Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:42:40 +0700
8 Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa
T
ôi đưa tay ra khô nước mắt. Lòng tôi bình tĩnh đến phân đoạn. Tôi muốn sống, muốn thực hiện được chấp nhận nhịp độ, tôi phải biết chiến nhẫn chịu đựng, phải biết chờ đợi. Con chó được đánh vào tường chân, nó sét càn, đập bậy. Còn tôi, tôi không phải là chó, tôi là người. Tôi phải biết làm điều gì khác hơn.
Đây là giữa rừng sâu khu A, bóng cả cây già. Tôi không thuộc đường đi nước bước, cũng không thực phẩm, không tiện ích lại trong bàn tay sinh khảo sát, kiểm tra của họ. Động thái nhất cử nhất đều được xem nhẹ. Này, tôi không thể chấp nhận trạng thái đó.
Tôi rời gốc dầu, chậm bước vào sân. Ba Biếu nhìn ra, làm như vui:
- MỘT! Anh Hùng! Anh mới về tới đó hả? Sao về tối dữ liệu anh?
Ngồi đối diện trước bàn dài với Ba Biếu là Bảy Cảnh báo. Kế bên Bảy Cảnh là Tám Chi. Bảy Cảnh báo đã đen, gầy, xấu xí, mặt mày lúc nào cũng cau có đăm đăm, giờ y nhìn ra với cặp mắt xoi mói, lạnh lùng nhẹ nhàng thực sự chịu đựng được.
Có lẽ nhờ vào sự xác định tương lai kiềm chế cho chính cuộc đời mình lúc này và chất người của tôi sống dậy nên tôi ngang nhiên nhìn thẳng vào mặt Bảy Cảnh, tủm tỉm cười, bình tĩnh như không việc gì xảy ra:
- Chào mấy anh! Ở bệnh viện, anh em họ đưa về bất cứ điều gì thì nhẹ nhàng hơn, tôi làm sao luận cãi họ.
Ba Biếu dậy dậy, bắt tay ở bậc thềm:
- Anh nay khỏe nhiều rồi chớ?
- Cũng ủng hộ! Cảm ơn anh! Chủ anh ở nhà cũng mạnh vui?
- Thường thì thôi!
Tám Chi chào tôi bằng câu nói:
- Cối bộ ánh xanh nhiều. Nhưng không có gì ở đâu cả! Số thời gian nó mới thử một chút mà! Anh còn phải sốt trong năm nay nhẹ mười lần như vậy nữa mới được gọi là đóng gói đầy đủ cho núi rừng.
Ba Biếu bảo tôi:
- Anh dọn đồ đi, ngồi ống nước chơi anh. Chà!...Thiệt hổm nay công việc bề bộ quá nên anh đi nằm bệnh viện cả nửa tháng mà điều này không sao đi thăm anh được. Nhắc cũng tệ!
- Host bận rộn công việc mà!
- Anh Bảy nè! Hình như mình còn ba gói kẹo đậu hả anh Bảy?
Đến ngay bây giờ Bảy Cảnh báo mới mở miệng:
- Có! Trong lon chàng-gô đó!
- Tính để dành, mà thôi! Mình phục vụ bệnh nhân mới về nó mới phải nhịp điệu. Ờ anh Tám! Ngày mai bảo mấy chú cảnh bảo đi bắn vài con giộc, để có chất tươi bồi bổ anh Hùng với đừng!
Tôi bồng bềnh quần lên kệ, nhếch mép cười một mình. Chu choa! Thực tế là tử tế biết bao nhiêu! Người ta quan tâm đến sức khỏe tôi nhiều như vậy ư? Nếu tôi không được nghe những lời nói ban bạch có lẽ tôi cảm động và cảm ơn Thủ trưởng của tôi nhiều lắm. Nhưng bây giờ, nếu tôi được phép, nếu ở trạng thái bình thường thì tôi sẽ phát hiện một câu theo kiểu này:
- Thôi, mấy cha nội! Người quản lý đóng kịch nghệ cao hơn tài tử Sàigòn nhiều. Phục lắm! Con phục mấy cha lắm.
Chọn một khám phá mới cho tôi. Họ đóng kịch trước mặt mình, mình không biết đóng kịch trước mặt họ, kết quả mình ngu, mình hiền vô cùng. Mình phải chơi «kịch» với họ thử xem. Mà có trò chơi phải chơi giỏi, chơi một cách thủ công, nếu không, cuộc đời bế mạc ngay lập tức.
By đóng kịch trên sân khấu thì dễ, đóng kịch ngoài đời khó gấp bội. Trên sân khấu, diễn viên không làm tròn vai trò trò chơi của mình, bất quá chỉ là khả năng giả vờ bai, la ó. Cùng lắm là ui xuống. Ngược lại, ngoài đời, trong một vai trò nguy hiểm, hậu quả của nó sẽ là cái chết.
Chấp nhận đóng kịch, tất nhiên tôi phải bày tỏ ra vui vẻ và cảm động trước cái vồn vã thân tình bề ngoài. Hơn thế nữa, tôi còn phải biết ngưỡng, biết phục tùng và đề cao, biết loằng trước mọi người, không có quyền nghệ, biết mặt trái của vấn đề, kể cả vấn đề quan trọng nhất là sự thiểu thức, hôn thị vô lý mà họ đã quyết định giữa họ và tôi.
Trong buổi sưốt uống trà, tôi đã đóng kịch thực sự, đóng kịch một cách hào hứng, vui vẻ, tự do mở. Tôi đã kể chuyện Sàigòn một cách say mê về những cái xấu, cái nông, hiển nhiên nhất của gia đình họ Ngô. Tôi cố gắng khai thác một cách triệt để, thêm muối đập vào để mà cứng, mạt sát tiền tệ. Trong đó có những cái mà tôi biết rất mơ hồ.
Không chỉ gia đình Ngô bị tôi cứng, mạt sát mà còn cả thiết kế. Sàigòn, all cái xã hội Nam. Người nghe tưởng tượng xung quanh đó là một đống rác thải om, một căn nhà nát chỉ cần một bàn tay xả cũng đủ làm nó đổ xuống.
Tôi cũng đã thiết lập lại một cách hào hứng về những kiện tuyên truyền «Láo thiên lao địa chỉ» của huyện ủy viên Châu Thành Mỹ Tho trước đây để «tuyên truyền» lại Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tám Chi, gọi đó là phản ứng ứng cách mạng, cao đang lên của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.
Đương nhiên là tôi sẽ được thoải mái vô ưu. Hả hê sưng mũi, no bụng vì chuyện và cũng vì 15 gói kẹo đậu cộng với ba ấm nước sôi đầy ứ pha sạch một gói trà Blao để tổ bố. Tôi nghĩ bụng, có lẽ sau buổi nói chuyện đêm nay người ta sẽ bắt đầu chuyển hướng đánh giá tôi về một căn hộ khác cũng nên.
Những điều đó, tôi vẫn được lời khuyên vì buổi uống trà trong suốt, không chỉ một mình tôi nói mà cả ba ông Ban Chỉ huy B2 cùng nói. Nói về những chuyện mà tôi chưa biết, muốn biết, cần biết thật nhiều.
Ba Biếu thì kể chuyện cho tôi nghe về chế độ vô sản chuyên chính, chính quy hóa, bước vào con đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc, đời sống của bộ đội miền Nam. Bảy Cảnh cái thằng cha đáng ghét cũng cười xì hơi dàn cảnh chiến đại diện Gia Nã Đại trong Hội Quốc Tế lọt xuống hồ Hoàn Kiếm và đường quân đạo của Đảng tại miền Bắc. Còn tám Chi lại kể một số chuyện vui, giai thoại về Đồng văn Đe con của Thiếu tướng Đồng văn Cống, về Trần thị Bi và nhận xét của Bác Hồ về cán bộ tài chính «Năm Eo».
Kết quả, đến một giờ muộn, tại văn phòng Ban Chỉ huy B2, chúng tôi vẫn còn thức, cười vang.
° ° °
Ba Biếu kể lại...
Tôi xuống tàu tại căn cứ tập kết Xuyên Mộc. Sau ba ngày say sóng, ói thẳng tới mật xanh, nằm li bì bỏ cơm cháo ở giữa sàn tàu yên trơn, cháy lửa. Bây giờ hãy nhớ lại cảnh tôi còn lớn tới xương sống.
Mình nghe nói được đi tàu Liên Xô, mình tưởng phen này phè phỡn lắm. Dưới tàu chắc chắn đủ tiện nghi cho mỗi người đều có giường nằm, có kiểm soát tắm, phòng giải trí như theo lời Khuủ cho biết. Ai dè, bước xuống tàu rồi mình lá rời tay chân, tàu rộng thiệt nhưng yên tĩnh, này dang đầu ra nắng trên boong. Có lẽ tàu heo còn mát mẻ, sung sướng hơn nhiều.
Ba ngày phơi nắng trên tàu, không có chút nước để tắm rửa, mã hóa, đứa trẻ này cũng hôi như chó. Tàu dừng lại tại bãi biển Sầm Sơn. Trong bờ biển, thuyền ghe thuyền ra đón. Đây là nơi được trang bị quân phục, toàn kaki màu ngựa. Tắm rửa, ăn uống nghỉ ngơi được một đêm, sáng ngày sau lại được lệnh cuốc bộ về Hà Nội. Đi bộ mà đi trên đường tráng nhựa bao nhiêu phần trăm cây liền kề, anh có đủ hiểu biết về cảnh nó ra sao?
Quên, chưa nói anh nghe điều này, phiền này ra Bắc vào tập kết sớm nhất. Mùa đông ngoài Bắc lạnh kinh khủng, đâu có như ở Nam bộ mình. Từ nhỏ tới lớn, bây giờ mới hiểu thế nào là «lạnh teo dái», «lạnh như cắt thịt cắt da».
Riêng tôi, tôi có sẵn áo lạnh làm nhà tôi đan cho từ trước, mà áo lạnh đối với miền Bắc chả ăn gì hết. Trước đó, Đảng chỉ thị cho biết chuyến tập kết này ra Bắc, nhắm vào mùa đông lạnh lắm. Tất cả các chiến dịch phải được chuẩn bị sẵn sàng cho phòng điều hòa.
