Số lần đọc/download: 1741 / 30
Cập nhật: 2019-03-01 16:17:00 +0700
T
ôi có việc đến Phnôm Pênh. Thời kỳ 1962 phức tạp, ở Phnôm Pênh có cả hai tòa đại diện ngoại giao miền bắc và miền nam Việt Nam. Gần Sài Gòn quá, nếu lộ tông tích, e xảy ra bất trắc. Phải làm thế nào, nhỡ khi la cà quá xá không ai biết là người ở Hà Nội tới. Bộ đồ mùa thu mới pha len xanh nhạt, túi áo vét cài mảnh khăn trắng nhỏ, bắt chước làm dáng kiểu Sihanuc, thời đó thịnh hành ở Phnôm Pênh.
Tối ấy, chơi sàn nhảy bè nổi Trăng Sáng trên sông Mê Công. Giữa trời nước, giả vẻ thôn dã. ánh điện vụn ra, mờ mờ trăng suông. Từ chỗ này đến chân cầu Chang Va, nhấp nhô, óng ánh những sàn nhảy, những quán ăn trên sóng.
Người ta vừa ăn, vừa nhảy, vừa nằm ngồi rủ rỉ trong những ngăn buồng vách bên sàn. Tôi ngồi một chỗ, nghe sóng ì ọp dưới chân và ngoài kia sáng trăng- trăng giãi lăn tăn như mắt lưới.
Một cô gái nhảy đến ngồi bên. Mụ Tú Bà, chẳng biết người ta hay người Tàu, mặc áo "xường xám" xanh, bước thon thót như con châu chấu ma. Sai phái con em đến với khách, mụ đã sắp cỗ cả.
- Mời anh...
- Không nhảy nhót gì đâu. Cút đi nhé?
Nghe mắng yêu và thấy tôi tợp cả ly rượu mạnh không pha đá, cô gái nhảy tỏ vẻ hiểu rồi.
- Em ngồi với anh vậy.
- Cứ đi, lúc nào nhảy mỏi hẵng lại đây nghỉ chơi.
"Anh đuổi em thật à. Cảm ơn nhé?". Tiếng cảm ơn chưa dứt người đã đi thoảng ra đằng trước. Nó chỉ mong có thế. Nó đã lĩnh tích kê ghép đôi với tôi, giờ lại được đi tìm khách, nhận tích kê tiền lần nữa. Có lẽ chúng nó bảo nhau hay mụ áo xường xám đã khéo để mắt, một cô khác vẫn đến.
- Cho em ngồi hầu anh.
- Cứ việc.
Một lát, không thấy tôi nói gì, nó bảo:
- Cho em đi nhé?
- Cứ việc!
- Cảm ơn anh yêu.
Nó đi luôn. Nhà hàng đã tính một xuất, lại được đi tìm khách. Lãi quá. Có đứa vừa ló ra, tôi đã hất tay. Nó cười nhoẻn, đi ngay. Lại đứa khác.
Chẳng sao, đàn cá mài mại đến rỉa mồi. Chắc tôi được tiếng chơi sang nhất hội đêm nay rồi.
Cô này khuôn mặt quen như đã gặp ở đâu. Thoáng hiện về như gần mà như xa, dáng dấp một người chết đã lâu. Vong hồn cô Ðạm Tiên nào đêm nay theo nhau đến tận chốn sông nước chân mây này. Tôi im lặng. Cô gái mặt trái xoan nhẹ nhõm. Nếu không gặp ở đây không thể tưởng là một cô gái giăng hoa.
- Sao anh cứ nhìn em thết!
- Xin lỗi em.
- Em mới có lỗi. Không biết anh đến, em mặc dơ thế này thì không phải với anh.
- Chẳng sao.
- Anh đưa em về nhà thay đồ rồi em mới dám ra với anh. Anh lái cho em, em ở gần đây thôi.
- Anh mới bên Singapore sang, chưa mua xe.
Tôi đâu biết Singapore chốn nào! ấy là tôi đã được nghe kinh nghiệm đến Phnôm Pênh tỏ vẻ sành sỏi thì phải nào Casino núi Bokor dưới Kampot, rồi bãi tắm Kép, rồi nơi ăn chơi "Kép nhỏ" trên sông cách đây vài cây, rồi ông Sihanuc mới thuê từ Pháp về trưng bày cả phòng ba bức tranh của danh họa Buffet. Rồi bản ca khúc mới nhất của ông Sihanuc về Phnôm Pênh, rồi... Bấy giờ Singapore sống hoa lệ, Hồng Kông không bén gót. Nói ở Singapore về, làng chơi thèm rỏ rãi, mà gái chơi thì lác mắt. Quả nhiên bài thuốc Singapore nghiệm tức thì, cô gái nhìn tôi, mắt đăm đắm, thuần hơn. Ôi chao, sao mà nhớ ai kia, sao mà nhớ.
