Số lần đọc/download: 1806 / 26
Cập nhật: 2015-09-29 00:42:19 +0700
N
gôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biên thành phố Manchester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngay người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh.
Ngôi nhà của dòng họ Winter rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng tây. Nhờ mỏ vàng và thiết lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà.
Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thơi gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia. Ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, ba Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó.
Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thương tiếc rẻ vì trong mùa he chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manchester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay.
Ngôi nhà lớn không hề đổi thay hình thức. Bên ngoài vẫn màu trắng với những cửa lá sách màu xanh lá cây. Vách gạch đã ghép ván bên ngoài làm cho các khuôn cửa sổ tăng thêm chiều sâu. Nhà mở rộng theo chiều dài, chẳng kể gì cân đối hay không. Một bên có hai cánh, bên kia có ba, hơi thụt về sau một chút đối với căn nhà chính. Nhà có ba tầng lầu, mặt tiền bằng phẳng có vẻ khắc khổ, chỉ trừ cửa chính bằng gỗ có chạm trổ.
Con đường dài trồng cây du đưa đến thảm cỏ xanh ở trước nhà. Các cây đã quá già cỗi, mỗi năm ông William phải kiểm tra lại, chống đỡ thêm, phòng khi ngọn gió Đông từ núi thổi xuống. Ông tổ Adam đã trồng các cây này cách khoảng nhau rất xa, để cho con đường có vẻ rộng thênh thang và bước vào người ta có cảm giác mênh mông bát ngát. Cái cảm giác này tồn tại khi người ta mở cửa chính ra. Một gian đại sảnh chạy dài ở chính giữa ngôi nhà, sâu bên trong cánh của lớn lồng kính, người ta có thể nhìn thấy trọn cảnh khu vườn có tường bao bọc chung quanh. Hai cánh cầu thang chụm lại bên trên và mỗi bên có một phòng khách, thường vẫn gọi là phòng khách Đông, phòng khách Tây.
Đồ đạc trong nhà còn đẹp, tạo thành một vẻ hài hòa ưa nhìn, những món mà gia đình đã mua sắm, mỗi khi một ít, bất chấp kiểu dáng, tùy sở thích cá nhân. Bà Elinor cảm thấy các gian nhà quá vướng vít vì đồ đạc, bà mời các anh chị chọn lấy cái nào thích thì mang về, để làm kỷ niệm những ngày thơ ấu chung sống. Dòng họ Winsten giữ lại những vật gì dính dấp với cái nhà xưa, như ghế bành và trường kỷ bọc nhung ánh vàng, những khuôn kính cao theo kiểu Pháp cẩn ở các cửa sổ mặt tiền. Lấy các vật đó mang đi, các anh chị cầm bằng nhổ các cây sơn mai già, các cây hoa xoan và các cây du cổ thụ.
Hai mươi lăm năm về trước, vào một buổi chiều xuân, khi chàng rể William bước chân vào nhà, chàng cảm thấy thật là thân mật. Chàng đã thường đến đây vào mùa hè để gặp lại các bạn hữu và cũng chính là mấy người anh của Elinor, và mỗi năm tình yêu của chàng mỗi tăng. Cuối cùng, chàng cũng làm thân được với vợ chồng Bertha và Heinrich, người giúp việc trong nhà, và sai bảo họ một cách tự nhiên. Chàng cảm thấy khó gần gũi với cô bé Jessica, đứa con đẻ muộn của họ. Sự ra đời của con bé có vẻ buồn cười, nếu ta nhìn lại đôi vợ chồng chậm chạp vụng về và luống tuổi này. Cô bé đã chào đời sau hôn lễ của gia chủ một năm.
Bà chủ đã cười ngất khi cho phép Bertha đặt tên cho con gái mình là Jessica, giống tên của mẹ là bà Winsten. Vợ chồng Bertha và Heinrich có vẻ thẹn vì có con muộn, và em bé lớn lên trong nhà bếp, bên lề ngôi nhà lớn. Ông William xem ra không lý gì đến cuộc đời của con bé, trừ khi ông thấy nó và tự hỏi tương lai của nó sẽ ra sao. Cô bé mảnh khảnh, đôi mắt có màu xanh loang loáng, mái tóc mềm mại với màu vàng kim truyền thống, khó mà tin rằng cô là con của vợ chồng người giúp việc.
Nhiều năm về trước, một lần khi ông William về nhà mở cửa phòng khách phía Đông, thấy Jessica ở đó, bây giờ nó mới lên bảy, ngồi trên một ghế bành bọc nhung, giẻ lau cầm tay, vì bà Bertha đã bắt đầu gọi con đi theo giúp mình. Nhưng Jessica không lau phủi gì cả, nó ngồi chễm chệ trên ghế, đôi mắt sáng ngồi, ngó nhìn lơ lửng, một nụ cười mỉm duyên dáng nâng cao hai khóe miệng. Cô bé múa may bàn tay xinh xắn, mũm mĩm, trắng ngần, một bàn tay không mấy có liên hệ với bàn tay của một mụ bồi phòng.
Khi ông William nhìn nó ngạc nhiên, nó bối rối kêu lên, rồi bình tĩnh trở lại.
- Ôi, thưa ông Asher, con không nghe tiếng ông đi vào. - Nó lúng túng trong miệng, nhảy vọt khỏi chiếc ghế và trốn chạy về phía nhà bên.
Ông gọi nó bảo không có sao, nó chỉ là một đứa bé, dù ông có tính không thích trẻ con, ông cũng không nỡ làm cho một cô bé xinh đẹp như thế sợ hãi, nhưng cô bé không dám trở lại. Tuần sau Bertha gởi con vào một tu viện ở Canada, thưa với bà Elinor rằng các dì phước người Anh có thể nghiêm hơn các dì người Pháp.
Với một chút áy náy lương tâm, bà Elinor phân tích cho chồng nghe:
- Nó còn bé quá mà gởi nó đi tận đâu đâu.
- Đứng vậy, nó còn bé quá! - Chồng bà trả lời.
Nhưng không có gì làm nao núng Bertha, và bắt bà ta đổi ý được, nên vợ chồng ông chủ phải để Jessica ra đi. Vào mùa hè, thỉnh thoảng cô bé trở về nhà, song bà Bertha nhận thấy không chịu nổi con bé, nên khi ông Heinrich, chồng bà nhắm mắt, lúc Jessica lên mười, bà bắt con phải ở lại trong tu viện suốt mấy tháng hè. Cô bé chỉ được ra khỏi đó khi đến tuổi làm việc được, lãnh vai bồi phòng ở nơi nhà lớn. Từ đó, ông bà chủ thường xem cô bé như thế. Cô ta không có được tính nghiêm trang như Bertha, nên bà Elinor thấy rằng cô phải lấy chồng. Cũng trong sớm mai ấy, bà Elinor có nhận xét: “Lấy ai? Nếu không phải là Herbert”, tài xế và hầu bàn, vào làm việc đã bảy năm, để thay thế cho Heinrich, sau khi một số người đã được gọi tới mà thiếu khả năng. Herbert từ giây phút đầu đã mê tít Jessica. Anh ta cố ở lại trong ngôi nhà cũ cũng vì yêu cô, mặc dù bị cô khước từ, khi thì mỉa mai, khi thì cộc cằn. Anh ta vẫn kiên trì nài nỉ theo cái kiểu của anh.
Những khuấy động thế này ở dưới bếp, theo lời ông William nói, cũng mang đến cho vợ chồng ông cơ hội giải trí. Bà Elinor lại có tài tường thuật một cách trào phúng và linh hoạt. Khi ông William mệt mỏi từ văn phòng trở về, nghe vợ kể chuyện, ông cũng lấy làm vui. Ban đêm, khi bà lo dỗ con ngủ, ông chỉ nghe bà nói câu được câu mất. Bây giờ các con đã lớn cả rồi, Winston đã lấy vợ, Edwin và Susan thì đang học ở trường trung cấp, chỉ có hai ông bà sống một mình trong ngôi nhà lớn.
Đoàn tàu lửa chạy đong đưa giữa vùng đồi núi xứ Vermont, rồi bỗng ngừng hẳn lại sau một cái sốc mạnh khi đi vào sân ga. Ông William đã sẵn sàng để xuống, ông thu nhặt giấy tờ, nhét vào cái cặp luật sư bằng da đen, quà giáng sinh bà biếu ông năm trước. Trước tiên, bà đã mua cho ông một cái cặp màu nâu. Màu sắc có ảnh hưởng nơi tòa án, nên ông đã để lộ sự hoài nghi của mình.
Bà Elinor tức cười, bà kêu lên:
- William, thì anh trả nó lại cho em, em sẽ đổi cho anh một chiếc khác màu đen. Từ ngày về với em, anh chẳng có cái cặp nào khác, em muốn xem sự thay đổi có ảnh hưởng nơi anh như thế nào.
- Không phải ảnh hưởng nơi anh, mà nơi thân chủ của anh, họ tin vào màu sắc trang nhã.
Elinor chỉ mỉm cười, một nụ cười dịu dàng với đôi mắt ngời sáng, nhưng cách một vài ngày sau, ông William cảm thấy khoan khoái khi nhìn thấy chiếc cặp da đẹp, màu đen, có in những chữ đầu tên ông bằng kim nhũ.
Anh tài xế Herbert xin nghỉ phép ngày hôm ấy, vì vậy mà ông William trở về bằng tàu lửa. Ông thích nghiêng đầu ra ngoài toa xe để nhìn thấy vợ ông đang chờ đón ông trên sân ga. Hôm nay bà tự lái lấy chiếc xe hơi nhỏ màu xanh sẫm mui trần của bà. Bà không bao giờ bỏ mui ra, nhưng hôm nay ngày cuối hè, các cửa kính đều hạ xuống. Bà ngồi băng trước, hút thuốc, dáng điệu nhàn nhã, duyên dáng tự nhiên. Bà là một phụ nữ trẻ trung, thon thả, và không bao giờ cắt mái tóc màu vàng hoe của mình. Tóc bà nhỏ sợi và mượt mà, dù chưa qua khỏi tuổi bốn mươi lăm, nhưng đã bắt đầu điểm sương và bà đã bới thành búi sau ót. Ông William gần như không nhìn thấy điều đó. Nếu bà không được duyên dáng như thế, với dáng mảnh khảnh đẹp đẽ như thế, người ta có thể xem bà như là một phụ nữ tầm thường, đằng này người ta tự cho là một sơ suất khi bắt gặp bà ăn mặc có vẻ cẩu thả. Ông William đã quen nhịn khi nhìn thấy cái cổ áo lụa của bà không cài nút, có ý để người ta đoán lấy bộ ngực đặc biệt trẻ trung của bà. Ông biết ông có nói ra cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ làm cho bà mỉm cười, hoặc sẽ nhún vai một cái thôi. Mũi kim khâu có thể thu hẹp cái khuy nút quá rộng, nhưng chẳng bao giờ được thi hành, một chiếc kim băng và vô số những trang sức có kim găm mà ông đã biếu bà, cũng không bao giờ thay thế mũi kim khâu khuy áo cả.
- Herbert chưa về à? - Ông William vừa hỏi vừa bước lên xe, mắt nhìn đi nơi khác.
Bà chuồi mình theo băng ghế để nhường tay lái cho ông. Ông lái xe cẩn thận hơn bà, bình tĩnh hơn, vì trên đường có nhiều xe đến mấy cũng không làm cho ông khó chịu. Ông bà đã thỏa thuận với nhau, khi mùa hè biến Manchester thành nơi nghỉ mát, thì ông dành quyền lái xe trong buổi xế trưa. Khách sạn “Xuân - Phân” tràn ngập những khách chọn lọc, còn đoàn xe ca của hãng Cook thì cọt kẹt ngoài đường, trong khi một số du khách đổ xô đi tìm những khách sạn rẻ tiền hơn.
- Em đi một mình, vì em muốn tin cho anh biết Jessica đã chịu lấy Herbert rồi. - Bà Elinor nói.
- Thế nào được?
- Được, sau cùng... anh chị biến mất suốt cả ngày hôm nay.
Ông William lái xe sang phía tay mặt, đi qua mấy khu nhà, rẽ vào một con đường khác và chạy tiếp xuống hai dặm nữa, giữa cảnh vật xanh tươi vắng lặng, cho đến khi giáp con đường riêng của gia đình.
Ông ngạc nhiên lẩm bẩm.
- Phải qua đúng bảy năm trời!
- Em luôn luôn nghĩ rằng, kiên trì rồi Herbert cũng sẽ chiếm được con bé.
Ông William đáp lại cách hững hờ và mơ mộng:
- Anh tự hỏi, cô ta có thật hạnh phúc không?
Bao giờ lái xe lên ngôi nhà cũ trên đỉnh đồi, ông cũng cảm thấy một niềm vui luôn luôn mới mẻ. Ông cho xe chạy chậm lại. Bà Elinor nói một cách khô khan:
- Em không muốn hình dung Herbert trong tư cách là một người chồng.
Ông William mỉm cười. Bà Elinor có những nhận thức đôi khi quá tế nhị. Bà không ưa Herbert, nhưng bà cũng chẳng có gì để phiền trách anh ta. Anh ta gương mẫu, tận tụy, lương thiện, ít nói, siêng làm, âm thầm có một sức mạnh nảy lửa. Bà đâu mất nhiều thì giờ để khám phá ra rằng sức mạnh nay chỉ để chinh phục Jessica cho kỳ được mới thôi.
Ông William nhắc lại những ký ức xa xưa:
- Tính từ mùa hè này, cách đây sáu năm, em đã bảo anh là Herbert yêu Jessica, mà Jessica thì ghét anh chàng thậm tệ.
- Đúng, và anh lại bảo em, hắn nhọc công như thế cũng chẳng đến đâu. Lúc ấy em đã chỉ cho anh thấy, nếu hắn bền bỉ, hắn sẽ thắng cuộc.
William day qua nhìn nửa gương mặt vợ, ông nhận thấy bà có vẻ bí hiểm, đôi môi đẹp, mỏng và luôn mím lại, chân mày nhướng lên. Gió thổi bạt mái tóc bà ra đang sau, để lộ vầng trán. Bà có vầng trán rộng, cao và bóng láng, đẹp và thông minh. Tất cả biểu lộ ý bà muốn cho câu chuyện chấm dứt ở đây. Ông làm thinh, biết rằng khi nào bà thấy tiện thì mới nói, và không cần bắt buộc bà cũng sẽ giải thích cặn kẽ mọi chuyên.
Ông cho xe đi vào con đường nhỏ và ngừng đúng chỗ ông muốn, mở cửa xe cho bà và xuống xe.
Vào lúc đó, Herbert xuất hiện nơi cửa hông. Anh ta bước tới và cầm tay lái để cho xe vào ga-ra. Anh mặc bộ đồ xanh, khoác áo vét sọc ngày chúa nhật. Anh nói:
- Kính chào ông Asher.
- Chào Herbert. - Ông William đáp.
Ông do dự, mặc dù đã bước chân lên bậc tam cấp đầu tiên của lối vào nhà có nhiều cột. Những cột đá này do ông nội của Elinor xây thêm cách đây năm mươi năm về trước. Ông nói tiếp:
- Tôi biết đã đến lúc phải chúc mừng anh, Herbert.
Herbert không còn đỏ mặt nữa, anh giữ được màu da mặt tự nhiên, màu của những viên gạch, anh nói:
- Jessica đã nhận lời cầu hôn của cháu hôm nay rồi.
Miệng của anh ta như chắng có môi, song cặp mắt anh màu nâu lợt, lại tỏ ra là người tốt bụng. Ông William nói:
- Hay lắm, anh đã tỏ ra rất trung thành!
Herbert đáp:
- Cháu chẳng bao giờ nhìn một người đàn bà nào khác, thưa ông.
Giọng nói của anh trầm buồn và cố chấp, tương xứng với thân thể phì nộn của anh. Anh thừa hưởng tổ tiên người Hòa Lan của anh vóc dáng của một công sự chiến đấu, và những bàn tay thô tháp này.
Ông William mỉm cười bước lên bậc tam cấp, và Herbert đưa xe vào ga-ra. Bà Elinor đã ở trong nhà, bà bước lên thang lầu bằng đá cẩm thạch, với những bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như ngày xưa. Bây giờ có lẽ bà đang ở trong nhà bếp, trên lầu hay ở ngoài vườn, ông William không thấy bà đâu cả. Ông đi vào một mình trong ngôi nhà im vắng. Ông không cảm thấy thiếu vắng con cái, vì ông biết ở lứa tuổi nào đó, chúng vuột khỏi tầm tay, biến vào hầm tối của thời gian, để rồi sau đó bước ra thành những chàng thanh niên, như chính cậu Winston cũng thế. Cha cậu chuyện trò với cậu như kẻ ngang hàng, nhưng Edwin thì giữ mãi cương độ thanh xuân không tin nổi, tư tưởng của cậu rất ư là dứt khoát. Cô Susan lại trở thành một người đàn bà xa lạ đối với ông, bởi vì hình dáng cô bé ngày xưa bây giờ đâu còn nữa. Ông đã nhanh chóng chấp nhận ý kiến của bà Elinor, khi bà quả quyết con gái họ sẽ đáp ứng nguyện vọng của ông, và trong lúc chờ đợi, ông có thể vui sướng vì con gái ông quá đẹp. Ông chỉ thấy tiếc vì cô con gái không thừa hưởng nét mảnh dẻ của mẹ mà có khuynh hướng đẫy đà. Cô ta phải canh chừng đường nét thanh thoát của cô, như chính ông đã làm. Khi đến tuổi ba mươi, ông đã bê trễ về chuyện này, và bà Elinor, đã tỏ vẻ nhàm chán ông, nhờ đó ông mới biết sợ và xếp đặt lại đời sống cho có trật tự. Bao lâu ông còn sống là ông còn nhớ mãi cái cảnh đã xảy đến cho vợ chồng ông trong lúc nửa đêm ấy.
Bà Elinor đã quay đầu tránh né làm ông phải kêu lên:
- Elinor, em hết thương anh như trước sao?...
Bà đã lẩm bẩm gì đó không rõ.
Ông William đang thèm muốn bà đến tột đỉnh, vẫn cầm mình lại. Ông nâng cằm bà lên và nói:
- Xem nào, nói thật cho anh nghe đi!
Bà cảm thấy thẹn thùng, nhưng bị ông thúc ép, sau cùng bà phải thú thiệt. Đêm đó ông mới nhận thức được sự khác biệt giữa Elinor và ông, giữa người nam và người nữ. Nơi bà, sự ham muốn giống như mạch suối ánh bạc, kín đáo, len lỏi. Bên ông lại giống con sông đang vồ vập, tuôn thẳng đến đích bất chấp mọi điều. Nơi bà, một cảm giác bực bội, một cử chỉ gắt gỏng, cả những ý nghĩ che đậy, cũng có khả năng cắt đứt nguồn cảm hứng.
Các con trai thuộc dòng họ Winsten, qua một ngẫu húng nào đó của luật di truyền, đều cao lớn, tóc vàng hoe, đẹp trai quá cỡ, nhất là cậu Edwin. Cô Susan có mái tóc đen cuốn lọn. Ông yêu thương Susan một cách đặc biệt dịu dàng, kín đáo mà ông tự chữa mình bằng cách nghĩ rằng vì cô là con gái duy nhất của ông.
Ông gặp Jessica trên thềm cầu thang, cô xuất hiện với dáng đi quen thuộc, nhanh nhẹn, nhẹ nhàng. Cô đi ngang qua gian phòng rộng lớn, áo dài màu xanh nhạt bồng bềnh chung quanh người, và với cái tạp dề màu trắng có xếp li, dầy buộc ngang lưng phất phơ trông có vẻ trẻ trung hơn cái tuổi hai mươi bốn của cô rất nhiều.
- Jessica, cô đừng vội vã quá thế - Ông nói - Ngày nào đó cô sẽ làm gãy đổ cả cầu thang đấy.
- Thưa ông Asher, nếu điều đó có xảy ra, cháu cũng chẳng quan tâm.
Cô ta ôm một mớ đồ vải trước ngực, tay cắp đầy khăn ăn vừa mới ủi xong, mùi thơm phảng phất quanh người cô. Người cô sạch bóng, với những bím tóc màu vắng hoe cuốn trên đầu, còn những lọn nhỏ, ướt mồ hôi thì bao quanh mặt.
Ông William cằn nhằn:
- Bao giờ cũng vội vã, chỉ nhìn cô là tôi đã thấy mệt rồi. Qua bao nhiêu năm như thế này, rồi cuối cùng cô cũng lấy Herbert.
Jessica bỗng cười toáng lên:
- Ô hô, anh chàng ấy, trước sau gì cháu cũng bỏ. Mẹ cháu chịu trách nhiệm, bà ấy bảo là đến lúc lấy chồng rồi. Anh chàng này hay anh chàng khác thì cũng thế thôi.
Đã là một thiếu nữ nhưng Jessica vẫn còn rất trẻ con. Có lúc chỉ nhìn thấy cô ta thôi, cũng tự nhiên nổi máu lên muốn chọc ghẹo. Cô bận những áo dài màu xanh nhạt, màu hồng đào, hay xanh lá cây, thêm vào đó những cái tạp dề nhỏ bé có xếp li và những chiếc mũ vải cô chít trên đầu, trông cô như đang đóng vai một nữ tì trên sân khâu.
Ông chủ lại lấy vẻ nghiêm nghị chưa từng thấy, ông nói:
- Tôi chẳng thấy làm thế nào gạt bỏ một người đàn ông ra khỏi đời mình lại bằng cách lấy chính anh ta làm chồng được?
Cô ta đáp:
- Ít ra anh ta thôi không van nài cháu nữa.
Giọng nói của cô rất trong trẻo, hoàn hảo, kết quả những năm cô sống trong dòng tu. Bà Bertha còn giữ giọng nói trong họng của người Đức, còn Heinrich không bao giờ nói tiếng Anh rành rọt. Ngược lại, con gái họ có những nhấn giọng ngọt ngào, biết nhận thức đứng đắn trong khi chọn từ để nói. Một hôm ông lưu ý bà Elinor về việc Jessica, từ khi rời khỏi tu viện thì nói tiếng Anh như một thiên thần. Bà vặn lại:
- Vậy các thiên thần nói tiếng Anh sao?
- Nói nhiều thứ tiếng, trong đó tiếng Anh là đẹp hơn cả. - Ông đáp. Ông thích tiếng Anh nói trôi chảy và thường tỏ ra đòi hỏi cao trong văn chương. Ông thường tự bảo, nếu có thời giờ thì ông có thể trở thành văn sĩ.
Ông lại nói với Jessica, khi cô đang đứng lại, hai tay đầy những đồ vải thơm phức.
- Sau cùng, tôi nghĩ là cô ý thức được chuyện cô làm. Những người trẻ tuổi xem ra tự tin lắm.
Ông đi vào phòng, tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng như thường lệ để ông đi tắm, và Jessica mang ra ngoài áo xống ông đã mặc buổi chiều, cô cũng lo liệu cho bà Elinor như vậy, và họ sẽ thiếu Jessica nếu cô không tiếp tục việc làm đó nữa. Nhưng chắc chắn điều ấy không vừa lòng Herbert, vì anh ta mong chóng đến ngày thành hôn để được tăng lương.
Ông William xua đuổi ra khỏi tâm trí hình ảnh cuộc hôn nhân của Herbert và Jessica. Bao nhiêu hình ảnh kế tiếp nhau lẻn vào tâm trí ông, tựa như quay lại một cuốn phim bí mật, thân xác một con vật ục ịch ôm quấn lấy nàng Jessica trắng ngần và tinh tế. Ông tự cho mình là một con người văn minh tiến bộ, và những trò phiêu lưu của đầu óc con người làm cho ông cảm thấy nặng lòng. Ông không muốn nghĩ đến hình ảnh của Herbert Morris, nó chỉ gợi lên cho ông một sự nhờm tởm, khác với hình ảnh thường ngày của anh ta, chững chạc và đường hoàng, mặc đồng phục tài xế hay người hầu bàn. Trong những gì liên quan đến ông, ông chỉ quan niệm về anh ta như thế, đâu có cần ông lo lắng về nước da trắng ngần và cách đối xử tế nhị của cô hầu phòng Jessica. Ông tự cho mình có tâm hồn thanh khiết trong chọn lọc và thưởng thức, vì vậy, nếu trí khôn ông cợt đùa ông như thế, dựng lên hình ảnh một con vật trong vô thức của ông, thì đối với những người khác ít kềm chế hơn ông, thì thế nào?...
Điều này không đáng ông để tâm, ông xua đuổi khỏi đầu óc những trò phiêu lưu tình cảm này, và bắt trí khôn chăm chú vào những vấn đề minh bạch và không lệ thuộc vật chất. Hiện ông đang bị thu hút vào một ca lý thú liên quan đến hai nhà phát minh. Không quen biết nhau, không quan hệ với nhau, nhưng trong cùng thời gian, cả hai đã phát minh được cách làm tốt hơn giống hệt nhau, để áp dụng vào máy giặt và sấy. Ai trong hai người đã có ý hướng đầu tiên, ai đã khéo léo đủ để được nhận bằng phát minh trước người kia. Đắm chìm vào những suy tư lành mạnh này, ông tắm gội xong và xuống ăn tối với tâm hồn bình yên và thoải mái. Herbert và Jessica dưới con mắt ông trở lại nguyên hình là những người tôi tớ.
Nhưng ông bị một cú sốc nặng, ông đang đi xuống trên những bậc thang trải thảm, bước chân ông không gây tiếng động, ông chợt thấy Jessica trong phòng khách phía Đông. Chắc là cô ta lợi dụng thời gian rảnh rỗi trước bữa ăn. Cô đang ngồi trên một chiếc ghế bành bọc nhung mà cô đã xê dịch lại đối diện với cái gương soi lớn, treo giữa hai cửa sổ. Cái tạp dề và mũ chít đầu đã bỏ ra, mái tóc buông xõa tạo nên một áng mây vàng óng ánh quanh gương mặt, cô phát âm khá rõ ràng bằng giọng dịu dàng như mật rót vào tai. Ông William đứng sững nơi bậc thang, hơi có vẻ bực mình, nhớ lại cũng một màn, mấy năm về trước, đã làm cho bà Bertha nhất quyết gởi cô ta vào dòng tu. Nhưng lần này nghiêm trọng hơn nhiều: Jessica đang thốt ra những lời tình tự với một nhân vật vô hình. Cô ta nói:
- Anh yêu quý của em, anh chẳng thấy là anh yêu em sao? Tất cả những gì em làm là làm cho anh. Nhà này, vườn này, em đây, nếu chẳng vì anh thì em có còn quan tâm đến nữa không? Em có thể sang nước Anh, sang Pháp, sang Ý, thì em ở lại đây làm gì, nếu không phải là để gần gũi anh?
Jessica mỉm cười với ai đó một cách ngọt ngào, hất mái tóc ra đàng sau và đưa hai cánh tay về đàng trước.
Ông William lấy làm quái gở, tức giận, ông mừng thầm, may mà bà Elinor không có mặt ở đấy. Ông cương quyết bước vào và Jessica tỏ vẻ sợ hãi.
- Trời ơi, thế ra là ngài! - Cô hốt hoảng kêu lên.
Mặt cô ta biến sắc, trở nên tái mét, cô chộp chiếc mũ và cái tạp dề, mang và đội vào một cách vội vã, hai tay run bắn lên. Ông hỏi cô một cách duyên dáng:
- Cô tưởng tượng là cô đang ở trên sân khấu và đang đóng kịch đấy à?
Cô ta ngó ông không hiểu, và thỏ thẻ:
- Em van ông, đừng nói cho ai biết.
- Vậy là cô mặc cảm mình có lỗi?
Cô ta lại nói:
- Em van ông.
Ông William nghiêm khắc nói:
- Thật là ngớ ngẩn!
Jessica lại nhìn ông một cách sợ hãi, khó hiểu, và băng mình về phía nhà bếp. Ông chần chờ giây lát, mày nhíu lại, miệng có vẻ nghiêm khắc, rồi ông quyết định bỏ qua. Điều Jessica nói trước tấm gương soi nghe ra quá buồn cười, thì nói lại với bà Elinor làm chi.
° ° °
Ở nhà bếp, anh Herbert và bà Bertha nhìn Jessica tuôn vào như một con lốc, mũ và tạp dề xốc xếch.
Herbert có ý tốt, thử chọc Jessica:
- Tưởng có ai đuổi theo cô đằng sau lưng chứ?
- Tôi chạy xuống cầu thang quá nhanh. - Cô đáp. Rồi cô cô giữ để điều hòa hơi thở trở lại.
Bà Bertha nói:
- Nó luôn luôn chạy, tại sao thế? Khéo làm ngược đời!
Nhưng bầu không khí quả là tốt lành. Jessica cảm thấy ngày hôm đó không có ai phiền trách cô. Cô quay lưng lại và đặt mấy cái tô đựng canh lên chiếc mâm bạc.
Đời cô là một cuộc đời riêng biệt xa cách cuộc đời của những người còn lại trong nhà, một cuộc đời trong một cuộc đời, chỉ liên kết nhau trong vấn đề phục vụ, không có quan hệ nào về mặt tinh thần. Mặc một chiếc áo dài vải xám, bà Bertha to lớn dềnh dàng, biết xét đoán, gương mặt cả quyết, ngồi nơi bàn nhà bếp, cắt những lát thịt quay ra cho Herbert. Jessica vẫn đứng, các dĩa ăn vất bừa bãi trên các mặt bàn trừ trên bàn chính giữa hình bầu dục, đã dọn sẵn phần ăn với những mảnh cói đan và những dao nĩa cán màu đỏ của nhà bếp. Herbert ngồi ở đầu bàn, chỗ Heinrich ngồi khi còn sống. Sáu năm về trước, ngày bà Bertha mời cậu Herbert ngồi vào đó, thì anh ta đã hiểu bà là đồng minh của anh. Bảy năm dài đã qua trước khi anh thuyết phục được Jessica chịu lấy anh làm chồng. Nhìn lại đằng sau, Herbert có cảm nghĩ, giá như ông Heinrich còn sống đến nay, chắc anh còn phải đeo đuổi Jessica lâu hơn, và chưa chắc cô ta đã chịu. Cha của cô luôn bênh vực cô.
- Mời cô bé ngồi xuống. - Herbert nói với giọng kẻ cả.
Jessica ngồi xuống và bắt đầu ăn một cách nhỏ nhẹ những gì mẹ cô chất quá lố trên dĩa riêng của cô. Mẹ cô không bao giờ hiểu được rằng, thấy một số thức ăn nhiều như vậy sẽ làm cho con gái bà ăn mất ngon, và từ lâu Jessica đã không buồn cự nự mẹ về điều đó nữa.
Bà Bertha lại nói:
- Bà chủ Elinor đã bảo tôi lấy một chai sâm banh uống để cầu phúc.
Bà đứng lên một cách nặng nề, và núng na núng nính đi đến lấy chai rượu sâm banh đang ướp trong tủ lạnh.
Herbert đưa mu bàn tay lên chùi mồm và nói:
- Ồ! Một ý kiến hay. Uống bia rồi thì sâm banh là nhất! Một ly bia ướp lạnh luôn luôn hợp với gu của tôi.
Nói thế không có nghĩa là tôi chống lại việc uống sâm banh.
Bà Bertha nói:
- Jessica, con ăn đi. Hôm nay là ngày trọng đại cho mẹ già của con đấy!
Jessica ngước mắt lên, phân vân, rúng động, cảm thấy quá bé nhỏ trước hai gương mặt đang quan sát mình, mỗi cái có một ham hố riêng và đáng sợ, đến độ cô coi mình như một con chuột nhắt giữa hai con mèo to đang tỏ vẻ khoan dung. Cô mỉm cười, bằng một nụ cười nhanh nhẩu và rạng rỡ, vũ khí tự vệ của cô.
- Vâng, con ăn đây. - Cô kêu lên với giọng nói dịu dàng của cô, và tiếp tục mỉm cười khi mẹ cô rót rượu óng ánh ra những chiếc ly dùng cho nhà bếp.
Họ nâng ly thật cao, theo cung cách của dân Đức, Herbert luống cuống khó theo được với tình cảm chân chất của bà Bertha.
- Mẹ uống mừng cho hai con, hãy hạnh phúc bên nhau và sớm có cháu cho mẹ bồng. Herbert, con hãy tử tế với con gái của mẹ, và con, Jessica, con hãy làm một người vợ tốt, như mẹ đã dạy bảo.
Cả ba đều uống: Bertha uống một cách long trọng và chậm rãi, Herbert ực từng búng to, còn Jessica thì nhấp tùng ngụm nhỏ và nhanh.
Bà Bertha đặt ly xuống và nói:
- Mẹ nhớ đến cha của con. Ước gì có cha con hôm nay, ông hạnh phúc biết chừng nào!
- Xin mẹ đừng nhắc đến cha con...! - Jessica kêu lên.
- Phải, phải, con có lý, hôm nay đùng nói đến chuyện gì buồn. Bây giờ con hãy ăn đi! Con của mẹ.
Bà cầm con dao lên và cắt từng miếng thịt vuông, lớn, trong dĩa mình và mạnh dạn ăn bữa tối.
Herbert đã ăn là không nói. Anh ta đã được giáo dục trong một nông trại, nơi mà người ta không nghĩ đến việc nói chuyện trong khi ăn. Anh ta bốc mạnh chiếc nĩa lên, cầm nó đứng thắng trong tay mặt, còn tay trái thì dùng dao mà cưa khúc thịt bò của mình. Jessica đã chỉ cho anh ta là cầm nĩa như vậy không đúng cách. Thật ra thì anh chàng làm gì có cơ hội học biết những điều đó như cô. Cô đã hầu bàn và thấy rõ những người lịch sự ăn uống làm sao.
Ông Asher sử dụng những đồ đạc trong nhà một cách khéo léo, nên khi ngồi ăn, ông không làm gì khó coi cả. Từ bé, Jessica đã luôn luôn quý mến ông. Cuộc hôn nhân của ông với cô Elinor vốn là một huyền thoại, như trong truyện thần tiên. Một chàng thanh niên trẻ đẹp, da ngăm ngăm, phong cách trác tuyệt, giọng nói truyền cảm, không có gì bất nhã. Jessica ngó vào dĩa của mình, chọn những miếng nhỏ nhất, ăn không nhìn mẹ và Herbert, vì chỉ nhìn hai người ăn là cô đã chán ăn rồi. Cô đã đến tuổi hai mươi tư mà chẳng có ma nào xin cưới cả, vì chẳng bao giờ cô cho phép làm như vậy; cô mơ tưởng đến ai bây giờ: một chàng trai làm nghề đồ tể, một tay bán đồ gia vị, một tên chạy hàng? Dễ có đến sáu năm rồi, cô thường lẩn tránh Herbert, nhưng anh ta đeo cô như đỉa đói. Luôn luôn anh hiện diện để lặp đi lặp lại vào tai cô chỉ mỗi một điều, đương khi mẹ cô kiên trì nhắc nhở, bảo cô phải lấy chồng, như vậy tại sao không ưng Herbert cho xong. Anh ta cũng là một con người lương thiện và tốt bụng? Vợ chồng họ sẽ dọn về ở nông trại, nơi có trại nuôi gà. Nơi đó sẽ là chỗ cư trú cho cả ba, tính cả bà Bertha, khi bà đã hết tuổi làm việc.