Nhưng, chờ hết anh em có thể kiếm được tiền, có phương tiện tiện lợi nào có thể mua được không? Dù cho có gặp gia đình đáp ứng đi nữa, thì giờ kế hoạch bên cạnh, có tiền có phương tiện tiện ích cũng vô ích.
Cái đêm đầu tiên ra đến miền Bắc, ngủ ở bãi biển Sầm Sơn lạnh sao lạnh. Tôi mặc một lúc ba bộ đồ chồng lên thêm cái áo lạnh, khăn rằn trùm đầu, bồi phía ngoài tấm bồi bằng nĩn móng, thêm cái mùng vải nữa chớ, cuốn tròn như con cuốn tham chiếu vậy mà vẫn lạnh như cắt da, không tài nào ngủ được. Vì anh em khác hơn là gì. Này đã khuất phục lui cui bò dậy, đi phá trộm hàng rào người ta để đốt hơ cho ấm.
Qua ngày hôm sau được phát áo trấn thủ đắm hồn mới hỗ trợ.
Đơn vị đáp ứng sau khi đến Hà-nội theo biên chế mới, ghép vào Sư đoàn 338. Tháng 3 năm 1955, tất cả bộ đội còn lại ở Cà Mau tập kết ra sau cùng thì coi như Nam Bộ của mình có 2 Sư đoàn 338 và 330. Sư đoàn 338 làm anh Ba Tô Ký làm việc nhẹ nhàng thư giãn. Còn Sư đoàn 330 do anh Bảy Cống làm Sư trưởng.
Kể ra anh em Nam bộ của mình ra Bắc đã được đồng bào miền Bắc kính ngâm lắm! «Anh miền Nam» mà! Cho nên chuyện khó khăn, rối rối, giao cho anh «đội miền Nam» đã xong ngay. Năm 1956, trong lò cải cách ruộng đất, vùng Thanh Hóa là vùng khó phát động nhất. Vũng địa chủ phản động cấu trúc với gián đoạn Pháp để lại và thiên chúa căng thẳng đồng kích, ngăn không cho đồng bào hội nghị, học tập chính sách ruộng đất. Cán bộ tại địa phương thì bọn họ sẽ mua được Trình độ. Số nào họ không mua Công thì họ sẽ tổ chức sát thủ, thủ tiêu.
Đặc biệt hơn nữa, chúng tôi còn có tổ chức hạ nhục bê bê và Đảng xấu, có thể sử dụng cách vu vu, âm mưu đưa ra cách có thể đặt mình vào các nhiệm vụ quan hệ nam nữ bất hợp pháp, chiến lợi phẩm đủ thứ!
Không biết mấy đơn vị địa phương miền Bắc được đưa tới công tác vận động, tuyên truyền quần chúng ra sao, cần ăn thế nào, mà cuối cùng Sư 338 của thách này đã được lệnh đến đó gấp rút. Tôi nhớ hôm nay trước khi đi, Võ đại tướng đến thăm, Đại thông cán bộ chiến sĩ về những khó khăn, sai lầm trong công tác đất đai của một số cán bộ địa phương. Đồng thời, Trung Quốc Đảng và chính phủ sẽ ghé thăm anh em, thành viên tình cảm, tư tưởng có thể bộ chiến sĩ. Võ đại tướng cũng chuyển lời của Bác gửi đến anh em bộ đội miền Nam là Bác tin tưởng rằng anh em bộ đội Nam giữ vững truyền thống của miền Nam «thành đồng Tổ Quốc». Việc gì khó khăn đến đâu đi nữa, gọi đến bộ đội miền Nam đã xong ngay.
Anh em phấn khởi hết sức lực. Mà thật, bọn này tiến tới Thanh Hóa chủ tài chính quân sự đi đôi. Bất cứ ai ở địa phương làng chàng đều là hung này đập hết, đập cho máu mũi, máu mồm, lần thu dọn hết. Bộ đội miền Nam, cái gì đập lộn thì thiên hạ phải hoàng mặt. Chỉ có thằng nào uống thuốc mới thông.
Trong quá trình huấn luyện cải cách ruộng đất để phong quân hàm toàn quân, việc này phải học một tháng, kiểm tra từng người một. Mình phải khổ sở. Dùng hết nỗi đau của mình thì người khác sẽ phải chịu đựng. Phát các lỗi của mình, tự phê duyệt, nhận tội trước tập hợp rồi phê duyệt tập tin. Khi nào tập thể nhận xét là mình đã hoàn toàn xác thực, thành khẩn tuyệt đối mới thôi. Nếu chưa, phải ngồi cho tập tin «đấu».
Bản thân mình đã hoàn thành xong chiến đấu giác ngộ chưa đủ. Mình còn phải đấu tội ác, lỗi của đồng đội, đồng chí mình, cấp chỉ huy của mình, cả những người mà mình quen biết dù không ở chung với mình, cho đến cả bà con dòng họ xa của mình còn ở miền Nam.
Thực sự là rất vui cho bạn bè nào có cảm giác giác. Nhiều trường hợp vui lắm anh ạ! Trong đó, y tự kiểm tra và tập thể kiểm tra y rồi từ tuần lễ trước nhưng tuần lễ sau, Đảng ủy đơn nhận được một bức thư của một chư ở xa gửi về phát giác y, tố cáo y hồi còn ở miền Nam có nửa đêm khép kín quân nhà đồng bào, hít chui vô mùm con nhà nhà. Do đó, việc đọc lại chú thích chỉnh sửa hồ sơ của bạn không tìm thấy tài khoản nào, thế nên hãy kiểm tra lại, nhận xét lại. Nên hạn chế một tháng, nhưng nhiệm vụ huấn luyện quân đội chức năng lần này sẽ kéo dài đến cả năm. Đơn vị nào cũng vậy.
Có nhiều tay không có mẹ. Trong lúc hầu hết mọi người đều ái tình, giấu giếm giảm khi tự tố cáo, nhận xét mình trước đó thì mấy tay đó, tự mình đặt điều ra thêm những tội ác dữ liệu, những động chuyện trời mà «xừu lũy» chưa làm bao giờ. «Xừ lũy» cũng chứng tỏ cơn giận, khóc thành khẩn trước Đảng, y như thật vậy. Nhiều anh em sống chung với «xừu lũy» hàng bơi năm, biết «xừ lũy» từ a tiến z cũng phải tò mò te, tưởng tượng «xừu mạnh» cày.
Ai ngờ cái sự kiện điều kiện thế mà «xừu lũy» được Đảng đề cao, nêu điển hình tốt cho toàn quân, học tập về thái độ thành khẩn, giác ngộ Đảng cao độ. Anh biết không, chính vì chỗ đó, «xừ lũy» đang là quần chúng ngoài Đảng, ngay trong lúc luyện tập, «xừu lũy» được Trung Uông Đảng cho phép kết nạp Đảng chính thức, từ giai đoạn dự trữ 6 tháng đến 9 tháng.
Ngoài ra trước đó y là trung đội phó cấp quân hàm ngang cấp với thượng sĩ. Sau đó, «xừu lũy» đặc cách được trao cho bãi biển Thiếu tướng hải quân trượt ngang. Tức là nhảy lên hai cấp.
Nhiều lắm, trong cái mỏ đào phóng tay cải cách ruộng đất thiệt hại nan như sống đi chết lại, giai đoạn, bể mình nhưng cũng vui nền mạng.
Kể ra, bộ đội miền Nam mình cứng rắn 9 năm kháng chiến theo lối sống du kích, tự làm, lưu yên thư quen thân. Đến nhẹ ra Bắc, ghép mình vào đời sống chính quy hóa, hiện đại hóa theo kỷ luật thép; cái gì cũng có điều chỉnh. điều lịnh nội vụ, điều lịnh quân y, điều lịnh quân trường, điều lịnh đủ thứ. Ngay như thế này, dù thế nào đi chăng nữa thì các tiểu đoàn cũng có thể học lại cơ sở quân sự.
Trời mưa, nắng bỏ cha như vậy mà bộ chiến đấu tập thể dục, thì bất kể chiến dịch nào cũng phải chạy. Sốt cũng phải chạy. Thở không thở cũng phải chạy. Đến nỗi đau nhiều vị ngã lăn ra chết vì cảm nắng tại bãi tập. Nhưng dù có chết đi hay, chưa chết thì làm gì được phép ngồi nghỉ.
Ở doanh trại thì phải luôn kiểm tra quân phong quân kỷ. Anh biết không! Những ngày hoàng nhật, chả là mời này ở cách Hà-nội đến mười mấy cây số, ham lắm, ham đi Hà-nội lắm. Trước khi xuất trại, giày phải đánh thật bóng, quần áo phải sạch sẽ, thẳng nếp, chữ chac. Đầu phải chải kỹ lưỡng, gọn gàng.
Vì vậy mà khi ra cổng, từng mạng phải xếp hàng như diễn binh, lần như đến soi mình vào trước mảng côn tổ tổ cha ở nhà bảo vệ để tự kiểm soát lần nữa, sửa lại bạch thắt, lau lại mặt, phủi lại giày. Rồi còn phải đứng trước mặt bảo vệ cho binh kiểm soát lại.
Một sợi tóc lòa xòa trước lông mày hả? A lê, đi vào lửa! Ở nhà, bị mất phép. Áo Quần xúng xình hả? Cũng đi vào. Giảm bớt một chút hả? Cũng đi vô!
Về chế độ thì sẽ phân biệt rõ lắm. Lính ra lính. Quán ra quân. Chiến đấu thành chiến sĩ. Bộ quản lý chế độ cũng phân loại ba loại: sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Sơ đồ từ hạ sĩ quan đến Trung úy. Trung cấp từ Thượng tá đến Trung tá. Cao cấp từ Thượng tá trở lên. Lương bổng cũng như ăn uống, sự đãi ngộ của Đảng dựa vào đó.
Chiến sĩ với cán bộ sơ cấp lớp dưới, tức hạ sĩ quan thì ăn chế độ đại ứng dụng, xuất khẩu phần 6 hào. Sĩ quan thì trung táo loại 1: khẩu phần 8 hào,, loại 2: 1 đồng 2 hào.
Tiểu sử dụng chỉ là quan sát cấp cao mới bị ảnh hưởng. Còn đặc táo, chế độ đặc biệt chỉ dành cho Ủy viên Trung Uông Đảng, Võ đại tướng, Bác Hồ thôi.
