Books are the quietest and most constant of friends; they are the most accessible and wisest of counselors, and the most patient of teachers.

Charles W. Eliot

 
 
 
 
 
Tác giả: Tru Sa
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: Ngọc Viễn
Upload bìa: Ngọc Viễn
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 3
Cập nhật: 2024-11-23 23:19:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
ao Gương
Hình…hình…quáng vào tôi như thế, bởi không có sự mênh mênh kiểu đang ăn giấc thì thót mình, mở mắt, mộng mị vẫy cánh vào cõi mơ để lại một khoảng rỗng trong trí nhớ nên tôi thây kệ, đời người thiếu gì lúc mơ màng không lý do, ví như Newton đang ngồi nhàn thì bị táo rơi vào đầu. Đời tôi nhan nhản những lần nhìn ra cửa sổ, nhìn như không nhìn, nghĩ như chẳng nghĩ cho đến lúc giật mình khi ai đó quát tháo một cái tên, tiếng trống trường kết liễu tiết học nhàm. Thứ mới vọt trong đầu tôi thật khó cắt nghĩa, chẳng gợn lại chút cảm xúc gây tò mò nào ngoài việc khiến tôi nghĩ đến một cái móc treo quạt trần giữa ngày mặt trời oi ả. Cả tôi cùng những người ở đây, từng đến đây đều nghĩ thế, họ chỉ làu bàu cửa miệng, tự nói trong đầu mình như tôi lúc này. Mặt trời ngồi trên đầu, không tỏa nắng nhưng vẫn quăng quắc tới mức không ai dám nhìn lên lâu hơn một cái liếc mắt. Mồ hôi và hơi nóng làm khô nước và máu trong người, may mắn sao mảnh đất này không hanh nước như con đường tôi vừa xuyên qua. Phần đường trước chỉ thấy cát và không hề có đất, không có lương thực dự trữ từ thiên nhiên, nếu có thì chỉ là những bộ xương bị chôn vùi trong cát, món cốt này chỉ có thể gặm để tưởng nhớ mùi thịt chứ chẳng thể lót dạ. Vốn hiểu biết tương đối của tôi ghi rằng xương chỉ chứa canxi chứ không có nước, những khối xương khô quắt đã mất hình khỏi lịch sống càng vô dụng, chống chọi lại sức nóng của mặt trời chỉ có màu xanh của xương rồng thế nhưng loài cây này thường mọc ở sa mạc còn nơi đây chẳng giống sa mạc cũng chẳng giống bất cứ nơi nào trên bản đồ thế giới, trừ việc mặt trời luôn thượng đỉnh khắp mọi nơi. Nhìn lên mặt trời với trí chiếm đoạt sát hoàng là thú vui từ thượng cổ cho đến ngày nay, tôi cũng là một trong những hậu duệ thèm muốn uống mặt trời vào đôi mắt nên vẫn thường ngước lên ngọn giáo của địa cầu. Kẻ săn mặt trời sẽ bị đốt cháy, kẻ nhìn lên mặt trời sẽ bị móc mắt, kẻ ngang nhiên bay khỏi nhà tù bằng đôi cánh, vươn mình lên mặt trời sẽ bị vặt trụi lông cánh, tan nát thịt xương, đấy là những gì tôi được nghe về trận chiến giữa người phàm và mặt trời. Chủng loài biết nói với trí tuệ phát triển vượt trội tự nhận mình là đấng cai trị và đốt ngòi chiến tranh bằng khát khao điên loạn, sát phạt mọi giống loài trên đất, dưới biển, ăn hết chim trời. Đám vương tướng hoang đường tránh né mọi cuộc chiến tay đôi, lấy nền văn minh gươm giáo, súng đạn làm thước đo của kẻ mạnh. Ngòi nổ đốt dài cho sự nã pháo lên kẻ địch ngàn năm trên chín tầng trời, nhưng rồi pháo bắn không tới, rơi ngược trở lại, ánh quang bẻ nhàu sự hợp nhất của ngôn ngữ thành nhiều tiếng nói, rồi khi mặt trời kéo rèm đen, đổ một trận lụt xóa sổ đền tháp trọc trời. Ông hoàng của vương triều thứ năm không màng đến một thế đứng thượng quyền, những kẻ gây chiến đã tự ngã giá lấy sự thảm hại trên chiến trường, để quên kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên ngàn đời, bầy người hạ thấp nòng pháo, hướng về vùng đất láng giếng mèo ngoạm mèo là hư, mèo xé xác chuột là phải lời bà ngoại ới tôi trong ngày đoàn người tiễn bà ra đồng, tôi không nhớ về đoàn người nửa quen nửa lạ ghép thành cái mặt lạ hoắc như da rắn lột, bữa đó vào trưa, nắng to dát vàng khắp nẻo, trong lúc đám người mải làm lễ thì tôi ngồi nép sau quan tài của bà để tránh nắng…chợt nghe thấy giọng bà khe khẽ bên tai, tưởng rằng tiếng vọng từ hũ tro trong quan tài nên tôi áp tai vào mặt gỗ, lúc trèo lên áo quan thì bị một bà cô họ kéo chân ném xuống, cũng lúc này tôi đọc làu lời của bà, đọc rõ và vang như tiếng cú éc bà tôi vào bóng tối “Mèo và Chuột đều ăn thịt, tiếng meo tiếng chít không thể cộng hưởng và đấy là lý do…” tôi tự thầm, cúi nhìn cái bóng mình lướt trên cát. Mặt trời treo cao như chiếc móc quạt trần, cánh quạt quay chậm trong căn gác nhá nhem. Con đường này là nơi muôn kẻ chạy trốn mặt trời, không thể nhìn lên hay đứng quá lâu dưới nắng, nhìn ngang nhìn chéo vẫn chỉ một đường thẳng bất tận, cát nóng như phần tro trong lò thiêu, chạy xa thế nào rồi cũng bị quật ngã, ướm thân thể trong cát, hơi thở, thịt da lún vào cát rồi trơ trơ thành một bộ cốt lẫn lộn trong hàng trăm xương xẩu của người của thú. Nỗi lo sợ bủa gai con mắt, tôi cắn rách tay mình, nhè thịt và uống máu để lấy dũng khí đi hết con đường, lội cát bằng mọi giá, bò lết cả tay lẫn chân trước khi ngất xỉu dưới mặt trời. Nào có ai truy đuổi tôi nên tôi ngoài cái bóng tôi luôn quét dưới mặt đất, tôi không kiếm tìm một ốc đảo hoa văn trên chiếc áo người đẹp, tôi đang ở đây và phải tiến về phía, đi cho tận đường tận hết dấu chân trên cát, tôi muốn sống, muốn đắp đầy màu sắc lên con mắt đang mỏi vàng trong cát mặt trời.
Đi hết phần đường khô khan cát nóng, tôi đến đây. Thấy hố nước, tôi sùng sục lao tới chẳng cần biết đến sự cân nhắc sạch bẩn, cứ vậy lao tùm xuống vục cả thân mình, lặn sâu hết mức có thể. Tôi uống nước từ vị trí mình đang chìm xuống. Hơi nóng tiêu vong, da thịt tôi như được tái sinh, một cái gì đấy theo dòng nước trôi vào miệng tôi và tôi nuốt chửng, chẳng rõ cá, ếch hay vành tai rụng ra từ một xác chết bị xích dưới hố nước. Bơi, nhưng tôi chìm, sự khó thở thúc bản năng cầu sinh vùng vẫy lên mặt nước. Hố nước chỉ sâu hơn một cú nhảy kiễng chân nên tôi trồi lên rất mau. Lấy tay lau mặt và mắt, tôi nhìn lên vùng trời. Mặt trời cao vót trên tầng không, nắng quất chói mắt, tôi ôm mặt ngoảnh đi nơi khác như tích truyền miệng về người hùng bị thiêu rụi trong nắng trong thế ôm mặt. Chặng đường cát đã lún về sau, váng mờ trong trí nhớ, trước mắt tôi là một vùng đất sáng sủa và nhiều đá tảng, có mấy người đang hò nhau khiêng đá ra, lục lọi cái gì đấy trong đống đổ nát.
Đám người ở trên lật khối đá lên, đẩy xuống bãi rồi như tìm thấy cái gì đấy, một kẻ đẩy người đồng hành khỏi bãi đá rồi ngã theo bởi cú đạp của người trong nhóm và thêm một cú đẩy, cứ thế cho đến khi còn lại một người. Hắn bới tay xuống, chạm phải một khối đá lớn, hắn nghiến răng dồn sức đẩy, gồng đến run rẩy cả thân mình nhưng vô vọng, lũ bạn hắn đã tản đi nơi khác, đống đổ nát toàn những đá tảng này gập gồ, dài và cao như một ngọn đồi bị tán nhỏ bởi sấm sét. Đi men theo bên trái một lúc, tôi thấy mấy người đàn bà đang giằng xé, cào cấu, vít tóc nhau không biết vì sao, tôi ngờ là họ là những thành viên lẻ, bởi cùng chí hướng nên bắt tay lập nhóm rồi khi tìm thấy của hời thì tách đàn, đứng đối mặt nhau như loài thiên địch. Đàn ông giết nhau vì đàn bà còn đàn bà giết nhau vì một người đàn bà đẹp hơn lời dẫn cụ thể và chính xác hơn mọi đầu sách tôi từng đọc. Cựu ước hướng vào những bí tích, ngôn sứ của trách nhiệm và lòng bao dung, phật pháp chỉ dẫn một bàn tay buông không như chẳng còn, lão Nho vẽ vời tốt xấu, bôi đen chiếc nanh bá tước sau chòm râu cước trắng, cả tin sách vở nhưng không giỏi thuộc lòng, tôi dẫn ra một lí lẽ kiểu tự ngẫm khi nhìn ba người đàn bà đang hăng máu kéo tóc, cào mặt nhau. Vàng khối, kim cương, bảo ngọc không hợp cảnh bằng một tấm gương biết tuốt, lời rằng moi tim người đẹp mi là đệ nhất, linh hồn trong gương hiện hữu bằng sức mạnh của sự khôn ngoan, hiểu làu tim đen kẻ soi. Tuổi đời vô tận trong ngục gương, quá buồn tẻ nên linh hồn tìm vui bằng những câu chuyện thật, gương khà khà thì pho tàng thế giới thêm một trang sách.
“Mấy người làm gì thế!” – Tôi nói to khi họ trèo lên cao hơn, vài người trườn xuống chỗ khác. Có vẻ việc khiêng đá, đào xới ngốn hết sự tập trung nên không ai trả lời tôi, thậm chí không một ai sững lại trong giây lát.
“Ngươi có thấy ngọn đèn không?” – Một kẻ tóc rối bù, dáng người cao, chân ngắn như bị cụt bảo tôi thế. Tuổi hắn không còn trẻ nhưng chưa thật già, mắt vô hồn như sắp mù. Hắn đang ngồi nghỉ trên một khối đá tam giác nhọn.
“Đèn gì, ở đâu?” Tôi nói to hơn.