- Jessica, con đừng làm bộ làm tịch nữa, ăn uống thoải mái đi.
Đột nhiên, cô hết muốn ăn. Khi còn là một con bé tí tẹo, xanh mét, mẹ cô thường tọng đồ ăn vào miệng cô, và cố cầm đồ ăn lại trong đó bằng bàn tay to tướng của bà, ngăn không cho cô nhổ ra. Một hôm nọ, cô đã cắn vào tay mẹ và bà đã vả một cái thật mạnh vào mồm cô đến nỗi chảy máu môi và ê ẩm cả răng, nhiều ngày sau mới hết. Dầu vậy, mẹ cô cũng đã quá yêu thương cô, nên nếu cô không thương yêu bà là điều xấu xa.
Herbert đưa cái nĩa đã ghim một miếng thịt lớn lên cao và nói:
- Cô hãy ăn nhiều thịt vào để che lấp xương xẩu của cô đi, sau đó cô sẽ khỏe khoắn hơn.
- Thế này tôi đã mãn nguyện rồi.
Có tiếng chuông ở phòng ăn nhà trên reo vang. Jessica đứng dậy, phóng nhanh ra cửa vừa kêu lên:
- Họ đã đến rồi!
Bà Bertha bồi thêm:
- Có chồng rồi nó sẽ khôn ra.
Herbert đáp:
- Đúng như vậy, thưa mẹ.
Bà lại bảo:
- Cha nó thuộc loại người thiếu đầu óc, không bền chí, quá tỉ mỉ, dễ xúc động. Cưới nhau xong, mẹ phải thu xếp sắp đặt mọi việc cho ông ta đấy. Mẹ đã hành động như mẹ đã làm với Jessica, từ khi nó ở tu viện trở về. Nó nghe mẹ thì rồi nó cũng sẽ nghe con thôi, để rồi xem.
Herbert nói:
- Dù gì đi nữa, thì con cũng sẽ cư xử tốt với em con.
- Đúng vậy. Mẹ tốt với nó, cũng như con, tại sao lại không nhỉ, mẹ chỉ có một mình nó?
° ° °
Mùa thu là mùa William thích nhất. Mùa xuân không được như vậy. Tuy nhiên, chính chàng đã si mê Elinor trong mùa xuân, và chàng không mấy tin là mùa xuân đã ảnh hưởng đến việc chàng bị nàng thu hút mạnh mẽ đến thế. William đã hai mươi tuổi, và cho đến lúc đó, chàng chưa hề có ý nghĩ về một mối tình có thể hình thành giữa hai người. Mùa hè trước đây, chàng mơ hồ mình phải lòng một thiếu nữ hoàn toàn khác với Elinor, tên là Marion Hayworth, láng giềng của Elinor, ở gần nhà họ, tại Manchester. Mỗi lần gặp lại cô ta, dù bây giờ đi nữa, William vẫn cảm nhận sắc đẹp của cô, song chàng không lấy đó làm quan trọng. Chàng chỉ ngạc nhiên về sự xoay chuyển của cuộc đời. Marion đã tỏ ra đứng đắn với Elinor khi cú sốc ban đầu đã giảm bớt. Thật ra thì chính Marion, trong khi bắt lỗi William, đã nêu lên cho chàng biết sức mạnh của sự đam mê mới này. Bản chất nó là dứt khoát, và khi cô ta đặt chàng đối diện với những gì đã xảy ra, chàng đã nghiêng mình nói:
- Anh rất lấy làm ân hận, nhưng đó là sự thật.
Thế nhưng, chàng có ân hận bao giờ đâu. Giờ phút này, Elinor không những chỉ là vợ chàng mà còn là người yêu nhất đời của chàng, sau bao năm chung sống, chàng tự nhủ, đó là một điều họa hiếm. Chàng đã chờ đợi cho mùa hè trải qua khá lâu mới tỏ tình. Trong dịp đầu hè, vào một ngày cực kỳ mệt nhọc, nóng bức và ẩm ướt, sau khi đã chèo thuyền trên thượng nguồn con sông gần nhà, chàng đã ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, và nàng đã nhận lời ngay. Elinor không tỏ vẻ ngạc nhiên như chàng đã tưởng, nàng đã trả lời một cách bình thản.
- Em đang chờ đợi, Marion nói cho em biết những gì anh đã nói với cô ấy.
Sự bộc trực như thế giữa hai người đàn bà, sự bộc trực mà chẳng biết rõ, vẫn làm cho chàng bực tức. Hai người đàn ông sẽ không bao giờ nói với nhau về những điều thiêng liêng như thế. Mỗi lần nghĩ đến, chàng cảm thấy mình bị xúc phạm, nhưng sự việc đã như thế rồi. Những người chơi bài Brít với Elinor đã cho chàng thấy rõ điểm đó. Mặc dầu không muốn, chàng cũng đã nghe lõm được những lời bình phẩm của bảy cô bạn tốt nhất của Elinor ở Manchester hay ở quanh vùng. Những người chồng của họ, cũng là bạn rất tốt của chàng tại câu lạc bộ trong vùng và cảm thấy phật lòng mỗi khi nghe được những lời nói hớ hênh như thế. Chàng không thể nào tin được Elinor cũng thật thà một cách ác độc như bảy người đàn bà nhẹ dạ kia, nhưng chàng đâu dám đặt câu hỏi với nàng. Chàng tiếp tục chỉ tin tưởng được vào một mình nàng trong đám phụ nữ, gần như là hoàn toàn. Chàng vẫn cảm thấy rung động vì vui sướng mỗi khi nhìn thấy chiếc đầu duyên dáng của nàng trên cần cổ khá cao thon thả, với một búi tóc ánh vàng lấp lánh trên gáy. Mỗi lần nàng đi ngang qua, chàng không thể cầm mình mà không táy máy chân tay, chàng vuốt ve mái tóc nàng, rồi men theo vòng tròn quanh chân tóc, hoặc khẽ đặt tay lên đôi nhũ hoa chắc nịch của nàng.
Mùa thu là mùa ông William vui thích nhất. Mùa này ở Vermont khởi sự từ cuối tháng tám và kéo dài cho đến khi tuyết bắt đầu rơi. Ông là loại người ưa sống ngoài tròi, nhưng không phải để săn bắn. Ông thích nhìn ngắm những ngọn đồi dợn sóng khá thấp quanh núi rừng, và những màu sắc đổi thay của cây cối. Sáng hôm ấy, đang trên lầu đi xuống, ông bắt gặp tại phòng khách một chiếc lông chim bé tí, màu xám, trên tấm đệm màu hung đỏ, và lượm lên. Đó là chiếc lông của một con chim nhỏ ở lùm cây mà gió đã đưa vào khi người ta mở cửa, có thể là khi Jessica quét nhà.
Vui thích biết bao khi ở trong một ngôi nhà lớn mà cũng bắt gặp trên đệm một chiếc lông chim. Ông kẹp chiếc lông chim vào giữa những trang giấy của một quyển sách để trên bàn riêng. Đó là tác phẩm của nhà văn Proust, quyển sách ông thường đọc trong lúc chờ đợi bà xuống điểm tâm. Ông đau khổ khi nghĩ đến câu chuyện xem ra đã xa vời, xa cách nước Pháp của thời nay, xa cách tất cả mọi phần đất khác của thế giới. Ông cảm thấy một nỗi nhớ nhung da diết và thầm kín mà những người cùng lứa tuổi với ông phải cảm nhận, khi nhớ lại một thời đại mà họ đã biết, những người trẻ trung của những năm tháng yên bình, an lạc, hạnh phúc bỗng dưng biến mất mà không ai hiểu được. Bấy giờ người ta coi ông như một con người cấp tiến, đã làm cho cha mẹ ông lo sợ, như chính ông bây giờ đã áy náy về cậu Winston và Edwin, không phải vì niềm tin cấp tiến của chúng, không phải vậy, mà bởi vì chúng quá bảo thủ, quá thận trọng, quá bận tâm một cách nguy hiểm vào một cái gì đó có thể đưa đến một hình thức dấy loạn. Hai người thanh niên không còn được che chở như hai đứa con của ông nữa, và ông giấu không cho họ biết những nghi vấn và những lo lắng của ông về mặt chính trị ông còn đặt mình vào hạng những người tự do, tự do bảo thủ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn ông là một người tự do có cánh nhìn làm cho con cái ông chán ông. Về Susan, con gái của ông, thì cho đến nay, cô không tỏ ra tò mò chút nào đến các vấn đề chính trị hay thế giới, cô chỉ quan tâm đến chính mình cô và những cơ may để lập gia đình. Đôi khi ông cảm thấy nhục nhã thấy cô kiên tâm theo đuổi để tìm kiếm một tấm chồng. Ngày xưa, bà Elinor chắc chắn đã không có quyết tâm và táo bạo như vậy. Theo lời Susan nói thì trên tất cả, cô gớm ghét, khinh chê, những người đàn ba ngày xưa đã tận tụy đấu tranh cho nữ quyền, hay như ông William gọi là tranh đấu cho nam nữ bình đắng. Chính bà ngoại cô vừa là trợ lý vừa là bạn thân của bà mệnh phụ Stanton, và Susan đã van ông đừng nhắc đến điều ấy. Trong số các ảnh chụp của gia đình, có ảnh của hai bà đứng bên nhau, mặc váy bùng xùng, và những lọn tóc bao quanh gương mặt họ. Khi xem những tấm ảnh ấy, Susan kêu lên một cách khinh miệt:
- Những người đàn bà như loại này làm cho đàn ông xa cách chúng tôi mà chúng tôi vô phương cứu vãn.
- Giải thích nghe coi. - Ông nói.
Susan kêu lên:
- Thưa ba, ba không biết những người đàn bà như thế đã làm cớ cho đàn ông chê ghét chúng con sao?
Ông William trả lời:
- Ngu xuẩn, ba không thể chê ghét một người đàn bà nào cả.
Cô ta cãi lại với đôi chút xảo trá:
- Ba không thích cho con làm luật sư phải không?
- Ba nghĩ rằng, con không thể làm một luật sư tốt được, con không có đầu óc lôgíc.
Cô ta nói với vẻ đắc thắng:
- Thế đấy! Con đã nói đúng. Không có những bà như bà Stanton hoặc tương tự, thì có bao giờ ba bận tâm nghĩ đến loại người có đầu óc như con, và con làm những gì mà con thích.
Ông chờ đợi trong giây phút để lựa lời, rồi nói:
- Phải chăng con thích nghề luật sư?
Cô rất bình tĩnh, đáp:
- Chắc là không rồi: đó là một cái bẫy.
Ông không nói đến nữa. Ông chẳng hiểu tí nào về thế hệ này. Khó mà nói chuyện nghiêm túc với chúng nó. Ông sẵn sàng bán linh hồn của ông để mua một tiếng nói thông minh, nhưng đó lại là cách ông ghét, như thế là hủy hoại chẳng những cách nói chuyện phải chăng, mà còn kém cả văn minh nữa.
Bà Elinor bước xuống lầu đúng vào lúc đó. Ông đặt cuốn sách xuống và đưa cho bà chiếc lông bé tí màu xám.
- Em hãy xem cái này, anh lượm được nơi tấm đệm, gió thu mang vào đấy.
Bà quan sát chiếc lông chim rồi mỉm cười, lơ đễnh nói:
- Em nghĩ đây chỉ là chiếc lông chim sẻ. Chắc có hai con trong tụi nó đánh nhau. Luôn luôn có trận chiến trên mái nhà.
Ông đặt chiếc lông lại trong cuốn sách. Có những lúc bà bắt ngay trạng thái tinh thần của ông và đối đáp lại một cách hết sức tế nhị, chuẩn xác, đến nỗi ông cao hứng ôm bà vào lòng. Đối với người khác, trái lại bà không bao giờ làm thế, và ông cũng hiểu cái đó có ý nghĩa ra sao. Sớm mai này bà có vẻ xa vắng, xem ra bà muốn được yên tĩnh, không nên ôm bà mà siết bà quá mạnh. Bà sống xa vắng trước ngày ông lại ra đi, bà sống những giây phút mà bà sắp phải sống không có ông, mặc dù ông có cảm thấy hay không. Ông phải mất một thời gian khá lâu, ít ra cũng gần mười năm trời để hiểu nổi hôn nhân, phần lớn dựa vào sự tìm hiểu trạng thái tâm hồn của người phối ngẫu, có thể đó là tính ích kỷ, để sống một cuộc sống chung. Ban đầu, vợ chồng thường va chạm nhau, vì ông coi như điều mà ai cũng chấp nhận là người vợ phải phục tùng chồng mình, thật sự đâu phải thế, nhưng là người vợ phải nghĩ đến chồng trước khi nghĩ đến bản thân. Ông đã nhận thấy từ lâu rằng, dù tâm tình tế nhị, bà Elinor vẫn đã được tạo nên bằng chất liệu bền vững hơn. Bà không cần đến ông một cách dễ dàng, hơn là ông cần đến bà, và khi ông đau khổ về điều đó thì bà nhẫn tâm để ông tự gắng sức thoát ra khỏi sự đau khổ ấy.
Những gì ông quan sát được nơi bà, ắt phải có nơi tất cả các người đàn bà khác. Họ biết tự thu xếp để sống cuộc sống của mình, một cách công khai theo kiểu bà Elinor, hoặc một cách âm thầm. Dù vậy, ông hoàn toàn hạnh phúc với vợ. Điều đó đôi khi làm cho ông bỡ ngỡ, nhưng ông vẫn yêu vợ tha thiết, mặc dù đôi khi bà có thể làm cho ông nổi giận.
Hai ông bà ngồi vào bàn ăn sáng, một thói quen ông rất thích: ông than phiền thay cho các ông chồng mà các bà vợ đã không chịu dậy sớm để cùng ăn sáng chung với nhau. Ba Elinor cũng vui thích như ông, mặc dù sớm mai này, bà có vẻ xa vắng, và khi bà thấy ông không định hôn bà, thì bà đứng lên và hôn vào đỉnh đầu ông. Ông đã từng kinh nghiệm trong trường hợp như thế, đừng có làm tới, ông đã được đền bù bởi những đáp ứng của bà, những bước chân nhẹ nhàng, thứ ân huệ thanh thoát thật khó mà nhận thấy, và xem ra chẳng có giá trị gì nhiều. Một chiếc hôn lên mái tóc, nhưng ông vẫn thích thú biết bao! Cảm thấy bà gần gũi dường ấy, ông muốn ôm bà vào vòng tay, nhưng ông đã cầm mình lại, và một lần nữa, bà vừa ngồi xuống, vừa nhìn ông bằng con mắt nồng nàn biết ơn.
- Bộ đồ màu xám với chiếc cà vạt màu hạt dẻ của anh rất vừa ý em. - Bà nói.
- Cám ơn em, anh nhận thấy là chúng rất hài hòa với nhau. - Ông nói cách tự nhiên.
Bữa ăn sáng kéo dài như thường lệ, trong một bầu không khí hòa hợp, thông hiểu nhau. Một lát sau, ông ra khỏi nhà đi đến văn phòng ở Manhattan. Mặc dù khi ra đi bà đã hôn ông nồng nàn, ông vẫn có thể đắm mình hoàn toàn vào công việc khi ở trong văn phòng. Cuộc hôn nhân của ông là một thành công trọn vẹn. Ông có thể cảm thấy an toàn.
Ngôi nhà yên tĩnh mà ông đã xa rời buổi sáng, đã trở nên hỗn loạn khi ông trở về buổi chiều. Bà Elinor đón ông nơi cửa, ngón trỏ đặt lên môi và đôi mắt nhìn một cách có ý nghĩa về phía nhà bếp.
- Lại gì nữa đây? - Ông hỏi, giọng hơi trầm buồn.
Bà Elinor thở dài, nói:
- Bertha lại giận con nữa rồi! Không ai nói với ai lời nào. Jessica ở trên lầu và khóa chặt cửa. Bertha thì đang phun sấm sét vào bếp lò của bà ta.
Đối với kẻ ăn người ở trong nhà, ông không chịu nhẫn nhục được như bà Elinor, nhưng ông phải thừa nhận lòng nhẫn nại truyền kiếp của dòng họ Winsten, nhờ đó mà bà Bertha trung tín với gia đình này dài lâu. Không khác gì một viên ngọc trai trong một con sò, người này cũng như người kia, quý mến nhau và cùng cáu kỉnh với nhau.
- Herbert không nói gì sao? - Ông William hỏi và nghĩ đến Herbert lúc lái xe đưa ông về, đã ngồi như phỗng đá trên ghế tài xế.
- Có thể là anh ta chưa hay biết. - Bà Elinor đáp.
Ông lại nói:
- Hễ đối xử với tôi tớ trong nhà quá tình cảm, thì phiền phức đến liền! Chán gì đầu bếp giỏi hơn Bertha. Sao em không kiếm người khác?
- Tội nghiệp cho Bertha!
- Này, này, em đừng có để cho bọn tôi tớ trong nhà lộn xộn. - Ông vừa nói vừa quàng tay sau lưng bà. Ông muốn kể lại cho bà nghe cái cảnh Jessica trước tấm gương soi mà ông đã thấy.
- Em không thể ngờ Bertha và Jessica lại như vậy. - Bà nói.
Nói xong bà mrong cánh tay chồng đi vào phòng khách một cách vui vẻ. Chính bà đã đặt ở đó khay cốc tai, thay cho Jessica, vì cô ta tự khóa mình trong phòng. Bà đã lấy ly rượu thập cẩm ướp đá cho ông.
Ông nói:
- Em yêu quý, đợi anh một chút. Anh đi rửa ráy đã, rất tiếc vì đã về trễ.
Khi ông William từ lầu trở xuống, thì Herbert đã đợi, mặc áo trắng bồi bàn và cảnh nhà xem ra đã trở lại cái vẻ bình thường của những buổi chiều thu đẹp trời. Các cửa phòng ăn mở rộng, và trên bàn đã dọn sẵn phần ăn cho hai người.
Ông đã từng hình dung cảnh tượng lũ trẻ đã vào trường, bà Elinor và ông sẽ cảm thấy cô đơn, tòa nhà như rộng lớn hơn ra, và thật là hiu quạnh, thật là trống vắng sau khi không còn tiếng trẻ con nô đùa giỡn cợt. Song chỉ vài ngày sau, những gì ông cảm thấy trước đó đều sai bét. Tòa nhà trở nên tĩnh lặng một cách thú vị, những tiếng nói trẻ trung cao vút, những bước chân chạy thình thịch trên cầu thang, những tiếng la hét từ các cửa sổ trên cao, vẫn không thiếu vắng. Thật là thích thú lượn quanh các phòng đã trở lại trật tự, tìm được ngay cuốn sách nơi mình đã đặt, đâu còn thấy những tranh ảnh buồn cườì vứt bừa bãi đó đây.
Chỉ ban đêm, đôi khi không ngủ được, ông đi lang thang trong nhà, thì những hình ảnh của lũ con ông mới hiện ra. Winston khi mười tuổi, mái tóc đỏ hoe, thân hình mảnh khảnh, luôn luôn chạy nhảy, vội vàng băng qua đại sảnh, Edwin da sẫm, ngồi lún sâu trong chiếc ghế banh ở thư viện, là chiếc ghế cậu ta ưa thích, đầu cúi xuống một cuốn sách, mê mải đọc. Thường thường, khi ông đến ngồi trên cái ghế bành đó, ông còn cảm thấy hơi ấm của cậu con trai. Và bóng dáng của Susan, máu thịt của máu thịt ông, nay đã là một phụ nữ, nhưng muôn đời khác xa ông.
Ban đêm thì chúng hiện về đủ mặt, dưới hình bóng trẻ con của thuở ban đầu, mà chính ông tha thiết muốn nhìn thấy lại. Lũ con ra đi làm cho ông có cảm giác tuổi già của mình càng đến gần. Dù chúng có về trong dịp lễ Nô en, hay trong dịp nghỉ hè, vẫn không phải là một cuộc trở về thật sự. Đối với chúng, chẳng qua chỉ là cuộc dừng chân ngắn ngủi trên con đường đi đến định mệnh cuối cùng. Nhưng mà đối với ông, chúng có mất hẳn đâu. Ông đã thấy chúng, ngày mới sinh ra, yếu ớt, bất lực, nhỏ bẻ, rồi tập đi, tập nói, để trở thành những cậu học trò sôi nổi, phá phách trong tuổi thiếu niên. Đó là hình ảnh của những đứa con mà ông còn giữ lại trong chính ông: những hình ảnh khác của chúng, ông cũng không quên. Những chàng thanh niên chững chạc, vụng về, trở về nhà trong chốc lát, để tìm lại một chỗ để tắm gội, mặc áo quần trước khi nhảy nhót hay ăn trưa, một chỗ có thể ăn và ngủ mà khỏi trả tiền. Đôi khi ông tự hỏi, chúng nó đã nghĩ gì về mẹ chúng, về ông, và cảnh biết bao thân mật ngày xưa không còn nữa. Khi quan sát chúng, ông lại nghĩ rằng, chúng không tiếc nuối gì, và cũng không suy nghĩ gì. Chúng đang trên đường tiến về chốn vô thức, bay bổng trong luồng gió ước vọng riêng tư.
Song đó chỉ là những tư tưởng ùn đến vào ban đêm, còn sớm mai, ông thức giấc khỏe khoắn trong yên tĩnh, tắm rửa và thay áo quần xong, nhìn vào gương, hình bóng ông không phải là một con người đang bước vào tuổi già, mà là phản ảnh của con người hiện tại, tràn đầy sức sống, tóc hơi hoa râm, ngoại trừ hai bên thái dương, và chưa có dấu hiệu hói đầu. Nhưng ông đã thừa hưởng mái tóc bờm xờm của tổ tiên, giống như một đống rơm thực thụ. Ông đã phải tìm một thợ hớt tóc ở thành phố đủ sức làm cho chúng khuất phục bằng những đường kéo khéo tay... Không, ông đâu thiếu vắng con cái. Nhờ chuyện trò thân mật trong lúc đầu gối tay ấp, mà ông đã phục hồi được sự hăng say của mình.
- Anh nhớ con à? - Bà hỏi với vẻ sáng suốt.
- Sao em biết?
Ông đã quen với cách nhìn nội tâm, cách nhìn trực giác, cách nhận thức viễn cảm của bà, dù có đặt tên gì cho nó đi chăng nữa, thì ông cũng hết sợ hay có cảm giác như lúc còn xuân thì. Từ khi lấy bà, ông hoàn toàn tin cậy vào bà, không còn gì phải giấu diếm, ngay cả ý muốn ngày xưa hết sức quyết tâm tìm cách giữ gìn cá tính mình.
- Em biết cái tình cảm cha con nơi anh...
Giọng nói của bà Elinor đậm đà và dịu dàng đặc biệt, mà hồi con trẻ ông đã từng ghen tị với các con, vì sợ bà yêu thương chúng hơn mình, và đam mê không dứt tất cả những gì liên quan đến bà.
- Anh tự hỏi, con cái có cảm thấy thiếu vắng chúng ta chút nào không?
- Chắc là không rồi, chẳng vậy thì hóa ra là chúng ta đi giựt lùi.
Ông lại tiếp tục thú nhận:
- Vậy thì, nếu anh không cảm thấy thiếu vắng chúng, đâu có gì là xấu? Được ở nhà một mình với em, như trước khi chúng mình có con, là một điều hết sức thú vị.
Hồi ấy, ông cho tòa nhà là quá rộng và nôn nóng muốn thấy con cái đông đúc trong nhà. Nhưng bây giờ ông không còn cảm giác như thế nữa, có thể vì những xuất hiện nho nhỏ, vui vui, mà ông có thể hình dung ra bất cứ lức nào. Đời sống đã được sống ở đấy, và sẽ tồn tại ở đấy. Nhưng Elinor và ông rất khác xa với những cặp vợ chồng trẻ vừa gia nhập vào đây. Chúng lại phải trực diện với cuộc sống của chúng, nhưng cuộc sống đó sẽ ra sao? Khi con cái ông ra đi, ông có phần nào do dự, không biết những đôi vợ chồng trẻ yêu nhau sẽ đối xử với nhau thế nào khi trở về già. Ông tự hỏi, sự nhiệt tình đổi mới này có làm vui lòng bà không, nhưng ông tin tưởng nơi bà. Sụ an ủi của ông là chỗ đó. Ông biết có những người chồng sợ già với vợ họ. Ông cảm thấy mình được ưu đãi trong cuộc sống chung với bà. Sự ưu ái này không phải đến do tình yêu của ông đối với bà mà thôi, nhưng bởi vì cách suy nghĩ của họ trùng hợp nhau. Bà không có vẻ gì là một người đàn bà trí thức, bà không quan tâm gì đến những vấn đề luật pháp, chính đó là điều ông cảm kích, nhưng những phán đoán của bà lại chân thành, cách bà đề cập đến con người thật là độc đáo, sống động, và hơn nữa, bà không dối trá bao giờ.
- Em có cảm thấy thiếu vắng con cái không? - Ông hỏi.
Câu hỏi này ông đã có sẵn trên môi, song ông không dám nói ra.
Ba Elinor đẩy cái ly của mình ra và trong phút chốc, bà nhìn sững vào ly rượu trong veo màu hổ phách, cái màu mà bà thích một cách say mê, ông tự nhủ, bà say mê các dáng vẻ màu sắc, kể cả màu sắc của các thức ăn. Bản chất tự nhiên của bà, tính không thẹn thùng của bà, đã bảo toàn tuổi thanh xuân của bà đến độ người ta không thể đoán được tuổi tác của bà. Không có gì làm khô héo con người bằng sự giả vờ làm ra vẻ đáng kính, hoặc đoan trang ngoài mặt, để khỏi bị người ta chê cười. Chẳng hạn, như không bao giờ dám gia nhập một thứ tổ chức bắt buộc các thành viên mặc những chiếc áo dài rộng thùng thình, giả làm người Á Đông. Họ đã họp thường niên tuần trước tại New York, và người ta đã chứng kiến trò hề của những ông già trang sức lố bịch, bụng lớn, giò teo, cả lũ đều buồn cười như nhau. Ông William đã phải cho xe chạy vòng ra xa để tránh họ.
- Có, em cảm thấy thiếu vắng chúng. Em tự hỏi tại sao?
- Mấy năm sau này, chúng ta ít thấy chúng, - Ông đáp - chúng sống đời sống riêng của chúng quá sớm đối với thời đại của chúng ta.
Bà suy luận:
- Em cho là điều đó đã bắt đầu từ khi chúng ta có máy truyền hình, chiều nào chúng cũng tụ tập xem trong một căn phòng khác với phòng của chúng ta.
Herbert xuất hiện nơi cửa lớn, to xù trong cái áo vét có sọc màu trắng.
Bà Elinor đứng lên, đưa bàn tay ra để ông William cầm lấy và luồn xuống dưới cánh tay ông. Bà nói:
- Đi đi, anh yêu...
Rồi một cách nửa đùa nửa thật, hai ông bà tiến vào phòng ăn một cách trịnh trọng, theo sau tấm lưng hộ pháp của Herbert.
Trong khi ông kéo nhẹ chiếc ghế ngồi cho vợ, bà nói:
- Em luôn luôn biết ơn anh, vì xưa nay bao giờ anh cũng vẫn vậy.
Ông ngồi xuống, và xuyên qua làn hơi bốc lên từ chén xúp nóng mà Herbert đặt trước mặt, ông mỉm cười với bà. Ông bắt gặp ánh mắt của bà, và thấy tình yêu của bà ngời lên trong đó, như một tia sáng êm đềm, bền vững. Ông tự nhủ lòng, con người khi vươn đến tuổi già mà còn thấy được tia sáng của tình yêu, và còn cảm nhận nó sẽ tồn tại cho đến mãn đời, thì thật là được trời đất ưu đãi. Ông cúi đầu, và trong yên lặng kéo dài, ông nghe rõ tiếng khóc ấm ức từ xa.
Ông đặt cái muỗng xuống, trong khi Herbert đã đi ra ngoài.
- Có phải tiếng khóc của Jessica đấy không? - Ông hỏi.
- Phải đấy - Rồi bà nói thêm với vẻ nghiêm khắc khác thường - Jessica khóc to như vậy mà không biết xấu hổ!
- Nhưng, này em yêu...
Bà chận ông lại và nói:
- Không, quả thật, William, em không thể nào thông cảm được với một người đàn bà khóc to như thế. Thật là sỗ sàng, nếu tất cả đàn bà chúng tôi đều làm như thế, thì thế giới này sẽ thành thế giới của một lũ điên...
Bà đứng lên, đóng cửa sổ lại, và không còn nghe gì nữa. Ôrig William không đáp lời. Bà ám chỉ ai khi nói tất cả những người đàn bà đang khóc? Ông chưa từng thấy bà để rơi một giọt nước mắt nào. Ông nghĩ bà là một người đàn bà có quá nhiều hạnh phúc. Qua hai mươi lăm năm chung sống thân mật đến thế mà ông vẫn chưa hiểu được bà trọn vẹn. Đó chẳng qua là một câu nói hời hợt không ngụ ý gì, nhưng khi ông suy nghĩ lại, ông cảm thấy có mũi nhọn trong đó. Ông lặng lẽ ăn hết chén xúp, Herbert bước vào, dọn dẹp các chén không.
Mùa thu tốt đẹp kéo dài. Nắng hạn quá độ, các cây hoa cúc sống dai mà ông đặc biệt ưa thích, không lớn nổi, hoa nhỏ và không màu, một nỗi thất vọng ê chề không ai có thể làm gì được. Ông William rất bận tâm về những vụ “xì căn đan” trong quản lý thành phố đã nổ tung. Ông phải quyết định, bênh vực cho các bị cáo hay không, khi ông biết rõ là họ có tội. Dù sao đi nửa, họ vẫn có các quyền luật định của họ, ông sẽ bảo vệ cho các quyền ấy, nhưng liệu có thắng nổi không, hay vẫn còn nguyên tội trạng. Sự chọn lựa thật là tế nhị.
Một buổi sáng cuối tháng chín, trong cuộc tiếp xúc với số người mà ông dè dặt không gọi họ là phạm pháp, vì tòa án chưa phán quyết. Ông cần gặp họ để tìm hiểu về quan điểm của họ, cũng đơn giản thôi, bởi vì họ cho rằng, có khối người hành động như họ mà không bị buộc tội, thật là thiếu công bằng, họ không hiểu vì sao họ lại bị quấy nhiễu.
Ông William ngắm nghía ba gương mặt phì nộn, được tô điểm nhờ nhiều năm ăn uống ngon lành. Ông không cố tìm hiểu về dòng giống của họ, họ không giống nhau, nhưng cả ba cùng gọi lên nguồn gốc của tội ác trong hệ thông chính trị của đô thị lớn nhất thế giới này. Tuy nhiên ở đây không đặt vấn đề gốc gác, quê hương, nhưng là môi trường sống mà xã hội đã áp đặt thêm cho chúng. Những căn nhà ổ chuột, những tranh chấp của bọn găng-tơ, những thiệt hại, những đánh đấm, và cuối cùng là tội ác, đã tạo nên những cá nhân đang chạm trán với ông, kể gì đến sự biến chất của họ. Ông William cảm thấy xa cách họ, lương tâm ông trong sáng, dáng vẻ suy tư, ông từ vùng Vermont đến, đang đăm đăm nhìn họ từ sau bàn giấy của ông.
Ba cái mặt bự không nói lên được cái gì hết. Người đàn ông to lớn khẽ ho, nói:
- Chúng tôi biết những luật sư như ông đòi được trả công xứng đáng, và chúng tôi sẽ trả.
Ông ta có giọng nói dễ nghe đến đỗi ông William lấy làm lạ, quan sát ông ta qua sự bình thản thường ngày của mình, và nghĩ là mình đang có chuyện với một con người học thức.
- Chắc là tôi phải trông vào đồng tiền của các ông trả cho công việc của tôi làm, - Ông nói - nhưng tôi lại đặt câu hỏi: các ông mong gì ở tôi?
Con người nhỏ bé nhất mà phì nộn nhất ngồi giữa hai người đàn ông kia, nghiêng mình tìm cách làm mủi lòng ông luật sư:
- Nhờ vào lòng tốt của ngài. - Ông ta nói.
Giọng nói van lơn trầm buồn, giọng của một đứa con cưng xuất phát từ một cái miệng đẹp, miệng của em bé đang hờn dỗi. Từ trong nôi, mẹ của em đã từng nhượng bộ trước gương mặt trẻ thơ của em. Một lần nữa ông biết ơn bà Elinor, đã tỏ ra sáng suốt, không nhượng bộ con cái mình. Có đôi khi ông thấy bà hơi cứng cỏi, nhưng bà đã thương con cái phải lẽ, mà không mơn trớn. Sự chính trực của bà không dễ gì lay chuyển nổi.
Ông William lạnh lùng đáp:
- Các ngài không thuyết phục được tôi đâu!
Ba người đàn ông đã quyết định chấp nhận sự bào chữa đơn thuần, ông William đã bỏ cả ba buổi sáng để giải thích nội vụ cho ba người, để họ hiểu sự vô tội là một chuyện, còn quyền lợi công dân là một chuyện khác. Rất có thể họ có tội. Ông William không tìm biết điều đó, vì là việc của quan tòa và tòa án, nhưng dù sao đi nữa, thì họ cũng có quyền phải được bảo vệ.
Người bệ vệ nhất trong đám, người có nước da sẫm màu, bóng láng và ít nói nhất, đã thở ra như lợm giọng. Ông ta nói:
- Tôi nghĩ rằng, đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm được.
Họ lấy làm chua chát mà nhận thức rằng, không có gì có thể lay chuyển nổi ông luật sư, cố thủ trong một vị trí không đánh vào nổi: hiến dâng tiền bạc, nịnh hót, thuyết phục, không được gì. Họ chấp nhận điều ông William nói, vì họ tin cậy ông và biết ông khéo léo, mà không hiểu ông đồng thời vừa nhận bênh vực quyền lợi của họ và vừa từ chối không bênh vực việc làm của họ, điều đó xem ra không ăn khớp với nhau. Ông William thấy được cái nét lẫn lộn ấy trên gương mặt có hai má phinh phính chảy xệ xuống của họ. Họ đứng lên một lượt, ngẩn ngơ, nửa khiêm nhường nửa phách lối, để ông William ở lại, họ chửi bới nhau, mắng nhau là ngu dại. Ông phải mất nhiều tháng để truy tầm, đưa các chúng cứ, đã phân tích các chi tiết, ông phải bênh vực những con người nói được là ông khinh rẻ, dù vậy, tất cả đều để tôn vinh luật pháp, đó là không ai bị xét là có tội mà không có các chứng cứ đi kèm. Ông đã từng biện hộ cho những tên giết người cho đến lúc lên ghế điện mới chịu thôi, vì nhiệm vụ ông đã hoàn tất.
Ông trở về nhà cuối tuần. Ông có thể thấy mình kiệt sức, nếu không nghĩ đến cái viễn cảnh nghiêm khắc của trách nhiệm đang đợi chờ ông. Còn nhiều tháng về sau nữa, ông không có quyền viện lý do mỏi mệt, vì ông phải đảm trách việc phân tích cái thế giới sâu kín tàng ẩn của một thành phố rộng lớn, nhiệm vụ ông đã được giao phó. Hãy ngợi khen Chúa, có lẽ ông đang nghĩ về lợi ích của tòa nhà lớn xa xôi và yên tĩnh, sự bình lặng của vợ ông, sự an toàn của tâm hồn ông.