Lương cao nhất miền Bắc chỉ có lương bộ đội. Như tôi, hồi còn ngoài ấy, cấp bậc đại úy cũng hơn 130 đồng. Trí thức hả? Lớp kế kế, kỹ sư mới ra trường thì 58. Bác sĩ mới ra trường cũng 58. Sau lần lần tăng lên theo nền niên đại, chức vụ. Kiếm đến 80 đồng đã đỏ con mắt rồi.
Còn lớp dưới là lương cô giáo, thầy giáo cấp 1, cấp hai, cấp ba.. Cấp 1 là tiểu học từ lớp một đến lớp bốn. Cấp 3, cấp 3 là Trung học. Từ lớp năm đến lớp bảy thuộc cấp 2. Lớp tám đến lớp mười cấp 3. Lớp mười ngang với Tú tài toàn phần trong đó.
Ngoài ra, cấp 1, cấp 2, cấp 3 đều gọi là cô giáo, thầy giáo. Chỉ có đại học mới được gọi là giáo sư. Lương cô giáo giáo dục độc thân mới ra lò, khoảng 28 đồng, cho đến hơn 30. Kể ra cũng vừa đủ tiền ăn cơm..
À quên, phải kể lao công nữa đừng. Tức loại cu-li trong đó mà. Tiền công mỗi ngày 8 hào đến 1 đồng 2 hào, tùy theo công việc nặng hay nhẹ. Chỉ có thợ lương chuyên nghiệp trong xí nghiệp, đặc biệt dành cho công nhân mõi mới cao thôi.
Bước vào kiến trúc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vấn đề sinh hoạt kinh tế nhà nước cũng bước vào chế độ mậu dịch quốc doanh, làm nhà nước phân phối và kiểm soát. Nông nghiệp miền Bắc tiến lên Hợp tác xã.
Điều này tôi không nói chắc chắn anh cũng được biết là ở giai đoạn «giải phóng dân tộc», nội dung đường đầu của chế độ Cộng hòa nhân dân, mục tiêu giải phóng tranh thủ độc lập.
Ở giai đoạn này căn bản của chánh sách kinh tế một nước nông nghiệp câu lạc bộ hậu là vấn đề cải cách ruộng đất, san bằng ruộng đất, tịch thu, ký thu của địa chủ, giàu nông chia cho bần cố gắng trung nông lớp dưới và thực hiện giảm tô. Nhưng bước qua mộc thứ hai, tức đã độc lập, chính quyền thuộc về ta do Đảng lãnh đạo thì kinh tế nông nghiệp phải bước sang hình thức khác, tức thủ tiêu quyền tư hữu ruộng đất. Tất cả các vùng đất phải tập trung vào Hợp tác xã cấp thấp hoặc Hợp tác xã cấp cao.
Những cánh đồng đã chia trước đây giờ tập trung vào Hợp tác xã do Đảng ủy địa phương lãnh đạo và quản lý. Mọi người đều trở thành thành viên xã hội. Tất cả mọi thành viên đều được tổ chức thành các nhóm sản xuất. Ai có việc làm thì sẽ được chấm công. Ai làm nhiều việc được nhiều. Ai không làm thì không có công việc nào hết. Cuối mùa thu hoạch, phương pháp quản lý số hoa màu sẽ được thực hiện, trừ khi ra từ 15 đến 30 phần trăm đóng thuế nông nghiệp cho nhà nước. Số còn lại được quy ra tiền. Một phần để trừ những chi phí khác như mua máy móc, dụng cụ, phân tích vv.. Sau hết, còn lại bao nhiêu, theo bảng chấm công chia đều ra. Ai làm nhiều được chia nhiều, ai làm ít được chia ít. Ai không làm được gì cả.
Boss năm nay, vì nhu cầu chiến tranh miền Nam quá lớn, Đảng ta lại nghèo nên đề ra nhiệm vụ bạch tuộc bụng «nhịn ăn cám mặc» mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Hằng năm, mỗi hợp tác xã phải bán thóc bổ sung cho nhà nước đến khả năng tối đa để lấy thóc xay ra bình, chuyển sang Nam nuôi bộ đội hoặc bán ra nước ngoài để lấy ngoại tệ xài vào những chi phí cần thiết khác công như tác ở ngoại quốc, nhập các sản phẩm hóa học cần thiết, công tác kinh doanh báo, quân báo, phí chiến tranh miền Nam vv..
Vì vậy, anh cũng biết, đất miền Bắc là đất xấu, hút mồ hôi mắt mới có thể đổi thành cơm. Có khi thiên tai, mất mùa không thể thay đổi được gì. Trung bình, mỗi năm dù làm đến ba mùa, đất không được nghỉ yên, người gần như không ngủ, kéo cày thay trâu, đấm nước cỏ, phân xanh, phân màu, phân hóa học đủ thứ, mỗi gia đình miền Bắc chỉ có thể đủ ăn trong sáu tháng. Sáu tháng còn phải nổ, khoai sắn. Bây giờ, thi đua bán thóc cho nhà nước, số gạo tự nhiên phải lướt đôi. Thay vì sáu tháng ăn Bình, thì sáu tháng ăn ngô, khoai, sắn hay rau muống. Sáu tháng kia phải ăn cháo, ăn ngô, ăn sắn hay rau cầm hơi.
Đồng bào ta ngoài ấy hy sinh như thế đó. Khổ cực như thế. Chính vì vậy ta phải giải phóng Miền Nam, phải hy sinh cho miền Bắc Đánh Mỹ Diệm thống nhất đất nước.
Anh nghĩ thế nào? Đúng đấy chứ? Đảng nhất định vô cùng sáng suốt, chỉ có Đảng mới lãnh đạo nổi bật cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.
Nhắc tôi còn ngoài anh ấy, chủ đề là một chiếc xe đạp hết sức lực. Tôi phải nhường ăn cạn kiệt đến tháng tám mới mua nổi một chiếc xe đạp nội hóa do doanh nghiệp Thống Nhất sản xuất. Nếu việc nhập của Pháp có thể phải đến hai năm.
Đời sống khó khăn của miền Bắc đâu phải như trong Nam mình, cái xứ làm chơi ăn thiệt. Quanh năm, ngủ cũng ai chết đói bao giờ. Ở Đồng Tháp, lúa không trồng vẫn mọc.
Chiếc xe đạp có giá trị như một chiếc xe hơi.. Vải vải, khẩu phần mỗi người một năm chỉ được cung cấp phiếu mua bốn thước Nam Định nội hóa nhưng không có tiền mua thay thế.
Những năm ở miền Bắc sao mà nó dài quá, mình tưởng tưởng một ngày dài bằng một năm. Không phải dành riêng cho tôi, mà tất cả các tập tin miền Nam đều được tìm thấy như tôi.
Vừa nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con, vừa cái khí hậu miền Bắc nóng, lạnh thái quá làm mình muốn điên cuồng, khó chịu hết sức, không ngủ nghê được gì.
Anh nghĩ xem, mùa lạnh như cắt da, cắt lòng. Bình yên đến nửa đêm thức giấc, mắc rắc quýnh lên cũng không có phấn bò dậy đi thưa. Vì ra ngoài thì trời gió lạnh không chịu nổi, thêm cái trở vô phòng nằm hết ấm, vô phương ngủ. Ngủ mà không lăn, xoay trở, cờ tới đâu lạnh tới đó, lúc nào cũng phải khoanh tròn như con tôm kho tàu.
Mùa hè thì trong suốt đêm nền tảng, quạt gió thổi mồ hôi đệm ướt lưng. Tắm xong auth nhưng không xoa bóp. Ban ngày, đặc biệt nhất là gió Lào. Gió từ bên Lào thổi qua đó. Nóng điên đầu, nắng chang đổi lửa, từng cơn gió thổi qua như hắt cái lò lửa vô mặt mình.
Buổi học này đã có chỗ ngủ. Hãy giúp anh em mua một cây nước đá chặt ra bỏ trong cái chậu thau lớn để nó xông hơi lạnh, ngồi vây quanh uống trà đá cho đỡ nóng. Vậy mà cũng có thể nhắm tới việc ăn gì.
Anh em miền Bắc, họ quen cái khi hậu đó rồi đuổi bọn mình khó nhọc lắm. Cho nên, như anh đã nghe Năm Rùa kể rằng, lúc tập kết ra Bắc, Bên bảo chỉ hai năm sau là thống nhất đất nước, các đồng chí sẽ được trở về Nam. Nhưng tháng 7 năm 1956 đi qua em ru ý nghe ai nhắc nhắc nói gì đến việc Tổng tuyển cử, lũ trẻ này ai cũng hoang mang xuống tinh thần hết.
Cái Tết đầu năm 1957, 1958 thật là hai cái Tết bằng nước mắt anh em bộ đội miền Nam. Tay ai cũng nhớ quê hương, một đứa con khóc, rồi hai, rồi cả hai Sư đoàn 330, 338 ôm nhau Khóc, Khóc như cha chết không bằng. Trung Ưng người đến thăm,ủng hộ,đơn vị kêu tập cũng cứ nằm lăn ra khóc,không còn ra cái thống...chế độ gì hết. Chính tình trạng đó đưa ra nhiều cán bộ, chiến sĩ sau này mạnh mẽ ra hư vô, vô kỷ luật ăn nói vô tổ chức, phun còn thuốc trời đất gì hết. Cái phong khuyến uống trà dũng mãnh ra từ Atom đó... Sau này Trung Ương phải chuyển hàng loạt, học tập, chỉnh huấn, động viên chính trị hàng tháng, nay hết lần Trung Ương Đảng, mai đến Võ đại tướng, sau cùng Bác tới an mới lần du đi.
Cũng trong bất kỳ thời điểm nào, nhiều thằng lộc nhiên đã thay đổi chứng tình. Ôn giải ngũ cốc đi làm mướn, trẻ chạy xe đò, trẻ đi lập gia đình trốn ở luôn.
Đến cái ngày mà tôi được gọi đến giao diện tại Tổng Cục Chính Trị và được phổ biến cho biết được chỉ định trở về Nam, tôi tưởng tượng mình nghệ thông, bội thu từ cung trăng rớt xuống. Cùng lúc được phổ biến chỉ định đi chiến trường B. tức đi Nam, tôi cũng được phép nghỉ một tháng, được lãnh đạo trước ba tháng lương và quyết định đề bạt lên một cấp.