- Em ở đây?
- Em mới lên.
- ở Sài Gòn?
Cô gái nhảy mỉm cười, cúi xuống, nhắc ly rượu của tôi, uống một ngụm.
- Em theo người ta di cư vào nam. ở ngoài ấy, em đi nhảy các đồn biên thùy, Tiên Yên ra Hà Cối, Ðầm Hà... Anh biết Hà Cối chứ? Ðến khi tụi Tây vào Sài Gòn, nó hợp đồng đem chúng em đi. Ðược ít lâu, Tây cút về nước, cho rơi luôn, thế là bơ vơ.
- ở Sài Gòn làm ăn còn được.
- Anh chưa biết à? Dưới Sài Gòn nó cấm các "ba" rồi. Anh cũng người ngoài à?
- Bao giờ hết loạn mới được về với mẹ cái hĩm.
- Không che được mắt thánh đâu. Anh ở Hà Nội vào.
- Em đẹp lắm. Em giống một người ngày xưa của anh.
Cô gái lung linh mắt, cười.
- Hay là người ta đấy?
- Người ta chết rồi.
Nhưng cô gái đã khẩn khoản:
- Em có thằng em ở phố Hàng Giày. Hôm nào anh về cho em gửi nó mấy chữ. Ðời em gian truân lắm...
Lát sau, tôi về cùng với những ông chủ tiệc đã tha tôi đến đây. Tôi ôm người gái nhảy. Chúng tôi hôn nhau, hôn thật. Nước mắt cô ấy mằn mặn trên môi. Cuộc chia tay phút chốc đâm ra não nùng.
Sài Gòn giải phóng được ít lâu, thành phố vẫn còn ngổn ngang những phân vân, những ngỡ ngàng. Ngày trước tôi đã từng qua lại nên không lạ mắt lắm. Có vài dinh cơ và nhà cao tầng mới còn thì đại để vẫn thế. Ðường xe lửa điện không còn nhưng những cột đèn cột điện từ đầu thế kỷ vẫn đứng như những bộ xương người sụn lưng lọm khọm vì bị chằng chịt cơ man từng nạm dây điện vắt qua. Còn nhận ra nhà hàng Thanh Thế xưa đầu tiên bán kem Nhật và cái tiệm cơm chay vẫn chật chội thế ở trước ga xe lửa Mỹ, cánh cửa và bàn ghế xám xịt mầu nước dưa.
Tôi rỗi rãi, thỉnh thoảng ngồi xích lô rong phố.
Tôi hỏi người đạp xe:
- Quảng Ngãi vô hả?
- Chưa biết Quảng Ngãi ở đâu. Nghe bố con kể quê Quảng Ngãi thôi.
- Làm ăn thế nào?
- Cũng vậy vậy. Bây giờ khó nhiều. Các ông giải phóng không đi xích lô, các ông bảo vì thương người lao động, thế thì chết mẹ con rồi.
Tôi cười ha ha.
Mặc nhiên, cậu xích lô đời bố quê Quảng Ngãi ấy với cái ông Bắc di cư dởm cứ chuyện với lên với xuống thoải mái râm ran cả đường. Tôi hẹn cậu ấy vài hôm lại đến Thanh Ða gọi tôi đi dạo một vài cuốc. Ðôi khi, ghé quán làm chầu bia 3 con 3 còm. Tôi rủ, nhưng cậu xích lô không dám vào. Chắc e ngại có thật ông này dân di cư hay thế nào.
ở đường Ðồng Khánh, ở chợ Ðũi, chợ An Ðông, những tiệm nhảy, những nhà hàng đều còn đóng cửa nghe ngóng. Mấy quán bia tạm bợ lấp ló quầng ánh đèn không hắt sáng ra đến vỉa hè.
Quán ấy ở chợ An Ðông. Trong tôi có cái chán chường, chán mà vẫn đi, đi chơi kiểu lấp sổ như thế. Bia chai con hổ, con báo hay con ba ba, lờ mờ quá, nhưng mỗi khách vào thì cứ tự nhiên, một cô em đến bên cạnh, nửa đùa nửa thật làm quen.
- Anh cho em uống với.
- "Con hổ" nhé.
- Dạ.
Cô ấy đã bưng ra chai bia và ly trà đá. Cung cách thế biết là đi làm quán bia không công, chỉ ăn vào khách. Chốc nữa, những ly trà rồi tính với chủ thành một chai, hai chai, ba chai... Cũng như cái tích kê vào "ba" ở Phnôm Pênh ấy mà.