Khi về đến nhà, Jessica mở cửa, thấy ông, cô cười hai má lúm đồng tiền. Ông cảm thấy cô rực rỡ trong chiếc áo dài xanh dương tươi mát, cái tạp dề trắng xếp li. Xem chừng không còn tiếng khóc ấm ức nào nữa, và ông tin ngày cưới đã gần kề. Cô đỡ lấy cái mũ và áo choàng từ tay ông. Ông thử nói một câu lịch sự với cô như nói với con gái ông:
- Jessica, ngày trọng đại bao giờ đến vậy?
Cô vẫn giữ vẻ hài hước:
- Thứ bảy tuần sau, đó là ngày sinh nhật của Herbert.
- Kết hợp như thế thật là đặc sắc?...
Ông đặt chân lên bậc cấp đầu tiên của cầu thang, thì nghe tiếng bà Elinor từ trên lầu vọng xuống, bà đã hát, vừa hát vừa làm việc gì đó. Jessica từ phòng áo nói ra:
- Đó là điều Herbert mong muốn.
Ông William bước lên cầu thang. Khi đến thèm nghĩ ở giữa cầu thang, ông dừng lại và nghiêng mình về phía tay vịn. Ông sửng sốt, lại thấy Jessica, trên đường đi đến nhà bếp, đã dừng lại nơi phòng khách phía Đông. Đó là lần thứ ba ông bắt gặp: lần thứ nhất, khi Jessica còn là một con bé, lần thứ hai khi cô ta đã là một thanh nữ và bây giờ có thể nói được là một người đàn bà. Cô ngồi trên ghế bành nhung màu hồng đối diện với tấm gương soi lớn, hình bầu dục, ông có thể nhìn thấy hình bóng Jessica phản chiếu trong gương. Cô ta mỉm cười, song không phải cái cười mỉm duyên dáng ngây thơ mà ông còn nhớ rõ, nhưng là điệu bộ nhăn nhó cô gởi đến cho một người xa lạ nào đó mà có lẽ cô nhìn thấy trong gương. Tuy mặt cô vén gọn những nụ tóc ngắn buông lơi, làm biến thể đầu tóc của cô, và tay trái như đang cầm cái quạt phe phẩy. Cô làm điệu bộ, uốn éo cái miệng xinh xinh như phải phát âm những từ mà không ai hiểu nổi. Cô chăm chú nhìn khuôn mặt của mình trong gương, với đôi mắt to màu xanh biếc, và diễn tả một màn đang cao hứng. Thói quen gì kỳ cục vậy? Ông bị thôi miên và đứng nhìn mấy phút. Rồi ông rón rén đi lên phòng. Ông không thích can thiệp và để cô ta một mình với cái tôi tưởng tượng, làm cho cô thành người ngoại cuộc cả với những gì liên quan đến chính cô. Khi cô ta tưởng có một mình, cô ta có hành động như vậy chăng? Khi bà Elinor và ông vắng nhà, cô ta có chạy luồng tuông trong ngôi nhà trống vắng, cô chọn phòng nào vừa ý để tha hồ mơ mộng, quên mất mình là ai chăng?
Ông bực mình khi nghĩ đến đó, và vừa đóng cửa vừa tự hỏi, ông có nhiệm vụ phải cảnh giác ngay bà Elinor chăng? Tiếng hát xa xôi với âm điệu dịu dàng của bà vẫn còn vẳng đến tai ông. Ông thường tự nhủ, giọng nữ trầm của bà nếu được tập luyện, có thể trở thành tuyệt mỹ. Một lần nữa, ông lại quyết tâm không đả động gì đến Jessica. Rủi bà Elinor cho sự việc là quá quan trọng thì sao, Vả lại, Jessica cũng đã gần đến ngày vĩnh biệt tòa nhà lớn rồi. Bà Bertha đã nhất định cho con gái bà về nông trại để được sống đàng hoàng, để bà có chỗ đi nghỉ hè, và có một nơi hưu dưỡng lúc về già. Cần gì khuấy động ngần ấy chuyện, trong khi chỉ còn một ít lâu nữa cô ta sẽ ra đi.
Ông mặc vội chiếc quần màu sẫm, và cái áo vét nhung màu hồng hạt lựu mà ông thường mặc vào buổi chiều, rồi đi tìm bà Elinor, cố gắng tạo ra vẻ mặt bình tĩnh. Tiếng hát đã ngừng, ông bắt gặp bà nơi phòng nhỏ để đồ vải, bà nói bà đang tìm tấm khăn ren để trải trên cái tủ côm-mốt. Ông chờ bà, sung sướng nhìn bà, và ông thầm vui vì đã không làm khuấy động sự yên tĩnh của bà. Những gì bà đã làm trong ngày, ông đều vừa ý, vì gương mặt của bà diễn cảm, linh động, thật là tươi mát và xinh đẹp. Bà mặc chiếc áo dài màu nhung khảm xà cừ lấp lánh. Hai ông bà bên nhau, và một lần nữa ông hối tiếc vì đã ở tận New York quá xa. Cái niềm hy vọng được bà theo ông lên thành phố lớn lúc con cái đã trưởng thành, ông không thể nào thực hiện dược. Bà không thích thành phố lớn, còn ông thì tiếp tục tính toán thì giờ sắp đặt cuộc sống, để đủ sức tra cứu những vụ án đã nhận bào chữa khi ở văn phòng Manchester, hay tại đây, nơi nhà ông, trong những ngày yên tĩnh mà ông hy vọng nhờ đó để đạt được những lý đoán vững chắc, cần thiết cho cuộc tranh chấp sắp đến, với sự hiện diện của thân chủ.
Ông nói:
- Khi anh về, nghe tiếng em nói đủ làm cho anh vô cùng thích thú.
- Suốt ngày, cái phần cuối điệp khúc cũ kỹ của bài hát mà anh và em đã nghe ở nhà tháng trước, cứ lẩn quẩn trong đầu tóc em hoài. Em tự hỏi, không biết tại sao.
Bà không chờ đợi trả lời, và thật nó đâu có câu giải đáp. Bà đã tìm được tấm khăn ren và trải nó lên một cái tủ com-mốt, rồi cả hai cùng đi xuống lầu. Phòng khách vắng tanh, chiếc ghế bành bọc nhung vẫn nằm chỗ cũ, tấm gương soi phản chiếu hình ảnh của hai người, tay trong tay, họ đứng bên nhau.
Sáng hôm sau, Jessica đón ông ở cửa thư phòng. Ông đã mang về nhà cái cặp da màu đen, đầy căng tài liệu, thư từ và các mẩu tin cắt trong các báo, mà các cộng sự viên trẻ tuổi của ông đã tập hợp cho ông trong tuần qua. Ông chỉ việc hấp thu tất cả số giấy tờ ấy, đến độ biết rõ chúng như biết rõ cuộc đời mình. Ông đã dậy sớm, vội vàng, vì trong giấc ngủ ông bị ám ảnh bởi bộ mặt của ba người đàn ông mà ông nhận bênh vực quyền lợi của họ.
- Xin phép ông - Jessica nói.
Ông William đứng lại, nhớ đến sự việc đã xảy ra chiều hôm qua, ông nghiêm nét mặt nhìn cô và nói:
- Cái gì đó?
Jessica vày vò cái tạp dề trong tay, rồi với một cử chỉ thật nhanh, cô ấp hai bàn tay lên đôi má ủng đỏ, nói:
- Thưa ông chủ, xin ông đừng bận tâm đến dự lễ cưới của con. Con biết bà chủ muốn đến, vì má con, phần con, con không muốn thế. Quả thật, thưa ông chủ, ông không đến thì con lại thích hơn.
Cô làm cho ông bực bội.
- Thế là? Tốt! Vậy thì tôi sẽ nói lại với bà chủ. Thực tình, lúc ấy tôi bận lắm!
- Còn điều này nữa, thưa ông chủ, - Cô lại van nài, ông thì sợ có chuyện gì khác dây dưa lôi thôi - ông không làm điều này cho con được sao? Trong cả nhà, ông là người tốt nhất. Phải, thưa ông, con không dám nói là bà chủ không tốt đâu, nhưng bà đứng về phía má con, ông có hiểu như thế không? Con không thể trách bà, vì má con đã ở đây quá lâu, cả trước khi con ra đời nữa, nhưng mà, thưa ông, sau này con có thể trở lại đây tiếp tục công việc con đã làm, như trước khi lấy chồng được không ạ?
Điều ấy hoàn toàn ngoài quyền hạn của ông. Không bao giờ ông bận tâm về công việc trong nhà, nhất là về kẻ ăn người ở đã phục vụ lâu đời trong dòng họ Winster. Qua trung gian bà Bertha mà ông bà có được Herbert, và Jessica lại là con gái của bà ta. Và qua những gì đã xảy ra trong ngày hôm trước, sự việc đâu con đơn giản nữa.
Jessica nhận thấy vẻ ngạc nhiên và do dự trên mặt gương mặt của ông William. Ông nhìn thấy đôi mắt màu tím tuyệt đẹp của cô gái đang van nài, với hàng mi dài màu hổ phách, sẫm hơn cả mái tóc cô, mà lấy làm buồn tiếc. Tội nghiệp cô bé, sắc đẹp thế này chắc rồi cũng uổng phí thôi.
- Thưa ông chủ, - Jessica nói tiếp - con xin thú thật với ông chủ, con coi nhà này như là nhà của con - Đôi mắt cô lướt qua các gian phòng rộng rãi, đẹp đẽ và nói - con còn nhớ lúc con còn bé tí, ba hay bốn tuổi gì đó, con xô cánh cửa này thưa ông, (cô đưa tay chỉ cánh của hông đi vào đại sảnh) và con đứng đó, tưởng chừng tất cả thuộc về con. Điều đó chẳng phải hay ho gì, nhưng nó lại như thế đó. Rồi khi con lớn lên thêm chút nữa, con còn táo bạo hơn, khi cả gia đình vắng mặt, ba con ở ngoài vườn, má con ở dưới bếp, con ngồi nơi ghế bành kia kìa, ghế bành bọc nhung hồng ấy, con kéo nó đến trước tấm gương soi lớn, con nhìn con đang ngự trị giữa muôn vàn sự xinh đẹp đó và mơ mộng đủ điều. Đúng thế đó, đúng là con đã nghịch ngợm, vì vậy má con mới gởi con vào tu viện khi con lên bảy, vì má con đã bắt được quả tang và bảo là con có những ý nghĩ hoang tưởng tự đại. Nhưng đơn giản đó chỉ là lòng thương yêu, thương yêu ngôi nhà này, thương yêu gia đình này và điều đó vẫn còn tiếp tục, tiếp tục mãi, bởi vì đây là nơi con đã sinh trưởng, sự thật là vậy.
Ông William sửng sốt và khó chịu vô cùng. Cô ta tưởng như tất cả là của cô? Cô có quên chăng là ông cũng đã thấy cô như thế?
- Được rồi, Jessica, tôi sẽ nói với bà Asher về việc đó.
- Ôi, xin ông, con xin ông đừng nói lại cho bà biết điều con đã nói. Đó là ảo mộng của con, con biết vậy, có lẽ bà không hiểu được, không như ông đâu, thưa ông, vì bà là thành phần của gia đình Winsten.
Ông William ít thích cam kết một điều gì mà không có vợ ông, nhất là việc đó có liên hệ đến cô gái này. Cô ta được tạo nên đâu có phải là để làm một nữ tì, ông nghi ngờ ở nơi này có biết bao nhiêu cách tế nhị, bao nhiêu trạng thái tinh thần chỉ có hại cho cô ta, vì gốc gác hèn mọn của cô. Ông không tin vào sự trường cửu của một vai vế nào đó trong xã hội, nhưng phương tiện để vươn lên đòi hỏi một nghị lực mà cô ta không có.
Ông cố ý làm ra vẻ lanh nhạt, nói:
- Này, Jessica, tôi sẽ làm hết sức mình, nhưng nếu bà chủ thấy mẹ cô buồn lòng vì chúng tôi vắng mặt, thì cô cũng không nên trách chúng tôi. Còn chuyện gì khác, cô nên chờ một thời gian. Điều ấy có thể thu xếp được dễ dàng trong mấy tháng hè, nhất là khi các cô cậu đã về đủ mặt, thế nào chúng tôi cũng cần cô giúp đỡ đôi chút.
Cô thoáng có được chút vui mừng, không tương xứng với hy vọng mong manh của cô.
- Ôi, con xin cám ơn ngài Asher. - Cô nói.
Và cô chắp hai bàn tay mảnh mai của cô lại trong một dáng điệu, sung sướng.
- Cô cũng biết, đây chưa phải là lời hứa. - Ông nhắc.
- Vâng, con cũng hiểu vậy. - Cô đáp.
Ông rảo bước đến thư phòng, quên hẳn Jessica khi ông nghĩ đến cảnh đồi trụy phô bày khắp thành phố. Cuối ngày ông có nhớ lại, nhung sự kiện có vẻ là trò trẻ con, có thuật lại cho bà cũng vô ích. Đã từ lâu ông hiểu được sự bình an trong gia đình đến từ những gì quên đi hơn là từ những gì giữ lại. Bà Elinor có thể phật ý vì chuyện Jessica xin trở lại làm việc như trước một cách quái lạ này, nó còn làm phật ý bà Bertha, một con người quan trọng. Ông không quên hắn được, vì cách mấy ngày, khi bà Elinor báo tin lễ cưới của Jessica đã gần kề, thì ông bảo, ông không đến được. Đúng như vậy. Dù thế nào, ông cũng khó có mặt ở nhà, nhất là vào lúc bây giờ. Ông nói:
- Em thân yêu, tuần này anh không xa rời thành phố được. Sáng thứ hai anh phải đi sớm, em chỉ gặp lại anh sau ngày thứ sáu hay thứ bảy. Anh đang chuẩn bị hồ sơ cho vụ án. Không có anh, các người khác không làm được, anh không thể nào đến dự lễ cưới, cho dù đó là lễ cưới của Susan, con gái của chúng ta.
Bà Elinor nói:
- Bà Bertha sẽ bất bình đấy! Con cái chúng ta cũng chẳng có đứa nào có mặt. Anh chị em của em thì lang thang đây đó, em cũng chẳng biết tại sao. Em mong lũ con mình đừng bắt chước họ, nhưng em đoán chừng dì Emma sẽ có mặt.
Ông nói với giọng nhẹ nhàng hơn:
- Anh tiếc rằng, biết đâu chính chồng em cũng lang thang như thế.
Ông thuật lại cho bà nghe những lời Jessica nói cũng dễ dàng thôi, nhưng ông thấy vô ích, vì ông chỉ bị cô tớ gái tâm tánh thất thường làm giao động trong giây lát. Ông bằng lòng để Jessica ra đi, và ông sẽ chẳng làm gì để cô ta dễ dàng trở lại. Ông lấy làm bất mãn khi nghĩ rằng cô ta coi cái nhà này, cái nhà hiện tại của ông, như là nhà của cô ta, ngay cả chỉ đề cập đến ngôi nhà này một cách thiêng liêng cũng vậy.
Lễ thành hôn đã cử hành không có ông, và khi ông về muộn trong buổi chiều thứ bảy, mệt mỏi, căng thắng do cố gắng quá sức, ông quên mất là Jessica đã ra đi, và chỉ nhớ đến điều này khi bà Bertha một mình hầu bàn bữa ăn tối.
Ông cảm thấy cần tỏ ra lịch sự đôi chút với bà Bertha, ông nói:
- Bertha này, như vậy không phải là chị đã mất đi một đứa con gái, mà là chị có thêm một đứa con trai, phải không? Tôi rất tiếc không về dự lễ cưới của cháu được.
- Herbert sẽ trở lại làm việc vào tuần sau, thưa ông, tôi đã bảo anh ta một tuần là đủ rồi. Hồi Heinrich với tôi, chỉ mất hai ngày thôi. Nhưng Herbert lại bảo cái nóc nhà nuôi gà phải lợp lại, và anh ta sẽ làm việc đó trong tuần trăng mật.
- Tốt! - Ông William vui vẻ kêu lên - Nhưng anh ta dường như không chỉ coi việc đó là tuyệt vời!
Bà Elinor kể lại:
- Khi bà Bertha rơi khỏi phòng, thì cuộc lễ xem ra khá thê thảm. Nhìn quanh, chỉ có anh chị của Herbert và dì Emma, tài xế của dì đã đưa dì từ New York đến. Dì đến như vậy là quá tốt rồi, nhưng sau đó dì cứ lớn tiếng lặp đi lặp lại rằng, gương mặt của Herbert làm dì phát nản.
- Dì Emma đi về ngay à?
- Không, dì ngủ đêm ở nhà mình, và em đã quả quyết với dì: Herbert đúng là mẫu người cần phải có cho Jessica, vì cô ta hơi ngớ ngấn. Anh thường ở New York nên anh không biết, đôi khi cô ta làm cho em bực mình. Mẹ em bảo: những con người có giáo dục không nên bắt kẻ khác phải lệ thuộc vào tâm tính vui buồn của mình. Heinrich và Bertha không bao giờ làm thế, Heinrich có khuynh hướng làm một người Đức mềm mỏng, giàu tình cảm, nhưng Bertha nắm vững anh ta trong tay. Em biết cha em chỉ cần ngó Heinrich một cách nghiêm khắc khi anh ta vụng về là đủ, sau đó thì Bertha có trách nhiệm làm tiếp.
- Dì Emma có mạnh khỏe không? - Ông hỏi vẻ còn lơ đãng.
Theo lẽ, ông phải ở lại New York chủ nhật này. Chứng nhân duy nhất của mọi đầu dây mối nhợ đã bị theo dõi, nhưng làm sao đủ tin vào những con người thành thị.
- Dì ấy đang xuống dốc, - Bà nói tiếp - em thường tự hỏi, dì Emma đã gặp chuyện gì trong cuộc đời của dì. Dì luôn nhắc đến Jessica lúc nó còn bé, dường như dì lưu tâm đến điều đó mỗi lần dì đến thăm chúng ta. Tuy vậy đời sống ở New York hợp ý thích của dì, như dì đã bảo, đó là thành phố của những bà độc thân, nơi họ có những thú vui như đi nghe nhạc, diễn thuyết, xem triển lãm. Em nghĩ dì nay đã trở nên hơi kỳ cục, nhưnng dì vẫn luôn luôn dịu dàng.
- Kỳ cục à?
Bà Bertha bưng đến một thứ bánh ga tô thật ngon. Bà Elinor lại nói tiếp:
- Dì ấy nghiêng mình xuống bên em như thường lệ, vừa đập nhẹ lên khuỷu tay em vừa nói: “Tôi có một bức tranh của Turner”. Nhưng làm sao có thể có được, anh nhỉ? Giá bức tranh đó có đến hàng chục ngàn đô-la, cho nên em hỏi lại: “Có thật thế không?” Dì ấy cười không ra tiếng và đáp: “Có chứ, tại phòng tranh của Frich. Ngày ngày tôi tới đó hàng giờ để chiêm ngưỡng. Không ai biết là nó thuộc về tôi, nhưng nó là của tôi đấy. Tôi làm chủ nó đấy” và dì ấy vỗ vỗ vào lồng ngực già cả, xẹp lép của dì.
Cha của bà Elinor đã chọn ông William trong số các luật sư làm người thi hành chúc thư cho cái di sản bé nhỏ của bà Emma.
Ông William uể oải nói:
- Anh phải xem sự việc như thế nào. Có thể dì ấy đã trở thành một con người vô trách nhiệm. Dì ấy sống cô độc một mình, phải không?
- Dì ấy sống trong cái khách sạn cũ kỹ đó. - Bà đáp - Nếu không quá xa xôi như thế, có lẽ em đi thăm dì ấy thường hơn.
- Đó cũng là khoảng cách anh phải vượt qua hàng tuần để về với em...
Bà cảm động, đáp:
- Ồ, em biết chứ! Theo lẽ, bây giờ em phải ở nơi cái nhà mà anh thích. Nay em đâu còn viện lý do con cái được, nhưng em vẫn ghét thành thị như bao giờ.
Nhiều năm về trước, ông chấp nhận dẫn chứng của bà, khi bà tuyên bố không thể sống nơi nào khác ngoài vùng Vermont. Ông có nói: “Em yêu quý, không có sao đâu, đường sá thật tuyệt vời, và những con đường rộng thênh thang dẫn đến cái cổng nhà mình. Hồi con cái còn nhỏ, thế cũng tiện cho anh. Anh cũng thừa nhận khí hậu vùng này hợp với đầu óc của anh. Ở đây anh làm việc thật tốt”.
Mấy ngày sau đó, trong lúc chờ đợi lấy thêm tài liệu, ông William rời văn phòng khoảng một tiếng đồng hồ để đi thăm bà Emma. Cô thư ký của ông sắp xếp giờ gặp gỡ.
Ông đã gặp bà Emma trong một căn phòng ngột ngạt: bà ta già lụ khụ, gầy go, run rẩy, mặc cái áo lụa mỏng màu xanh đã bạc phếch, hai mắt lờ đờ, được một bà hầu phòng đã có tuổi của khách sạn chăm sóc. Bà hầu phòng mở của, và một lát sau mang trà vào đặt trên một cái mâm nặng bằng bạc.
- Chào William, anh đến thăm tôi, thật là quý hóa! Tôi mong công việc của tôi không có gì phiền phức cho anh chứ?
Ông William vừa ngồi đối diện với cái ghế dựa phủ vải thêu màu vàng bà ngồi, vừa đáp:
- Không có gì đâu, thưa dì.
Những khúc gỗ già bằng kim khí được đun bằng khí đốt, phụt ra những ngọn lửa nhỏ, làm cả nhà nồng nặc mùi ga. Ông William bảo, ông sẽ nói cho ông giám đốc khách sạn biết. Một ngày nào đó bà già tốt bụng nay sẽ chết ngạt, dù bà đã quen với bầu không khí đó, còn cửa sổ thì đóng kín mít. Những khúc sắt giả gỗ đã có vẻ khá cũ kỹ đó vỡ vụn ra. Ông nói tiếp:
- Elinor nói là dì có đến dự đám cưới của Jessica, và tôi nhớ không lầm thì đã lâu tôi không đến thăm dì, lâu qua rồi. - Dù sao, theo một nghĩa nào đó, thì dì là người mà tôi phải bảo trợ.
Bằng một nụ cười mỉm héo hắt, bà Emma nói:
- Tôi còn khỏe lắm, William à. Đi về Manchester để dự đám cưới đối với tôi là một cuộc du hành khó nhọc, song Bertha đã viết thư cho tôi, và tôi cũng cảm thấy phải có người trong gia đình đến dự. Rốt cuộc, chỉ có Elinor và tôi. Tôi còn nhớ Jessica rất rõ hồi nó chưa vào tu viện. Một con bé tuyệt trần, rất nhiều tư cách. Thật là tội nghiệp! William à, tôi có bắt gặp nó ngồi nơi cái đàn dương cầm, khe khẽ hát, các ngón tay đặt trên phím đàn, và tạo ra những tiếng nhạc hòa hợp với tiếng hát của nó, một giọng trẻ con thật hay. Lẽ ra tôi phải đem nó theo tôi lúc ấy, và cho nó học đàn - Bà Emma nghiêng mình về phía trước như bị lôi cuốn vào dòng cảm xúc - Nó còn biết vẽ khá đẹp nữa, hay là nó còn có thể làm hơn thế, nếu có người kèm cặp cho nó. Trong một dịp lễ Nô-en, tôi còn nhớ nó đã vẽ tặng tôi một bức tranh màu nước. Nó còn lén cho tôi những kỷ vật nho nhỏ, bởi vì nó biết tôi yêu nó. Tôi đã thấy bức tranh đó cuốn lại và cột dải ru băng trong hộc bàn tôi. Tôi còn giữ, không biết ở đâu đó.
Bà ngó láo liên, như tự hỏi bà đã cất bức tranh ở đâu. Đột nhiên bà kêu lên:
- Và cái anh chàng đó thật là thô kệch!
Ông William biết là bà ám chỉ Herbert, nên ông trả lời:
- Tuy cục mịch, nhưng vững như trồng.
Bỗng dưng bà Emma xao xuyến, bà nói:
- Ôi, tôi có biết gì đâu! - Bà vặn vẹo hai bàn tay dài và xương xẩu của bà vào nhau - William, dùng thêm tí trà nữa nhé?
Muốn làm vui lòng bà cụ, ông William nói:
- Vâng ạ, thêm tách nữa. Trà này ngon tuyệt.
Bà già xem ra rất vui lòng, bà nói tiếp:
- Anh thích trà ấy à? Đó là thứ trà đặc biệt, nhưng ít người biết. Tôi đã thấy nó nơi một tiệm của người Tàu, một nơi thật lạ lùng. Tôi tưởng anh biết, William, tuy nhà ở New York mà tôi vẫn chu du khắp thế giới. Một hôm nọ, tôi rơi vào một hội chợ Italia thực sự, giữa hai con đường giáp cùng của thành phố, nơi đứt đường giao thông. Hàng trăm ngọn đèn giăng giữa các gian nhà và một cửa hàng có mái lợp một cách quái lạ, nơi người ta mua bán. Khi người thư ký của anh gọi điện cho tôi là chính lúc tôi đi mua trà đó. Tôi ân hận mãi vì đã không dẫn Jessica về ở với tôi. Tôi chắc cô ta sẽ vui lòng đến. Anh cũng rõ là Bertha quá khắt khe với con nhỏ. Tôi thấy chị ta nắm cánh tay con nhỏ mà lôi. Nó có lang thang qua những ngôi nhà mênh mông trống vắng đó, thì tội tình gì. Ngoài tôi, không ai biết rõ điều đó. Tất cả mọi người đều bận rộn.
- Nhưng Bertha yêu quý con của chị ta lắm. - Ông nói mà không thêm những gì ông nghĩ về tính khí của Bertha.
Bà Emma nhăn mặt, tỏ vẻ chán chường.
- Ôi, William, tôi van anh, đừng nói với tôi về tình yêu. Đó là cách chữa mình khéo léo. Cũng bằng cách ấy, cháu Jessica đã bắt đầu: “Thưa bà Emma, bà biết con chỉ thương có một mình bà thôi..”
Bà cười lên the thé. Mẹ của bà Elinor lúc sinh thời là một phụ nữ dịu dàng, và theo ký ức của ông William, chỉ có dì Emma là yêu quý bà nhất.
Tuy nhiên ông không có thể phân biệt được dấu vết gì tỏ ra bà Emma điên loạn, ông cho rằng, bà chỉ luôn luôn cố chấp, khó tính, bẳn gắt, và không bao giờ chịu lấy chồng. Ông cũng thấy rằng, không phải không có người xin cưới bà hồi bà còn trẻ, nhưng ông không rõ vì sao bà đã từ chối luôn như vậy, giả thuyết là không bao giờ có biến cố gì khủng khiếp đã xảy ra. Uống xong tách trà thứ ba, ông đứng lên, cảm thấy nhẹ người vì không có vấn đề gì mới cần giải quyết.
Ông nói như để khuyến khích bà:
- Năm nay dì sắp trở nên giàu lớn rồi, dì Emma à, giá cả đang lên, và chắc dì sẽ được những lợi tức cổ phần.
Nhưng bà có vẻ như không bằng lòng:
- Ôi, đừng nói với tôi về những chuyện ấy, chẳng qua do tiếng đồn ghê gớm về chiến tranh mà ra. Thà chết nơi nhà từ thiện còn hơn làm giàu bằng cách ấy.
Bà mò trong cái túi nhỏ bằng nhung đeo nơi cổ tay, rút ra một mẩu giấy cắt trong báo, đã nhàu nát, lấy kính lão đeo vào rồi đọc: “Chế tạo bom nguyên tử”. Bà bỏ kính xuống, nhìn ông trách móc:
- Thế mà anh sắp nói với tôi về lợi tức cổ phần...
Ông nói với giọng hối hận:
- Dì tha lỗi cho tôi. Tôi quên là dì theo dõi tin tức sát sao đến thế.
- Nếu tôi không quá già, - Bà lại nói với giọng bi kịch - tôi đã đi hiến máu rồi. Chắc họ không thèm đâu. Máu tôi cằn cỗi quá! Tại sao không? Máu có biến đổi gì không? - Bà đưa cánh tay mặt lên, nó gầy tong gầy teo, ống tay áo tuột về đằng sau.
- Chắc vậy, - Ông William đáp - các thầy thuốc phải biết điều đó.
Bà Emma buông cánh tay xuống đầu gối, bà nói:
- May phước, tôi đã không lấy chồng. Tạ ơn Chúa đã không cho tôi có con. Nếu không thì bây giờ tôi không chịu nổi đau khổ.
Bà nghiêng mình về đằng trước và hỏi ông William:
- Anh sẽ làm gì cho lũ con của anh, William?
- Chúng nó sẽ phải hành động như những thanh niên khác.
Bà kêu lên:
- Anh thấy chưa, chúng nó sẽ đau khổ và cả anh nữa. Đó là điều hôn nhân đã mang lại. Tôi thật tình muốn có được Jessica ở đây, theo lẽ phải vậy, đằng này tôi chỉ nghĩ đến điều đó khi thấy nó ở bên cạnh tên đàn ông thô lỗ kia. Bertha ục ịch, chị ta cũng giống hắn, tôi chẳng biết tại sao tôi không ép Jessica đến với tôi. Chúng tôi có thể gần gũi nhau tại phòng triển lãm nghệ thuật. Tôi có một tác phẩm tuyệt đẹp ở đó của họa sĩ Turger của riêng tôi, tất cả mọi người đều biết.
Phải chăng đó là triệu chứng của bệnh tâm thần? Không phải bà ta sống theo tính cố chấp của thời xưa. Dì Emma trí khôn lành mạnh, nhưng bà cố chấp cả trong những gì bà tưởng tượng như bà thường làm, cao hứng khi có người nghe chuyện bà lấy làm ngạc nhiên.
- Nghe dì nói, tôi cũng thích, nhưng bây giờ tôi phải đi về, dì Emma ạ. Trà của dì ngon tuyệt, tôi sẽ thuật lại cho nhà tôi nghe.
Ông xiết bàn tay dài, già cỗi, gầy guộc của bà Emma rồi ra đi. Ở đây chỉ có lối sống vô trách nhiệm của tuổi tác, ý muốn tỏ ra mình không phải là hạng người như ông hay là kẻ khác tưởng. Jessica mà sống trong môi trường bệnh hoạn này thì thật là tai hại. Thà cô ta đi theo con đường thông thường của người phụ nữ là lấy chồng, có một tổ ấm, và sinh con đúng lúc. Đó là tiếng nói của sức khỏe, của sự quân bình và của tình bè bạn tốt. Vì thứ bè bạn này có thật, chắc chắn là thế, cho những con người chung sống với nhau, dưới cùng một mái nhà. Tình yêu là vinh quang của hôn nhân, cái dư tràn của một cốc đầy, nhưng hôn nhân tự nó là một sự cần thiết. Ông nghi ngờ nỗi phấn khởi của dì Emma, nghi ngờ những khả năng của Jessica, chẳng có gì bảo đảm những tư chất này của cô là do thừa hưởng của vợ chồng Bertha và Heinrich cục mịch. Có lẽ các dì phước đã tập cho Jessica biết thưởng thức, song nếu nó còn, thì cô ta cũng sẽ quên đi khi đời sống bình thường bắt đầu. Ông xua đuổi hình bóng Jessica ra khỏi lòng trí ông, khá bất nhẫn vì ngoài ý muốn, hay là ngoài sự quan tâm của ông đối với cô, người thiếu nữ đã xuất hiện rất thường và bằng một cách không hợp lý trọng đời ông.
Trong dịp lễ Giáng Sinh, Susan đem theo về nhà một con chó. Ông William về bằng xe hơi, mệt lả người, ngồi sau tấm lưng đồ sộ của Herbert, mở mắt để nhìn thấy con gái ông trong cảnh tranh tối tranh sáng lạnh lẽo. Cô ta chờ ông nơi hàng rào chấn song giữa những cây du. Ông nhìn thấy bóng dáng cô, thấp và mạnh khỏe, mặc áo vét lông thú màu trắng. Một con chó mực dữ dằn, không rõ thuộc giống nào, kéo chằng sợi dây da quấn vòng trong bàn tay mặt của cô. Ông William ra lệnh ngừng xe và quay kính xuống. Ông la lên:
- Con thú gì thế?
- Không phải là một con thú mà là một con chó. Nó tên là Pirate, tên cướp biển...
- Ba không xuống xe được, - Ông càu nhàu - mà ba cũng không để cho con lên xe được. Xem bộ nó muốn thịt chúng ta.
- Nó còn tơ mà ba. - Cô gái nói.
Cô kéo trì nó lại, đang khi nó gục đầu nhủi tới trước, sủa ầm ĩ vào chiếc xe, đêm tối, và tất cả. Ông William tự nhủ: Nó sủa cả chính nó.
- Cái gì bắt con đem nó về nhà? - Ông hỏi.
Ông thấy mình bắt buộc phải la lên vì con chó sủa to quá, giọng trầm và vang vọng khắp rừng cây.
- Nó to lớn dị thường, mỗi bữa nó ăn hết hai cân thịt đó ba. - Cô ta hét lên đáp lại.
- Hai cân? Ba thấy nó có thể ăn hết năm mươi cân...
Ông William không đến gần con gái được, ông lại la to len qua bóng tối mờ mờ.
- Lát nữa sẽ gặp con, khi ba đã vào trong nhà. Ba không muốn con đem nó vào.
Susan càng la to hơn nữa:
- Con chó nó đòi vô. - Nàng cong người chỏi vào cái cây.
Ông William càu nhàu và quay kính xe lên.
- Ôi thật là ghê tởm. Cho xe chạy đi Herbert, gió chiều đã lạnh lắm rồi đấy.
Herbert không nói gì về những việc đã xảy ra. Anh ta chỉ nói khi có người hỏi. Đó là tư cách căn bản dưới con mắt của ông William.
Ông William không nói gì, song cũng lấy làm lạ về một vài thay đổi nơi người tài xế của ông, trong mấy tuần cuối cùng này, kể từ ngày anh ta cưới vợ. Thường thì anh ta lái xe rất cẩn thận và chạy tương đối chậm, nhưng nay bỗng anh tăng tốc độ lên lúc nào không biết. Chiều hôm nay anh lái xe từ thành phố về, với một tốc độ hợp lý, nhung khi về gần đến những con đường làng thì anh ta lại tăng tốc. Một lát sau, ông William đang ngủ mơ màng chợt tỉnh giấc vì cảm thấy chóng mặt, ông ngó đồng hồ tốc độ: 80 dặm một giờ.
Ông vội la lên:
- Trời đất, Herbert!
Herbert giựt mình, và chiếc xe bỗng chạy lạng sang hướng khác một cách nguy hiểm.
Ông William lại la lên:
- Hãy ngó vào đường mà chạy!
Thật là điên khùng vì khi nghe bảo thế, Herbert lại ngoái đầu lui để chiếc xe chạy loạng quạng như không có người điều khiển.
- Liệu hồn, cảnh sát thổi còi đấy!
Herbert vội vã giảm tốc độ xuống con năm mươi dặm giờ, tốc độ giảm đột ngột làm cho chiếc xe bị trì lại. Herbert nói:
- Xin lỗi ông chủ, con đương nghĩ về một chuyện khác.