Sau khi nghỉ hết phép, dùng hết tiền lương thì được lệnh đến kẻ tấn công ở trại tập huấn Xuân Mai, học tập sinh hoạt ba tháng nữa. Trong thời gian ở đây, tuy được hưởng chế độ sinh hoạt đặc biệt, ăn uống dưỡng dưỡng để, nay được xem chiếu phim, mai được xem quân đoàn văn công Tổng Chính Cục Trị trình, bò heo ngã lu bù nhưng cũng khó khăn hơn khổ sai. Ban ngày, ngoài những giờ học tập chính trị, kinh nghiệm chiến trường miền Nam còn phải tập truyện trên dây chạy bộ, tập leo đồi, leo núi. Anh nghĩ hôm nay đầu mang năm xích tuần, hôm sau sáu lục địa rồi bảy địa phương, đến hai sương, chạy dưới nắng, leo đồi, có thánh cũng phải bò càng nhiều. Nỗi buồn không có tập tin quen thuộc thì không có thuốc về Nam. Mở miệng cũng được kiểm tra nhận xét, bồng bềnh về đơn vị khác. Vi phạm nội quy của Trại cũng vậy. Nhất nhất mỗi thứ, mình như cái máy, Rỗng theo răng lược. Mấy tháng ở trại, ngoài những lần đi tham quan doanh nghiệp, công trường với tập thể thì tuyệt đối không được bước ra cổng bảo vệ.
Khi khởi hành, đi vào lúc nửa đêm, leo lên xe Molotova buông mui mui kín, trên thắt lưng vị trí cũng mang theo đồ, hai lăm ít bình, mấy lon khô lương, mấy hộp sữa, đường trà vv.. cho tới nút áo, kim chỉ, đá quẹt, dầu chồn, tiêu hành, bột màu, túi tiền cứu cấp, y như một cái cân trắc lưu động. Hai bên hông là hai cây súng lục, trên vai hai cây carbine, không carbine thì súng trường tiểu liên, có con phải đeo trung liên, đại liên.
Bao nhiêu giấy tờ, kỷ vật đều bị bắt buộc bỏ miền Bắc. Nếu có thứ gì đó thì phải loại bỏ xuất xứ của nhà sản xuất. Bút máy Hồng Hà, đồng hồ vv.. cũng vậy, do lệnh đã ra phải giữ bí mật tuyệt đối, không để bất kỳ món đồ nào có chữ hoặc có thể làm gián đoạn Mỹ Diệm để tìm ra đó là những bộ có thể của Đảng từ nội bộ xã hội chủ nghĩa trong Nam chiến đấu.
Đoàn tôi đi, xuống xe ở biên giới Quảng Bình - Lào. Con đường đó cũng là con đường của những đoàn về sau tôi đi qua. Ngày đầu tiên tấn công tôi lắm, phấn khởi động lắm. Anh nghĩ, được trở về miền Nam, về quê hương của mình gặp mặt lại cha mẹ, vợ con, gia đình thân thuộc, làm sao không phấn khởi nôn nao.
Nhưng khi vượt qua ngọn đồi linh một (1001) tại biên giới Lào rồi vượt qua đồi tám trăm (800) ngày hôm nay sau, sự mệt nhọc, vất vả quá độ, nhuệ khí giảm hết ba phần trăm rồi đó. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao mấy tháng trường ở trại tập kết Xuân Mai phải tập gạch đá leo dốc, leo đồi.
chiến hai ngày đi đêm nghỉ trên đất Lào, thông suốt Nam tỉnh này tưởng mình đi đâu đã xa lắm. Hai tinh bình mang theo ăn hết sạch. Hai chân lười biếng, lê lết hết nổi. Rồi một số bắt đầu sốt rét phải bỏ trạm dây chờ tháp tùng vào thư viện sau. Vậy mà, khi đồng chí giao 1iên người Thượng cho biết phải hết sức cẩn thận, giữ bí mật vì đã lọt vào phần đất miền Nam rồi, hỏi ra tưởng đâu, ai dè mới tới Quãng Trị. Quãng Trị, Quãng Bình nằm kế nhau. Toàn rừng và rừng. Núi và núi hoang vu, không có vết chân người.
Khi còn bên kia đất Lào, tỉnh này được xả hơi ba hôm nay, để bồi dưỡng sức lực, tổ chức ưu điểm để bù vào những ngày chăm dọc đường. Chả là lúc lên đường nhà nước có cấp cho mỗi đứa trẻ bảo này gần ba tàn bạc tiền miền Nam và một số tiền Lào nên việc mua bán an đồng bào Lào không khó khăn gì lắm.
Sau ba ngày nghỉ, mỗi người trong đoàn được bổ sung thêm hai hoàng ngọc mới và được phổ biến cho biết tình hình đi đường từ đây rất căng. Vì đã xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp thực phẩm của miền Bắc không còn nữa, mỗi người đều phải trông cậy ở mình, tự lực lo lấy.. Đường sẽ đi là rừng sâu không có đồng bào ở, dù là đồng bào Thượng. Và có đồng bào đi nữa cũng cách xa buôn nhiều ngày đường.
Những bài học về kinh nghiệm đi rừng trước đây ở Trại Xuân Mai, mỗi đồng chí phải mang ra áp dụng. Như cách tìm kiếm, nhận diện, xử lý các loại lá cây rừng ăn được, các loại củ như củ chụp, củ năng, củ chuối. vv.. Đoạn đường đã đi qua nên đoạn đường sẽ đi tới sau tháp vào đâu. Hiện tượng khó khăn, cố gắng bắt đầu xuất hiện.
Chi bộ liền mở phiên họp để đả thông tư tưởng, đề cao kỷ luật, đề cao Đảng tính của Cộng sản trong công đoàn lãnh đạo quần chúng cũng như đấu tranh cách mạng. Cuối cùng là hạ quyết tâm gửi thư về Trung Ương.
Đoàn tôi đi vào mùa mưa. Việc đi đứng khi mang nặng, vượt dốc, đầy đá tai mèo, nhiều rãnh thoát như mỡ, trời lại mưa tối mắt tối mũi. Không cần kể, anh cũng đủ hiểu nó khổ ra sao. Nhưng đau khổ nhất khi đến trạm đường dây, đóng quân nghỉ đêm. Nói là Trạm chứ có nhà cửa gì đâu. Chỉ là rừng. Trời tối om, đi chậm thì lạc đường, mất dấu người trước, đi nhanh thì nguy đá, rễ cây, nhào đầu không nổi nổi. Đến nỗi trời mưa như ruột nước, đốt đèn không được, vừa lạnh chạy, vừa lười nhừ, không tìm thấy đường để căng căng nylon nóc, cũng không tìm ra chỗ để ba-lô xuống cho ra khỏi ướt đồ, ướt nước. Căng được nylon, giăng được rở, mặt đất đầy nước nổi chiều bều, không còn chỗ nào có thể làm bếp để nấu cơm. Mà lấy củi khô ở đâu mà nấu ăn? Gió mạnh to đùng. Đã hết đâu. Trong tình thế đó, vắt còn tấn công mình, bò lễng nghễnh như bầy kiến trúc, rồi mối càng, kiến trúc, còn cái nỗi sợ rắn, rít nữa chớ!
Trên đường đi, nghề nấu ăn thì mỗi người đều có mang theo hai cái mùi-gô. Mỗi người tự nấu, vừa cơm ăn bữa chiều, vừa cơm nhẹ cho buổi sáng ngày sau, cơm nho mang theo cho buổi chiều. Cơm xong phải nấu nước đổ đầy vào hai bình tấn để ngày uống dọc đường. Sáng ngủ dậy, ăn nắng ăn vã lên đường ngay còn chửa đáp thì đâu nấu nướng hay chuẩn bị gì nổi. Thở lên đường thì cứ đi trong suốt ngày, cứ mười giờ nghỉ phút, thở nhưng không đáp ứng thay thế
Cho nên dù gì thì sao, bất cứ với giá nào, vất vả vất vả đến đâu cũng phải quơ củi, vo gạo, nổi lửa nấu cho xong ba bữa ăn, đầy hai bình ton nước, ăn uống xong mới được leo lên an. Ngã lăn ra ngủ là không rõ.
Có bữa tối, đây phải là ánh sáng rực rỡ. Ôm đứng che nylon cho mưa đừng sát, các con thổi lửa phù phù cho cháy nấu chín bao-gô cơm, nước dưới chân nổi chiềuu, sống như sống. Úi chao! Nhắc lại thời gian với tôi nhưng anh hùng đã thấy sợ hãi.
Vượt qua quốc lộ 9, đến địa phận Thừa Thiên, đây mới bắt đầu đói. Đói là sự thật. Hỏi Trạm, Trạm không có Bình. Nhờ mua hộ thì trạm bảo các đồng chí ấy còn đói không kiếm ra được bình thay, mua hộ ở đâu bây giờ? Đồng bằng thì cách xa hàng ngày đường. Buôn của đồng bào Thượng lắm cũng phải mất ba ngày.
Ở Trạm này, các đồng chí giao liên Thượng bảo: « Thằng bộ đội tới trạm bên kia có Bình ngay». Thằng bộ đội hy vọng tràn trề, nhưng khi tới trạm kế thì lại chỉ tới trạm kế nữa. Khi bình trên giảm còn 5 lít, điều này đã bắt đầu hạn chế, chỉ nấu cháo để hy vọng kéo dài ngày ra. Cho đến lúc còn hột nào cũng vẫn không sao đào đâu ra bình. Cài đặt chia nhau đi đào của chụp, của năng bắt đầu. Nhưng đâu phải nơi nào cũng có những bức ảnh chụp năng động.
Mãi cho đến lúc vào khu chiến Đổ Xá mới được tiếp tế Bình. Đau khổ, đói khát vì không rượu mà thú vị rừng đầy dẫy cũng không được bắn mới chết chớ. Đến trạm nào cũng được mấy đồng chí giao liên Thượng họ hù. Ăn « Thằng Quốc Gia ở gần lắm. Thằng bộ anh không được nói chuyện, không được bắn. Bắn súng Quốc Gia biết liền, tới đây giết thằng đội. Illegal command ». Hoặc « chàng trai Quốc Gia mới đi ngang qua chỗ hồi phục sáng. Nó vẫn ở gần đây». Rồi «ở đây không an ninh. Thằng bộ đội có ngủ phải ngủ một con mắt thôi. Súng phải thế này để anh chàng Quốc Gia có tới, bắn lộn với nó».
