn là thảo dân nữa nghe chưa?
- Dạ! Bẩm! Thảo dân Đô uý xin tuân thượng lệnh ạ!
Đã "thảo dân lại còn Đô uý" khiến cả đoàn người đi cùng Hưng Đạo Vương cười ầm cả lên.
Rồi quay sang Dã Tượng, Hưng Đạo Vương lệnh:
- Ngươi xuống lấy kiếm lệnh và ấn Tiền quân Đô uý cho Ngũ Lão cùng phẩm phục nữa.
Dã Tượng "dạ ran" và lùi về phía sau. Một lát quay lại đỡ Hưng Đạo Vương bước xuống bành voi. Ngũ Lão quỳ cả hai chân dưới đất, bộ ngực vạm vỡ với hai tảng thịt vồng lên ưỡn thẳng, vươn hai tay cung kính nhận ấn kiếm cùng phẩm phục từ chính tay Hưng Đạo Vương rồi cất tiếng sang sảng nhưng cũng không dấu được cả rưng rưng:
- Ngũ Lão này dẫu gan óc lầy đất cũng không báo đáp được ơn tri ngộ này của Quốc Công Tiết Chế!
- Hãy đứng dậy đi! Hưng Đạo Vương giục - ta cho ngươi nghỉ phép bẩy ngày để về đào giếng và lợp lại mái rạ cho mẹ.... đúng cuối giờ dần bảy ngày sau ngươi phải có mặt ở Giảng võ đường phía tây thành Thăng Long chờ lệnh. Nhớ ăn vận phẩm phục đàng hoàng.
Ngũ Lão "dạ ran" chắp tay vái lạy Hưng Đạo Vương, cùng mọi người rồi nhảy phắt lên yên ngựa Tía phóng đi. Hưng Đạo Vương thúc đoàn lên đường gấp như để bù lại canh giờ vừa mất. Rồi người cất giọng hào sảng nói: - Ba quan dễ kiếm một tướng khó tìm. Thực là trời đã cho ta Nguyễn Khoái, nay lại ban cho ta Ngũ Lão để chọi với hai thằng giặc Toa Đô và Ô Mã! Cưỡi ngựa bên bành voi của Hưng Đạo Vương. Đỗ Khắc Chung nói:
- Quốc Công Tiết Chế có vội vàng quá không, khi trao cho hắn chức Tiền quân Đô uý? Bỉ chức nghĩ thấy tên này còn nhiều uẩn khúc chưa được sáng tỏ. Tỷ như chỉ là một tên nhà quê đan sọt hắn luyện tập ở đâu mà võ nghệ tinh thông đến vậy? Lại như tình thế địch ta hắn cũng nói lầu lầu... thì có thật đáng nghi không? Biết đâu hắn chả là... Hán gian do người Nguyên cài vào nước ta... để dò xét tình hình và thừa cơ "trong ứng - ngoài hợp"?
Hưng Đạo Vương cả cười mà rằng:
- Chuyện bên Tầu khi xưa Phàn Khoái chỉ là tay bán thịt mà đứng đầu hàng quan võ, giúp Lưu Bang dựng nên cơ nghiệp nhà Hán bốn trăm năm. Đến như Trương Phi là một trong ngũ hổ tướng của Lưu Bị cũng chỉ là anh bán thịt chó. Thử hỏi hai người này luyện tập võ nghệ ở đâu? Còn ở đại Việt ta, Đinh Tiên Hoàng đế xuất thân từ trẻ chăn trâu. Chỉ vói cờ lau tập trận mà trở thành "Vạn thắng vương". Có điều đáng tiếc quá mất cảnh giác đến nỗi cha con cùng bị hành thích. Cơ đồ gây dựng biết bao khó nhọc bõng chốc vào tay người khác. Âu cũng là số trời vậy! Và Lê Đại Hành nữa, năm mười bảy tuổi còn đi ở cho nhà phú nông. Ấy vậy mà võ công tuyệt đỉnh, "phá Tống bình Chiêm" lừng lẫy một thời, được ghi vào sử sách. Song chuyện tiếp nói nhà Đinh cũng còn có điều uẩn khúc khiến đến giờ vẫn còn điều tiếng dị nghị!...
Ngay như bản vương nếu không có giặc Nguyên Mông thì cũng chỉ là quý tộc tầm thường chứ đâu được cái chức Quốc Công Tiết Chế chỉ dưới hai người (chỉ Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông) còn trên cả triệu người. Tại sao lại có chuyện như vậy? Phải chăng đó chính là thời thế tạo anh hùng đó ru? Trước lời lẽ khúc triết của Hưng Đạo Vương khiến Đỗ Khắc Chung cứng họng. Suốt trên đường từ đó về kinh đô Thăng Long, hắn không mở miệng nói thêm câu nào nữa.
Song vốn tính cẩn thận khi Ngũ Lão vừa phóng ngựa vút đi Hưng Đạo Vương đã bí mật đưa mắt cho Dã Tượng. Hiểu ý chủ nhân Dã Tượng lại bí mật đưa mắt cho người đứng bên. Người này lại đưa mắt cho người thứ tư. Và đến người thứ năm lặng lẽ tụt khỏi đoàn tuỳ tùng, nhằm về huyện Ân Thi- Hưng Yên theo hướng đường vòng quất ngựa phi nước đại.
2
Bốn ngày sau, vào buổi sáng tại sân sau phủ Quốc Công Tiết Chế phía tây thành Thăng Long, Hưng Đạo Vương đang đi bài tinh hoa kiếm thì Dã Tượng bước vào. Người quát gia nhân vào vác đai của Dã Tượng ra. Rồi người bảo: - voi rừng hãy tỉ thí với cha dăm chục hiệp. Dã Tượng miễn cưỡng cầm đao đón đỡ. Hưng Đạo Vương quát;
- Ngươi dám trái lệnh cha à! Nếu người không ra sức thực sự lưỡi gươm của ta sẽ lấy mạng ngươi đó.
Đã gần ngũ tuần nhưng đường gươm của Hưng Đạo Vương vẫn còn đầy uy lực và biến hoá và bay bướm như "tuyết rơi, hoa nở" khiến Dã Tượng là vị tướng thực sự cũng phải mướt mồ hôi mới chống đỡ được. Càng đánh càng hăng, đường gươm của Người vừa che phủ kín bản thân, vừa có những đường biến hoá nhằm vào các chỗ hiểm của "voi rừng". Dã Tượng vung đao nhằm vai vai Quốc Công xả xuống, người vừa đưa kiếm lên đỡ, thì đường đao lia xuống ống chân. Hưng Đạo Vương nhẩy vọt lên, rồi bất ngờ, dùng một chân dẫm xuống lưỡi đao của Dã Tượng. Voi rừng cố sức rút lên mà không nổi. Trong khi đó lưỡi gươm sắc lẹm của người đã kề vào cổ voi rừng. Hưng Đạo Vương quát to:
- Con không tuân lệnh, dám nhường cha! Tội thật đáng chết! Rồi bỗng Người cười vang, vứt thanh gươm báu xuống cỏ và bảo gia nhân châm một ấm trà Thái dạng mộc (chưa có ướp hoa hoè, hoa sói gì). Người chỉ thích dùng trà Thái mộc vào buổi sáng.
Khi chủ và tớ đã ngồi quanh chiếc bàn tròn gỗ lim dày cộp trên có lọng xanh xoè rộng, Hưng Đạo Vương mở lời trước:
- Con uống nước đi! Chắc con đến bẩm với cha chuyện của Ngũ Lão, đúng không?
- Dạ! Bẩm! Thưa cha thám mã đã về nói với con từ đêm qua. Nhưng sáng nay con bẩm với cha cũng chưa muộn.
- Tin tốt lành chứ?
- Bẩm những lời Ngũ Lão bẩm với cha hôm trước đều là sự thật cả. Còn về tình tiết thì ly kỳ lắm cha ơi.
- Vậy vừa uống trà, con vừa từ từ kể cha hay.
- Cạnh chùa Bảo Sơn tại làng Phù Ủng có một cây sao cao vút. - Dã Tượng bắt đầu thuật lại lời của người thám mã. Năm đó Ngũ Lão mới sáu bẩy tuổi. Một sáng thơ thẩn qua chùa chơi, mục đích lấy hoa đại rơi. Bỗng thấy chú chim non kêu chíp chíp liên hồi một cách thảm thiết gọi mẹ dưới gốc sao. Hai con chim bố mẹ bay lên rồi lại xà xuống quanh chú chim non mà không tài nào cứu con đưa lên tổ được. Cậu bé Ngũ Lão tần ngần đứng nhìn hồi lâu ra vẻ nghĩ ngợi lắm rồi vụt đưa ra một quyết định. Chú bé tóc trái đào nâng niu nhặt chú chim non bỏ vào túi áo nâu của mình. Hai con chim bố mẹ xà vào vai người chú bé mổ tới tấp. Mặc kệ, Ngũ Lão cứ bám cái thân cây trèo lên. Tổ chim ở chạc cao vút. Gần tới nơi mặt Ngũ Lão bị chim bố mẹ mổ cho sướt sát. May mà không có cú nào vào mắt. Trong tổ lúc nhúc mấy chú chim non nữa. Một tay bám chắc vào cành sao. Tay kia khẽ khàng thò vào túi móc chú chim non ra thả vào tổ... Nhưng lúc xuống mới là chuyện đáng nói. Lên thì còn có thể bíu chỗ này bám chỗ khác, chứ xuống tới đoạn gốc mới là điểm khó khăn nan giải. Ngũ Lão đang định thả cho người rơi "bịch" xuống thì có tiếng của vị sư già cất lên:
- Cứ bám chặt đấy! Chờ ta vác chiếc thang dài ra. Khi xuống tới đất, sư già nhìn vầng trán rộng, đôi mắt sáng, hai má như hai trái đào chín của Ngũ Lão thì hỏi:
- Sao con nghịch dại thế? Mà lũ chim đang sống yên ổn lại lên phá tổ của chúng.
Ngũ Lão trần tình lại đầu đuôi sự việc. Sư già buột ra tiếng khen:
- Con còn nhỏ tuổi mà đã có lòng "hiếu sinh" như thế? Thật là đáng khen!.. Thế nhà con có ở gần đây không?
- Thưa sư cụ! Nhà con ở thẳng con đường lớn này ạ! Cách đây một thôi đường! Cũng gần thôi ạ!
- Thế tối nay, vào giờ dậu, lúc gà lên chuồng, con bảo ta mời bố mẹ sang chùa để ta nói chuyện.
- Xin sư cụ đừng mách cha con chuyện sáng nay?
- Không ta muốn bàn với cha con việc khác cơ. Nhớ nói cha con đừng lỡ hẹn đấy.
Tối cha Ngũ Lão sang chùa, sư cụ nói:
- Tôi ngắm thấy thằng bé mặt mũi sáng sủa, hơi thở nhẹ nhàng, lại rất có thiện tâm. Bởi thế ta nói từ mai để hắn sang chùa, quét sân và làm các việc lặt vặt. Lúc rảnh rỗi ta sẽ dạy chữ cho. Cơm ăn hai bữa nhà chùa nuôi. Người cha sung sướng đến bàng hoàng, chỉ lắp bắp đáp được mấy tiếng;
- Đa tạ sư cụ! Thật là phúc cho nhà chúng con quá.
Ngũ Lão chăm chỉ làm việc. Cái chổi cao gấp đôi người, nhưng trong sân, ngoài ngõ, những ngóc ngách trong chùa, chỗ nào cũng sạch như lau. Còn về cái sự học, Ngũ Lão sáng dạ hơn người. Sư cụ dạy tới đâu Ngũ Lão nhập tâm ngay tới đó. Năm bẩy tuổi sư phụ bắt đầu cho Ngũ Lão luyện võ. Mảnh vườn trồng rau rộng sau chùa, sư cụ cho trồng chuối bạt ngàn. Sau những bài đi quyền, xuống tấn sư cụ bảo Ngũ Lão ra vườn chuối xoè bàn tay ra thọc vào các thân cuối. Về chân phía góc chùa bên phải có một quả đồi đất đá ong nhỏ. Sư cụ bảo Ngũ Lão ra đấy, tung chân mà đạp vào đồi đất. Khi nào đất ở đó bằng như sân chùa là được.
Năm Ngũ Lão mười ba tuổi võ nghệ đã tinh thông. Chữ nghĩa cũng đã học xong vài trăm quyển. Sư cụ cho đào một hố nhảy dài ngót mười trượng. Dưới hố thay vì trải cát, sư cụ cho cắm cái vật sắc nhọn rồi bảo Ngũ Lão nhảy qua. Không một chút chần chừ mắm môi mắm lợi Ngũ Lão chạy lấy đà bình thản nhảy qua hố. Sự cụ đứng ở giữa chừng, tay thủ sẵn một chiếc gậy gỗ sau lưng. Khi Ngũ Lão sắp sa xuống hố chông thì sư cụ vung gậy gạt vào lưng đẩy Ngũ Lão vọt qua.
- Nếu ta không giúp được con bay qua hố chông thì sẽ thế nào? Sư phụ hỏi
- Dạ! Sư phụ có bảo con nhảy vào dầu sôi lửa bỏng con cũng không từ huống chi là mấy cái gai cái chông này thì có hề hấn gì. Ngũ Lão khảng khái đáp.
Sư phụ quăng cái gậy gỗ, nghiêm trang nói với Ngũ Lão:
- Từ mai con không phải làm bất cứ việc gì trong chùa để chuyên tâm vào việc học văn, luyện võ.
Ngũ Lão kính cẩn đáp:
- Bẩm sư phụ! Con không động tay, động chân vào việc đồng áng là ngứa ngáy không chịu được. Con sẽ dậy sớm thức khuya hơn. Sư phụ bằng lòng cho con đi!
Sư phụ ngửa cổ lên trời mà khen rằng:
- Con mới tý tuổi đầu mà đã chí khí của kẻ trượng phu. Cha mất sớm từ khi Ngũ Lão mới lên mười. Mẹ lại yếu đau luôn. Ngũ Lão phụng dưỡng mẹ rất có hiếu. Mọi việc nặng nhọc trong nhà. Ngũ Lão giành lấy làm cả. Thức ăn nhà chùa cho về, bao giờ Ngũ Lão cũng mời mẹ trước.
Năm 17. Ngũ Lão đã trở thành thợ cầy giỏi nhất tổng. Có nhà phú ông thách Ngũ Lão cấy năm mẫu ruộng trong một ngày. Ngũ Lão đáp:
- Sức người có thể kham nổi. Nhưng sức trâu thì không kham được.
- Người nói thế nào thế? Chả lẽ sức người lại hơn cả sức trâu à? Phú ông hỏi lại.
- Vâng!
- Nhà ta có gần chục con trâu cày. Người muốn thay mấy con tuỳ ý. Cầy xong năm mẫu trong ngày ta thưởng cho mười bồ thóc. Không cày xong phải lĩnh năm mươi hèo.