Ô hay, tôi lại thấy cái cô gái nhảy ở Phnôm Pênh tối năm trước bảo là có cậu em ở phố Hàng Giày. Cô đến ngồi với tôi. Tôi vẫn nhớ, mà tôi cũng đã quên rồi. Cái khuôn mặt hao hao ai ở tuổi mười tám đôi mươi dường như chỉ tưởng ra thế. Cho được ngậm ngùi thôi.
Hơn mười năm rồi, cô ấy bây giờ ốm hom hem, mặt phấn nhưng cái cổ để mộc, ngẳng lại, nổi vằn mấy đường gân xanh. Mùi nước hoa, xà phòng thơm không át được hơi thở tanh tanh. Ðêm xưa, cái hôn nước mắt trào xuống, chứ không phải người này.
- Anh mới vô?
- Bên Ða Kao thôi.
- Em cũng ở Ða Kao.
-Người như cua bò biết sao hết.- Rồi tôi hỏi trống không.
- Di cư à?
Cô gái buông một tiếng nhạt thếch.
- Không.
Chuyện tỉ tê, lông bông lăng nhăng. Cô không nhận ra tôi. Khách làng chơi, làm sao nhớ được. Thế cũng nhẹ mình.
Mấy năm sau, đôi ba khi lại vào Sài Gòn. Nhưng không nghĩ đến chợ An Ðông. Cũng thường chơi nhởi vậy mà ít đi ăn. Món ăn Bắc ở đây tuy được chuộng nhưng quà Bắc sai vị Bắc, đâm ngán. Thịt rựa mận phải có da có mỡ, đằng này là đĩa xương rựa mận, nước lợ như đường.
Những ngày cuối thu miền bắc hình như cũng làm cho trời đất phương nam dịu đi. Gió hây hẩy, những đốm lá me vàng rụng lăn tăn. Mát mẻ đôi chút, hay nghĩ đến thịt chó. Chúng tôi đi quán thịt chó Huế ở Lăng Ông- có người mách quán ấy cũng như quán bà cô đầu già ở hẻm đường xe lửa gần chợ Ðũi, những nơi còn ăn được. Nhưng thịt chó Ba La, Phủ Lỗ chứ, sao lại Huế? Chậc, thì cứ đi xem nào.
Chữ "Thịt chó Huế" sơn vào mảnh tôn treo bên gốc cây me cổ thụ, trước cái lều vách tôn, mái tôn, lá me rụng xuống đã bao nhiêu năm, dày kệp, mục đen như những mái rạ thời nào ở các làng miền bắc. Cơ chừng mà rúc vào cái hang cái hốc này chén món cẩu nhục có khi lại hay.
Nhưng những cái trước mắt đã làm cho chúng tôi ỉu dần. Hai chiếc bàn trống hốc. Bếp núc đằng sau vách, thấy làn khói than đước lên xanh len lét. Dưới gầm tấm ván bên, có đến ba bốn nhóc lầm lụi chui ra. Không biết chúng rúc vào nghịch hay ngủ trong ấy. Toàn con gái, ba đứa, bốn đứa, đứa nào cũng tóc xoăn xù, có đứa da đen nhẻm. Chưa hết, đằng sau nhà, tiếng búa, tiếng dao lạch xạch chặt củi, đụng vào vách tôn, kêu kênh kênh. Có tiếng người đàn bà đương rít lên, rủa: "Chúng bay chết đi! Chết hết đi!".
Biết có khách, bặt im. Một người đàn bà bước ra, tay còn cầm cái roi lò ô. Chao ôi, lại người ấy, vẫn người ấy. Ðời người ta, nhiều sự đã qua không nghĩ đến thì nó cứ trở lại như những ám ảnh không dứt ra được. Nàng đã tã lắm, lão lắm, không còn chút nào hao hao giống ai, mặt trễ xuống, má hõm lồi lõm, mớ tóc phi dê lờ phờ.
Người đàn bà đon đả:
- Chào các ông, mời các ông.
- Ðã bán mở hàng chưa?
- Vắng hả? Hôm này rằm. Chỉ có khách tri âm, tri kỷ, khách nghiền mới đến thôi.
- à...
- Thịt chó Huế có gì hay nào?
- Hay lắm. Các nơi khác thì chỉ bảy món, ở đây mười bốn món ạ, thứ thiệt. Chính gốc chứ không phải giả cầy như các ông bắc leo cây đâu. Các ông ngồi, mời...