Ông William nghiêm khắc nói:
- Khi đang lái xe, anh đừng để trí óc nghĩ ngợi đâu đâu.
Về đến nhà, ông ôm hôn bà Elinor ở ngưỡng của và phàn nàn về Herbert.
- Chiều hôm nay, suýt chút nữa thì xảy ra tai nạn. Herbert cho xe chạy đến 80 dặm giờ.
Bà Elinor có vẻ áy náy, nói:
- Điều đó thiệt em không thể tưởng tượng nổi!
- Anh đã bảo, nhưng Herbert nói là hắn đang nghĩ về một chuyện khác.
Cửa bỗng mở và Jessica bước vào, với áo bờ lu xanh, tạp dề trắng xếp nếp. Cô đến bên ông William, đưa tay đỡ lấy cái mũ và áo khoác của ông.
- Con chỉ phục vụ trong mùa nghỉ hè thôi, thưa ông chủ, nhưng điều ấy cũng biến đổi con đôi chút.
Ông sực nhớ có nghe một điều giống như thế, và lương tâm nhạy cảm của ông đâm ra áy náy. Ông nói:
- Quả thật, tôi chẳng có công gì đâu, tôi đã chẳng nghĩ gì đến điều đó cả. Cô hãy cám ơn bà Asher mới đúng.
Ông thấy dường như bà Elinor đang chờ ông với vẻ hơi xa vắng.
- Thưa bà, được trở lại đây thật là thú vị, con cám ơn bà rất nhiều.
Jessica nói một giọng gắn bó, âm sắc van nài khác thường.
- Cô chỉ giúp chúng tôi trong thời gian các cô cậu về đây thôi. - Bà Elinor trả lời, giọng bình thản và ngọt ngào. Ông William quay mình về phía thang lầu và cảm thấy bàn tay của bà luồn dưới cánh tay ông.
Cả hai lẳng lặng đi lên lầu, khi đến phòng khách riêng của bà, bà ngồi xuống. Phòng này dẫn vào hai phòng ngủ của ông và bà. Gian phòng đẹp mắt, trang trí đơn giản, đó là phong cách của dòng họ Winsten, không có các món đồ mua theo thời, đồ thêu rua và đồ trang trí tỉ mỉ chỉ rước bụi bặm. Màn của bằng sa tanh dày, xanh lơ, không hơn và màu đó cũng còn thấy nơi tấm thảm Ba Tư đã cũ, dệt các họa tiết đều đặn. Màu xanh hợp với vợ ông, bà có đôi mắt xanh biếc, dưới mái tóc màu vàng hoe ánh bạc. Ông William ngồi xuống, nhồi ông điếu, trước khi tắm và thay đồ. Tòa nhà yên tĩnh, nhưng từ ngoài vọng lên tiếng chó sủa ồm ồm.
- Vợ chồng Winston về đến chưa? - Ông hỏi.
- Madge đã điện thoại cho biết vợ chồng nó không về được trước ngày mai. Edwin vừa mới về đã tức tốc đi thăm con Vera. Susan về đúng giờ với một con chó và một chàng thanh niên.
- Anh đã thấy con chó rồi. Một con chó dễ sợ.
- Anh không nên nói bô bô lên vậy, chính chàng thanh niên đó đã tặng cho con nhỏ, con chó.
- Chàng thanh niên đó bây giờ ở đâu?
- Có lẽ anh ta ngủ. Anh ta đã ăn rất nhiều bánh ngọt và một dĩa xăng-uých đầy ắp. Anh ta không chịu uống trà, nhưng đã nốc hai ly Gia pha nước, rồi kêu buồn ngủ.
- Em có biết anh ta không?
- Không, anh yêu. Anh ta mới đến đây lần đầu.
- Hắn giống cái gì?
Bà Elinor ngẫm nghĩ:
- Rất giống con chó, to lớn, quê mùa, thuộc gia đình tầm thường, ôi rất tầm thường, thế mà Susan lại nói rằng tụi bạn nó cho anh ta là tuyệt hảo.
Điều bà nói làm cho ông William liên tưởng đến chuyện khác:
- Tại sao các cô ngày nay lại thích những anh chàng cục mịch nhỉ? Anh nhớ rằng trước kia em đã kiểm soát cả cách đi đứng của anh. Ngày nay, các chàng trai lẻo mép, càng khoe khoang và ăn ở theo kiểu tướng cướp, thì càng được các cô gái yêu.
Bà Elinor lại trầm ngâm suy nghĩ. Bà ngồi duyên dáng, thoải mái, đặc biệt quý phái, một thứ quý phái trẻ trung như nước Mỹ. Hai chân bà thon nhỏ, mang giày nhẹ trong nhà, tréo nhau dưới chiếc váy dài có rua đen, đẹp, cho một tầng váy trong màu anh đào, chắc là bằng sa tanh, vì không nghe tiếng sột soạt. Bà không thích loại vải có tiếng sột soạt khi cử động.
Bà nói cách nghiêm chỉnh:
- Em cũng không biết nữa. Điều em biết là em không chịu nổi những chàng trai mà Susan đã đem về đây. Em mong sao nó đừng lấy một ai trong đám thanh niên mà chúng ta đã gặp.
William đang nghĩ về cậu con Edwin, nên ông nói:
- Còn con nhỏ Vera thì sao?
- Ồ, con bé đó thì chắc chắn là ngộ nghĩnh rồi - Bà nói ngay. Nhưng rồi bà lại đâm ra do dự, bà nói thêm có vẻ cực chẳng đã - Em có một ý nghĩ kỳ cục mà em không nên nói ra.
- Nói đi, giữa anh và em, chúng ta đã từng nói với nhau biết bao nhiêu là chuyện điên khùng.
- Em tự hỏi, con Jessica có để trong đầu một ý nghĩ buồn cười nào về thằng Edwin nhà mình không?
- Ồ, đó chỉ đơn giản là một sự điên khùng - Ông ngỡ ngàng nói - Jessica được bà Bertha nuôi dưỡng, đâu có thể quên thân phận mình đến thế! Nhưng này, Edwin còn là trẻ con. Jessica bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Hai mươi bốn.
- Như thế thì một đứa hai mươi mốt, một đứa hai mươi bốn...
- Edwin quá đẹp trai, và em muốn sao cho con Jessica ít đẹp hơn, ít kiểu cách hơn, anh cũng biết, con nhỏ có thể là quá tế nhị và chắc cũng quá nhạy cảm đối với nghề nghiệp của nó.
Ông lại hỏi, vẫn bối rối trong lòng:
- Em nhận thấy cái gì sao?
- Có lần em bắt gặp Jessica đang cười, hai bàn tay đặt trên vai Edwin, còn hắn, hắn cúi đầu và đỏ mặt.
Điều ấy làm ông cảm động và ông định thú nhận một điều mà cho đến lúc đó chưa xuất hiện trong tâm trí ông một cách sắc nét, không phải cử chỉ của Jessica trước tấm gương soi, nhưng là một cảm giác mà ông cũng không tự thú nhận cho chính mình.
Ông nói, vẻ miễn cưỡng:
- Em cũng biết, Jessica có những cách tiếp xúc ngộ nghĩnh với bất cứ người đàn ông nào.
Bà Elinor nhìn thẳng vào mặt ông:
- William, anh muốn nói gì?
Ông không biết trả lời sao, lời nói vượt quá khỏi sự hiện thực. Ông gượng cười đáp:
- Anh chẳng biết nghĩ cái gì đây. Mỗi khi anh thử giải thích bản thân anh, thì cái đó vuột đi mất, có thể là do cách em nhìn với vẻ mơ màng, quyến rũ. Cái đó luôn làm cho anh xốn xang và anh liền lẩn tránh. Anh chắc chắn con bé còn ngây thơ quá, nên không để ý.
- Không có người đàn bà nào lại ngây thơ đến mức độ ấy! - Bà Elinor đáp.
Ông chăm chú nhìn bà và thầm nghĩ: Bà chả có gì phải cay đắng về điều đó cả.
- Đàn bà chúng em sinh ra là đã khôn ngoan rồi - Bà nói tiếp với ít nhiều châm chọc - Đó là lối thoát đến tự do của chúng em. Người đàn bà càng bị chèn ép, càng khôn khéo lên.
- Em có bị chèn ép không? - Ông nói.
- Em có thiếu khôn ngoan không?
Bà lại đắm mình vào cái bản chất xa vắng của mình, mà đôi khi bà đã từng làm như vậy suốt nhiều ngày. Ông đã biết rõ tình trạng tinh thần này của bà và từ lâu ông tự hạn chế mình bằng một nụ cười, bằng một chấp nhận, và nếu có thể, yêu thương bà nhiều hơn trong lúc chờ đợi. Vì thế ông trả lời:
- Mặc dầu anh là một luật sư người ta cho là sáng giá, nhưng không nói ngoa, anh không để em phỉnh phờ đâu. Anh sắp tẩy uế mình về những gì thuộc về thành phố, và xây dụng cho mình cái gì có tính cách vững chắc hơn. Còn về chuyện Jessica và Edwin, anh chẳng tin tí nào, nhưng anh sẽ để mắt đến.
- Điều ấy làm em vững tâm, vì anh cũng nhận thấy cách Jessica vồn vã tấn công đàn ông, đó là nói chung cho hết mọi người đàn ông, anh yêu ạ.
- Em nghĩ như thế là được rồi. - Ông bình tĩnh đáp. Ông cảm thấy quá mệt mỏi để nói nghiêm túc.
Vụ kiện quan trọng không đi đến đầu. Nhân chứng nổi bật nhất, biết tường tận tất cả những chuyện xấu xa, được phép lánh mặt đi khá lâu để bị con quỷ nào đó mua chuộc, cuối cùng không chịu tố giác những gì hắn đã cam kết thú nhận. Hiện giờ hắn đang ở đằng sau song sắt nhà tù, trong an toàn, nhưng hoàn toàn vô dụng. Hội đồng thành phố New York lại phải trả chi phí cho những cuộc điều tra mới và lâu dài, về những vụ việc tên nhân chứng ấy biết, nhũng vẫn che đậy dưới cái sọ tối tăm của hắn, mà hiện tại không có tổ chức nào có thể bẻ khóa hay cậy nắp để vào được.
Ông William tạm quên gia đình lúc ông tắm và cạo râu lần nữa. Có thể nói, khói dầu và bụi bặm của thành phố làm cho râu ông mọc nhanh, đến phải cạo sáng và chiều, nếu giờ đi năm, ông muốn hiến dâng đôi má khá nhẵn nhụi để kích thích đôi môi của vợ mình. Bỗng ông nghe tiếng cánh cửa mở ra rồi đóng ập lại, tiếp theo là tiếng ồn ào nơi cầu thang, điều mà hai đứa con trai ông, dầu trong lứa tuổi khuấy động, cũng không bao giờ làm. Ông liền ý thức đó là chàng thanh niên bạn của Susan, tên là Peter, người đã tặng con chó, mà con khuyển lại giống chủ hết chỗ nói, đến đỗi bà Elinor, một người bác ái nhường nhịn, tốt bụng nhất đời, đã khám phá ra điều đó.
Khi ông bước vào phòng khách phía Đông, thì sự giống nhau đó dường như là hiển nhiên. Con chó nằm trước lò sưởi, nơi không một con chó nào dám bén mảng, vì ông William không bao giờ nhượng bộ, khi các con ông còn bé tí, đòi cho được một con chó săn nhỏ vóc, lông dài, mà ông cấm không cho mang vào nhà. Mùi hôi của chó làm ông khó chịu, nhưng phòng khách chiều nay lại bốc lên nồng nặc mùi chó.
- Susan! - Ông kêu lên. Ông chợt thấy cô gái quý của ông mặc áo dài vàng, dợn sóng quanh vóc dáng mảnh mai và đôi vai sậm màu của cô.
- Thưa ba, con biết lắm, nhưng Peter bảo rằng, nếu không cho con Pirate vào nhà, nó sẽ tru tréo lên suốt đêm.
Một thanh niên vóc dáng dềnh dàng, đứng lên khỏi ghế bành của ông William, phô bày tấm thân đồ sộ của anh ta, cặp mắt đen huyền khuất dưới hàng mi dài và đen. Đầu tóc rễ tre của anh ta cũng đen, bù xù không chải gỡ, đã đến lúc cần phải cắt. Anh ta mặc bộ đồ nâu sậm, áo vét nút không cài, để lộ cái sơ-mi màu xanh lơ, nhăn nhó, chắc anh ta dùng nó để mặc khi ngủ. Đôi gò má của anh vun cao, đỏ au, hai tay cũng đỏ và lớn quá cỡ. Bàn tay anh đưa ra để bắt tay ông Asher thì to bề bề và đầy lông lá.
Với giọng ồm ồm như bò rống, anh ta nói:
- Phải ông Asher đây không?
- Có thể lắm, Peter, anh nghi ngờ thật à? Thưa ba, đây là Peter Dobbs.
Anh ta nói với cách phát âm miền Nam, hơi lè nhè:
- Hân hạnh được gặp ông. Tôi đã nghe nói nhiều về ông. Từ ngày quen biết với Susan, tôi đã đọc báo. Thật đấy, tôi phục tài ông bao vây mấy tên găng-tơ vô cùng. Rủi người ta đã để cho Berman vượt ngục, nhưng bây giờ mà bảo rằng hắn đang ở trong tù là một cách nói thật ngộ nghĩnh.
Khi con chó thấy ông William thì nó nhảy dựng lên, chồm hai chân trước, trương lông gáy. Nó gầm gừ thật dữ tợn.
- Pirate, câm mồm nằm xuống! Nó chưa quen đấy thôi.
Ông William chua chát nói:
- Tôi có cảm tưởng là không bao giờ làm quen được với nó cả.
- Tôi cá là có đấy. - Peter nói, và lại ngả mình ngồi lún trong chiếc ghế bành bằng da.
- Peter, đứng dậy đi. Đây là cái ghế của ba.
Ông William muốn tỏ ra lịch sự, nhưng vẫn cay đắng:
- Cứ ngồi tự nhiên.
- Peter, dậy đi, tôi đã bảo! - Susan lại nhắc.
Peter đứng lên một cách khả ái, đổi qua ghế khác.
- Ngồi đâu mà chả được, miễn là chiếc ghế đủ rộng, tôi không thích bị nó bó rọ trong đó.
- Ba ngồi vào ghế của ba đi ba. Bản chất của Peter tốt, nhưng nói gì với anh ta là phải nói dứt khoát. Đó là điều duy nhất anh ta hiểu được, nhờ thế sự giao tiếp với anh rất dễ dàng.
Cô ta nói những lời cay độc với giọng trầm nữ, một giọng diễn cảm, dù cố tình va chạm, vẫn tạo ra một âm hưởng dịu dàng.
Ông William ngồi xuống. Ông cảm thấy bị xúc phạm quá mức. Con chó to lại nằm xuống trên tấm thảm. Ông bỗng quan sát con vật, nó ngó ông với đôi mắt giận dữ, đỏ rực vì phản chiếu ánh lửa trong lò sươi.
- Nó nhìn thế, chứ nó không xấu tính - Peter nói - Nó không thể không nhìn.
Susan nói mà không cười:
- Thì nó cũng giống như anh đấy thôi.
Peter cười rộ, đầy thán phục.
- Chắc rồi, cô có cái lưỡi nhỏ mà độc. Một ngày nào đó, tôi sẽ kéo thẳng nó ra, và lấy con dao như thế này ra - Anh ta rút một con dao bỏ túi to bản, bật lưỡi - tôi cắt cái lưỡi nhỏ đó ra cho con chó Pirate ăn.
Ông William nghe, sợ khiếp. Ông cảm thấy bất lực trước chuyện này. Những tên tướng cướp trong một phòng tiếp khách tại một thành phố rộng lớn, hư hỏng, điều đó còn có thể xảy ra được, nhưng đâu có ngờ gặp phải một tên quái đản như thế này tại nhà mình.
Peter hỏi Susan:
- Mẹ cô đâu rồi? Nói với bà là tôi đói bụng rồi.
Susan ngồi yên bất động, cô trả lời:
- Chúng tôi đang chờ Edwin. Mẹ bảo, vào phút chót, anh ấy đã gọi điện về nói là anh sẽ đưa Vera đến ăn tối.
Có tiếng lao xao ngoài tiền sảnh, có nghĩa là Edwin đã về đến, và sau mấy giây, cậu con trai thứ của ông William, cao lớn, tóc vàng hoe, như các người trong dòng họ Winsten, đi vào cùng với cô con gái của ông chủ ngân hàng địa phương. Cũng lớn con như Edwin, cô Vera Bates, giống như một cây bu-lô ánh bạc, có sắc đẹp đoan trang và đôi môi dù rất mỏng, thẳng một đường ngang, vẫn tỏ vẻ tốt bụng.
Ông William đứng lên một cách lịch sự, đó là loại thiếu nữ mà ông ưa chuộng, một tạo vật trẻ trung, gây lòng tin tưởng, mà ông sẽ đón vào nhà ông, vào gia đình ông.
Con chó lại nhổm dậy, xù lông gầm gừ, nhưng Vera cúi xuống vuốt ve nó, nên tiếng gầm gừ của nó hạ dần. Nó hít hít mấy hơi, rồi nằm xuống.
- Sắc đẹp của con vô giá, Vera ạ.
Ông William nói, rồi chìa tay ra và cảm nhận lòng bàn tay mát mẻ của Vera áp vào bàn tay mình.
- Con xin chào bác Asher. - Cô nói một cách nghiêm túc.
- Chào con thân yêu, và con nữa, Edwin, ba thấy con rất khỏe, con trai của ba.
Ông cảm thấy vui vẻ trở lại. Những trang thanh niên như thế này có thật, mặc dù có những mặt khả ố và không thể chấp nhận ở một vài phương diện nào đó, nhưng người ta vẫn phát hiện ở nơi khác, những hạng người mình có thể tự hào.
Ông động lòng trắc ẩn đối với Peter, một con người khó chấp nhận và đáng ghê tởm. Khi mọi người đã an tọa, ông nghiêng mình về phía anh ta và nói:
- Con chó này thuộc giống chó nào thế nhỉ?
Ngay lúc đó, bà Elinor bước vào phòng khách, không ai biết bà từ đâu đến. Từ phòng đồ, có lẽ, bởi vì bà rất tỉ mỉ trong chuyện dọn bàn ăn, cách sắp xếp và bưng thức ăn phục vụ. Bà siết tay Vera một cách nhẹ nhàng và ngồi xuống cái ghế dựa dành cho bà có bọc nhung màu hồng, ông William đứng lên, đẩy cái bục kê chân phủ nệm thêu đến bên bà.
- Cám ơn anh yêu. - Bà nói.
Bây giờ ông ngồi xuống lại, ngó quanh gia đình sum họp với ánh mắt dịu dàng và thỏa mãn. Một lần nữa, ông lại cảm thấy dâng lên trong lòng niềm xót thương đối với Peter, con người không bao giờ ông có thể chấp nhận vào gia đình ông. Ông nghiêng mình về phía chàng trai quê mùa đang cuộn mình trên ghế dựa, đang giữ im lặng một cách dễ thương.
Để tìm cách trò chuyên với anh ta, ông William lại hỏi thêm một lần nữa:
- Pirate thuộc giống chó nào vậy?
- Nó không thuộc giống nào hết - Peter đáp - Đó chỉ là một con chó lai hỗn tạp. Ở nhà cha tôi, loại như nó chẳng thiếu gì. Tôi giữ nó cho riêng tôi, vì nó to con. Nó cũng sáng ý nữa. Nó dễ dạy. Tôi bảo gì nó làm nấy. Ê, Pirate, lại đây...
Peter búng ngón tay đánh tróc, và con chó đứng lên, xù lông, cặp mắt sáng quắc, tỉnh táo, hai tai vểnh lên.
- Nếu tôi ra lệnh, nó sẽ nhảy chồm lên một trong bất cứ ai đang ở trong phòng này! - Peter hãnh diện nói.
- Ối!...
Tiếng kêu thất thanh từ ngưỡng cửa. Tất cả đều quay lại xem ai đã kêu lên như thế, vì tiếng kêu như tắt nghẽn trong họng. Đó là Jessica. Cô đến báo tin bữa ăn tối đã sẵn sàng. Con chó chồm hai chân lên trước cô, đứng chong mắt ngó cô như muốn ăn tươi nuốt sống. Jessica nhìn nó, khiếp sợ, hai bàn tay ôm lấy nó.
- Nằm xuống, Pirate! - Peter quát.
- Jessica! - Bà Elinor kêu lên.
- Phải, thưa bà - Và cô để xuôi hai tay xuống - Con... bữa ăn đã sẵn sàng rồi đấy ạ.
Jessica tháo lui, và mọi người đều đứng dậy. Con chó không động đậy.
- Lại đây, Pirate! - Peter nói.
Con chó đi theo anh ta vào phòng ăn. Anh ta chỉ chỗ cho nó nằm ngay trước hai cánh cửa đã đóng lại. Con chó do dự.
- Nằm xuống, ta bảo nằm xuống! - Peter quát.
Con chó hạ mình xuống nằm một cách nặng nề và Peter mỉm cười nhìn quanh một cách hãnh diện.
- Như tôi đã nói, tôi bảo gì nó làm nấy!
Jessica không quay trở lại phòng ăn, Herbert hầu bàn, tử tế hơn thường ngày một chút, ông William tự nghĩ, làm như không thấy có con chó, nhưng mỗi lần anh ta bước vào phòng, nó đều gầm gừ trong cổ. Đúng như Peter đã bảo, hắn biết làm cho con chó vâng lời.
Susan nói với Peter:
- Anh bày cho em ảo thuật của anh đi!
Hai anh chị ngồi sát bên nhau, con chó nằm trên mặt thảm sau lưng họ.
- Không có vấn đề ảo thuật! - Peter đáp. Anh ta đang thong thả tọng đồ ăn vào mồm, dùng một lượt cả dao và ma một cách quái dị. Anh ta bảo Susan - Nó chỉ vâng lời một người mà thôi, đơn giản là người chủ của nó.
- Làm sao nó biết em là chủ của nó?
- Khi anh đi rồi, nó sẽ vâng lời em.
Nghe mấy tiếng ấy, ông William hoảng hốt kêu lên:
- Đừng để con chó lại đây!
Peter ngẩng cái đầu đồ sộ của anh ta lên.
- Đó là quà Giáng Sinh của tôi tặng Susan.
Bà Elinor cũng kêu lên:
- Ồ, không...
Edwin nhướng chân mày ngó Vera. Vera đáp lại bằng một cái nháy mắt rất khó nhận, cả cậu lẫn cô đều không nói gì. Susan quay về phía mẹ.
- Nó không làm cho mẹ bực mình đâu, con sẽ đem nó theo vô trường. Bà làm công trong đó hứa đem nó về nhà, nếu nhà trường không cho nó ngủ tại nhà ngủ tập thể.
Bà Elinor không trả lời. Đã từ lâu, chồng bà và bà đã thỏa thuận với nhau là không bao giờ cãi vã với con cái nơi bàn ăn của gia đình, và chắc chắn là không trước con người lạ mặt tên là Peter này.
Đôi mắt của bà bắt gặp mắt ông ngang qua bàn ăn và ông hiểu tiếng gọi câm lặng của bà. Ông nói với giọng cố ý làm ra vẻ vui vẻ:
- Các đài khí tượng báo trước sẽ có một mùa Giáng Sinh đầy tuyết phủ. Ba mong họ nói đúng, vì con cái nhà này sẽ được vui đùa thỏa thích trong tuyết.
Edwin luôn sẵn sàng tiếp trợ mỗi khi câu chuyện bắt buộc phải đổi chiều, anh ta thêm:
- Con phải lôi các xe trượt tuyết trong khu ra mới được.
Bà Elinor tán đồng:
- Hay đấy, đã lâu lắm rồi chúng ta không dùng đến nó. Một là Giáng Sinh màu trắng sẽ là điều mới lạ cho đám trẻ. Đã hai mươi năm rồi, chúng nó còn bé quá làm sao nhớ được. Em không tin chính bé Billy có thể nhớ về quá khứ lâu đến thế. Anh nghĩ sao William?
- Nhất định là không rồi. - Ông đáp. Và xuyên những lời nói tung ra một cách can trường, ông lại nghĩ đến ngày mai, tên Peter kỳ quặc sẽ lên đường. Tên họ anh ta là gì đấy, ông quên tiệt. Thật ra cũng chẳng có gì quan trọng. Một khi anh ta đi rồi, ông sẽ nghiêm chỉnh bảo Susan để con chó ở ngoài, đúng chỗ của nó.
* * * * *
Peter ra đi sớm, đầu tóc bờm xờm, anh nhảy lên chiếc xe cũ kỹ đến nỗi ông William tin chắc ngoài vùng Ozark không có chiếc nào giống như vậy. Ông nghĩ dưới áo choàng nhàu nhò và bộ đồ vét mặc chiều qua, Peter phải giữ bộ Py-ja-ma trong người. Ông quan sát tất cả từ cửa sổ phòng ông. Ông bị đánh thức bởi những tiếng khua động, nhưng ông giữ ý không chường mặt ra cho đến khi tiếng lạ hết còn nghe thấy trong nhà. Khi Peter bật công tắc chiếc xe hơi, một thứ tiếng rùng rợn vang lên, tiếng hổn hển của đầu máy, một luồng khói phụt ra, làm cho Susan vội vã ra khỏi nhà, mặc vỏn vẹn chiếc áo ngủ bằng nỉ màu rực rỡ. Dáng người nhỏ bé, bận áo khoác màu đò, mái tóc nâu dài xõa vung vãi trên lưng, dài lạ lùng, dù cô bé chỉ mới dưỡng tóc từ mùa hè năm ngoái. Ông William nhắm mắt lại, sợ phải nhìn thấy con gái yêu quý của mình ôm hôn anh chàng đực rựa đang ngồi nơi tay lái, tóc tai bờm xờm và rất đáng tởm. Nhưng ông lại vội vàng mở mắt ra, hy vọng không có như vậy. Quả thật, Peter chỉ vươn lên một cánh tay dài, ống tay áo Py-ja-ma lồi ra dưới tay áo choàng. Anh ta ôm xiết Susan vào người, đến nỗi che mất hai vai cô gái, song không có hôn nhau.
- Tạ ơn Chúa. - Ông William lẩm bẩm. Rồi ông đi nằm lại, ngủ thêm một giờ nữa.
Không bao lâu sau đó, ông lại khám phá ra một điều không thể chấp nhận. Chiều hôm trước, khi sắp lên lầu, ông đã chỉ thị cho Herbert, hễ Peter ra đi hồi nào thì đem con chó ra ngoài hồi nấy. Herbert đã sẵn sàng vâng lời. Nhưng nay con chó lại nằm ngủ trên mặt thảm phòng khách trước lò sưởi. Herbert đi vào, bước đi quả quyết, nắm sợi dây xích con chó, anh ta là người có súc mạnh tàn bạo, và con chó bị xách bổng lên, gần chết ngạt. Nó tru tréo trong cuống họng. Herbert bỏ chân qua hai bên hông nó như cưỡi ngựa, và vừa bước đi vừa lôi nó theo. Một phút sau, Pirate bị tống ra khỏi cửa, đẩy vào cái giá lạnh bên ngoài, và cánh cửa được khóa lại. Nó sủa lên lồng lộn, tông cả mình vào cánh cửa. Ông William nghe tiếng đập phá, tiếng tru tréo của một con thú rừng tiếp theo là tiếng nó cào cấu cánh cửa lớn, nghe thật kinh khiếp. Cánh cửa chính là niềm hãnh diện của tòa nhà, nó thật cổ xưa, mà theo truyền thuyết, nó được làm ra từ một cây sồi cổ thụ trên sườn núi, đã trải qua bao nhiêu thế kỷ từ khi gia đình Winsten đến định cư tại vùng Vermont này. Ông William vọt xuống khỏi giường, choàng vội cái áo ngủ bằng nỉ và gặp bà Elinor cùng cô Susan trên cầu thang. Herbert và Jessica gặp nhau nơi phòng để đồ nhà ăn, và bà Bertha từ nhà bên chạy lên thở hổn hển. Ông William hối hả mở cửa và con chó tuôn chạy vào nhà.
Ông William la to:
- Không thể nào tiếp tục như thế được, tuyệt đối không.
Ông quay về phía Susan, hai mắt lộ vẻ tức giận, đến độ lần đầu tiên ông nhận thấy con gái sợ ông. Nhân cơ hội cô ta sợ hãi bất thần ông nói:
- Ta không muốn con vật này trong nhà ta, hãy đem nó đi đâu thì đi. - Ông la to đến nỗi ông cũng cảm thấy bỡ ngỡ về mình.
Susan chạy đến phòng khách phía Đông. Con chó lại nằm ngủ trên tấm thảm, thân xác to lớn của nó nằm mọp xuống sàn nhà bất động, cố chấp, đầu tựa lên hai chân to lớn, với thái độ phục tùng, nhưng cặp mắt nó thì u uẩn ném về mọi người cái lườm nảy lửa.
- Pirate! - Susan quỳ gối bên nó - Pirate!
Con chó ngó lên, nhăn răng gầm gừ. Bà Elinor la lên:
- Susan, lại đây, nguy hiểm đấy. Làm sao bây giờ? Còn nửa giờ nữa các trẻ sẽ về tới nơi.
Đúng vậy, tàu lửa sẽ đến trước chín giờ, mà nay đã gần tám giờ rưỡi.
Ông William cương quyết nói:
- Ta sẽ cho nó đi thôi.
Susan bực mình to tiếng lại:
- Con không muốn người ta giết nó. Nó chỉ bị la mà thôi, nó biết Peter đã bỏ nó. Nó sợ con, vì nó cảm thấy bất thường, và vì không thấy Peter. Nó luôn thấy con và Peter ở chung.
Ông William lặp lại, không nhượng bộ:
- Con chó không được ở đây!
Nhưng trái tim ông nhũn ra, khi ông nhìn thấy đôi mắt nâu của con gái ông ngấn lệ.
- Ôi, trời ơi là trời! - Bà Elinor than thở.
Nhưng Jessica đã làm cho mọi người bỡ ngỡ. Cô ta luôn là người nhát gan, đang đúng giữa Herbert và Bertha, lại bước lên và dõng dạc nói:
- Tôi sẽ bắt con chó, đem nó về nhà, mẹ tôi sẽ tự xoay xở công việc ở đây.
Cô ngơ ngác nhìn hết gương mặt này đến gương mặt khác và dừng lại nơi ông William.
- Thưa ông, con xin ông, bỗng dưng con thấy khó chịu trong người. Ban đầu Herbert không muốn để con đi, anh ta bảo con sẽ bị xây xẩm, và ít nhiều cũng có như thế thật. Với một con chó hộ thân, sẽ có lợi cho con nhiều. Nhà con hiu quạnh quá, con luôn sợ hãi. Con nghĩ con chó sẽ quen dần với con, khi chỉ còn một mình con với nó.
Phải chăng đó là một cách giải quyết, khi đã đến giờ tàu tới. Họ nhìn nhau lưỡng lự. Herbert lặng lẽ. Bà Elinor quay về phía bà Bertha.
- Một mình chị có chắc làm nổi không?
Bà thấy ý Jessica muốn ra đi tức thời, nhưng tại sao lại thế, vì Jessica đã nài xin trở lại đây kia mà.
- Herbert sẽ giúp tôi. - Bà Bertha đáp.
- Được rồi, ngày mai ăn sáng xong, tất cả có thể về nhà.
- Phải, chắc là vậy. - Bà Bertha nói.
Như thế là đã giải quyết xong. Herbert xông vào con chó. Anh ta kẹp nó vào hai ông chân chặn cổ nó hết sức mạnh, đến nỗi nó không quay đầu lại được, nó thở hết nổi, cổ bị chặn chỉ còn nghe tiếng khò khè. Herbert lấy gân hai đầu gối kẹp con chó lôi đi.
Ông William mở cửa chính ra và tất cả đứng nhìn Herbert chộp lấy con chó, giành phần chủ động một cách mạnh bạo, đưa nó đến chiếc xe hơi hiệu Panhard, xe riêng của anh ta. Anh ta dùng một tay để mở cửa xe, nên con chó được lơi lỏng, gầm gừ và quay đầu lại vừa đủ để ngoạm vào cánh tay của anh ta. Anh đá phốc một cú vào bụng con vật, dùng hai tay và đầu gối giở nó lên cao, ném nó vào trong xe, khóa cửa lại. Anh ta kêu lên:
- Tôi không vào trong nhà được, vì cánh tay đang bị chảy máu.
Bà Elinor cũng la lên:
- Đi mời bác sĩ!
Ông William đưa ra ý kiến:
- Lam sao Jessica lái được xe với con thú ấy?
- Cô ta được an toàn khi ngồi ở băng trước. Đã có tấm kính dày chắn ngang ở giữa. Không cần đi thầy thuốc. Chó không mắc chứng dại, nó chỉ cắn bậy đó thôi.
Tất cả vào nhà và từ cửa sổ ông William quan sát con chó. Nó tông vào cửa kính, sủa loạn lên, kêu la và tru tréo thật dữ. Mấy phút sau đó, Jessica theo cửa sau ra ngoài, mình gọn ghẽ trong chiếc áo xanh lơ, rất hợp với thân hình mảnh dẻ của cô, một chiếc nón cùng màu ôm sát đầu và như bao giờ, giữ dáng vẻ dị biệt, vượt khỏi địa vị của cô. Không thèm ngó con chó, cô leo lên xe, đóng cửa và lái đi.
Mọi chuyện đã qua. Gia đình đã trở lại trạng thái bình thường với cảnh an bình trong ngày Chúa Giáng Sinh. Ông William lên lầu đi tắm, thay đồ và trở xuống một cách khá bình thản. Bà Elinor và Susan đang đợi ông trong phòng ăn. Ông hỏi:
- Edwin đâu?
Ông đứng sau lưng Elinor, kéo ghế cho bà như thói quen từng làm, đến độ vô ý thức.
- Anh có nghĩ là nó còn ngủ chăng? - Bà Elinor hỏi.
- Anh khoái được như vậy, anh thèm được như nó. Khởi sự đêm canh thức Noel như thế là tuyệt!
Ông thỏa mãn khi nhận thấy vẻ tùng phục của Susan. Cô ta mặc kiểu áo dành cho buổi sáng bằng nỉ màu hồng.
Ông không chấp nhận việc mặc đồ ngủ ngồi vào bàn điểm tâm, song ông không nói tới, cô ta đã biết rồi. Cô uống nước cam vắtNgôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biên thành phố Manchester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngay người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh.
Ngôi nhà của dòng họ Winter rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng tây. Nhờ mỏ vàng và thiết lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà.
Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thơi gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia. Ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, ba Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó.
Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thương tiếc rẻ vì trong mùa he chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manchester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay.
Ngôi nhà lớn không hề đổi thay hình thức. Bên ngoài vẫn màu trắng với những cửa lá sách màu xanh lá cây. Vách gạch đã ghép ván bên ngoài làm cho các khuôn cửa sổ tăng thêm chiều sâu. Nhà mở rộng theo chiều dài, chẳng kể gì cân đối hay không. Một bên có hai cánh, bên kia có ba, hơi thụt về sau một chút đối với căn nhà chính. Nhà có ba tầng lầu, mặt tiền bằng phẳng có vẻ khắc khổ, chỉ trừ cửa chính bằng gỗ có chạm trổ.