Sáng sớm Ngũ Lão dong trâu ra đồng. Cầy đến chính ngọ thì tháo trâu, xà xuống đôi quang gánh một bên là rổ khoai lang luộc, bên kia là nồi nước chè xanh. Loáng một cái Ngũ Lão đã đả hết rổ khoai và uống cạn nồi nước chè. Rồi thay trâu cày tiếp đến hết giờ mùi. Trời nắng như đổ lửa. Cánh đồng vắng tanh, vắt ngắt không một bóng người. Ngũ Lão thay con trâu thứ ba cày tiếp. Đến đầu giờ dậu thì cả năm mẫu ruộng đã được cầy xới ngon lành. Đường cầy thẳng băng, không sâu quá mà cũng không nông quá. Chỗ vào góc, đường lượn gọn gàng ôm khít bờ mương. Ai ra trông cũng phải lắc đầu lè lưỡi. Tối phú ông lên giữ Ngũ Lão ở lại dùng cơm rượu. Uống được vài tuần thì phú ông cáo nhức đầu đi nằm. Tiếp Ngũ Lão chỉ còn cô con gái của gia chủ. Cô đã cứng tuổi ở độ ngoài hai mươi. Mắt đen, môi đỏ, da trắng hồng. Mượn men rượu cô nói với Ngũ Lão nhưng giọng loại rất nghiêm trang:
- Mẹ ta mất sớm! Bố ta sinh được mỗi một mụn con gái là ta.
Cơ ngơi này trải qua bao nhiêu đời mới gây dựng lên được. Nay vì không có con trai nối dõi, ta không dành lòng nhìn mồ hôi, công sức của ông cha ta rơi vào tay kẻ khác. Bởi thế ta mới không lấy chồng. Mặc dù có đến chục đám con nhà cũng khá giả, thuộc loại "con ông cháu cha" rắp ranh "bắn sẻ". Song ta đều từ chối cả. Ta đã thề sẽ kiếm một đứa con riêng, nó sẽ mang họ ta. Lớn hơn cho học hành tử tế để cai quản cái gia sản này. Tuy nhiên tìm mãi chưa được người. Nay ta thấy người thật thà, khoẻ mạnh muốn xin người một đứa con. Ta sẽ trả ngươi một trăm quan tiền.
- Đa tạ sự tin cậy của cô nương! Nhưng việc vợ chồng là "cái duyên ông trời se cái que ông trời buộc". Có phải là loài vật như con trâu, con bò đâu mà phối giống là được! Ngũ Lão nghiêm trang đáp.
- Ngươi dám mạt sát ta chăng? Cô chủ giận dữ đáp.
- Ngũ Lão này không dám! Chỉ muốn nói về cái đạo lý làm người thôi.
- Vậy thì ngươi về đi! Ngày mai ta sẽ cho người chở mười bồ thóc sang nhà trả công cho ngươi. Khi Ngũ Lão đã ra đến ngõ rồi thì tiếng cô chủ liền láu gọi theo:
- Chờ ta một tý. Ta có chút quà gọi là có chút lòng gửi cho mẹ ngươi.
Ngũ Lão dừng lại. Trời không trăng, dưới rặng tre đầu ngõ tối om. Cô chủ nhào tới quàng lên cổ Ngũ Lão một tấm lụa tơ tằm mát rượi. Tiện tay cô chủ đặt lên vòm ngực nở nang như cánh diều của Ngũ Lão. Và đặt ở đó rất lâu. Ngũ Lão cảm nhận bàn tay của cô chủ mỗi lúc một ấm lên. Đến khi cô chủ ngả đầu vào vai mình thì Ngũ Lão nhẹ nhàng đẩy ra và nói:
- Tôi về đây! Nhỡ ai trông thấy thì chết!
- Ta là gái còn không sợ thì ngươi sợ cái gì? Làng muốn bắt vạ ta. Ta không chồng mà chửa thì ta mổ ba bò, chín trâu khao cả làng chứ xá gì! Cô chủ bỗng gào lên.
Dã Tượng kể tới đó thì Hưng Đạo Vương cũng bật cười và hỏi lại:
- Các ngươi lấy đâu ra những chuyện ngóc ngách tận sau luỹ tre ấy!
- Dạ! Bẩm! Thưa cha! Ở làng quê có cái gì giấu được ai đâu! Lúc cô chủ ngồi uống rượu với Ngũ Lão đã có vài ba đôi mắt lấm lét từ các phía xăm soi rồi.
- Ờ, cũng có lý! Có lý! Hưng Đạô Vương nói:
- Đầu năm, sau dịp Tết nguyên đán, từ rằm tháng giêng trở ra, ở phủ Ân Thi thường tổ chức hội vật. Các già làng muốn Ngũ Lão tham dự để mang tiếng thơm về cho quê hương bản quán. Ngũ Lão đều từ chối. Nhiều người chê Ngũ Lão là "nhát" thì Ngũ Lão đáp lại "Biết mình hơn người ta thì đấu làm gì? Thế chẳng phải là lấy mạnh hiếp yếu sao?"
Nhưng rồi trước sự giục dã của cả làng, năm ấy Ngũ Lão phải lên sới Ngũ Lão cởi trần, đóng khố bước ra giữa sới vật nghiêm giọng thách đấu:
- Ta không vật lại! Ai bằng cách gì làm ngã được ta thì người ấy thắng cuộc.
Nhiều đô sững sờ đã lao vào. Mắm môi mắm lợi ôm lấy đùi Ngũ Lão hòng nhấc bổng lên rồi quật Ngũ Lão xuống. Song hai chân Ngũ Lão như rễ cây cổ thụ đã cắm sâu xuống đất. Một đô quá tức tối, bèn lùi lại rồi chạy lấy đà dùng đầu húc cực mạnh vào giữa ngực Ngũ Lão. Ngũ Lão vấn điềm nhiên như không. Còn đô vật kia thì bắn xa ra mấy thước.
Rồi vái lạy hàng ngàn người. Ngũ Lão dời khỏi xới vật, khoác chiếc áo cánh nâu rảo bước ra về. Dân làng Phù Ủng đi theo, khoanh tay thành kiệu mời Ngũ Lão ngồi lên, Ngũ Lão đã chắp tay từ chối.
Biết Ngũ Lão có sức khoẻ và võ nghệ hơn người, mấy lần ngồi uống rượu cùng hàng tướng Triệu Trung đã ngỏ ý tiến cử Ngũ Lão với Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Nhưng Ngũ Lão lảng đi, hỏi sang chuyện khác.
- Có chuyện đó thật sao? Hưng Đạo Vương bật dậy hỏi lại.
- Dạ! Bẩm! Thưa cha có chuyện đó thực như mặt trời mọc buổi sáng.
Rồi gã voi rừng ở gần người trí tuệ như Hưng Đạo Vương nên cũng dần "sáng dạ" ra, ngẫu hứng mà rằng
- Đúng là chim khôn biết chọn cây mà đậu! Người khôn biết chọn chủ mà thờ!
Câu cảm thán đó của Voi rừng khiến Hưng Đạo Vương vô cùng dắc ý. Người vươn vai dứng dậy. Và trong giữa buổi sáng mùa thu đẹp trời ở đất Thăng Long càng khiến cho tinh thần của người thêm phấn chấn. Người bước ra sân cỏ, cúi xuống nhặt thanh kiếm báu lên. Người nghiêm trang đứng thẳng người cầm gươm chỉ về phương Bắc mà nói lớn rằng:
- Bớ lũ giặc phương Bắc kia! Chúng bay đừng hòng mơ tưởng đến dù là một tấc đất của Đại Việt ta!...
3
Trở lại chuyện Ngũ Lão, bảy ngày sau lời hẹn của Hưng Đạo Vương, vào cuối giờ dần đã có mặt ở Giảng Võ đường phía tây thành Thăng Long. Cờ xí cắm rợp trời, tiếng trống đánh, tiếng loa thét inh ỏi cả một khu vực rộng lớn. Ngũ Lão thúc con Tía đĩnh đạc vào cổng chính. Quân canh cửa ngăn lại quát:
- Người kia đi đâu? Những ngọn dáo lăm lăm chĩa vào cả người lẫn ngựa.
Ngũ Lão rút thẻ đồng nhét dưới bụng áo chìa ra và bảo:
- Bẩm với Quốc Công Tiết Chế rằng thảo dân Đô uý đã có mặt!
Tiếng loa sắt vọng vào trong thì gần như ngay lập tức có tiếng loa đáp lại:
- Truyền lệnh của Quốc Công Tiết Chế cho tân Tiền quân Đô uý vào!
Rồi một tên lính phi ngựa ra dẫn đường. Vừa qua cổng. Ngũ Lão đã choáng ngợp bởi hàng vạn người ngựa đã xếp thành từng khối trong Giảng võ đường tự bao giờ. Chính giữa là kỳ đài. Hai vua Trần đứng ở giữa. Các hoàng thân quốc thích theo thứ tự phân cấp đứng bên phải. Các võ tướng đứng ở bên trái. Ngũ Lão cúi rạp người trên mình ngựa. Tên lính dẫn đến sát chân kỳ dài thì ra hiệu cho Ngũ Lão xuống ngựa. Một tên nhận dây cương từ tay Ngũ Lão dắt ngựa ra phía sau. Một tên khác hướng dẫn cho Ngũ Lão đứng lên vị trí của mình, dưới quan Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái hai bậc. Còn đang ngực đập chân run Ngũ Lão đã nghe thấy những tiếng la ó từ phía bên phải hai vua Trần. Chỗ của các quan lại quý tộc. Rồi một tiếng dõng rạc cất lên hỏi Hưng Đạo Vương:
- Cái thằng nhà quê đan sọt kia, có công tích gì mà được Quốc Công Tiết Chế một bước cho lên chức Tiền quân Đô uý. Mọi người nhìn lại nhận ra người vừa hỏi câu đó là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư.
- Nếu ngươi không phục thì có dám tỷ thí với tân Đô uý chăng? Hưng Đạo Vương lớn tiếng đáp.
- Ta đây đường đường là quý tộc là Nhân huệ vương tôn thất của nhà Trần mà lại thèm tỉ thí với tên nhà quê đầu đường xó chợ đó sao?
Hưng Đạo Vương cũng không vừa, chế nhạo lại:
- Sao người chóng quên vậy. Mới cách đây mấy tháng ngươi đâu có phải Nhân huệ vương, mà là một tên đốt than ở vùng Chí Linh Hải Dương. Một tên đốt than tỉ thí với anh nhà quê đan sọt thì có gì là không "môn đăng hộ đối"!...
Tiếng một người con gái đứng sát ngay phía sau hai Vua Trần thích thú cười ré lên và đế vào:
- Đốt than đấu với đan sọt. Thật là tương đồng tương kỹ! Chúng nhìn ra thì đó là công chúa An Tư con gái út của Thái hoàng Thánh thượng Trần Thái Tông. An Tư đã ngoài hai mươi cái xuân xanh mà vẫn chưa kén được phò mã trong khi các công chúa khác chỉ mới mười sáu, mười bảy thì đã yên bề gia thất cả rồi. Không phải An Tư không có sắc đẹp. Mà ngược lại nàng có khuôn mặt sáng ngời như trăng rằm, mái tóc dày đen thả ra dài tới gót. Mũi dọc dừa, mắt như hai hồ nước có những vòng sáng xanh biếc như muốn "dìm chết" người ngắm nhìn. Các vương tôn công tử trong hoàng tộc không chỉ sợ những vòng sóng xanh biếc đó mà còn hãi cái tính ngỗ ngược của công chúa. Bên sườn nàng lúc nào cũng đeo một con dao găm lưỡi cong, sắc lẹm, chém sắt như chém bùn. Có điều gì trái ý là rút dao găm ra liền. Nàng là người con gái duy nhất được có mặt và dám có mặt ở Giảng võ đường trong buổi lễ duyệt quân vô cùng trọng đại này. Con người và tính cách của nàng là như vậy mà mới cách đây nửa tháng giữa nửa đêm Nhân huệ vương Trần Khánh Dư dám vượt tường rào lọt vào Phủ của nàng. Lúc đó nàng cùng các thị nữ còn đang mải mê uống rượu và múa hát. Thấy Khánh Dư quá đường đột nàng quát lớn:
- Cái tên cẩu trệ kia! Người thật không biết phép vua, pháp quốc là gì nữa sao?
- An Tư! Nàng không biết là đã từ lâu đôi mắt của nàng đã hút hết hồn ta sao? Đêm nay ta đến để cầu xin nàng cho ta... uống rượu thoả thích với nàng.
- Đồ cẩu trê! Nàng vẫn mắng té tát. Nếu ngươi dám muối mặt quỳ trước mặt ta. Úp mặt trong váy ta hôn "chòm râu" giữa háng ta... thì ta sẽ tiếp rượu ngươi đêm nay.
Tưởng bị sỉ nhục đến thế thì hắn phải bỏ đi. Mọi người đều bất ngờ là hắn đã quỳ xuống định làm theo những lời An Tư sỉ mắng. Trước sự trơ trẽn bỉ ổi đến hết mức của Nhân huệ vương An Tư lùi lại. Rút soạt con dao găm lưỡi cong đeo bên sườn ra, dí vào cổ Khánh Dư quát:
- Im đấy! Cựa quậy ta cắt cổ ngươi luôn!... Việc này ta mà vào cung bẩm Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông - anh ruột ta. Vua Trần Nhân Tông cháu ta thì người sẽ bị đánh nhừ xương rồi vứt xác cho chó săn ăn. Chứ không phải như lần trước với công chúa Thiên Thuỵ vợ Hưng Võ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ bị đánh bằng "gậy bấc" làm phép đâu?
Trước phản ứng dữ dội của An Tư, Khánh Dư bèn đứng lên nhưng vẫn đường hoàng ra về qua cổng chính của phủ.
Lại nói Trần Khánh Dư là con trai của Thượng tướng quân Trần Phó Duyệt. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất (1258) lúc đó chưa đầy hai mươi tuổi, nhưng Khánh Dư đã dũng cảm tập hợp gia binh của cha được hơn ngàn người. Rồi nhân lúc quân giặc sơ hở, đã dũng mãnh tập kích đánh úp vào sau lưng doanh trại chúng. Đốt hết lương thảo và xua đàn ngựa chiến của chúng hoảng loạn chạy tứ tung để quân Đại Việt bắt được cả ngàn con. Với chiến công ấy, Thượng hoàng Trần Thái Tông khen là người có trí dũng, tỏ ra yêu mến lắm, nhận là Thiên tử nghĩa nam (tức là con nuôi của vua). Mấy năm sau, vua Trần Thánh Tông sai Khánh Dư đi dẹp quân Man nổi loạn ở vùng Đà Bắc. Khánh Dư có tài đánh thuỷ, đã mưu trí dũng cảm dùng thuyền độc mộc vượt thác Sông Đà đánh thẳng vào động chúa. Quân Man tan rã, chúa Man xin hàng. Nhờ chiến tích đó Khánh Dư được phong tới chức Phiên kỵ tướng quân (chức chỉ dành cho các hoàng tử) và được phong từ tước hầu lên tước vương. Trần Khánh Dư văn võ song toàn, đường gươm của Nhân huệ vương "tuyết rơi, hoa nở", có thể xông vào đám quân cả ngàn như vào chỗ không người. Dư người cao chân dài miệng rộng, môi mỏng. Mắt hơi lồi với hàng mi dài mà cong. Mũi cao, hai cánh mũi mỏng ăn sau vào trông rất dâm đãng. Dư thích chơi bời, săn bắn. Những lúc Dư đi săn về, oai vệ ngồi trên mình ngựa trắng, chú chim ưng lông đỏ, mỏ quặt đậu trên vai là lúc hình ảnh Khánh Dư đẹp nhất. Các thiếu nữ mới lớn thì si mê cái vẻ lãng mạn rất nam tính toát ra từ phong thái ung dung bất cần đời của hắn. Còn cánh phụ nữ đã có chồng thì lại mê mẩn bởi sức hấp dẫn đến không thể cưỡng lại được từ đôi chân dài. Còn ở lớp giữa như công chúa An Tư thì lại nhìn hắn với ánh mắt khinh bỉ dành cho tên "đĩ đực".