Người ông nội Thượng họ nói chuyện theo cái kiểu đó, làm mình nôn nôn, phát tức với họ. Ngay chuyện đi đường, mình hỏi thăm dù tới phòng nghỉ, mấy ông nội đó, ông này thì: «Đồng bào không có nói, thằng bộ đội do có hỏi». Ông kia lại cười toét miệng: « Trước mặt kia, còn lùn rựa thì tới». Mình tưởng thiệt, trước mặt kia, cầm cái rựa cái rựa rơi bất cứ chỗ nào là chỗ đó. Ai dè đi từ chiều cho tới tối mờ cũng chưa được nghỉ, hỏi ra «quăng cái rựa» của họ là chở rựa trên vai đi nhẹ nào vượn cái rựa không nổi nữa xuống thì tới. Chết chưa. Vác cái rựa không nổi, một ngày nào đó hãy còn ít.
Có tay ngô nghê hơn, nhưng ngô nghê kiểu của họ cũng đủ chết mình, không biết đâu mà mò. Hỏi họ còn gần xa, họ nói:
- Thằng bộ đội đi mau thì tới trước mặt trời, đi chậm thì tới sau mặt trời.
Đến Đổ Xá, thư giãn này được nghỉ bồi dưỡng bốn ngày, rồi lại cụ lên đường bò sang đất Lào lần nữa để đi vào vùng ba biên giới Kontum. Cái đám Lào nó chiến đấu thiệt mình không sao nổi hiểu. Như cái hôm nay tôi đến một làng giữa Thà Khẹt và Savavane. Một trận chiến bất ngờ giữa Pathet Lào và đám Hoàng gia. Hai bên bắn nhau tối trời đất trong sáng hai phút thì liên tục. Tôi thấy mời, điều này sẽ hỗ trợ, cho tổ trinh sát tiền bảo vệ. Lát sau trinh sát về báo báo Hoàng gia chạy hết rồi, phía trước lố nhố khoảng một trung vương Pathet Lào thôi. This is going to going to.
Anh biết tôi không thấy gì.? Trên một cây tôi sát đường đi, trên chóp thì hai chú chiến sĩ Hoàng gia đang hái tôi cười chí chóe. Ở giữa cây tôi sẽ có một chú thích Pathet cũng chọn cho tôi một chú thích khác dưới đất. Hai gốc của tôi là hai nhóm súng. Nhóm bên này là một “mút” Mỹ tự động với một cây “cạc-bin”. Nhóm bên kia là hai cây trường bá đỏ.
Anh coi nổi hông? Mới bắn nhau như đầu ngọc ra đó. Hết bắn nhau,là huề, coi như không có chuyện gì xảy ra, tỉnh bơ leo chung một cây me, súng bỏ đại dưới đất.
Vào đến địa phận Kontum, tính chất này đã đi mất hết bốn tháng trầm kể từ ngày rời Hà-nội. Và kể từ Kontum, cái đói, cái vất vả với sốt rét nó còn ác báo gấp mấy lần đoạn ngoài kia. Cho đến khi qua sông Đồng Nai vào khu A, mảnh đất đầu tiên của Nam bộ, tập đoàn của tôi đã đi tới 9 tháng 14 ngày. Lúc ở Hà Nội ra quân số của đoàn là 130 người. Về đến khu A chỉ còn 46 mạng. Số còn lại, trừ 3 mạng chết vì sốt rét, 1 mạng chết ở sông Bahr, 2 mạng chết vì kiệt sức trên đường hành quân. Còn bao nhiêu thì lớp bị sốt rét, lớp kiệt sức rơi rớt ở mấy trạm dọc đường.
Cũng có thể, dọc đường, điều này được tránh né, rút lui mỗi khi chiến đấu nên không có ai bị thương vì chiến đấu như một số quân đoàn khác về sau. Vậy mà còn có bao nhiêu. Tôi nghĩ đến lời đồng chí Lê văn Lương, Ủy viên Trung Uông Đảng, hôm nay đến thăm và đả thông tin tưởng này tại trại tập kết Xuân Mai. Đồng chí bảo trì:
- Party không cần đường dọc chiến dịch đồng bộ. Các đồng chí không cần thiết phải thực hiện bất kỳ công việc nào khác. Có thể kể chuyến đi Nam của các đồng chí ngang hàng với cuộc vạn lý trường chinh của Hồng quânTrung quốc tiến về căn cứ địa cách cách mạng Diên An. Chỉ cần các đồng chí đặt bước chân đến bên kia sông Đồng Nai đã là một thắng lợi đại, phi thường rồi. Thắng lợi vĩ đại của các đồng chí cũng là lợi vĩ đại của Đảng. Party only cần thay thế. Các đồng chí là những người quản lý ưu tiên của Đảng, đảm nhận các nhiệm vụ của các đồng chí ở Cách mạng miền Nam...
° ° °
Anh Ba à, Tam Chi cũng miệng góp ý vào, nghĩ ra lúc đám mình thiệt về Nam thiệt «quá kích thước thợ, mộc». Loại mình thuộc loại đi lên đường, chớ như mấy đoàn sau này, về năm nay, đã không phải chịu đói, lại đi mau hơn. 5 tháng về tới trong này. Đoàn anh em đi về sau tôi, chỉ hơn 9 tháng. Còn chuyến A 9 của tôi, kể từ ngày vượt biên giới Quảng Bình cho tới lúc đặt chân lên đất Đồng Nai những ngày 14 tháng 3 thì sao?
Hồi lúc đi, tôi sinh nở theo một tập giấy peure ba trăm tờ, nhất định tranh thủ thời gian viết nhật ký, ghi lại cảm xúc và những sự kiện xảy ra trên đường đi để cho con cháu mình sau này nó đọc, không biết ông cha nó trước ngày gian khổ như thế đó. Vì vậy mà suốt 14 tháng 3 ngày, không viết nổi một chữ làm thuốc. Anh nghĩ, tay chân giở không nổi thì còn viết cái gì?
nhắc về những năm ở miền Bắc, à! Anh Ba, anh nhớ chuyện thằng Đồng văn Đe con anh Bảy Cống chớ? Thì cái thằng đó, nó làm anh Bảy Cống lên lòng, thiếu điều lạ nó, lên nôn từng cơn. Cha thì Đại tá, Sư trưởng Sư đoàn 330, còn con "Tư lệnh" của đám học sinh trường Miền Nam ở Hà Đông.
Năm đó là năm 1958. Toàn quân vừa được phong quân hàm xong. Trường miền Nam tức là trường cấp 2, cấp 3 duy nhất dành riêng cho con miền Nam tập tin ra Bắc.
Lúc đó, tôi đang công tác tại Phòng Chính Trị Sư đoàn 330. Một buổi tối, giật này đang tập trung trước sân xem phim tham khảo «Vợ chồng A Phủ» thì tôi thấy đồng chí chỉ huy trưởng vệ binh từ ngoài cổng hớt hơ hớt chạy vào anh kiếm Bảy Cống.
Tôi hỏi có chuyện gì cần thì đồng chí ấy bảo Thiếu Tướng Trần văn Trà từ trên Tổng Cục Chính Trị đi xe Volga đến, đang chờ gặp Đại tá Thủ trưởng Sư đoàn ngoài cổng. Có chuyện thượng cấp.
Mười một giờ đêm, buổi tham chiếu phim sa mạc thì mấy anh em văn phòng Bộ Chỉ Huy xì xầm cho biết: Thiếu Tướng Trần văn Trà đón vừa anh Bảy Cống đi Hà Đông có việc khẩn cấp, phải giải quyết ngay trong đêm. Hình như có một loạn lớn nổi tiếng do bọn phản động và đặc biệt là miền Nam cầm đầu. Tôi ngạc nhiên hết sức, nhưng thắc mắc, nửa tin nửa chừng. Vì nếu một biến cố quan trọng như vậy, đang đêm Thiếu Tướng Trà xách xe đến sương đi thì mình anh Bảy Cống đâu giải quyết được. Ít ra anh Bảy cũng ra mệnh lệnh điều động cấp tốc một E nếu không cũng một D (Trung đoàn, Tiểu đoàn ) hành quân quân ngay. Đằng này, anh Bảy chỉ đi một mình, không có cận vệ đi theo.
Khuya hôm đó, anh Bảy về đến doanh trại, tỉnh bạo loạn tới thăm tình hình, nổi có đám đông kích hoạt, phản động nào hết. Chỉ có mấy ông nội con nít học sinh trường Miền Nam, do thằng Đồng văn Đe, con ảnh, chỉ huy làm giặc.
Chả là trước khi học sinh toàn trường xuất phát tham gia công tác cải cách ruộng đất, phản nó lại liên hoan, tổ chức ăn uống. Phục nó ăn cướp, cướp không heo gà của hợp xã địa phương. Dân quân địa phương chiến đấu rượt nó, nó sẽ trở lại vây quân quân súng. Quá trình kích hoạt địa phương, báo cáo tốc độ tăng dần. Một bộ đội có thể giải quyết, không cho phép vào một khu vực đóng cửa nào, lại còn tổ chức các kích thước bên ngoài, ra tay quần vợt thiên hạ nữa chứ!
Chưa hết, kinh khủng hơn hết là nhân hội cơ hội đó, nài nó, muốn tập trận, đánh thử với bộ hiệp bác của nó coi ai giỏi hơn. Ở tại địa phương, có một đơn vị chính quy của quân khu Tả Ngạn về đóng quân tại nhà đồng hào công tác, vận động phong trào cải cách ruộng đất tại địa phương. Hoàn thiện nó vừa vây dân quân tước, bắt dân quân về trường nhốt xong, sợ mấy chú mấy bác bộ đội hay, vượt súng tới trường nẽ đầu nên ra tay trước. Đằng nào cũng lỡ rồi. Trót leo lên giảm sức, trót trộm gà, trót súng gây nguy hiểm với địa phương, thế nào bộ đội cũng đến...
