Nguyên tác: The Painted Veil
Số lần đọc/download: 0 / 11
Cập nhật: 2023-06-14 21:36:44 +0700
Chương 1
Đối với bạn đọc bây giờ, thì có lẽ tôi không cần phải dài dòng giới thiệu nhà văn William Somerset Maugham. Từ Khái Hưng, là người đầu tiên, đã dịch truyện ngắn “Mưa” đăng trên tạp chí Ngày Nay, tính đến nay có hơn ba mươi năm, nếu tôi tra cứu không lầm. Trong hơn ba mươi năm đó, chúng ta đã có nhiều dịp để nghe nói đến thân thế và sự nghiệp của Maugham, nhất là dạo gần đây, có nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Việt.
Tôi chỉ xin nói rất ngắn.
W. Somerset Maugham là một nhà văn người Anh, sinh năm 1874 tại Paris và mất năm 1965. Ông vốn là một y sĩ giải phẫu nhưng lại thích làm nghề văn hơn nghề thuốc. Ông du lịch nhiều, từng trải, nên mỗi tác phẩm ông viết ra đều có chứa đựng một triết lý nhân sinh dung dị nhưng thâm trầm. Lời văn của ông thì khỏi nói, vừa nhẹ nhàng, lôi cuốn mà vừa tài hoa. Tác phẩm của ông rất nhiều, đọc rất thú, vì phần lớn đào sâu những uẩn khúc của lòng người.
“Bức Bình Phong” mà bạn cầm trong tay là truyện dài “The Painted Veil”.
Một điểm khác nên nói ở đây, là tôi không phải là người đầu tiên dịch “The Painted Veil”. Trước tôi, vào năm 1943, ông Huyền Hà ở Hà-Nội đã dịch thành “Bức Màn Sơn” do nhà Đời Nay xuất bản. Lẽ ra, đã có người dịch, thì tôi không nên dịch nữa, vì làm như vậy là thừa và phí. Nhưng tôi vẫn dịch, cũng như tôi đã dịch lại bộ truyện “An-Na-Ka-Rê-Nin” của Tolstoi mặc dầu đã có bản dịch của hai ông Vũ Ngọc Phan và Vũ Minh Thiều, vì tôi có những lý lẽ của André Gide khi Gide dịch lại tập truyện “La Dame de Pique” của Pouchkine mà trước đó một nhà văn tiền bối của Gide là Prosper Mérimée đã dịch rồi.
Về cái nhan “The Painted Veil” tôi đề nghị dịch là “Bức Bình Phong”, có lẽ vì tôi không muốn lấy ba chữ “Bức Màn Sơn” của ông Huyền Hà, mà cũng có lẽ tôi muốn chữa lại – trong phạm vi quyền hạn có thể của một người dịch dĩ nhiên – một cách nhìn, nghĩ và gọi sai lầm mà hầu hết các nhà văn phương Tây, kể cả Maugham và Pearl Buck nữa, khi viết về phương Đông, đã vô tình hay cố ý mắc phải, để cho tác phẩm của họ có một chút gì của cái mà họ gọi là “éxotisme”.
Nhưng Maugham không phải là một nhà văn chỉ biết nhắm đến những giá trị nhất thời. Trong khi “The Patriot” hoặc “The Good Earth” của Pearl Buck đã bị lịch sử vượt qua, thì sách của Maugham lúc nào đọc cũng hay và cũng hợp.
Riêng về câu chuyện xảy ra trong tác phẩm thì tôi không có gì để nói, vì đó là phần việc của Maugham.
Maugham lúc nào cũng tự nhận mình không là gì khác hơn một người kể truyện (xem mấy dòng xin lỗi của Maugham ở đầu tập truyện “Creatures of Circumstances”). Tôi cũng thế, tôi không là gì khác hơn một người dịch truyện. Nếu bản dịch của tôi không phản lại Maugham quá, nếu nó làm cho bạn, kể từ đây, thích đọc Maugham hơn, thì đó cũng là một sự may mắn lắm rồi.