“Phía kia kìa!” – Ngón tay chỉ chếch lên rồi chếch xuống theo hướng mặt trời lặn nhưng chốn này đang là phía tây. Nhìn xa hẳn phía trước vẫn mù mờ, tôi nhìn lại ngón tay hắn thấy ngón chỉ đang run rẩy. Sự run rẩy do tật, biểu hiện của mệt mỏi và lo lắng, tâm lý học có ghi chép về một triệu chứng kiểu thói quen trên cơ thể mỗi khi bấn loạn hoặc lo âu, suy nghĩ quá nhiều, tương tự như chứng ra mồ hôi khi hồi hộp, lúc hắn thu ngón tay vào bàn tay duỗi đặt lên đầu gối thì hướng ngọn đèn vẫn lững lờ theo hình tấm ván bập bênh, tôi nghĩ ngón tay hắn bị tật thật. Kéo tầm mắt ra xa rồi hướng lên trời, tôi thấy một hình thù na ná ngọn đăng biển nhưng rồi hình ảnh cong vút và dạt đi nơi khác, té ra là đám mây dạt, xếp chồng nhau và được miết dài lên trong trí tưởng tượng của tôi đúng theo lời viết trong tâm lý học ám thị.
“Đèn lên là xe đến, chẳng có nhiều chỗ đâu.” – Hắn bảo thế rồi ngồi dậy, leo lên cao rồi đạp một phiến đá ra, cậy mấy viên đá, phủi bụi rồi vứt đi, bới bới như chuột đào hang.
Mặt trời lên là lên cao mãi, chậm rãi như sợi dây dẫn lên đỉnh mây. Chỗ nghỉ chân của mặt trời ở ngoài thế giới chúng tôi đang sống, nằm ngoài trái đất và hiện hữu như lãnh địa bất khả xâm phạm trong vũ trụ, mặt trời không lành tính như trăng, luôn chào đón cư dân của mọi tinh cầu. Đáp phi thuyền, cắm cờ lên trăng quá dễ so với việc ngồi lên cỗ xe lửa. Mặt trời ở khắp nơi, đi đâu cũng thấy nhưng đấy là kẻ đi đường ngước lên tìm kiếm chứ ông chúa phương Đông chẳng thèm liếc mắt đếm bụi dưới gót giày. Những kẻ lạc rừng luôn ngóng hướng mặt trời khi đánh rơi la bàn và bản đồ, dò dẫm đường theo cách tính của con dao quăng, biển đẹp mấy cũng thành hiểm họa nếu thiếu mặt trời, một đứa bạn tôi bảo rằng nỗi sợ không dẫn từ cảnh bơ vơ giữa đại dương mà chính lúc mặt trời lặn. Trong vùng tăm tối, nước lạnh thêm buốt giá, cơn đói đánh thức hàm răng đỏ ngầu dưới lòng biển, lắm kẻ cố hát cho bớt sợ nhưng nếu bắt gặp một âm thanh du dương thì phải dè chừng, dong thuyền thật nhanh sang nơi khác trước khi nhìn thấy dáng nữ trên mỏm đá. Hồi bé, chương trình truyền hình cáp là thứ gần gũi với lũ trẻ chúng tôi chứ không phải những tiết học tam luân ngũ thường, tôi nhớ trong series về thuyền trưởng Sinbad có một tập về Dracula. Trong phim, hắn miễn nhiễm với súng đạn, tỏi sống, thập giá bạc, chỉ khi những cánh cửa bị đập vỡ lúc mặt trời mọc, hắn vào tro cùng tiếng miệng cười nanh sắc. Mọi lễ nhập huyệt luôn tiến hành vào lúc trưa, đám tang của bà tôi cũng vậy, nắng cực nắng, đậm tới mức mắt ai cũng nheo lại cho đỡ chói lửa mặt trời sẽ rửa trôi mọi vương vấn trên xác người gã thầy cúng bảo thế, riêng tôi nhớ rằng mắt bà trợn ngược giữa đêm, tiếng cú bắt bà đi, lò thiêu cốt rước mọi hình ảnh của bà khỏi đời, một lỗ hoắm trong trí nhớ bồ câu rất hiền, kẻ ban hài tiên thì chẳng một lần nữa, tôi dẫn lại lời bà mình nhưng không phải trong ngày đưa ma hay lúc bất chợt nhiều năm trước mà chính lúc này, ngay bây giờ, tôi xem lại album thời thơ ấu giữa hai bà cháu dưới rèm nắng, chợt nhìn lên, lách tầm mắt khỏi mặt trời để tìm ngọn đèn mà tên chân ngắn kia nhắc đến, nhìn trái rồi phải, tôi đi lên bãi đá, định leo lên cao để nhìn rõ hơn thì đạp vào một phiến đá sút ra, suýt vấp ngã.
Đất Xửa, ừ, chính thế nơi chốn lạ hoắc này chưa lọt vào tầm ngắm của những kẻ có máu xê dịch, địa điểm này không có tên trong danh sách du lịch đất Bắc nên khó ai tra cứu được thông tin trên sách vở hay mạng xã hội, tôi biết về mảnh đất này qua lời kể của một đứa bạn, chuyện từ 4 năm trước, trong ngày họp lớp chỉ có mình tôi và gã, mấy đứa khác cáo bận với lý do đi công tác, chăm con nhỏ, xin khất vì nhà có tang, số còn lại thì báo hoãn bởi ngoài trời đang mưa to. Tôi và đứa bạn ngồi lại đánh chén từ chiều muộn cho đến đêm. Đang uống sướng, gã gục xuống bàn, li bì trong cơn say, tôi ngồi quay ra cửa sổ nhìn bóng trăng rơi trên cây.
“…Một nơi chỉ thấy mặt trời, Đất Xử…a…chuyến xe lúc 0 giờ 0 phút 0 giây ở Đường Cái, xe chỉ chạy một lần, chạy mộ…”
Chẳng biết gã nói say, lảm nhảm tiếng mơ hay vờ say để truyền tin. Gã nói rồi lịm vào tiếng ngáy. Tôi ngồi uống nốt rượu, ngủ khò trên ghế, hôm sau tỉnh dậy thì không thấy đứa bạn đâu. Túi tao trống hoác rồi, dòng chữ khắc mờ trên quả táo, tôi đọc, cười, gặm sạch trái táo, nuốt cả chữ và hạt. Thằng cha này từ thuở sinh viên vẫn vậy, luôn sẵn lòng, hết mình với mọi cuộc vui nhưng luôn đói tiền, nếu không là đứa bạn này thì tôi…gật theo kiểu chiếc lá khô cựa mình, tôi đứng dậy ra về. Lúc xuống quầy trả phòng, tôi hỏi nhân viên về gã nhưng không biết thêm được gì ngoài việc gã bỏ đi lúc nửa đêm, xuyên trong cơn giông tối mù đất trời. Lời rượu chẳng đáng tin nhưng tôi vẫn thử ra Đường Cái vào 0 giờ, đợi mãi chẳng thấy chuyến xe nào nên đành bỏ về. Hôm sau, tôi ra Đường Cái sớm hơn, ngóng mãi vẫn không thấy xe, lúc đấy tôi cáu kỉnh, tự nhạo báng đã quá sự cả tin lời nói sảng.
Cuộc sống hút tôi đi biết bao lâu kể sau lần gặp đứa bạn, tôi thay đổi chỗ ở liên tục, gặp thêm nhiều người và quên gần hết bạn cũ. Bạn bè một thuở cũng như tình yêu với những cô gái, người tình chỉ có một và luôn được thay thế, sàng lọc trong nhiều hình dạng, tôi may một chiếc váy, tiêu phí tuổi đời cốt tìm ra người mặc, lắm lúc tôi theo vài người một lúc bằng sự mê muội từ đôi mắt, gò má của một nàng, đắm mình trong giọng nói mềm mại như tiếng hát một nàng khác nhưng luyến nghiện sắc khí buồn trên môi cô gái khác, tôi không chắc mình giỏi chọn bạn hoặc kết bạn theo hình thức lựa người xứng với chiếc áo đầm tưởng tượng, tôi có thể đánh đổi mọi thứ vì một kẻ mới quen và sẵn sàng xóa khỏi đầu sự tồn tại của bất cứ ai nếu y sa ngã, làm nhàu nát ý nghĩa của tình bạn, tôi tôn trọng những thói xấu, sự ham hố sắc dục, tính khoác lác và ảo tưởng của con người nhưng khó lòng thỏa hiệp với những con tim bị thay máu bởi dục vọng, tình bạn và tình yêu, thứ cắt vào gân xương, khiến tôi ê ẩm, ngã bầm mình trên lưng ngựa, ngày trước ngày sau lội lên rồi ngụp xuống, uống đã đầy rượu và máu, vậy vậy không biết thời gian đã trôi qua bao lâu hoặc tôi luôn thấy lượng thời gian của mình dài gấp đôi người khác, nửa năm khốn đốn đẽo dài theo ma thuật mắt tre, tôi không thể biết người mình gặp tháng trước còn sống hay đã bạc trắng mái đầu. Trong một ngày thường như mọi ngày, tôi nhớ đến Đất Xửa. Thoắt trong tôi khi đó không phải sự uể oải, bầm mình của những lo âu vùi lấp tuổi người, cuộc đời chẳng mê hồn như phần thi mảnh trăng đuối, đền vàng đã tro theo tiếng dao xé bụng, thấy trời tím ngắt, và chỉ còn sự chất nặng theo kiểu án hình của người đẩy đá, ắt phải là cái gì đấy vắt vẻo từ lâu, bởi sự vèo qua quá nhanh rồi lặn biến không dấu vết nên tôi khó nắm bắt hình hài, tôi thử liên tưởng đến chiếc lá vàng cuối thu rơi theo đường quay lưỡi quạt trần trên nóc lớp học năm nào, hư hình dẫn tôi vào ý định tìm một vòm trời mênh mông để ngắm mặt trời.