Mỗi lần thấy Khánh Dư đi săn về, oai phong trên mình ngựa trắng đi ngang qua phủ là ruột gan công chúa Thái Thuỵ, vợ của Hưng Võ Vương Trần Quốc Nghiễm (con trai cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) lại cồn cào tuyệt độ. Có lần công chúa đã những nhảy bổ ra ôm chầm lấy đôi chân dài của Khánh Dư rồi muốn ra sao thì ra. Công chúa Thái Thuỵ ngực nở, mông cong, hai mắt và đôi môi lúc nào cũng ướt át đầy vẻ thèm khát. Vốn là kẻ già dặn trong tình trường chỉ liếc mắt qua là Khánh Dư đã biết "con mồi" của mình muốn gì? Song hắn luôn "tỉnh bơ" như không thèm để ý, khiến ruột gan Thiên Thuỵ càng cồn cao hơn. Rồi cái gì phải đến đã đến. Chiều đó giả vờ đi săn về, Khánh Dư lại "diễu" ngựa ngang qua phủ Hưng Võ Vương. Lúc ấy Thiên Thuỵ đang chơi với một chú thỏ trắng trong vườn thì nhanh như chớp con chim ưng trên vai Khánh Dư bay vụt lên, dùng các móng vuốt quắp ngang thân con thỏ trắng rồi vẫy cánh bay lên một cành cây trong phủ, dùng chiếc mỏ quắp xé thịt con mồi đánh chén ngon lành. Khánh Dư vội vàng nhảy xuống ngựa chạy thẳng vào phủ, nhún người xin lỗi công chúa vì hành vi "cướp" của "thủ hạ" mình. Công chúa mắt sáng long lanh, miệng cười đon đả bảo:
- Ồ, chuyện không có gì! Không có gì! Mời Nhân Huệ vương vào phòng khách.
Được lời như cởi tấm lòng đôi chân dài của Khánh Dư theo sát công chúa vào bên trong phủ. Khi cánh cửa gỗ lim phòng khách vừa đóng sập lại thì hai cơ thể đã quấn chặt lấy nhau. Chẳng cần màn dạo đầu hôn hít. Khánh Dư bóc váy áo của Thái Thuỵ. Và ngược lại những ngón tay của công chúa vội vàng cởi chiếc quần đi ngựa rộng thùng thình của Khánh Dư. Khi thân thể cả hai đã được bóc trần, Khánh Dư luồn tay dưới cặp mông mẩy và cong của công chúa nhấc lên ngang với chiếc "cần câu" dài và thẳng đứng của mình. Rồi chẳng cần giường chiếu, với sức khoẻ của một võ tướng đang ở độ tuổi xung mãn nhất Khánh Dư lúc đẩy mông Thái Thuỵ ra, lúc dập mông công chúa vào tạo nên một nhịp điệu đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả. Công chúa Thái Thuỵ rú lên sung sướng theo nhịp đôi đơn giản đó. Lúc cao trào nhất đôi tay Khánh Dư đưa ra, ập vào dồn dập như người đẩy cối xay lúa khiến công chúa nấc lên: - Ối! Anh Khánh Dư! Em chết mất! Ối!...
Rồi như mèo đã quen mỡ, vài ngày không gặp được nhau là cả hai đều thấy bồn chồn. Bởi thế mỗi khi Hưng Võ Vương có việc vắng nhà là Thiên Thuỵ lại thả chim bồ câu gọi Khánh dư tới. "Cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải thòi ra" Một lần Khánh Dư đi vắng, cánh thư buộc ở chân chim câu không được gỡ ra thế nào lại rơi vào tay Trần Quốc Nghiễm. Biết công chúa cắm sừng mình, nhưng cũng lo Khánh Dư xảo quyệt lại là Thiên tử nghĩa nam nên Hưng Võ Vương phải lập kế vờ về Vạn Kiếp thăm cha mấy ngày. Nửa đêm Hưng Võ Vương đưa gia binh vây kín phủ, đèn đuốc sáng trưng. Biết sự việc đã bị phát giác, trong lúc công chúa cuống cuồng sợ hãi thì Khánh Dư vẫn bình thản:
- Nàng là công chúa. Còn ta con nuôi thiên tử. Xem hắn làm gì nào?
Rồi ung dung xách gươm bước ra khỏi phòng the. Quốc Nghiễm lăn xả vào đâm và chém loạn xạ. Khánh Dư chỉ đón đỡ chứ không đánh lại. Quốc Nghiễm càng điên cuồng khi thấy công chúa nhảy ra có ý che đỡ cho tình địch. Lợi dụng cơ hội đó Khánh Dư thích một mũi gươm vào vai Quốc Nghiễm rồi mở đường máu tháo chạy. Đám gia binh của Hưng Võ Vương biết Khánh Dư là tay kiếm không vừa nên chỉ vây ở vòng ngoài hò hét, chứ không ai dám xông vào. Khánh Dư ung dung ra chuồng tháo ngựa, nhảy lên và phóng vụt qua cổng phủ.
Sáng sớm hôm sau, Quốc Nghiễm mang cánh tay bị thương còn ướt đẫm máu vào chầu hai vua Trần. Đập đầu xuống sàn, tâu khóc xin hai vua trả lại sự "công bằng" cho mình.
Vẫn biết Khánh Dư là kẻ "trăng hoa" nổi tiếng, nhưng liều lĩnh đến mức như thế này là điều hai vua Trần cũng không thể tưởng tượng được. Một đằng là Thiên tử nghĩa nam, lại từng có công với nước, nếu Trần Quốc Nghiễm không phải là con trai cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chắc Khánh Dư chỉ bị quở trách cho lấy lệ và phạt mấy mâm vàng cùng vài trăm mẫu ruộng là xong. Nhưng thế của Hưng Đạo Vương, mặc dù lúc ấy chưa được phong Quốc Công Tiết Chế nắm giữ toàn bộ binh quyền nhưng cũng đủ làm nghiêng nước. Bởi thế Thượng hoàng Trần Thánh Tông phải ra lệnh bắt trói Khánh Dư ngay. Toàn bộ gia sản bị tịch thu xung vào công quỹ. Chiều tối Thượng hoàng ra lệnh giải Khánh Dư lên bờ Hồ Tây, dùng gậy đập chết rồi quăng xác xuống hồ nuôi cá. Chính ngôn là như vậy. Song mặt khác cả hai vua đều tiếc cái tài của Khánh Dư. Mà người tài đối với quốc gia xã tắc lúc này, trước hoạ xâm lăng của quân Nguyên Mông lại cần hơn lúc nào hết. Do vậy mới ngầm sai lũ lính đó rằng: "Có đánh thì đánh nhẹ tay, đánh làm phép thôi! Chờ đêm tối cắt giây trói! Thả cho hắn muốn đi đâu thì đi!" Nửa đêm Khánh Dư trở về phủ, lấy thanh kiếm và ít bạc lẻ dắt bên mình và con chim ưng, dời bỏ kinh thành Thăng Long về vùng núi Chí Linh, Hải Dương tụ tập lũ vô công rồi nghề, sinh sống bằng việc đốt than. Hưng Đạo Vương và bốn anh em Trần Quốc Nghiễm cho người dò tìm, biết hết cả chân tơ kẽ tóc của vụ việc. Theo luật pháp của triều đình phò mã mắc tội quan hệ với đàn bà con gái khác thì bị khép vào tội "khi quân" phải xử chém. Chẳng may công chúa chết phò mã cũng không được lấy vợ khác. Có lấy thì cũng chỉ "lấy trộm" chứ không được "chính danh". Còn ngược lại phò mã không may chết trước thì vài tháng sau công chúa có quyền tuyển phò mã mới. Còn việc công chúa có hứng chí đi "cắm sừng" thì phò mã cũng phải chịu cảnh "ngậm bồ hòn làm ngọt". Bởi thế Quốc Nghiễm tức đến gần như phát điên, sau khi biết rõ tung tích Khánh Dư ở vùng núi Chí Linh định đưa gia binh tới giết. Em út là Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiếu bảo:
- Khánh Dư kiếm thuật cao siêu. Dùng cách đó chưa chắc đã giết được. Mà mọi việc lại ầm ĩ lên. Chi bằng khoanh vùng rừng hắn đang ở lại. Cho lính tưới dầu xung quanh rồi phóng hoả đốt thì dẫu hắn có phép "thăng thiên độn thổ" cũng không hể thoát được. Trên danh nghĩa Khánh Dư đã làm mồi cho cá rồi. Triều đình có biết cũng không thể bắt tội được. Quốc Nghiễm khen đấy là là "diệu kế" và chuẩn bị thi hành thì Hưng Đạo Vương cho gọi cả bốn con đến Vạn Kiếp. Người bảo:
- Tội Khánh Dư dẫu có lột da xẻ thịt cũng đáng. Nhưng Khánh Dư là người tài trong thiên hạ. Hai thánh thượng vì tiếc cái tài của nó mà đã ngầm ra lệnh khoan dung. Nay ta làm hoá ra cha con ta "không có mắt sao". Như cha đây, khi trước mẹ các con là công chúa Thiên Thành đã được gả cho Trung Thành Vương. Kinh thành mở hội hoa đăng bẩy ngày bẩy đêm. Qua đêm thứ sáu định chiều ngày thứ bẩy thì rước dâu. Nhưng ta đã cướp công chúa từ sáng sớm. Thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Thánh Tông hoàn toàn có thể ghép ta vào tội lăng trì, tùng xẻo. Nhưng hai Thánh thượng đã không làm vậy, các cón có biết vì sao không? Vì hai Thánh thượng biết cha là người tài bởi thế mà bỏ qua cả phép nước. Cha chỉ phải trả lại hai mâm vàng sinh lễ cho Trung Thành Vương và nộp phạt hai ngàn mẫu ruộng ở vùng Mỹ Đức Hà Tây. Các con ạ. Vua sáng không phải thời nào cũng có đâu? Là trang nam tử phải biết lấy báo đền nợ nước làm trọng. Còn chuyện đàn bà nhẹ như lông hồng.
Nhờ thế mà Trần Khánh Dư thoát chết.
Bốn năm sau. Năm 1282, mùa xuân tháng hai, hai vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở bến Bình Than. Phong Hưng Đạo Vương làm Quốc Công Tiết Chế nắm giữ toàn bộ binh quyền để tổ chức cuộc chiến chống Nguyên Mông. Lại cho Quốc Công Tiết Chế được quyền bổ nhiệm và bãi các chức võ quan từ Đô tướng đến Đô uý. Trong khi đó Thái sư Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái thượng Thái hoàng Trần Thái Tông chỉ được phong chức Thượng tướng quân, dưới sự điều động của Quốc Công Tiết Chế.
Trời rét như cứa da, cắt thịt. Mưa phùn gió bấc. Trong màn sương mù mờ ảo, từ trong thuyền rồng vua Trần Nhân Tông chợt thầy một thuyền nan ghé qua. Người chèo thuyền đội nón lá, áo tơi. Nhìn đôi chân dài linh tính như mách bảo nhà vua, người bèn gọi vọng ra:
- Có phải Khánh Dư đó chăng?
Người chân dài mặc áo tơi, nón lá vội chèo thuyền đi thẳng. Vua Nhân Tông nghĩ chỉ có Khánh Dư mới có gan cho thuyền sát vào nơi triều đình đang họp, bèn sai quân lính lấy thuyền nhẹ đuổi theo. Quả nhiên linh cảm và suy đoán của nhà vua là đúng.
Khánh Dư bước lên thuyền rồng. Mặt mũi lấm lem than. Nhớ tới hình ảnh của Nhân Huệ Vương cưỡi ngựa trắng oai hùng hồi nào, vua Nhân Tông rơi nước mắt và sai quân hầu đưa Khánh Dư đi tắm gội và thay phẩm phục của triều đình. Tiếp đó vua phong cho Khánh Dư chức Phó đô tướng thuỷ quân. Trả lại tước vương cùng phủ ở kinh thành. Và cho ngồi ở hàng thứ ba cùng bàn việc nước...
Trở lại Giảng võ đường, trước sự dồn ép diễu cợt của Hưng Đạo Vương lẫn công chúa An Tư, Đỗ Khắc Chung (người ngoài hoàng tộc duy nhất được đứng bên hai vua Trần vốn từ lâu đã kết thân với Trần Khánh Dư vội đỡ lời:
- Muôn tâu hai thánh thượng! Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Chuyện đốt than của Trần Khánh Dư dù thế nào cũng là chuyện đã qua. Khánh Dư đường đường là Nhân Huệ Vương, là người trong hoàng tộc... Bởi thế thần trộm nghĩ để cho Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái tỷ thí với tân Đô uý Ngũ Lão là... thích hợp hơn cả.
Hưng Đạo Vương đã tính tới khả năng này, vả lại chuyện diễu cợt, làm nhục Khánh Dư đến vậy cũng đã đủ nên người ra lệnh hỏi:
- Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái có bằng lòng tỷ thí với tân Đô uý Phạm Ngũ Lão chăng?
Đang đứng trên Ngũ Lão hai bậc, nhưng mặc cho mọi chuyện đang ồn ào diễn ra, Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái như người đang mơ ngủ nên khi nghe Quốc Công Tiết Chế nhắc đến tên mình thì hơi giật mình choàng tỉnh.
Tiếng loa sắt của tên quan hầu nhắc lại lời Hưng Đạo Vương một lần nữa. Nguyễn Khoái "Dạ!" ran và nói:
- Xin tuân lệnh! Đấu vật hay so đao Khoái này đều không chối từ!
Tiếng reo to từ cả hai phía trên kỳ đài:
- Đấu vật trước!
Thảm vật được quân lính nhanh chóng trải ra. Trống vật cũng được khênh tới. Nguyễn Khoái cùng Phạm Ngũ Lão đều trút bỏ võ phục. Nguyễn Khoái đánh một chiếc khố sồi mầu đen. Ngũ Lão vận khố sồi mầu đỏ. Viên quan chủ khảo đánh ba hồi trống dạo. Nguyễn Khoái cùng Ngũ Lão vừa múa các bài biểu diễn dạo đầu, vừa cúi chào hai vua Trần cùng Quốc Công Tiết Chế. Ba hồi trống vừa dứt hai đô nhanh như cắt lao vào nhau như hai con trâu chọi. Người Nguyễn Khoái vâm váp như một gốc lim cổ thụ. Da ngăm ngăm đen, trán hơi thấp, râu quai nón cạo rối bằng dao găm mọc lại lởm chởm. Ngũ Lão da trắng, trán cao, mắt sáng môi đỏ đã hút hồn công chúa An Tư ngay từ lúc thúc ngựa chậm rãi bước một vào Giảng võ đường.