Người dịch.
Chương 1
Nàng kêu lên một tiếng kinh hãi.
Chàng hỏi:
- Em làm sao thế?
Trong ánh sáng lờ mờ của gian phòng đóng kín cửa, nét mặt hoảng hốt của Kitty làm Charlie ngạc nhiên.
- Vừa có người định mở cửa.
- Ồ, chắc lại là con ả xẩm hoặc là thằng bồi nào.
- Bọn chúng không bao giờ đến đây vào giờ này, vì biết là em vẫn có lệ đi ngủ sau bữa ăn trưa.
- Thế thì ai vào đấy?
Nàng đáp, hai môi run run:
- Walter.
Nàng lấy tay chỉ cho Charlie đôi giày. Chàng cố xỏ vào, nhưng vì mất bình tĩnh nên hóa ra vụng về. Trong khi đó, mối lo sợ cứ tăng. Hơn nữa, đôi giày có hơi chật. Nàng sốt ruột, thở dài, đưa cho chàng cái vớt bằng sừng, sau đó nàng khóac chiếc áo ki-mô-nô, đi chân không đến chỗ bàn trang điểm. Chàng còn đang loay hoay buộc nốt sợi dây giày thứ hai thì nàng đã chải xong mớ tóc bị xốc xếch. Nàng vội đưa cho chàng cái áo vét tông.
- Làm thế nào ra ngoài bây giờ?
- Anh đợi một tí, để em xem có thể ra được hay không?
- Chắc không phải Walter. Không bao giờ anh ta rời phòng thí nghiệm trước năm giờ.
- Như thế thì ai?
Hai người nói thì thào với nhau. Nàng run bắn. Nghĩ đến việc Kitty vừa nghe có động đã cuống lên rồi, Charlie bỗng cảm thấy bực mình hết sức. Nếu đã biết đó là sự dại dột thì tại sao nàng lại cứ đòi hỏi điều trái lại?
Nàng nín thở, nắm lấy cánh tay chàng. Chàng nhìn về phía nàng đang nhìn. Các cửa sổ trông ra chỗ hàng hiên đều đóng kín, các liếp cửa cũng khép. Quả nắm bằng sứ trắng quay chầm chậm. Cả hai đều không nghe có tiếng chân bước. Cái cử động im lặng ấy trông thật đáng sợ. Một phút trôi qua, không tiếng động. Rồi như do một sự can thiếp quái dị nào, quả nắm sứ trắng của cánh cửa sổ khác cũng lại bắt đầu xoay như thế, một cách lén lút, âm thầm, ghê sợ. Cái cảm giác thật rùng rợn vô cùng. Bao nhiêu dây thần kinh của Kitty như bị căng thẳng đến tột độ, nàng mở miệng định thét lên nhưng Charlie đã trông thấy kịp, nhanh tay bịt lấy miệng nàng.
Im lặng. Nàng lảo đảo tựa vào chàng. Chàng chỉ sợ nàng ngất đi. Chàng cau mày, cắn răng, bế nàng đặt lên giường. Nàng trắng nhợt như người chết và chàng thì mặc dù có làn da rám chàng cũng tái mét. Chàng đứng cạnh thiếu phụ, nhìn chăm chú cái quả nắm cửa bằng sứ như người bị thôi miên. Cả hai cùng nín bặt.
Sau cùng nàng bật khóc. Chàng khó chịu, khẽ bảo:
- Kìa. Sao em lại khóc? Nếu chúng ta bị bắt quả tang thì nhất định là đã bị rồi. Phải liều mới được.
Nàng tìm chiếc mù soa. Đoán được ý nàng, Charlie đưa cho nàng cái xắc. Nàng hỏi:
- Nón anh đâu?
- Anh để dưới nhà.
- Ồ, Chúa ơi!