Đường Cái vốn là một con đường kéo dài khắp thị trấn. Con đường độc đạo này từng là lối đi chính dẫn vào thị trấn, mãi sau này người ta phá đi rừng cây ở cuối thị trấn, thông một lối đi rộng rãi hơn, bắc vào những thành phố lớn, họ xây dựng lại tất cả, biến Đường Cái thành cửa sau và cải tạo con đường mòn cuối thị trấn thành trục đường chính. Theo những thông tin ít ỏi trong sách vở, qua lời kể của bà ngoại tôi thì thị trấn này vốn là lãnh thổ của một bộ tộc giàu có, không ai biết gốc gác của họ bởi họ không xưng vương nên không làm cờ hiệu, họ không chế tạo vũ khí mà chỉ tập trung vào buôn bán, nhuộm vải, làm gỗ, trồng trọt, ủ rượu, đàn hát tối ngày, Đường Cái thuở đó tồn tại như một lối đi duy nhất, cũng là ranh giới, cột mốc của một lãnh thổ tự trị “Bởi thị trấn này từng là hoàng cung, có khi bà cháu mình đang đứng ở ngai vàng cũng nên, mãi đến khi vua mở cổng đón tiếp một nhóm người phương xa vào thành, đoàn người bị thương rất nhiều, thủ lĩnh của họ có ba người, gọi nhau là anh em, họ bảo mình thuộc dòng quan võ đang đi đường thì gặp cướp. Nhà vua đón tiếp đoàn người, tiệc bàn linh đình suốt hai ngày, đêm thứ ba, nhóm người nổi lửa giết chóc khắp nơi, đánh từ trong đánh ra. Đám người không để sót ai và lấy không sót gì!” Tôi cố nhái giọng của bà nhưng chỉ như đọc trả bài chứ không diễn tả được giọng điệu uể oải đầy bí hiểm của người già, bà tôi đã mất và không một người già nào trong thị trấn chịu nói với tôi về tung tích của nhóm cướp ba người. Những ghi chép sót lại của sử liệu chỉ còn mớ thông tin kiểu cáo phó: hoàng cung bốc cháy thành phế tích, ngủ say nhiều trăm năm, sau này người Pháp muốn tận dụng những vùng đất trống để mở rộng thị trường, họ vẫn giữ nguyên Đường Cái, xây lên một thị trấn nằm ngả mình sau rừng thông. 1954, Cộng Sản nắm quyền cả miền Bắc, cướp lại mọi địa phận của người Pháp bao gồm cả thị trấn này, ngoại bảo lớp người bọn tôi may mắn khi sinh ra vào thời bình và đấy cũng là sự thiệt thòi, sẽ chẳng đứa trẻ nào biết về một rừng thông xanh đẫm đầy sóc và chim, mùa thông thay tóc, lá rụng lót một tấm thảm khắp lối đi, quả thông nằm lẫn trong lá, thứ của báu dành riêng cho kẻ trót lỡ lòng dưới bình minh mưa, miệng bà bập bập, mắt ưu phiền, bảo rằng mình không thể quên những ngày gió vờn giữa mùa thu, âm thanh của lá thông cộng hưởng vào gió vừa êm vừa sắc, lá và gió quyện thành một thứ thanh khí đầy mê hoặc, thứ giai điệu như được gõ ra từ sợi dương cầm ngàn năm, là nỗi buồn của tiên nữ bị đánh cắp áo cánh, đọa đày vết máu lấm trên lụa trắng. Ngày thị trấn xây ngược lịch sử, rừng cây ngã gục lên nhau, tiếng cưa xẻ gỗ rầm rộ như đội quân ba người năm nào, mộ cây được san lấp thành con đường bê tông luôn tấp nập xe cộ, Đường Cái trở thành điểm cuối của thị trấn, dẫn ra vùng ngoại thành heo hút không bóng người. Cựa mình, nghĩ…biết đâu, Đất Xửa là một loại hình kinh doanh tự phát không đóng thuế kiểu du lịch chui, cũng có thể đây là chuyến đi thầm của một cộng đồng đã quá sầu cõi tục nên tìm đến thần đạo. Tôi đến Đường Cái để thám thính trước nên chưa chuẩn bị đồ đạc, tiền mang theo chỉ đủ cho chuyến bay hai chiều Nam Bắc. Dọc ngang Đường Cái có rất nhiều người đang đứng, ngồi, dáng dấp thất thiểu, mệt mỏi, có người gối đầu lên balô chợp mắt đợi. Chưa kịp hỏi chuyện thì một người chạy ra, dang tay giữa lòng đường. Xe đến, không đèn không còi, bánh xe lăn êm tới mức tôi không kịp nhận ra điều gì thì cửa xe đã mở ra. Ngửi thấy hương mưa trong gió, ngoắc cổ lên chẳng thấy gì, chắc mây đêm đã vùi hết hình trăng, ánh đèn rủ leo lét góc đường không rọi được gì ngoài dáng xe chữ nhật và những thân người đứng xếp hàng theo đúng luật. Chuyến xe là thật, điểm cuối về Đất Xửa. Mục đích tôi đến Đường Cái cốt chỉ để thám thính thật giả cho lần xe sau rồi về nhà nhưng sự tò mò, hăm hở đầy lý thú đã dẫn tôi lên xe, thậm chí tôi nghĩ mình đã quá may mắn vì khách đi rất nhiều nhưng tay chủ lái không có ý định bắt hết khách lên xe, nhồi người vào người, chật ních đến tắt thở như mọi chuyến xe tôi từng đi. Mỗi người một ghế, giữ trật tự cho hết chặng đường.
“Xe đi Đất Xửa phải không bác tài?” – Tôi hỏi to, hướng vào mọi gương mặt trên xe.
“Tìm thấy chỗ cho mình thì ngồi yên đấy.” – Gã lơ xe hếch mắt nhìn tôi.
“Tôi là khách nên có quyền hỏi, biết đâu tôi lên nhầm xe.”
“Chúng tôi chưa thu tiền ngay nên không ai ở đây là thượng khách, xe đã lăn bánh rồi, tốt nhất anh nên câm miệng, trật tự cho tôi nhờ.”
Đôi co với kẻ hộ tống mình không ích gì nên tôi tạm nhượng bộ. Tôi không nghĩ xe chạy sớm đến vậy, ít ra phải ổn định xong chỗ ngồi, đóng cửa cái cạch. Mọi thứ quá tĩnh, đến một cú thốc mình về phía trước khi xe chạy cũng êm ru. Đèn đóm trong xe chập chờn nên tôi không quan sát được gì. Mấy người khách vừa lên xe đã gục ngủ, mỗi người một ghế, tôi cũng một ghế. Xe đi rất êm, không xóc, chòng chành ngang dọc, đêm dày lên theo mây đen theo tiếng sấm hú đỉnh đầu, tôi không dõi được cảnh vật bên ngoài, lắm lúc mới thấy một cành cây lắc lư thì xe đã vút sang lối khác. Trong xe và cảnh ngoài mù tuyệt một khối, mắt mở hay nhắm cũng vậy, lúc lần tay, tôi thấy rất nặng, cứ như không gian trong xe đang cộm trong một lớp khí cô đặc kiểu trọng lực ngoài vũ trụ. Mười ngón tay tắc phải tơ đêm, sự co duỗi trở nên khó khăn, tôi cố siết từng đốt ngón tay, khum thật chậm cho đến lúc khít thành hai quả đấm, tưởng mình sẽ tóm được cái gì đấy nên tôi nắm cứng hai bàn tay, lúc móng tay bập vào thịt tôi mới buông hết ngón. Gồng mình rồi thả lỏng, tôi đoán chầu rượu bạt mạng lúc chiều đã làm tôi mệt, cũng quá lâu tôi không đi xe khách nên chưa quen mùi xe mùi người. Tôi cố ru mình vào điệu nhảy của đàn cừu, đếm tới mấy trăm con vẫn khó chợp mắt, mắt tôi thao láo giữa khí quyển thung đen không tiếng động, thế cứ thế cho đến khi cửa xe mở toang khiến mắt tôi rát bỏng vì ánh mặt trời. Chói lòa và đau buốt như bị xuyên thủng, nắng quắc khắp nơi, vừa hướng mắt nhìn lên tôi ôm mặt, gục xuống, rúc mắt vào hõm tối trong lòng bàn tay một lúc lâu mới hết nhức.
“Muốn gì thì hãy leo lên đây, lấy cho mình đi chứ!” Tiếng ai đó ới tôi trên bãi đá, tôi chắc không phải giọng của tên chân ngắn, chỗ tôi đứng đã là bậc thứ nhất của bãi đá. Nơi này hoang hóa đã lâu, không thấy bất cứ vết tích của dân cư hoặc đền miếu tiền cổ, tầm mắt tôi có thể lia xa hết mức nhưng giá như trời chuyển mây thì tốt, ít nhất tôi có thể đuổi theo đám mây và trú mình dưới bóng mây để tránh nắng. Hơi nóng vắt cạn mồ hôi trên mình tôi, cách nửa giờ tôi lại nhảy xuống hố nước, tắm và uống đầy một bụng. Gặp nước, cánh tay phải ngứa điên, tôi gãi trúng vết cắn hõm sâu, đỏ ngầu hình dấu răng. Thấy máu cước trên vết cắn, tôi thấy nôn nao, suýt nôn. “Mình nhổ thịt ra rồi, tại khát quá thôi!” Tôi nói với vết răng trên tay, nắng tưới vào dấu hàm lõm hốc mắt.
Đứng gần, nhìn từ ngoài và bước lùi chục bước chân, tôi thấy bãi đá này ngổn ngang theo kiểu bãi dồn nhưng lúc leo lên tôi mới biết mọi thứ đều rất quy củ. Những phần đá sắc trồi ra, thụt vào và cấu tạo của từng tảng đá nếu xê dịch, đẩy xuống sẽ tạo thành một lối đi. Mặt đá rất cứng, lạnh âm nên tôi thấy dễ chịu hơn so với việc lang thang dưới đất. Nghe tiếng đá lăn, vỡ tung, tôi biết phía trên đang có người đào xới. Đám người này có lẽ cũng đi với tôi trên xe khách nhưng rất khó để nhận diện, chắc bởi lúc đi trời quá tối, ai cũng mệt mỏi, nội quy trên xe khách không cho phép trò chuyện nên mỗi kẻ đều lặng im trên ghế của mình, chắc bởi quá mệt nên ai nấy đều gục đầu, nghẹo mình trên ghế. Bãi đá khổng lồ này không giống với phế tích cổ, tôi đã đi mấy vòng nắng dò xét từng phiến đá, nắm một thỏi đá vừa tay, đẩy vài tảng lớn xuống để xem lõi đá trong và không hề thấy bất cứ hoa văn nào trên đá. Tuổi thời gian trên đá dày và cỗi hơn xác thân mọi cao tăng tây tạng, xét vai vế thì tôi như đứa chắt nhỏ trong tộc đá. Gạch đi dòng viết về khảo cổ hay kẻ trộm mộ, tôi không thấy ai mang theo cuốc xẻng chuyên dụng và thuốc nổ, ai nấy đều đẩy, bới đá bằng hai bàn tay không. Tôi thận trọng luồn sang trái, đạp mạnh vài cái, thấy đá vững mới chuồi tiếp, nắng lóng lánh vàng ươm khắp lối, nhìn từ trên phần đá cao dần lên tôi không thấy gì phía trước. Cũng không hẳn là phía trước, có khi tôi đang ở phía sau hoặc ở một độ nghiêng vắt chéo nhìn ra phần đường mình đã cuốc bộ. Đất Xửa chẳng có thắng cảnh đại ngàn, mê dụ người trong tiếng lá thổi ngàn năm, non nước ngất ngưởng trời xanh và bóng rừng khuyết tích như khuôn mặt ngoại cười móm mém trong mộ nhớ, khối đá chồng chất khó thu hút được ai và việc tôi leo lên đây chỉ vì nó là điểm tiêu khiển duy nhất, ngoài ra thì mặt trời, tôi tìm đến đây vì mặt trời hay bởi sự hiếu kỳ, ngoan cố muốn chứng thực lời say của đứa bạn, chịu thôi, nắng đã hong cạn hố nước và đang vắt nhỏ sự minh mẫn của tôi. Chuyến xe đến quá đột ngột nhưng tôi không lo mình sẽ bị mắc kẹt ở đây, tên chân ngắn đã bảo tôi rằng đèn lên là xe đến, không cần biết có bao nhiêu chỗ nhưng tôi sẽ đoạt cho mình một chỗ ngồi. Mải nghĩ, tôi ngước lên, xiên trúng vào góc chiếu mạnh nhất của mặt trời, gai nắng khoét vào mắt khiến tôi choáng váng. Tứ chi bủn rủn, tôi đạp hụt vào phần rỗng giữa hai tảng đá.