Hai đối thủ ghì chặt lấy nhau. Đầu thúc đầu. Tì vai, thích cánh, không ai chịu kém cạnh ai một ly, một lai. Cánh tay trái của Ngũ Lão cuồn cuộn các chão thịt trắng hồng nổi bật hai chữ "sát Thát" mới thích xanh đen khiến Hưng Đạo Vương vừa ưng ý đánh mắt cho mọi người vừa vuốt chòm râu đen trước ngực.
Ghì đẫy một hồi lâu, hai đôi chân như mọc rễ xuống đất. Bất ngờ Ngũ Lão xoay người, tì vai vào ngực Nguyễn Khoái cúi người thực hiện một cú quật. Như người khác trước đòn đánh bất ngờ, nhanh và mạnh như vậy chắc đã "lấm lưng, trắng trụng". Nhưng " gốc gỗ lim cổ thụ" chỉ bị lạng sườn qua một bên. Nhanh như cắt, Ngũ Lão vòng hai tay ôm được bụng Nguyễn Khoái, gắng hết sức bình sinh "nhổ gốc lim cổ thụ" lên. Nguyễn Khoái hơi loạng choạng. Hai chân bị bốc lên trên mặt thảm vật. Nhưng Ngũ Lão cũng không thể quật ngã được Nguyễn Khoái. Chỉ trong chớp mắt Nguyễn Khoái đã lấy lại được thăng bằng, hai chân lại "mọc rễ" xuống đất. Tuy nhiên quan chủ khảo đã gõ dùi vào thành trống ra hiệu kết thúc keo vật và cầm tay Ngũ Lão giơ lên tuyên bố là người thắng cuộc. Nguyễn Khoái nổi xung thách:
- Ngũ Lão! Người có dám so đao với ta trên lưng ngựa chăng?
- Bẩm! Chờ lệnh của Quốc Công Tiết Chế! Ngũ Lão chắp tay hướng lên kỳ đài thưa.
Hưng Đạo Vương quát xuống:
- Hai hổ chọi nhau, tất có con chết con bị thương! Ta chỉ cho phép hai ngươi so đao bằng sống. Kẻ nào dụng lưỡi sẽ trị theo quân luật.
Lính dắt hai ngựa ra. Trên lưng con Tía, Ngũ Lão chắp tay nói với Nguyễn Khoái:
- Đệ xin nhường hiền huynh ba đao!
Không nói không rằng, Nguyễn Khoái vung sống đao chém liền ba nhát đao, Ngũ Lão nói lớn:
- Giờ hiền huynh xem đao pháp của đệ đây!
Hai ngựa vòng ra rồi ngay lập tức lao vào. Tiếng binh khí va vào nhau chan chát. Đường đao của Ngũ Lão bay lượn đẹp mắt bao nhiêu thì đường đao của Nguyễn Khoái chắc nịch bấy nhiêu. Càng đấu càng hăng. Đã ngoài năm mươi hiệp mà không bên nào chiếm được lợi thế so với bên kia. Khi hai ngựa vừa quay ra để chuẩn bị lao vào nhau, bắt đầu một hiệp đấu mới thì Hưng Đạo Vương quát lớn:
- Nguyễn Khoái, Ngũ Lão! Dừng tay.
Bốn vó trước của hai con chiến mã dựng đứng lên, rồi nện xuống đứng im phăng phắc.
Hưng Đạo Vương hỏi lớn:
- Bây giờ có ai suy bì với tân Đô uý chăng?
Công chúa An Tư đáp:
- Thăng Ngũ Lão lên Đô tướng mới xứng!
Khánh Dư đánh mắt lườm An Tư. "Như thế thì tên nhà quê đan sọt kia vượt cả ta một cấp ư?". Nhưng là người giỏi võ nghệ, trong thâm tâm, Khánh Dư cũng thầm thừa nhận sức lực và đao pháp của Nguyễn Khoái và Ngũ Lão là "thiên hạ vô địch"
Đột nhiên vua Trần Nhân Tông phán:
- Trẫm muốn xung Ngũ Lão vào quân Thánh dực, làm phó cho Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng!
- Hoàng thượng phán chí phải Công chúa An Tư đế vào.
Đỗ Khắc Chung vội can:
- Muôn tâu Thánh thượng! Ngũ Lão dù thế nào cũng chỉ là một kẻ dũng phu! Lại chưa biết bụng dạ thế nào? Xung vào quan Thánh dực e "lợi bất cập hại".
- Dùng ngươi ở bên cạnh thì có lợi chắc! Công chúa An Tư nói với Khắc Chung vẻ diễu cợt.
Nhà vua tỏ ý không hài lòng, song thấy Khắc Chung tâu cũng có lý nên nín lặng.
Tiếp đó Quốc Công Tiết Chế ra lệnh duyệt quân của các xứ tụ họp về. Nhìn quân lính đội nào đội ấy hùng dũng diễu qua kỳ đài hai vua Trần hài lòng lắm! Thượng hoàng Trần Thánh Tông nói:
- Đại Việt ta, chưa bao giờ hùng mạnh như lúc này. Sau khi duyệt quân xong, Quốc Công Tiết Chế ra lệnh cho các tướng. Người đầu tiên Hưng Đạo Vương điều động là Chiêu Minh Vương Thái sư Thượng tướng quân Trần Quang Khải. Với vị quan đầu triều này, Hưng Đạo Vương từ tốn nói:
- Xin nhờ Chiêu Minh Vương Thái sư thượng tướng, quân thống lĩnh mười vạn quân Thanh Nghệ để chặn đánh cánh quân Nguyên Mông do nguyên soái Toa Đô cầm đầu từ Chiêm Thành đánh ra.
- Cấp thêm tiền lương thảo cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật.
- Sai Đô tướng thuỷ quân Nguyễn Khoái thống lĩnh năm vạn quân ra cửa sông Bạch Đằng thao luyện. Kết hợp với dân binh chặt và vận chuyển cọc ra các hang ở vịnh Hạ Long cất giấu. Quân lính phải luôn túc trực! Có lệnh điều động là thực thi được ngay.
- Sai Nhân Huệ vương phó Đô tướng thuỷ quân Trần Khánh Dư đem ba vạn quân ra trấn giữ ở ải Vân Đồn. Giặc đến không cần chặn đánh. Chỉ khi chúng vận lương qua thì phải liều chết. Thứ gì cướp được thì cướp. Không cướp được thì đốt hoặc đánh chìm xuống biển.
- Sai tân Đô uý Phạm Ngũ Lão theo bản vương về đại bản doanh Vạn Kiếp. Hàng ngày luyện tập quân mã. Khi quân Nguyên Mông tràn sang thì lĩnh ấn tiên phong, lên ải Chi Lăng cầm chân giặc.
Các tướng đều "dạ!" ran nhận lệnh.
Vua Trần Nhân Tông thấy Quốc Công Tiết Chế điều binh khiển tướng đĩnh đạc, đường hoàng, đâu ra đấy thì mừng lắm. Song cũng muốn thử Hưng Đạo Vương một lần nữa:
- Quốc Công Tiết Chế này! Trẫm nghĩ quân Nguyên Mông có tới trăm vạn. Đến Kim, Tống, Liêu, Hạ... rộng lớn, hùng mạnh như thế còn bị diệt vong. Huống hồ Đại Việt ta, đất nhỏ, người thưa! Chi bằng hàng đi cho dân đỡ khổ.
Nghe vậy Hưng Đạo Vương vội bước tới trước hai vua Trần. Người rút thanh gươm lệnh, một chân quỳ xuống, hai tay nâng thanh kiếm ngang mặt, khảng khái đáp:
- Muôn tâu thánh thượng: Nếu muốn hàng trước tiên xin bệ hạ hãy chém đầu tôi trước đã.
Vua Trần Nhân Tông vội đỡ Hưng Đạo Vương đứng lên. Vừa cười ha hả vừa nói lớn:
- Ta đùa Quốc Công Tiết Chế một chút thôi mà! Quốc Công Tiết Chế một dạ son sắt như cây thì trẫm yên lòng rồi!... Nhớ trước đây, hơn hai mươi vạn quân Nguyên Mông tràn sang nước ta. Thánh hoàng Thái thượng Trần Thái Tông có hỏi Thái sư Trần Thủ Độ rằng: "Nên hoà hay nên chiến?". Thái sư Trần Thủ Độ đã đáp: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!". Chính nhờ thế mà Đại Việt đã đuổi được giặc Thát ra khỏi bờ cõi.
4
Trước khi về điền trang thực chất bây giờ đã là Đại bản doanh của quân Đại Việt, Hưng Đạo Vương lưu lại tại phủ Quốc Công Tiết Chế ba ngày. Trong những ngày ấy, Người sai Dã Tượng, Yết Kiêu đưa Ngũ Lão đi chơi, thăm thú kinh thành. Tới bến người ngồi ăn một mâm. Tối ngày thứ hai, chờ lúc rượu đã ngà ngà Hưng Đạo Vương lựa lời hỏi Ngũ Lão:
- Nỗi hận của cha ta chắc ngươi đã rõ. Trước lúc lâm chung, người có dặn ta phải cướp ngôi. Nếu ta không làm được việc này, người chết không nhắm mắt được. Nay binh quyền đã "lệch nước" đó là lúc thực hiện lời trăng trối của cha. Ý ngươi thế nào?
Ngũ Lão vội dời bàn ăn, quỳ trước mặt Hưng Đạo Vương thưa:
- Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Ngũ Lão này ngu muội nhưng cũng biết phép "Quân - Thần" Thù cha là việc nhỏ. Nợ nước mới là trọng. Nay Quốc Công Tiết Chế tiếm ngôi. Cái vinh được tăng chốc lát. Cái nhục để lại muôn đời... Vả lại Đại Việt đang đứng trước hoạ Nguyên Mông. Lúc này hơn bao giờ hết, tất cả muôn người phải đồng lòng như một, Quốc Công Tiết Chế làm vậy, khác nào đem Đại Việt dâng cho sói lang Thát. Ngũ Lão đã cởi hết tấm lòng, mong Quốc Công Tiết Chế nghĩ lại. Nhược bằng Quốc Công Tiết Chế cứ khăng khăng làm theo lời cha, Ngũ Lão này xin cáo từ về quê tập hợp trai tráng trong vùng, lập nghĩa dũng đoàn để báo đền nợ nước. Và khi cần sẽ đưa anh em về kinh thành bảo vệ hai Thánh thượng dù có phải sống còn với Quốc Công Tiết Chế. Nghe Ngũ Lão bộc bạch như vậy, Hưng Đạo Vương vội xô ghế đứng dậy, ôm chầm lấy Ngũ Lão, nước mắt đầm đìa, thốt lên rằng:
- Không ngờ Ngũ Lão lại có lòng trung đến như vậy. Từ nay ta nhận ngươi làm con nuôi. Và ta dặn đây, trước quân lính thì ta là Quốc Công Tiết Chế. Còn trong nhà thì ta là cha. Cả Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng là con. Ai trái lệnh ta phạt.
Cả ba người cùng quỳ trước mặt người và đồng thanh hô:
- Dạ! Thưa cha! Chúng con xin tuân lệnh người.
Hưng Đạo Vương tỏ ra hài lòng lắm. Rồi người kể:
- Cách đây chưa lâu. Ta cũng đem việc vừa nói với Ngũ Lão bàn với bốn con trai. Ba đứa im lặng không nói gì. Chỉ có thằng thứ ba là Quốc Tảng dám nói giọng càn rỡ. Nó bảo: "Thiên hạ là của chung. Ai mạnh thì người ấy được. Như trước đây nhà Trần, vốn xuất thân từ nghề đánh cá. Nhưng nhà Lý bạc nhược, nên Thái sư Trần Thủ Độ mới dùng sức mạnh mà chiếm lấy. Chuyện bên Tầu, thời Xuân Thu nước Ngô mạnh hơn nước Việt. Trời đã cho Ngô chiếm được Việt. Song Ngô Phù Sai lại ham mê tửu sắc mà tha cho Việt Câu Tiễn về. Bởi thế trời phạt, cho Việt chiếm lại Ngô khiến Phù Sai chết không có chỗ chôn". Nghe tới đấy thì ta nổi giận, rút gươm ra chém. May có thằng cả là Quốc Nghiễm kịp giữ tay. Hai thằng Quốc Uất và Quốc Hiện quỳ lạy xin ta tha tội chết. Như thế mà thằng Tảng mới còn đến bây giờ. Nhưng ta chỉ mặt nó mà mắng rằng: "Mày định đẩy ta vào chỗ bất trung hay sao? Sau ta chết, chỉ khi nào đậy nắp quan tài, chúng mày mới được cho thằng Tảng vào viếng". Nay di chúc này ta cũng dặn lại các con. Hãy nhớ cho kỹ!
Tối thứ ba, Hưng Đạo Vương mở yến tiệc tại phủ. Mời phu nhân là công chúa Thiên Thành cùng con gái nuôi là quận chúa An Nguyên cùng dự.
Ngũ Lão cúi rạp mình vái lạy:
- Dạ! Bẩm thảo dân Ngũ Lão xin được ra mắt phu nhân và quận chúa ạ!
Hưng Đạo Vương vừa vuốt râu cười vừa mắng yêu:
- Ngũ Lão con lại thế rồi. Trong Vương phủ của ta không có Quốc Công Tiết Chế nào hết. Cũng không có phu nhân hay quận chúa nào cả. Chỉ có ta là cha các con. Và đây là thân mẫu (chỉ phu nhân của người) các con. Và An Nguyên là em gái các con.
- Dạ! Bẩm... Con Ngũ Lão xin được ra mắt mẫu thân ạ!... Và anh xin được gặp mặt em An Nguyên.
Hưng Đạo Vương cười lớn:
- Có thế mới phải chứ!
Rồi sai quận chúa An Nguyên đi rót rượu cho Ngũ Lão. Quận chúa người cao dong dỏng. Mặt trái xoan, lông mày lá liễu. Mắt to, đen và hiền. Thái dương bên trái nổi một đường gân xanh, chứng tỏ sức khoẻ không được tốt lắm.
An Nguyên lúng túng rót đầy chén rượu của Ngũ Lão tràn cả xuống bàn. Ngũ Lão lí nhí nói lời "cám ơn". Tự khuôn mặt trái xoan của nàng đỏ ửng lên, lan xuống tận cổ. Dã Tượng nháy mắt đá vào chân Ngũ Lão ở dưới gầm. Ngũ Lão cũng tỏ vẻ ngượng ngượng. Hưng Đạo Vương ghé tai phu nhân vừa cười mỉm vừa nói nhỏ:
- Thế là cá đã cắn câu rồi nhé.