- Kìa. Em nên bình tĩnh. Trăm phần mới có một phần chắc là Walter. Tại sao em lại khăng khăng cho rằng anh ta về vào giờ này? Không bao giờ anh ta về giữa chừng như vậy, có phải thế không?
- Đúng thế, không bao giờ.
- Anh dám cuộc với em rằng đó chỉ là con ả xẩm.
Nàng gượng mỉm cười. Giọng nói vỗ về và ấm áp của Charlie đã giúp nàng cảm thấy yên tâm. Nàng âu yếm nắm tay Charlie. Charlie để yên cho nàng trấn tĩnh lại.
Một lát sau chàng bảo:
- Thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi mãi ở đây. Em đã tự thấy đủ sức đi ra ngoài hiên để nhìn xem động tĩnh hay không?
- Không, em không dám.
- Em có rượu mạnh chứ?
Nàng lắc đầu. Chàng lại sốt ruột, nét mặt tối sầm, không biết phải làm gì nữa. Bỗng nàng siết mạnh bàn tay Charlie:
- Giá thử Walter đang đứng rình ngoài ấy?
Chàng cố mỉm cười, giọng nói vẫn giữ cái vẻ lôi cuốn ngọt ngào mà chàng biết là nàng không sao cưỡng lại được:
- Không chắc. Em nên can đảm lên một tí. Không thể nào là Walter được. Nếu khi vừa về đến phòng khách mà Walter thấy chiếc nón lạ và thêm vào đó thấy cửa phòng em khóa chặt thì em có thể đoán trước là mọi sự sẽ nổ bùng lên như thế nào rồi! Không, nhất định chỉ là đứa ở nào trong nhà. Chỉ có đứa ở mới có thể xoay quả nắm cửa cách ấy.
Dần dần Kitty bình tĩnh lại:
- Mà dù cho đó chỉ là con ả xẩm thôi thì cũng chẳng hay gì.
- Chúng ta có thể cho tiền để cho nó đừng nói và nếu thấy cần thì anh sẽ hăm dọa cho nó một hồi. Bọn công chức như anh thì cũng chẳng ghê gớm gì hơn ai, nhưng tưởng nên sử dụng cái ưu thế nhỏ mọn của mình.
Nghĩ cho kỹ thì tại sao lại không thể như thế được? Nàng đứng dậy giơ hai tay ôm choàng thấy Charlie: hai đôi môi tìm nhau. Sự sung sướng tột độ làm cả hai cảm thấy như đang đau đớn. Nàng rất yêu Charlie. Nàng rón rén bước ra chỗ cửa sổ, kéo cái chốt, hé liếp, nhìn ra ngoài. Không ai cả. Rồi từ ngoài hiên nàng nhìn vào phòng riêng của chồng và phòng ngủ của mình. Mọi nơi đều vắng lặng. Nàng quay vào, giơ ngón tay ra hiệu:
- Không ai cả.
- Chúng mình chỉ quáng mắt lên thôi.
- Anh đừng cười. Cứ nghĩ đến cũng hãy còn khiếp. Anh ra phòng khách chờ em. Em còn phải mang vớ, đi giày vào đã.
°
° °
Chàng nghe theo. Năm phút sau, nàng ra đến. Chàng đang hút thuốc lá.
- Này em, em có thể cho anh một cốc brandy-soda không?
- Được chứ, để em bấm chuông.
- Nhân thể em cũng nên uống một cốc cho khỏe.
Cả hai im lặng ngồi chờ. Sau khi đã sai bảo tên bồi và hắn đã đi xuống rồi, nàng nói:
- Anh thử gọi dây nói xuống phòng thí nghiệm xem có Walter ở đấy không. Chẳng ai nhận ra được giọng anh đâu.
Chàng gọi số điện thoại và hỏi bác sĩ Lane. Mắc ống nghe xong, chàng bảo:
- Walter đã đi từ lúc đến giờ trà. Em hỏi bồi xem anh ta có về nhà không.