Như con chim mê mải cánh trong tiếng sáo trời, lạc vào dao gió, tôi lảo đảo rơi xuống.
“Nắm lấy tay tao!” - Tiếng nói gần bên tai, có ai đó nắm lấy tay tôi. Tầm nhìn vẫn xây sẩm bởi nắng choáng nên tôi vươn tay còn lại quờ quạng, cố với lấy một tảng đá chắc, liêm sỉ nào giữa muôn trùng không tưởng, những cái tên cao ngạo những danh dự đánh đổi bằng nòng súng và sự uyên bác có thể giải khóa mật mã của kho báu đời rồi cũng về âm, Sự sống ăn thua gì ngoài việc vung vẩy bàn tay, vồ, chụp, bắt lấy mọi thứ trôi trên biển, ăn mọi thứ và nắm lấy mọi vật, con mắt đỏ ráng hoàng hôn, lời dẫn như trong sách dù tôi không cố ý nghĩ ngợi, chữ nghĩa thoắt bên tai như tiếng thì thầm, kết tinh trong đá và nắng rồi tình cờ tôi ướm vào, bật tung lẫy khóa lời nói im, ta nằm chờ siêu thoát một bàn tay gầy xương đến mức nếu tôi cảm thấy những đốt ngón tay bám trên da mình. Tay còn lại của tôi đập vào cạnh đá sắc, chân đạp hụt mấy lần, vừa hiếc mắt nhìn lên thì một mảnh nắng rọi qua kẽ đá cắm thẳng vào mắt. Choáng đầu, tôi giẫy theo phản ứng thông thường của cơ thể, rồi thì kẻ lạ bảo tôi với tay lên một chút, tôi nghe theo cho đến khi hắn chộp được tay tôi, nắm chặt và kéo lên từ từ.
“Cẩn thận chứ.” – Kẻ kia nói vậy, tôi vẫn hoa mắt không nhìn được gì, lúc hồi tỉnh lại thì hắn đã leo đâu mất. Tựa vào một phiến đá, thấy rung rung, tôi lùi ra, thử đặt một tay lên thì tảng đá đổ xuống, một khối đá khác rơi theo chèn lên tạo thành một chỗ ngồi. Từ chỗ mình đạp hụt nhìn xuống, mọi vật đều lạ hoắc. Tôi nhớ là mình chỉ leo lên dăm bước, theo phép tính bậc thang thì tôi chỉ đứng ở bậc thứ ba nhưng chỗ tôi đang đứng cao lưỡng bội phép nhân.
“Đúng là lo chuyện bao đồng.” – Ai đó nói từ phía trên. Tôi ngoảnh lên, thấy một cái chân vắt vẻo trên đá, bàn chân trần đem nhẻm, không thấy rõ hình người.
“Chú biết ai vừa kéo cháu lên không?”
“Bớt được ai thì cứ bớt.”
“Người đó đi hướng nào hở chú.”
“Thân tao còn lo chưa xong, quan tâm gì con người.”
Cái chân lông lèo khèo những móng dài rút lên, tôi nghe tiếng đẩy đá trên đầu.
Đá đập vào nhau ở vị trí xa và cao hơn chỗ tôi đứng. Bãi đá này rộng và trúc trắc hơn tôi tưởng, bã nhừ chân cẳng vẫn chưa đi hết một vòng. Mặt đất đã lùi xa tới mức có thể đốn gãy chân tôi nên tôi dè dặt đi lùi vào trong, mặt trời cao vút, nắng ngày mỗi mạnh, may mà có đám đá che ngớt nắng chứ nếu còn ở dưới kia thì chẳng biết thế nào, hố nước đã theo hơi vào nắng, thậm chí tôi còn không nhìn thấy dấu vết của hố nước, chẳng rõ mình nhìn sai hướng hay đã trèo cao tới mức hố nước teo thành một hạt cát trong muôn ngàn hạt cát trên lối đời. Thiếu cây rừng, đường cỏ hoa leo gai và những tường mộ đất nung, vẻ đẹp của nắng của mặt trời thành vô dụng. “Đẩy đá ra, bới mà đẩy, hất văng thì mới đi được!” Tiếng từ tầng đá trên ới xuống như lời mách bảo, giọng nói nhẹ và trầm thoáng ngang tai, chẳng gợn chút ấn tượng, tôi dẫn ý nghĩ về sải cánh của thánh thú mình vàng quạt ra nắng đốt cháy mặt đất, lửa nắng nhuộm mọi vật trong màu lá thu, nàng thu hiu dần trong giấc ngủ báo mộng về một kỷ đông gai buốt lồng ngực. Tôi đá văng một tảng đá, cú đá vô tích sự bởi lối đi trước mặt đã có người dọn sẵn nhưng tôi vẫn ái ngại một chướng vật sẽ làm tôi trượt ngã, hất văng mình xuống dưới. Mệt, nước trong người vã thành mồ hôi nên tôi không dám thò đầu ra ngoài, đành lách mình dựa vào mặt đá tìm hơi mát. Khí hàn trong từng phiến đá làm giảm nhiệt của nắng và dù có phơi dưới mặt trời cũng không bị hun bỏng, tôi ngờ rằng số đá này được quật từ thung sâu lòng đất, nơi mặt trời không thể chiếu đến, chỉ cõi cực âm cực hàn như vậy mới tôi luyện ra loại đá dị thường này. Dò dẫm đi thận trọng từng bước theo kiểu đi núi, tôi nghe thấy tiếng người nạy đá, ném xuống chứ không gặp thêm ai. Nhìn quanh, tôi dò dẫm xem có chỗ nào có thể leo lên không. Đá to, nhỏ, nặng nhẹ tùy theo kích thước, những tiếng hò nhau, gồng sức tít trên cao, trước đấy có người hỏi tôi hãy lấy cho mình cái gì đấy, một vật cần thiết và hữu ích như mục đích mỗi người đến đây chăng, kẻ lạ đã lầm, ý định của tôi và họ không giống nhau, tôi đến đây bởi tình cờ xe đến đúng giờ, bước lên đúng lúc xe chạy và không kịp xuống. Điều chí lý và cần thiết nhất trong bãi đá ngổn ngang chắc gì đã liên quan đến lối dẫn xuống kho tàng trong lòng đất, nếu vậy bọn họ sẽ tập trung thành một nhóm, phá đá chướng bằng thuốc nổ, xúc đá bằng cần cẩu, cuốc mỏ chim chứ không phải bàn tay trần. Ắt phải có gì đó nằm ẩn trong những khối đá, tiềm tàng như lời đánh đố của phần ánh sáng trong chiếc hộp. Mặt trời ngày một quắc, xé toác mây giăng, vài người đang đẩy một tảng đá nhưng khối đá quá lớn, lún sâu trong lõi đá trên nên bọn họ đành bỏ cuộc, tìm một khối đá khác, đàn ông cởi trần còn đàn bà thì mặc yếm đen, tóc xõa cuốn cổ, cố bới những viên đá vừa sức nhất đến gãy móng tay, mảnh đá cứa máu đầm đìa, vết máu cào đá lem nhem như huyết chỉ. Một lão già ngửa cổ, rú không thành tiếng, tóc lão trụi lở, mắt đỏ ngầu mong được vỡ òa nhưng tuổi nước mắt của đàn ông đã cạn sau mối tình điên. Tôi đi ngang qua họ, tiến về phía trước nhưng chỉ lòng vòng khắp dải đá mình đứng. Chưa tìm thấy lối lên tầng đá trên nên tôi loay hoay, ngóng xem có ai leo lên an toàn thì đi theo. Có một người nôn nóng bám lên một tảng đá trồi ra, đạp chân trèo lên, khối đá lắc lư, trượt thẳng vào ngực, cả người cả đá lăn xuống dưới, một mộ đá. Tôi không định nán lại khiêng đá cùng mấy người này, sức vóc của tôi không đủ cho những công việc đòi hỏi nhiều cơ bắp. Mặt trời lên là cao mãi, vút đỉnh chẳng với nổi, ánh sáng từ tấm choàng lửa hắt xuống bãi đá hình lục giác, lũ người quay quắt tìm chỗ náu bằng việc cào, hất đá, ném xuống dưới, họ không còn sức cho một câu chuyện, mải miết thế này không biết đã bao lâu nếu không là đứa bạn này thì tôi đã theo hướng nắng, im lìm như bà tôi trong đám rước inh tai kèn trống. Thử khoét một lỗ lớn trên mình hoặc bất cứ đâu, thậm chí từ vết cắn của chính tôi trên tay trái, máu tôi túa ra cùng máu đứa bạn. Máu là nước dưỡng trong cơ thể tôi nên thuộc sở hữu của tôi nhưng máu tôi cũng là máu gã, kẻ thiện tâm hoặc quá khờ khạo quá cả nể, chí tình không màng đến tính mạng. Tôi không chọn cái chết mà chính nó chỉ định tôi trong lốt sứ giả mặt trời, tôi không nghĩ mình dại dột, tận hiến tuổi trẻ như cô nhân tình nhỏ của Chế Linh, mưa róc xác xuyên tim là thật nhưng đấy chỉ là sự bào chữa khi tôi nhìn thấy nắng dẫn từ khe cửa căn gác nhảy nhót trên lưỡi dao. Nắng khoét một vạt dài, đổ xuống chỗ nằm của tôi, trong lúc liếc mắt, tôi thấy ngọn nắng cắt lên con dao dưới thềm gỗ, màu nắng úa rất mê, tôi nhìn chăm chú, thấy nắng rọi thành những nhát búa mài sắc lưỡi dao, nhìn mãi cho đến khi mắt nhờ đi như nhìn trực tiếp lên mặt trời, tôi nhặt dao cả trăm phút đều thiêng nắng diễm lệ khoác lụa thu trên dao, lưỡi thép nóng hổi như hơi thở người tình, cứa nhát cứa sắc dao bén cắt da vuốt vào thịt bới tìm gân, máu lấm trên dao làm tàn màu nắng, mải nhìn máu lóa trong nắng, tôi gục xuống sàn, căn gác chưa bật đèn nên lúc nắng lủi ra ngoài theo hướng mặt trời lặn thì mọi thứ lún vào bùn đêm, trong lúc mơ mẩn xác thịt như hoa không nhớ nổi ngày đêm, tôi thấy một lối cầu thang dẫn xuống lòng đất, một dáng nữ tóc ngắn quá vai đứng quay lưng ở bậc thứ nhất, nàng mặc chiếc váy đen hở vai, lưng áo thêu bông hoa sáu cánh, dây gai tua tủa như rắn, người nữ đứng như đợi tôi nghéo tay kết đôi, tôi cất tiếng gọi thật to để nàng quay ra, xem mặt “Mày có thế nào thì cũng đừng chệt đến vậy, rượu thì ăn nhằm gì so với nỗi khổ thế tục, nếu rượu mà công hiệu như thuốc lú thì thám hoa đã uống rượu mà không cần khắc tượng gỗ, lệ bất hư phát cũng vì tìm say để quên tình. Mày bảo tao rượu là mùi nhớ thương, gặp