Con đường dài trồng cây du đưa đến thảm cỏ xanh ở trước nhà. Các cây đã quá già cỗi, mỗi năm ông William phải kiểm tra lại, chống đỡ thêm, phòng khi ngọn gió Đông từ núi thổi xuống. Ông tổ Adam đã trồng các cây này cách khoảng nhau rất xa, để cho con đường có vẻ rộng thênh thang và bước vào người ta có cảm giác mênh mông bát ngát. Cái cảm giác này tồn tại khi người ta mở cửa chính ra. Một gian đại sảnh chạy dài ở chính giữa ngôi nhà, sâu bên trong cánh của lớn lồng kính, người ta có thể nhìn thấy trọn cảnh khu vườn có tường bao bọc chung quanh. Hai cánh cầu thang chụm lại bên trên và mỗi bên có một phòng khách, thường vẫn gọi là phòng khách Đông, phòng khách Tây.
Đồ đạc trong nhà còn đẹp, tạo thành một vẻ hài hòa ưa nhìn, những món mà gia đình đã mua sắm, mỗi khi một ít, bất chấp kiểu dáng, tùy sở thích cá nhân. Bà Elinor cảm thấy các gian nhà quá vướng vít vì đồ đạc, bà mời các anh chị chọn lấy cái nào thích thì mang về, để làm kỷ niệm những ngày thơ ấu chung sống. Dòng họ Winsten giữ lại những vật gì dính dấp với cái nhà xưa, như ghế bành và trường kỷ bọc nhung ánh vàng, những khuôn kính cao theo kiểu Pháp cẩn ở các cửa sổ mặt tiền. Lấy các vật đó mang đi, các anh chị cầm bằng nhổ các cây sơn mai già, các cây hoa xoan và các cây du cổ thụ.
Hai mươi lăm năm về trước, vào một buổi chiều xuân, khi chàng rể William bước chân vào nhà, chàng cảm thấy thật là thân mật. Chàng đã thường đến đây vào mùa hè để gặp lại các bạn hữu và cũng chính là mấy người anh của Elinor, và mỗi năm tình yêu của chàng mỗi tăng. Cuối cùng, chàng cũng làm thân được với vợ chồng Bertha và Heinrich, người giúp việc trong nhà, và sai bảo họ một cách tự nhiên. Chàng cảm thấy khó gần gũi với cô bé Jessica, đứa con đẻ muộn của họ. Sự ra đời của con bé có vẻ buồn cười, nếu ta nhìn lại đôi vợ chồng chậm chạp vụng về và luống tuổi này. Cô bé đã chào đời sau hôn lễ của gia chủ một năm.
Bà chủ đã cười ngất khi cho phép Bertha đặt tên cho con gái mình là Jessica, giống tên của mẹ là bà Winsten. Vợ chồng Bertha và Heinrich có vẻ thẹn vì có con muộn, và em bé lớn lên trong nhà bếp, bên lề ngôi nhà lớn. Ông William xem ra không lý gì đến cuộc đời của con bé, trừ khi ông thấy nó và tự hỏi tương lai của nó sẽ ra sao. Cô bé mảnh khảnh, đôi mắt có màu xanh loang loáng, mái tóc mềm mại với màu vàng kim truyền thống, khó mà tin rằng cô là con của vợ chồng người giúp việc.
Nhiều năm về trước, một lần khi ông William về nhà mở cửa phòng khách phía Đông, thấy Jessica ở đó, bây giờ nó mới lên bảy, ngồi trên một ghế bành bọc nhung, giẻ lau cầm tay, vì bà Bertha đã bắt đầu gọi con đi theo giúp mình. Nhưng Jessica không lau phủi gì cả, nó ngồi chễm chệ trên ghế, đôi mắt sáng ngồi, ngó nhìn lơ lửng, một nụ cười mỉm duyên dáng nâng cao hai khóe miệng. Cô bé múa may bàn tay xinh xắn, mũm mĩm, trắng ngần, một bàn tay không mấy có liên hệ với bàn tay của một mụ bồi phòng.
Khi ông William nhìn nó ngạc nhiên, nó bối rối kêu lên, rồi bình tĩnh trở lại.
- Ôi, thưa ông Asher, con không nghe tiếng ông đi vào. - Nó lúng túng trong miệng, nhảy vọt khỏi chiếc ghế và trốn chạy về phía nhà bên.
Ông gọi nó bảo không có sao, nó chỉ là một đứa bé, dù ông có tính không thích trẻ con, ông cũng không nỡ làm cho một cô bé xinh đẹp như thế sợ hãi, nhưng cô bé không dám trở lại. Tuần sau Bertha gởi con vào một tu viện ở Canada, thưa với bà Elinor rằng các dì phước người Anh có thể nghiêm hơn các dì người Pháp.
Với một chút áy náy lương tâm, bà Elinor phân tích cho chồng nghe:
- Nó còn bé quá mà gởi nó đi tận đâu đâu.
- Đứng vậy, nó còn bé quá! - Chồng bà trả lời.
Nhưng không có gì làm nao núng Bertha, và bắt bà ta đổi ý được, nên vợ chồng ông chủ phải để Jessica ra đi. Vào mùa hè, thỉnh thoảng cô bé trở về nhà, song bà Bertha nhận thấy không chịu nổi con bé, nên khi ông Heinrich, chồng bà nhắm mắt, lúc Jessica lên mười, bà bắt con phải ở lại trong tu viện suốt mấy tháng hè. Cô bé chỉ được ra khỏi đó khi đến tuổi làm việc được, lãnh vai bồi phòng ở nơi nhà lớn. Từ đó, ông bà chủ thường xem cô bé như thế. Cô ta không có được tính nghiêm trang như Bertha, nên bà Elinor thấy rằng cô phải lấy chồng. Cũng trong sớm mai ấy, bà Elinor có nhận xét: “Lấy ai? Nếu không phải là Herbert”, tài xế và hầu bàn, vào làm việc đã bảy năm, để thay thế cho Heinrich, sau khi một số người đã được gọi tới mà thiếu khả năng. Herbert từ giây phút đầu đã mê tít Jessica. Anh ta cố ở lại trong ngôi nhà cũ cũng vì yêu cô, mặc dù bị cô khước từ, khi thì mỉa mai, khi thì cộc cằn. Anh ta vẫn kiên trì nài nỉ theo cái kiểu của anh.
Những khuấy động thế này ở dưới bếp, theo lời ông William nói, cũng mang đến cho vợ chồng ông cơ hội giải trí. Bà Elinor lại có tài tường thuật một cách trào phúng và linh hoạt. Khi ông William mệt mỏi từ văn phòng trở về, nghe vợ kể chuyện, ông cũng lấy làm vui. Ban đêm, khi bà lo dỗ con ngủ, ông chỉ nghe bà nói câu được câu mất. Bây giờ các con đã lớn cả rồi, Winston đã lấy vợ, Edwin và Susan thì đang học ở trường trung cấp, chỉ có hai ông bà sống một mình trong ngôi nhà lớn.
Đoàn tàu lửa chạy đong đưa giữa vùng đồi núi xứ Vermont, rồi bỗng ngừng hẳn lại sau một cái sốc mạnh khi đi vào sân ga. Ông William đã sẵn sàng để xuống, ông thu nhặt giấy tờ, nhét vào cái cặp luật sư bằng da đen, quà giáng sinh bà biếu ông năm trước. Trước tiên, bà đã mua cho ông một cái cặp màu nâu. Màu sắc có ảnh hưởng nơi tòa án, nên ông đã để lộ sự hoài nghi của mình.
Bà Elinor tức cười, bà kêu lên:
- William, thì anh trả nó lại cho em, em sẽ đổi cho anh một chiếc khác màu đen. Từ ngày về với em, anh chẳng có cái cặp nào khác, em muốn xem sự thay đổi có ảnh hưởng nơi anh như thế nào.
- Không phải ảnh hưởng nơi anh, mà nơi thân chủ của anh, họ tin vào màu sắc trang nhã.
Elinor chỉ mỉm cười, một nụ cười dịu dàng với đôi mắt ngời sáng, nhưng cách một vài ngày sau, ông William cảm thấy khoan khoái khi nhìn thấy chiếc cặp da đẹp, màu đen, có in những chữ đầu tên ông bằng kim nhũ.
Anh tài xế Herbert xin nghỉ phép ngày hôm ấy, vì vậy mà ông William trở về bằng tàu lửa. Ông thích nghiêng đầu ra ngoài toa xe để nhìn thấy vợ ông đang chờ đón ông trên sân ga. Hôm nay bà tự lái lấy chiếc xe hơi nhỏ màu xanh sẫm mui trần của bà. Bà không bao giờ bỏ mui ra, nhưng hôm nay ngày cuối hè, các cửa kính đều hạ xuống. Bà ngồi băng trước, hút thuốc, dáng điệu nhàn nhã, duyên dáng tự nhiên. Bà là một phụ nữ trẻ trung, thon thả, và không bao giờ cắt mái tóc màu vàng hoe của mình. Tóc bà nhỏ sợi và mượt mà, dù chưa qua khỏi tuổi bốn mươi lăm, nhưng đã bắt đầu điểm sương và bà đã bới thành búi sau ót. Ông William gần như không nhìn thấy điều đó. Nếu bà không được duyên dáng như thế, với dáng mảnh khảnh đẹp đẽ như thế, người ta có thể xem bà như là một phụ nữ tầm thường, đằng này người ta tự cho là một sơ suất khi bắt gặp bà ăn mặc có vẻ cẩu thả. Ông William đã quen nhịn khi nhìn thấy cái cổ áo lụa của bà không cài nút, có ý để người ta đoán lấy bộ ngực đặc biệt trẻ trung của bà. Ông biết ông có nói ra cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ làm cho bà mỉm cười, hoặc sẽ nhún vai một cái thôi. Mũi kim khâu có thể thu hẹp cái khuy nút quá rộng, nhưng chẳng bao giờ được thi hành, một chiếc kim băng và vô số những trang sức có kim găm mà ông đã biếu bà, cũng không bao giờ thay thế mũi kim khâu khuy áo cả.
- Herbert chưa về à? - Ông William vừa hỏi vừa bước lên xe, mắt nhìn đi nơi khác.
Bà chuồi mình theo băng ghế để nhường tay lái cho ông. Ông lái xe cẩn thận hơn bà, bình tĩnh hơn, vì trên đường có nhiều xe đến mấy cũng không làm cho ông khó chịu. Ông bà đã thỏa thuận với nhau, khi mùa hè biến Manchester thành nơi nghỉ mát, thì ông dành quyền lái xe trong buổi xế trưa. Khách sạn “Xuân - Phân” tràn ngập những khách chọn lọc, còn đoàn xe ca của hãng Cook thì cọt kẹt ngoài đường, trong khi một số du khách đổ xô đi tìm những khách sạn rẻ tiền hơn.
- Em đi một mình, vì em muốn tin cho anh biết Jessica đã chịu lấy Herbert rồi. - Bà Elinor nói.
- Thế nào được?
- Được, sau cùng... anh chị biến mất suốt cả ngày hôm nay.
Ông William lái xe sang phía tay mặt, đi qua mấy khu nhà, rẽ vào một con đường khác và chạy tiếp xuống hai dặm nữa, giữa cảnh vật xanh tươi vắng lặng, cho đến khi giáp con đường riêng của gia đình.
Ông ngạc nhiên lẩm bẩm.
- Phải qua đúng bảy năm trời!
- Em luôn luôn nghĩ rằng, kiên trì rồi Herbert cũng sẽ chiếm được con bé.
Ông William đáp lại cách hững hờ và mơ mộng:
- Anh tự hỏi, cô ta có thật hạnh phúc không?
Bao giờ lái xe lên ngôi nhà cũ trên đỉnh đồi, ông cũng cảm thấy một niềm vui luôn luôn mới mẻ. Ông cho xe chạy chậm lại. Bà Elinor nói một cách khô khan:
- Em không muốn hình dung Herbert trong tư cách là một người chồng.
Ông William mỉm cười. Bà Elinor có những nhận thức đôi khi quá tế nhị. Bà không ưa Herbert, nhưng bà cũng chẳng có gì để phiền trách anh ta. Anh ta gương mẫu, tận tụy, lương thiện, ít nói, siêng làm, âm thầm có một sức mạnh nảy lửa. Bà đâu mất nhiều thì giờ để khám phá ra rằng sức mạnh nay chỉ để chinh phục Jessica cho kỳ được mới thôi.
Ông William nhắc lại những ký ức xa xưa:
- Tính từ mùa hè này, cách đây sáu năm, em đã bảo anh là Herbert yêu Jessica, mà Jessica thì ghét anh chàng thậm tệ.
- Đúng, và anh lại bảo em, hắn nhọc công như thế cũng chẳng đến đâu. Lúc ấy em đã chỉ cho anh thấy, nếu hắn bền bỉ, hắn sẽ thắng cuộc.
William day qua nhìn nửa gương mặt vợ, ông nhận thấy bà có vẻ bí hiểm, đôi môi đẹp, mỏng và luôn mím lại, chân mày nhướng lên. Gió thổi bạt mái tóc bà ra đang sau, để lộ vầng trán. Bà có vầng trán rộng, cao và bóng láng, đẹp và thông minh. Tất cả biểu lộ ý bà muốn cho câu chuyện chấm dứt ở đây. Ông làm thinh, biết rằng khi nào bà thấy tiện thì mới nói, và không cần bắt buộc bà cũng sẽ giải thích cặn kẽ mọi chuyên.
Ông cho xe đi vào con đường nhỏ và ngừng đúng chỗ ông muốn, mở cửa xe cho bà và xuống xe.
Vào lúc đó, Herbert xuất hiện nơi cửa hông. Anh ta bước tới và cầm tay lái để cho xe vào ga-ra. Anh mặc bộ đồ xanh, khoác áo vét sọc ngày chúa nhật. Anh nói:
- Kính chào ông Asher.
- Chào Herbert. - Ông William đáp.
Ông do dự, mặc dù đã bước chân lên bậc tam cấp đầu tiên của lối vào nhà có nhiều cột. Những cột đá này do ông nội của Elinor xây thêm cách đây năm mươi năm về trước. Ông nói tiếp:
- Tôi biết đã đến lúc phải chúc mừng anh, Herbert.
Herbert không còn đỏ mặt nữa, anh giữ được màu da mặt tự nhiên, màu của những viên gạch, anh nói:
- Jessica đã nhận lời cầu hôn của cháu hôm nay rồi.
Miệng của anh ta như chắng có môi, song cặp mắt anh màu nâu lợt, lại tỏ ra là người tốt bụng. Ông William nói:
- Hay lắm, anh đã tỏ ra rất trung thành!
Herbert đáp:
- Cháu chẳng bao giờ nhìn một người đàn bà nào khác, thưa ông.
Giọng nói của anh trầm buồn và cố chấp, tương xứng với thân thể phì nộn của anh. Anh thừa hưởng tổ tiên người Hòa Lan của anh vóc dáng của một công sự chiến đấu, và những bàn tay thô tháp này.
Ông William mỉm cười bước lên bậc tam cấp, và Herbert đưa xe vào ga-ra. Bà Elinor đã ở trong nhà, bà bước lên thang lầu bằng đá cẩm thạch, với những bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như ngày xưa. Bây giờ có lẽ bà đang ở trong nhà bếp, trên lầu hay ở ngoài vườn, ông William không thấy bà đâu cả. Ông đi vào một mình trong ngôi nhà im vắng. Ông không cảm thấy thiếu vắng con cái, vì ông biết ở lứa tuổi nào đó, chúng vuột khỏi tầm tay, biến vào hầm tối của thời gian, để rồi sau đó bước ra thành những chàng thanh niên, như chính cậu Winston cũng thế. Cha cậu chuyện trò với cậu như kẻ ngang hàng, nhưng Edwin thì giữ mãi cương độ thanh xuân không tin nổi, tư tưởng của cậu rất ư là dứt khoát. Cô Susan lại trở thành một người đàn bà xa lạ đối với ông, bởi vì hình dáng cô bé ngày xưa bây giờ đâu còn nữa. Ông đã nhanh chóng chấp nhận ý kiến của bà Elinor, khi bà quả quyết con gái họ sẽ đáp ứng nguyện vọng của ông, và trong lúc chờ đợi, ông có thể vui sướng vì con gái ông quá đẹp. Ông chỉ thấy tiếc vì cô con gái không thừa hưởng nét mảnh dẻ của mẹ mà có khuynh hướng đẫy đà. Cô ta phải canh chừng đường nét thanh thoát của cô, như chính ông đã làm. Khi đến tuổi ba mươi, ông đã bê trễ về chuyện này, và bà Elinor, đã tỏ vẻ nhàm chán ông, nhờ đó ông mới biết sợ và xếp đặt lại đời sống cho có trật tự. Bao lâu ông còn sống là ông còn nhớ mãi cái cảnh đã xảy đến cho vợ chồng ông trong lúc nửa đêm ấy.
Bà Elinor đã quay đầu tránh né làm ông phải kêu lên:
- Elinor, em hết thương anh như trước sao?...
Bà đã lẩm bẩm gì đó không rõ.
Ông William đang thèm muốn bà đến tột đỉnh, vẫn cầm mình lại. Ông nâng cằm bà lên và nói:
- Xem nào, nói thật cho anh nghe đi!
Bà cảm thấy thẹn thùng, nhưng bị ông thúc ép, sau cùng bà phải thú thiệt. Đêm đó ông mới nhận thức được sự khác biệt giữa Elinor và ông, giữa người nam và người nữ. Nơi bà, sự ham muốn giống như mạch suối ánh bạc, kín đáo, len lỏi. Bên ông lại giống con sông đang vồ vập, tuôn thẳng đến đích bất chấp mọi điều. Nơi bà, một cảm giác bực bội, một cử chỉ gắt gỏng, cả những ý nghĩ che đậy, cũng có khả năng cắt đứt nguồn cảm hứng.
Các con trai thuộc dòng họ Winsten, qua một ngẫu húng nào đó của luật di truyền, đều cao lớn, tóc vàng hoe, đẹp trai quá cỡ, nhất là cậu Edwin. Cô Susan có mái tóc đen cuốn lọn. Ông yêu thương Susan một cách đặc biệt dịu dàng, kín đáo mà ông tự chữa mình bằng cách nghĩ rằng vì cô là con gái duy nhất của ông.
Ông gặp Jessica trên thềm cầu thang, cô xuất hiện với dáng đi quen thuộc, nhanh nhẹn, nhẹ nhàng. Cô đi ngang qua gian phòng rộng lớn, áo dài màu xanh nhạt bồng bềnh chung quanh người, và với cái tạp dề màu trắng có xếp li, dầy buộc ngang lưng phất phơ trông có vẻ trẻ trung hơn cái tuổi hai mươi bốn của cô rất nhiều.
- Jessica, cô đừng vội vã quá thế - Ông nói - Ngày nào đó cô sẽ làm gãy đổ cả cầu thang đấy.
- Thưa ông Asher, nếu điều đó có xảy ra, cháu cũng chẳng quan tâm.
Cô ta ôm một mớ đồ vải trước ngực, tay cắp đầy khăn ăn vừa mới ủi xong, mùi thơm phảng phất quanh người cô. Người cô sạch bóng, với những bím tóc màu vắng hoe cuốn trên đầu, còn những lọn nhỏ, ướt mồ hôi thì bao quanh mặt.
Ông William cằn nhằn:
- Bao giờ cũng vội vã, chỉ nhìn cô là tôi đã thấy mệt rồi. Qua bao nhiêu năm như thế này, rồi cuối cùng cô cũng lấy Herbert.
Jessica bỗng cười toáng lên:
- Ô hô, anh chàng ấy, trước sau gì cháu cũng bỏ. Mẹ cháu chịu trách nhiệm, bà ấy bảo là đến lúc lấy chồng rồi. Anh chàng này hay anh chàng khác thì cũng thế thôi.
Đã là một thiếu nữ nhưng Jessica vẫn còn rất trẻ con. Có lúc chỉ nhìn thấy cô ta thôi, cũng tự nhiên nổi máu lên muốn chọc ghẹo. Cô bận những áo dài màu xanh nhạt, màu hồng đào, hay xanh lá cây, thêm vào đó những cái tạp dề nhỏ bé có xếp li và những chiếc mũ vải cô chít trên đầu, trông cô như đang đóng vai một nữ tì trên sân khâu.
Ông chủ lại lấy vẻ nghiêm nghị chưa từng thấy, ông nói:
- Tôi chẳng thấy làm thế nào gạt bỏ một người đàn ông ra khỏi đời mình lại bằng cách lấy chính anh ta làm chồng được?
Cô ta đáp:
- Ít ra anh ta thôi không van nài cháu nữa.
Giọng nói của cô rất trong trẻo, hoàn hảo, kết quả những năm cô sống trong dòng tu. Bà Bertha còn giữ giọng nói trong họng của người Đức, còn Heinrich không bao giờ nói tiếng Anh rành rọt. Ngược lại, con gái họ có những nhấn giọng ngọt ngào, biết nhận thức đứng đắn trong khi chọn từ để nói. Một hôm ông lưu ý bà Elinor về việc Jessica, từ khi rời khỏi tu viện thì nói tiếng Anh như một thiên thần. Bà vặn lại:
- Vậy các thiên thần nói tiếng Anh sao?
- Nói nhiều thứ tiếng, trong đó tiếng Anh là đẹp hơn cả. - Ông đáp. Ông thích tiếng Anh nói trôi chảy và thường tỏ ra đòi hỏi cao trong văn chương. Ông thường tự bảo, nếu có thời giờ thì ông có thể trở thành văn sĩ.
Ông lại nói với Jessica, khi cô đang đứng lại, hai tay đầy những đồ vải thơm phức.
- Sau cùng, tôi nghĩ là cô ý thức được chuyện cô làm. Những người trẻ tuổi xem ra tự tin lắm.
Ông đi vào phòng, tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng như thường lệ để ông đi tắm, và Jessica mang ra ngoài áo xống ông đã mặc buổi chiều, cô cũng lo liệu cho bà Elinor như vậy, và họ sẽ thiếu Jessica nếu cô không tiếp tục việc làm đó nữa. Nhưng chắc chắn điều ấy không vừa lòng Herbert, vì anh ta mong chóng đến ngày thành hôn để được tăng lương.
Ông William xua đuổi ra khỏi tâm trí hình ảnh cuộc hôn nhân của Herbert và Jessica. Bao nhiêu hình ảnh kế tiếp nhau lẻn vào tâm trí ông, tựa như quay lại một cuốn phim bí mật, thân xác một con vật ục ịch ôm quấn lấy nàng Jessica trắng ngần và tinh tế. Ông tự cho mình là một con người văn minh tiến bộ, và những trò phiêu lưu của đầu óc con người làm cho ông cảm thấy nặng lòng. Ông không muốn nghĩ đến hình ảnh của Herbert Morris, nó chỉ gợi lên cho ông một sự nhờm tởm, khác với hình ảnh thường ngày của anh ta, chững chạc và đường hoàng, mặc đồng phục tài xế hay người hầu bàn. Trong những gì liên quan đến ông, ông chỉ quan niệm về anh ta như thế, đâu có cần ông lo lắng về nước da trắng ngần và cách đối xử tế nhị của cô hầu phòng Jessica. Ông tự cho mình có tâm hồn thanh khiết trong chọn lọc và thưởng thức, vì vậy, nếu trí khôn ông cợt đùa ông như thế, dựng lên hình ảnh một con vật trong vô thức của ông, thì đối với những người khác ít kềm chế hơn ông, thì thế nào?...
Điều này không đáng ông để tâm, ông xua đuổi khỏi đầu óc những trò phiêu lưu tình cảm này, và bắt trí khôn chăm chú vào những vấn đề minh bạch và không lệ thuộc vật chất. Hiện ông đang bị thu hút vào một ca lý thú liên quan đến hai nhà phát minh. Không quen biết nhau, không quan hệ với nhau, nhưng trong cùng thời gian, cả hai đã phát minh được cách làm tốt hơn giống hệt nhau, để áp dụng vào máy giặt và sấy. Ai trong hai người đã có ý hướng đầu tiên, ai đã khéo léo đủ để được nhận bằng phát minh trước người kia. Đắm chìm vào những suy tư lành mạnh này, ông tắm gội xong và xuống ăn tối với tâm hồn bình yên và thoải mái. Herbert và Jessica dưới con mắt ông trở lại nguyên hình là những người tôi tớ.
Nhưng ông bị một cú sốc nặng, ông đang đi xuống trên những bậc thang trải thảm, bước chân ông không gây tiếng động, ông chợt thấy Jessica trong phòng khách phía Đông. Chắc là cô ta lợi dụng thời gian rảnh rỗi trước bữa ăn. Cô đang ngồi trên một chiếc ghế bành bọc nhung mà cô đã xê dịch lại đối diện với cái gương soi lớn, treo giữa hai cửa sổ. Cái tạp dề và mũ chít đầu đã bỏ ra, mái tóc buông xõa tạo nên một áng mây vàng óng ánh quanh gương mặt, cô phát âm khá rõ ràng bằng giọng dịu dàng như mật rót vào tai. Ông William đứng sững nơi bậc thang, hơi có vẻ bực mình, nhớ lại cũng một màn, mấy năm về trước, đã làm cho bà Bertha nhất quyết gởi cô ta vào dòng tu. Nhưng lần này nghiêm trọng hơn nhiều: Jessica đang thốt ra những lời tình tự với một nhân vật vô hình. Cô ta nói:
- Anh yêu quý của em, anh chẳng thấy là anh yêu em sao? Tất cả những gì em làm là làm cho anh. Nhà này, vườn này, em đây, nếu chẳng vì anh thì em có còn quan tâm đến nữa không? Em có thể sang nước Anh, sang Pháp, sang Ý, thì em ở lại đây làm gì, nếu không phải là để gần gũi anh?
Jessica mỉm cười với ai đó một cách ngọt ngào, hất mái tóc ra đàng sau và đưa hai cánh tay về đàng trước.
Ông William lấy làm quái gở, tức giận, ông mừng thầm, may mà bà Elinor không có mặt ở đấy. Ông cương quyết bước vào và Jessica tỏ vẻ sợ hãi.
- Trời ơi, thế ra là ngài! - Cô hốt hoảng kêu lên.
Mặt cô ta biến sắc, trở nên tái mét, cô chộp chiếc mũ và cái tạp dề, mang và đội vào một cách vội vã, hai tay run bắn lên. Ông hỏi cô một cách duyên dáng:
- Cô tưởng tượng là cô đang ở trên sân khấu và đang đóng kịch đấy à?
Cô ta ngó ông không hiểu, và thỏ thẻ:
- Em van ông, đừng nói cho ai biết.
- Vậy là cô mặc cảm mình có lỗi?
Cô ta lại nói:
- Em van ông.
Ông William nghiêm khắc nói:
- Thật là ngớ ngẩn!
Jessica lại nhìn ông một cách sợ hãi, khó hiểu, và băng mình về phía nhà bếp. Ông chần chờ giây lát, mày nhíu lại, miệng có vẻ nghiêm khắc, rồi ông quyết định bỏ qua. Điều Jessica nói trước tấm gương soi nghe ra quá buồn cười, thì nói lại với bà Elinor làm chi.
° ° °
Ở nhà bếp, anh Herbert và bà Bertha nhìn Jessica tuôn vào như một con lốc, mũ và tạp dề xốc xếch.
Herbert có ý tốt, thử chọc Jessica:
- Tưởng có ai đuổi theo cô đằng sau lưng chứ?
- Tôi chạy xuống cầu thang quá nhanh. - Cô đáp. Rồi cô cô giữ để điều hòa hơi thở trở lại.
Bà Bertha nói:
- Nó luôn luôn chạy, tại sao thế? Khéo làm ngược đời!
Nhưng bầu không khí quả là tốt lành. Jessica cảm thấy ngày hôm đó không có ai phiền trách cô. Cô quay lưng lại và đặt mấy cái tô đựng canh lên chiếc mâm bạc.
Đời cô là một cuộc đời riêng biệt xa cách cuộc đời của những người còn lại trong nhà, một cuộc đời trong một cuộc đời, chỉ liên kết nhau trong vấn đề phục vụ, không có quan hệ nào về mặt tinh thần. Mặc một chiếc áo dài vải xám, bà Bertha to lớn dềnh dàng, biết xét đoán, gương mặt cả quyết, ngồi nơi bàn nhà bếp, cắt những lát thịt quay ra cho Herbert. Jessica vẫn đứng, các dĩa ăn vất bừa bãi trên các mặt bàn trừ trên bàn chính giữa hình bầu dục, đã dọn sẵn phần ăn với những mảnh cói đan và những dao nĩa cán màu đỏ của nhà bếp. Herbert ngồi ở đầu bàn, chỗ Heinrich ngồi khi còn sống. Sáu năm về trước, ngày bà Bertha mời cậu Herbert ngồi vào đó, thì anh ta đã hiểu bà là đồng minh của anh. Bảy năm dài đã qua trước khi anh thuyết phục được Jessica chịu lấy anh làm chồng. Nhìn lại đằng sau, Herbert có cảm nghĩ, giá như ông Heinrich còn sống đến nay, chắc anh còn phải đeo đuổi Jessica lâu hơn, và chưa chắc cô ta đã chịu. Cha của cô luôn bênh vực cô.
- Mời cô bé ngồi xuống. - Herbert nói với giọng kẻ cả.
Jessica ngồi xuống và bắt đầu ăn một cách nhỏ nhẹ những gì mẹ cô chất quá lố trên dĩa riêng của cô. Mẹ cô không bao giờ hiểu được rằng, thấy một số thức ăn nhiều như vậy sẽ làm cho con gái bà ăn mất ngon, và từ lâu Jessica đã không buồn cự nự mẹ về điều đó nữa.
Bà Bertha lại nói:
- Bà chủ Elinor đã bảo tôi lấy một chai sâm banh uống để cầu phúc.
Bà đứng lên một cách nặng nề, và núng na núng nính đi đến lấy chai rượu sâm banh đang ướp trong tủ lạnh.
Herbert đưa mu bàn tay lên chùi mồm và nói:
- Ồ! Một ý kiến hay. Uống bia rồi thì sâm banh là nhất! Một ly bia ướp lạnh luôn luôn hợp với gu của tôi.
Nói thế không có nghĩa là tôi chống lại việc uống sâm banh.
Bà Bertha nói:
- Jessica, con ăn đi. Hôm nay là ngày trọng đại cho mẹ già của con đấy!
Jessica ngước mắt lên, phân vân, rúng động, cảm thấy quá bé nhỏ trước hai gương mặt đang quan sát mình, mỗi cái có một ham hố riêng và đáng sợ, đến độ cô coi mình như một con chuột nhắt giữa hai con mèo to đang tỏ vẻ khoan dung. Cô mỉm cười, bằng một nụ cười nhanh nhẩu và rạng rỡ, vũ khí tự vệ của cô.
- Vâng, con ăn đây. - Cô kêu lên với giọng nói dịu dàng của cô, và tiếp tục mỉm cười khi mẹ cô rót rượu óng ánh ra những chiếc ly dùng cho nhà bếp.
Họ nâng ly thật cao, theo cung cách của dân Đức, Herbert luống cuống khó theo được với tình cảm chân chất của bà Bertha.
- Mẹ uống mừng cho hai con, hãy hạnh phúc bên nhau và sớm có cháu cho mẹ bồng. Herbert, con hãy tử tế với con gái của mẹ, và con, Jessica, con hãy làm một người vợ tốt, như mẹ đã dạy bảo.
Cả ba đều uống: Bertha uống một cách long trọng và chậm rãi, Herbert ực từng búng to, còn Jessica thì nhấp tùng ngụm nhỏ và nhanh.
Bà Bertha đặt ly xuống và nói:
- Mẹ nhớ đến cha của con. Ước gì có cha con hôm nay, ông hạnh phúc biết chừng nào!
- Xin mẹ đừng nhắc đến cha con...! - Jessica kêu lên.
- Phải, phải, con có lý, hôm nay đùng nói đến chuyện gì buồn. Bây giờ con hãy ăn đi! Con của mẹ.
Bà cầm con dao lên và cắt từng miếng thịt vuông, lớn, trong dĩa mình và mạnh dạn ăn bữa tối.
Herbert đã ăn là không nói. Anh ta đã được giáo dục trong một nông trại, nơi mà người ta không nghĩ đến việc nói chuyện trong khi ăn. Anh ta bốc mạnh chiếc nĩa lên, cầm nó đứng thắng trong tay mặt, còn tay trái thì dùng dao mà cưa khúc thịt bò của mình. Jessica đã chỉ cho anh ta là cầm nĩa như vậy không đúng cách. Thật ra thì anh chàng làm gì có cơ hội học biết những điều đó như cô. Cô đã hầu bàn và thấy rõ những người lịch sự ăn uống làm sao.
Ông Asher sử dụng những đồ đạc trong nhà một cách khéo léo, nên khi ngồi ăn, ông không làm gì khó coi cả. Từ bé, Jessica đã luôn luôn quý mến ông. Cuộc hôn nhân của ông với cô Elinor vốn là một huyền thoại, như trong truyện thần tiên. Một chàng thanh niên trẻ đẹp, da ngăm ngăm, phong cách trác tuyệt, giọng nói truyền cảm, không có gì bất nhã. Jessica ngó vào dĩa của mình, chọn những miếng nhỏ nhất, ăn không nhìn mẹ và Herbert, vì chỉ nhìn hai người ăn là cô đã chán ăn rồi. Cô đã đến tuổi hai mươi tư mà chẳng có ma nào xin cưới cả, vì chẳng bao giờ cô cho phép làm như vậy; cô mơ tưởng đến ai bây giờ: một chàng trai làm nghề đồ tể, một tay bán đồ gia vị, một tên chạy hàng? Dễ có đến sáu năm rồi, cô thường lẩn tránh Herbert, nhưng anh ta đeo cô như đỉa đói. Luôn luôn anh hiện diện để lặp đi lặp lại vào tai cô chỉ mỗi một điều, đương khi mẹ cô kiên trì nhắc nhở, bảo cô phải lấy chồng, như vậy tại sao không ưng Herbert cho xong. Anh ta cũng là một con người lương thiện và tốt bụng? Vợ chồng họ sẽ dọn về ở nông trại, nơi có trại nuôi gà. Nơi đó sẽ là chỗ cư trú cho cả ba, tính cả bà Bertha, khi bà đã hết tuổi làm việc.
- Jessica, con đừng làm bộ làm tịch nữa, ăn uống thoải mái đi.
Đột nhiên, cô hết muốn ăn. Khi còn là một con bé tí tẹo, xanh mét, mẹ cô thường tọng đồ ăn vào miệng cô, và cố cầm đồ ăn lại trong đó bằng bàn tay to tướng của bà, ngăn không cho cô nhổ ra. Một hôm nọ, cô đã cắn vào tay mẹ và bà đã vả một cái thật mạnh vào mồm cô đến nỗi chảy máu môi và ê ẩm cả răng, nhiều ngày sau mới hết. Dầu vậy, mẹ cô cũng đã quá yêu thương cô, nên nếu cô không thương yêu bà là điều xấu xa.
Herbert đưa cái nĩa đã ghim một miếng thịt lớn lên cao và nói:
- Cô hãy ăn nhiều thịt vào để che lấp xương xẩu của cô đi, sau đó cô sẽ khỏe khoắn hơn.