Vừa về đến đại bản doanh Vạn Kiếp, Ngũ Lão đã thưa:
- Dạ! Bẩm cha! Nguyên Mông vốn mạnh về quân kỵ! Nên cách ứng phó tốt nhất là dùng câu liêm móc chân ngựa. Xin cha cấp cho con ba vạn quân để ngay ngày mai con đem đi huấn luyện.
Hưng Đạo Vương theo thói quen vuốt chòm râu trước ngực cười và bảo:
- Con ta thật sáng suốt! Ta cũng đã nghĩ tới việc này rồi! Bởi thế đã cho rèn sẵn ba vạn bộ câu liêm thương để trong kho. Ngày mai người điểm binh, lĩnh khí... đi rèn quân ngay, kẻo muộn.
- Dạ! Bẩm! Xin tuân lệnh cha!... Dạ còn một việc nữa, không biết con có tiện bẩm với cha không?
- Đã là chỗ cha con trong nhà! Có gì con cứ nói. Dù có trái ý, cha cũng không quở trách đâu!
- Dạ! Bẩm thưa cha. Khi xưa Ngô Vương Quyền phá giặc Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng chỉ dùng cọc lim là đủ. Nhưng nay thuyền của giặc Nguyên Mông to lớn hơn nhiều. Bởi thế khi nước triều lên, thuyền của Đại Việt ta nhỏ bé sợ không kìm được thuyền lớn của giặc...
Ngũ Lão mới nói tới đấy thì Hưng Đạo Vương đã vội ngắt lời:
- Thế nên con mới khuyên cha cho rèn xích sắt, căng qua bờ sông để cản thuyền giặc lại chứ gì?
- Dạ! Bẩm thưa cha đúng là như vậy ạ!
- Con ta quá giỏi giang! Song ta cũng đã nghĩ tới từ lâu và cho người bí mật rèn mấy chục bộ xích cùng hàng chục cọc sắt lớn, đóng hai bên bờ sông. Khi triều lên thì căng xích lên. Lúc triều xuống thì rút cchốt thả xích ra để thuyền giặc lao vào bãi cọc lim ngầm...
- Cha thật là thần toán. Đến Gia Cát Lượng thời Tam quốc bên Tầu cũng không bằng! Ngũ Lão buột miệng cảm thán.
Hưng Đạo Vương đắc ý lắm, vừa vuốt râu vừa tươi cười mà bảo:
- Con ta văn võ song toàn! Thật là trời cho con xuống giúp cha phá giặc dữ.
Ngũ Lão lĩnh mệnh dẫn ba vạn quân ra đóng trại cách Đại bản doanh Vạn Kiếp mười lăm dặm. Ở vùng đất đồi rộng lớn Quế Võ thuộc Bắc Ninh bây giờ cũng quân lính tập ngày, tập đêm, ăn ngủ ngay ở trang trại. Chỉ khi nào có lệnh của Hưng Đạo Vương gọi về bàn luận công việc mới rời quân doanh.
Một chiều cuối thu. Nắng vàng nhưng gió heo may đã se se lạnh. Quân hầu vào bẩm báo với Hưng Đạo Vương, lúc đó Người đang đọc binh thư ở trong trướng.
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Có công chúa An Tư từ kinh thành Thăng Long sang! Cứ đòi vào gặp Quốc Công Tiết Chế ạ!
Hưng Đạo Vương giật mình ngạc nhiên không hiểu công chúa An Tư sao lại tìm sang đây để làm gì? Người vội vàng sai lính sửa soạn phòng khách. Hưng Đạo Vương bước ra thấy công chúa An Tư vẫn ngồi trên mình ngựa cùng đoàn tuỳ tùng vài chục tên lính Thánh Dực và năm cung nữ. Hưng Đạo Vương vội đon đả:
- Công chúa sang tệ xá của bản vương chơi hay có việc gì bản vương còn tiện thu xếp để nghinh tiếp.
Hưng Đạo Vương từ lâu đã biết tính ngang ngạnh của công chúa An Tư.
- Ta vừa sang thái ấp của Quốc Công Tiết Chế chơi, vừa có công chuyện muốn gặp mặt người! Công chúa vừa cười vừa nói. Chưa chi đã có vẻ gây sự khiến Hưng Đạo Vương càng ngạc nhiên hơn.
- Chắc trong lòng Quốc Công Tiết Chế còn hồ nghi chứ gì? Để ta xuống ngựa rồi sẽ nói cho ngài rõ. Công chúa tiếp lời.
Hưng Đạo Vương vội sai quân lính đỡ công chúa xuống và mời vào đại sảnh. An Tư lại cười và bảo:
- Cứ từ từ để ta hít thở không khí trong lành ở đây một chút. Quốc Công Tiết Chế thật tinh đời! Chọn chỗ này vừa cao ráo, vừa thoáng đãng và vô cùng rộng rãi nữa. Chứ ở kinh thành đất chật, người đông, xe ngựa, thuyền bè đi lại như mắc cửi chóng cả mặt.
Sau khi đã phân ngôi chủ khách, vừa nâng chén trà Thái nóng bỏng lên môi nhấp một ngụm nhỏ, An Tư đã đặt xuống bàn và hỏi độp luôn:
- Phạm Ngũ Lão ở đâu?
- Công chúa muốn tìm Ngũ Lão có việc gì? Hưng Đạo Vương thực sự ngạc nhiên hỏi lại.
- Quốc Công Tiết Chế lọc lõi hơn người mà lại vờ vịt hỏi ta câu đó ư? An Tư vặc lại.
Hưng Đạo Vương vội cười phá lên:
- Bản vương hỏi thực lòng mà công chúa không tin sao?
- Tin là tin thế nào? Ta hỏi lại Ngũ Lão đâu?
- Nếu quả thực công chúa muốn biết thì bản vương cũng chả dấu làm gì! Mà cũng chả có việc gì phải giấu đúng không?... Ngũ Lão hiện đang đưa ba vạn quân lĩnh ra Quế Võ thao luyện.
- Thế tối nay có về Đại bản doanh đây không?
- Việc quan đâu phải chuyện chơi. Ngũ Lão phải thao luyện cho quân sĩ cả ngày, cả đêm, lúc mưa cũng như khi nắng... Sao chiều tối lại có thể bỏ mặc binh sĩ đấy mà về đây được. Hưng Đạo Vương đã hơi cao giọng.
- Nay ta muốn vời Ngũ Lão về có chút việc có được chăng? An Tư bình thản bảo.
- Việc quân cơ, bản vương nghĩ là không được?
- Nhưng ta vẫn nghĩ là được thì Quốc Công Tiết Chế nghĩ sao?
- Công chúa quá rõ tính khí của bản vương xưa nay là thế nào rồi! Đã quyết thì đến trời cũng không thay đổi được. Nhưng mà... công chúa hôm nay gặp may đấy! Từ sáng ta đã cho người đi gọi Ngũ Lão về để sai bảo một số công việc.
- Thế thì trời chiều lòng người rồi. Ta sẽ ngồi đây để chờ Ngũ Lão. An Tư như reo lên.
Đến lúc này thì Hưng Đạo Vương mười phần đã hiểu được bẩy, tám. Công chúa An Tư đã có tư tình với Ngũ Lão, nhưng không biết tự bao giờ. Và điều này đối với Ngũ Lão là... đi vào chỗ chết vì mắc tội khi quân. Vốn từ thời Thái sư Trần Thủ Độ đã ban ra luật "nội hôn" hết sức ngặt nghèo. Con gái họ Trần chỉ được kết hôn với người cùng hoàng tộc. Mà Công chúa An Tư vốn ngang tàng, ương ngạnh. Ta không tìm cách gì chắc chắn Ngũ Lão thoát khỏi kiếp nạn này.
Vừa lúc ấy có tin lính hầu từ ngoài chạy vào:
- Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Ngũ Lão theo lệnh truyền của Quốc Công Tiết Chế đã có mặt ạ! Tên lính vừa quỳ vừa bẩm.
- Cho vào! À mà thôi? Hưng Đạo Vương chợt đổi ý định. Để ta ra đó.
Hưng Đạo Vương vừa bước ra thì công chúa An Tư cũng nối bước ra theo. Ngũ Lão quỳ một chân, tay phải đặt lên ngực, cúi rạp người bẩm:
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế! Ngũ Lão đã có mặt theo lệnh truyền của Quốc Công Tiết Chế ạ!
- Thấy Ngũ Lão có phần ngỡ ngàng trước việc bên cạnh Hưng Đạo Vương có một người con gái ăn vận kiêu sa, sắc đẹp lộng lẫy như tiên nữ, Quốc Công Tiết Chế vội giới thiệu:
- Đây là công chúa An Tư. Con gái út của Thái hoàng Thái thượng Trần Thái Tông.
- Mạt tướng xin kính cẩn chào công chúa! Ngũ Lão đã đứng dậy vội cúi gập người xuống.
- Ngũ Lão cứ tự nhiên! Không phải giữ lễ như vậy. Giọng An Tư có phần run run trước vẻ oai phong lẫm liệt của Ngũ Lão.
- Dạ! Bẩm! Mạt tướng không dám ạ!
- Nếu ngươi cố tình giữ lễ như vậy thì cũng tốt.
An Tư đã lấy lại được giọng của kẻ quyền quý. Ta vốn muốn sang đây chơi. Nhưng ngươi cứ khăng khăng ép ta phải là công chúa. Vậy công chúa có việc sai bảo ngươi có làm không?
- Dạ! Bẩm mạt tướng xin chấp nhận. Dù có phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng cam lòng!
- Đấy! Quốc Công Tiết Chế nghe rõ mười mươi đấy nhé! Ngũ Lão cam tâm phục vụ ta, chứ đâu phải ta ép buộc Ngũ Lão nhé!
Sự nhanh trí của An Tư khiến Hưng Đạo Vương có chút phân vân, nghĩ ngợi. Người nghĩ cứ đợi thêm chút nữa xem sao, nên im lặng không nói gì.
An Tư rẽ đám đông quân lính đứng lố nhố bước thẳng ra bãi cỏ rộng phía trước. Đến bên con ngựa Tía cao lớn, lực lưỡng nàng nói:
- Hẳn con ngựa này là của Ngũ Lão. Là ngựa quý đấy! Vừa phi nước đại mười mấy dặm về mà lông không có chút mồ hôi nào là ngựa khoẻ. Sẽ không bị cảm hay ốm đau khi trời mưa nắng, giá rét bất thường.
Cả Hưng Đạo Vương lẫn Ngũ Lão đề thốt kinh trước tài xem tướng ngựa của công chúa.
- Chắc nó hiền chứ Ngũ Lão? An Tư cất tiếng hỏi: giọng mềm mại chứ không đài các, quyền quý như trước.
- Dạ! Bẩm công chúa nó cực hiền và luôn tuân lệnh của mạt tướng ạ!
- Ồ! Thế thì tốt quá! An Tư vội cười phá lên. Bây giờ ta muốn cưỡi trên lưng nó. Còn Ngũ Lão cầm cương đưa ta đi dạo ngắm cảnh... Nghe tới đó thì Ngũ Lão đưa đôi mắt sang Hưng Đạo Vương tỏ ý cầu cứu. Hưng Đạo Vương mỉm cười, khẽ gật đầu.
- Nhưng có mà con ngựa này khí cao. Ngũ Lão đỡ ta lên yên đi!
- Dạ! Bẩm mạt tướng đã có cách... để công chúa dễ dàng ngồi trên lưng nó. Ngũ Lão nhanh trí đáp.
Hưng Đạo Vương bắt đầu vuốt râu, tỏ ý hài lòng.
- Tía! Quỳ xuống! Ngũ Lão chỉ ra lệnh khẽ.
Con Tía đầu tiên khuỵu hai chân trước, tiếp đó hai chân sau, bụng không chạm đất.
- Xin mời công chúa lên ạ!
Lũ nữ tỳ cùng lúc xúm vào. An Tư có vẻ không hài lòng "giận cá chém thớt" quát bọn chúng lui ra. Con Tía nhẹ nhàng cất mình đứng lên. An Tư bảo Ngũ Lão đưa cho mình chiếc roi ngựa.
Công chúa cưỡi ngựa rất thiện nghệ, nhưng vẫn bắt Ngũ Lão cầm cương đi bên cạnh. Lũ lính Thánh Dực hộ vệ công chúa từ kinh thành sang vội vã đi theo. Công chúa quay lại quát:
- Cút ngay! Ngũ Lão sức địch muôn người. Võ nghệ lại siêu quần, chẳng lẽ không bảo vệ được ta hay sao mà phải cần đến lũ các người.
Lũ lính "dạ" ran quay lại, nhưng năm cô nữ tỳ vẫn kiên quyết bám theo. Đi được một đoạn An Tư gợi chuyện:
- Ngũ Lão này! Ngươi có biết ta sang đây vì cái gì không?
- Dạ! Bẩm mạt tướng làm sao mà biết được!
- Ngươi không biết thật hay giả không biết?
- Dạ! Bẩm mạt tướng có ba đầu sáu tay đâu mà dám dối công chúa.
- Được! Ngươi không biết thì ta nói cho ngươi hay. Ta sang đây để thăm ngươi. Rõ chưa?
Ngũ Lão nghe lời An Tư mà tưởng tiếng sét đánh bên tai:
- Dạ! Bẩm công chúa nói gì mạt tướng không hiểu ạ!
- Ngươi có phải là trang nam tử không?
- Dạ! Bẩm công chúa phải ạ!
- Trang nam tử mà thế à?
- Dạ! Bẩm mạt tướng trộm nghĩ trang nam tử là phải đeo ba thước gươm đi trả nợ nước. Dẫu xác có phơi ngoài đồng nội. Thây có bọc trong da ngựa cũng không sờn lòng ạ.
- Ngươi là võ tướng mà mỏ miệng ra là sặc mùi mọt sách của bọn hủ nho vậy?
Ngũ Lão nín lặng. Dường như có phần hối hận vì đã quá lời, An Tư dịu giọng:
- Ta muốn từ giờ phút này ta với ngươi xưng hô thế này. Không có công chúa mà chỉ có An Tư. Cũng không có mạt tướng mà chỉ có Ngũ Lão. Người đồng ý nhé!
- Dạ! Bẩm mạt tướng không dám ạ!
- Cái gì cũng không dám! Không dám!... Vậy ta ra lệnh người có dám trái không?
- Dạ! Bẩm mạt tướng vẫn không dám ạ!
An Tư quay ngang, chợt thấy lũ nữ tỳ vẫn bám ở phía sau thì nổi nóng, nhoài người lấy roi ngựa quất chúng túi bụi.
- Cút về! Ta tưởng các người đã cút theo lũ quân Thánh Dực từ nãy cơ mà!
Ngũ Lão vội đưa tấm thân lực lưỡng ra che chắn. Không ngọn roi nào của công chúa trúng vào đầu vào mặt lũ nữ tỳ. An Tư đổi giọng làm lành:
- Được! Các ngươi vào hùa với nhau bắt nạt ta. Về kinh ta sẽ tâu với hai Thánh thượng xem các ngươi có chịu được... hình phạt không?
- Mong công chúa bớt giận! Bớt giận! Đám nô tỳ đồng thanh nói. Chúng em chỉ làm theo bổn phận thôi ạ!