máu sẽ dẫn thẳng vào tim, kẻ tìm rượu mượn cớ say để nói lời tỉnh, càng say lời càng thật, đau, nức nở như trẻ thơ cho đến khi cạo hết máu bầm trong gan ruột mới chịu li bì, chỉ mong đừng tỉnh dậy và đừng ai nhớ, nhắc lại về lời rượu hôm qua. Tao lạc đạo mới tìm rượu còn mày thì chọn thứ hung hiểm hơn mật khổng tước.” tiếng đứa bạn vọng ra từ trí nhớ, hình ảnh thấu trong mắt tôi lúc tỉnh dậy là khuôn mặt nhợt nhạt của đứa bạn, kẻ đã hiến máu, nạp vào thân xác tôi còm cõi trong phòng trắng, quạt trần quay chậm như lời kinh muộn. Thằng giàu cho tiền, đứa nghèo ăn vạ lòng trắc ẩn, muôn kẻ dối mình không cùng nhóm máu, lẩn xa tắp chân trời, chỉ kẻ điên mới cho máu, lý lẽ hảo tâm, vì tình bạn lòe người như trò đánh tráo, đứa bạn đến với tôi không vì một món nợ đời. Giữa tôi và gã, là tôi chỉ đãi bôi, hữu hảo kiểu người quen và không dám nghĩ đứa bạn trọng tình tới mức hồ đồ rằng có để đánh vàng từ lõi sắt, mọi lý thuyết đều hắc ám, chỉ sự thật rành rành, máu gã chảy trong người tôi, máu tôi cũng là máu gã, tôi vác theo một phần đời của gã và ghi khuôn mặt gã vào đời mình “Làm điều mình thấy, đấy là câu trả lời của tao nên đừng vội cảm ơn rồi lấy lý do này mà ân cần, ưu ái tao quá thể. Tao làm gì cũng hỏng nhìn đâu cũng thấy màu óc khỉ, gắng gượng theo bản nháp đời của mỗi người rồi chứng kiến sự mốc rữa nhiễm thành căn bệnh không cách cứu chữa. Con tao quyết không nhìn nhận tao dù với danh nghĩa cha ruột hay cha hờ, bởi thiếu tiền bởi ngoài nhục thú tao là một thằng tồi, thứ bò sát quỷ quyệt, lòe bịp người nhẹ dạ tin tưởng về một thiên đường, cú đá ngày hôm đó khiến con tao mất em, vợ tao mất trí, khăn gói tìm người chồng thật sự của mình, con trai theo mẹ, vứt lại chiếc khăn tang vào khuôn mặt tỉnh bơ của tao. Tao không bào chữa, không níu giữ, chát vữa lên lỗ thủng gia đình, trái tim tao có họ nhưng không tài nào với tới, mọi chia sẻ thành vô duyên, tâm tư thật nghe trái tai nên chỉ còn cách nuốt vào ruột, đã từ lâu tao thấy mình rơi đi, trơn khỏi cuộc sống, ngã xuống họng giếng, lơ lửng không chạm đáy. Gia sản táng vào rượu, mất sạch trên chiếu bạc, làm sao để uất, để buồn, đau đáu khi trí nhớ tao chỉ son trẻ màu phượng vỹ, tao thả mình không chịu đắm và cứng đầu lội ngược hướng biển, làm con thú gặm thi cốt mình lả tả ghép mãi không ra thành sổ, một ngày, tao hiểu rằng cây vẫn sống hoa vẫn nở nhưng tuổi xuân đã nằm tro, ngẫm lại ký ức và soi lại mặt mình dưới hố trăng, chỉ thấy khuôn mặt hủ tiếu đêm, đời phế tao, bại, tắc tuyệt…nhưng không có nghĩa là tao thích chơi trò người tốt, lấy đầu giặc để vô tội trước núi sọ đồng bào, mày là đứa mị tình, máu mày nóng hổi từ tim còn máu tao lạnh hung đóa hoa ác, tao cứu mày là để giết mày, truyền máu như tiêm nọc độc chứ tao nào có thật lòng với ai, nghĩa tình gì.” đứa bạn bảo vậy rồi ra về, theo hướng nắng là tôi chứ chẳng ai, tôi háo sống và chưa từng nghĩ đến việc tự hủy, bảo rằng mình cắt tay vì nắng hắt lên dao quá đẹp, lấy máu thay nước giếng hòng rửa đi lớp bụi nhiễm trên bức họa người yêu dấu, ai nấy cũng sẽ cười nhạo, khinh khỉnh và dù không có sự xa lánh như với đứa bạn nhưng họ sẽ dè chừng, giám sát tôi, đến nghệ sỹ thuần túy còn thiếu can đảm sống theo hồn chữ nữa là loại bông phèng nửa mùa, biết đời nhưng vẫn mộng hoặc giấc thu yêu…
Văn tự và bùa phép thầy cúng ăn tiền thiên hạ, lễ khấn, vàng mã là một phần trong nghi thức nhiếp hồn chứ chẳng trong lành như mùi lá dưới thềm mưa, làm gì thì cũng đừng quên mặt trời luôn dõi theo, trưa tháng 6 cực hạ, mặt trời bủa nắng ngăn bà tôi phá hũ tro, nhập hồn bóp cổ tiếng gọi ới linh hồn mãi đọa trần gian. Tôi để lỡ phút trăn trối của bà nên không biết ngoại muốn nhắn lại điều gì trước lúc vỗ cánh. Mẹ tôi bảo bà chỉ ú ớ, nói mê, ông cậu ruột thì kể rằng bị dựng dậy bởi tiếng rú éc của con lợn một tạ rưỡi, tưởng nhà ai chọc tiết cho đám cưới, linh tính không yên, ông chạy vào nhà tìm mẹ thì lắc đầu, phủ khăn lên mặt bà. Lời cuối cùng của bà không hẳn là sự tiếc nuối hay một tiếng rú không ra tiếng, năm tôi 13 chuẩn bị dọn lên trung tâm thị trấn bà thì thầm vào tai tôi rằng lúc bà mất thì hãy hỏa táng, đừng dựng mộ, đặt bàn thờ, cứ vào rừng rải bụi cốt xuống vực sâu, mặt bà tếu như đùa nhưng lời rất thật người chết thành cuốn sổ nhàu, thỉnh thoảng mở xem chứ đừng gác mả tôi tìm lại lời thầm của bà trong một ngày bất chợt tuổi 30, giọng và lời của bà rũ rượi như mái tóc xõa bạc của bà mỗi lần giỗ ông. Lời lẽ của bà ngoại chỉ thế, còn tôi đến đây bởi hướng nắng ở thị trấn là không đủ…
“Bởi bạn tôi bảo rằng sẽ có chuyến xe đến Đất Xửa, nơi chỉ có mặt trời nên tôi đến đây.” Tôi nói to và vang, hòng lấp đi dấu hỏi lửng lơ trên đầu.
“Nghĩa là chú mày đến đây để tìm bạn?” – Một người mặt choắt, người bé nhưng gân guốc bảo vậy.
“Hóa ra lời say là thật.”
“Nực cười!” Ông ta bảo vậy rồi tiếp tục cào đá, cố vặn, mót, đẩy những phần đá nhỏ để khối đá trên đổ xuống.
“Không phải ai cũng biết về nơi này và không phải ai cũng có thể đến đây.” Tôi ngó theo giọng nói, lết những bước thận trọng vừa che tay tránh nắng vừa cố nheo mắt nhìn ra. Quãng chục bước chân tôi thấy một người đang ngồi ở mỏm đá nhọn, thả chân xuống dưới. Tóc dài, rũ nửa lưng, bộ ngực ngọn nhô ra lớp yếm đen là tín hiệu của đàn bà nơi này. Tôi ới hỏi thì người đó gật gù, vẫn đứng quay lưng nhìn ra suối nắng.
“Có phải nơi này là Đất Xửa? chuyến xe 0 giờ?”
“Ta và nhiều người nữa không định đến đây nhưng được chọn phải ở đây.”
“Cô gì ơi, lùi vào trong đi, kẻo ngã!”
“Lâu quá không ai nói với ta thế này! Ta từng leo lên dãy đá cao hơn thế này và ngã xuống, trèo lại từ đầu, lượng đá ta khiêng, đẩy gấp mười tuổi của cậu lúc này.”
“Khoan đã, chả phải mọi người đến đây để du ngoạn hoặc như lời một ông chú tôi gặp ở dưới thì các vị đang tìm cái gì đó.”
“Chỉ những người được chọn mới có mặt ở đây.”
“Lúc nào thì có xe về, nơi quá nắng khiếp, chả thấy hàng quán gì, ăn uống thế nào.”
“Đèn lên thì xe đến, chỉ có một chỗ ngồi. Bọn ta đang cố lấy chỗ cho mình và cậu cũng vậy thôi.”
Nắng đầy mắt, dát vàng khắp nẻo, phóng tầm mắt xa hết mức có thể chỉ thấy màu sáp ong, nghiêng xuống dưới thấy một biển nắng hầm hập. Giọng người đàn bà dịu và trầm, ngữ âm gần với tuổi 40, mái tóc óng rơm dưới màu nắng. Lời cô ta khiến tôi lúng túng, không rõ thật giả. Định hỏi thêm nhưng không biết phải mở lời thế nào. Tiếng đá nứt, vỡ, đổ nhào cách tôi một khoảng vừa đủ cho một cuộc chạy ngắn.
“Ta muốn hỏi cậu một lời!” Người đàn bà bảo thế.
“Cô cứ hỏi.”
“Nhìn xem ta. Thế nào.” Người đàn bà quay về phía tôi. Mặt trời cực đỉnh không giấu diếm điều gì. Trước mặt tôi là một khuôn mặt trái xoan thuần túy Á Đông, ngoài đôi mắt nhỏ nhiều ưu phiền thì lớp da bên ngoài đã bị hư hoại thành những khối thịt chen chúc nhau, thịt cộm lên thịt nhằng nhịt trăm nhát sẹo, vị trí của mũi được tìm thấy qua hai lỗ thủng lún vào hộp sọ, những búi thịt quanh mũi vằn vện như rêu, bởi lý do gì đấy mà môi cô ta đã tuột khỏi khuôn mặt, lúc nói chuyện tôi thấy rõ hàm răng trắng đều gõ vào nhau, lưỡi đỏ rực như quả thận tươi.
“Ai mà ác thế.” – Tôi bảo vậy, lúc này một câu nói còn tốt mọi tiếng thở dài.
“Cậu thấy ta thế nào?” Đôi mắt mở rộng dõi thẳng vào tôi.
“Tóc cô rất đẹp, chiếc răng khểnh. Tôi không biết khuôn mặt xưa của cô nên chỉ biết nói vậy.”
“Thấy buồn nôn thì cứ mửa cho sướng đi.”
“Không. Nhưng có quan trọng gì ai nhìn ai thế nào, nếu cô muốn một lời khen, tôi sẽ tâng bốc cô mệt nghỉ mà chẳng cần biết khuôn mặt nguyên sơ của cô.”
“Ta không cần một lời khen. Nếu công sức của ta thắp được đèn, sẽ có xe cho ta, thế là quá đủ.”
“Xe về Đường Cái ở thị trấn hay một nơi khác, biết đâu lúc về chúng ta còn gặp lại. Nếu cô phẫu thuật lại khuôn mặt, tôi sẽ đánh giá chính xác vẻ đẹp của cô.”