- Thế này tôi đã mãn nguyện rồi.
Có tiếng chuông ở phòng ăn nhà trên reo vang. Jessica đứng dậy, phóng nhanh ra cửa vừa kêu lên:
- Họ đã đến rồi!
Bà Bertha bồi thêm:
- Có chồng rồi nó sẽ khôn ra.
Herbert đáp:
- Đúng như vậy, thưa mẹ.
Bà lại bảo:
- Cha nó thuộc loại người thiếu đầu óc, không bền chí, quá tỉ mỉ, dễ xúc động. Cưới nhau xong, mẹ phải thu xếp sắp đặt mọi việc cho ông ta đấy. Mẹ đã hành động như mẹ đã làm với Jessica, từ khi nó ở tu viện trở về. Nó nghe mẹ thì rồi nó cũng sẽ nghe con thôi, để rồi xem.
Herbert nói:
- Dù gì đi nữa, thì con cũng sẽ cư xử tốt với em con.
- Đúng vậy. Mẹ tốt với nó, cũng như con, tại sao lại không nhỉ, mẹ chỉ có một mình nó?
° ° °
Mùa thu là mùa William thích nhất. Mùa xuân không được như vậy. Tuy nhiên, chính chàng đã si mê Elinor trong mùa xuân, và chàng không mấy tin là mùa xuân đã ảnh hưởng đến việc chàng bị nàng thu hút mạnh mẽ đến thế. William đã hai mươi tuổi, và cho đến lúc đó, chàng chưa hề có ý nghĩ về một mối tình có thể hình thành giữa hai người. Mùa hè trước đây, chàng mơ hồ mình phải lòng một thiếu nữ hoàn toàn khác với Elinor, tên là Marion Hayworth, láng giềng của Elinor, ở gần nhà họ, tại Manchester. Mỗi lần gặp lại cô ta, dù bây giờ đi nữa, William vẫn cảm nhận sắc đẹp của cô, song chàng không lấy đó làm quan trọng. Chàng chỉ ngạc nhiên về sự xoay chuyển của cuộc đời. Marion đã tỏ ra đứng đắn với Elinor khi cú sốc ban đầu đã giảm bớt. Thật ra thì chính Marion, trong khi bắt lỗi William, đã nêu lên cho chàng biết sức mạnh của sự đam mê mới này. Bản chất nó là dứt khoát, và khi cô ta đặt chàng đối diện với những gì đã xảy ra, chàng đã nghiêng mình nói:
- Anh rất lấy làm ân hận, nhưng đó là sự thật.
Thế nhưng, chàng có ân hận bao giờ đâu. Giờ phút này, Elinor không những chỉ là vợ chàng mà còn là người yêu nhất đời của chàng, sau bao năm chung sống, chàng tự nhủ, đó là một điều họa hiếm. Chàng đã chờ đợi cho mùa hè trải qua khá lâu mới tỏ tình. Trong dịp đầu hè, vào một ngày cực kỳ mệt nhọc, nóng bức và ẩm ướt, sau khi đã chèo thuyền trên thượng nguồn con sông gần nhà, chàng đã ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, và nàng đã nhận lời ngay. Elinor không tỏ vẻ ngạc nhiên như chàng đã tưởng, nàng đã trả lời một cách bình thản.
- Em đang chờ đợi, Marion nói cho em biết những gì anh đã nói với cô ấy.
Sự bộc trực như thế giữa hai người đàn bà, sự bộc trực mà chẳng biết rõ, vẫn làm cho chàng bực tức. Hai người đàn ông sẽ không bao giờ nói với nhau về những điều thiêng liêng như thế. Mỗi lần nghĩ đến, chàng cảm thấy mình bị xúc phạm, nhưng sự việc đã như thế rồi. Những người chơi bài Brít với Elinor đã cho chàng thấy rõ điểm đó. Mặc dầu không muốn, chàng cũng đã nghe lõm được những lời bình phẩm của bảy cô bạn tốt nhất của Elinor ở Manchester hay ở quanh vùng. Những người chồng của họ, cũng là bạn rất tốt của chàng tại câu lạc bộ trong vùng và cảm thấy phật lòng mỗi khi nghe được những lời nói hớ hênh như thế. Chàng không thể nào tin được Elinor cũng thật thà một cách ác độc như bảy người đàn bà nhẹ dạ kia, nhưng chàng đâu dám đặt câu hỏi với nàng. Chàng tiếp tục chỉ tin tưởng được vào một mình nàng trong đám phụ nữ, gần như là hoàn toàn. Chàng vẫn cảm thấy rung động vì vui sướng mỗi khi nhìn thấy chiếc đầu duyên dáng của nàng trên cần cổ khá cao thon thả, với một búi tóc ánh vàng lấp lánh trên gáy. Mỗi lần nàng đi ngang qua, chàng không thể cầm mình mà không táy máy chân tay, chàng vuốt ve mái tóc nàng, rồi men theo vòng tròn quanh chân tóc, hoặc khẽ đặt tay lên đôi nhũ hoa chắc nịch của nàng.
Mùa thu là mùa ông William vui thích nhất. Mùa này ở Vermont khởi sự từ cuối tháng tám và kéo dài cho đến khi tuyết bắt đầu rơi. Ông là loại người ưa sống ngoài tròi, nhưng không phải để săn bắn. Ông thích nhìn ngắm những ngọn đồi dợn sóng khá thấp quanh núi rừng, và những màu sắc đổi thay của cây cối. Sáng hôm ấy, đang trên lầu đi xuống, ông bắt gặp tại phòng khách một chiếc lông chim bé tí, màu xám, trên tấm đệm màu hung đỏ, và lượm lên. Đó là chiếc lông của một con chim nhỏ ở lùm cây mà gió đã đưa vào khi người ta mở cửa, có thể là khi Jessica quét nhà.
Vui thích biết bao khi ở trong một ngôi nhà lớn mà cũng bắt gặp trên đệm một chiếc lông chim. Ông kẹp chiếc lông chim vào giữa những trang giấy của một quyển sách để trên bàn riêng. Đó là tác phẩm của nhà văn Proust, quyển sách ông thường đọc trong lúc chờ đợi bà xuống điểm tâm. Ông đau khổ khi nghĩ đến câu chuyện xem ra đã xa vời, xa cách nước Pháp của thời nay, xa cách tất cả mọi phần đất khác của thế giới. Ông cảm thấy một nỗi nhớ nhung da diết và thầm kín mà những người cùng lứa tuổi với ông phải cảm nhận, khi nhớ lại một thời đại mà họ đã biết, những người trẻ trung của những năm tháng yên bình, an lạc, hạnh phúc bỗng dưng biến mất mà không ai hiểu được. Bấy giờ người ta coi ông như một con người cấp tiến, đã làm cho cha mẹ ông lo sợ, như chính ông bây giờ đã áy náy về cậu Winston và Edwin, không phải vì niềm tin cấp tiến của chúng, không phải vậy, mà bởi vì chúng quá bảo thủ, quá thận trọng, quá bận tâm một cách nguy hiểm vào một cái gì đó có thể đưa đến một hình thức dấy loạn. Hai người thanh niên không còn được che chở như hai đứa con của ông nữa, và ông giấu không cho họ biết những nghi vấn và những lo lắng của ông về mặt chính trị ông còn đặt mình vào hạng những người tự do, tự do bảo thủ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn ông là một người tự do có cánh nhìn làm cho con cái ông chán ông. Về Susan, con gái của ông, thì cho đến nay, cô không tỏ ra tò mò chút nào đến các vấn đề chính trị hay thế giới, cô chỉ quan tâm đến chính mình cô và những cơ may để lập gia đình. Đôi khi ông cảm thấy nhục nhã thấy cô kiên tâm theo đuổi để tìm kiếm một tấm chồng. Ngày xưa, bà Elinor chắc chắn đã không có quyết tâm và táo bạo như vậy. Theo lời Susan nói thì trên tất cả, cô gớm ghét, khinh chê, những người đàn ba ngày xưa đã tận tụy đấu tranh cho nữ quyền, hay như ông William gọi là tranh đấu cho nam nữ bình đắng. Chính bà ngoại cô vừa là trợ lý vừa là bạn thân của bà mệnh phụ Stanton, và Susan đã van ông đừng nhắc đến điều ấy. Trong số các ảnh chụp của gia đình, có ảnh của hai bà đứng bên nhau, mặc váy bùng xùng, và những lọn tóc bao quanh gương mặt họ. Khi xem những tấm ảnh ấy, Susan kêu lên một cách khinh miệt:
- Những người đàn bà như loại này làm cho đàn ông xa cách chúng tôi mà chúng tôi vô phương cứu vãn.
- Giải thích nghe coi. - Ông nói.
Susan kêu lên:
- Thưa ba, ba không biết những người đàn bà như thế đã làm cớ cho đàn ông chê ghét chúng con sao?
Ông William trả lời:
- Ngu xuẩn, ba không thể chê ghét một người đàn bà nào cả.
Cô ta cãi lại với đôi chút xảo trá:
- Ba không thích cho con làm luật sư phải không?
- Ba nghĩ rằng, con không thể làm một luật sư tốt được, con không có đầu óc lôgíc.
Cô ta nói với vẻ đắc thắng:
- Thế đấy! Con đã nói đúng. Không có những bà như bà Stanton hoặc tương tự, thì có bao giờ ba bận tâm nghĩ đến loại người có đầu óc như con, và con làm những gì mà con thích.
Ông chờ đợi trong giây phút để lựa lời, rồi nói:
- Phải chăng con thích nghề luật sư?
Cô rất bình tĩnh, đáp:
- Chắc là không rồi: đó là một cái bẫy.
Ông không nói đến nữa. Ông chẳng hiểu tí nào về thế hệ này. Khó mà nói chuyện nghiêm túc với chúng nó. Ông sẵn sàng bán linh hồn của ông để mua một tiếng nói thông minh, nhưng đó lại là cách ông ghét, như thế là hủy hoại chẳng những cách nói chuyện phải chăng, mà còn kém cả văn minh nữa.
Bà Elinor bước xuống lầu đúng vào lúc đó. Ông đặt cuốn sách xuống và đưa cho bà chiếc lông bé tí màu xám.
- Em hãy xem cái này, anh lượm được nơi tấm đệm, gió thu mang vào đấy.
Bà quan sát chiếc lông chim rồi mỉm cười, lơ đễnh nói:
- Em nghĩ đây chỉ là chiếc lông chim sẻ. Chắc có hai con trong tụi nó đánh nhau. Luôn luôn có trận chiến trên mái nhà.
Ông đặt chiếc lông lại trong cuốn sách. Có những lúc bà bắt ngay trạng thái tinh thần của ông và đối đáp lại một cách hết sức tế nhị, chuẩn xác, đến nỗi ông cao hứng ôm bà vào lòng. Đối với người khác, trái lại bà không bao giờ làm thế, và ông cũng hiểu cái đó có ý nghĩa ra sao. Sớm mai này bà có vẻ xa vắng, xem ra bà muốn được yên tĩnh, không nên ôm bà mà siết bà quá mạnh. Bà sống xa vắng trước ngày ông lại ra đi, bà sống những giây phút mà bà sắp phải sống không có ông, mặc dù ông có cảm thấy hay không. Ông phải mất một thời gian khá lâu, ít ra cũng gần mười năm trời để hiểu nổi hôn nhân, phần lớn dựa vào sự tìm hiểu trạng thái tâm hồn của người phối ngẫu, có thể đó là tính ích kỷ, để sống một cuộc sống chung. Ban đầu, vợ chồng thường va chạm nhau, vì ông coi như điều mà ai cũng chấp nhận là người vợ phải phục tùng chồng mình, thật sự đâu phải thế, nhưng là người vợ phải nghĩ đến chồng trước khi nghĩ đến bản thân. Ông đã nhận thấy từ lâu rằng, dù tâm tình tế nhị, bà Elinor vẫn đã được tạo nên bằng chất liệu bền vững hơn. Bà không cần đến ông một cách dễ dàng, hơn là ông cần đến bà, và khi ông đau khổ về điều đó thì bà nhẫn tâm để ông tự gắng sức thoát ra khỏi sự đau khổ ấy.
Những gì ông quan sát được nơi bà, ắt phải có nơi tất cả các người đàn bà khác. Họ biết tự thu xếp để sống cuộc sống của mình, một cách công khai theo kiểu bà Elinor, hoặc một cách âm thầm. Dù vậy, ông hoàn toàn hạnh phúc với vợ. Điều đó đôi khi làm cho ông bỡ ngỡ, nhưng ông vẫn yêu vợ tha thiết, mặc dù đôi khi bà có thể làm cho ông nổi giận.
Hai ông bà ngồi vào bàn ăn sáng, một thói quen ông rất thích: ông than phiền thay cho các ông chồng mà các bà vợ đã không chịu dậy sớm để cùng ăn sáng chung với nhau. Ba Elinor cũng vui thích như ông, mặc dù sớm mai này, bà có vẻ xa vắng, và khi bà thấy ông không định hôn bà, thì bà đứng lên và hôn vào đỉnh đầu ông. Ông đã từng kinh nghiệm trong trường hợp như thế, đừng có làm tới, ông đã được đền bù bởi những đáp ứng của bà, những bước chân nhẹ nhàng, thứ ân huệ thanh thoát thật khó mà nhận thấy, và xem ra chẳng có giá trị gì nhiều. Một chiếc hôn lên mái tóc, nhưng ông vẫn thích thú biết bao! Cảm thấy bà gần gũi dường ấy, ông muốn ôm bà vào vòng tay, nhưng ông đã cầm mình lại, và một lần nữa, bà vừa ngồi xuống, vừa nhìn ông bằng con mắt nồng nàn biết ơn.
- Bộ đồ màu xám với chiếc cà vạt màu hạt dẻ của anh rất vừa ý em. - Bà nói.
- Cám ơn em, anh nhận thấy là chúng rất hài hòa với nhau. - Ông nói cách tự nhiên.
Bữa ăn sáng kéo dài như thường lệ, trong một bầu không khí hòa hợp, thông hiểu nhau. Một lát sau, ông ra khỏi nhà đi đến văn phòng ở Manhattan. Mặc dù khi ra đi bà đã hôn ông nồng nàn, ông vẫn có thể đắm mình hoàn toàn vào công việc khi ở trong văn phòng. Cuộc hôn nhân của ông là một thành công trọn vẹn. Ông có thể cảm thấy an toàn.
Ngôi nhà yên tĩnh mà ông đã xa rời buổi sáng, đã trở nên hỗn loạn khi ông trở về buổi chiều. Bà Elinor đón ông nơi cửa, ngón trỏ đặt lên môi và đôi mắt nhìn một cách có ý nghĩa về phía nhà bếp.
- Lại gì nữa đây? - Ông hỏi, giọng hơi trầm buồn.
Bà Elinor thở dài, nói:
- Bertha lại giận con nữa rồi! Không ai nói với ai lời nào. Jessica ở trên lầu và khóa chặt cửa. Bertha thì đang phun sấm sét vào bếp lò của bà ta.
Đối với kẻ ăn người ở trong nhà, ông không chịu nhẫn nhục được như bà Elinor, nhưng ông phải thừa nhận lòng nhẫn nại truyền kiếp của dòng họ Winsten, nhờ đó mà bà Bertha trung tín với gia đình này dài lâu. Không khác gì một viên ngọc trai trong một con sò, người này cũng như người kia, quý mến nhau và cùng cáu kỉnh với nhau.
- Herbert không nói gì sao? - Ông William hỏi và nghĩ đến Herbert lúc lái xe đưa ông về, đã ngồi như phỗng đá trên ghế tài xế.
- Có thể là anh ta chưa hay biết. - Bà Elinor đáp.
Ông lại nói:
- Hễ đối xử với tôi tớ trong nhà quá tình cảm, thì phiền phức đến liền! Chán gì đầu bếp giỏi hơn Bertha. Sao em không kiếm người khác?
- Tội nghiệp cho Bertha!
- Này, này, em đừng có để cho bọn tôi tớ trong nhà lộn xộn. - Ông vừa nói vừa quàng tay sau lưng bà. Ông muốn kể lại cho bà nghe cái cảnh Jessica trước tấm gương soi mà ông đã thấy.
- Em không thể ngờ Bertha và Jessica lại như vậy. - Bà nói.
Nói xong bà mrong cánh tay chồng đi vào phòng khách một cách vui vẻ. Chính bà đã đặt ở đó khay cốc tai, thay cho Jessica, vì cô ta tự khóa mình trong phòng. Bà đã lấy ly rượu thập cẩm ướp đá cho ông.
Ông nói:
- Em yêu quý, đợi anh một chút. Anh đi rửa ráy đã, rất tiếc vì đã về trễ.
Khi ông William từ lầu trở xuống, thì Herbert đã đợi, mặc áo trắng bồi bàn và cảnh nhà xem ra đã trở lại cái vẻ bình thường của những buổi chiều thu đẹp trời. Các cửa phòng ăn mở rộng, và trên bàn đã dọn sẵn phần ăn cho hai người.
Ông đã từng hình dung cảnh tượng lũ trẻ đã vào trường, bà Elinor và ông sẽ cảm thấy cô đơn, tòa nhà như rộng lớn hơn ra, và thật là hiu quạnh, thật là trống vắng sau khi không còn tiếng trẻ con nô đùa giỡn cợt. Song chỉ vài ngày sau, những gì ông cảm thấy trước đó đều sai bét. Tòa nhà trở nên tĩnh lặng một cách thú vị, những tiếng nói trẻ trung cao vút, những bước chân chạy thình thịch trên cầu thang, những tiếng la hét từ các cửa sổ trên cao, vẫn không thiếu vắng. Thật là thích thú lượn quanh các phòng đã trở lại trật tự, tìm được ngay cuốn sách nơi mình đã đặt, đâu còn thấy những tranh ảnh buồn cườì vứt bừa bãi đó đây.
Chỉ ban đêm, đôi khi không ngủ được, ông đi lang thang trong nhà, thì những hình ảnh của lũ con ông mới hiện ra. Winston khi mười tuổi, mái tóc đỏ hoe, thân hình mảnh khảnh, luôn luôn chạy nhảy, vội vàng băng qua đại sảnh, Edwin da sẫm, ngồi lún sâu trong chiếc ghế banh ở thư viện, là chiếc ghế cậu ta ưa thích, đầu cúi xuống một cuốn sách, mê mải đọc. Thường thường, khi ông đến ngồi trên cái ghế bành đó, ông còn cảm thấy hơi ấm của cậu con trai. Và bóng dáng của Susan, máu thịt của máu thịt ông, nay đã là một phụ nữ, nhưng muôn đời khác xa ông.
Ban đêm thì chúng hiện về đủ mặt, dưới hình bóng trẻ con của thuở ban đầu, mà chính ông tha thiết muốn nhìn thấy lại. Lũ con ra đi làm cho ông có cảm giác tuổi già của mình càng đến gần. Dù chúng có về trong dịp lễ Nô en, hay trong dịp nghỉ hè, vẫn không phải là một cuộc trở về thật sự. Đối với chúng, chẳng qua chỉ là cuộc dừng chân ngắn ngủi trên con đường đi đến định mệnh cuối cùng. Nhưng mà đối với ông, chúng có mất hẳn đâu. Ông đã thấy chúng, ngày mới sinh ra, yếu ớt, bất lực, nhỏ bẻ, rồi tập đi, tập nói, để trở thành những cậu học trò sôi nổi, phá phách trong tuổi thiếu niên. Đó là hình ảnh của những đứa con mà ông còn giữ lại trong chính ông: những hình ảnh khác của chúng, ông cũng không quên. Những chàng thanh niên chững chạc, vụng về, trở về nhà trong chốc lát, để tìm lại một chỗ để tắm gội, mặc áo quần trước khi nhảy nhót hay ăn trưa, một chỗ có thể ăn và ngủ mà khỏi trả tiền. Đôi khi ông tự hỏi, chúng nó đã nghĩ gì về mẹ chúng, về ông, và cảnh biết bao thân mật ngày xưa không còn nữa. Khi quan sát chúng, ông lại nghĩ rằng, chúng không tiếc nuối gì, và cũng không suy nghĩ gì. Chúng đang trên đường tiến về chốn vô thức, bay bổng trong luồng gió ước vọng riêng tư.
Song đó chỉ là những tư tưởng ùn đến vào ban đêm, còn sớm mai, ông thức giấc khỏe khoắn trong yên tĩnh, tắm rửa và thay áo quần xong, nhìn vào gương, hình bóng ông không phải là một con người đang bước vào tuổi già, mà là phản ảnh của con người hiện tại, tràn đầy sức sống, tóc hơi hoa râm, ngoại trừ hai bên thái dương, và chưa có dấu hiệu hói đầu. Nhưng ông đã thừa hưởng mái tóc bờm xờm của tổ tiên, giống như một đống rơm thực thụ. Ông đã phải tìm một thợ hớt tóc ở thành phố đủ sức làm cho chúng khuất phục bằng những đường kéo khéo tay... Không, ông đâu thiếu vắng con cái. Nhờ chuyện trò thân mật trong lúc đầu gối tay ấp, mà ông đã phục hồi được sự hăng say của mình.
- Anh nhớ con à? - Bà hỏi với vẻ sáng suốt.
- Sao em biết?
Ông đã quen với cách nhìn nội tâm, cách nhìn trực giác, cách nhận thức viễn cảm của bà, dù có đặt tên gì cho nó đi chăng nữa, thì ông cũng hết sợ hay có cảm giác như lúc còn xuân thì. Từ khi lấy bà, ông hoàn toàn tin cậy vào bà, không còn gì phải giấu diếm, ngay cả ý muốn ngày xưa hết sức quyết tâm tìm cách giữ gìn cá tính mình.
- Em biết cái tình cảm cha con nơi anh...
Giọng nói của bà Elinor đậm đà và dịu dàng đặc biệt, mà hồi con trẻ ông đã từng ghen tị với các con, vì sợ bà yêu thương chúng hơn mình, và đam mê không dứt tất cả những gì liên quan đến bà.
- Anh tự hỏi, con cái có cảm thấy thiếu vắng chúng ta chút nào không?
- Chắc là không rồi, chẳng vậy thì hóa ra là chúng ta đi giựt lùi.
Ông lại tiếp tục thú nhận:
- Vậy thì, nếu anh không cảm thấy thiếu vắng chúng, đâu có gì là xấu? Được ở nhà một mình với em, như trước khi chúng mình có con, là một điều hết sức thú vị.
Hồi ấy, ông cho tòa nhà là quá rộng và nôn nóng muốn thấy con cái đông đúc trong nhà. Nhưng bây giờ ông không còn cảm giác như thế nữa, có thể vì những xuất hiện nho nhỏ, vui vui, mà ông có thể hình dung ra bất cứ lức nào. Đời sống đã được sống ở đấy, và sẽ tồn tại ở đấy. Nhưng Elinor và ông rất khác xa với những cặp vợ chồng trẻ vừa gia nhập vào đây. Chúng lại phải trực diện với cuộc sống của chúng, nhưng cuộc sống đó sẽ ra sao? Khi con cái ông ra đi, ông có phần nào do dự, không biết những đôi vợ chồng trẻ yêu nhau sẽ đối xử với nhau thế nào khi trở về già. Ông tự hỏi, sự nhiệt tình đổi mới này có làm vui lòng bà không, nhưng ông tin tưởng nơi bà. Sụ an ủi của ông là chỗ đó. Ông biết có những người chồng sợ già với vợ họ. Ông cảm thấy mình được ưu đãi trong cuộc sống chung với bà. Sự ưu ái này không phải đến do tình yêu của ông đối với bà mà thôi, nhưng bởi vì cách suy nghĩ của họ trùng hợp nhau. Bà không có vẻ gì là một người đàn bà trí thức, bà không quan tâm gì đến những vấn đề luật pháp, chính đó là điều ông cảm kích, nhưng những phán đoán của bà lại chân thành, cách bà đề cập đến con người thật là độc đáo, sống động, và hơn nữa, bà không dối trá bao giờ.
- Em có cảm thấy thiếu vắng con cái không? - Ông hỏi.
Câu hỏi này ông đã có sẵn trên môi, song ông không dám nói ra.
Ba Elinor đẩy cái ly của mình ra và trong phút chốc, bà nhìn sững vào ly rượu trong veo màu hổ phách, cái màu mà bà thích một cách say mê, ông tự nhủ, bà say mê các dáng vẻ màu sắc, kể cả màu sắc của các thức ăn. Bản chất tự nhiên của bà, tính không thẹn thùng của bà, đã bảo toàn tuổi thanh xuân của bà đến độ người ta không thể đoán được tuổi tác của bà. Không có gì làm khô héo con người bằng sự giả vờ làm ra vẻ đáng kính, hoặc đoan trang ngoài mặt, để khỏi bị người ta chê cười. Chẳng hạn, như không bao giờ dám gia nhập một thứ tổ chức bắt buộc các thành viên mặc những chiếc áo dài rộng thùng thình, giả làm người Á Đông. Họ đã họp thường niên tuần trước tại New York, và người ta đã chứng kiến trò hề của những ông già trang sức lố bịch, bụng lớn, giò teo, cả lũ đều buồn cười như nhau. Ông William đã phải cho xe chạy vòng ra xa để tránh họ.
- Có, em cảm thấy thiếu vắng chúng. Em tự hỏi tại sao?
- Mấy năm sau này, chúng ta ít thấy chúng, - Ông đáp - chúng sống đời sống riêng của chúng quá sớm đối với thời đại của chúng ta.
Bà suy luận:
- Em cho là điều đó đã bắt đầu từ khi chúng ta có máy truyền hình, chiều nào chúng cũng tụ tập xem trong một căn phòng khác với phòng của chúng ta.
Herbert xuất hiện nơi cửa lớn, to xù trong cái áo vét có sọc màu trắng.
Bà Elinor đứng lên, đưa bàn tay ra để ông William cầm lấy và luồn xuống dưới cánh tay ông. Bà nói:
- Đi đi, anh yêu...
Rồi một cách nửa đùa nửa thật, hai ông bà tiến vào phòng ăn một cách trịnh trọng, theo sau tấm lưng hộ pháp của Herbert.
Trong khi ông kéo nhẹ chiếc ghế ngồi cho vợ, bà nói:
- Em luôn luôn biết ơn anh, vì xưa nay bao giờ anh cũng vẫn vậy.
Ông ngồi xuống, và xuyên qua làn hơi bốc lên từ chén xúp nóng mà Herbert đặt trước mặt, ông mỉm cười với bà. Ông bắt gặp ánh mắt của bà, và thấy tình yêu của bà ngời lên trong đó, như một tia sáng êm đềm, bền vững. Ông tự nhủ lòng, con người khi vươn đến tuổi già mà còn thấy được tia sáng của tình yêu, và còn cảm nhận nó sẽ tồn tại cho đến mãn đời, thì thật là được trời đất ưu đãi. Ông cúi đầu, và trong yên lặng kéo dài, ông nghe rõ tiếng khóc ấm ức từ xa.
Ông đặt cái muỗng xuống, trong khi Herbert đã đi ra ngoài.
- Có phải tiếng khóc của Jessica đấy không? - Ông hỏi.
- Phải đấy - Rồi bà nói thêm với vẻ nghiêm khắc khác thường - Jessica khóc to như vậy mà không biết xấu hổ!
- Nhưng, này em yêu...
Bà chận ông lại và nói:
- Không, quả thật, William, em không thể nào thông cảm được với một người đàn bà khóc to như thế. Thật là sỗ sàng, nếu tất cả đàn bà chúng tôi đều làm như thế, thì thế giới này sẽ thành thế giới của một lũ điên...
Bà đứng lên, đóng cửa sổ lại, và không còn nghe gì nữa. Ôrig William không đáp lời. Bà ám chỉ ai khi nói tất cả những người đàn bà đang khóc? Ông chưa từng thấy bà để rơi một giọt nước mắt nào. Ông nghĩ bà là một người đàn bà có quá nhiều hạnh phúc. Qua hai mươi lăm năm chung sống thân mật đến thế mà ông vẫn chưa hiểu được bà trọn vẹn. Đó chẳng qua là một câu nói hời hợt không ngụ ý gì, nhưng khi ông suy nghĩ lại, ông cảm thấy có mũi nhọn trong đó. Ông lặng lẽ ăn hết chén xúp, Herbert bước vào, dọn dẹp các chén không.
Mùa thu tốt đẹp kéo dài. Nắng hạn quá độ, các cây hoa cúc sống dai mà ông đặc biệt ưa thích, không lớn nổi, hoa nhỏ và không màu, một nỗi thất vọng ê chề không ai có thể làm gì được. Ông William rất bận tâm về những vụ “xì căn đan” trong quản lý thành phố đã nổ tung. Ông phải quyết định, bênh vực cho các bị cáo hay không, khi ông biết rõ là họ có tội. Dù sao đi nửa, họ vẫn có các quyền luật định của họ, ông sẽ bảo vệ cho các quyền ấy, nhưng liệu có thắng nổi không, hay vẫn còn nguyên tội trạng. Sự chọn lựa thật là tế nhị.
Một buổi sáng cuối tháng chín, trong cuộc tiếp xúc với số người mà ông dè dặt không gọi họ là phạm pháp, vì tòa án chưa phán quyết. Ông cần gặp họ để tìm hiểu về quan điểm của họ, cũng đơn giản thôi, bởi vì họ cho rằng, có khối người hành động như họ mà không bị buộc tội, thật là thiếu công bằng, họ không hiểu vì sao họ lại bị quấy nhiễu.
Ông William ngắm nghía ba gương mặt phì nộn, được tô điểm nhờ nhiều năm ăn uống ngon lành. Ông không cố tìm hiểu về dòng giống của họ, họ không giống nhau, nhưng cả ba cùng gọi lên nguồn gốc của tội ác trong hệ thông chính trị của đô thị lớn nhất thế giới này. Tuy nhiên ở đây không đặt vấn đề gốc gác, quê hương, nhưng là môi trường sống mà xã hội đã áp đặt thêm cho chúng. Những căn nhà ổ chuột, những tranh chấp của bọn găng-tơ, những thiệt hại, những đánh đấm, và cuối cùng là tội ác, đã tạo nên những cá nhân đang chạm trán với ông, kể gì đến sự biến chất của họ. Ông William cảm thấy xa cách họ, lương tâm ông trong sáng, dáng vẻ suy tư, ông từ vùng Vermont đến, đang đăm đăm nhìn họ từ sau bàn giấy của ông.
Ba cái mặt bự không nói lên được cái gì hết. Người đàn ông to lớn khẽ ho, nói:
- Chúng tôi biết những luật sư như ông đòi được trả công xứng đáng, và chúng tôi sẽ trả.
Ông ta có giọng nói dễ nghe đến đỗi ông William lấy làm lạ, quan sát ông ta qua sự bình thản thường ngày của mình, và nghĩ là mình đang có chuyện với một con người học thức.
- Chắc là tôi phải trông vào đồng tiền của các ông trả cho công việc của tôi làm, - Ông nói - nhưng tôi lại đặt câu hỏi: các ông mong gì ở tôi?
Con người nhỏ bé nhất mà phì nộn nhất ngồi giữa hai người đàn ông kia, nghiêng mình tìm cách làm mủi lòng ông luật sư:
- Nhờ vào lòng tốt của ngài. - Ông ta nói.
Giọng nói van lơn trầm buồn, giọng của một đứa con cưng xuất phát từ một cái miệng đẹp, miệng của em bé đang hờn dỗi. Từ trong nôi, mẹ của em đã từng nhượng bộ trước gương mặt trẻ thơ của em. Một lần nữa ông biết ơn bà Elinor, đã tỏ ra sáng suốt, không nhượng bộ con cái mình. Có đôi khi ông thấy bà hơi cứng cỏi, nhưng bà đã thương con cái phải lẽ, mà không mơn trớn. Sự chính trực của bà không dễ gì lay chuyển nổi.
Ông William lạnh lùng đáp:
- Các ngài không thuyết phục được tôi đâu!
Ba người đàn ông đã quyết định chấp nhận sự bào chữa đơn thuần, ông William đã bỏ cả ba buổi sáng để giải thích nội vụ cho ba người, để họ hiểu sự vô tội là một chuyện, còn quyền lợi công dân là một chuyện khác. Rất có thể họ có tội. Ông William không tìm biết điều đó, vì là việc của quan tòa và tòa án, nhưng dù sao đi nữa, thì họ cũng có quyền phải được bảo vệ.
Người bệ vệ nhất trong đám, người có nước da sẫm màu, bóng láng và ít nói nhất, đã thở ra như lợm giọng. Ông ta nói:
- Tôi nghĩ rằng, đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm được.
Họ lấy làm chua chát mà nhận thức rằng, không có gì có thể lay chuyển nổi ông luật sư, cố thủ trong một vị trí không đánh vào nổi: hiến dâng tiền bạc, nịnh hót, thuyết phục, không được gì. Họ chấp nhận điều ông William nói, vì họ tin cậy ông và biết ông khéo léo, mà không hiểu ông đồng thời vừa nhận bênh vực quyền lợi của họ và vừa từ chối không bênh vực việc làm của họ, điều đó xem ra không ăn khớp với nhau. Ông William thấy được cái nét lẫn lộn ấy trên gương mặt có hai má phinh phính chảy xệ xuống của họ. Họ đứng lên một lượt, ngẩn ngơ, nửa khiêm nhường nửa phách lối, để ông William ở lại, họ chửi bới nhau, mắng nhau là ngu dại. Ông phải mất nhiều tháng để truy tầm, đưa các chúng cứ, đã phân tích các chi tiết, ông phải bênh vực những con người nói được là ông khinh rẻ, dù vậy, tất cả đều để tôn vinh luật pháp, đó là không ai bị xét là có tội mà không có các chứng cứ đi kèm. Ông đã từng biện hộ cho những tên giết người cho đến lúc lên ghế điện mới chịu thôi, vì nhiệm vụ ông đã hoàn tất.
Ông trở về nhà cuối tuần. Ông có thể thấy mình kiệt sức, nếu không nghĩ đến cái viễn cảnh nghiêm khắc của trách nhiệm đang đợi chờ ông. Còn nhiều tháng về sau nữa, ông không có quyền viện lý do mỏi mệt, vì ông phải đảm trách việc phân tích cái thế giới sâu kín tàng ẩn của một thành phố rộng lớn, nhiệm vụ ông đã được giao phó. Hãy ngợi khen Chúa, có lẽ ông đang nghĩ về lợi ích của tòa nhà lớn xa xôi và yên tĩnh, sự bình lặng của vợ ông, sự an toàn của tâm hồn ông.
Khi về đến nhà, Jessica mở cửa, thấy ông, cô cười hai má lúm đồng tiền. Ông cảm thấy cô rực rỡ trong chiếc áo dài xanh dương tươi mát, cái tạp dề trắng xếp li. Xem chừng không còn tiếng khóc ấm ức nào nữa, và ông tin ngày cưới đã gần kề. Cô đỡ lấy cái mũ và áo choàng từ tay ông. Ông thử nói một câu lịch sự với cô như nói với con gái ông:
- Jessica, ngày trọng đại bao giờ đến vậy?
Cô vẫn giữ vẻ hài hước:
- Thứ bảy tuần sau, đó là ngày sinh nhật của Herbert.
- Kết hợp như thế thật là đặc sắc?...