- Ta đùa đấy thôi! An Tư vội cười lớn. Đời nào ta lại để hai Thánh thượng trừng phát Ngũ Lão của ta... Rồi nàng chậm rãi kể. Cái hôm ở Giảng Võ đường, lúc ngươi so đao với Đô tướng Nguyễn Khoái, bất phân thắng bại. Vua Nhân Tông, cháu ruột ta đã phán "Trẫm muốn xung tân Đô uý Ngũ Lão vào quân Thánh Dực, làm phó cho Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Ta đã reo lên: "Thánh thượng thật sáng suốt!" Thì cái thằng mặt trắng Đỗ Khắc Chung đã xúc xiểm: "Ngũ Lão chỉ là một tên nhà quê đan sọt, có chút dũng phu. Đã biết bụng dạ thế nào mà để ở gần hầu hạ hai thánh thượng". Vua Nhân Tông không hài lòng nhưng thấy lời của thằng xiểm nịnh mặt trắng ấy không phải là không có lý nên nín lặng. Nếu Thánh thượng cứ ra lệnh thì lúc nào ta muốn gặp Ngũ Lão mà chả được. Việc gì phải lặn lội, cất công sang đây!
Nhưng mà sang đây cũng có cái hay phải không Ngũ Lão?
- Dạ! Bẩm mặt tướng không rõ ạ!
- Thôi được! Không rõ cũng không sao? Từ đây ra Lục đầu giang khoảng bao nhiêu dặm hả Ngũ Lão? Đột nhiên An Tư hỏi.
- Dạ! Bẩm khoảng trên hai chục dặm ạ!
- Thế thì cũng gần đấy nhỉ? Ta muốn ra ngắm Lục đầu giang vào buổi chiều thu như thế này thì chắc là đẹp lắm!
Ngũ Lão nín lặng. Công chúa An Tư nửa trách nửa hờn:
- Sao Ngũ Lão không trả lời ta. Nhưng cũng không sao? Bây giờ ta muốn Ngũ Lão lên ngồi sau lưng ta, trên con ngựa tía này, phóng thẳng ra Llục đầu giang. Chỉ loáng một cái là đến. Rồi loáng một cái là về... Đến lúc này thì Ngũ Lão thực sự kinh hãi, vội thụp xuống chân ngựa mà thưa rằng:
- Xin công chúa tha mạng! Tha mạng!... Mạt tướng còn mẹ già không nơi nương tựa.
- Ai làm gì mà ngươi giẫy lên như đỉa phải vôi vậy! Ta lệnh cho ngươi dẫn ta đi chơi. Ngươi đã cam tâm chấp nhận. Có cả Quốc Công Tiết Chế làm chứng. Sao bây giờ lại thay đổi làm vậy?
- Dạ! Bẩm cầm roi, dắt ngựa cho công chúa mạt tướng làm được. Chứ còn ngồi sau lưng công chúa trên con tía thì có ăn gan hùm, tim báo mạt tướng cũng không dám ạ!
- Ta cũng là người chứ có phải là ma, là quỷ đâu mà ngươi lại sợ đến mất mật như thế!
- Dạ! Bẩm công chúa lá ngọc cành vàng mười phần xinh đẹp. Nhưng luật pháp của triều đình đã quy định rất rõ... Mạt tướng đũa mốc đâu dám chòi mâm son... Chu di tam tộc là cái chắc. Mong công chúa rủ lòng thương cho mạt tướng. Cả năm nữ tỳ đi theo hầu cũng đồng loạt quỳ xuống.
- Mong công chúa tha tội chết cho chúng em... Chỉ cần công chúa có "sơ xẩy" gì thì chúng em cũng bị chu di cả chín họ ạ! Điều này công chúa biết rõ mà.
- Hừm! Từ đầu tới đuôi, các người đều vào hùa với nhau bắt nạt ta! Bắt nạt ta... An Tư nói trong nước mắt.
Tất cả vẫn đang quỳ dưới đất, đồng thanh đáp:
- Mạt tướng không dám!
- Nô tỳ chúng em không dám ạ!
- Thôi được! Bây giờ thì quay về! Ta cũng mất hết cả hứng rồi.
Tất cả lại đồng thanh hô: "Tạ ơn công chúa" và đứng dậy.
Hưng Đạo Vương thấy cả đoàn người quay về sớm thì vui ra mặt. Người ra lệnh:
- Quân bay đâu! Đưa công chúa vào màn trướng nghỉ ngơi! Nhớ chăm sóc cho chu đáo... Để tối nay bản vương thết đãi tiệc rượu công chúa.
An Tư ngồi phía tay phải Người. Năm thị nữ đứng hầu phía sau. Bên trái là Phạm Ngũ Lão tiếp đến là Dã Tượng và Yết Kiêu.
- Quân bay đâu! Rót rượu mời công chúa. Hưng Đạo Vương ân cần ra lệnh.
Tên lính hầu rót rượu mời Hưng Đạo Vương tiếp đó rót cho công chúa. An Tư gạt chén rượu đó ra, rượu sóng cả ra bàn.
- Ngũ Lão đâu! Người phải rót rượu cho ta. Và cả cho ngươi nữa. Rồi cả hai chúng ta cùng cạn chén.
Công chúa An Tư quát yêu. Hưng Đạo Vương đưa mắt cho Ngũ Lão. Hiểu ý chủ, Ngũ Lão vòng qua phía bàn bên này lấy một chiếc cốc vại từ khay một tên lính hầu đứng bên, rót một cốc thật đầy, rồi quỳ một chân xuống đất, hai tay nâng cốc rượu, kính cẩn mời:
- Mạt tướng xin dâng rượu công chúa!
- Thế còn rượu của ngươi đâu?
- Công chúa cứ bình tâm! Ai cũng có phần hết.
Hưng Đạo Vương vội chen vào. Công chúa là khách quý của bản vương, trước tiên bản vương phải mời công chúa trước, thế mới phải phép.
Thấy có vẻ cũng xuôi xuôi công chúa nâng cốc rượu lên, uống một hơi hết sạch. Xưa nay ngoài tài cưỡi ngựa thì cái khoản "nam vô tửu như cờ vô phong" An Tư cũng chả kém ai.
- Bây giờ đến lượt bản vương mời công chúa.
Nói rồi Hưng Đạo Vương nhoài tấm thân rất trường của người mềm mại nhấc chiếc bình bằng bạc chân khảm rất cầu kỳ rót cho An Tư một cốc đầy. An Tư vừa uống cạn thì đã thấy Dã Tượng lù lù đứng bên cạnh.
- Đến lượt gia tướng được hân hạnh rót rượu mời công chúa!
Thấy Dã Tượng vâm váp, to lớn khác thường Công chúa An Tư hỏi:
- Ngươi có phải là người có tài chuyên bắt voi rừng phải không?
- Dạ! Bẩm công chúa chính là gia nô của Quốc Công Tiết Chế ạ!
Tiếp đó đến lượt Yết Kiêu. Lúc này đã uống ba cốc rượu nên công chúa đã có phần sưa sưa rồi, nhưng vẫn nói:
- Yết Kiêu là tên loài chó mõm ngắn hay là loài cá mõm lớn có phải không?
- Dạ! Bẩm công chúa là chó hay là cá... hay là gì gì đi nữa thì được làm gia nô của Quốc Công Tiết Chế cũng thoả một đời rồi ạ!
- Chí lý! Chí lý! Quốc Công Tiết Chế có được những gia tướng hay gia nô... tài ba nức tiếng thiên hạ, lại trung thành như vậy thật là đáng khen! Đáng khen! Nói rồi uống cạn luôn chén thứ tư.
- Bây giờ lại đến lượt bản vương tiếp rượu cho công chúa!... Sau đó là Ngũ Lão nghe chưa?
Ngũ Lão "Dạ" ran.
Nhưng vừa cạn cốc từ tay Hưng Đạo Vương thì công chúa An Tư đã thực sự say rồi. Nàng huyên thuyên nói một hồi thì gục xuống bàn. Hưng Đạo Vương quát bọn thị tỳ đi theo công chúa vực nâng vào khuê phòng và dặn dò lũ lính Thánh Dực phải thay phiên nhau gác trước cửa.
- Nếu có sơ sẩy gì thì các ngươi có ba cái đầu cũng không gánh nổi trách nhiệm đâu. Người doạ.
Sáng sớm hôm sau, tỉnh giấc, lúc đầu An Tư còn chưa biết mình đang ở đâu. Một lúc sau định thần, nàng nhớ ra tất cả, biết là mắc mẹo Hưng Đạo Vương, bèn quát lũ nô tỳ chải đầu, vận xiêm y thật nhanh để đi tìm Người làm cho ra nhẽ.
Tại phòng khách, Hưng Đạo Vương đã chuẩn bị món súp yến điểm tâm, vừa bổ dưỡng vừa để dã rượu. Vừa trông thấy An Tư, Người đã tươi cười, niềm nở:
- Đêm qua, công chúa ngủ ngon giấc chứ!
- Thầy trò Quốc Công Tiết Chế thật là gian xảo. Hè nhau lừa một người con gái chân yếu tay mềm như ta mà không thấy xấu hổ chăng?
Hưng Đạo Vương vẫn tươi cười:
- Binh pháp có câu "trong cách dùng binh có quyền được trí trá"!
- Thế ra bản vương cũng coi ta là giặc ru?
- Công chúa không phải là giặc! Nhưng công chúa định làm rơi đầu tướng tài của ta nên buộc ta phải "đùa" lại một chút.
- Ta hỏi thật một câu Quốc Công Tiết Chế có dám trả lời không?
- Xin công chúa cứ tự nhiên.
- Ngũ Lão giờ này ở đâu? Ta muốn gặp!
- Ngũ Lão có việc binh. Ngay tối qua đã phải đem năm ngàn quân kỵ lên ải Chi Lăng rồi! Thám mã báo quân Nguyên Mông đã cất quân sát biên giới Đại Việt rồi....
- Quốc Công Tiết Chế nói dối! Ta không tin.
- Công chúa cứ cho lính lật tung từng thước đất tại Vạn Kiếp này lên. Nếu thấy Ngũ Lão, bản vương xin dùng gươm cứa cổ tự vẫn ngay trước mặt công chúa.
An Tư nổi khùng hất tung bàn súp yến, nghiến răng nói:
- Quốc Công Tiết Chế muốn đấu với ta. Được ta cũng sẽ đấu với người đến cùng.
- Vì lẽ gì?
- Lẽ gì thì bản vương tự biết!...
Người muốn đấu với ta để dành Ngũ Lão cho An Nguyên, con gái nuôi của người chứ gì? Không có gì qua được mắt ta đâu? Trước cơn "bốc lửa" của công chúa, Hưng Đạo Vương lại dịu giọng:
- An Tư muội! (chả là cha của Hưng Đạo Vương là Trần Liễu là anh ruột của cha An Tư là Trần Cảnh). Muội còn lạ gì tính khí của huynh nữa. Huynh có chịu lùi trước ai bao giờ đâu. Khi xưa công chúa Thiên Thành đã được cha muội và vua Trần Thánh Tông gả cho Trung Thành Vương rồi. Lễ hội tưng bừng đến hết ngày thứ sáu. Qua ngày thứ bảy đón dâu thì huynh đã đến cướp tay trên của Trung Thành Vương. Nhưng cả Thái thượng hoàng là cha muội lẫn vua Trần Thánh Tông có làm gì được huynh đâu? Vì sao? Vì huynh là người... mà Đại Việt rất đang cần. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cái quan trọng hơn huynh là người trong hoàng tộc. Chứ tài gấp mười huynh, mà là người ngoài thì có ba đầu, sáu tay cũng bị chu di chín họ... Bây giờ muội bảo huynh đấu với muội. Huynh không đấu mà là huynh xin muội. Như trước huynh đã nói huynh chưa phải xin ai bao giờ, cần thì huynh cướp. Nhưng lần này thì huynh xin muội...
- Huynh xin muội thật sao? Công chúa An Tư hết sức ngạc nhiên Ngũ Lão quan trọng với huynh đến thế hay sao? Mà huynh phải hạ cố như vậy?
- Ngũ Lão chẳng có gì quan trọng với huynh mà cũng chả có gì quan trọng với An Nguyên. Có hàng chục vương tôn công tử đêm ngày quỳ trước vương phủ để cầu hôn con gái nuôi của ta...
- Vậy thì vì cái gì mà huynh lại hết lòng ưu ái với Ngũ Lão như vậy?
- Vì cái gì ư? Vì nước non Đại Việt. Muội nhớ cho rõ là vì nước non Đại Việt. Phía bắc là quân Nguyên Mông. Phía nam cũng là quân Nguyên Mông do Toa Đô cầm đầu chắc chắn sẽ hai đầu giáp công Đại Việt ta. Trong khi đó thì Nguyễn Khoái và Ngũ Lão là hai cây cột chống trời của Đại Việt ta. Chỉ cần triều đình biết muội có tư tình với Ngũ Lão là cả ba họ nhà Ngũ Lão sẽ bị chém đầu ngay. Ta biết tấm lòng của muội với Ngũ Lão tốt đẹp như thế nào? Ta đã từng yêu công chúa Thiên Thành từ năm mười sáu tuổi. Ta hiểu và thương cảm với muội lắm chứ! Nhưng mà ta với Thiên Thành khác. Mà muội với Ngũ Lão khác. Thương nhau như thế bằng mười hại nhau, muội có hiểu không?
Công chúa An Tư trước những lời lẽ hết sức chân tình, bắt đầu từ chữ "ta xin muội" đã khiến nàng mát lòng mát dạ. Đến đoạn "thương nhau như thế bằng mười hại nhau" thì nàng đã hoàn toàn tỉnh ngộ.
- Như thế là muội sai rồi! Nàng tấm tức trong nước mắt.
- Không sao? Đời ai chả có lúc sai. Cái chính là nhận ra được cái sai của mình đúng lúc... À quên, tiện đây ta cũng giải thích thêm cho muội... là An Nguyên chỉ là con gái nuôi của huynh. Chứ là con đẻ thì... muội hiểu rồi. Muội có oán giận huynh hay có trách huynh thì huynh cũng đành chấp nhận thôi!
- Không! Bây giờ thì muội hiểu! Và muội chỉ còn cảm thấy thương mình thôi!... Có lẽ về kinh... muội sẽ đi tu...
- Sao muội lại nghĩ quẩn thế? Mới qua hai mươi cái xuân xanh, đời còn dài lắm! Biết đâu sau này với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của muội lại có thể giúp được Đại Việt việc gì chăng?
- Giúp gì đây? Từ nhỏ đến giờ muội chỉ biết chơi bời, gây gổ... Ăn hại cơm trời, uống hại nước giếng, huynh bảo muội lo cho bản thân còn chưa xong, nghĩ gì đến việc ích nước...
- Muội cứ nghe lời huynh đi! "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng" Huynh nghĩ chỉ sợ muội không muốn. Chứ nếu muội đồng ý, chắc chắn sẽ có lúc Đại Việt phải cần đến muội.
- Thôi được rồi! Muội thử chờ xem... Còn bây giờ muội muốn nhờ huynh một việc. Chắc chắn là huynh phải làm cho tới nơi tới chốn đó.