Hoàn thành nó âm mưu ra tay trước đây, nên cả mấy trăm đứa trẻ giả vờ đến mấy nhà bộ đội đóng, vào chơi, cười toe toét làm bộ đòi coi súng, mang súng. Học trò chơi miền Nam vốn là con y tá của Đảng mà, ai lại không có tình cảm, ai mà nghi ngờ điều gì. Ai dè nhân dịp đó, nó sẽ không gây ra súng luôn về trường! Bộ đội rượt theo, bắn nó bắn chỉ thiên trở lại táo bạo, mấy chú mấy bác xanh máu mặt, bò lăn ra đất tránh đạn, đành chịu mất súng, Nòng ròng.
Có súng, có đạn rồi kêu không hí hửng làm như đám giặc thật. Cũng phân công đi trinh sát, canh gác, phục kích đầu này, bố trí mặt trận kia..
Quân Khu Tả Ngạn đã nhận được báo cáo, Hỏa hồn lên. Vừa giận, vừa tức nhưng cũng cười bò ra, lắc đầu chịu phép mấy thằng con nít Nam Bộ. Trung Ương Đảng, Chính phủ cũng nhận được báo cáo nhưng chưa biết giải quyết bằng cách nào. nào. Cán bộ tới «điều đình» thì nó rồng mận về bảo:
- Chỗ này là mặt trận. Chú thích không có tới. Bộ lệnh trả tiền rồi. Không tiếp tục hết. Không cho ai hết. Muốn gì thì chú Giáp viết thơ mở hội nghị ký hiệp định đình chiến.
Anh coi nó nói vậy thì còn trời đất gì nữa! Bộ đội chú, bộ đội bác nó kéo về phía hằng số nhưng ở cách xa cả cây số không lại gần. Bắn nó thì không bắn. Nên cung cấp nó cứ làm già, bắn móc, rượt đuổi bộ đội chạy mờ. Còn cái nỗi, thách nó chơi như thế, kéo dài, dốc lỡ ra bọn Mỹ Diệm ở miền Nam hay được, khai thác làm tùm lum lên thì còn gì là uy tín Đảng, uy tín nhà nước?
Ở trên cho người tới hỏi, ai là «Tư lệnh» chỉ huy «bộ đội» học sinh miền Nam? Bộ nó bảo Đồng văn Đe con ông Tư lệnh Đồng văn Cống Sư 330. Cho nên, nửa đêm Thiếu tướng Trần văn Trà từ Tổng Cục Chính Trị xuống kiếm anh Bảy Cống, giả ảnh tới «Mặt Trận» Hà Đông.
Hì hì!... Cắc năng hết chỗ nói. Lái xe chưa tới trường đã được chận lại súng. Ảnh nói:
- Bác là cha của thằng Đồng văn Đe đây! Đừng làm như vậy.
Phục nó cười, nói chuyện, để hỏi lại ảnh. Bác là bác Bảy Cống hả? Bác về đi, anh Đe ảnh nhẹ nhàng dù giáp tới, ảnh mới tiếp theo. Cancel để sáng sủa hơn. Bây giờ tối, ông Tư lệnh cháu còn ngủ.
Cuối cuộc, anh Bảy Cống nói gì thì nói, mời học sinh miền Nam nhất định ui anh về. Ngày sau, ảnh trở lại, viết một bức thư nhờ đám học sinh gác ngoài đưa vào cho thằng Đe. Ảnh bảo vệ phải chụp ảnh vào lỗi, phải giải nén, mang súng trả lại cho vài bộ đội. Phải làm bản tự kiểm tra, thành khẩn nhận lỗi hết, ăn hết xin Đảng, Bác, nhà nước và chú Giáp tha tội ngáo, vô kỹ luật kia. Nhưng thay vì nó làm theo thơ của cha, nó lại viết thư trả lời là nó cũng có quân đội, nó là Tổng Tư Lệnh. Bây giờ đang chỉ huy binh sĩ, nó phải gác tình cha con. Hướng dẫn chưa! Nó ký tên trong thư là Tổng Tư Lệnh. Anh Bảy Cống phải nhân danh Tư lệnh 330, nói chuyện thương thuyết bình đẳng nó mới tiếp.
Anh Bảy Cống lộn lên, đành phải viết thơ theo cái kiểu của nó đưa ra rồi dẫn theo hai chú cận vệ đến trường Miền Nam để gặp ông Tư lệnh con. Thằng Đe cũng mang súng lục đón ảnh tại văn phòng nhà trường. Nó có cả lũ trẻ.
Ý tưởng hình ảnh vào «đất thống nhất» lại chỉ có hai ngoe cận vệ chắc chắn cũng làm nổi việc gì đó. Ai dè vừa gặp mặt nó, bất ngờ ảnh cần cho một tấm lót tai chúi chắci, rồi thộp cổ nó, móc chốt vô hông nó, bảo vệ đứa trẻ nào rục rịch thì ảnh bắn chết thằng Đe. Người kia không phản ứng mà dù có phản ứng cũng không biết phản ứng ra sao, ngó nhìn anh Bảy Cống Ai cổ thằng con ra khỏi cổng trường lên xe. Ảnh chết nó chết thiếu sống, bắt ra lịnh giải tán đám học sinh Miền Nam, cho bộ đội tước khí giới. Sau đó, đưa nó về Hà-nội «trói mình» chịu tội trước Bên, Bác, Chú Giáp vv..
Làm anh Bảy Cống ảnh cũng hết hồn, tưởng chuyện hậu quả của nó kinh khủng lắm. Ai ngờ Võ đại tướng sau khi nghe nó nói chuyện về điều bình khiển tướng học sinh, lập mặt trận vv.. thấy thằng quả thiệt có tài... quân sự nên sau đó cho nó đi học phi công, lái phi cơ Mig ở Liên Xô. Bây giờ... bây giờ nghe nói đâu nó đã là trung úy phi công rồi. Cậu ta mới bị cảnh báo và cấm bay, vì năm hoang đây, ba gai bốc đồng lái phi cơ Mig 17 bay tuốt vô Nam, tính về Bến Tre sao đó, bị phi cơ Mỹ rượt phải bay tuốt ra biển, chút nữa đã bị bắn rơi đầu xuống biển Nam Hải. Thoát được về Đồng Hới, lo lắng không còn một chút nào. Sau đó, Ma trận sẽ được sao lưu. Cái thằng thiệt hại, ba gai số một thế giới. Mình nghe vừa tức cười nhưng cũng phải mặt, đầu hàng.
Nhắc tới những giai thoại về quản lý miền Nam tập tin của mình ra Bắc thì thiệt hại không biết bao nhiêu là chuyện. À, anh Ba, mấy năm hồi còn ở ngoài ngoại, anh có gặp bà Bi thường không anh Ba? Chị Trần thị Bi, Tiểu đoàn trưởng thuộc chi đội 16 tuổi của anh Ba Tô Ký đó! Ờ, Ờ! Quên nữa, anh cũng thuộc chi đội 16 của anh Ba Tô Ký, anh biết chị Bi quá mà!
Cái chị đó tệ hại. Bối rối quá, chớ không thì chỉ được bầu làm anh hùng quân đội toàn quốc rồi. Thôi, chiến sĩ thi đua toàn quốc cũng đã được Đảng cố gắng quá cách mạng!
Hồi còn ở phân liên khu vực miền Đông, được nổi danh tại vì phụ nữ mà mang súng, chỉ huy chiến giặc, bận đồ lính là điều ít có. yên,phụ nữ mà bận quân phục, lễ 1ưng xề giảm, hai bên hông hai cây «con đui» (colt 12), lại to con, coi cũng oai dậm. Tuy chưa điều khiển được trận đấu nào được, nhưng anh hùng ra trận súng lia lịa, chiến sĩ thi đua cũng được đi. Phải không anh Ba?
Hồi chỉ tới 330 ghé thăm tôi, cũng bận rộn quân phục, mang quân hàm Đại úy, súng lục cũng xề bên hông. Có sương cái là ăn liền miệng. Bận đồ chiến binh, mang súng lục mà đi đâu, cận vệ cũng xách theo giỏ trầu, miệng cứ nhà cửu nhách, coi coi ra cái «thống chế» gì hết. Lại bê bối về quan hệ nam nữ... Trước đây đã ly dị chồng rồi thì thôi, già rồi, mặt mày nhăn nheo rồi, tóc muốn điều khiển tiêu hết rồi, ta ở vậy cho xong đi, không chịu, cứ hú hí đeo mãi cái thằng cha trung trung, trung cấp tên gì nhỉ? Trẻ hơn chỉ, đáng cổ em út. Chính thức thì không chánh thức, mà cái gì cũng ổ ra cái gì cho nên tiến bộ nổi. Hồi năm nhớ, cũng còn mang quân hàm đại sứ. Phải hoàn thành nhiệm vụ đó, bây giờ hãy lên tiến tới thượng tá chớ khai chơi. Mới đây, anh em mới về hôm nay tháng trước cho biết chị Bi được đề bạt lên thiếu tá rồi.
Kể ra Đảng cũng thương tình, nhẹ nhàng nhét mãi cái quân hàm đại úy. Dầu sao đi nữa, cán bộ lâu năm mà Đảng cũng cao...
Đối với mấy anh em Nam bộ mình ở 330 hay 338 cũng chỉ giai điệu nghệ thuật lắm. Có một lần, đầu tháng lãnh lương xong, chào đón cả lũ trẻ đang «ba hoa xích thố» với nhau ở công viên Thống Nhất, một đứa trẻ nhảy chồm chồm với chỉ:
- Chị! Chị mời chào đây một bữa đi chị! Em út lâu ngày mới ở trại doanh ra, nhiệt đới nè chị.
Chỉ hỏi:
- Đãi thì đãi! Nhưng mấy cậu, cậu nào cũng mới lãnh lương hết mà.
Tụi này phân bì:
- Nhưng đâu bằng lương đại úy của chị.
Bin chỉ dẫn tới Phú Gia! Phú Gia là nhà hàng ăn sáng quan trọng nhất miền Bắc, có chỗ dành cho các cán bộ cao cấp, lãnh đạo kích thước lương chuyên nghiệp trở lên hay khách hàng xa ngoại quốc nhiều tiền mới vào. Tưởng chỉ từ chối hay tận hưởng điều gì. This đàn chỉ cười nhẹ:
- Phú Gia thì Phú Gia! Cũng vì Phú Gia mà cái danh «Anh Đội Miền Nam» nổi như cồn và Bác đã hỏi mấy cậu lần vô thăm 330 năm thanh:
- « Chú còn bán quần áo của Đảng cấp cho uống chè, hút thuốc Thăng Long và ăn ở Phú Gia nữa thôi»?