“Thật. Đáng xấu hổ, nhưng…” Người đàn bà quay lưng ra nắng, lúc cô vuốt mái tóc gợn những sóng mây tôi thấy những ngón thon dài búp măng, mặc dù ngón tay thô ráp bởi nắng bởi việc khiêng đá nhưng đó vẫn là bàn tay của một tiểu thư đài các. “Không có xe về đâu, xe đi là lên thẳng. Tôi mong cậu được…” Lời nói dứt, rồi im lặng. Tôi đứng một lúc nhìn người đàn bà nhìn xuyên vào rèm nắng thăm thẳm từ hướng mỏm ngồi lênh vênh sắp đổ, lặng mình, tôi chào cô ta rồi đi về phía đá nứt thành lối leo lên trên.
Cởi bỏ chiếc sơmi ướt đẫm mồ hôi, vắt lên tảng đá, tôi trần mình như mọi gã đàn ông. Vác đá dồn vào một nơi, hò nhau ném xuống dưới những tảng khối to nhỏ, đủ kích cỡ một lúc lâu, mệt thì gác lưng vào một góc khuất. Chất đá làm mát cơ thể và nếu xếp nhiều khối đá có kích thước trọng lượng bằng nhau thành tấm nghỉ, nằm úp theo thế tẩm quất, tôi có thể né hướng nắng. Một giấc lim dim là không đủ bởi tính lạnh của đá quá âm, gục mình dăm phút đã lạnh bụng, một cái giật thót mình như có lưỡi dao trườn dọc xương sống, tôi vùng tỉnh tìm cái áo mình treo vừa nãy. Tảng đá nhọn đã bị ai đó lấy đi, ném xuống hoặc chồng lên nhiều khối đá lớn làm thang leo, cái áo tã dưới chân. Áo nhàu nhĩ, xác xơ như chiếc lá khô của cây bàng ngàn năm, tôi phủi dấu chân bẩn cho tới khi chỉ còn sự lấm lem mới mặc lại, không đóng cúc. Chỗ tôi đứng thuộc tầng đá giữa, vẫn dưới hay đã chạm đỉnh. Đi ra ngoài mép đá nhìn xuống vẫn thấy mặt đất, lúc trước tôi còn thấy hố nước mình tắm khi tới đây, khi hố cạn bởi nhiệt độ của nắng, tôi vẫn thấy một hố trũng đen ngòm hình con mắt. Bây giờ thì hố nước đã nhỏ hơn một dấu chấm trên giấy.
dấu chân hạc
bụi là tro dưới bánh xe lửa,
thân xác của máu của mồ hôi
mặn lưỡi lá đời
Nét lên từ điểm vô tướng, thật khờ, đây đâu phải lúc nghĩ ngợi thơ phú. Tiếng chữ không dẫn ra theo chủ ý hay sự bật lóe từ trang viết ngẫu nhiên, dường như là ý tứ vụng về của tôi khi nghĩ đến hố nước chấm một dấu đen dưới mặt đất, họa sư bắt đầu bức họa bằng cú lướt cọ còn nhà văn, nhà thơ đi bút từ một dấu chấm, lỗ đen xuyên hoắm một đời sẽ chỉ bãi đá này là nơi tránh nắng và hứng nắng tốt nhất chứ chẳng đâu khác. Chốn đây rộng đến ngút ngàn, mặt trời treo trên đỉnh, nặng nề bất kể thời gian có trôi qua bao lâu. Ai leo cứ leo, ai xuống cứ xuống, đi đâu làm gì tùy ý nhưng đừng mong thoát khỏi mặt trời. Leo xuống, chạy khỏi bãi đá thật nhanh và xa, bất cứ đâu, chìm vào biển nắng rồi cũng phải quay lại, bãi đá này là điểm đích và cột mốc, lồ lộ như ngọn đăng chiếu đường, lạc đến đâu vẫn có thể quay lại. Đất này nằm ngoài sự khổ hình, đày ải, chẳng còn roi vọt hay hình dung điển hóa của chiếc thập giá. Cán đích của mặt trời âm vọng khiến tôi chùn tay, đánh rơi tảng đá lồi lõm hình mỏ hạc, đá dập vào bàn chân, may mà tôi đi loại giày chuyên dụng cho việc đi đường dài, da và đế dày rất bền nên chỉ ê ẩm, nếu tôi đi chân đất như những người ở đây thì xương cẳng đã im lìm một khối. Ngồi xuống, tháo giày và tất, tôi thấy ngón chân cái bật máu, nắn vào xương không thấy đau nên tự xoa bóp bàn chân.
“Bãi đá này cao ra phết, không biết bao giờ thì leo lên hết.” – Tôi nói to.
“Đây có phải núi đâu mà đỉnh mới chả vực. Nếu mày muốn nói đến điểm cao nhất của bãi đá thì tất cả bọn tao đều đã leo lên tụt xuống cả trăm lần.” – Một kẻ to lớn, mặt đầy râu, lông mày sắc, cong nhướn, lông ngực và lông chân tay rậm như khỉ đột nói thế, ông ta vác một tảng đá to bằng cái bàn.
“Lên rồi lại xuống, vậy đã có ai thấy ngọn đèn và xe?”
“Hầy…” – Ông ta giương bàn tay lên, nhấc bổng tảng đá, trọng lượng quá lớn khiến khối đá đè nghiến lên vai, kéo gục thân hình to xác xuống. Tiếng xương gãy nát nụn dưới đá. Tôi hoảnh hốt chạy tới, thấy máu me bầm nát nên dùng hết sức đẩy tảng đá ra, vừa đẩy vừa ới gọi mấy người xung quanh.
“Cút ra! Không phải việc của mày.”
“Để tôi giúp ông, tại tôi mà ông phân tâm.”
“Tránh xa tao ra, đừng giở trò.” Khuôn mặt ông ta chợt dữ tợn, chống hai tay cố gượng dậy nhưng khối đá quá nặng. Chợt, ông ta chặt một quả đấm về phía tôi, đường quyền quá thấp và ngắn nên tôi né được. Mấy người xung quanh mải đẩy đá, vài ánh nhìn hắt qua, thờ ơ như đã nhờn cảnh. Lời nói của tôi không thể đánh động đến họ, tảng đá nặng thế này sức của tôi khó mà làm xê dịch. Trong lúc lúng túng thì một người đặt tay lên vai, nắm áo kéo tôi dậy, bảo mặc kệ ông ta. “Cứu tức là hại ông ta và khổ mày.” Nhìn quay ra, thấy một gã mặt đen có đôi mắt thờ ơ, tóc gã dài rũ rượi, ngón út để dài. Người nắm tay mình kéo lên lúc bước hụt có một ngón út để dài, lúc đó nắng choáng hết tầm mắt nhưng tôi ghi nhớ lúc nắm tay tôi thì móng tay út của người đó bấu nhói bàn tay.
“Lúc tôi ngã, là anh đã cứu tôi.” Mặt mũi gã hắc nhẻm chỉ đến phần cổ, chân tay, ngực và bụng vẫn trắng, tóc dài che nửa mặt nên tôi không rõ tuổi tác nhưng dựa theo những phán đoán về ánh nhìn của đôi mắt và chiều cao xấp xỉ mình, tôi đoán người này chỉ hơn tôi vài tuổi.
“Không!” – Gã bảo thế, rồi rũ đầu, mái tóc dài che hết mặt. Mắt nhìn người qua những mảnh tóc lơ thơ.
“Là anh!”
“Ai cứu ai…tao chỉ sẵn tay cho một quả đấm.”
“Nắng quá trông mờ mặt người. Chắc tôi nhầm…”
“Ở đây rồi thì mày phải hiểu mọi điều chứ đừng sai quấy.”
“Tôi không hiểu gì cả?”
“Vậy tại sao mày lại ở đây?” Tiếng nói vỗ sau tiếng đá nghiến. Tôi nhìn sang thì thấy gã cốt đột đã lật được tảng đá sang một bên, chẳng rõ ai đó giúp hay chính mạnh từ cơ thể cuồn cuộn cơ bắp.
“Hôm bạn tôi say, có lẩm bẩm về Đất Xửa, nên tôi đi thử cho biết thôi.”
“Láo toét! Dù mày nghe lỏm hay được kể thì mày cũng không thể đến đây. Chỉ những người bị chỉ định mới có thể…chớ mong khước từ...” Ông ta vừa thở vừa nói. Cử động của ông ta chẳng có vẻ gì bị thương, hoặc sức ông quá khỏe, vết máu trên đầu cũng lặn đâu mất.
“Nghĩa là ông và mọi người không hề muốn đến đây mà bị ép, nhưng sao tôi lại ở đây, chẳng ai ép tôi, thậm chí lúc đón xe tôi còn được ưu tiên chỗ ngồi gần cửa sổ.”
“Không có sự ép buộc nào hết. Bọn tao bị chỉ định phải đến đây bởi mong muốn trong mỗi người.”
“Thì ra đây là nơi mấy người mong muốn, cứ như chuyện Từ Thức!”
“Mong muốn chứ không phải cầu xin hay nguyện ước, chúng tao bị chỉ định chứ không phải được đáp ứng, mùi hương thoảng dẫn kẻ đa tình lẽo đẽo, nhưng có khi mày chỉ tìm thấy một nhành cây ven đường, một cánh đồng hoa thậm chí là một loại cây lạ mọc xuyên xác chuột.”
“Thiên Đường hay Địa Ngục?”
“Chẳng phải thiên đường cũng không phải địa ngục, chốn này là cơ hội của người.”
“Tu tiên hay thành phật?”
“Tiên hay phật cũng là thứ người đời phịa thêm để tự ám thị khỏi nỗi khốn cùng. Tất Đạt Đa và Jesus đều khố rách áo ôm, lấy bản thân làm bằng chứng về sự tỉnh táo, những tưởng cái chết của mình sẽ đánh thức lòng thiện của trần gian nhưng mày thấy đấy, cõi trần bây giờ đã thối hoắc sình độc, tao ngày trước cũng khét tiếng lắm, gặp tao thì phải chui háng tao mới mong đi tiếp, chuyện đánh đấm cướp bóc thành thói quen hàng ngày, tao từng vặn cổ chục đứa trẻ con, cầm chân đứa 4 tuổi, dốc ngược, coi đó như cây búa, cứ thế bổ vào tường, tao không thích trò cưỡng hiếp nhưng khoái thú việc bắt nhốt đàn bà, lột trần truồng rồi hủy hoại mọi góc đẹp hình thể rồi đứng sau lỗ cửa khóa nhìn chúng tỉnh giấc cùng cơ thể mới trong căn phòng đầy gương, tao gặm nhấm sự điên loạn, đánh chén sự nức nở òa thành tiếng cười man di đầy khiếp đảm của họ, nghe ngóng ngày tim buồn nhưng tim tao cười, nhạt cười, vô tư như nhập thiền, đến bây giờ tao cũng không thấy ăn năn, không hối hận bởi đó là điều tao buộc phải làm trong một thế giới như thế. Muốn giàu thì phải bán linh hồn, muốn càng nhiều thì trả giá càng nhiều. Sống ở đâu có luật ở đó, muốn sống thì phải quy thuận, luồn lách, đội ba con khỉ lên đầu, lịch sử trôi qua bao lâu tao không nhớ nổi nhưng chắc lũ người đã bôi vẽ, hoa hòe đủ loại điển tích, biến cõi thiêng thành bàn thờ thành trại tẩy não, nhét lời mình vào miệng phật, may mà Chúa đã ngủ giấc bất tử chứ nếu ông nhìn xuống thì trận mưa sẽ không còn bóng thuyền nào hết, sai lầm của trời là đã chừa lại ác giống cho thiên loại.”