- Muội đã nhờ... một chứ mười việc huynh cũng sẽ làm bằng được.
- Muội có cái này! Vừa nói An Tư vừa đưa tay lên đầu rút ra cây trâm cài tóc bằng ngọc xanh - Huynh hãy đưa cho Ngũ Lão hộ muội... Và nói với Ngũ Lão rằng nếu có kiếp sau Ngũ Lão hãy đợi muội... Đừng hẹn ước với cô gái nào khác... An Tư nghẹn ngào trong nước mắt.
Hưng Đạo Vương đón nhận cây trâm bằng ngọc quý đút vào trong áo ngực và bảo:
- Việc này thì... dễ. Huynh chắc chắn sẽ "chuyển lời thì nói chuyển gói thì đưa"!
- Thôi đã đến lúc muội phải về kinh rồi. Để huynh còn phải lo việc quốc gia đại sự.
- Muội có biết không? Cả tháng nay huynh ngày quên ăn, đêm quên ngủ để lo với lũ giặc dũ Nguyên Mông. Và trời xui, đất khiến thế nào... Hay là trời không phụ lòng người. Kế phá giặc của huynh đã định xong rồi. Quân cơ bất khả lậu. Nhưng muội cứ tin huynh đi... Và về nói với Thượng hoàng và Hoàng thượng rằng Đại Việt sẽ là mồ chôn quân xâm lược.
Rồi Hưng Đạo Vương ra lệnh cho Yết Kiêu và Dã Tượng:
- Hai bay đâu! Hãy điều một ngàn quân kỵ.. chia làm hai đội tả, hữu hộ tống công chúa về kinh.
Xong việc về gặp ta ngay chờ lệnh.
Công chúa An Tư đi rồi. Hưng Đạo Vương mới cho người đi gọi Ngũ Lão ở chỗ luyện binh về.
5
- Kiếp nạn của con thế là thoát rồi. (Hưng Đạo Vương vừa cười vừa nói với Ngũ Lão như vậy. Cha phải dùng "khổ nhục kế" xin An Tư buông tha cho con, công chúa mới xiêu lòng mà về kinh đấy! Chứ không An Tư cứ "ăn vạ" ở đây thì... lôi thôi to cho con.
- Đa tạ công ơn trời biển của cha.
- Tình hình binh lính luyện tập thế nào?
- Dạ! Bẩm thưa cha... Sĩ khí rất hăng... Con tính quân số đây có gần mười vạn... Sẽ chia làm ba đợt thay nhau luyện tập... Sau khi sử câu liêm thương đã thành thục sẽ tập chống công thành... Rồi tập đánh mai phục, tập đột kích, tập bẫy trận...
- Cha nghĩ thời gian còn đủ để luyện quân... Nhưng cha thấy trong gan ruột của con, bề ngoài có phần hùng hổ lắm.! Nhưng bên trong vẫn ẩn chứa một nỗi canh cánh gì rất lớn, có đúng không?
- Dạ! Bẩm không có gì giấu được cha... Nhưng nếu con nói ra có sợ mắc tội làm giảm nhuệ khí của quân ta không?
- Cha con với nhau. Có gì con cứ trải hết lòng mình.
- Dạ! Bẩm! Cái con lo nhất là binh lính của ta chưa quen với trận mạc. Kinh nghiệm trận mạc ngay cả con đây cũng chưa có gì. Vậy thì luyện cho binh lính thế nào? Nhiều đêm con "thức trắng" không sao chợp mắt được. Nhưng vẻ bề ngoài vẫn tỏ... cho binh sĩ biết là ta đây không có sợ gì...
- Nỗi lòng của con cũng là nỗi lo của cha. Nhưng Ngũ Lão này... Lần giặc Thát sang ta xâm lược lần thứ nhất, tất cả tướng sĩ Đại Việt đã ai có kinh nghiệm trận mạc gì đâu... Nhưng cuối cùng hơn hai mươi vạn quân Nguyên Mông đã phải ôm đầu máu mà tháo chạy. Mải chạy đến nỗi đói không dám ăn, khát không dám uống... không dám động đến một ngọn cỏ, ngụm nước, hạt cơm của Đại Việt, khiến dân chúng gọi đùa chúng là "giặc Phật". Lần này chắc chắn là sẽ vô cùng quyết liệt. Quyết liệt hơn lần trước bội phần. Nhưng con cứ nguôi lòng đi! Như chính con lần đầu gặp ta đã nói. "Hãy tạm thời nhường đất cho giặc vào ở nhờ. Sai các tướng giỏi giữ vững các nơi hiểm yếu. Chặn mọi đường tiếp lương của giặc. Đánh qua vài trận là quân tướng Đại Việt ta sẽ có kinh nghiệm ngay thôi... Dân mình tài trí lắm... Và kế sách phá giặc cha cũng đã dự định xong xuôi cả rồi... Bây giờ con về nghỉ đi. Chờ Yết Yêu Dã Tượng về bốn cha con chúng ta sẽ phải đi thị sát một chuyến....
- Dạ! Bẩm thưa cha còn quân lính đang luyện tập?
Đây cũng là hình thức tốt để kiểm chứng xem có con hay không có con ở trại, kỷ luật binh lính thế nào? Biết để mà rèn thêm.
Năm 1283, mùa xuân tháng hai, bốn cha con gồm Hưng Đạo Vương, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu và Dã Tượng đem ba ngàn quân kỵ dời đại bản doanh Vạn Kiếp thẳng tiến ra cửa sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương đi ngựa chứ không dùng voi cho khỏi ồn ã. Trời rét như cắt da cắt thịt. Bầu trời tràn ngập một mầu mây xám. Mưa phùn gió bấc. Tuy nhiên đoàn người ngựa vẫn hăm hở vượt qua những quả đồi đá ong. Đến vùng cửa sông, Yết Kiêu muốn phi ngựa lên trước báo cho Đô tướng Nguyễn Khoái biết để ra nghênh tiếp Quốc Công Tiết Chế, nhưng Hưng Đạo Vương cản lại. Người muốn bí mật từ xa quan sát xem thuỷ quân của Nguyễn Khoái luyện tập thế nào?
Lúc ấy thuỷ triều đang lên. Mặt sông căng phồng trải rộng mênh mông. Quân của Nguyễn Khoái chia làm hai đội. "Quân Đại Việt" chia khu đô "Phía Nguyên Mông" chít khăn xanh. Quân xanh dùng thuyền lớn hơn đang hùng hổ từ phía biển tiến vào. Quân đỏ dùng thuyền nhẹ, chia cắt đội hình "địch" cứ ba chiếc quây lấy một chiếc của "địch" mà đánh. Có điều là cả "quân ta" lẫn "quân địch" đều hò "Sát Thát!" vang động cả một khúc sông. "Quân địch" thì cố tiến vào. Còn "quân ta" thì ra sức chặn lại. Đến lúc thuỷ triều xuống thì Nguyễn Khoái từ thuyền lớn ra lệnh khua chiêng thu quân.
Hưng Đạo Vương thấy Nguyễn Khoái thao luyện năm vạn thuỷ quân với hàng ngàn chiếc thuyền lớn nhỏ hết sức bài bản, lên xuống nhịp nhàng, kỷ luật nghiêm minh thì lấy làm vui lắm. Chợt dưới thuyền có tiếng hô:
- Quốc Công Tiết Chế đến!
Nguyễn Khoái đánh mắt nhìn ngay thấy đoàn người ngựa với lá cờ suý lớn thì vội vàng lệnh cho thuyền quay mũi vào bờ. Còn cách bến một đoạn khá xa, Nguyễn Khoái đã nhảy ào xuống nước hớt hải chạy lên:
- Mạt tướng thật có tội! Không biết Quốc Công Tiết Chế đến để nghênh tiếp từ xa. Nguyễn Khoái vội phủ phục xuống vạt cỏ bên bờ sông vừa liến thoắng nói.
- Đô tướng đừng đa lễ thế! Đứng dậy đi!
Hưng Đạo Vương ân cần nói.
- Tạ ơn Quốc Công Tiết Chế! Nguyễn Khoái đáp lại. Ngũ Lão nhẩy xuống ngựa tự lúc nào, đỡ Nguyễn Khoái đứng lên và hỏi:
- Hiền huynh vẫn mạnh khoẻ chứ?
- Nếu bây giờ lại vật nhau với đệ nữa thì huynh không thua đâu?
Tất cả mọi người đều cười ồ vui vẻ.
Hưng Đạo Vương sai cắm trại ngay trên bờ sông. Cửa trại quay về hướng nam để tránh cái gió bấc rét như cắt da cắt thịt. Người bảo Nguyễn Khoái cho gọi viên quan đô giám (tức giám quân) và quan chuyên trông coi việc quân lương, binh khí cùng đến dự họp. Một chiếc bàn vuông rất rộng cùng hơn một chục chiếc ghế được bày ra. Hưng Đạo Vương ngồi trên chiếc ghế bành lớn, bên phải là Ngũ Lão, bên trái là Yết Kiêu và Dã Tượng. Phía đối diện là Nguyễn Khoái và hai viên đô giám và quan lương. Vừa ngồi vào bàn Nguyễn Khoái đã đưa cặp mắt nhỏ dưới cái trán thấp nhìn chằm chặp vào bình rượu lớn đặt ở một góc bàn. Hưng Đạo Vương cười lớn ra lệnh cho tên lính hầu:
- Rót rượu bát lớn cho Đô tướng!
Nguyễn Khoái chẳng còn biết giữ lễ, chộp lấy bát rượu tợp một ngụm lớn hết sạch. Lưỡi đánh sang hai bên mép ra vẻ rất thèm thuồng.
- Rót tiếp cho Đô tướng hai bát nữa!
Sau khi Nguyễn Khoái đã xong ba bát rượu Hưng Đạo Vương nghiêm giọng nói:
- Hôm nay bản vương đi kiểm tra, thấy cánh thuỷ quân của Đô tướng thao luyện rất quy củ, nề nếp bản vương có lời khen ngợi. Bây giờ bản vương có một số câu hỏi, hỏi cả ba người có gì cứ trả lời thật với bản vương.
Tất cả "dạ! "ran
- Binh lính ăn có đủ no không?
- Cũng tàm tạm. Nguyễn Khoái đáp luôn. Song nếu khẩu phần hàng ngày được tăng thêm một phần tư hay một phần năm nữa thì mới no ạ!
- Việc này từ mười ngày sau sẽ được đáp ứng! Hưng Đạo Vương đáp và bảo Ngũ Lão ngồi bên ghi ý kiến đó vào cuốn sổ đã mở ra ở trước mặt.
- Thế còn cái mặc?
- Ban ngày luyện tập nên không thấy rét. Nhưng đêm ngủ, chăn áo cũng có phần chưa đủ ấm. Nguyễn Khoái lại đáp luôn mà chẳng thưa bẩm gì khiến viên giám quân phải đá vào chân ở dưới gầm bàn ra điều nhắc nhở. Nhưng Nguyễn Khoái lại không để ý, quay sang vặc lại: "Ta nói không đúng sao?".
Hưng Đạo Vương thấy vậy thì cả cười và nói tiếp:
- Chăn, áo bông cũng sẽ có sau mười ngày nữa.
- Đa tạ Quốc Công Tiết Chế! Nguyễn Khoái đáp
- Bây giờ ta có một số lệnh thế này! Hưng Đạo Vương nghiêm giọng nói - đô giám và quan coi sóc quân lương và vũ khí nhớ ghi chép cho cẩn thận để cái gì Đô tướng quên thì hai người phải nhắc nhở.
- Dạ! Bẩm thưa Quốc Công Tiết Chế vâng ạ!
- Sáng mai cho dừng thao luyện ở đây. Từ chiều mai, chuyển toàn bộ binh lính và chiến thuyền về vùng cửa sông Thái Bình. Chọn khúc sông rộng nhất cho quân dàn chiến thuyền tập tấn công binh thuyền của Nguyên Mông. Nửa tháng nữa sẽ có khoảng hai nhăm đến ba mươi thuyền đinh lớn, gần lớn bằng binh thuyền của giặc sẽ được đưa đến. Các ngươi hãy chia quân ra làm nhiều lớp tấn công giang thuyền giặc. Tập đánh ngày, đánh đêm, đánh cả trong lúc sương mù, mưa gió. Bài tập này gọi là "xa luân chiến", tất cả phải thành thục.
Vì binh khí quân coi lương phải nhớ lấy riêng ra vài ngàn quân, lên rừng chặt mây, tre đực già. Lột lấy cật, đan thành khiên hai lớp. Có các loại khiên lớn có thể che cả mặt trước chiến thuyền đồng thời che được cả mui thuyền. Khiên nhỏ dùng cho binh lính. Trong ruột được nhồi bông, sẽ được bản vương cho người chỉ dẫn. Khi luyện tập phải nhúng khiên xuống sông cho ngậm no nước để chóng tên tẩm dầu của giặc. Đồng thời quân lính cũng phải luân phiên nhau lên rừng chặt tre, vót cho được hai mươi đến ba mươi vạn mũi tên... Hàng tháng bản vương sẽ cho người xuống đôn đốc, kiểm tra. Sẽ có thưởng phạt nghiêm minh. Các ngươi rõ cả chưa?
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế rõ ạ!
- Còn nữa, quân lính phải chia theo đội! Mỗi đội khoảng một trăm người. Tất cả phải biết mặt nhau. Thấy người lạ trà trộn thì phải bắt giữ, nhưng tuyệt đối không được đánh đập mà phải giao về cho Đô tướng tra xét.
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế rõ ạ!
- Có ai muốn nói gì không?
- Dạ! Bẩm binh sĩ đang thao luyện ở đây rất tốt. Sao lại phải chuyển đi nơi khác! Thao luyện bài tập khác ạ! Nguyễn Khoái mạnh dạn thưa.
- Ngươi hỏi rất có lý! Nhưng quân cơ bất khả lậu. Các người cứ thế mà thi hành. Ai trái lệnh! Chém!... Hưng Đạo Vương nghiêm giọng quát.
- Dạ! Bẩm Khoái mỗ này rõ rồi ạ!
- Có thế chứ! Hưng Đạo Vương cả cười và ra lệnh - Bây giờ thì tất cả đến uống rượu. Phải uống cho thực say để mai, ai vào việc nấy!
Tiệc rượu được bày ra, đủ cả các món sơn hào, hải vị. Viên giám quân bẩm:
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế, để mạt tướng cho lính mang lên mấy con cá tươi ở vùng sông này lên để Quốc Công Tiết Chế nếm thử ạ!
- Ngươi không sợ ta bắt tội, ăn lẻ trước binh lính sao? Hưng Đạo Vương nửa đùa nửa thực hỏi:
- Dạ! Bẩm quả là oan cho mạt tướng ạ! Mạt tướng đoán thế nào cũng có lúc Quốc Công Tiết Chế xuống đây kiểm tra, nên sai lính chuẩn bị sẵn đấy ạ! Chứ bản thân ba người mạt tướng... cũng chưa biết mùi vị cá thế nào ạ!
- Nếu thế thì được!
- Quân pháp của Đô tướng rất nghiêm. Trong quân cấm không được uống rượu. Đến Đô tướng thèm rượu như thế mà cả mấy tháng nay không có giọt nào rót vào bụng đâu ạ!