Cho đến cái việc Bác nói:
- « Các chú miền Nam thì đánh giặc giỏi nhưng làm công tác tài chánh phải nhường nhịn cho các chú ở Khu 5. Thực là hai thái cực trái ngược, cái nào cũng không tốt, cần phải học tập, sửa chữa lại. Các chú hoang phí lắm, có sạch điểm rác bãi, không biết tiết kiệm. Lương lãnh ra chưa được nửa tháng đã tiêu hoang ở Phú Gia, hay các hợp tác xã ăn uống hết rồi. Nửa tháng sau không còn tiền uống chè, hút thuốc lá, các chú lại đi bán đồng hồ, bán đồ kỷ niệm kỷ niệm của gia đình tặng cho, còn bán cả quần áo Đảng cấp cho các chú mặc định nữa. Các chú Khu 5 ngược lại, tiết kiệm quá trình, giải khát mặc dù để tiền mua vàng, mua đồng hồ để làm kỷ vật, quần áo của các chú rồi bán ra với giá thưởng, hoặc gửi vào ngân hàng cho vay. Như vậy cũng có điểm. Lương phát cho bộ đội là lương cao nhất. Bên bờ vực mục tiêu giúp chú có phương tiện ăn uống đầy đủ, bồi dưỡng sức khỏe để phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng tốt hơn, đâu phải mua vàng? Tiêu hoang cũng dư điểm; tiết kiệm quá trình hóa học tiện lợi cũng điểm. Sửa chữa ghi nhớ chú thích».
Mà thiệt, anh em miền Nam mình, tay nào cũng có cái mủ sung hoang. Không biết làm sao ông già biết cái chuyện cuối tháng bán áo, bán quần của mình để uống trà? Hay thiệt! Lão ông Khu 5 chỉ có biết mua tích vàng lưu trữ, tha ăn, tha uống, tha hồ chơi được cũng phục thiệt. Vì vậy, Đảng bảo giờ cũng giao cho mấy anh Năm Eo làm cán bộ tài chính.
Anh Hùng ngạc nhiên cái danh từ «Năm Eo» hả? Bộ đội miền Nam mình hay kiêu ngạo mấy vị thần Khu 5 dành tiền mua vàng, không biết để làm «nhà mả táng xa» gì mà không rải uống trà, ăn ngon chỉ biết uống nước lạnh và rau muống nên có danh từ Năm Eo. Gặp mấy tay Khu 5 kêu là Năm Eo, mấy tay đó tức lắm, mặt đỏ như tắc nghẽn, gây sự ngay. Nhưng có mấy cha đó đánh giá lại cái đám du công Nau bộ nên chỉ có nước ra phê bình, phản ánh ảnh lên Trên kiểm duyệt. Phê bình, kiểm tra thì sẽ nhận được điểm có lỗi. Còn chất vấn hỏi tại sao gọi là Năm Eo, mấy chư vị Nam bộ giải thích, bảo gọi mấy đồng chí là Năm Eo vì mấy đồng chí ở khu «Năm». Trên bản đồ Việt Nam, khu «Năm» là khu xương sống không thịt, gầy gò, eo thắt lại, từ biển đến biên giới Lào, có phòng không đầy ba bóng cây số. Đâu đó như Nam bộ hay miền Bắc, chiều dài hàng trăm số cây. Thì là huề cả làng. Năm Eo cứ gọi Năm Eo, nhưng bị chỉnh quá, trước mặt mấy «anh em» không call, gọi sau lưng thôi
Cái chuyện ăn ở Phú Gia, thiệt chỉ có cái đám Nam bộ mình, trải trải mạng mới phong vô thôi. Hồi mới ra miền Bắc đã một lần mấy anh em Tiểu đoàn 307 cũ, chắc chắn một lần đầu tới đó. Bốn vị tướng mới lãnh lương xong đi chơi Hà-nội,Quần áo thì như đồ ăn xin, mặt Quý cô ngáo kéo nhau vô Phú Gia ngồi như bốn ông tướng cướp. Mạnh tay nào tay ai cũng kêu món ăn. Ăn thì gọi toàn thứ thứ tiền, bồ câu, bào ngư, vi cá. Rượu thì gọi Martel chính cống của Pháp.
Nhà hàng họ hoang mang, không hiểu cơ bản «anh đội miền Nam» như bạn bè ăn mày, khố rách áo này làm gì có tiền mà rắc chơi kiểu đó? Hễ gọi món ăn, goi rượu phải ra. Bốn ông tướng. ông nào cũng súng kè kè, nghệ sĩ quan mà, không tặng ra lỡ mấy ổng nổi nóng bắn bậy làm sao? Còn lại ra thì sợ ăn chếtt không tiền trả.
Nhà hàng xì hơi một hồi, rồi họ cũng mang ra đủ hết nhưng chứa đầy cho người báo đi đồn công an vũ trang tình hình kể trên. Thế là hai ông công an vũ trang tới Phú Gia ngồi chong cặc như hai ông thần đất ở bàn ngoài canh nhẹ. Vì công an vũ trang, ngoài cách ngồi chờ ra đâu có lý do nào khác để can thiệp, không cho người ta ăn. Bất cứ ai ăn xong người ta không trả tiền mới có thể được chào.
Bốn vị trí này ngồi ăn cả hai tiếng đồng hồ, no bụng phè phèn rồi tới đứng dậy, một cậu móc thắt lưng quần quần nút của mình ra, kêu nhà hàng tính tiền. Hỏi tất cả bao nhiêu, nhà hàng cho biết hơn 110 đồng, lẻ mấy hào. Số tiền đó lớn lắm, gần bằng hai lần lương của một kỹ sư hay bác sĩ mới ra trường. Hai ông công an vũ trang mặt khẩn trương hết sức lực, đứng dậy như thể xông vào, chờ xem mấy ông này làm sao. Còn lại mấy người trong nhà hàng thì lốt nhố nép mình ở phòng cửa ra vô sau quà, lấm lét theo dõi.
Cậu chiến binh nhà ta nhướng mắt, Bột chiến hết tiền ra đếm hết giấy hai sương, giấy năm đồng, một đồng thì vừa đủ để trả. Chỉ nội cái việc có đủ tiền để trả, chịu trả một cách bình yên như vậy cũng đủ làm cho nhà hàng và hai đồng chí công an vũ trang ngạc nhiên kết quả đổi rồi, trơ mắt ếch ra nhìn. Đến nỗi đau anh Ba Tàu chủ nhà hàng, khi đếm tiền còn chạy chạy thì biết.
Nhưng cũng chưa hết ngạc nhiên đâu. Tiền trả còn thừa 7 hào, chủ nhà hàng thải lại, bốn cậu bỏ luôn trên bàn không lấy, cưỡi chi cọp, tà tà đi ra bảo «buộc boa» cho công nhân nhà hàng. Bảy hào nhiều lắm chớ bộ ít sao anh! Trả lại bốn lần để cắt tóc đó!
Hai ông công an vũ trang cho đến cả nhà hàng Phú Gia, ai ai như trên trời mới rớt xuống, chết đứng không được tiếng ồn.
Vì vậy, nhiệm vụ được đãi ra khắp Hà-nội, rồi khắp miền Bắc không ai là không biết. Cho nên từ đó về sau, mấy nhà hàng ăn, mấy hợp tác xã hội ăn uống, thấy «anh miền Nam» Thả vào dù là quần áo như xơ mướp đi nữa, họ cũng sáng rực lên, tíu tít chiều đủ thứ.
° ° °
Thấy mọi người ai cũng vui vẻ chuyện, Bảy Cà cũng hả hê chuyện chuyện. Nhưng có lẽ vì «công tác chính trị» là nghề nghiệp chuyên môn, bất kỳ ở trường hợp nào cũng không quên được «vai giáo dục, lãnh đạo đạo» của Đảng, cũng như bao giờ lập trường giai cấp cũng phải luôn được đề cao, nên Bảy Cảnh báo vào đề bằng hình thức «giữ đúng đường Đảng».
- Tôi chính nghĩ ra sách của Đảng ứng dụng ở miền Bắc hết sức lực tài tình, nếu không phải được soi sáng bằng tư tưởng Mác Lê thì không sao tài tình, hay đến như vậy được. Ngay như chủ đề chính sách của Đảng đối tôn giáo trên toàn miền Bắc, thực sự không ai có thể trách nhiệm. Chính đế nhóm quốc gia muốn nghe nhiều mà cũng không sao xuyên nổi.
Sau cái lúc «phóng tay cải cách ruộng đất» đi qua, rồi «phong trào sửa sai», Đảng đưa nông thôn miền Bắc cũng như chính sách kinh tế đi vào con đường xã hội hội chủ nghĩa. Hợp tác xã cấp cao, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã mẫu kiểu, mậu dịch quốc doanh, hệ thống bách hóa, tốt nhất là chế độ kiểm soát phân phối, cung cấp cho Đảng lãnh đạo, chỉ trong thời gian ngắn, bộ mặt miền Bắc thay đổi ngay. Bọn phản động, phản cách mạng dù có ba đầu sáu tay cũng chịu đựng được, hết cựa quậy.
Anh Ba với anh Tám còn nhớ dịch vụ đổi tiền trong vòng một ngày chớ? Hậu thiệt hại! Nói hết bí mật. Ngay như bộ đội mình, ngày mai đổi tiền, tối nay mới được phổ biến cho biết. Còn nhân dân thì sáng mai, sau khi ngủ thức dậy, ngọc trai rửa mặt mới hay qua đài Phát Thanh hoặc loa của xã. Thời gian được đổi tiền chỉ trong vòng 12 tiếng đồng hồ đã hết hạn. Số tiền ít thì được đổi tại xã, nhiều hơn một chút lên huyện, lên tỉnh, còn nhiều nữa phải về Hà-nội.