Ông đặt chân lên bậc cấp đầu tiên của cầu thang, thì nghe tiếng bà Elinor từ trên lầu vọng xuống, bà đã hát, vừa hát vừa làm việc gì đó. Jessica từ phòng áo nói ra:
- Đó là điều Herbert mong muốn.
Ông William bước lên cầu thang. Khi đến thèm nghĩ ở giữa cầu thang, ông dừng lại và nghiêng mình về phía tay vịn. Ông sửng sốt, lại thấy Jessica, trên đường đi đến nhà bếp, đã dừng lại nơi phòng khách phía Đông. Đó là lần thứ ba ông bắt gặp: lần thứ nhất, khi Jessica còn là một con bé, lần thứ hai khi cô ta đã là một thanh nữ và bây giờ có thể nói được là một người đàn bà. Cô ngồi trên ghế bành nhung màu hồng đối diện với tấm gương soi lớn, hình bầu dục, ông có thể nhìn thấy hình bóng Jessica phản chiếu trong gương. Cô ta mỉm cười, song không phải cái cười mỉm duyên dáng ngây thơ mà ông còn nhớ rõ, nhưng là điệu bộ nhăn nhó cô gởi đến cho một người xa lạ nào đó mà có lẽ cô nhìn thấy trong gương. Tuy mặt cô vén gọn những nụ tóc ngắn buông lơi, làm biến thể đầu tóc của cô, và tay trái như đang cầm cái quạt phe phẩy. Cô làm điệu bộ, uốn éo cái miệng xinh xinh như phải phát âm những từ mà không ai hiểu nổi. Cô chăm chú nhìn khuôn mặt của mình trong gương, với đôi mắt to màu xanh biếc, và diễn tả một màn đang cao hứng. Thói quen gì kỳ cục vậy? Ông bị thôi miên và đứng nhìn mấy phút. Rồi ông rón rén đi lên phòng. Ông không thích can thiệp và để cô ta một mình với cái tôi tưởng tượng, làm cho cô thành người ngoại cuộc cả với những gì liên quan đến chính cô. Khi cô ta tưởng có một mình, cô ta có hành động như vậy chăng? Khi bà Elinor và ông vắng nhà, cô ta có chạy luồng tuông trong ngôi nhà trống vắng, cô chọn phòng nào vừa ý để tha hồ mơ mộng, quên mất mình là ai chăng?
Ông bực mình khi nghĩ đến đó, và vừa đóng cửa vừa tự hỏi, ông có nhiệm vụ phải cảnh giác ngay bà Elinor chăng? Tiếng hát xa xôi với âm điệu dịu dàng của bà vẫn còn vẳng đến tai ông. Ông thường tự nhủ, giọng nữ trầm của bà nếu được tập luyện, có thể trở thành tuyệt mỹ. Một lần nữa, ông lại quyết tâm không đả động gì đến Jessica. Rủi bà Elinor cho sự việc là quá quan trọng thì sao, Vả lại, Jessica cũng đã gần đến ngày vĩnh biệt tòa nhà lớn rồi. Bà Bertha đã nhất định cho con gái bà về nông trại để được sống đàng hoàng, để bà có chỗ đi nghỉ hè, và có một nơi hưu dưỡng lúc về già. Cần gì khuấy động ngần ấy chuyện, trong khi chỉ còn một ít lâu nữa cô ta sẽ ra đi.
Ông mặc vội chiếc quần màu sẫm, và cái áo vét nhung màu hồng hạt lựu mà ông thường mặc vào buổi chiều, rồi đi tìm bà Elinor, cố gắng tạo ra vẻ mặt bình tĩnh. Tiếng hát đã ngừng, ông bắt gặp bà nơi phòng nhỏ để đồ vải, bà nói bà đang tìm tấm khăn ren để trải trên cái tủ côm-mốt. Ông chờ bà, sung sướng nhìn bà, và ông thầm vui vì đã không làm khuấy động sự yên tĩnh của bà. Những gì bà đã làm trong ngày, ông đều vừa ý, vì gương mặt của bà diễn cảm, linh động, thật là tươi mát và xinh đẹp. Bà mặc chiếc áo dài màu nhung khảm xà cừ lấp lánh. Hai ông bà bên nhau, và một lần nữa ông hối tiếc vì đã ở tận New York quá xa. Cái niềm hy vọng được bà theo ông lên thành phố lớn lúc con cái đã trưởng thành, ông không thể nào thực hiện dược. Bà không thích thành phố lớn, còn ông thì tiếp tục tính toán thì giờ sắp đặt cuộc sống, để đủ sức tra cứu những vụ án đã nhận bào chữa khi ở văn phòng Manchester, hay tại đây, nơi nhà ông, trong những ngày yên tĩnh mà ông hy vọng nhờ đó để đạt được những lý đoán vững chắc, cần thiết cho cuộc tranh chấp sắp đến, với sự hiện diện của thân chủ.
Ông nói:
- Khi anh về, nghe tiếng em nói đủ làm cho anh vô cùng thích thú.
- Suốt ngày, cái phần cuối điệp khúc cũ kỹ của bài hát mà anh và em đã nghe ở nhà tháng trước, cứ lẩn quẩn trong đầu tóc em hoài. Em tự hỏi, không biết tại sao.
Bà không chờ đợi trả lời, và thật nó đâu có câu giải đáp. Bà đã tìm được tấm khăn ren và trải nó lên một cái tủ com-mốt, rồi cả hai cùng đi xuống lầu. Phòng khách vắng tanh, chiếc ghế bành bọc nhung vẫn nằm chỗ cũ, tấm gương soi phản chiếu hình ảnh của hai người, tay trong tay, họ đứng bên nhau.
Sáng hôm sau, Jessica đón ông ở cửa thư phòng. Ông đã mang về nhà cái cặp da màu đen, đầy căng tài liệu, thư từ và các mẩu tin cắt trong các báo, mà các cộng sự viên trẻ tuổi của ông đã tập hợp cho ông trong tuần qua. Ông chỉ việc hấp thu tất cả số giấy tờ ấy, đến độ biết rõ chúng như biết rõ cuộc đời mình. Ông đã dậy sớm, vội vàng, vì trong giấc ngủ ông bị ám ảnh bởi bộ mặt của ba người đàn ông mà ông nhận bênh vực quyền lợi của họ.
- Xin phép ông - Jessica nói.
Ông William đứng lại, nhớ đến sự việc đã xảy ra chiều hôm qua, ông nghiêm nét mặt nhìn cô và nói:
- Cái gì đó?
Jessica vày vò cái tạp dề trong tay, rồi với một cử chỉ thật nhanh, cô ấp hai bàn tay lên đôi má ủng đỏ, nói:
- Thưa ông chủ, xin ông đừng bận tâm đến dự lễ cưới của con. Con biết bà chủ muốn đến, vì má con, phần con, con không muốn thế. Quả thật, thưa ông chủ, ông không đến thì con lại thích hơn.
Cô làm cho ông bực bội.
- Thế là? Tốt! Vậy thì tôi sẽ nói lại với bà chủ. Thực tình, lúc ấy tôi bận lắm!
- Còn điều này nữa, thưa ông chủ, - Cô lại van nài, ông thì sợ có chuyện gì khác dây dưa lôi thôi - ông không làm điều này cho con được sao? Trong cả nhà, ông là người tốt nhất. Phải, thưa ông, con không dám nói là bà chủ không tốt đâu, nhưng bà đứng về phía má con, ông có hiểu như thế không? Con không thể trách bà, vì má con đã ở đây quá lâu, cả trước khi con ra đời nữa, nhưng mà, thưa ông, sau này con có thể trở lại đây tiếp tục công việc con đã làm, như trước khi lấy chồng được không ạ?
Điều ấy hoàn toàn ngoài quyền hạn của ông. Không bao giờ ông bận tâm về công việc trong nhà, nhất là về kẻ ăn người ở đã phục vụ lâu đời trong dòng họ Winster. Qua trung gian bà Bertha mà ông bà có được Herbert, và Jessica lại là con gái của bà ta. Và qua những gì đã xảy ra trong ngày hôm trước, sự việc đâu con đơn giản nữa.
Jessica nhận thấy vẻ ngạc nhiên và do dự trên mặt gương mặt của ông William. Ông nhìn thấy đôi mắt màu tím tuyệt đẹp của cô gái đang van nài, với hàng mi dài màu hổ phách, sẫm hơn cả mái tóc cô, mà lấy làm buồn tiếc. Tội nghiệp cô bé, sắc đẹp thế này chắc rồi cũng uổng phí thôi.
- Thưa ông chủ, - Jessica nói tiếp - con xin thú thật với ông chủ, con coi nhà này như là nhà của con - Đôi mắt cô lướt qua các gian phòng rộng rãi, đẹp đẽ và nói - con còn nhớ lúc con còn bé tí, ba hay bốn tuổi gì đó, con xô cánh cửa này thưa ông, (cô đưa tay chỉ cánh của hông đi vào đại sảnh) và con đứng đó, tưởng chừng tất cả thuộc về con. Điều đó chẳng phải hay ho gì, nhưng nó lại như thế đó. Rồi khi con lớn lên thêm chút nữa, con còn táo bạo hơn, khi cả gia đình vắng mặt, ba con ở ngoài vườn, má con ở dưới bếp, con ngồi nơi ghế bành kia kìa, ghế bành bọc nhung hồng ấy, con kéo nó đến trước tấm gương soi lớn, con nhìn con đang ngự trị giữa muôn vàn sự xinh đẹp đó và mơ mộng đủ điều. Đúng thế đó, đúng là con đã nghịch ngợm, vì vậy má con mới gởi con vào tu viện khi con lên bảy, vì má con đã bắt được quả tang và bảo là con có những ý nghĩ hoang tưởng tự đại. Nhưng đơn giản đó chỉ là lòng thương yêu, thương yêu ngôi nhà này, thương yêu gia đình này và điều đó vẫn còn tiếp tục, tiếp tục mãi, bởi vì đây là nơi con đã sinh trưởng, sự thật là vậy.
Ông William sửng sốt và khó chịu vô cùng. Cô ta tưởng như tất cả là của cô? Cô có quên chăng là ông cũng đã thấy cô như thế?
- Được rồi, Jessica, tôi sẽ nói với bà Asher về việc đó.
- Ôi, xin ông, con xin ông đừng nói lại cho bà biết điều con đã nói. Đó là ảo mộng của con, con biết vậy, có lẽ bà không hiểu được, không như ông đâu, thưa ông, vì bà là thành phần của gia đình Winsten.
Ông William ít thích cam kết một điều gì mà không có vợ ông, nhất là việc đó có liên hệ đến cô gái này. Cô ta được tạo nên đâu có phải là để làm một nữ tì, ông nghi ngờ ở nơi này có biết bao nhiêu cách tế nhị, bao nhiêu trạng thái tinh thần chỉ có hại cho cô ta, vì gốc gác hèn mọn của cô. Ông không tin vào sự trường cửu của một vai vế nào đó trong xã hội, nhưng phương tiện để vươn lên đòi hỏi một nghị lực mà cô ta không có.
Ông cố ý làm ra vẻ lanh nhạt, nói:
- Này, Jessica, tôi sẽ làm hết sức mình, nhưng nếu bà chủ thấy mẹ cô buồn lòng vì chúng tôi vắng mặt, thì cô cũng không nên trách chúng tôi. Còn chuyện gì khác, cô nên chờ một thời gian. Điều ấy có thể thu xếp được dễ dàng trong mấy tháng hè, nhất là khi các cô cậu đã về đủ mặt, thế nào chúng tôi cũng cần cô giúp đỡ đôi chút.
Cô thoáng có được chút vui mừng, không tương xứng với hy vọng mong manh của cô.
- Ôi, con xin cám ơn ngài Asher. - Cô nói.
Và cô chắp hai bàn tay mảnh mai của cô lại trong một dáng điệu, sung sướng.
- Cô cũng biết, đây chưa phải là lời hứa. - Ông nhắc.
- Vâng, con cũng hiểu vậy. - Cô đáp.
Ông rảo bước đến thư phòng, quên hẳn Jessica khi ông nghĩ đến cảnh đồi trụy phô bày khắp thành phố. Cuối ngày ông có nhớ lại, nhung sự kiện có vẻ là trò trẻ con, có thuật lại cho bà cũng vô ích. Đã từ lâu ông hiểu được sự bình an trong gia đình đến từ những gì quên đi hơn là từ những gì giữ lại. Bà Elinor có thể phật ý vì chuyện Jessica xin trở lại làm việc như trước một cách quái lạ này, nó còn làm phật ý bà Bertha, một con người quan trọng. Ông không quên hắn được, vì cách mấy ngày, khi bà Elinor báo tin lễ cưới của Jessica đã gần kề, thì ông bảo, ông không đến được. Đúng như vậy. Dù thế nào, ông cũng khó có mặt ở nhà, nhất là vào lúc bây giờ. Ông nói:
- Em thân yêu, tuần này anh không xa rời thành phố được. Sáng thứ hai anh phải đi sớm, em chỉ gặp lại anh sau ngày thứ sáu hay thứ bảy. Anh đang chuẩn bị hồ sơ cho vụ án. Không có anh, các người khác không làm được, anh không thể nào đến dự lễ cưới, cho dù đó là lễ cưới của Susan, con gái của chúng ta.
Bà Elinor nói:
- Bà Bertha sẽ bất bình đấy! Con cái chúng ta cũng chẳng có đứa nào có mặt. Anh chị em của em thì lang thang đây đó, em cũng chẳng biết tại sao. Em mong lũ con mình đừng bắt chước họ, nhưng em đoán chừng dì Emma sẽ có mặt.
Ông nói với giọng nhẹ nhàng hơn:
- Anh tiếc rằng, biết đâu chính chồng em cũng lang thang như thế.
Ông thuật lại cho bà nghe những lời Jessica nói cũng dễ dàng thôi, nhưng ông thấy vô ích, vì ông chỉ bị cô tớ gái tâm tánh thất thường làm giao động trong giây lát. Ông bằng lòng để Jessica ra đi, và ông sẽ chẳng làm gì để cô ta dễ dàng trở lại. Ông lấy làm bất mãn khi nghĩ rằng cô ta coi cái nhà này, cái nhà hiện tại của ông, như là nhà của cô ta, ngay cả chỉ đề cập đến ngôi nhà này một cách thiêng liêng cũng vậy.
Lễ thành hôn đã cử hành không có ông, và khi ông về muộn trong buổi chiều thứ bảy, mệt mỏi, căng thắng do cố gắng quá sức, ông quên mất là Jessica đã ra đi, và chỉ nhớ đến điều này khi bà Bertha một mình hầu bàn bữa ăn tối.
Ông cảm thấy cần tỏ ra lịch sự đôi chút với bà Bertha, ông nói:
- Bertha này, như vậy không phải là chị đã mất đi một đứa con gái, mà là chị có thêm một đứa con trai, phải không? Tôi rất tiếc không về dự lễ cưới của cháu được.
- Herbert sẽ trở lại làm việc vào tuần sau, thưa ông, tôi đã bảo anh ta một tuần là đủ rồi. Hồi Heinrich với tôi, chỉ mất hai ngày thôi. Nhưng Herbert lại bảo cái nóc nhà nuôi gà phải lợp lại, và anh ta sẽ làm việc đó trong tuần trăng mật.
- Tốt! - Ông William vui vẻ kêu lên - Nhưng anh ta dường như không chỉ coi việc đó là tuyệt vời!
Bà Elinor kể lại:
- Khi bà Bertha rơi khỏi phòng, thì cuộc lễ xem ra khá thê thảm. Nhìn quanh, chỉ có anh chị của Herbert và dì Emma, tài xế của dì đã đưa dì từ New York đến. Dì đến như vậy là quá tốt rồi, nhưng sau đó dì cứ lớn tiếng lặp đi lặp lại rằng, gương mặt của Herbert làm dì phát nản.
- Dì Emma đi về ngay à?
- Không, dì ngủ đêm ở nhà mình, và em đã quả quyết với dì: Herbert đúng là mẫu người cần phải có cho Jessica, vì cô ta hơi ngớ ngấn. Anh thường ở New York nên anh không biết, đôi khi cô ta làm cho em bực mình. Mẹ em bảo: những con người có giáo dục không nên bắt kẻ khác phải lệ thuộc vào tâm tính vui buồn của mình. Heinrich và Bertha không bao giờ làm thế, Heinrich có khuynh hướng làm một người Đức mềm mỏng, giàu tình cảm, nhưng Bertha nắm vững anh ta trong tay. Em biết cha em chỉ cần ngó Heinrich một cách nghiêm khắc khi anh ta vụng về là đủ, sau đó thì Bertha có trách nhiệm làm tiếp.
- Dì Emma có mạnh khỏe không? - Ông hỏi vẻ còn lơ đãng.
Theo lẽ, ông phải ở lại New York chủ nhật này. Chứng nhân duy nhất của mọi đầu dây mối nhợ đã bị theo dõi, nhưng làm sao đủ tin vào những con người thành thị.
- Dì ấy đang xuống dốc, - Bà nói tiếp - em thường tự hỏi, dì Emma đã gặp chuyện gì trong cuộc đời của dì. Dì luôn nhắc đến Jessica lúc nó còn bé, dường như dì lưu tâm đến điều đó mỗi lần dì đến thăm chúng ta. Tuy vậy đời sống ở New York hợp ý thích của dì, như dì đã bảo, đó là thành phố của những bà độc thân, nơi họ có những thú vui như đi nghe nhạc, diễn thuyết, xem triển lãm. Em nghĩ dì nay đã trở nên hơi kỳ cục, nhưnng dì vẫn luôn luôn dịu dàng.
- Kỳ cục à?
Bà Bertha bưng đến một thứ bánh ga tô thật ngon. Bà Elinor lại nói tiếp:
- Dì ấy nghiêng mình xuống bên em như thường lệ, vừa đập nhẹ lên khuỷu tay em vừa nói: “Tôi có một bức tranh của Turner”. Nhưng làm sao có thể có được, anh nhỉ? Giá bức tranh đó có đến hàng chục ngàn đô-la, cho nên em hỏi lại: “Có thật thế không?” Dì ấy cười không ra tiếng và đáp: “Có chứ, tại phòng tranh của Frich. Ngày ngày tôi tới đó hàng giờ để chiêm ngưỡng. Không ai biết là nó thuộc về tôi, nhưng nó là của tôi đấy. Tôi làm chủ nó đấy” và dì ấy vỗ vỗ vào lồng ngực già cả, xẹp lép của dì.
Cha của bà Elinor đã chọn ông William trong số các luật sư làm người thi hành chúc thư cho cái di sản bé nhỏ của bà Emma.
Ông William uể oải nói:
- Anh phải xem sự việc như thế nào. Có thể dì ấy đã trở thành một con người vô trách nhiệm. Dì ấy sống cô độc một mình, phải không?
- Dì ấy sống trong cái khách sạn cũ kỹ đó. - Bà đáp - Nếu không quá xa xôi như thế, có lẽ em đi thăm dì ấy thường hơn.
- Đó cũng là khoảng cách anh phải vượt qua hàng tuần để về với em...
Bà cảm động, đáp:
- Ồ, em biết chứ! Theo lẽ, bây giờ em phải ở nơi cái nhà mà anh thích. Nay em đâu còn viện lý do con cái được, nhưng em vẫn ghét thành thị như bao giờ.
Nhiều năm về trước, ông chấp nhận dẫn chứng của bà, khi bà tuyên bố không thể sống nơi nào khác ngoài vùng Vermont. Ông có nói: “Em yêu quý, không có sao đâu, đường sá thật tuyệt vời, và những con đường rộng thênh thang dẫn đến cái cổng nhà mình. Hồi con cái còn nhỏ, thế cũng tiện cho anh. Anh cũng thừa nhận khí hậu vùng này hợp với đầu óc của anh. Ở đây anh làm việc thật tốt”.
Mấy ngày sau đó, trong lúc chờ đợi lấy thêm tài liệu, ông William rời văn phòng khoảng một tiếng đồng hồ để đi thăm bà Emma. Cô thư ký của ông sắp xếp giờ gặp gỡ.
Ông đã gặp bà Emma trong một căn phòng ngột ngạt: bà ta già lụ khụ, gầy go, run rẩy, mặc cái áo lụa mỏng màu xanh đã bạc phếch, hai mắt lờ đờ, được một bà hầu phòng đã có tuổi của khách sạn chăm sóc. Bà hầu phòng mở của, và một lát sau mang trà vào đặt trên một cái mâm nặng bằng bạc.
- Chào William, anh đến thăm tôi, thật là quý hóa! Tôi mong công việc của tôi không có gì phiền phức cho anh chứ?
Ông William vừa ngồi đối diện với cái ghế dựa phủ vải thêu màu vàng bà ngồi, vừa đáp:
- Không có gì đâu, thưa dì.
Những khúc gỗ già bằng kim khí được đun bằng khí đốt, phụt ra những ngọn lửa nhỏ, làm cả nhà nồng nặc mùi ga. Ông William bảo, ông sẽ nói cho ông giám đốc khách sạn biết. Một ngày nào đó bà già tốt bụng nay sẽ chết ngạt, dù bà đã quen với bầu không khí đó, còn cửa sổ thì đóng kín mít. Những khúc sắt giả gỗ đã có vẻ khá cũ kỹ đó vỡ vụn ra. Ông nói tiếp:
- Elinor nói là dì có đến dự đám cưới của Jessica, và tôi nhớ không lầm thì đã lâu tôi không đến thăm dì, lâu qua rồi. - Dù sao, theo một nghĩa nào đó, thì dì là người mà tôi phải bảo trợ.
Bằng một nụ cười mỉm héo hắt, bà Emma nói:
- Tôi còn khỏe lắm, William à. Đi về Manchester để dự đám cưới đối với tôi là một cuộc du hành khó nhọc, song Bertha đã viết thư cho tôi, và tôi cũng cảm thấy phải có người trong gia đình đến dự. Rốt cuộc, chỉ có Elinor và tôi. Tôi còn nhớ Jessica rất rõ hồi nó chưa vào tu viện. Một con bé tuyệt trần, rất nhiều tư cách. Thật là tội nghiệp! William à, tôi có bắt gặp nó ngồi nơi cái đàn dương cầm, khe khẽ hát, các ngón tay đặt trên phím đàn, và tạo ra những tiếng nhạc hòa hợp với tiếng hát của nó, một giọng trẻ con thật hay. Lẽ ra tôi phải đem nó theo tôi lúc ấy, và cho nó học đàn - Bà Emma nghiêng mình về phía trước như bị lôi cuốn vào dòng cảm xúc - Nó còn biết vẽ khá đẹp nữa, hay là nó còn có thể làm hơn thế, nếu có người kèm cặp cho nó. Trong một dịp lễ Nô-en, tôi còn nhớ nó đã vẽ tặng tôi một bức tranh màu nước. Nó còn lén cho tôi những kỷ vật nho nhỏ, bởi vì nó biết tôi yêu nó. Tôi đã thấy bức tranh đó cuốn lại và cột dải ru băng trong hộc bàn tôi. Tôi còn giữ, không biết ở đâu đó.
Bà ngó láo liên, như tự hỏi bà đã cất bức tranh ở đâu. Đột nhiên bà kêu lên:
- Và cái anh chàng đó thật là thô kệch!
Ông William biết là bà ám chỉ Herbert, nên ông trả lời:
- Tuy cục mịch, nhưng vững như trồng.
Bỗng dưng bà Emma xao xuyến, bà nói:
- Ôi, tôi có biết gì đâu! - Bà vặn vẹo hai bàn tay dài và xương xẩu của bà vào nhau - William, dùng thêm tí trà nữa nhé?
Muốn làm vui lòng bà cụ, ông William nói:
- Vâng ạ, thêm tách nữa. Trà này ngon tuyệt.
Bà già xem ra rất vui lòng, bà nói tiếp:
- Anh thích trà ấy à? Đó là thứ trà đặc biệt, nhưng ít người biết. Tôi đã thấy nó nơi một tiệm của người Tàu, một nơi thật lạ lùng. Tôi tưởng anh biết, William, tuy nhà ở New York mà tôi vẫn chu du khắp thế giới. Một hôm nọ, tôi rơi vào một hội chợ Italia thực sự, giữa hai con đường giáp cùng của thành phố, nơi đứt đường giao thông. Hàng trăm ngọn đèn giăng giữa các gian nhà và một cửa hàng có mái lợp một cách quái lạ, nơi người ta mua bán. Khi người thư ký của anh gọi điện cho tôi là chính lúc tôi đi mua trà đó. Tôi ân hận mãi vì đã không dẫn Jessica về ở với tôi. Tôi chắc cô ta sẽ vui lòng đến. Anh cũng rõ là Bertha quá khắt khe với con nhỏ. Tôi thấy chị ta nắm cánh tay con nhỏ mà lôi. Nó có lang thang qua những ngôi nhà mênh mông trống vắng đó, thì tội tình gì. Ngoài tôi, không ai biết rõ điều đó. Tất cả mọi người đều bận rộn.
- Nhưng Bertha yêu quý con của chị ta lắm. - Ông nói mà không thêm những gì ông nghĩ về tính khí của Bertha.
Bà Emma nhăn mặt, tỏ vẻ chán chường.
- Ôi, William, tôi van anh, đừng nói với tôi về tình yêu. Đó là cách chữa mình khéo léo. Cũng bằng cách ấy, cháu Jessica đã bắt đầu: “Thưa bà Emma, bà biết con chỉ thương có một mình bà thôi..”
Bà cười lên the thé. Mẹ của bà Elinor lúc sinh thời là một phụ nữ dịu dàng, và theo ký ức của ông William, chỉ có dì Emma là yêu quý bà nhất.
Tuy nhiên ông không có thể phân biệt được dấu vết gì tỏ ra bà Emma điên loạn, ông cho rằng, bà chỉ luôn luôn cố chấp, khó tính, bẳn gắt, và không bao giờ chịu lấy chồng. Ông cũng thấy rằng, không phải không có người xin cưới bà hồi bà còn trẻ, nhưng ông không rõ vì sao bà đã từ chối luôn như vậy, giả thuyết là không bao giờ có biến cố gì khủng khiếp đã xảy ra. Uống xong tách trà thứ ba, ông đứng lên, cảm thấy nhẹ người vì không có vấn đề gì mới cần giải quyết.
Ông nói như để khuyến khích bà:
- Năm nay dì sắp trở nên giàu lớn rồi, dì Emma à, giá cả đang lên, và chắc dì sẽ được những lợi tức cổ phần.
Nhưng bà có vẻ như không bằng lòng:
- Ôi, đừng nói với tôi về những chuyện ấy, chẳng qua do tiếng đồn ghê gớm về chiến tranh mà ra. Thà chết nơi nhà từ thiện còn hơn làm giàu bằng cách ấy.
Bà mò trong cái túi nhỏ bằng nhung đeo nơi cổ tay, rút ra một mẩu giấy cắt trong báo, đã nhàu nát, lấy kính lão đeo vào rồi đọc: “Chế tạo bom nguyên tử”. Bà bỏ kính xuống, nhìn ông trách móc:
- Thế mà anh sắp nói với tôi về lợi tức cổ phần...
Ông nói với giọng hối hận:
- Dì tha lỗi cho tôi. Tôi quên là dì theo dõi tin tức sát sao đến thế.
- Nếu tôi không quá già, - Bà lại nói với giọng bi kịch - tôi đã đi hiến máu rồi. Chắc họ không thèm đâu. Máu tôi cằn cỗi quá! Tại sao không? Máu có biến đổi gì không? - Bà đưa cánh tay mặt lên, nó gầy tong gầy teo, ống tay áo tuột về đằng sau.
- Chắc vậy, - Ông William đáp - các thầy thuốc phải biết điều đó.
Bà Emma buông cánh tay xuống đầu gối, bà nói:
- May phước, tôi đã không lấy chồng. Tạ ơn Chúa đã không cho tôi có con. Nếu không thì bây giờ tôi không chịu nổi đau khổ.
Bà nghiêng mình về đằng trước và hỏi ông William:
- Anh sẽ làm gì cho lũ con của anh, William?
- Chúng nó sẽ phải hành động như những thanh niên khác.
Bà kêu lên:
- Anh thấy chưa, chúng nó sẽ đau khổ và cả anh nữa. Đó là điều hôn nhân đã mang lại. Tôi thật tình muốn có được Jessica ở đây, theo lẽ phải vậy, đằng này tôi chỉ nghĩ đến điều đó khi thấy nó ở bên cạnh tên đàn ông thô lỗ kia. Bertha ục ịch, chị ta cũng giống hắn, tôi chẳng biết tại sao tôi không ép Jessica đến với tôi. Chúng tôi có thể gần gũi nhau tại phòng triển lãm nghệ thuật. Tôi có một tác phẩm tuyệt đẹp ở đó của họa sĩ Turger của riêng tôi, tất cả mọi người đều biết.
Phải chăng đó là triệu chứng của bệnh tâm thần? Không phải bà ta sống theo tính cố chấp của thời xưa. Dì Emma trí khôn lành mạnh, nhưng bà cố chấp cả trong những gì bà tưởng tượng như bà thường làm, cao hứng khi có người nghe chuyện bà lấy làm ngạc nhiên.
- Nghe dì nói, tôi cũng thích, nhưng bây giờ tôi phải đi về, dì Emma ạ. Trà của dì ngon tuyệt, tôi sẽ thuật lại cho nhà tôi nghe.
Ông xiết bàn tay dài, già cỗi, gầy guộc của bà Emma rồi ra đi. Ở đây chỉ có lối sống vô trách nhiệm của tuổi tác, ý muốn tỏ ra mình không phải là hạng người như ông hay là kẻ khác tưởng. Jessica mà sống trong môi trường bệnh hoạn này thì thật là tai hại. Thà cô ta đi theo con đường thông thường của người phụ nữ là lấy chồng, có một tổ ấm, và sinh con đúng lúc. Đó là tiếng nói của sức khỏe, của sự quân bình và của tình bè bạn tốt. Vì thứ bè bạn này có thật, chắc chắn là thế, cho những con người chung sống với nhau, dưới cùng một mái nhà. Tình yêu là vinh quang của hôn nhân, cái dư tràn của một cốc đầy, nhưng hôn nhân tự nó là một sự cần thiết. Ông nghi ngờ nỗi phấn khởi của dì Emma, nghi ngờ những khả năng của Jessica, chẳng có gì bảo đảm những tư chất này của cô là do thừa hưởng của vợ chồng Bertha và Heinrich cục mịch. Có lẽ các dì phước đã tập cho Jessica biết thưởng thức, song nếu nó còn, thì cô ta cũng sẽ quên đi khi đời sống bình thường bắt đầu. Ông xua đuổi hình bóng Jessica ra khỏi lòng trí ông, khá bất nhẫn vì ngoài ý muốn, hay là ngoài sự quan tâm của ông đối với cô, người thiếu nữ đã xuất hiện rất thường và bằng một cách không hợp lý trọng đời ông.
Trong dịp lễ Giáng Sinh, Susan đem theo về nhà một con chó. Ông William về bằng xe hơi, mệt lả người, ngồi sau tấm lưng đồ sộ của Herbert, mở mắt để nhìn thấy con gái ông trong cảnh tranh tối tranh sáng lạnh lẽo. Cô ta chờ ông nơi hàng rào chấn song giữa những cây du. Ông nhìn thấy bóng dáng cô, thấp và mạnh khỏe, mặc áo vét lông thú màu trắng. Một con chó mực dữ dằn, không rõ thuộc giống nào, kéo chằng sợi dây da quấn vòng trong bàn tay mặt của cô. Ông William ra lệnh ngừng xe và quay kính xuống. Ông la lên:
- Con thú gì thế?
- Không phải là một con thú mà là một con chó. Nó tên là Pirate, tên cướp biển...
- Ba không xuống xe được, - Ông càu nhàu - mà ba cũng không để cho con lên xe được. Xem bộ nó muốn thịt chúng ta.
- Nó còn tơ mà ba. - Cô gái nói.
Cô kéo trì nó lại, đang khi nó gục đầu nhủi tới trước, sủa ầm ĩ vào chiếc xe, đêm tối, và tất cả. Ông William tự nhủ: Nó sủa cả chính nó.
- Cái gì bắt con đem nó về nhà? - Ông hỏi.
Ông thấy mình bắt buộc phải la lên vì con chó sủa to quá, giọng trầm và vang vọng khắp rừng cây.
- Nó to lớn dị thường, mỗi bữa nó ăn hết hai cân thịt đó ba. - Cô ta hét lên đáp lại.
- Hai cân? Ba thấy nó có thể ăn hết năm mươi cân...
Ông William không đến gần con gái được, ông lại la to len qua bóng tối mờ mờ.
- Lát nữa sẽ gặp con, khi ba đã vào trong nhà. Ba không muốn con đem nó vào.
Susan càng la to hơn nữa:
- Con chó nó đòi vô. - Nàng cong người chỏi vào cái cây.
Ông William càu nhàu và quay kính xe lên.
- Ôi thật là ghê tởm. Cho xe chạy đi Herbert, gió chiều đã lạnh lắm rồi đấy.
Herbert không nói gì về những việc đã xảy ra. Anh ta chỉ nói khi có người hỏi. Đó là tư cách căn bản dưới con mắt của ông William.
Ông William không nói gì, song cũng lấy làm lạ về một vài thay đổi nơi người tài xế của ông, trong mấy tuần cuối cùng này, kể từ ngày anh ta cưới vợ. Thường thì anh ta lái xe rất cẩn thận và chạy tương đối chậm, nhưng nay bỗng anh tăng tốc độ lên lúc nào không biết. Chiều hôm nay anh lái xe từ thành phố về, với một tốc độ hợp lý, nhung khi về gần đến những con đường làng thì anh ta lại tăng tốc. Một lát sau, ông William đang ngủ mơ màng chợt tỉnh giấc vì cảm thấy chóng mặt, ông ngó đồng hồ tốc độ: 80 dặm một giờ.
Ông vội la lên:
- Trời đất, Herbert!
Herbert giựt mình, và chiếc xe bỗng chạy lạng sang hướng khác một cách nguy hiểm.
Ông William lại la lên:
- Hãy ngó vào đường mà chạy!
Thật là điên khùng vì khi nghe bảo thế, Herbert lại ngoái đầu lui để chiếc xe chạy loạng quạng như không có người điều khiển.
- Liệu hồn, cảnh sát thổi còi đấy!
Herbert vội vã giảm tốc độ xuống con năm mươi dặm giờ, tốc độ giảm đột ngột làm cho chiếc xe bị trì lại. Herbert nói:
- Xin lỗi ông chủ, con đương nghĩ về một chuyện khác.
Ông William nghiêm khắc nói:
- Khi đang lái xe, anh đừng để trí óc nghĩ ngợi đâu đâu.
Về đến nhà, ông ôm hôn bà Elinor ở ngưỡng của và phàn nàn về Herbert.
- Chiều hôm nay, suýt chút nữa thì xảy ra tai nạn. Herbert cho xe chạy đến 80 dặm giờ.
Bà Elinor có vẻ áy náy, nói:
- Điều đó thiệt em không thể tưởng tượng nổi!
- Anh đã bảo, nhưng Herbert nói là hắn đang nghĩ về một chuyện khác.
Cửa bỗng mở và Jessica bước vào, với áo bờ lu xanh, tạp dề trắng xếp nếp. Cô đến bên ông William, đưa tay đỡ lấy cái mũ và áo khoác của ông.