“Đấy là sai lầm của người chứ không phải của Chúa thậm chí tôi không tin về sự trừng phạt của Chúa mà chính chúng ta, án hình bởi con quỷ trong chúng ta đã no nê nên muốn tìm một khế ước mới. Sự sống là thứ được trao chứ không phải thứ bị kiểm soát, ông hiểu điều đó nên ông đã không hành ác nữa bởi ở đây không ai buộc ông phải xuống tay?”
“Tao không muốn chứ…chẳng vì ai, hoặc…có nhưng tao không muốn thì kệ thôi.’
“Té ra, Đất Xửa là nơi thanh tẩy ác ma trong mỗi người, tôi không biết lý do mấy người vác đá ném xuống, chồng lên nhưng tôi nghĩ đấy là nghi thức tự vấn.”
“Tao cũng từng nghĩ thế nhưng hóa ra chả phải, nếu mày ngồi không, chả làm gì cũng chẳng sao. Chuyện ngày xưa vẫn làu làu trong tao, nếu muốn tao vẫn có thể ra tay với bất cứ ai thậm chí tao có thể ngay lập tức đánh vỡ mặt mày, moi tim mày bằng đá sắc nhưng ích lợi gì cơ chứ. Có lẽ thời gian đã làm giảm hứng thú, làm tao chán hoặc những trò đó chỉ cần thiết ở một thế giới ưa chuộng bạo lực.”
“Thật sự…mày đến đây mà không nhận được chỉ dẫn nào?” Gã tóc dài hỏi tôi vậy. Gã giấu nửa khuôn mặt vào mớ tóc rũ, nhìn tôi bằng phần mặt còn lại. Ánh nhìn của gã thờ ơ, vô hồn nhưng vẫn ẩn ngầm sự thân thiện, quan sát mọi thứ quanh mình.
“Sau ngày họp lớp hai người, tôi không gặp lại đứa bạn, cũng không ai biết tung tích gì của hắn nên việc tôi đến đây một phần vì tò mò, nghĩ rằng biết đâu hắn vờ say để gợi ý tôi địa chỉ của hắn sau này. Đứa bạn đó là kẻ cô độc, hồi sinh viên, hắn còn nói rằng lúc già, vô dụng sẽ tìm đến một nơi không ai biết để tự chết.”
“Mày đến đây vì lời hứa của tình bạn?”
“Chỉ là bạn cũ chứ chưa đến nỗi…”
“Mày gần giống bọn tao nhưng chưa phải…”
“Có người nói với tôi là đèn lên là xe đến, có phải cây đèn đặt trên đỉnh?”
“Đèn ở ngay đây!” – Gã tóc dài lướt mặt khỏi ánh nhìn chờ đợi của tôi. Mặc dù gã đã cúi sang nơi khác nhưng tôi đã thấy nét mắt đượm buồn của gã trước đó. “Cho đến giờ đèn sáng chỉ một lần. Người đàn ông đó đã rời khỏi nơi này từ rất lâu, đến nơi tận cùng của mọi thế giới…”
Mới một lần đèn còn mặt trời thì muôn thuở. Tôi leo lên, vác đá rồi ném xuống như mỗi người có mặt ở đây. Bàn tay bầm rộp, nắng khiến tôi choáng váng chứ không tỉnh queo như đám đàn ông, thật xấu hổ khi thể trạng tôi đuối nắng hơn cả mấy người đàn bà thân mỏng. Nắng như bất tận, thậm chí lúc mây thổi qua bầu trời, xếp thành những tầng váy nắng thì mặt trời vẫn khéo léo thả dây nắng qua kẽ mây. Những lúc như vậy chỉ mình tôi ngồi rỗi, chụp những mảnh nắng hắt xuống đá, uốn thành những bậc sáng nối xuống mặt đất nay đã là vực. Một tiếng sáo môi làm tôi khó thở, miệng khô và rát đến mức không nói được lời nào, cái lưỡi tôi cũng héo quắt nên không thể liếm môi trị nẻ miệng. Đi, dẫm một lèo, đá chồng chất ngăn hết lối đi. Độ cao của tầng đá đồng lõa với việc kéo tôi gần mặt trời, roi nắng như bọc sắt quất rách da, hơi thở tôi khò khè, ngắt ngứ, hôi hổi nắng tế. Ngoài nắng nóng thì đá ngày một to, lỗi lõm những dấu răng cưa, khí lạnh trong đá buốt đến mức tôi chỉ muốn chạy ra chỗ nhiều nắng nhất. Bàn chân đạp trên đá nặng, dẫm lún thật sâu. “Chỉ lúc say mới bớt thẹn, nói gì cũng dễ nhưng túi tao trống hoác rồi…cuộc đời một người thành hình bởi tình bạn hoặc tình yêu, chỉ một trong hai chứ đừng mong vớ cả, biết vậy nhưng tao vẫn tham, ê chề bởi bạn hữu, đàn bà đến với tao quá nhanh và quá dễ, bởi lẽ đó tao ngờ ngợ rằng mình dùng xác thịt để che mắt ái tình chứ chẳng nghệ sỹ như mày. Mày yêu vài đứa một lúc, yêu vì những nét riêng và đều thật lòng, đến một ả bán hoa mà mày cũng xiêu lòng thì tao cũng đến chịu, đời truân chuyên là câu chuyện muôn khổ của mọi thời đại, tao đồng thuận rằng gái điếm trong sạch hơn chính trị gia nhưng tao không mong mày kết đôi với kiểu người đó, thậm chí là thứ tình thuần không xác thịt, mày nói sao, mày cười ư, hôm nay chỉ còn mình tao với mày nên cứ uống đã, khà, thêm chén nữa, mày nói sao, ừ, có lẽ đúng, bởi tao quen cai trị nên không hiểu được mày, chẳng nhìn được ai thậm chí chính tao và tao cũng nói thẳng một cú tát, mày là kẻ bị tình yêu chiếm hữu chứ không phải thợ săn cũng không phải con mồi, mày giống thằng kéo chuông nhưng mày không che mắt mày không chơi đùa với ai mà luôn thật lòng và bởi thật lòng mà tim mày be bét gai mây.” Đứa bạn nói thế trong bữa họp lớp hai người, tôi kể cho gã nghe về người con gái tôi yêu sau hai lần gặp và không có cuộc gặp thứ ba, ngày tôi tự cắt cổ tay vì nắng đẹp, trong lúc ngất lịm, tôi bồng bềnh trôi vào lối cầu thang dẫn xuống lòng đất thì tôi nhìn thấy một cô gái có thân hình giống với mối tình đến nay vẫn bén rễ trong tim dù nàng mặc váy đen chứ không phải áo hoa, tôi chưa kịp xem mặt thì đã bị ký ức về đứa bạn nheo dậy.
Tôi nghe, gật, ừ “Dấu nốt ruồi trên vai trái, người con gái vẫn quyến rũ dù trong chiếc áo hoa của mấy mụ già, nhan sắc cỡ đó không hiếm nhưng chỉ cô ấy mới thuần phục được tàn nhan trên chiếc áo, cô ấy tái tạo màu áo cũ bằng khí chất mê hồn chứ không phải sự trẻ trung tuổi 16 dẫu tuổi thật cô ấy đã gấp đôi. Bởi cô ấy chiến thắng được áo lão bởi đôi mắt buồn đến trống rỗng gắn theo làn môi đỏ, sắc tới mức hủy nhan Thúy Kiều bởi giọng nói du dương như tiếng hát người cá hay lẽ gì chăng nữa, tao quả quyết rằng mình không bị cám dỗ, tao thần phục nàng như tín đồ tin về nước Chúa, tao không phụng thờ, tự tù mình như họ, tôi theo nàng, coi đó là kho báu đời mà mình luôn tìm kiếm cho hết tuổi trời và vuốt mắt với trí nhớ về nàng chứ chẳng ai khác.”
“Lý do xiêu lòng của mày làm tao rùng mình, nể phục hơn minh triết kim cổ, không ai dám sống như mày, thậm chí mày không mong cầu bất cứ điều gì trong khi tố chất của mày xứng tầm đứng đầu thiên hạ nhưng mày không chịu động tay đi đến cực hạn của bản thân, mày vẫn thế, thong dong sống như vượt cõi sống, chạm vào mộng, biến mộng thành đời và biến ảo cuộc đời thành rượu huyết trăm năm nhưng…” Đứa bạn nói vậy rồi cầm chai rượu, tu một hơi dài. Càng uống nhiều chúng tôi càng loạn hay càng tỉnh, nói cho hết sự thật trong lòng.
Tôi men theo lối đi đang toãi ra theo từng dấu chân, là nắng hay mặt đá hõm sâu xuống hố nước cạn, bởi nắng đã làm mắt tôi mờ đi, đẫm vào vùng sáng nhập nhọa, bàn tay rỗng nhưng thân thể nặng nề những tiếng vọng. Bà tôi đã mất nên giọng bà dẫn tôi vào những hình ảnh, lời và hình lệch nhau, ghép không nổi và khi tẽ đôi ra, tôi nhận thấy rằng sự thật trong bà nằm ẩn trong đêm mù, bà chỉ hé lộ chứ không thể bạch hóa dù bằng tranh họa hay hồi ký. Bàn tay với lên rồi rơi xuống, ký ức và trí nhớ cứ như được giấu trong những tảng đá, nếu chọn đúng tảng đá đời mình, vuốt tay, tôi có thể nghe lại những giọng nói cổ lỗ của tuổi trẻ, nhìn thấy lời của mình của đứa bạn, thậm chí là cảnh họa ngày mẹ tôi lâm bồn, mổ rạch, moi tôi ra rồi ngắt cuống rốn, tôi ngỡ ngàng khi bà bảo rằng phần cuống rốn đã được nấu thành cháo làm bữa bồi bổ cho mẹ, giọng kể hiền, hãi người hơn chuyện cổ tích và bây giờ tôi tin bà nói thật.