- Các ngươi che giấu cho nhau chứ gì? Hưng Đạo Vương tinh quái hỏi.
- Khoái mỗ này đã nói một là một hai là hai. Cái trò trí trá đó Khoái mỗ vô cùng căm ghét ạ!
- Ta cũng nói đùa đấy thôi! Mong Đô tướng đừng để bụng.
Mọi người đều tái mặt trước câu trả lời bỗ bã của Nguyễn Khoái. Nhưng vội thở phảo nhẹ nhõm trước sự chân tình, cởi mở của Quốc Công Tiết Chế.
Hưng Đạo Vương vỗ vào tấm lưng to tròn như một gốc lim cổ thụ của Nguyễn Khoái mà bảo rằng:
- Đây là một trong hai cây cột chống trời của Đại Việt ta!
- Đa tạ Quốc Công Tiết Chế quá khen Khoái mỗ này là gì không quan trọng. Chỉ biết rằng lòng trung với Đại Việt với hai Thánh thượng và với Quốc Công Tiết Chế thì có trời xanh chứng dám. Nếu từ nan bất cứ việc gì thì chết sẽ không có đất chôn thây...
Hưng Đạo Vương lấy làm hài lòng lắm. Người quay sang nói với viên giám quân và viên quan coi sóc quân lương:
- Hai ngươi phải hết lòng giúp đỡ Khoái Đô tướng nhé! Sau này công của hai ngươi cũng không nhỏ đâu!
- Dạ! Bẩm Quốc Công Tiết Chế hai người chúng tôi xin đem hết lòng khuyển mã. Nếu có điều gì sơ sảy sai sót, Quốc Công Tiết Chế cứ cho chặt đầu, bêu lên ba ngọn sào để răn người khác ạ!
Cả hai đều ứng khẩu đồng từ khiến Hưng Đạo Vương càng cảm thấy yên tâm.
Từ cửa sông Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương sai nhổ trại hành binh xuống phía nam nhằm lộ Hải Dương. Hưng Yên thẳng tiến. Trên đường đi người hỏi Ngũ Lão:
- Con có biết vì sao ta lại lệnh cho Nguyễn Khoái chuyển quân không?
- Dạ! Bẩm thưa cha con cũng như Nguyễn Khoái đều chưa hiểu ngầm ý ở bên trong là gì ạ!
- Ngươi không hiểu thật hay giả vờ ngây ngô như Nguyễn Khoái đó?
- Dạ! Bẩm thưa cha, có việc gì con giấu được cha từ trước đến nay đâu ạ!
- Kế của ta đã định. Nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật. Đến như con mà cũng không biết là tốt rồi. Hưng Đạo Vương nói với Ngũ Lão mà cũng như nói với chính mình
- Tổng tướng Triệu Trung là người thế nào? Người hỏi Ngũ Lão tiếp.
- Dạ! Bẩm thưa cha Triệu Trung quê ở Hạ Khấu bên bờ sông Trường Giang. Võ nghệ và sức lực cũng có thể xếp ngang với bọn Lý Hằng, Lý Quân, Phàn Tiếp của Nguyên Mông. Duy Triệu Trung có tài huấn luyện thuỷ quân vì từ nhỏ đã sinh sống bên bờ sông lớn. Triệu Trung mang ơn rất sâu nặng với Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Khi trốn sang đây chỉ có đơn thân. Chiêu Văn Vương đã cho người lặn lội về tận quê đón bố mẹ già cùng vợ con sang ta sinh sống. Lại xây cất cho một dinh thực khá tươm tất. Hiện Triệu Trung được Chiêu Văn Vương sai cai quản và huấn luyện khoảng ba ngàn hàng binh Tống.
- Chiêu Văn Vương quả cũng là một con người sáng suốt.
Hưng Đạo Vương buột miệng khen. Lần này ta xuống đây hội kiến cùng Chiêu Văn Vương, theo con có nên để cho Triệu Trung cùng dự không?
- Dạ! Bẩm thưa cha... Cha nên cho Triệu Trung vào yết kiến và có lời uý lạo hắn lúc đầu thôi. Đến khi bàn chuyện cơ mật thì con sẽ rủ hắn ra ngoài chơi.
- Ừ! Con ta cũng biết phép đối nhân xử thế đấy.
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật tiếp Quốc Công Tiết Chế tại quân doanh nửa ở bờ sông cái nửa trên đê. Sau khi phân ngôi chủ khách Chiêu Văn Vương cho gọi Triệu Trung vào ra mắt Hưng Đạo Vương. Triệu Trung người không cao lớn lắm, nhưng dáng vẻ chắc chắn với khuôn mặt phong trần dãi dầu sương gió.
- Bại tướng Triệu Trung xin lạy chào Quốc Công Tiết Chế. Sau câu nói ấy Triệu Trung cứ quỳ mọp dưới chân Hưng Đạo Vương. Ngũ Lão vội cúi xuống nhấc. Triệu Trung mới dám đứng dậy và nói tiếp:
- Đội ơn Quốc Công Tiết Chế đã cấp thêm tiền lương cho Chiêu Văn Vương mà đời sống đám hàng binh Tống mới được no đủ như hiện nay.
- Gia đình anh em hàng binh sang đây có được nhiều không? Hưng Đạo Vương hỏi.
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế người có người không ạ!
- Thế cuộc sống của họ thế nào?
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế. Cũng tạm đủ ạ! Những người có nghề làm thuốc, có nghề làm thủ công hay có nghề buôn bán đều được Chiêu Văn Vương tạo điều kiện làm ăn sinh sống như ở quê nhà. Số tay trắng thì Chiêu Văn Vương cho mượn ruộng của công cũng như của Chiêu Văn Vương cho cấy cày mà không phải nộp sưu thuế gì ạ!
- Tinh thần của anh em binh sĩ hàng binh thế nào?
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế đa số rất háo hức muốn được ra trận để rửa hận mất nước mất nhà... và để báo ơn tri ngộ của Chiêu Văn Vương ạ!
- Như vậy là rất tốt! Bản vương có lời khen!
Nhưng ta hỏi thật câu này. Trung Tống tướng đừng để bụng nhé!
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế! Xin ngài cứ dạy bảo. Có gì biết Triệu Trung đều cởi hết tấm lòng ạ!
- Số Hán gian cam tâm làm chim mồi chó săn cho giặc Nguyên Mông có nhiều không?
- Dạ! Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế theo bại tướng có thì cũng không nhiều mà không ít ạ! Duy có một tên mà Quốc Công Tiết Chế phải lưu tâm là Phạm Nhan. Tên này hành nghề đạo sĩ. Có thuật chém đầu này, mọc đầu khác. Hắn rất nham hiểm, quyền biến cơ mưu. Theo như bại tướng biết thì hắn đã vài năm qua Đại Việt hành nghề nên nắm rất rõ đường đi lối lại cũng như thế sông, thế núi của Đại Việt ta.
- Cám ơn ngươi đã cho biết thêm về con người này. Chính hắn đã chỉ điểm nơi ẩn náu của Vua Tống để quân Nguyên truy sát.
- Khởi bẩm Quốc Công Tiết Chế có chuyện đó ạ!
- Ngươi nghĩ ngày các ngươi trở về cố hương có xa ngái lắm không?
- Khởi bẩm trước mắt là bại tướng chúng tôi lấy đất Đại Việt làm nhà! Còn về sau thế nào thì quả là còn bất định lắm ạ!
- Thế là các ngươi hơi chán nản rồi! Bản vương cho ngươi hay. Trước mắt nhà Nguyên Mông thật rất hùng mạnh. Nhưng đất nước Trung Hoa rộng lớn lại không thiếu gì nguời tài, người có lòng ái quốc. Vậy thì nhà Nguyên Mông chỉ tồn tại trên dưới một đời người. Khoảng ba bốn chục năm nữa bên đó chắc chắn sẽ có loạn. Và cũng từng ấy năm nữa thì nhà Nguyên Mông chắc chắn sẽ sụp đổ. Và thay thế vào đó sẽ là một triều đại Trung Hoa mới.
Hưng Đạo Vương nói tới đó thì đưa mắt cho Ngũ Lão. Ngũ Lão ôm vai Triệu Trung nói nhỏ:
- Lâu lắm chúng ta mới gặp nhau. Đệ mời đại ca ra ngoài uống rượu.
Triệu Trung dường như cũng hiểu ý. Hai người vào một quán mới mở của người Hoa tản cư sang.
- Ngũ Lão tẩm ngẩm tầm ngầm mà đá chết voi: Triệu Trung vùi đầu câu chuyện.
- Hưng Đạo Vương hay Chiêu Văn Vương thì họ cũng là anh em một nhà cả ấy mà. Ngũ Lão thanh minh. Có điều đệ không có tài đánh thuỷ nên không dám theo huynh phò Chiêu Văn Vương.
- Nhưng cái mẹo ra mắt Quốc Công Tiết Chế phải nói là gan cùng mình. Để giáo dâm vào đùi chảy máu ròng ròng mà vẫn vờ như không biết gì quả là một cách ra mắt có một không hai.
- Có gì đâu! Âu cũng là học cách bên nước Tầu của huynh. Nghe nói xưa Khương Tử Nha muốn theo phò nhà Chu mới đến câu ở hồ thuỷ đình. Nhưng ngặt một nỗi là dây câu lại không có lưỡi. Có người hỏi thì Khương Tử Nha bảo rằng ta đâu cần câu lấy cá. Ta đang câu chức tể tướng của nhà Chu. Chuyện đó đồn đến Chu Vũ Vương Cơ Phát. Biết có người tài đến giúp mình. Cơ Phát thân ra mời Tử Nha vào nội điện. Mình là quan võ phải nghĩ ra cách của mình chứ!
Ngũ Lão nói đến đó thì cả hai cùng cười rồi nâng bát rượu uống cạn.
- Bây giờ bố mẹ, vợ con huynh đã ở đây cả rồi. Huynh cứ yên tâm phục vụ Đại Việt. Sau này không ai đối xử tệ bạc với gia đình huynh đâu?
- Huynh biết chứ! Nguyên Mông là kẻ thù chung của cả hai dân tộc chúng ta mà.
Trở lại chuyện Hưng Đạo Vương và Chiêu Văn Vương trong trại lớn. Mở đầu Hưng Đạo Vương điểm một cú đúng huyệt người ngồi đối diện:
- Nghe nói xuất ăn của gia binh Chiêu Văn Vương khá hơn của quân triều đình có đúng không?
- Quả là có chuyện ấy thật. Vì gia binh chỉ có ba ngàn mà quân triều đình có tới năm vạn, lương không thể kham nổi.
- Chiêu Văn Vương đừng lo, mười ngày nữa sẽ có lương cấp đủ cho Chiêu Văn Vương. Tuy nhiên bản vương chỉ lưu ý Văn Vương một điều nhỏ là đối với quân lính phải thật công bằng, kể cả hàng binh Tống cũng thế. Đói cùng đói, no cùng no. Có như thế khi lâm trận, tất cả đều xả thân... chứ không suy bì được.
- Quốc Công Tiết Chế thật là cao kiến. Vừa có lý lại có tình. Văn Vương này xin nghe theo.
- Hàng ngày Văn Vương thao luyện thuỷ quân thế nào?
- Vẫn như cũ thôi. Chia làm hai phe "đối luyện". Tập trận như trò chơi ở các lễ hội. Vui vẻ lắm, ai cũng thích thú cả.
- Như thế là không được rồi. Lâm trận thật thì làm thế nào?
- Thế theo Quốc Công Tiết Chế thì phải làm sao?
- Độ gần nửa tháng nữa triều đình sẽ cấp cho Văn Vương khoảng bảy chục thuyền đinh lớn, gần bằng chiếc thuyền của Toa Đô đang chinh phạt Chiêm Thành. Văn Vương nên chia quân ra làm các đội thay nhau tấn công các chiến thuyền đó". Đánh theo kiểu "xa luân chiến", liên tục bất kể ngày đêm, sớm tối nắng mưa. Còn nữa phải cho lính tập phòng thủ chống quân Nguyên Mông bắc cầu phao từ phía kinh thành Thăng Long tấn công sang.
- Ta hiểu rồi! Đúng là phải như thế thật. Chứ như bây giờ thì lúc đánh nhau thật sẽ hỏng cả.
Rồi Hưng Đạo Vương cũng truyền lệnh cho Chiêu Văn Vương (tất nhiên là giọng nói nhẹ nhàng hơn) như với Nguyễn Khoái về việc phải vót ba mươi vạn mũi tên cùng các loại khiên lớn nhỏ. Với số hàng binh Tống, Hưng Đạo Vương bảo Văn vương phải chuẩn bị may đủ ba ngàn bộ quân phục mới toanh theo kiểu Tống. Cờ hiệu cũng phải sắm sửa như cờ hiệu quân Tống. Chiến thuyền cũng phải như chiến thuyền Tống. Cùng hàng trăm loa sắt. Riêng Triệu Trung phải chuẩn bị cho hắn một bộ áo giáp vàng sáng choang. Chiêu Văn Vương nghe đến đó thì ù cả tai. Chả hiểu ý của Hưng Đạo Vương là thế nào?
- Bây giờ với Đại Việt ta, một ngọn dáo, một tay gươm, một cây cung cùng tham gia chống Nguyên Mông cũng là quý rồi. Ở đây những ba ngàn người, ta phải biết cách để kết quả tăng lên gấp hàng mười, hàng trăm lần... Nuôi lính ba năm dụng một giờ. Nhưng đó phải là giờ vàng....
Hưng Đạo Vương vừa mỉm cười vừa vuốt râu, cặp mắt đen sáng long lanh vừa thông minh vừa hóm hỉnh. Người ghé tai Chiêu Văn Vương nói nhỏ... cứ như thế! Như thế.... một hồi.
Nghe tới đâu mắt Chiêu Văn Vương sáng ra đến đấy. Và câu cuối cùng Hưng Đạo Vương vừa nói xong thì bất thần Chiêu Văn Vương thốt lên:
- Quốc Công Tiết Chế quả là Thánh thật!
- Còn một việc nữa. Chờ cho cơn xúc động của Chiêu Văn Vương dịu lại, Hưng Đạo Vương nói tiếp. Lần này bản vương để lại Yết Kiêu cho Văn Vương sử dụng, sai khiến. Việc đầu tiên là Yết Kiêu sẽ tham gia thao luyện cùng với binh lính. Rồi từ đó Yết Kiêu sẽ tuyển chọn ra khoảng trên dưới một trăm người có bản lĩnh, có sức khoẻ và có tài bơi lội. Song cái quan trọng nhất là lòng trung thành. Dẫu gươm kề cổ cũng không được khai việc mình đang làm. Số người này Yết Kiêu sẽ đem đi một nơi tập luyện riêng. Huấn luyện thế nào và sau này sẽ làm gì "thần cũng không biết, mà quỷ cũng không hay."
Về việc đãi ngộ bố mẹ, vợ con những người này sẽ được chu cấp đầy đủ, kể cả về sau họ còn sống hay chết.
Chim Ưng Và Vịt Chim Ưng Và Vịt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Vịt