Anh nghĩ, bần cố nông mình nghèo làm gì có tiền dư, dù có dư dư cũng đâu có là bao, ra lệnh đổi là họ đổi ngay ở xã, nhanh như gió. Có khó khăn gì không? Hay tin sớm hay muộn cũng thiệt hại gì hết. Trung nông, tiểu tư sản mệt mỏi một chút nhưng cũng được đổi mới. Còn nông thôn, địa chủ, riêng các sản phẩm chịu đựng. Chưa kể những dịch vụ vì tiền cất giấu một nơi, không đáp lại đã nản lòng, mà ngay cả những đám chứa tiền tại nhà cũng ngồi khóc lóc làm sao đổi đáp. Hay tin đã có. Change only in one day. Cái bọn xa Hà-nội, ở các vùng xa, tài nào đi xe về đáp ứng? Chưa tới Hà Nội đã tới giờ đóng cửa ngân hàng. Có tới Hà-nội đi nữa, cũng phải chờ những người đến trước mà họ lại là người của ta. Cái bọn tư sản ở Hà-nội kia, còn phải khóc ròng thay...
Tôi phục hồi. Chỉ riêng cái nhiệm vụ đổi tiền, nó cũng đã có thể thực hiện tính chất đấu tranh giai cấp cao độ, một hình thức tiêu diệt, trả thù những giai cấp phản động, kháng kháng với giai công nông, mộc cốt, cơ bản của chế độ ta. Kể như 99,5% bọn cướp trắng tay, lửa nghiệp hoàn toàn.
Người anh còn nhớ mấy năm đầu mình ra Hà-nội, đi coi phim tuồng đó chớ? Đảng không đá động gì đến rạp chủ nhà hết. Phim thì nhà nước cho mướn giá cũng vừa thôi. Tax cũng vừa phải. Nhưng phim thì nhà nước mấy phim cũ, phim ma cho mướn. Còn phim mới, phim hay thì để cho các rạp chiếu bóng của nhà nước chiếu trước, giá lại rẻ gấp đôi. Thưa anh nghĩ, như vậy mấy thằng tư sản chủ sảnh không đi lạy lục nhà nước bán rạp sao được.? Để lại thì không có tiền đóng thuế, tiền sở hữu mỗi ngày là một lỗi nặng. Nhưng rồi nó bán, nhà nước lại không mua. Cung nó ức lắm. Nhưng ức thì ngừng làm chó được. Thằng nào nho nhoe, rẳng cổ là liền.
Sau cùng phải thoái lui năm lần thứ bảy như hiến không cho Đảng, nhà nước mới chịu nhận. Đã nhận nhưng phải đóng đủ thuế. Nghĩ đến mấy chuyện đó, sảng khoái.
Về tôn giáo cũng vậy. Chế độ mình, Đảng mình cũng cho đồng bào tự làm tín hiệu như vậy. Không thể mong đợi điều gì xảy ra. Muốn đi nhà thờ đọc kinh, nghe giảng hay vô chùa lễ Phật cầu kinh cứ đi. Mình cũng chả công kích làm gì.
Nhưng ở nông thôn thì thi hành chánh sách bách lao động, ở thành thị cũng vậy. Mọi người đều vào hợp tác xã, vào các nhà sản xuất hiệp hội. Ai đi làm nhiều được chấm công nhiều, làm ít thì được chấm công ít. Khi mùa thu hoạch hoạt động, hãy hợp lý các cơ sở dựa trên công việc đó để chia thành nhiều phần hoặc ít.
Đi làm đều, làm ngày làm đêm, không nghỉ ngày nào khi chia phần còn phải ăn động, khoai trối chết. Bây giờ cứ nay nghỉ đi chùa, mai nghỉ đi nhà thờ, so sánh với mọi người xung quanh, mình bị thiệt quá, đau quá, thôi giảm đi chùa, giảm đi nhà thờ cho nó đỡ. Vì sinh kế phải xa Phật, xa Chúa lần.
Nhưng ít đi chùa, ít đến nhà thờ cũng vẫn thấy thiệt hại, khổ sở hơn những người khác. Cuối cùng phải thi đua, cố gắng đi cùng những người chung quanh, làm cho nhiều công việc hơn để được dễ thở như người ta.
Lúc đầu một tuần đi chùa, đi nhà thờ một lần. Sau đó ráng một tháng đi một lần. Rồi ba tháng, sáu tháng một lần. Sau cùng thì không còn Chúa, còn Phật gì nữa hết.
Nhà thờ, nhà chùa sống nhờ tín đồ, giờ không tín đồ đến nữa, sống với ai? Sống bằng cái gì? Thế là thầy chùa, linh mục, mục sư gì cũng phải bỏ Chúa, bỏ Phật, tự cày cấy mà ăn, chớ đâu còn cái kiểu bất công xã hội, ngồi không bong, sống nhờ, sống bám vào người khác.
Ồ, anh Hùng có nghe chuyện chàng đại diện Gia Nã Đại, trong Ủy Hội Quốc Tế, bị anh em bộ đội miền Nam đánh lọt xuống Hồ Hoàn Kiếm không cà? Cái chuyện đó thú vị lắm. Nó không phải là những điều phiền phức tự ái tình cảm dân tộc, một hình thức đấu tranh giai cấp, thứ chiến đấu tính cần thiết của người chiến sĩ vô sản đối với kẻ thù.
Vụ việc này xảy ra vào năm 1956. Anh cũng hiểu, trên thực tế, Cái Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam không có lý do gì hết. Nó không có quyền can thiệp vào nội bộ của bất kỳ bên nào, nó lại không phải là thứ tài sản bóng tròn quan trọng mà chỉ là một chứng minh nhân vật thứ nít, nói không ai nghe, ù ù cạc trước những câu chuyện của người lớn.
Ủy Hội Quốc Tế Tế làm được cái tích sự gì, vậy mà Đảng phải đài thọ cho họ đủ thứ. Ăn tiền lương, dù nhà cửa, xe cột, phương tiện di chuyển để đi chơi. Anh nghĩ, mình không tức sao được. Như phiền Ấn Độ, không nói gì, ít ra nó cũng biết cái chức chủ tịch Hội đó là một hình thức bù nhìn, ậm ừ cho qua chuyện. Còn các đồng chí Ba Lan của ta thì lại có các phận sự giúp đỡ trong tình huống xã hội chủ nghĩa cọ thịt. Chớ mấy thằng Gia Nã Đại thì là tay sai của bọn đế quốc, tư bản Mỹ, kiếm chuyện moi móc cái này, để ý theo dõi cái kia để lập công với chủ. Thái độ của nó dựa vào ngôn ngữ chế độ thường xuyên ta.
Vì vậy cho nên sau tháng 7 năm 1956, Tổng tuyển cử bất thành, anh em bộ đội Nam mình ức lắm. Cái hy vọng thống nhất đất nước, trở về miền Nam tổng tuyển gia đình đi tuốt luốt. Một số anh em đang điên lên, muốn làm một cái gì đó cho cơn giận dữ. Lúc đó, cuộc đấu này ở 330 bàn với nhau chủ nhật tới, tổ chức ra Hà-nội đập mấy thằng Gia Nã Đại chơi.
Thông thường, chủ nhật thì con đường Thanh Niên nằm quanh bờ hồ, khách ngoại ô đến quốc gia đến cảnh đông lắm.Tay nào cũng xách máy ảnh chụp lia, chụp lịa. Bạn Gia Nã Đại cũng vậy.
Sáng bữa đó, phe này chia thành nhiều tổ tam tam phân tán rác xung quanh bờ hồ chờ sẵn. Gặp hai thằng Gia Nã Đại đi tới, mời này tiếp bảo một em nhỏ bán đậu rang tiến lên chận đường, mời nó mua để làm chi, if không mua, quay mặt đi thì ghép nó vào cái khinh thường dân Việt Nam, coi thường dân Việt Nam, coi thường chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc qua hành vi quay nước trước em bé Việt bán đậu.
Hai anh chàng Gia Nã Đại không mua thiệt, xua tay lia lịa quay mặt bỏ đi. Thế là phản này xông tới, thụi liền mấy thoi như trời giáng vào cái thằng thoáng khí ria. Thằng Gia Nã Đại bạo kia, bỏ chạy, nó cả gan chống lại. Đây là lời kêu gọi, giấu giao dịch cho một anh em giữ hộ, về nhà hướng tới một lần. Hai thằng Gia Nã Đại bỏ chạy, nhưng nó chạy lên trời mới. Cái thằng bùng bị này chận giò té chuông, đá nhào lăn cù như đá bánh lông.
Đến trước một vũ trang đột ngột trong, vây chạy tới can giáp thì thằng Gia Nã Đại sặc máu mũi, sâu dưới mí nước bờ hồ, ướt mem như chồn bị chó vật, ngáp ngáp gần chết.
Anh biết tại sao đây phải kín đáo, giấu kín không? Sợ nó sẽ được báo cáo thành bộ đội chiến đấu, bất lợi về mặt giá trị chính cho mình. Tuy nhiên, nó cũng biết quá rõ đây là bộ đội rồi. Nhưng dầu sao, trước mặt se nó, đông đủ «bá quan văn vũ» đứng xem đường chật, mình phải nói mình là nhân dân bên ngoài đừng. Đến trước công an vũ trang lo bạn Gia Nã Đại đi điều trị ở bệnh viện Phủ Doãn thì điều này mới mặc áo vào, khai là tại mời nó khinh thị Việt Nam, rút nước bọt trước mặt mời này và khi hỏi lý do tại sao, nó còn đánh một miếng tai vào mặt đồng chí ta. Vì vậy, tự ái dân tộc, tự ái giai cấp, nhất là đối với bọn đế quốc, kẻ thù, ta không thể giảm dược,
Kết quả anh biết sao không? Huề cả làng. Chính phủ ta viết một bức thư «chia buồn» bày tỏ tiếc nuối về vụ xảy ra, thế là xong. Dịch vụ này làm bản tự kiểm tra, nhận lương điểm bình tĩnh nhưng ngược lại, được đưa lên chủ đề cao hơn là giác ngộ ý thức đấu tranh giai cấp sâu sắc, có thể thực hiện chiến đấu tính nhạy cảm của người chiến sĩ vô sản của quân đội công nông chúng ta.
Nhưng, cái thằng Gia Nã Đại đó, ít ra nằm bênh viện cũng một tháng và xin về nước, đời nhạt sương bước chân đến Việt Nam.