“Túi tao trống hoác rồi!” Đứa bạn nói thế trong buổi họp lớp, rồi gã tu hết chai XO, tôi và gã không nói gì thêm cho đến lúc gã ngủ ngục, làu bàu nói sảng về đất Xửa, lúc tôi tỉnh thì gã ngủ, lúc tôi ngủ thì gã dậy, đi đến nay chưa về. Tầng đá thứ bao nhiêu kể từ lúc mình trèo lên bãi đá. Tầm mắt tôi ngắn lại, sự mập mờ sáng tối kéo dài về phía trước, ảnh nắng thấu vào tôi những đường bút nhanh như sao băng, tôi nhòm thấy nắng đổ hoàng hôn, vàng hoe như phần lá thu cuối cùng trong mùa, chưa kịp nhìn rõ thì bức tranh đã tan đâu mất, tíc tắc cuối cùng của một mùa chấm dứt như vậy ư, bởi sắc nắng vẫn còn nhưng thu đã lịm gió nên quang cảnh trước mặt tôi ướt giá nỗi buồn, tôi như đang để tang cho giấc ngủ mùa thu, không khăn trắng không áo xô không kèn nến hay sự í ới triệu gọi, miệng tôi mỉm, mắt buồn lẽo đẽo đi những bước ngắn và chậm. Phía trước là nắng, sau lưng cũng nắng, mặt trời không đổ bóng, chúng tôi như cái bóng của mặt trời. Tôi đứng đấy, nghĩ lại phần trí nhớ khi đến đây và cố mạo danh kẻ trộm mộ để nhìn những chiếc bóng mặt trời. Những gã đàn ông cởi trần, những đàn bà khoác yếm đen với đủ mọi lứa tuổi đều đến đây trước tôi, tuổi của họ không tăng lên không xuân lại mà đóng băng trong thời khắc đặt chân đến Đất Xửa, ai cũng đáng tuổi tiền bối của tôi, gọi sao cũng không phải. Đèn sáng chỉ một lần chứ không như chuyến xe đưa người đến đây, xe đi chỉ một lần nhưng nhiều chuyến và nhiều người ngọn đèn không phải tìm, vấn đề là đèn đang ngủ nên chúng tao phải làm sáng sợi bấc, đến lúc đó, xe sẽ đến nhưng đến giờ vẫn chưa có chuyến thứ hai. Nơi đây, chỗ bọn tao đang đứng, bãi đá này được tạo ra bởi người đàn ông mặc giáp, bãi đá ngày một rộng nhưng độ cao vẫn ở ngưỡng của người đàn ông, chúng tao chỉ làm rộng bãi đá, đá ném thành lối đi, chất thành ghế thành thang chứ không cao thêm, bọn họ nói đâu đó quanh tôi, sải một bước dài như cú nhảy, tôi nhìn thấy người con gái mặc váy đen. Dụi mắt, nhìn, khoét qua tường nắng tôi thấy rõ họa tiết đóa hoa sáu cánh trên lưng người con gái. Tôi bước theo, đi, chưa định gọi mà cứ dõi theo từng dấu chân nhưng vẫn giữ khoảng cách vừa đủ để nàng nhận thấy tôi đang ở sau nhìn về trước chứ đừng ngóng lại, nếu quay lại thì không thể quay thêm một lần cổ ý niệm của đá của tôi hay ẩn ngôn của người đàn ông mặc giáp gửi trong tảng đá tôi vừa dẫm lên. “Cứ đi cái đã!” Tôi nói thế rồi đi theo cô gái, tóc nàng xoã xuống lưng áo, phủ nửa đóa hoa, hương của áo của tóc làm dịu đi sức nóng của nắng và cứ thế, tôi phăng mình về trước, không màng tiếng đá rơi, một thân người bê bết đang trèo lại khúc đường mình, tình cờ liếc mắt, tôi thấy ba người đàn bà từng cấu xé nhau lúc trước, họ đang lấy tay mình chải tóc cho nhau, bỏ lại sự tò mò, tôi hướng tầm mắt về người con gái, e ngại rằng cái liếc mắt quá lâu sẽ mất dấu nàng, vưu vật hoa sáu cánh.
Gần giống với những người ở đây nhưng không phải, anh có liên quan tới một người đã đến đây người con gái quay về tôi, tiếng nói cắt thẳng vào ngực nên tôi không biết chất giọng. Nàng. Váy đen xõa hết đầu gối, kéo đến chiếc giày màu đen, áo váy kéo hai vai, xuống phần hõm hai bộ ngực đầy, dựa theo màu sắc của dây áo ngực, tôi đoán áo lót của nàng cũng màu đen. Đôi vai nàng gầy mỏng, nhưng cứng cáp, vai trái điểm một nốt ruồi. Cô gái nhìn tôi, thứ nhan sắc làm tôi buốt mắt như nhìn vào mặt trời từ gần đỉnh, đôi mắt nàng tôi đã thấy ở đâu đó, rất quen nhưng rất lạ, tưởng gần gũi nhưng xa lắc và bí hiểm như ngụ ngôn về trinh tiết của Maria. Tôi cố nhớ đến khuôn mặt một người nữ nhưng trí nhớ trắng xóa, thậm chí còn không nhớ nổi mặt mũi người con gái nào dù là bà ngoại tôi, đau đâu cũng là hình ảnh người trước mặt. Tôi ngửi thấy mùi hương của mưa trên lá thu tàn.
Chưa phải lúc, thậm chí không bao giờ nhưng anh vẫn có mặt ở đây nàng cười vết môi đỏ rực như máu phượng.
“Cô là thật, thế ra hôm đó không phải giấc mơ. Tôi đã từng gặp cô và bây giờ cũng thế.”
Anh không được chỉ dẫn, anh đến được vì sự ràng buộc với một người ở đây. Anh có thể hé mắt thấy tôi nhưng không phải người được chỉ dẫn nên anh không có ngọn đèn, dựng bao nhiêu đá vẫn mãi lạc lộ nàng mỉm cười, nhưng tôi vẫn không nghe rõ giọng nói của nàng, ngôn từ vọng thẳng vào bên trong, cứ như xuyên qua tai, cắt hoắm vào não.
“Tôi muốn ở bên em.”
Đấy không phải lý do anh có mặt ở đây nhưng là lý do anh không bị chỉ định làm người thắp đèn. Mong muốn của anh gắn với nơi anh đang sống, những người đến đây không thấy tôi bởi họ được chỉ dẫn bởi ngọn đèn, anh thấy tôi bởi tình yêu đời của anh quá nặng, anh chỉ nhìn thấy tôi chứ không thể gần, ngang ngược theo tôi sẽ chẳng đến đâu...
“Miễn là gần em, cho đến lúc tôi được chỉ định.” Tôi nói và đi gần về phía người con gái, xòe bàn tay vươn về nàng. Nàng quay lưng, mái tóc hất nghiêng, bông hoa sáu cánh họa trên lưng áo làm điều mình thấy…nhưng lòng nặng ngàn cân, túi trống hoác chẳng giữ được gì ngang tai tôi, giọng nói gần sau lưng, giọng…“Đứa bạn.” Chợt nghĩ đẩy ý nghĩ ra tiếng, tôi quay lại, nhìn. Rèm nắng dày thêm làm chói lối đi, lớp cộm lớp, nắng phủ lên nhau cuồn cuộn tới mức khiến tôi rát mặt, chính lúc đấy tôi thấy một thứ gì đó đang chạy về phía mình. Tiếng gõ vào đá đầy sức mạnh, húc xuyên qua nắng, khiến nắng mỏng thành màu vàng mơ. Đi, đến, dừng trước mặt tôi là một cỗ xe màu bạc, con vật kéo là một bộ xương, dựa vào cấu trúc của khung xương, tôi biết đây là một con ngựa, lúc con vật xương nhấc chân lên, tôi nhìn thấy bộ guốc sắc nhọn, bởi nắng nên bộ xương vàng óng như được quét vàng. Người đánh xe to lớn, tóc dài, chẻ ngôi xõa hai bên, gã đeo một cái mặt nạ bằng bạc, chỉ đục hai lỗ mắt. Gã cởi trần, thân thể vạm vỡ cháy màu đồng đen, vai khoác một tấm choàng màu tuyết, cũng bởi nắng nghiêng nên tấm choàng ngả màu hoàng kim.
“Lên chứ?” Người đánh xe nói. Gã nói nhỏ nhưng âm vực trũng sắc như tiếng máy chém.
“Về đâu?” Tôi nói rồi quay ra sau, muốn gọi người con gái cùng mình lên xe. Nàng đã biến mất thành phần bóng tối vô tận. Lửa mặt trởi không chiếu tới nên tôi không biết nếu mình đi tiếp sẽ va vào bức tường đen hay sẽ ngã xuống vực.
“Lên không?” – Gã lại hỏi.
Tôi nhìn người đánh xe, nhìn bộ xương ngựa đang nghếch cổ như sói tru trăng. Đôi mắt người đánh xe lạnh lẽo hơn chiếc mặt nạ gã đeo. Tôi cố với mắt ra sau để tìm tiếng nói quen khi nãy nhưng không thấy gì. Tôi lắc đầu hai cái. Người đánh xe giật dây cương, tiếng hí khàn đục, cả cỗ xe lao thốc vào tôi. Một cú húc, xuyên qua tôi, khiến mắt tôi tối mù. Cú đâm thốc không đau đớn, tôi nhìn theo cỗ xe, guốc sắc đi đến đâu cảnh vật ngoác tới đó. Tôi không tài nào đuổi theo, cho đến đi cỗ xe xương đi qua một cái cột đá cao ngút, phần đỉnh nhọn khắc một bông hoa sáu cánh. Định chạy theo, được dăm bước thì tôi đứng lại.
Tôi đang đứng ở Đường Cái. Nắng lại. Mặt trời đang lên, vào lúc này tôi có thể nhìn lên mặt trời. Mọi thứ thân thuộc nhưng là lạ. Tôi đứng ở Đường Cái rất lâu, mặc xe đi xe về, mặc người ta bấm còi quát tháo, cho đến lúc mặt trời cực đỉnh tôi mới ra về. Số tiền tôi mang theo vẫn trong túi nhưng tôi không tìm xe mà đi bộ.
Cuộc sống trở lại, bình thường, khỏe khắn như mọi ngày nhưng tôi bớt sôi nổi, kén gặp người và dành nhiều thời gian cho mình hơn dầu chỉ là ngồi không, uống một ấm trà buổi sớm. Định hỏi thăm, tìm kiếm đứa bạn, tôi lắc, gác lại và tin rằng gã đang rất ổn với quyết định của mình dù có thế nào. Vào lúc 0 giờ 0 phút 0 giây, tôi ra Đường Cái nhưng không có chuyến xe nào. Tôi tưởng mình đã mơ giấc trong thế đứng nhưng dấu răng cắn trên tay phải đã nhéo tai tôi một cú tát. Gật gù. Dấu răng trên tay vừa khít bộ hàm của tôi, vết cắn ướm vừa một cú ngoạm.
Đến giờ, vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo không lồi, xù xì mà hoắm sâu vào trong, bén vào phần thịt mới, đến tận xương. Mỗi khi ngửa vết sẹo trước nắng, nhìn nghiêng, tôi thấy một đóa hoa sáu cánh, giật mình kỹ lại, tôi lắc đầu, thở dài…sẹo dày lên, chuyển thành màu đen, mỗi lần nắng chiếu vào, chỗ sẹo bong ra, chảy máu từ vị trí tôi nhìn thấy bông hoa sáu cánh. Máu chảy rất nhiều, băng gạc không biết bao nhiêu lần, cho đến khi tôi không còn nhìn thấy bông hoa dưới nắng. Sẹo không liền lại, dấu răng tôi giờ đây hoắm hình ổ khóa. Mỗi lúc trăng liềm, tôi cảm thấy tiếng gió thổi ra từ vết thương, lúc xa lúc gần, heo hắt như thổi qua kẽ cửa, tôi thử thả một chiếc lá vào thì thấy lá rơi ngút vào trong, lắc không ra.
Tôi nghĩ đến ngày trăng tròn. Dấu răng hoắm hình ổ khóa. Huyệt hoa sâu.
10.10.2020
Dao Gương Dao Gương - Tru Sa Dao Gương