Câu nói dài dòng tưởng không thể chắp nối kịp về con người, cuộc đời với giọng kể lể. Có thể coi như câu chuyện làm quà, để đưa đẩy, để bán hàng, để lấy cái kiếm sống, biết thế nào. Lúc thì bảo là ở Hà Nội, lúc thì di cư, lúc thì quê đẩu đâu, cái mà tôi trông thấy từ năm là gái nhảy ở sàng bè Trăng Sáng bên Nam Vang, rồi cô bia ôm chợ An Ðông, rồi bao nhiêu năm sau, lăn lóc đến quán thịt chó Huế mười bốn món này. Trước mặt đây, một lũ lĩ con gái, đứa da nhờ, đứa đen bóng, lêu đêu, tóc xoăn tít. Ðằng sau con người ấy, còn gì nữa?
Chỉ một thoáng đã lần lượt bày biện các thức ra đủ. Thế mà khoái mắt, người xơi thịt cày thích ăn uống trật tự, quy củ món trước món sau. Lũ trẻ con lốc nhốc ấy mà được việc. Bưng bê từng món, hơn cả món chó Hà Nội bây giờ xô bồ, khách vừa gọi đã lia ra cả thực đơn, chưa có đĩa bún, đã ngốt mắt bát rựa mận, đúng rựa mận. Mỡ và bì tiết ra một thứ nước sền sệt mầu mận chín quánh như mỡ. Bát sáo bốc mùi xương hầm, không ngọt lợ nước dừa. Ðích thị tay nghề thịt chó Cầu Ðơ Hà Ðông. Chứ kiểu cách nơi khác làm thế nào được. Sáo này thế là xài tốt, vậy cũng chưa vắng người thiện nghệ, người sành. Cái ngày rằm chén thịt nặng thì xúi quẩy, thế mà vẫn có khách tới ngồi bàn bên. Hai ba con chó dự trữ lục đục gặm xương dưới gầm nhà, gầm phản. Lũ trẻ con - mấy đứa bé nhất đã ngồi lên ván từ lúc nào, trố mắt hau háu nhìn sang khách như thèm ăn, như xem vô tuyến, còn hai nhóc đứng trực cửa bếp, chuyển món vào. Lúc đã bưng đến bát sáo và đĩa bún, thế là xong, mấy mẹ con cùng bước ra.
Tôi bảo:
- Ngồi uống vui với bọn này. Chẳng mấy khi...
Chị ngồi vào ngay. Tôi hỏi:
- Uống tối chứ?
Vẫn nhớ đêm ở sàn nhảy trên sông Mê Công cô đã uống chung với tôi ly "uých ky xếch". Cái hôn nóng nhày nhụa. Tôi cảm tưởng môi cô ấy thế. Nhưng mà môi nào chứ không thể cái môi trễ của mụ gà rù rúm ró này. Sàn nhảy bóng nhoáng khác cái cũi chó, cho nên nhớ mà như không, tội thế.
Tôi nói:
- Thịt chó này được.
- Ba tôi truyền nghề đó.
- Rựa mận kiểu bắc.
- ông làm như quê ông cái gì cũng nhất. Còn khuya!
Hai con mắt mu bào húp híp chằm chằm nhìn tôi.
Cái tối hôm ở Singapore về, "pôxét" cài "mùi xoa" trắng mốt mới, nhớ không? So với bây giờ thì người ấy đã tã đã gà rù lắm, gà rù lắm rồi, không nhất nữa đâu, đừng có vênh. Tôi lặng người như nghe ai chửi rủa ở đâu. Làm vẻ quên đi, quên rồi, nhưng mà cái câu rỉa rói "gà toi, gà rù, gà tã" mà tôi vừa thầm nghĩ về nó, bây giờ nó quăng độp cả vào mặt tôi, tím mặt tôi. Không còn "như con bướm lượn vành mà chơi" đâu nhé, tôi ơi là tôi ơi. ấy con người có thói thường ít tự biết.
Một chiếc xích lô lọc cọc nhô vào đỗ dưới gốc me ngoài cửa. Thình lình thằng bé xích lô quê Quảng Ngãi nhô vào. Nó nhìn tôi, nó reo lên:
- Chào bác, bác đến...
Một ông bạn cầm chén, hướng vào tôi:
- Nhận con, mày nhận con mày đi. Cái thằng này bạc như vôi. Ngủ với người ta rồi quên. Hề, hề, hề... Mày đã nghe hết mẹ mày xỉ vả ba mày về cái tội lòng thòng. Ðích đáng, đích đáng. Mời các ông, mời bà, mày nữa, một chén tái hồi Kim Trọng nào.
Thằng bé xích lô ngẩn mặt nghe giọng ông say lè nhè. Tôi thấy nước mắt người đàn bà lã chã. Bỗng nghe văng vẳng cái câu năm xưa: "Ðời em gian truân lắm" như vừa nói vừa khóc. Tôi tưởng là quả thật tôi đã có ăn nằm với người ta. Chén rượu Hóc Môn hẳn hoi mà sao vị nó cài cài không đậm như mọi khi.