- Em sợ quá. Walter có về mà em lại không thấy thì có vẻ lạ lùng quá.
Tên bồi bưng khay lên và Charlie pha rượu. Lúc chàng sửa soạn rót cho Kitty thì Kitty lắc đầu. Nàng hỏi:
- Nếu đúng là Walter về thì chúng ta phải làm thế nào?
- Có thể là anh ta sẽ không cho đó là chuyện ghê gớm lắm đâu.
- Walter?
Nàng có vẻ không tin.
- Theo anh thì Walter là người thiếu quả quyết. Em nên biết là cũng có một số người rất sợ những vụ lôi thôi. Anh ta cũng có đủ suy xét để nhận thấy rằng dù cho có làm vỡ lỡ ra thì cũng không cứu vãn được gì. Anh tin chắc là lúc nãy không phải Walter, mà dù cho anh có lầm chăng nữa, em cũng sẽ thấy là anh ta sẽ để yên, sẽ giả vờ như không hay biết.
Nàng nghĩ ngợi một lúc:
- Walter yêu em lắm.
- Như thế lại càng hay. Sẽ không có việc gì xảy đến cho em cả.
Charlie kết luận bằng nụ cười duyên dáng mà Kitty rất say mê, một nụ cười tràn trề nhục cảm nở trên đôi mắt xanh biếc và lan chầm chậm xuống cái miệng xinh có đôi hàm răng trắng và đều đặn.
Sự vui vẻ như bừng lên trở lại, nàng nói:
- Chẳng sao! Kể ra thì cũng đáng.
- Cái ấy cũng do lỗi của anh!
- Nhưng tại sao anh lại đến? Thấy anh em sửng sốt.
- Anh không tự cưỡng lại được.
- Ồ, anh!
Nàng ngả xuống cạnh chàng, ngọn lửa trong đôi mắt đen láy của nàng như đốt cháy đôi mắt Charlie. Miệng nàng hé ra, ham muốn. Chàng ôm lấy nàng. Nàng sung sướng mỉm cười, phó mặc.
Chàng nói:
- Lúc nào em cũng có thể tin tưởng anh được. Điều ấy em đã biết.
- Với anh, em sung sướng lắm. Anh ban cho em bao nhiêu hạnh phúc thì em cũng mong được trả lại cho anh bấy nhiêu.
- Em hết sợ rồi chứ?
- Em chỉ ghét Walter.
Không biết phải trả lời thế nào, chàng hôn nàng. Khuôn mặt dịu dàng của Kitty kề sát vào mặt chàng. Chàng nắm cổ tay nàng, xem giờ ở chiếc đồng hồ vàng nhỏ xíu.
- Em có biết bây giờ anh còn phải làm gì không?
Nàng mỉm cười:
- Đi về?
Chàng gật đầu. Kitty ôm chặt lấy chàng, nhưng cảm thấy người yêu muốn ra về nên nàng buông tay ra.
- Anh xao lãng công việc như thế xấu lắm. Thôi anh về đi!
Lúc nào Charlie cũng thích tán tỉnh, chàng nói nhẹ nhàng:
- Hình như em định tống anh đi ngay cho khuất mắt phải không?
- Anh cũng biết là em rất khổ sở khi phải xa anh!
Nàng trả lời bằng một giọng buồn, sâu sắc và nghiêm trọng. Charlie cười thích thú:
- Em đừng thắc mắc về cái người bí mật lúc nãy nữa. Chỉ là con ả xẩm, anh chắc chắn thế. Mà dù cho có xảy ra chuyện rắc rối đi nữa, anh hứa với em là anh sẽ giải quyết xong xuôi hết.
- Có lẽ anh đã quen với những chuyện rắc rối như thế rồi?
Chàng mỉm cười, tự phụ:
- Không phải thế. Nhưng anh có thể nói là anh có đủ quyền lực.