- Con chỉ phục vụ trong mùa nghỉ hè thôi, thưa ông chủ, nhưng điều ấy cũng biến đổi con đôi chút.
Ông sực nhớ có nghe một điều giống như thế, và lương tâm nhạy cảm của ông đâm ra áy náy. Ông nói:
- Quả thật, tôi chẳng có công gì đâu, tôi đã chẳng nghĩ gì đến điều đó cả. Cô hãy cám ơn bà Asher mới đúng.
Ông thấy dường như bà Elinor đang chờ ông với vẻ hơi xa vắng.
- Thưa bà, được trở lại đây thật là thú vị, con cám ơn bà rất nhiều.
Jessica nói một giọng gắn bó, âm sắc van nài khác thường.
- Cô chỉ giúp chúng tôi trong thời gian các cô cậu về đây thôi. - Bà Elinor trả lời, giọng bình thản và ngọt ngào. Ông William quay mình về phía thang lầu và cảm thấy bàn tay của bà luồn dưới cánh tay ông.
Cả hai lẳng lặng đi lên lầu, khi đến phòng khách riêng của bà, bà ngồi xuống. Phòng này dẫn vào hai phòng ngủ của ông và bà. Gian phòng đẹp mắt, trang trí đơn giản, đó là phong cách của dòng họ Winsten, không có các món đồ mua theo thời, đồ thêu rua và đồ trang trí tỉ mỉ chỉ rước bụi bặm. Màn của bằng sa tanh dày, xanh lơ, không hơn và màu đó cũng còn thấy nơi tấm thảm Ba Tư đã cũ, dệt các họa tiết đều đặn. Màu xanh hợp với vợ ông, bà có đôi mắt xanh biếc, dưới mái tóc màu vàng hoe ánh bạc. Ông William ngồi xuống, nhồi ông điếu, trước khi tắm và thay đồ. Tòa nhà yên tĩnh, nhưng từ ngoài vọng lên tiếng chó sủa ồm ồm.
- Vợ chồng Winston về đến chưa? - Ông hỏi.
- Madge đã điện thoại cho biết vợ chồng nó không về được trước ngày mai. Edwin vừa mới về đã tức tốc đi thăm con Vera. Susan về đúng giờ với một con chó và một chàng thanh niên.
- Anh đã thấy con chó rồi. Một con chó dễ sợ.
- Anh không nên nói bô bô lên vậy, chính chàng thanh niên đó đã tặng cho con nhỏ, con chó.
- Chàng thanh niên đó bây giờ ở đâu?
- Có lẽ anh ta ngủ. Anh ta đã ăn rất nhiều bánh ngọt và một dĩa xăng-uých đầy ắp. Anh ta không chịu uống trà, nhưng đã nốc hai ly Gia pha nước, rồi kêu buồn ngủ.
- Em có biết anh ta không?
- Không, anh yêu. Anh ta mới đến đây lần đầu.
- Hắn giống cái gì?
Bà Elinor ngẫm nghĩ:
- Rất giống con chó, to lớn, quê mùa, thuộc gia đình tầm thường, ôi rất tầm thường, thế mà Susan lại nói rằng tụi bạn nó cho anh ta là tuyệt hảo.
Điều bà nói làm cho ông William liên tưởng đến chuyện khác:
- Tại sao các cô ngày nay lại thích những anh chàng cục mịch nhỉ? Anh nhớ rằng trước kia em đã kiểm soát cả cách đi đứng của anh. Ngày nay, các chàng trai lẻo mép, càng khoe khoang và ăn ở theo kiểu tướng cướp, thì càng được các cô gái yêu.
Bà Elinor lại trầm ngâm suy nghĩ. Bà ngồi duyên dáng, thoải mái, đặc biệt quý phái, một thứ quý phái trẻ trung như nước Mỹ. Hai chân bà thon nhỏ, mang giày nhẹ trong nhà, tréo nhau dưới chiếc váy dài có rua đen, đẹp, cho một tầng váy trong màu anh đào, chắc là bằng sa tanh, vì không nghe tiếng sột soạt. Bà không thích loại vải có tiếng sột soạt khi cử động.
Bà nói cách nghiêm chỉnh:
- Em cũng không biết nữa. Điều em biết là em không chịu nổi những chàng trai mà Susan đã đem về đây. Em mong sao nó đừng lấy một ai trong đám thanh niên mà chúng ta đã gặp.
William đang nghĩ về cậu con Edwin, nên ông nói:
- Còn con nhỏ Vera thì sao?
- Ồ, con bé đó thì chắc chắn là ngộ nghĩnh rồi - Bà nói ngay. Nhưng rồi bà lại đâm ra do dự, bà nói thêm có vẻ cực chẳng đã - Em có một ý nghĩ kỳ cục mà em không nên nói ra.
- Nói đi, giữa anh và em, chúng ta đã từng nói với nhau biết bao nhiêu là chuyện điên khùng.
- Em tự hỏi, con Jessica có để trong đầu một ý nghĩ buồn cười nào về thằng Edwin nhà mình không?
- Ồ, đó chỉ đơn giản là một sự điên khùng - Ông ngỡ ngàng nói - Jessica được bà Bertha nuôi dưỡng, đâu có thể quên thân phận mình đến thế! Nhưng này, Edwin còn là trẻ con. Jessica bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Hai mươi bốn.
- Như thế thì một đứa hai mươi mốt, một đứa hai mươi bốn...
- Edwin quá đẹp trai, và em muốn sao cho con Jessica ít đẹp hơn, ít kiểu cách hơn, anh cũng biết, con nhỏ có thể là quá tế nhị và chắc cũng quá nhạy cảm đối với nghề nghiệp của nó.
Ông lại hỏi, vẫn bối rối trong lòng:
- Em nhận thấy cái gì sao?
- Có lần em bắt gặp Jessica đang cười, hai bàn tay đặt trên vai Edwin, còn hắn, hắn cúi đầu và đỏ mặt.
Điều ấy làm ông cảm động và ông định thú nhận một điều mà cho đến lúc đó chưa xuất hiện trong tâm trí ông một cách sắc nét, không phải cử chỉ của Jessica trước tấm gương soi, nhưng là một cảm giác mà ông cũng không tự thú nhận cho chính mình.
Ông nói, vẻ miễn cưỡng:
- Em cũng biết, Jessica có những cách tiếp xúc ngộ nghĩnh với bất cứ người đàn ông nào.
Bà Elinor nhìn thẳng vào mặt ông:
- William, anh muốn nói gì?
Ông không biết trả lời sao, lời nói vượt quá khỏi sự hiện thực. Ông gượng cười đáp:
- Anh chẳng biết nghĩ cái gì đây. Mỗi khi anh thử giải thích bản thân anh, thì cái đó vuột đi mất, có thể là do cách em nhìn với vẻ mơ màng, quyến rũ. Cái đó luôn làm cho anh xốn xang và anh liền lẩn tránh. Anh chắc chắn con bé còn ngây thơ quá, nên không để ý.
- Không có người đàn bà nào lại ngây thơ đến mức độ ấy! - Bà Elinor đáp.
Ông chăm chú nhìn bà và thầm nghĩ: Bà chả có gì phải cay đắng về điều đó cả.
- Đàn bà chúng em sinh ra là đã khôn ngoan rồi - Bà nói tiếp với ít nhiều châm chọc - Đó là lối thoát đến tự do của chúng em. Người đàn bà càng bị chèn ép, càng khôn khéo lên.
- Em có bị chèn ép không? - Ông nói.
- Em có thiếu khôn ngoan không?
Bà lại đắm mình vào cái bản chất xa vắng của mình, mà đôi khi bà đã từng làm như vậy suốt nhiều ngày. Ông đã biết rõ tình trạng tinh thần này của bà và từ lâu ông tự hạn chế mình bằng một nụ cười, bằng một chấp nhận, và nếu có thể, yêu thương bà nhiều hơn trong lúc chờ đợi. Vì thế ông trả lời:
- Mặc dầu anh là một luật sư người ta cho là sáng giá, nhưng không nói ngoa, anh không để em phỉnh phờ đâu. Anh sắp tẩy uế mình về những gì thuộc về thành phố, và xây dụng cho mình cái gì có tính cách vững chắc hơn. Còn về chuyện Jessica và Edwin, anh chẳng tin tí nào, nhưng anh sẽ để mắt đến.
- Điều ấy làm em vững tâm, vì anh cũng nhận thấy cách Jessica vồn vã tấn công đàn ông, đó là nói chung cho hết mọi người đàn ông, anh yêu ạ.
- Em nghĩ như thế là được rồi. - Ông bình tĩnh đáp. Ông cảm thấy quá mệt mỏi để nói nghiêm túc.
Vụ kiện quan trọng không đi đến đầu. Nhân chứng nổi bật nhất, biết tường tận tất cả những chuyện xấu xa, được phép lánh mặt đi khá lâu để bị con quỷ nào đó mua chuộc, cuối cùng không chịu tố giác những gì hắn đã cam kết thú nhận. Hiện giờ hắn đang ở đằng sau song sắt nhà tù, trong an toàn, nhưng hoàn toàn vô dụng. Hội đồng thành phố New York lại phải trả chi phí cho những cuộc điều tra mới và lâu dài, về những vụ việc tên nhân chứng ấy biết, nhũng vẫn che đậy dưới cái sọ tối tăm của hắn, mà hiện tại không có tổ chức nào có thể bẻ khóa hay cậy nắp để vào được.
Ông William tạm quên gia đình lúc ông tắm và cạo râu lần nữa. Có thể nói, khói dầu và bụi bặm của thành phố làm cho râu ông mọc nhanh, đến phải cạo sáng và chiều, nếu giờ đi năm, ông muốn hiến dâng đôi má khá nhẵn nhụi để kích thích đôi môi của vợ mình. Bỗng ông nghe tiếng cánh cửa mở ra rồi đóng ập lại, tiếp theo là tiếng ồn ào nơi cầu thang, điều mà hai đứa con trai ông, dầu trong lứa tuổi khuấy động, cũng không bao giờ làm. Ông liền ý thức đó là chàng thanh niên bạn của Susan, tên là Peter, người đã tặng con chó, mà con khuyển lại giống chủ hết chỗ nói, đến đỗi bà Elinor, một người bác ái nhường nhịn, tốt bụng nhất đời, đã khám phá ra điều đó.
Khi ông bước vào phòng khách phía Đông, thì sự giống nhau đó dường như là hiển nhiên. Con chó nằm trước lò sưởi, nơi không một con chó nào dám bén mảng, vì ông William không bao giờ nhượng bộ, khi các con ông còn bé tí, đòi cho được một con chó săn nhỏ vóc, lông dài, mà ông cấm không cho mang vào nhà. Mùi hôi của chó làm ông khó chịu, nhưng phòng khách chiều nay lại bốc lên nồng nặc mùi chó.
- Susan! - Ông kêu lên. Ông chợt thấy cô gái quý của ông mặc áo dài vàng, dợn sóng quanh vóc dáng mảnh mai và đôi vai sậm màu của cô.
- Thưa ba, con biết lắm, nhưng Peter bảo rằng, nếu không cho con Pirate vào nhà, nó sẽ tru tréo lên suốt đêm.
Một thanh niên vóc dáng dềnh dàng, đứng lên khỏi ghế bành của ông William, phô bày tấm thân đồ sộ của anh ta, cặp mắt đen huyền khuất dưới hàng mi dài và đen. Đầu tóc rễ tre của anh ta cũng đen, bù xù không chải gỡ, đã đến lúc cần phải cắt. Anh ta mặc bộ đồ nâu sậm, áo vét nút không cài, để lộ cái sơ-mi màu xanh lơ, nhăn nhó, chắc anh ta dùng nó để mặc khi ngủ. Đôi gò má của anh vun cao, đỏ au, hai tay cũng đỏ và lớn quá cỡ. Bàn tay anh đưa ra để bắt tay ông Asher thì to bề bề và đầy lông lá.
Với giọng ồm ồm như bò rống, anh ta nói:
- Phải ông Asher đây không?
- Có thể lắm, Peter, anh nghi ngờ thật à? Thưa ba, đây là Peter Dobbs.
Anh ta nói với cách phát âm miền Nam, hơi lè nhè:
- Hân hạnh được gặp ông. Tôi đã nghe nói nhiều về ông. Từ ngày quen biết với Susan, tôi đã đọc báo. Thật đấy, tôi phục tài ông bao vây mấy tên găng-tơ vô cùng. Rủi người ta đã để cho Berman vượt ngục, nhưng bây giờ mà bảo rằng hắn đang ở trong tù là một cách nói thật ngộ nghĩnh.
Khi con chó thấy ông William thì nó nhảy dựng lên, chồm hai chân trước, trương lông gáy. Nó gầm gừ thật dữ tợn.
- Pirate, câm mồm nằm xuống! Nó chưa quen đấy thôi.
Ông William chua chát nói:
- Tôi có cảm tưởng là không bao giờ làm quen được với nó cả.
- Tôi cá là có đấy. - Peter nói, và lại ngả mình ngồi lún trong chiếc ghế bành bằng da.
- Peter, đứng dậy đi. Đây là cái ghế của ba.
Ông William muốn tỏ ra lịch sự, nhưng vẫn cay đắng:
- Cứ ngồi tự nhiên.
- Peter, dậy đi, tôi đã bảo! - Susan lại nhắc.
Peter đứng lên một cách khả ái, đổi qua ghế khác.
- Ngồi đâu mà chả được, miễn là chiếc ghế đủ rộng, tôi không thích bị nó bó rọ trong đó.
- Ba ngồi vào ghế của ba đi ba. Bản chất của Peter tốt, nhưng nói gì với anh ta là phải nói dứt khoát. Đó là điều duy nhất anh ta hiểu được, nhờ thế sự giao tiếp với anh rất dễ dàng.
Cô ta nói những lời cay độc với giọng trầm nữ, một giọng diễn cảm, dù cố tình va chạm, vẫn tạo ra một âm hưởng dịu dàng.
Ông William ngồi xuống. Ông cảm thấy bị xúc phạm quá mức. Con chó to lại nằm xuống trên tấm thảm. Ông bỗng quan sát con vật, nó ngó ông với đôi mắt giận dữ, đỏ rực vì phản chiếu ánh lửa trong lò sươi.
- Nó nhìn thế, chứ nó không xấu tính - Peter nói - Nó không thể không nhìn.
Susan nói mà không cười:
- Thì nó cũng giống như anh đấy thôi.
Peter cười rộ, đầy thán phục.
- Chắc rồi, cô có cái lưỡi nhỏ mà độc. Một ngày nào đó, tôi sẽ kéo thẳng nó ra, và lấy con dao như thế này ra - Anh ta rút một con dao bỏ túi to bản, bật lưỡi - tôi cắt cái lưỡi nhỏ đó ra cho con chó Pirate ăn.
Ông William nghe, sợ khiếp. Ông cảm thấy bất lực trước chuyện này. Những tên tướng cướp trong một phòng tiếp khách tại một thành phố rộng lớn, hư hỏng, điều đó còn có thể xảy ra được, nhưng đâu có ngờ gặp phải một tên quái đản như thế này tại nhà mình.
Peter hỏi Susan:
- Mẹ cô đâu rồi? Nói với bà là tôi đói bụng rồi.
Susan ngồi yên bất động, cô trả lời:
- Chúng tôi đang chờ Edwin. Mẹ bảo, vào phút chót, anh ấy đã gọi điện về nói là anh sẽ đưa Vera đến ăn tối.
Có tiếng lao xao ngoài tiền sảnh, có nghĩa là Edwin đã về đến, và sau mấy giây, cậu con trai thứ của ông William, cao lớn, tóc vàng hoe, như các người trong dòng họ Winsten, đi vào cùng với cô con gái của ông chủ ngân hàng địa phương. Cũng lớn con như Edwin, cô Vera Bates, giống như một cây bu-lô ánh bạc, có sắc đẹp đoan trang và đôi môi dù rất mỏng, thẳng một đường ngang, vẫn tỏ vẻ tốt bụng.
Ông William đứng lên một cách lịch sự, đó là loại thiếu nữ mà ông ưa chuộng, một tạo vật trẻ trung, gây lòng tin tưởng, mà ông sẽ đón vào nhà ông, vào gia đình ông.
Con chó lại nhổm dậy, xù lông gầm gừ, nhưng Vera cúi xuống vuốt ve nó, nên tiếng gầm gừ của nó hạ dần. Nó hít hít mấy hơi, rồi nằm xuống.
- Sắc đẹp của con vô giá, Vera ạ.
Ông William nói, rồi chìa tay ra và cảm nhận lòng bàn tay mát mẻ của Vera áp vào bàn tay mình.
- Con xin chào bác Asher. - Cô nói một cách nghiêm túc.
- Chào con thân yêu, và con nữa, Edwin, ba thấy con rất khỏe, con trai của ba.
Ông cảm thấy vui vẻ trở lại. Những trang thanh niên như thế này có thật, mặc dù có những mặt khả ố và không thể chấp nhận ở một vài phương diện nào đó, nhưng người ta vẫn phát hiện ở nơi khác, những hạng người mình có thể tự hào.
Ông động lòng trắc ẩn đối với Peter, một con người khó chấp nhận và đáng ghê tởm. Khi mọi người đã an tọa, ông nghiêng mình về phía anh ta và nói:
- Con chó này thuộc giống chó nào thế nhỉ?
Ngay lúc đó, bà Elinor bước vào phòng khách, không ai biết bà từ đâu đến. Từ phòng đồ, có lẽ, bởi vì bà rất tỉ mỉ trong chuyện dọn bàn ăn, cách sắp xếp và bưng thức ăn phục vụ. Bà siết tay Vera một cách nhẹ nhàng và ngồi xuống cái ghế dựa dành cho bà có bọc nhung màu hồng, ông William đứng lên, đẩy cái bục kê chân phủ nệm thêu đến bên bà.
- Cám ơn anh yêu. - Bà nói.
Bây giờ ông ngồi xuống lại, ngó quanh gia đình sum họp với ánh mắt dịu dàng và thỏa mãn. Một lần nữa, ông lại cảm thấy dâng lên trong lòng niềm xót thương đối với Peter, con người không bao giờ ông có thể chấp nhận vào gia đình ông. Ông nghiêng mình về phía chàng trai quê mùa đang cuộn mình trên ghế dựa, đang giữ im lặng một cách dễ thương.
Để tìm cách trò chuyên với anh ta, ông William lại hỏi thêm một lần nữa:
- Pirate thuộc giống chó nào vậy?
- Nó không thuộc giống nào hết - Peter đáp - Đó chỉ là một con chó lai hỗn tạp. Ở nhà cha tôi, loại như nó chẳng thiếu gì. Tôi giữ nó cho riêng tôi, vì nó to con. Nó cũng sáng ý nữa. Nó dễ dạy. Tôi bảo gì nó làm nấy. Ê, Pirate, lại đây...
Peter búng ngón tay đánh tróc, và con chó đứng lên, xù lông, cặp mắt sáng quắc, tỉnh táo, hai tai vểnh lên.
- Nếu tôi ra lệnh, nó sẽ nhảy chồm lên một trong bất cứ ai đang ở trong phòng này! - Peter hãnh diện nói.
- Ối!...
Tiếng kêu thất thanh từ ngưỡng cửa. Tất cả đều quay lại xem ai đã kêu lên như thế, vì tiếng kêu như tắt nghẽn trong họng. Đó là Jessica. Cô đến báo tin bữa ăn tối đã sẵn sàng. Con chó chồm hai chân lên trước cô, đứng chong mắt ngó cô như muốn ăn tươi nuốt sống. Jessica nhìn nó, khiếp sợ, hai bàn tay ôm lấy nó.
- Nằm xuống, Pirate! - Peter quát.
- Jessica! - Bà Elinor kêu lên.
- Phải, thưa bà - Và cô để xuôi hai tay xuống - Con... bữa ăn đã sẵn sàng rồi đấy ạ.
Jessica tháo lui, và mọi người đều đứng dậy. Con chó không động đậy.
- Lại đây, Pirate! - Peter nói.
Con chó đi theo anh ta vào phòng ăn. Anh ta chỉ chỗ cho nó nằm ngay trước hai cánh cửa đã đóng lại. Con chó do dự.
- Nằm xuống, ta bảo nằm xuống! - Peter quát.
Con chó hạ mình xuống nằm một cách nặng nề và Peter mỉm cười nhìn quanh một cách hãnh diện.
- Như tôi đã nói, tôi bảo gì nó làm nấy!
Jessica không quay trở lại phòng ăn, Herbert hầu bàn, tử tế hơn thường ngày một chút, ông William tự nghĩ, làm như không thấy có con chó, nhưng mỗi lần anh ta bước vào phòng, nó đều gầm gừ trong cổ. Đúng như Peter đã bảo, hắn biết làm cho con chó vâng lời.
Susan nói với Peter:
- Anh bày cho em ảo thuật của anh đi!
Hai anh chị ngồi sát bên nhau, con chó nằm trên mặt thảm sau lưng họ.
- Không có vấn đề ảo thuật! - Peter đáp. Anh ta đang thong thả tọng đồ ăn vào mồm, dùng một lượt cả dao và ma một cách quái dị. Anh ta bảo Susan - Nó chỉ vâng lời một người mà thôi, đơn giản là người chủ của nó.
- Làm sao nó biết em là chủ của nó?
- Khi anh đi rồi, nó sẽ vâng lời em.
Nghe mấy tiếng ấy, ông William hoảng hốt kêu lên:
- Đừng để con chó lại đây!
Peter ngẩng cái đầu đồ sộ của anh ta lên.
- Đó là quà Giáng Sinh của tôi tặng Susan.
Bà Elinor cũng kêu lên:
- Ồ, không...
Edwin nhướng chân mày ngó Vera. Vera đáp lại bằng một cái nháy mắt rất khó nhận, cả cậu lẫn cô đều không nói gì. Susan quay về phía mẹ.
- Nó không làm cho mẹ bực mình đâu, con sẽ đem nó theo vô trường. Bà làm công trong đó hứa đem nó về nhà, nếu nhà trường không cho nó ngủ tại nhà ngủ tập thể.
Bà Elinor không trả lời. Đã từ lâu, chồng bà và bà đã thỏa thuận với nhau là không bao giờ cãi vã với con cái nơi bàn ăn của gia đình, và chắc chắn là không trước con người lạ mặt tên là Peter này.
Đôi mắt của bà bắt gặp mắt ông ngang qua bàn ăn và ông hiểu tiếng gọi câm lặng của bà. Ông nói với giọng cố ý làm ra vẻ vui vẻ:
- Các đài khí tượng báo trước sẽ có một mùa Giáng Sinh đầy tuyết phủ. Ba mong họ nói đúng, vì con cái nhà này sẽ được vui đùa thỏa thích trong tuyết.
Edwin luôn sẵn sàng tiếp trợ mỗi khi câu chuyện bắt buộc phải đổi chiều, anh ta thêm:
- Con phải lôi các xe trượt tuyết trong khu ra mới được.
Bà Elinor tán đồng:
- Hay đấy, đã lâu lắm rồi chúng ta không dùng đến nó. Một là Giáng Sinh màu trắng sẽ là điều mới lạ cho đám trẻ. Đã hai mươi năm rồi, chúng nó còn bé quá làm sao nhớ được. Em không tin chính bé Billy có thể nhớ về quá khứ lâu đến thế. Anh nghĩ sao William?
- Nhất định là không rồi. - Ông đáp. Và xuyên những lời nói tung ra một cách can trường, ông lại nghĩ đến ngày mai, tên Peter kỳ quặc sẽ lên đường. Tên họ anh ta là gì đấy, ông quên tiệt. Thật ra cũng chẳng có gì quan trọng. Một khi anh ta đi rồi, ông sẽ nghiêm chỉnh bảo Susan để con chó ở ngoài, đúng chỗ của nó.
* * * * *
Peter ra đi sớm, đầu tóc bờm xờm, anh nhảy lên chiếc xe cũ kỹ đến nỗi ông William tin chắc ngoài vùng Ozark không có chiếc nào giống như vậy. Ông nghĩ dưới áo choàng nhàu nhò và bộ đồ vét mặc chiều qua, Peter phải giữ bộ Py-ja-ma trong người. Ông quan sát tất cả từ cửa sổ phòng ông. Ông bị đánh thức bởi những tiếng khua động, nhưng ông giữ ý không chường mặt ra cho đến khi tiếng lạ hết còn nghe thấy trong nhà. Khi Peter bật công tắc chiếc xe hơi, một thứ tiếng rùng rợn vang lên, tiếng hổn hển của đầu máy, một luồng khói phụt ra, làm cho Susan vội vã ra khỏi nhà, mặc vỏn vẹn chiếc áo ngủ bằng nỉ màu rực rỡ. Dáng người nhỏ bé, bận áo khoác màu đò, mái tóc nâu dài xõa vung vãi trên lưng, dài lạ lùng, dù cô bé chỉ mới dưỡng tóc từ mùa hè năm ngoái. Ông William nhắm mắt lại, sợ phải nhìn thấy con gái yêu quý của mình ôm hôn anh chàng đực rựa đang ngồi nơi tay lái, tóc tai bờm xờm và rất đáng tởm. Nhưng ông lại vội vàng mở mắt ra, hy vọng không có như vậy. Quả thật, Peter chỉ vươn lên một cánh tay dài, ống tay áo Py-ja-ma lồi ra dưới tay áo choàng. Anh ta ôm xiết Susan vào người, đến nỗi che mất hai vai cô gái, song không có hôn nhau.
- Tạ ơn Chúa. - Ông William lẩm bẩm. Rồi ông đi nằm lại, ngủ thêm một giờ nữa.
Không bao lâu sau đó, ông lại khám phá ra một điều không thể chấp nhận. Chiều hôm trước, khi sắp lên lầu, ông đã chỉ thị cho Herbert, hễ Peter ra đi hồi nào thì đem con chó ra ngoài hồi nấy. Herbert đã sẵn sàng vâng lời. Nhưng nay con chó lại nằm ngủ trên mặt thảm phòng khách trước lò sưởi. Herbert đi vào, bước đi quả quyết, nắm sợi dây xích con chó, anh ta là người có súc mạnh tàn bạo, và con chó bị xách bổng lên, gần chết ngạt. Nó tru tréo trong cuống họng. Herbert bỏ chân qua hai bên hông nó như cưỡi ngựa, và vừa bước đi vừa lôi nó theo. Một phút sau, Pirate bị tống ra khỏi cửa, đẩy vào cái giá lạnh bên ngoài, và cánh cửa được khóa lại. Nó sủa lên lồng lộn, tông cả mình vào cánh cửa. Ông William nghe tiếng đập phá, tiếng tru tréo của một con thú rừng tiếp theo là tiếng nó cào cấu cánh cửa lớn, nghe thật kinh khiếp. Cánh cửa chính là niềm hãnh diện của tòa nhà, nó thật cổ xưa, mà theo truyền thuyết, nó được làm ra từ một cây sồi cổ thụ trên sườn núi, đã trải qua bao nhiêu thế kỷ từ khi gia đình Winsten đến định cư tại vùng Vermont này. Ông William vọt xuống khỏi giường, choàng vội cái áo ngủ bằng nỉ và gặp bà Elinor cùng cô Susan trên cầu thang. Herbert và Jessica gặp nhau nơi phòng để đồ nhà ăn, và bà Bertha từ nhà bên chạy lên thở hổn hển. Ông William hối hả mở cửa và con chó tuôn chạy vào nhà.
Ông William la to:
- Không thể nào tiếp tục như thế được, tuyệt đối không.
Ông quay về phía Susan, hai mắt lộ vẻ tức giận, đến độ lần đầu tiên ông nhận thấy con gái sợ ông. Nhân cơ hội cô ta sợ hãi bất thần ông nói:
- Ta không muốn con vật này trong nhà ta, hãy đem nó đi đâu thì đi. - Ông la to đến nỗi ông cũng cảm thấy bỡ ngỡ về mình.
Susan chạy đến phòng khách phía Đông. Con chó lại nằm ngủ trên tấm thảm, thân xác to lớn của nó nằm mọp xuống sàn nhà bất động, cố chấp, đầu tựa lên hai chân to lớn, với thái độ phục tùng, nhưng cặp mắt nó thì u uẩn ném về mọi người cái lườm nảy lửa.
- Pirate! - Susan quỳ gối bên nó - Pirate!
Con chó ngó lên, nhăn răng gầm gừ. Bà Elinor la lên:
- Susan, lại đây, nguy hiểm đấy. Làm sao bây giờ? Còn nửa giờ nữa các trẻ sẽ về tới nơi.
Đúng vậy, tàu lửa sẽ đến trước chín giờ, mà nay đã gần tám giờ rưỡi.
Ông William cương quyết nói:
- Ta sẽ cho nó đi thôi.
Susan bực mình to tiếng lại:
- Con không muốn người ta giết nó. Nó chỉ bị la mà thôi, nó biết Peter đã bỏ nó. Nó sợ con, vì nó cảm thấy bất thường, và vì không thấy Peter. Nó luôn thấy con và Peter ở chung.
Ông William lặp lại, không nhượng bộ:
- Con chó không được ở đây!
Nhưng trái tim ông nhũn ra, khi ông nhìn thấy đôi mắt nâu của con gái ông ngấn lệ.
- Ôi, trời ơi là trời! - Bà Elinor than thở.
Nhưng Jessica đã làm cho mọi người bỡ ngỡ. Cô ta luôn là người nhát gan, đang đúng giữa Herbert và Bertha, lại bước lên và dõng dạc nói:
- Tôi sẽ bắt con chó, đem nó về nhà, mẹ tôi sẽ tự xoay xở công việc ở đây.
Cô ngơ ngác nhìn hết gương mặt này đến gương mặt khác và dừng lại nơi ông William.
- Thưa ông, con xin ông, bỗng dưng con thấy khó chịu trong người. Ban đầu Herbert không muốn để con đi, anh ta bảo con sẽ bị xây xẩm, và ít nhiều cũng có như thế thật. Với một con chó hộ thân, sẽ có lợi cho con nhiều. Nhà con hiu quạnh quá, con luôn sợ hãi. Con nghĩ con chó sẽ quen dần với con, khi chỉ còn một mình con với nó.
Phải chăng đó là một cách giải quyết, khi đã đến giờ tàu tới. Họ nhìn nhau lưỡng lự. Herbert lặng lẽ. Bà Elinor quay về phía bà Bertha.
- Một mình chị có chắc làm nổi không?
Bà thấy ý Jessica muốn ra đi tức thời, nhưng tại sao lại thế, vì Jessica đã nài xin trở lại đây kia mà.
- Herbert sẽ giúp tôi. - Bà Bertha đáp.
- Được rồi, ngày mai ăn sáng xong, tất cả có thể về nhà.
- Phải, chắc là vậy. - Bà Bertha nói.
Như thế là đã giải quyết xong. Herbert xông vào con chó. Anh ta kẹp nó vào hai ông chân chặn cổ nó hết sức mạnh, đến nỗi nó không quay đầu lại được, nó thở hết nổi, cổ bị chặn chỉ còn nghe tiếng khò khè. Herbert lấy gân hai đầu gối kẹp con chó lôi đi.
Ông William mở cửa chính ra và tất cả đứng nhìn Herbert chộp lấy con chó, giành phần chủ động một cách mạnh bạo, đưa nó đến chiếc xe hơi hiệu Panhard, xe riêng của anh ta. Anh ta dùng một tay để mở cửa xe, nên con chó được lơi lỏng, gầm gừ và quay đầu lại vừa đủ để ngoạm vào cánh tay của anh ta. Anh đá phốc một cú vào bụng con vật, dùng hai tay và đầu gối giở nó lên cao, ném nó vào trong xe, khóa cửa lại. Anh ta kêu lên:
- Tôi không vào trong nhà được, vì cánh tay đang bị chảy máu.
Bà Elinor cũng la lên:
- Đi mời bác sĩ!
Ông William đưa ra ý kiến:
- Lam sao Jessica lái được xe với con thú ấy?
- Cô ta được an toàn khi ngồi ở băng trước. Đã có tấm kính dày chắn ngang ở giữa. Không cần đi thầy thuốc. Chó không mắc chứng dại, nó chỉ cắn bậy đó thôi.
Tất cả vào nhà và từ cửa sổ ông William quan sát con chó. Nó tông vào cửa kính, sủa loạn lên, kêu la và tru tréo thật dữ. Mấy phút sau đó, Jessica theo cửa sau ra ngoài, mình gọn ghẽ trong chiếc áo xanh lơ, rất hợp với thân hình mảnh dẻ của cô, một chiếc nón cùng màu ôm sát đầu và như bao giờ, giữ dáng vẻ dị biệt, vượt khỏi địa vị của cô. Không thèm ngó con chó, cô leo lên xe, đóng cửa và lái đi.
Mọi chuyện đã qua. Gia đình đã trở lại trạng thái bình thường với cảnh an bình trong ngày Chúa Giáng Sinh. Ông William lên lầu đi tắm, thay đồ và trở xuống một cách khá bình thản. Bà Elinor và Susan đang đợi ông trong phòng ăn. Ông hỏi:
- Edwin đâu?
Ông đứng sau lưng Elinor, kéo ghế cho bà như thói quen từng làm, đến độ vô ý thức.
- Anh có nghĩ là nó còn ngủ chăng? - Bà Elinor hỏi.
- Anh khoái được như vậy, anh thèm được như nó. Khởi sự đêm canh thức Noel như thế là tuyệt!
Ông thỏa mãn khi nhận thấy vẻ tùng phục của Susan. Cô ta mặc kiểu áo dành cho buổi sáng bằng nỉ màu hồng.
Ông không chấp nhận việc mặc đồ ngủ ngồi vào bàn điểm tâm, song ông không nói tới, cô ta đã biết rồi. Cô uống nước cam vắt chầm chậm, ra vẻ như khó nuốt, sắc diện xanh xao.
Herbert mang cà phê vào. Bà Herbert đã băng bó cổ tay cho anh ta cẩn thận.
Ông William nói:
- Tôi tự hỏi, khi về tới nơi, Jessica một mình làm sao giải quyết con chó ổn thỏa được?
- Thưa ông chủ, con đã dặn Jessica cứ để nó ở đằng sau xe, cho đến khi nó đói lả. Khi nó đã kiệt súc, con sẽ bắt nó và cho nó thấy ai là chủ.
Susan ngước mắt lên để phản đối. Bốn mắt gặp nhau, Ông William không nhượng bộ và Susan cúi đầu.
- Herbert, đó là một ý kiến hay! - Ông nói.
- Cám ơn ông chủ.
Herbert vừa đáp vừa rót cho ông một ly cà phê đầy. chầm chậm, ra vẻ như khó nuốt, sắc diện xanh xao.
Herbert mang cà phê vào. Bà Herbert đã băng bó cổ tay cho anh ta cẩn thận.
Ông William nói:
- Tôi tự hỏi, khi về tới nơi, Jessica một mình làm sao giải quyết con chó ổn thỏa được?
- Thưa ông chủ, con đã dặn Jessica cứ để nó ở đằng sau xe, cho đến khi nó đói lả. Khi nó đã kiệt súc, con sẽ bắt nó và cho nó thấy ai là chủ.
Susan ngước mắt lên để phản đối. Bốn mắt gặp nhau, Ông William không nhượng bộ và Susan cúi đầu.
- Herbert, đó là một ý kiến hay! - Ông nói.
- Cám ơn ông chủ.
Herbert vừa đáp vừa rót cho ông một ly cà phê đầy.